Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Phiên Tòa Dưới Âm Phủ

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    16

    Nhà thơ làm kinh tế
    Thống chế đi đặt vòng


    - Ông Thôi Phán Quan sẽ lôi ai ra làm nhân chứng hôm nay hả anh Bảy?
    Một người ngồi nơi cuối phòng xử lên tiếng hỏi. Một giọng nói khàn khàn và già nua vang lên trong phòng xử ồn ào.
    - Làm sao tao biết được. Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam có nợ máu với nhân dân và các phe phái của người quốc gia nhiều lắm. Hồi còn làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An, Võ đại tướng giết hàng loạt các đảng viên của Quốc Dân Đảng. Chỉ nội vụ Ôn Như Hầu không cũng đủ làm hắn rủ xương trong tù rồi…

    Người nói vội ngưng bặt khi thấy ông vua âm phủ từ sau cửa riêng bước ra. Thiên hạ không hẹn đứng lên chào đón. Giơ tay ra hiệu cho mọi người ngồi xuống xong Diêm Vương hắng giọng.
    - Ta trân trọng mời Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử tên Võ Khôi Nguyên…
    Tằng hắng tiếng nhỏ, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ thong thả bước tới đứng trước mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can.
    - Chào đại tướng… Chắc sáng nay sức khỏe của ngày phải khá hơn hôm qua…
    - Cảm ơn ngài biện lý… Hôm nay tôi xin tường thuật cho tòa nghe về thêm vài trận đánh do tôi chỉ huy…
    Thôi Phán Quan cười nhẹ.
    - Xin mời đại tướng… Tôi rất hân hạnh được nghe ngài đại tướng đánh giặc trên bàn giấy…
    Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam dựng mặt vì câu nói mỉa của Thôi Phán Quan. Định lên tiếng sừng sộ song liếc về phía Diêm Vương, thấy ông ta đang chiếu tướng mình, Võ đại tướng cười gượng gật đầu. Mọi người im lặng lắng nghe Võ đại tướng bắt đầu mở chiến dịch bằng miệng.
    - Chiến dịch Trần Hưng Đạo hay chiến dịch Trung Du là một trong những cuộc tiến công lớn của quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du bắc bộ của quân Pháp. Đây là một trong 3 chiến dịch lớn trong đông-xuân 1950-1951. Lợi dụng tình trạng xuống tinh thần sau khi thất bại trong chiến dịch biên giới của thực dân Pháp, tôi ra lệnh mở cuộc tiến công vào vùng trung du, tạo áp lực bắt buộc địch quân phải điều động một phần lực lượng tại đồng bằng bắc bộ lên tiếp cứu, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ đội địa phương, đặc biệt là lực lượng các trung đoàn 48, 42... phối hợp với dân quân tại địa phương phát động chiến tranh du kích tại khu vực này mà từ lâu bị hạn chế do các cuộc càn quét liên tiếp của Pháp. Trong đợt 1 của chiến dịch, quân cách mạng tạo được nhiều thắng lợi lớn tại cả hai mũi tiến công ở Vĩnh Phúc và Hải Ninh. Do đó, bộ chỉ huy chiến dịch do tôi làm tư lệnh quyết định giải phóng Vĩnh Yên, một thị xã quan trọng chỉ cách Hà Nội có 55 km. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có các đơn vị chủ lực là đại đoàn 308 với 3 trung đoàn 102, 88 và 36; đại đoàn 312 gồm 2 trung đoàn 209 và 141; hai trung đoàn biệt lập là trung đoàn 98 và trung đoàn 174. Ngoài ra còn có 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương và 4 đại đội pháo binh 75 ly. Tổng cộng quân số của chiến dịch gần 30 ngàn binh sĩ, đó là chưa kể đám dân công hơn trăm ngàn người… Sau đây tôi xin được phép kể một cách chi tiết hơn…

    Ngừng lại đưa tay nhấc lấy ly nước lạnh uống một ngụm cho thông cổ xong vị đại tướng già nua hắng giọng.
    - Nhờ vào các tin tức cung cấp bởi các tổ tình báo nhân dân, tôi và bộ tham mưu chiến dịch biết rất rõ về lực lượng của địch ở ba tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Bắc Giang. Chúng có khoảng 15 ngàn binh sĩ, gồm 9 ngàn lính Lê Dương, 5 ngàn lính người Việt và một ít lính của chánh phủ Bảo Đại. Điều đáng quan tâm là chúng có nhiều binh đoàn cơ động Bắc Giang, Bắc Ninh, Đông Triều. Riêng binh đoàn cơ động số 3 đóng tại Việt Trì và Vĩnh Yên. Chiến dịch Trung Du được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 xảy ra vào ngày 25 tháng 12 năm 1950 khi binh đoàn cơ động số 3 cùng với tiểu đoàn Mường mở cuộc hành quân Bécassine vào vùng Lập Thạch và Tam Dương thuộc Vĩnh Yên, Phú Thọ đúng vào nơi đại đoàn 312 đang đóng giữ. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo và tôi ra lệnh tấn công. Cùng ngày, tiểu đoàn 10 dù thuộc địa và tiểu đoàn Mường chia làm hai cánh tiến vào Liễn Sơn, Xuân Trạch thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Được báo cáo tôi lập tức cho trung đoàn 141 chặn đánh, buộc địch phải lui về cố thủ ở Liễn Sơn chờ cứu viện.
    Ngày 26, tiểu đoàn Senegal lên ứng cứu cũng bị chặn đánh, phải lui về Xuân Trạch. Ngày 27, đại đoàn 312 tiến công mạnh vào Xuân Trạch-Xuân Hoà thuộc huyện Lập Thạch, xoá sổ tiểu đoàn 24 của địch, bắt sống tiểu đoàn trưởng Piscard với 300 quân, đồng thời đánh tan tiểu đoàn 10 Dù thuộc địa. Từ ngày 26 đến ngày 29, dưới sự điều động của tôi quân đội cách mạng lần lượt đánh chiếm các vị trí chiến thuật như Hữu Bằng, Thằn Lằn, Tứ Tạo, Đồi Cà Phê. Tuy nhiên trung đoàn 209 tấn công Chợ Vàng không thành công vì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của địch…
    Nhân lúc Võ đại tướng ngừng lại để uống nước cho thông cổ sau khi tường thuật một cách chi tiết và mạch lạc các trận đánh trong giai đoạn đầu của chiến dịch Trung Du, Thôi Phán Quan cười hỏi.
    - Trong lúc các chiến sĩ đang đánh nhau với địch thì ngài đại tướng ở đâu và làm gì?
    Nhờ ngồi gần nên Bình thấy nét mặt của Võ đại tướng ưng ửng đỏ và thái độ của ông ta có chút ngượng ngùng và do dự khi trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.
    - Tôi thì lúc đó… lúc đó tôi cũng có mặt ở chiến trận để chỉ huy anh em… Tôi cũng theo anh em…
    - Ngài đại tướng theo anh em mà theo gần hay xa. Nếu gần thì gần bao nhiêu, còn xa thì xa bao nhiêu. Giả dụ như một cây số hay năm ba cây số…
    Suy nghĩ giây lát vị đại tướng, thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam tặc lưỡi trả lời chầm chậm.
    - Bây giờ già cả, tuổi gần đất xa trời nên tôi không nhớ rõ lắm song đoán chừng non cây số. Là kẻ chỉ huy mình phải ở xa xa cho chắc ăn vì nếu mình ăn đạn chết thì lấy ai chỉ huy anh em binh sĩ. Tôi phải ở ngoài tầm bắn của cà nông địch chứ… Tôi mà ngủm thì lấy ai săn sóc cho cô vợ trẻ đẹp, hấp dẫn và lãng mạn của tôi…
    Diêm Vương chợt lên tiếng xen vào câu chuyện giữa bị can và Thôi Phán Quan.
    - Vậy à… Ngươi có mấy vợ?
    - Bẩm Diêm Vương… Con có hai vợ… Người vợ thứ nhất bị tụi thực dân Pháp bắt bỏ tù rồi qua đời trong tù… Sau đó con mới cưới vợ khác…
    Diêm Vương gật gù.
    - Như vậy thì được… Ta nghe đồn là mấy thằng bây đứa nào cũng vợ chính vợ bé, vợ lẽ vợ mọn, đào nhí bồ trẻ. Như tên hình thằng hồ gì đó, nó có bồ Tây, vợ Việt vợ Tàu, Nga đủ thứ. Đi làm cách mạng như nó sướng thật…
    - Bẩm Diêm Vương ngài nói đúng… Đi làm cách mạng sướng lắm nhưng phải làm ông lớn thì mới sướng…
    Quay qua Thôi Phán Quan, ngài đại tướng cười cười.
    - Thiên hạ đồn đại là tôi nhát khi chỉ huy binh sĩ đánh nhau thì tôi ở xa xa và ở dưới hầm núp. Số là trước khi tôi ra trận thì vợ có dặn bảo phải cẩn thận, đừng có làm anh hùng mà chết bỏ vợ bỏ con. Bả còn dặn dò thêm cà nông, đại bác và mọt chê của Pháp bắn xa lắm do đó tôi phải ở xa và núp dưới hầm kiên cố, chớ có dại dột mà ra mặt trận, rủi bị thương cưa giò cưa cẳng thì uổng đời trai trẻ. Nàng còn hăm he là anh phải giữ gìn, mất cẳng nào chứ đừng có làm mất cái cẳng giữa của em…
    Thiên hạ bật cười khi nghe '' thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam '' thố lộ tâm tình. Diêm Vương nở nụ cười ý nhị. Liếc nhanh Thôi Phán Quan cũng đang mỉm cười, ông ta hắng giọng.
    - Hóa ra ngươi là người chồng tốt, biết nghe lời vợ dạy. Ít có người nào được như ngươi…
    - Bẩm Diêm Vương thông cởm… Con có vợ trẻ mà vợ của con lại hay thích nắm đầu chồng mà con thì có tính chiều vợ nên vợ bảo sao con làm vậy. Dân của con có nói câu '' Nhất vợ nhì trời '' thưa Diêm Vương…
    Vị vua âm phủ gật gù. Võ đại tướng cao giọng.
    - Sau khi giai đoạn 1 của chiến dịch Trung Du vừa chấm dứt, không để cho địch có dịp bổ sung quân số và điều động thêm quân tiếp viện, tôi lập tức mở ra giai đoạn 2 bằng cách cho ba trung đoàn 36, 88 và 102 của đại đoàn 308 phối hợp với hai trung đoàn 141 và 209 của đại đoàn 312 và hai tiểu đoàn du kích của tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc cộng thêm ba liên đội sơn pháo 75 ly cùng lúc tiến công vào thị xã Vĩnh Yên. Hướng phụ từ Đông Bắc sẽ chuyển về Bắc Giang với 2 trung đoàn 174 và 98 cùng với 3 tiểu đoàn địa phương Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên và 1 liên đội sơn pháo 75 ly. Hướng phối hợp là mặt trận Sơn Tây do đại đoàn 320 và tiểu đoàn địa phương Sơn Tây - Hà Đông phụ trách. Đại đoàn 304 và lực lượng địa phương chịu trách nhiệm mặt trận Ninh Bình. Mặt tả ngạn giao cho trung đoàn 42 và lực lượng địa phương. Đêm 12 tháng 1, trên hướng thứ yếu ở phía bắc, trung đoàn 98 và 174 nổ súng trước. Trung đoàn 174 tiêu diệt đồn Đồng Kế. Trung đoàn 98 đánh Cẩm Lý không thành công. Đêm 13, trung đoàn 141 tấn công Bảo Chúc, vị trí cách Vĩnh Yên 11 km về phía Tây Bắc. Trận đánh kết thúc vào trưa ngày 14. Sáng ngày 14, Pháp cho quân lên cứu Bảo Chúc. Tiểu đoàn Mường tới Thuỷ An thì bị trung đoàn 209 chặn đánh, lui về Cẩm Trạch. Các tiểu đoàn khác cũng bị chặn đánh khiến cho Paul Vanuxen phải lui về Vĩnh Yên cố thủ. Ở hướng phối hợp thì đại đoàn 320 tiêu diệt 9 vị trí nhỏ của địch nằm trên đường số 11 Sơn Tây - Trung Hà; tiêu diệt 1 đại đội Âu Phi, thu 1 khẩu pháo. Đại đoàn 304 tiêu diệt 6 vị trí nhỏ ở Ninh Bình. Bộ đội địa phương 5 tỉnh trung du phối hợp tác chiến từ ngày 20 tháng 12 năm 1950 đến ngày 11 tháng 1 năm 1951 thu được một số kết quả. Riêng bộ đội địa phương ở Vĩnh Tường tiêu diệt 1 đồn, 9 tháp canh, rồi tràn ngập Chợ Vàng mà trong đợt 1, trung đoàn 209 đánh hai lần không thành công. Tại Hà Nội, tướng Salan lập tức điều binh đoàn cơ động số 1 tiến lên Phúc Yên để thọc vào bên hông của quân cách mạng. Một tiểu đoàn dù khác nhảy xuống Đồng Đau cách Vĩnh Yên 5 km. Bay từ Sài Gòn ra Hà Nội, De Lattre chỉ thị cho Salan và Redon tới Vĩnh Yên, cùng lúc tung binh đoàn cơ động số 2 từ Lục Nam vào Vĩnh Yên đồng thời ra lệnh cho tham mưu trưởng Allard lấy 5 tiểu đoàn ở miền nam đưa ra bắc tăng viện cho mặt trận Vĩnh Yên. Sau đó, De Lattre chỉ thị cho đại tá chỉ huy không quân Maricourt sử dụng bom napalm do tàu chiến của Hoa Kỳ vừa cập cảng Hải Phòng và huy động toàn bộ máy bay dội bom vào các đơn vị của quân cách mạng tại Vĩnh Yên. Lo sợ Vĩnh Yên chỉ là nghi binh để mở cuộc tiến công từ Tam Đảo về Hà Nội, De Lattre ra lệnh tập trung một lực lượng bộ binh quan trọng và xe tăng án ngữ tại mạn Bắc thành phố về phía cầu sông Đuống. Sáng ngày 15, binh đoàn cơ động số 1 tiến lên giải vây Vĩnh Yên. Đụng phải trung đoàn 102 ở Ngoại Trạch (Bình Xuyên), Khai Quang, Mậu Thông (Tam Dương), binh đoán số 1 phải triệt thoái về Hương Canh sau những trận giao tranh đẫm máu. Áp dụng chiến thuật biển người, thí quân, tôi chỉ thị cho quân cách mạng tấn công bất chấp thiệt hại để tiêu diệt 2 đại đội của tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 bộ binh Algérie. Binh đoàn số 1 bị lâm vào tình thế chống đỡ. Tướng De Lattre sử dụng máy bay ném bom xăng đặc vào những vị trí của quân cách mạng. Đụng phải thứ bom lửa kỳ cục quân cách mạng bị đốt cháy và tử thương rất nhiều. Tên tướng De Lattre quả là tay liều mạng và chơi bạo. Hắn cho máy bay ném bom lửa vào ngay trận địa bất kể bạn hay thù. Lúc đó tôi ở cách trận địa cây số mà còn bị lửa đốt nóng mặt huống hồ gì anh em binh sĩ ở ngay mặt trận. Nhiều người bị dính xăng nóng quá nhảy xuống nước để lập tắt lửa rồi khi nhảy trở lên bờ xăng lại bốc cháy trở lại. Nhận được báo cáo tôi tức tốc tới thị sát mặt trận rồi sau đó ra lịnh rút lui…
    - Đánh trận này ngươi thắng hay bại?
    Diêm Vương hỏi gọn. Ngập ngừng giây lát vị đại tướng, cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh của quân đội nhân dân Việt Nam trả lời.
    - Bẩm Diêm Vương… Con hổng dám nói dối ngài… Con bị thằng De Lattre dạy cho bài học quân sự nhớ hoài hổng có quên. Không những chiến dịch Trung Du mà hai chiến dịch sau là Hoàng Hoa Thám và Quang Trung con đều bị nó đánh xiểng niễng…
    Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan chuyển cuộc thẩm cung của mình sang đề tài khác.
    - Sau khi Nhật lật đổ Pháp ở Việt Nam ngày 9 tháng 3 năm 1945, lợi dụng thời cơ đảng cộng sản liền cướp lấy chính quyền và thiết lập nội các. Hình như ông được bác của ông giao cho giữ chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An. Đúng không?
    Võ đại tướng nín thinh. Im lặng có nghĩa là nhìn nhận. Dĩ nhiên ông ta biết Thôi Phán Quan đã nắm trong tay những tài liệu mật liên quan tới đời hoạt động cách mệnh của mình, thành ra có mở miệng chối cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Cách tốt nhất là không nói. Giọng nói của vị đại diện công tố vang vang ai cũng nghe rõ.
    - Theo những tài liệu mà âm phủ thu lượm được thì khi lên làm bộ trưởng, ông đã tuyển dụng nhân viên gồm toàn kẻ lưu manh, những tên ăn cướp, những thằng giết người để khủng bố dân lành hay tàn sát những thành phần quốc gia chống cộng sản. Với chủ trương " bắt lầm hơn tha lầm, thà giết lầm 10 người còn hơn tha lầm 1 người "; đám công an sát nhân của ông đã tổ chức nhiều cuộc " thanh lọc " để tàn sát tất cả những ai tỏ dấu chống cộng sản hay nghi ngờ họ có liên hệ với Pháp. Vì thế, chỉ cần một vài mẫu vải, các loại chỉ may có màu sắc xanh đỏ khác nhau đám công an sát nhân của ông có thể kết tội người ta là " Việt gian phản động ". Mà Việt gian phản động có nghĩa là tử hình. Nói chung thời gian ông làm trùm công an quả là thời kỳ đen tối và kinh hoàng cho toàn thể dân chúng VN, đâu đâu cũng xảy ra các vụ bắt cóc, thủ tiêu và ám sát mà thủ phạm đều là nhân viên công an của ông. Một số đông các nhân vật tên tuổi như Cung Đình Vận, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Tạ Thu Thâu đều bị sát hại trong thời gian ông làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An. Xin ông vui lòng kể cho tòa nghe với chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An ông đã làm gì mà sau này nhiều người ta cho rằng ông độc ác lắm…
    Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan buông câu hỏi.
    - Hình như có lúc ông làm Bộ Trưởng Quốc Phòng kiêm nhiệm Bộ Trưởng Nội Vụ thay thế cho ông Huỳnh Thúc Kháng vắng mặt ở Hà Nội. Đúng không?
    Hỏi để mà hỏi vì chính Thôi Phán Quan đã có câu trả lời.
    - Hẳn ông còn nhớ vụ án Ôn Như Hầu? Ông dính líu như thế nào trong vụ giết người đó? Ông là chính phạm hay tòng phạm?
    Thôi Phán Quan gằn giọng. Võ Khôi Nguyên gật gật đầu thay cho lời nói. Tuy nhiên vị biện lý không bằng lòng về cái gật đầu của bị can. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên, ông ta gằn giọng.
    - Tôi muốn ông khai sự thực trước tòa về vụ Ôn Như Hầu cho 9 vị bồi thẫm nghe…
    Im lặng giây lát Võ Khôi Nguyên quay qua nói với Diêm Vương.
    - Bẩm Diêm Vương. Con có phải khai sự thực không. Ở một nước dân chủ và tự do như nước con thì con hổng bị bắt buộc phải nói nếu con không muốn nói… Như ở xứ tư bản Mỹ dân chủ và tự do thì con lấy điều số 5…
    Diêm Vương xì tiếng dài.
    - Lũ chúng ngươi mở miệng hô hào dân chủ tự do mà lại bắt bớ tù đày dân lành. Dân chủ gì mà bịt miệng không cho người ta nói trước tòa. Có thứ dân chủ tự do nào mà công an lại đạp vào mặt dân…
    Liếc nhanh xuống chỗ Hình Chí Mô đang ngồi, Võ Khôi Nguyên mỉm cười nói đùa.
    - Bẩm Diêm Vương… Đó là tự do dân chủ của những kẻ có chức, có quyền và có tiền…
    Đôi mắt của ông vua âm phủ rực lửa giận khi nghe Võ Khôi Nguyên nói câu trên. Thái độ xem thường luật pháp của hắn khiến cho ông ta giận cũng phải.
    - Ngươi không chịu nói thời ta sẽ ra lệnh chích thuốc cho ngươi nói…
    Hai tiếng '' chích thuốc '' thoát ra từ Diêm Vương khiến cho Võ Khôi Nguyên xanh mét mặt mày. Trong đời cách mạng hắn từng '' chích thuốc '' để thủ tiêu đối lập. Hắn cũng biết các đồng chí cũng dùng cách chích thuốc để giết hại lẫn nhau trong mưu đồ tranh chiếm quyền lực. Ba Duân và Sáu Búa hay Sáu Lừa đã cho thủ hạ bỏ thuốc độc vào trong chai nước ngọt để Dương Bạch Mai uống vừa xong là xùi bọt mép rồi lăn đùng ra chết. Nhiều tướng tá trong quân đội như Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Lê Trọng Tấn bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chích thuốc chết một cách bí mật. Cả ba ông tướng này đang mạnh cùi cụi bỗng nhiên lăn đùng ra chết một cách ngon lành chỉ vì bị nghi là '' theo chủ nghĩa xét lại ''.
    - Khi vụ tiêu diệt trụ sở của Quốc Dân Đảng ở phố Ôn Như Hầu thì tôi bị bệnh nên không biết. Tới chừng tôi biết thì chuyện đã xảy ra rồi…
    Thôi Phán Quan cười khẩy.
    - Để tôi mời một nhân chứng lên đây kể cho tòa nghe về vụ Ôn Như Hầu. Lúc đó chúng ta sẽ biết rõ ai chủ mưu giết người…
    Quay về dãy bàn dành cho nhân chứng ngồi, Thôi Phán Quan cao giọng thốt.
    - Tôi kính mời ông Trần Tấn Nghĩa…
    Thiên hạ không có phản ứng nào khi nghe tên Trần Tấn Nghĩa. Có lẽ họ không biết nhân chứng là ai, dính líu như thế nào trong vụ Ôn Như Hầu.
    Đợi cho nhân chứng hoàn tất thủ tục của tòa xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt nhân chứng cùng với câu hỏi bật ra.
    - Xin ông vui lòng cho biết ông giữ chức vụ gì của nhà nước cộng sản trước khi ông về hưu?
    - Thưa ngài biện lý. Tôi là đại tá, chuyên viên của Vụ Pháp Chế thuộc Bộ công an trước khi tôi về hưu…
    Khẽ gật đầu vị biện lý của âm phủ hỏi tiếp.
    - Khi vụ Ôn Như Hầu xảy ra thì ông giữ chức vụ gì?
    Liếc nhanh Võ Khôi Nguyên đang ngồi, Trần Tấn Nghĩa trả lời chậm và rõ ràng.
    - Lúc đó tôi là Đội Trưởng của Đội Trinh Sát Đặc Biệt thuộc Sở Công An Bắc Bộ…
    - Ai là thượng cấp của ông lúc đó?
    - Thưa lúc đó thì Sở Công An Bắc Bộ nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ trưởng đặc trách Lực Lượng Công An, kiêm bộ trưởng quốc phòng kiêm bộ trưởng nội vụ là đại tướng Võ Khôi Nguyên…
    - Xin ông vui lòng kể chi tiết về chuyện ông tham gia vào vụ bắt bớ các đảng viên Quốc Dân Đảng cho tòa nghe…
    Liếc nhanh vị đại tướng đang ngồi nơi ghế bị can, Trần Tấn Nghĩa cất giọng đều đều.
    - Cuối tháng 6 năm 1946, lãnh đạo Nha Công an Trung ương nhận được thông tin nghiêm trọng: Các đảng phái phản động cấu kết với quân Pháp đang ráo riết thực hiện kế hoạch gây rối, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh. Nguồn tin được phối kiểm và giao cho hai điệp viên H120 và C3 của ta cài trong hàng ngũ địch làm rõ.
    Theo đó, nhân ngày Quốc khánh Pháp, tức ngày 14 tháng 7, phía thực dân Pháp tổ chức diễu binh trên một số đường phố Hà Nội. Quốc Dân Đảng sẽ bố trí người ném lựu đạn vào tốp lính da đen đang diễu binh. Nhân đó, phía Pháp đổ lỗi cho Việt Minh khiêu khích, không giữ được trật tự trị an và dùng quân đội đang diễu binh tấn công vào các vị trí trọng yếu của chính quyền cách mạng, vây bắt tất cả cán bộ cao cấp của Chính phủ; đồng thời thành lập một chính quyền tay sai...
    Cùng thời gian này, điệp viên C3 báo tin: Tại trụ sở của Quốc dân đảng tại 132 phố Duvigneau (nay là Bùi Thị Xuân - Hà Nội), bọn phản động đang in truyền đơn. Đến ngày 11/7/1946, C3 báo tiếp một tin quan trọng: Từ ngày 12/7, Quốc dân Đảng sẽ phân tán lực lượng, rút vào bí mật, không còn trụ sở công khai; chuẩn bị tiến hành bạo động tại Hà Nội và một số thị xã, thành phố...
    Trước tình hình đó, lãnh đạo Nha Công an Trung ương quyết định chọn trụ sở 132 Duvigneau là điểm tập kích đầu tiên. Rạng sáng 12/7, lực lượng Công an mưu trí đột nhập vào trụ sở này, khống chế tất cả các đối tượng có mặt, thu được nhiều tang vật gồm vũ khí, truyền đơn phản động kêu gọi lật đổ chính quyền cách mạng, máy in. Từ những chứng cứ này, lệnh tổng trấn áp các trụ sở của bọn phản động được ban hành.
    Đội trinh sát đặc biệt do tôi làm Đội trưởng được giao nhiệm vụ vây bắt bọn phản động tại trụ sở số 7 Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều - Hà Nội)…
    Trần Tấn Nghĩa ngừng kể. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ ông ta hắng giọng tiếp.
    - Khoảng 7 giờ sáng 12/7, tôi và nhân viên trinh sát dưới quyền đến trụ sở số 7 Ôn Như Hầu... Bọn lính gác chỉ cho mình tôi vào sau khi đã giữ lại vũ khí của tôi. Chúng đưa tôi đến sảnh đường và Phan Kích Nam đón tôi ở đây. Hắn to cao, đeo súng ngắn và mang kiếm dài lê thê theo kiểu nhà binh Nhật, mắt đeo kính trông rất hung dữ. Phan Kích Nam tự giới thiệu: " Tôi, Phan Kích Nam, đại biểu Quốc hội, Trung ương Ủy viên Quốc dân Đảng, Tư lệnh đệ nhất chiến khu..."; rồi hỏi tôi: " Vậy tôi được vinh dự đang nói chuyện với ai đây?". Tôi ôn tồn xưng tên, đưa lệnh khám xét và nói rõ mục đích đến gặp Phan Kích Nam. Nhìn qua lệnh khám xét, Nam cười ngạo nghễ và nói giọng kẻ cả: " Chú em ngây thơ ơi… Chú Đội trưởng trinh sát đặc biệt ơi… tại sao các người kí lệnh bắt, khám xét trụ sở của một đảng. Ta là đại biểu Quốc hội, là bất khả xâm phạm mà người kí lệnh bắt ta lại là Phó Chủ sự Việt Minh, là cái thá gì mà có sự lạ đời như vậy... Thôi chú em về đi ". Tôi bực lắm nhưng nhớ chỉ thị của cấp trên, nếu có gì vướng mắc phải thỉnh thị nên nhân cơ hội hắn nói vậy, tôi tỏ ra nghe lời và nói sẽ về báo cáo lại, có gì sẽ quay lại sau. Phan Kích Nam tỏ ra đắc chí: " Có thế chứ, có thế mới đúng cách xử sự của người Nhà nước chứ "; rồi hắn gọi vệ sĩ đưa trả súng cho tôi và tiễn tôi ra về.
    Sau khi xin ý kiến lãnh đạo Nha Công an Trung ương, chúng tôi trở lại số 7 Ôn Như Hầu lần thứ hai nhưng vẫn chưa có thời cơ ra tay. Đến lần thứ ba, khoảng trưa ngày 12/7, sau khi được lãnh đạo Nha Công an Trung ương đồng ý phương án khống chế, bắt Phan Kích Nam, chúng tôi quyết tâm thực hiện bằng được... Khi thấy chúng tôi lại tới, bọn lính gác trụ sở tỏ ra chủ quan; một tên đưa tôi vào gặp Phan Kích Nam. Tôi chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt lên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời tôi, thái độ hắn tỏ ra tự mãn... Hắn sung sướng ra mặt và nói " Có thế chứ, phải nể mặt Phan Kích Nam này chứ ". Sau khoảng 10 phút, tôi đứng dậy cáo biệt ra về và vờ quên súng. Phan Kích Nam liền cầm khẩu súng của tôi và đi theo nhắc: " Này chú em, quên súng à? ". Biết địch đã trúng kế rồi, tôi rút khẩu súng Colt giấu trong người, chĩa thẳng vào Nam và quát: " Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ " và bằng động tác nhanh gọn ra đòn khiến Nam lảo đảo khụy xuống. Tôi bẻ quặt tay hắn ra đằng sau và ra lệnh cho bọn lính gác còn đang ngỡ ngàng chưa kịp hiểu điều gì xảy ra, " Phải bỏ súng không được chống cự "... Việc bắt được Phan Kích Nam đã mở đầu cho cuộc tổng trấn áp các tổ chức phản động, đập tan âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng…
    Ngừng kể nhìn Thôi Phán Quan giây lát, Trần Tấn Nghĩa nói nhỏ.
    - Tôi chỉ biết vậy thôi. Lệnh cấp trên bảo sao tôi làm vậy…
    Thôi Phán Quan gật đầu cười.
    - Nghe chuyện ông kể tôi tưởng như tôi đang đọc tiểu thuyết gián điệp Z28 Tống Văn Bình hay xem phim Jame Bond 007… Dù sao tôi cũng cám ơn ông đã ra trước tòa khai những gì ông đã làm…
    Đợi cho nhân chứng Trần Tấn Nghĩa rời chỗ ngồi xong Thôi Phán Quan mới cười nói với Võ Khôi Nguyên.
    - Tôi cho đại tướng một phút đồng hồ suy nghĩ… Nếu đại tướng không chịu khai sự thật thì tôi sẽ yêu cầu tòa chích thuốc…
    Võ Khôi Nguyên làm thinh rồi lát sau mới thở hắt hơi dài.
    - Thôi để tôi kể… Chuyện xảy ra mấy chục năm rồi, tôi có kể chắc cũng không làm hại tới đảng đâu… Vụ Ôn Như Hầu đầu đuôi như sau…
    Võ Khôi Nguyên ngừng lại nhìn xuống dãy bàn bị can ngồi. Ngước mắt lên trông thấy Thôi Phán Quan đang nhìn mình trừng trừng, hắn gượng cười bắt đầu cất giọng kể.
    - Bác trước khi đi thăm hữu nghị nước Pháp đã giao quyền chủ tịch nước lại cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó đang giữ chức vụ Bộ Trưởng Nội Vụ. Đêm hôm trước khi lên máy bay bác có dặn kín tôi như vầy. '' Chú cũng biết là đám đảng phái quốc gia còn nguy hiểm hơn ba thằng Tây nữa. Tụi quốc gia nó không ưa mình vì mình coi đảng trọng hơn đất nước. Vì vậy khi tôi đi rồi chú hãy tìm cách triệt đám Quốc Dân Đảng và những thằng nào không theo mình. Giết… giết hết tụi nó bởi vì không giết tụi nó thì có ngày mình cũng chết với nó...'' Ngài biện lý cũng biết phao tin đồn thất thiệt, vu cáo là nghề của tụi tôi mà. Tôi cho người loan truyền tin là đúng ngày 14 tháng 7, Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ đưa quân cảm tử đến hành thích các nhân viên chính phủ tham dự lể duyệt binh của Pháp. Dựa vào chứng cớ đó, tôi nhắm vào địa điểm số 9 đường Ôn Như Hầu để tấn công. Đây là Trụ sở Ban Tuyên huấn Đệ Thất Khu Đảng Bộ VNQDĐ từ Quảng Ngãi mới thuyên chuyển ra đóng lầu trên, còn lầu dưới dùng làm nơi huấn luyện cho các cán bộ từ các nơi đưa về.
    Ngày 12-7-46, sở Quân Vụ Thành Phố Hà Nội ra lệnh giới nghiêm toàn thành, rồi lợi dụng giờ giới nghiêm vắng người qua lại, Sở Công An Bắc Bộ xuống các bệnh viện Bạch Mai và Phủ Doãn, chở một số xác chết vô thừa nhận đem vứt trong trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng đồng thời cho mai phục vũ khí quanh rồi bắt đầu mở cuộc đột kích vào trụ sở bắt tất cả những người có trách nhiệm tại đó và bí mật đưa đi giam. Trong số có Phan Kích Nam, một đảng viên Việt Quốc lỗi lạc, cùng với tài liệu quan trọng liên quan đến kế hoạch định lật đổ chính phủ của Hồ Chí Minh.
    Sáng ngày 13-7 tôi cho công an khai quật các hầm chôn xác chết mà bọn chúng tôi vừa vứt vào tối hôm trước, rồi mời báo chí, quần chúng và một số người ngoại quốc tới xem, chụp hình quay phim; tuyên truyền và tố cáo trước dư luận, trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là một ổ hắc điếm chuyên cướp của giết người, bắt cóc và thủ tiêu thường dân vô tội. Ai ai cũng tin vì có bằng chứng rõ ràng. Trước bằng cớ ngụy tạo đó, ông già lẩm cẩm và ngây thơ Huỳnh Thúc Kháng chỉ biết dậm chân than: " Không ngờ bên Việt Quốc lại có những hành động tàn ác dã man như vậy."
    Chẳng cần đợi lệnh Bộ Nội Vụ, tôi " cương quyết trị tội " những kẻ làm việc phi pháp. Chiều ngày 13-7, tôi bí mật ra lệnh cho bộ đội và công an các địa phương được phép tấn công triệt hạ các chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng, trừ trụ sở trung ương ở Hà Nội. Chỉ trong vòng một tháng tôi đã tàn sát hết người của các đảng phái quốc gia và chiến sĩ yêu nước liên hệ. Cái này đúng là chỉ cần dùng kế mọn mà tôi diệt gọn đảng Việt Quốc và hàng trăm nhà cách mạng của phe quốc gia. Được tin này bác khen tôi nức nở vì sau vụ Ôn Như Hầu hổng còn ai đủ sức đủ lực chống đối với bác và đảng nữa…
    Tiếng nói sau cùng của Võ Khôi Nguyên rơi vào bầu không khí im lặng trong căn phòng xử hơn mấy ngàn người ngồi. Lát sau Diêm Vương gõ búa ra hiệu tạm ngừng phiên xử để cho mọi người ăn trưa xong sẽ tiếp tục lúc 14 giờ…
    Đợi cho bị can Võ Khôi Nguyên ngồi vào ghế xong xuôi Thôi Phán Quan cất giọng.
    - Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn ngay cả những cuộc chiến tranh tự vệ, chống xâm lăng hoặc giải phóng dân tộc khỏi sự cai trị của ngoại bang. Nói tới chiến tranh là nói tới sự đổ vỡ, tàn phá và hủy hoại. Tuy nhiên người chết mà đa số là dân lành vô tội mới chính là điều mà tôi muốn nêu ra ở đây…
    Thôi Phán Quan ngừng nói. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can ông ta trầm giọng.
    - Đại tướng là người chỉ huy cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân?
    Lắc đầu quầy quậy vị cựu tổng tư lệnh nói một hơi dài như cố gắng bào chữa cho mình.
    - Bẩm Diêm Vương… Oan cho con lắm… Con hổng có muốn mở cuộc tổng công kích đâu…
    Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.
    - Oan gì mà oan… Bác của ngươi đọc bài thơ chúc tết làm ám hiệu ra lịnh cho cuộc tổng công kích bắt đầu đêm giao thừa. Ngươi cũng biết là Tết là ngày thiêng liêng của đất nước và dân tộc để cho người ta vui mừng và hội hè đình đám. Có đâu cái đám ác ôn côn đồ của tụi bay, nhằm vào giờ phút thiêng liêng mà nổ súng giết người vô tội…
    Võ Khôi Nguyên nín thinh khi bị Diêm Vương xỉ vả. Đợi cho ông vua âm phủ dứt lời hắn mới nhỏ nhẹ lên tiếng.
    - Bẩm Diêm Vương… Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa mới chính là tác giả của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Để con trình bày đầu đuôi câu chuyện cho ngài và bồi thẫm đoàn nghe xong rồi ngài sẽ biết sự thực. Thằng Ba Duân là thằng dốt, học chưa xong tiểu học là bỏ học đi làm thằng bẻ ghi tàu hỏa rồi sau đó theo cách mạng đặng có cơm mà ăn. Đã dốt mà nó lại ham quyền lực và đàn bà con gái. Tất cả đảng viên ở ngoài bắc ai cũng biết nó thuộc thành phần hiếu chiến, có quyền có chức là nhờ vào chiến tranh. Bởi vậy nó mới chủ trương phải thôn tính miền nam bằng vũ lực. Sau khi lên làm tổng bí thư đảng, nắm hết quyền hành trong tay, nó lớn tiếng chê bai bác và con là đám chết nhát không dám dùng bạo lực giải phóng miền nam và thống thất đất nước. Ai ai cũng đều nghe biết nó nói một câu như thế này: '' Bác còn do dự, chứ khi rời miền nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng…''
    Từ năm 1959, bộ chín chị của tụi con đã chia làm hai phe. Phe chủ hòa có bác, anh Tô và con cùng với một số đảng viên kỳ cựu, muốn dồn hết mọi nổ lực xây dựng miền bắc giàu mạnh để đánh bại miền nam bằng chính trị, kinh tế và ngoại giao. Trong khi phe chủ chiến thì có thằng Ba, Sáu Búa, Sáu Vi và Năm Thận. Bọn chúng muốn dùng vũ lực thôn tính miền nam. Thằng Ba Duân khi từ nam ra bắc đã soạn sẵn một bản Đề Cương Giải Phóng Miền Nam. Bởi vậy nó mới là chính phạm trong vụ tổng công kích Mậu Thân. Bẩm Diêm Vương, tụi nó đã soạn kế hoạch sẵn sàng hết rồi…
    Khẽ gật gù Thôi Phán Quan hắng giọng.
    - Khi cuộc tổng công kích bắt đầu thì ông đang ở đâu?
    - Thưa ngài tôi đang ở bên nước Hung Gia Lợi để chữa bệnh?
    - Ngài đại tướng bị bệnh gì?
    - Bệnh gì đâu… Tôi bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chơi sát ván. Tụi nó phao tin đồn thất thiệt, rỉ tai với nhau đề quyết tôi làm mật thám cho tây, tôi hủ hóa, tôi lẹo tẹo với vợ của nhà văn Đào Vũ khi bà này dạy dương cầm tại nhà tôi…
    - Mà chuyện ngươi lẹo tẹo có thật không?
    Diêm Vương ngắt lời. Võ Khôi Nguyên ấp úng hồi lâu mới lên tiếng.
    - Bẩm… Bẩm… Diêm Vương… Con với bà ta chỉ quan hệ tình cảm chút chút thôi…
    Dường như không muốn nhắc tới chuyện đó nữa nên Võ đại tướng nói lảng.
    - Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cô lập bác, triệt hạ anh em thân tín với bác. Nó chích thuốc giết hại các tướng tá thân cận với tôi, bỏ tù các anh em đồng chí của tôi. Nó tước mất binh quyền của tôi rồi sau đó đẩy tôi lên máy bay qua nước Hung cho tôi đi chữa bệnh. Trong lúc tôi vắng mặt thì nó ra lệnh tổng công kích Mậu Thân… Nó là thằng dốt lại ngu, tưởng lợi dụng ba ngày tết và yếu tố bất ngờ để làm nên chiến thắng vỉ đại. Nó đoán là khi bộ đội ta về thành thì dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Mỹ Ngụy. Bộ đội vào thành rồi mới ngã ngửa ra là chẳng có ai theo mình hết. Bộ đội đi tới đâu dân chạy hết ráo. Bởi vậy mà cuộc tổng công kích đợt 1 không thành công lại hao mất mấy chục ngàn binh sĩ của miền bắc và Mặt trận giải phóng miền nam. Bị Mỹ Ngụy dũa tà mỏ nó mới chịu đem máy bay đón tôi về chỉ huy tổng công kích đợt 2…
    - Chỉ huy tổng công kích đợt 2 mà ngươi thắng hay bại?

    Diêm Vương xen vào câu chuyện. Võ Khôi Nguyên cười nhẹ.
    - Bẩm Diêm Vương… dạ thua… Lợi dụng yếu tố bất ngờ lại lấy nhiều đánh ít trong đợt 1 mà bộ đội còn thua xiểng niễng thì đợt 2 này còn thua nặng hơn nữa. Biết địch đã chuẩn bị rồi nên con không muốn đánh mà thằng Ba Duân ép con phải đánh. Nó bảo thắng hay thua gì cũng đánh, chết bao nhiêu cũng đánh, nướng vài chục ngàn bộ đội nữa cũng đánh… Để con kể cho Diêm Vương, ngài biện lý và bồi thẫm đoàn nghe câu chuyện sau đây thì biết… Năm 1971, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, con vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: " Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động khiến địch trở tay không kịp ". Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay…
    Không ngờ quan điểm của con bị thằng Ba Duân bác bỏ không thương tiếc. Giữa hội nghị, nó đập tay xuống bàn, quát:
    - " Thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu: '' Cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm… "

    Kết quả trong suốt 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu nhập nhoạng tối, một đại đội của con có mặt ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông, không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày quân đội của con tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 đồng chí), và 60 ngày đêm tấn công thành cổ cũng là 60 ngày đêm bộ đội mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên trí thức Việt Nam…

    Gian phòng xử im lặng như tờ sau khi Võ Khôi Nguyên dứt lời. Đưa tay cầm lấy ly nước lạnh uống ngụm nhỏ, vị cựu đại tướng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cất giọng khàn đục.
    - Ngay từ cuối năm 1979, khi biết Pol-Pot gây ra hoạ diệt chủng ở Cao Miên, trong một buổi họp tôi đã phát biểu là: " Trong hai thằng Lào và Miên, chỉ có thằng Lào là anh em với mình thôi, còn thằng Miên sẽ phản lại Việt Nam mình đó, không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của quốc tế ".

    Nhưng Ba Duân nhận định: Việt, Miên, Lào là 3 nước láng giềng, như 3 thế chân kiềng kê trên mảnh đất Đông Dương nên phải giúp nó, sau đó sẽ có kế hoạch thôn tính nó sau...
    Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc đã mất cả triệu người con ưu tú; nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại bị bắt lính vô tội vạ và bị đưa sang chiến đấu tại chiến trường Cao Miên. Bởi cùng học thầy Trung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, cũng thiên về quấy rối du kích, đánh không theo bài bản nào, chỉ nghi binh, đánh cấp tập rồi rút lui, đồng thời rải mìn vô tội vạ, khiến cho bộ đội thương vong nhiều không kể xiết. Tôi nhớ lần tới thăm một trạm phẫu thuật của trung đoàn. Trung bình một ngày anh em bác sĩ phải cưa 40 chân chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt... Trong điều kiện thuốc men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi cách xa trạm cả 7, 8 km rồi mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc...". Diêm Vương thấy chưa, thằng Ba Duân là thằng lớn lên và có quyền hành nhờ chiến tranh do đó nó phải nuôi dưỡng chiến tranh. Nó với Sáu Búa chủ trương đánh Miên chứ lúc đó con đâu có chút quyền hành nào để chỉ huy ai nữa…

    Ngay khi vị cựu đại tướng vừa dứt lời Thôi Phán Quan cười hỏi.
    - Tôi có một câu hỏi, tuy nhiên câu hỏi này chỉ là một thắc mắc nhỏ thôi. Gần đây tôi có đọc được một câu là: '' Nhà thơ làm kinh tế còn thống chế đi đặt vòng…''. Dường như hai câu này có chút gì liên hệ tới đại tướng…

    Từ khi phiên xử bắt đầu cho tới lúc này, Bình nhận thấy Thôi Phán Quan có chút chút biệt nhãn đối với vị cựu đại tướng họ Võ này. Ông ta chất vấn bị can bằng lời lẽ mềm mỏng và lịch sự hơn so với các bị can như Trần Nước Hòn, Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng.
    Nhìn xuống chỗ bàn dành cho bị can nơi có Hình Chí Mô, Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi, vị đại tướng già nua cất giọng khàn khàn.
    - Cái này là dân chúng mỉa mai tôi và Tố Bồi Bút… Số là trong đại hội đảng lần thứ 5, hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cho thằng Tố làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế…
    Đang ngồi lim dim Diêm Vương chợt ngắt lời.
    - Thằng Tố Bồi Bút biết cái gì mà làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Nó làm thơ thúi hoắc mà đặc trách về kinh tế thì dân chắc chết đói hết trơn…

    Võ Khôi Nguyên mỉm cười gật đầu.
    - Bẩm Diêm Vương… Ngài phán đúng bong… Năm 1985, Tố Bồi Bút ban bố lệnh đổi tiền. Cái lệnh quái gở và ngu xuẩn này làm lạm phát tăng 700% cũng như giá cả hàng hóa trong nước tăng vọt một cách khủng khiếp. Nước con là một nước nông nghiệp chuyên sản xuất lúa gạo thế mà dưới sự cai trị độc tài và ngu dốt của hai thằng Ba Duân và Sáu Búa, dân đói phải ăn bo bo… Cũng vì nạn bè phái mà thằng Tố mới được làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Còn con thì hai thằng họ Lê cho đi làm chủ tịch ủy ban cai đẻ. Bởi vậy mới có câu: '' Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng…''

    Diêm Vương lắc đầu than nhỏ.
    - Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa đúng là đầu óc tối tăm. Thằng Tố Bồi Bút mà cho đi làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế…

    Đợi cho Diêm Vương dứt lời xong Thôi Phán Quan bước tới ngay chỗ Đán, chủ tịch bồi thẫm đoàn đang ngồi. Mọi người đều biết ông ta sắp sửa nói lên lời buộc tội của mình.
    - Kính thưa Diêm Vương… Thưa 9 vị bồi thẫm… Sau khi nghe những lời khai của bị can cũng như những tài liệu mà tôi đã dẫn ra trong phiên xử của Võ Khôi Nguyên, chín vị đều biết là tên Võ Khôi Nguyên có tội. Tuy nhiên tội của hắn nặng hay nhẹ thì tùy theo ý kiến của quí vị… Tôi xin chấm dứt phiên xử của Võ Khôi Nguyên ở đây. Ngày mai tôi sẽ bắt đầu phiên xử của hai bị can mà tôi gọi là cặp bài trùng họ Lê. Hai tên này có '' nợ máu với nhân dân Việt Nam '' vì đã tù đày mấy trăm ngàn quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa vào trại cải tạo cũng như đẩy hai trăm năm chục ngàn người lính vô tội vào cuộc chiến tranh xâm lược nơi xứ Cao Miên mà kết quả hơn năm mươi ngàn người phải hy sinh một cách vô ích…

    Comment


    • #17
      17

      Hai con dê họ Lê


      Thôi Phán Quan đã làm cho bồi thẫm đoàn và tất cả người dự khán kinh ngạc khi gọi cùng một lúc hai người lên ngồi vào ghế bị can. Ai ai cũng chăm chú nhìn hai người tuổi khoảng từ bốn tới năm mươi. Người đi sau là một tráng niên tóc muối tiêu, vóc dáng cao lớn và khuôn mặt dài như ngựa, khiến cho ai gặp hắn một lần cũng không thể quên được.
      - Thằng cha mặt dài xọc là ai vậy anh Bảy?
      Câu hỏi vang lên từ cuối phòng. Giọng nói già nua trả lời chậm và rõ ràng.
      - Lê Đứt Thụi... Dân kháng chiến nam bộ hồi 45 đặt cho hắn cái tên Sáu Lừa vì mặt của hắn dài như mặt ngựa. Ngoài ra nó còn chỉ tới cái tính hay lừa gạt mấy cô gái miền nam theo kháng chiến. Năm 1948 hắn từ ngoài bắc vào nam làm Phó bí thư cho Ba Duân. Lúc đó hắn đã ngoài bốn mươi mà gặp đàn bà con gái hắn nói chửa vợ... Thằng Sáu Lừa còn có tên là Sáu Búa, ý chỉ cái tính độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của hắn...
      Bình với Đán xầm xì bàn tán trong lúc gọng đọc của vị lục sự vang vọng khắp phòng xử.
      - Bị can thứ nhứt là Lê Văn Nhuận hay Lê Văn Duân, bí danh Anh Ba nên còn được gọi là Ba Duân. Hắn sinh ra ở Quảng Trị. Nhà nghèo nên chỉ học tới lớp năm là nghỉ học để đi làm thợ hỏa xa. Năm 21 tuổi, bị can gia nhập Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội là tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, đảng cộng sản Việt Nam chính thức thành lập ở HongKong và Ba Duân được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau vụ nổi dậy Sô Viết Nghệ Tỉnh, hắn bị thực dân Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La. Sau khi ra khỏi tù, Duân lại hoạt động ở miền trung và năm 1937 được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Trung Kỳ. Năm 1939 lại được đề cử vào ban chấp hành trung ương đảng rồi được phái vào Sài Gòn hoạt động dưới quyền của tổng bí thư đảng cộng sản là Nguyễn Văn Cừ. Ngày 17 tháng 1 năm 1940, mật thám Tây bắt được Ba Duân với Nguyễn Văn Cừ, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân đang hội họp. Duân bị kêu án 10 năm và bị đày đi Côn Đảo. Sau chiến tranh thứ hai, Duân được phóng thích rồi năm 1946 được cho nắm chức vụ Bí thư xứ bộ nam Kỳ. Năm 1956 được Hình Chí Mô gọi ra bắc và được đề cử chức vụ bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cho tới khi chết.
      Bị can thứ hai là Phan Đình Khải tự Lê Đức Thọ, bí danh Sáu Búa, sinh năm 1911 tại tỉnh Nam Định. Hoạt động cho cộng sản với chức vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ, Phó bí thư trung ương cục miền nam rồi Trưởng Ban tổ chức trung ương đảng cộng sản Việt Nam và nhiều chức vụ khác cho tới khi chết…

      Đợi cho hai bị can ngồi vào ghế xong xuôi, Diêm Vương mới phán một câu.
      - Tướng thằng Ba Duân này mà làm tới chức bí thư à. Tướng của nó đi cày ruộng còn bị đuổi nữa...
      Bước tới đứng trước mặt Sáu Búa, Thôi Phán Quan cười hỏi.
      - Dường như trong lúc hoạt động ở trong nam, các đồng chí của ông đặt cho ông cái tên Sáu Lừa ông có một cái tên khác?
      Lê Đứt Thụi tự Sáu Lừa cười nhẹ.
      - Các đồng chí trong đảng từng hoạt động với tôi còn gọi một cách thân mật là Sáu Búa…
      Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.
      - Ngươi đúng là thằng trật búa thứ thiệt. Một búa cũng đủ chết thiên hạ rồi mà ngươi lại có tới sáu búa…
      Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi im, Thôi Phán Quan cười hỏi Sáu Lừa.
      - Ông có mấy vợ?
      - Thưa ngài một…
      Vành môi hơi nhếch thành nụ cười có chút mỉa mai và khinh miệt, Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.
      - Ông có mấy vợ?
      - Tui có một vợ…
      Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.
      - Dựa theo câu trả lời thì ngài tổng bí thư chỉ có một vợ. Đúng không?
      Hơi do dự giây lát rồi sau cùng Ba Duân cũng mạnh dạn trả lời.
      - Tui chỉ có một vợ…
      Khẽ gật đầu, Thôi Phán Quan nhìn Ba Duân.
      - Căn cứ vào giấy tờ thì bà Cao Thị Khê là vợ chánh của ông. Điều này đúng không?
      - Tui xác nhận điều đó…
      - Bà Đổ Thị Sanh là gì của ông?
      Ba Duân làm thinh thật lâu mới trả lời. Giọng của bị can nhỏ như tiếng thì thầm.
      - Là vợ nhỏ của tui…
      - Sao hồi nãy ngươi nói ngươi chỉ có một vợ?
      Ba Duân ấp úng trước câu vặn hỏi của Diêm Vương.
      - Hồi nãy con nói con chỉ có một vợ… Thưa đó là vợ lớn…
      Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương lại vặn.
      - Vây chứ ngươi có mấy vợ?
      - Bẩm hai…
      Thôi Phán Quan xen vào.
      - Còn bà Đỗ Thị Thúy Nga là gì của ông?
      - Thưa ngài đó là vợ bé…
      Gật gật đầu Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
      - Còn bà Hồ Thị Nghĩa?
      - Thưa đó là vợ lẽ…
      - Thế tại sao ông nói chỉ có một vợ?
      - Ngài biện lý không hiểu ý của tôi. Tui nói chỉ có một vợ nghĩa là một vợ lớn, một vợ nhỏ, một vợ bé, một vợ lẽ…
      Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.
      - Làm lãnh tụ như ngươi sướng thật. Tha hồ lấy vợ lớn, vợ nhỏ, vợ bé và vợ lẽ… Còn tình nhân thì sao?
      - Bẩm Diêm Vương... Con chỉ có một nhân tình, một bồ nhí và một đào tơ...
      Diêm Vương hừ tiếng nhỏ hỏi gọn.
      - Còn hết?
      - Bẩm Diêm Vương... Còn chút chút... Con chưa kể thêm mấy cô '' cần vụ ấy '' của con...
      - Sao mà nhiều vậy?
      Ba Duân cười cười.
      - Bẫm Diêm Vương… Đó là con noi theo cái gương đạo đức của bác. Không những con mà các đồng chí trong bộ chín chị đều có vợ bé, vợ nhỏ, vợ lẽ, nhân tình, bồ nhí hay đào trẻ… Đồng chí Phạm Hùng có bồ. Đồng chí Phạm Văn Trà có ba vợ… Còn đồng chí Sáu Lừa đây cũng có chút ít...
      Sáu Búa nhăn mặt lẩm bẩm.
      - Thằng cha này hổng đánh mà khai…
      Khẽ lắc đầu Thôi Phán Quan nhìn Sáu Lừa.
      - Theo ông thì bị can Ba Duân có mấy vợ?
      Liếc nhanh người ngồi bên cạnh Sáu Lừa cười trả lời.
      -Tôi cũng không biết rõ lắm. Tôi ít khi xía vào chuyện gia đình của kẻ khác. Thú thật với ngài biện lý tôi không có tính tò mò…
      Một giọng nói từ cuối phòng vang lên mà mới nghe qua ai ai cũng biết đó là giọng của một người đàn bà miền nam đã có tuổi.
      - Phải rồi… Mày đâu có tò mò mà mày có cái tật tò với mò thôi. Thấy con gái trẻ đẹp là mày theo tò tò sau đít rồi đợi tới đem tối mày mò dô mùng…
      Diêm Vương trừng mắt nhìn Sáu Búa.
      - Có chuyện đó à... Ngươi là lãnh tụ mà cũng làm chuyện tồi bại đó à… Vậy mà hở ra chút là khoe vì dân vì nước…
      Vừa định giảng '' morale '' cho Sáu Búa song bắt gặp cái liếc mắt của Thôi Phán Quan nên ông vua âm phủ bèn ngưng nói.
      - Bẩm Diêm Vương… Hổng có đâu… Con đâu có làm cái chuyện kỳ cục đó. Chẳng qua là mấy đảng phái quốc gia và đám người Việt phản động nó tuyên truyền để nói xấu con…
      - Ông nói thật là ông không có dê gái hả?
      Sáu Búa gật đầu một cách quả quyết.
      - Ông không có mò mấy cô nữ sinh hả? Ông không có dùng quyền lực và thủ đoạn để hiếp dâm phụ nữ hả?

      Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc hai câu hỏi và Sáu Búa cả quyết là mình không có làm chuyện đó. Cười hực Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương điều gì không ai nghe được. Họ chỉ thấy Diêm Vương gật đầu nói lớn.
      - Ta cho phép công tố viện làm bất cứ chuyện gì để tìm ra sự thật…
      Được phép của tòa Thôi Phán Quan cao giọng thốt.
      - Kính thưa bồi thẫm đoàn… Kính thưa quý vị khán thính giả… Sau đây tôi sẽ lần lượt mời các nhân chứng ra trước tòa để khai sự thực về việc hai bị can Ba Duân và Sáu Búa đã dùng quyền lực hay thủ đoạn đê tiện và tồi bại để cưỡng hiếp đàn bà con gái…
      Ngừng lại nhìn hai bị can giây lát xong ông ta cao giọng thốt.
      - Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn, sau đây tôi mời một người lên đây làm chứng. Kính mời bà Ba Kem…

      Sáu Búa hay Sáu Lừa ngồi bật dậy như bị ong vò vẽ chích khi nghe Thôi Phán Quan kêu tới tên bà '' Ba Kem ''.
      Đợi cho nhân chứng làm thủ tục và ngồi vào ghế xong xuôi, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.
      - Bà Ba biết ông này không?
      Nhìn theo tay chỉ của Thôi Phán Quan, bà Ba Kem hứ tiếng nhỏ.
      - Cái bản mặt thằng cha đó ai mà hổng biết. Ông biết hông hắn là con dê xòm của đảng đó…
      Nhìn thấy Ba Duân đang ngồi phía bên kia bà ta lớn giọng.
      - Còn thằng cha kia cũng vậy. Thấy con gái trẻ đẹp là mắt hắn sáng lên như xe nhà binh mười bánh… Hắn theo tò tò như chó tháng bảy…
      Quay qua Sáu Búa đang ngồi im với nét mặt tẽn tò bà Ba Kem nói một hơi thật dài.
      - Hắn mê con bé Hoàng, chạy lanh quanh theo con nhỏ như chó rượng đực. Nhờ Hội Phụ Nữ Cứu Quốc làm mai không được nên hắn mới năn nỉ ông chồng tôi… Nể tình hắn là ông lớn…
      - Lúc đó Sáu Lừa làm tới chức gì bà nhớ không?
      - Hổng có tham gia kháng chiến hay chín chị chín em gì nên tui hổng rành. Chỉ nghe mấy đứa nhỏ gọi Sáu Lừa là Quỉ Viên Xứ Ủy Nam Kỳ gì gì đó… Nể hắn là quan lớn của cụ Hồ nên chồng tôi mời hắn tới ghe ăn cơm. Đâu dè Sáu Lừa là thằng dê cụ. Thấy con gái tôi tên Anna, trạc tuổi con Bé Hoàng là hắn trổ mòi liền. Hắn nói với tôi như vầy: '' Chị Ba, tui muốn kêu chị bằng má được không chị Ba? '' Ông nghĩ coi có tức không. Sẵn đang nấu ăn cầm chiếc đũa bếp trong tay tôi mới trả lời: '' Tui thì được rồi chỉ sợ chiếc đũa bếp này không đồng ý thôi đồng chí trung ương ạ…'' Nghe tui nói vậy hắn ê mặt vội thụt lui ra chỗ chồng tôi ngồi. Tưởng vậy rồi chuyện được êm xuôi. Ai ngờ hắn lòng dạ hẹp hòi thêm có tình thù vặt nên khi có chức có quyền hắn đày đọa chồng tôi dữ lắm rồi sau năm 1975 thì hai vợ chồng tôi nghèo khổ lắm… Biết vậy hồi đó tôi quất vào đầu hắn mấy cái đũa bếp cho hả giận…
      Sau khi Bà Ba Khem dứt lời, Thôi Phán Quan nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi đoạn cao giọng thốt.
      - Để chứng tỏ cái tính dê của Sáu Búa và Ba Duân tôi xin mời thêm hai nhân chứng. Đó là hai cô Đào và Thanh lên đây kể cho mọi người nghe về đạo đức cách mạng của hai vị bí thư và phó bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ…

      Có tịch thì nhúc nhích. Nhờ ngồi gần ghế của bị can nên Đán và Bình nhận thấy Ba Duân và Sáu Lừa có vấn đề lớn khi nghe tới tên Đào và Thanh. Cả hai càng thêm bối rối và ngường ngượng khi thấy hai cô gái bước tới gần. Đợi cho hai nhân chứng làm thủ tục xong xuôi Thôi Phán Quan mới cười hỏi.
      - Xin hai cô vui lòng cho tòa biết hai cô tên gì?
      Cô gái mặc áo bà ba trắng, có nét mặt trái soan, da trắng và môi đỏ như thoa son vui vẻ trả lời.
      - Dạ cháu tên Đào, còn bạn cháu tên Thanh…
      - Hai cháu là nữ sinh?
      Cô gái tên Thanh nhỏ nhẹ lên tiếng.
      - Dạ hai cháu là học sinh của trường trung học Nguyễn Văn Tố…
      - Năm nay cháu Thanh mấy tuổi?
      - Dạ mười bảy…
      - Còn cháu Đào?
      - Dạ mười sáu…
      Liếc Sáu Búa và Ba Duân đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ, Thôi Phán Quan cười cười hỏi tiếp.
      - Cháu Đào và Thanh biết hai người đang ngồi phía bên kia không?
      Đào liếc Thanh. Thấy bạn gật đầu cô ta đáp nhỏ.
      - Dạ biết…
      - Họ là ai vậy?
      - Dạ đó là Bác Ba và Bác Sáu…
      - Cháu biết Bác Ba và Bác Sáu làm chức gì không?
      Đào là cô gái lanh lẹ và vui vẻ hơn trong lúc Thanh lại ít nói và trầm lặng. Liếc hai ông già đang ngồi bên kia Đào liếng thoắng trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.
      - Dạ… Bác Ba là Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ. Còn Bác Sáu là Phó Bí Thư… Hai bác ấy làm lớn lắm…
      Thôi Phán Quan gật đầu mỉm cười. Ông ta biết Đào vẫn còn ngây thơ, khờ khạo và thành thật. Muốn cho cô gái kể đầu đuôi câu chuyện thì ông ta phải mớm lời và nhất là làm cho cô gái thôi sợ hãi Ba Duân và Sáu Lừa.
      - Tôi nghe mấy chị em trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc đồn Bác Ba và Bác Sáu của cháu thích đàn bà con gái lắm. Chuyện này có thật không?
      Đào mím môi. Miệng của cô bé mấp máy định nói song rốt cuộc lại im lặng. Dường như cô ta mắc cỡ hoặc e ngại chuyện gì.
      - Cháu đừng sợ… Ở đây là âm phủ… Hai bác ba và bác sáu không có quyền gì hết… Họ không có quyền cấm cháu nói sự thật…
      Thôi Phán Quan cất giọng dỗ dành đồng thời nháy mắt ra hiệu cho Diêm Vương. Hiểu ý ông vua âm phủ hắng giọng.
      - Cháu bé cứ việc khai hết sự thựcb đi… Thằng nào mà hăm he, hù dọa hay sai công an bịt miệng cháu là ta còng đầu nó liền...
      Liếc nhanh Diêm Vương rồi liếc qua chỗ Ba Duân và Sáu Lừa đang ngồi xong Đào mới thỏ thẻ.
      - Lúc đầu người ta dụ dỗ chị Thanh với cháu xây dựng với hai ông già...
      Gật gù Thôi Phán Quan hỏi.
      - Cháu nói người ta vậy người ta là ai?
      - Dạ người ta là mấy ông trong Chi Bộ Đảng...
      - Ạ... Ta hiểu rồi... Còn '' xây dựng '' là nghĩa gì hả cháu?
      Khuôn mặt trắng của Đào chợt hồng lên. Nhìn xuống hai bàn chân của mình cô ta thì thầm. Dù cô ta thì thầm song nhờ căn phòng xử im lặng và hệ thống khuếch đại âm thanh của âm phủ rất tối tân do đó ai ai cũng đều nghe rõ lời của Đào.
      - Dạ... Xây dựng là ngủ với mấy ổng... là làm vợ mấy ổng...
      Vừa nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu quầy quậy rồi cất tiếng than dài.
      - Loạn... Dương thế loạn rồi... Cái xứ Việt Nam thật là đại bất hạnh mới có mấy thằng làm lớn, già hai thứ tóc mà lại muốn chuyện xây dựng với con gái vị thành niên. Ta phải tâu lên trời hầu có biện pháp chế tài thích nghi với mấy thằng có chức, có quyền và có tiền mà làm chuyện tồi bại... Thôi cháu kể tiếp đi...
      - Thưa Diêm Vương... Ngài nghĩ coi mấy ổng nói với con và chị Thanh như vầy: '' Dẫu biết Bác Ba và Bác Sáu đã có gia đình ở ngoài bắc nhưng do yêu cầu của cách mạng các bác phải ra đi. Vì vậy mà đảng có nhiệm vụ phải lo cho các bác phải có người đàn bà trong nhà. Hai đồng chí là đảng viên, từng được dạy dỗ về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã nói: '' Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của đảng...'' Con với chị Thanh chống cự lại thì họ tìm cách chia rẻ chúng con. Đầu tiên họ tách chúng con ra làm hai, mỗi người về phục vụ văn phòng khác nhau. Chị Thanh về văn phòng Bác Sáu còn con về văn phòng ông Lưu Quý Kỳ. Chi bộ đảng cứ tiếp tục dụ dỗ cháu và chị Thanh phải xây dựng với Bác Sáu và ông Kỳ. Tuy nhiên cháu và chị Thanh nhất quyết không chịu. Thấy dụ không được họ bèn dùng bạo lực của đám vũ phu vô học. Phần cháu về làm với ông Chín Kỳ được ba ngày, ổng biểu cháu đi công tác với ổng. Một đêm ổng biểu cháu ngủ dưới tam bản với ổng. Ổng kéo, ổng níu, ổng ôm rồi ổng đè cháu tính làm ẩu. Cháu chống cự, cháu đạp ổng văng ra rồi phóng xuống nước lội vào bờ, chạy vô nhà dân trốn và cầu cứu...

      Đợi cho cô Đào kể xong Thôi Phán Quan mới quay qua hỏi cô Thanh.
      - Cô về làm với Bác Sáu của cô như thế nào?
      - Dạ... Cháu về làm việc được hơn tuần lễ thì các đồng chí trong cơ quan nói với cháu là chiều nay Bác Sáu đến ăn cơm và ở lại sinh hoạt. Bác Sáu ngồi nói chuyện cà kê dê ngỗng chẳng có chủ đề gì hết. Ngồi nghe bác nói mà chán còn hơn ăn cơm nếp mắc mưa, cháu ngáp vắn ngáp dài vì buồn ngủ. Ổng vừa nói vừa ngó cháu chăm chăm, lâu lâu lại hỏi một câu làm như là để nói với cháu mà thôi. Đồng chí ngồi cạnh cháu cứ rót trà vô tách hoài mời cháu uống. Cháu chỉ bưng tách lên làm bộ uống rồi lại để tách xuống. Dòm nước trà trong tách cháu vẫn còn đầy, anh ấy cứ giục cháu uống trong lúc Bác Sáu ngó cháu lom lom. Đến 9 giờ cháu buồn ngủ quá cứ ngáp lia lịa. Thấy cháu che miệng ngáp bác Sáu nói.
      - Thôi các đồng chí đi ngủ. Sáng mai công tác tỉnh táo hơn...
      Thường thường cháu với chị Đào ngủ chung để có gì giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng tối nay chị Đào đi công tác nên cháu phải ngủ một mình. Giăng mùng xong cháu chui vô nằm. Lát sau cháu cảm thấy mí mùng được tấn dưới chiếu ở chân xê dịch như có bàn tay ai nhè nhẹ kéo. Cháu tỉnh liền. Bên ngoài tối mò chẳng thấy gì hết. Mí mùng bị kéo mạnh và lẹ hơn. Một bàn tay thọc vào đụng chân cháu, cùng lúc cả góc mùng dưới chân cháu được vén lên để lộ cái đầu đàn ông. Người đó nói nhỏ trong lúc tính chui hẳn vô mùng.
      - Tôi đây mà đồng chí đừng làm ồn...
      Đúng là giọng của Bác Sáu. Chẳng còn hồn vía nào, cháu bật dậy chui ra khỏi mùng rồi phóng ra ngoài sân và la lớn lên.
      - Bớ người ta... Cứu tôi với...
      Bốn anh bảo vệ chạy tới. Họ vừa bắn vừa hô.
      - Đứng lại... Không chúng tôi bắn...
      Cháu nghe Bác Sáu ra lịnh.
      - Đừng bắn... Vào ngủ hết đi...
      Thanh dứt lời. Nét mặt của cô bé vẫn còn chút ngơ ngác và hoảng hốt như không tin là người mà cô kính nể và kêu bằng Bác Sáu lại có thể mò vô mùng của mình.
      Mỉm cười Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Sáu Lừa đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ.
      - Ngài Phó Bí Thư Xử Ủy Nam Kỳ có ý kiến gì về lời của cô Thanh kể?
      Ai cũng nhận ra cái giọng mỉa mai trong câu hỏi của Thôi Phán Quan. Sáu Lừa chưa kịp trả lời vị biện lý hỏi tiếp.
      - Ông có mò cô Thanh không? Mò mấy lần?
      Liếc nhanh Thanh đang ngồi ngó mình lom lom, Sáu Lừa trả lời nước đôi.
      - Tôi nghĩ là có mà chỉ có chút chút thôi...
      Thôi Phán Quan gằn giọng.
      - Có hay không?
      Liếc thấy Diêm Vương đang chiếu tướng mình, Sáu Lừa biết hắn phải trả lời. Không trả lời thì âm phủ sẽ có trăm phương ngàn cách để làm cho hắn thú nhận.
      - Có... Tôi có mò vô mùng cô Thanh. Nhưng chưa có sơ múi gì được là cô ấy đã la làng chói lọi... Tuy nhiên…
      Sáu Lừa bỏ lửng câu nói ở đó và Thôi Phán Quan cười nhạt tiếp.
      - Tuy nhiên mò lần đầu không được ông thử lần thứ nhì, thứ ba và tới khi nào được mới thôi. Phải vậy không?
      Sáu Lừa cười hè hè.
      - Ngài biện lý ở âm phủ xa xôi mà sao rành chuyện mò con gái của tôi quá vậy. Chắc tôi phải theo hầu ngài để học thêm kinh nghiệm…
      Làm lơ lời nói của Sáu Lừa, Thôi Phán Quan bước tới chỗ của Ba Duân ngồi.
      - Có người khai với tôi là họ bị ông hiếp dâm. Điều này có thật không?
      Vị bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ, lãnh tụ đứng nhất của kháng chiến nam bộ tỏ vẻ bối rối trước câu hỏi của Thôi Phán Quan. Dù chỉ học hết tiểu học, hắn cũng đủ thông minh để hiểu vị đại diện cho công tố viện của âm phủ đã nắm được bằng chứng hoặc nhân chứng về chuyện mình cưỡng hiếp những phụ nữ phục vụ dưới quyền chỉ huy. Nhận thì có tội. Như vậy là sai. Đảng không bao giờ sai lầm cũng như lãnh tụ không bao giờ làm gì bậy bạ. Chi bằng chối phứt. Tới đâu thì tới.
      - Tui là lãnh tụ mà... Lãnh tụ như tui thì không thể làm chuyện bậy bạ được...
      Thôi Phán Quan cười gằn buông một câu.
      - Được rồi... Ngươi đã nói như vậy thì ta mời nhân chứng...
      Ba Duân có vẻ lo ra khi nghe Thôi Phán Quan mời nhân chứng ra đối chất. Vị biện lý bước tới thì thầm vào tai Hắc Y Sứ Giả. Lát sau mọi người thấy vị sứ giả áo đen đi song song với một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc khá tươm tất. Ngay khi thấy người đàn bà này, Ba Duân có thái độ không được thoải mái lắm.
      Đợi cho nhân chứng ngồi xuống ghế và làm thủ tục xong, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.
      - Xin bà vui lòng cho biết bà là ai?
      - Dạ... Hồi còn kháng chiến thì anh em quen gọi tui là Chị Mười. Tui là đại diện Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Xã Long Mỹ. Chồng của tui là Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đã hy sinh cho cách mạng...
      - Xin bà vui lòng kể cho tòa nghe chuyện bà bị tên Ba Duân cưỡng hiếp?
      Khẽ gật đầu Chị Mười cất giọng nghèn nghẹn.
      - Một bữa nọ tôi được tên Phó Bí Thư cử đi dự Đại Hội Phụ Nữ Nam Bộ. Sau khi tới nơi tui được giới thiệu với chị Nguyễn Thị Thập là Hội Trưởng Hội Cứu Quốc Nam Bộ và bà gì đó tôi không nhớ tên, chỉ biết bà này là Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh Cần Thơ. Bà Hội Trưởng của tỉnh Cần Thơ nắm tay tui cười nói.
      - Chị coi bộ em hơi mệt... Chắc là tại đi đường xa... Để chị lấy nước cam vắt cho em uống đặng khỏe lại mà vui chơi chứ. Đi dự đại hội mà xìu như vậy đâu được em...
      Lát sau bà ta trở lại với ly nước cam vắt cầm trên tay. Đi bên cạnh bà ta là một người đàn ông sồn sồn chừng 50. Chị Nguyễn Thị Thập thấy người đó vội đứng dậy khúm núm chào.
      - Thưa anh Ba, khỏe không?
      Chẳng trả lời, người đó nhìn tui lom lom như mèo thấy chuột. Vẫn nhìn tui, ổng nghiêng đầu về bà hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ hỏi một câu mà tui nghe giọng Nghệ rặc.
      - Vợ đồng chí Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đấy hỉ?
      - Thưa anh Ba dạ đúng...
      - Xin chia buồn cùng chị. Tôi đã ký quyết định truy tặng anh Mười, chồng của chị là anh hùng liệt sĩ kèm quyết định cấp dưỡng và xác nhận con cái của anh là con liệt sĩ...
      - Xin cám ơn đồng chí...
      Nói xong tui mới quay qua hỏi bà Hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ.
      - Anh Ba là ai vậy?
      Bà ta trả lời với vẻ kính cẩn.
      - Bí Thư Xứ Ủy Nam Bộ...

      Trả lời xong bà ta đưa cho tui ly nước cam. Đang khát nước tôi ực một hơi cạn sạch. Chừng vài phút sau là tui thấy mắt hoa đầu váng, lơ mơ nửa tỉnh nửa thức. Tui thấy người ta rinh tui đi đâu đó, đặt tui lên giường rồi có người đàn ông từ từ cởi quần áo tui ra xong hắn leo đè lên người của tui. Ráng mở mắt tui thấy thằng cha đang đè mình là anh Ba Bí Thư Xứ Ủy Nam Bộ. Hắn làm hùng hục như con chó rượng đực. Không biết tui uống nhằm cái gì mà nửa tỉnh nửa mê, tay chân tê liệt muốn giãy giụa hay chống cự cũng hổng được đành phải nằm yên cho hắn thỏa mãn thú tính...
      Ngay sau khi Chị Mười dứt lời, Thôi Phán Quan đặt câu hỏi liền.
      - Như vậy bà xác nhận là tên Ba Duân, Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ đã hiếp dâm bà. Đúng không?
      - Thưa đúng... Tui thấy rõ mặt mày của hắn. Cái bản mặt dâm dục của hắn tui hổng quên. Hắn là con quỉ dâm dục. Xuống tỉnh, xuống huyện, về làng, tui nghe hắn ăn nói huyên thiên toàn đạo đức cách mạng. Đâu có dè hắn với thằng Sáu Lừa, tụi nó cả bầy như chó đực tháng tám...

      Ba Duân và Sáu Lừa làm thinh trước lời mắng nhiếc của Chị Mười. Ngay cả Diêm Vương cũng mặc cho nhân chứng chưởi bới. Ông ta hiểu tâm trạng đau khổ cũng như sự uất ức của người đàn bà bị cưỡng hiếp. Sau khi ba nhân chứng rời khỏi ghế của họ, Thôi Phán Quan cười hỏi hai bị can.
      - Hai ông có điều gì phản biện lại lời khai của ba nhân chứng không?
      Hai vị Bí Thư và Phó Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ làm thinh không trả lời. Hướng về chỗ ngồi của chín vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng.
      - Kính thưa chín vị bồi thẫm... Sau thời gian sưu tầm, công tố viện của âm phủ đã tìm được thêm một chuyện làm bậy bạ của Ba Duân mà tôi tạm gọi là vụ án cô Nga. Vì nhiều uẩn khúc nên nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng không thể xuất hiện trước tòa được. Tuy nhiên những điều mà công tố viện thu lượm được là do lời kể của những người thân cận với cô Nga lúc vụ án xảy ra...

      Bước tới đứng trước mặt Ba Duân, Thôi Phán Quan hỏi gọn.
      - Năm 1948, ông và Sáu Lừa có tham dự phiên họp của các đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ tại một mật khu ở tỉnh Cà Mau. Ông xác nhận điều này?
      Sau một hồi do dự Ba Duân lên tiếng.
      - Tui xác nhận là tui với đồng chí Sáu Lừa có mặt trong buổi họp đó...
      - Trong buổi hội họp này ông có gặp cô Đỗ Thị Thúy Nga. Đúng không?
      - Đúng... Cô Nga là Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ tỉnh Cần Thơ...
      - Cô Nga đẹp lắm hả ông?
      Ba Duân chưa kịp trả lời vị biện lý của âm phủ cao giọng thốt trong lúc hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ngồi.
      - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Duyệt qua các tài liệu mà âm phủ đã sưu tầm được, Thôi Phán Quan tôi biết nhiều về Ba Duân, từ lý lịch cá nhân và quá trình hoạt động trong đảng cộng sản, nhất là những bí mật mà vị bí thư xứ ủy nam kỳ và cuối cùng là tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cố tình che giấu không cho dân chúng biết. Hắn dốt chữ, học chưa qua cấp tiểu học, do đó hắn có cái mặc cảm đối với giới trí thức miền nam. Cái mặc cảm bị dân có học nam bộ chê là '' bí thư rặn ra chữ '' khiến cho hắn ghét những người có học hơn mình. Tuy không lộ ra mặt song hắn ghét cay ghét đắng đám trí thức nổi tiếng ở miền nam tham gia cộng sản như Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Bùi Công Trừng… Bốn tay cộng sản gộc từng tốt nghiệp trường Lao Động Đông Phương của miền nam được dân kháng chiến biết nhiều hơn cả Hồ Chí Minh.
      Tuy nhiên đối với cô Nga thì lại khác. Gặp mặt cô Nga là hắn mê tít thò lò. Điều này cũng không lạ vì cô ta còn son trẻ, duyên dáng, quyến rũ lại nữ sinh trường đầm, đỗ bằng tú tài và nói tiếng Pháp như gió. Có thể nói Ba Duân so sánh với cô Nga chẳng khác gì con chim cú đứng trước phượng hoàng. Xí trai, học vấn kém, tướng tá cục mịch, tính tình thô lỗ, ăn nói như dùi đục chấm mắm nêm, nên Ba Duân tán tỉnh, ỉ ôi cách mấy cô Nga chẳng thèm để mắt tới hắn. Không nản chí, Ba Duân nhờ bà Lê Đoàn, Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ tới động viên tinh thần của cô Nga để cô ta ưng Anh Ba. Nhưng cô Nga là cô gái cứng đầu nên thẳng thừng từ chối. Cô nói như tát nước vào mặt bà Đoàn: '' Bộ hết người sao mà tôi lại lấy ông già vừa dốt lại nhà quê đó…''. Nhờ bà Lê Đoàn không có kết quả, Ba Duân lại nhờ Hà Huy Tập, Ủy Viên Trung Ương Đảng. Cũng không xong, hắn nhờ giáo sư Đặng Minh Trứ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ tới nhà nói chuyện với ba má cô Nga. Tất cả đều vô hiệu quả. Khi mọi vận động đều đi tới chỗ bế tắc, Ba Duân phải dùng tới đòn phép ma giáo. Hắn ra lịnh cho ban bảo vệ mời cô Nga tới dự mít tinh trong một căn nhà bên dòng sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ rồi cưỡng hiếp cô Nga…

      Nói tới đó Thôi Phán Quan quay sang hỏi Ba Duân.
      - Những điều tôi nói đúng sự thật không?
      Ngần ngừ giây lát vị bí thư xứ ủy Nam Kỳ năm 1948 và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ từ lên tiếng.
      - Tôi có cưỡng hiếp cô Nga nhưng để đền bù thiệt hại tôi lấy cô ta làm vợ ba…
      Thôi Phán Quan cười nhạt.
      - Âm phủ chỉ xử tội hiếp dâm của ông, còn chuyện ông lấy cô Nga làm vợ là chuyện riêng của ông...
      Liếc thấy đồng hồ chỉ quá 12 giờ, Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên xử cho mọi người ăn trưa. Vài người ra về muộn thấy Thôi Phán Quan với Diêm Vương còn đứng nói chuyện khá lâu với 9 vị bồi thẫm.

      Comment


      • #18
        18

        Thi sĩ '' ấy ''


        - Kính thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm… Quí vị đã nghe tôi trình bày về tội cưỡng hiếp phụ nữ của hai tên Ba Duân và Sáu Lừa. Tuy nhiên tội cưỡng hiếp chỉ là tội ác nhỏ nhoi so với tội ác mà tôi sắp sửa trình bày. Chỉ đạo, dàn dựng và phát động một cuộc xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa bằng súng đạn; Ba Duân, lúc đó là bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản; còn Sáu Lừa, lúc đó là Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, đã đẩy hàng triệu nam nữ của cả hai miền bắc nam vào cuộc chiến tranh ngu xuẩn và đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam chỉ nhằm thực hiện mộng xâm lăng của cộng sản quốc tế. Nào là Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, với hành động giết mấy ngàn người dân vô tội ở Huế cũng như nướng cả trăm ngàn bộ đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nào là chiến trận ở Khe Sanh với tổn thất cả trăm ngàn nhân mạng. Nào là mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nào là đại thắng mùa xuân vào tháng 4 năm 1975 để dẫn tới cuộc tắm máu hơn nửa triệu quân dân cán chính của VNCH và hơn một triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do và chết trên biển cả. Chưa hết. Hai tên đồ tể Sáu Lừa và Ba Duân còn xua gần nửa triệu lính và dân công vào cuộc xâm lăng nước Cao Miên mà kết quả hơn 50 ngàn quân bị tử trận, đồng thời làm kiệt quệ tài nguyên quốc gia, gây đói khổ, lầm than và tang tóc cho một dân tộc vốn phải hứng chịu nhiều chinh chiến điêu linh. Hai tên Ba Duân và Sáu Lừa là thứ tội phạm chiến tranh của dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Tiếc thay… Mỉa mai thay… Tên Sáu Búa lại được một tổ chức đui mù trao tặng cho giải Nobel Hòa Bình thay vì đem hắn ra xét xử về tội giết người tập thể. Bất hạnh thay… Xấu hổ thay… Ba Duân và Sáu Lừa, lại được những kẻ kế thừa xưng tụng là anh hùng, viết sách viết sử để ca tụng công đức và đặt tên đường để tưởng nhớ…

        Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang lắng nghe lời buộc tội của Thôi Phán Quan.
        - Hôm nay, thừa mệnh lệnh của Trời và luật pháp của âm phủ; tôi, Thôi Phán Quan sẽ lần lượt trình bày cho mọi người khắp ba tầng chín cõi thấy, nghe, biết những hành vi '' vô ác bất tác '' của Ba Duân và Sáu Lừa…

        Dứt câu Thôi Phán Quan phất tay áo rộng báo hiệu phiên xử hai tên Ba Duân và Sáu Búa được tiếp tục. Đợi cho hai bị can làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ cao giọng trong lúc nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi.
        - Tôi xin mời các người có tên sau đây lên ngồi vào ghế nhân chứng. Thứ nhất là Võ Khôi Nguyên, thứ nhì là Phạm Văng Vàng, thứ ba Trườn Chui…
        - Nhân chứng thứ tư là Hình Chí Mô…
        Trong lúc ba nhân chứng lục tục đi lên, thiên hạ xầm xì to nhỏ khi nghe vị biện lý xướng danh nhân chứng cuối cùng. Đây là lần đầu tiên ông ta gọi một lúc bốn nhân chứng, mà người nào cũng nắm giữ chức vụ quan trọng của đảng và nhà nước cộng sản. Hai bị can và bốn nhân chứng cộng lại thành sáu người. Họ đại diện cho quyền lực vô song của đảng. Cũng chính họ chỉ đạo, điều khiển một guồng máy khổng lồ với những đảng viên cuồng tín đã kềm kẹp mấy chục triệu dân Việt vào con đường phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản và làm nô lệ cho những kẻ có chức, có quyền và có tiền. Họ bắt, bỏ tù, lưu đày, thủ tiêu kẻ chống đối hoặc bất cứ ai không theo họ. Họ chỉ biết có đảng. Đảng là họ và họ là đảng, là thứ quyền lực tuyệt đối.
        Trái với ý nghĩ của mọi người, Thôi Phán Quan hỏi nhân chứng Trườn Chui trước nhất.
        - Nếu tôi không lầm thì ông là lý thuyết gia hàng đầu của đảng?
        Được bốc thơm vị cựu tổng bí thư cười hì hì lên tiếng.
        - Tôi nghĩ ngài biện lý không lầm đâu…
        Cười nhẹ Thôi Phán Quan tiếp lời.
        - Có người gọi ông là chủ gánh xiếc ngôn ngữ của đảng cộng sản Việt Nam. Ông nghĩ sao?
        Chắc khoái chí vì từ '' chủ gánh xiếc ngôn ngữ '' do đó Trườn Chui vui vẻ trả lời.
        - Tôi nghĩ điều này cũng đúng chút chút… Tôi không ngờ ngài biện lý cũng là kẻ hay chữ…
        Thôi Phán Quan cười nhẹ lắc đầu.
        - Là người của âm phủ nên tôi không thông thạo tiếng Việt lắm. Tôi chỉ lập lại lời của người khác mà thôi…
        Nhìn thẳng vào mặt Trườn Chui, ông ta hỏi gọn.
        - Ông là người đã viết ra Nghị Quyết 9?
        Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi trên ghế bị can nơi phía bên kia, Trườn Chui cười nhẹ.
        - Chính tôi viết ra tuy nhiên anh Ba và anh Sáu cũng có thêm vào vài ý kiến…
        - Ông có thể tóm tắt cho tòa nghe về nghị quyết 9…
        Trườn Chui gật đầu liền vì biết không nói cũng không được, với lại chuyện cũ mấy chục năm rồi nên có khai trước tòa thì cũng chẳng hại tới đảng.
        - Điểm chính yếu của nghị quyết 9 là đường lối đối nội và đối ngoại của đảng và nhà nước Việt Nam là thống thất về cơ bản với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung Quốc. Những kẻ nào không đồng tình với đường lối của đảng là phản động, là thuộc phe xét lại. Cũng vì vậy mà trong đảng chúng tôi mới chia thành hai phe. Một phe đòi thực hiện chủ nghĩa dân chủ pháp trị và kiến tạo một xã hội tôn trọng dân quyền. Một phe kia chủ trương đảng phải cầm quyền để giữ vững chủ nghĩa xã hội chuyên chế… Đại loại tôi có thể nói tình trạng của đảng lúc đó chia làm 2 phe; chủ hòa và chủ chiến… Phe chủ hòa gồm có bác, anh Nam và anh Tô. Phe chủ chiến thì có anh Ba, anh Sáu, anh Thanh…
        - Ông theo phe nào?
        Thôi Phán Quan ngắt lời. Trườn Chui cười hì hì.
        - Tôi thì tôi đi hàng hai nhưng sau đó thì tôi ngã về phe chủ chiến vì phe đó mạnh hơn…
        Gật gật đầu Thôi Phán Quan bước qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi.
        - Ông có thể cho tòa biết lý do nào ông chọn Ba Duân làm bí thư thứ nhất thay vì chọn ông đại tướng lùn?

        Chín vị bồi thẫm đều chăm chú lắng nghe Hình Chí Mô trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan. Họ Hình vốn là người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, do đó lão phải nắm bắt nhiều bí mật trọng đại ít người biết được.
        - Có nhiều lý do khiến cho tôi chọn chú Ba thay vì chọn chú Nam vào chức bí thư thứ nhất. Lý do đầu là chú Ba dốt chữ. Mà hể thằng dốt thì thường thường nó ngu hơn thằng có học. Chú Nam có bằng cử nhân, học cao còn hơn tôi, lại đang là thần tượng của quân đội và nhân dân. Chú ấy giống như con hổ, mà bây giờ cho chú ấy chức bí thư thì chẳng khác nào hùm thêm vi hổ thêm cánh. Nếu chú ấy dùng quân đội đảo chánh thì kể như tôi rớt đài là cái chắc. Trong khi đó chú Ba, dù đang làm Bí Thư Xứ Ủy Nam Bộ, nhưng tiếng tăm và phe đảng chưa có. Chọn một nhân vật vô danh và cô thân độc mã để lên kế vị thì mình hổng sợ nó lật cái ghế chủ tịch của mình…

        Thôi Phán Quan mỉm cười. Ông ta chưa kịp lên tiếng, Diêm Vương đã mở miệng trước.
        - Thằng này khôn ơi là khôn… Quả là danh bất hư truyền…
        Hình Chí Mô hơi nhếch môi cười khi nghe Diêm Vương khen.
        - Ai cũng nghĩ như tôi song sau khi thằng Ba lên làm bí thư thời gian thì tôi biết mình lầm, cái sai lầm tai hại cho chính bản thân tôi. Tôi biết mình đã nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Chú Ba tuy dốt mà hổng có ngu đần và khờ khạo như tôi tưởng. Mưu mô, thủ đoạn, xảo quyệt, gian manh của chú Ba chẳng sút Tào Tháo…
        Đang ngồi Ba Duân bật lên tiếng cười ngắn khi nghe Hình Chí Mô nói tới câu sau cùng.
        - Bây giờ bác mới biết à…
        Sáu Búa cũng phụ họa.
        - Hì… hì… Bác lừa nhiều người mà rốt cuộc lại bị đàn em gạt… Bởi vậy ông Mác có nói thằng dốt mà lưu manh thì nó lưu manh hơn thằng có học gấp mười lần…
        Diêm Vương xen vào câu chuyện bằng câu hỏi.
        - Đâu ngươi nói cho ta nghe thằng Ba Duân và Sáu Búa nó gạt ngươi bằng cách nào?
        - Bẩm Diêm Vương… Con cũng cẩn thận lắm khi giao quyền lại cho chú Ba. Trước hết con cho chú làm phụ tá của con với cái chức Bí Thư Thứ Nhất. Điều mà con hổng có ngờ là trước mặt con thì dạ dạ vâng vâng, tỏ ra dễ bảo dễ sai như học trò, mà sau lưng thì chú ấy đâm sau lưng đồng chí, âm thầm tạo bè lập đảng cũng như tìm mọi cách triệt hết tay chân bộ hạ hoặc những người thân tín của con. Chú Ba nói với con như vầy: '' Em thì dốt và chưa có quen biết nhiều các đồng chí trung ương vì vậy mà khó nói chuyện với họ lắm. Em xin bác cho chú Sáu làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng. Ai mà chống đối bác và đảng là em sai thằng Sáu nó xách búa tới hỏi thăm sức khỏe liền…''
        Nói tới đó Hình Chí Mô quay lại như muốn phân bua với Diêm Vương.
        - Bẩm Diêm Vương… Con thì cả tin và ngây thơ ngờ nghệch nên làm theo lời chú ba nó tâu…
        Diêm Vương hừ tiếng nhỏ khi nghe lão Hình nói '' ngây thơ ngờ nghệch ''.
        - Sau đó chú Ba còn xin cho chú Thanh làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ các cấp chính ủy trong quân đội, đặt quân đội dưới quyền chỉ huy và lãnh đạo tuyệt đối của đảng. Chú ba còn ton hót là dùng chú Thanh để kềm thằng lùn, kiểm soát và chia bớt quyền hành cũng như ảnh hưởng của thằng tướng lùn trong quân đội. Cũng sợ thằng '' đại tướng lùn '' lật đổ mình nên con mới bằng lòng cho chú Thanh làm chủ nhiệm và thăng chức đại tướng cho chú ấy…
        Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Hình Chí Mô.
        - Ông giữ chức vụ gì trước khi và sau khi cho Ba Duân làm bí thư thứ nhất?
        - Tôi làm đủ thứ hết… Chủ tịch đảng Lao Động kiêm Tổng bí thư đảng Lao Động kiêm Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ kiêm Chủ tịch quân ủy…
        Diêm Vương xì tiếng dài.
        - Cái gì mà kim kim chỉ chỉ nhiều vậy… Thôi kể tiếp cho ta nghe chuyện hai thằng bất nhơn họ Lê ăn hiếp ngươi đi…
        - Bẩm Diêm Vương… Thằng Sáu Búa đúng là trật búa. Nó điêu ngoa, xảo quyệt, đã khôn lại ác vô cùng. Sau khi ngồi vào chức Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, nó đã biến cái tổ chức bàn giấy này thành một cơ quan siêu quyền lực trong bóng tối với những trò ma giáo…
        - Trò ma giáo là trò gì vậy ông?
        Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô. Ngập ngừng giây lát lão thở hơi dài lên tiếng.
        - Nó lập ra sáu ban mà tôi gọi là sáu đảng. Đó là thứ đảng trong đảng. Mỗi ban tượng trưng cho một cái búa bởi vậy thiên hạ mới cho nó cái tên Sáu Búa. Sáu ban này là sáu cái búa đập đầu những kẻ chống lại nó; là sáu sợi dây thòng lọng xiết cổ, trói tay chân tôi, thủ hạ của tôi và tất cả các đảng viên cao cấp trong bộ chín chị và luôn cả cấp bí thư tỉnh nữa… Như Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng thời Sáu Búa cho Trần Quyết trông coi. Ban Nội Chính Trung Ương Đảng thì thằng Hoàng Thao làm trưởng ban. Ban Bảo Vệ Bộ Chín Chị thì thằng Nguyễn Đình Hưởng làm xếp. Ban Chỉ Đạo Trung Ương Đảng dành cho Nguyễn Đức Tâm. Thằng Nguyễn Trung Thành đứng đầu Ban Bảo Vệ Đảng. Riêng Cục Chính Trị Trung Ương Đảng để cho thằng Kim Chi làm xếp. Sáu ban này có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi hành vi của các ủy viên trung ương đảng. Nó có quyền thẩm tra các ủy viên bộ chín chị. Nó xem xét tư tưởng và quan điểm chính trị của các đảng viên được chọn vào ban chấp hành trung ương đảng, vào bộ chính trị, vào quốc hội và các cơ quan của nhà nước. Riêng trong quân đội thằng Sáu còn đặt ra Ban Bảo Vệ Cục Chính Trị trực thuộc Cục An Ninh Bộ Nội Vụ để giám sát tư tưởng và hành vi mọi sĩ quan cao cấp ở bộ quốc phòng, bộ tổng tham mưu xuống tới quân khu, sư đoàn và luôn cả trung đoàn nữa…

        Kể lể một hơi thật dài lão Hình ngừng lại uống ngụm nước cho thông cổ. Nhân cơ hội Thôi Phán Quan bước tới chỗ Sáu Búa đang ngồi.
        - Ông có phản biện những gì bác của ông nói không?
        Sáu Búa lắc đầu cười.
        - Tôi cũng như thiên lôi vậy mà. Xếp bảo tôi búa ai tôi búa người đó liền…
        - Xếp của ông là ai?
        Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi bên cạnh vị trưởng ban tổ chức trung ương đảng cười cười.
        - Thưa ngài biện lý tôi được bác đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của anh Ba…
        Ba Duân cười hực.
        - Tui chỉ đạo nó hay nó chỉ đạo tui. Nó là xếp của tui đó… Mới đầu tui cho nó làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng rồi nó tổ chức làm sao mà tới chừng biết ra tui chỉ biết cắn răng và bóp hai hòn bi của mình cho khỏi tức tối… Nó tổ chức người của nó giám sát cả tôi nữa. Nó đưa đàn em, tay chân bộ hạ của nó vào làm ủy viên trung ương đảng…
        Phạm Văng Vàng vọt miệng xen vào.
        - Có lần Anh Ba than với tôi như vầy: '' Nhân sự trung ương khóa 4, khóa 5 tôi chỉ biết một phần ba còn hai phần ba ở đâu ra tôi chẳng biết cái gì…''
        Đợi cho Phạm Văng Vàng dứt lời, Ba Duân mới thong thả thốt.
        - Nói đúng ra thì chú Sáu làm việc có lợi cho chú ấy và cho tui nữa… Có lợi cho cả hai…
        - Sáu Búa làm cái gì lợi cho ông?
        Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Thấy Ba Duân dụ dự không chịu trả lời ông ta cười.
        - Ông biết điều nên khai thật trước tòa. Tôi nắm bắt được bằng chứng và nhân chứng về các điều mà ông với Sáu Búa đã làm…
        Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta đang soi mói nhìn mình, vị bí thư thứ nhất thở dài thốt.
        - Sáu Búa nói với tôi như vầy: '' Tôi làm là vì lợi lộc của anh và tôi…''
        - Hắn làm cái gì lợi cho ông?
        Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình. Ba Duân cười cười.
        - Biết tôi thích '' ấy '' nên chú Sáu luôn luôn thỏa mãn nhu cầu của tôi. Hổng biết chú ấy kiếm ở đâu mà tuyển vào cung của tôi nhiều cô '' cần vụ '' ngon ơi là ngon. Mới đầu vì thể diện của đảng nên tôi thoái thác thì chú Sáu nói là để anh Ba thoải mái hầu sống lâu đặng phục vụ nhân dân. Mấy cô cần vụ chuyên nghề đấm, bóp này thiệt giỏi, đụng tới đâu tê tới đó…
        Cười mím chi Thôi Phán Quan hắng giọng.
        - Tôi có nghe đồn ông được một cô đấm, bóp làm cho ngất ngây, sướng tê người nên ông đã ký giấy tặng cho cô đấm bóp này hai căn nhà ở tại thủ đô Hà Nội. Điều này có thực không?
        - Hổng có đâu… hổng có đâu… Tui đâu có làm chuyện kỳ cục đó…
        Thôi Phán Quan cười hực.
        - Cô Hồng đấm, bóp cho ông làm chủ hai căn nhà một ở Kim Liên và một ở Bách Khoa đang ngồi dưới kia. Ông muốn tôi kêu cô ta lên đây đối chất?
        Ba Duân ú ớ rồi làm thinh. Bỏ bị can Ba Duân, vị biện lý bước tới chỗ Hình Chí Mô ngồi.
        - Tôi nghe đồn khi đề cử Ba Duân vào chức bí thư thứ nhất thì ông rảnh rang lắm…
        Hình Chí Mô cười cười không nói gì hết. Thật lâu lão mới thong thả lên tiếng.
        - Chú Ba và chú Sáu nó nói tôi một đời bôn ba cách mạng, gian khổ nhiều rồi, nên lúc này rảnh rang tôi hãy hưởng thụ tuổi già còn lại trước khi về với ông Mác. Bởi vậy mà hai chú ấy ít khi cho tôi tham dự các cuộc họp của bộ chín chị. Họa hoằn lắm tôi mới được đi họp mà trong các buổi họp hể tôi mở miệng định nói thì chú Sáu ngồi kế bên lại lên tiếng rầy: '' Bác nói nhiều rồi nên để người khác nói…'' Tuy nhiên chú Sáu cũng điệu nghệ lắm. Biết tôi tuổi già mà còn sung sức, còn ham cái vụ ấy nên chú săn sóc kỹ lắm. Nắm chức trưởng ban tổ chức trung ương đảng, chú Sáu cử vệ sĩ bảo vệ tính mạng cũng như bác sĩ chăm sóc sức khỏe và tẩm bổ cho tôi hằng ngày… Biết tôi ở tuổi hồi xuân nên chú ấy phái mấy cô cần vụ vào phủ chủ tịch đấm bóp để giải tỏa bầu tâm sự…
        Đang ngồi bên kia Phạm Văng Vàng chợt lên tiếng nói với Thôi Phán Quan cốt ý ngắt lời Hình Chí Mô.
        - Bác của tôi bây giờ già rồi. Nhiều lúc nói năng kể lể lẩm cẩm lắm. Chúng tôi muốn cho ông ta sống để vui thú thê nhi và được nhìn thấy đất nước thống nhất, nhưng chúng tôi cố gắng giấu không cho ông ta biết càng nhiều chi tiết chừng nào càng tốt chừng đó…
        - Ông nói chúng tôi là ai?
        Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa, Phạm Văng Vàng cười trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.
        - Thưa ngài biện lý… Chúng tôi là anh Ba, anh Sáu, anh Năm, ông Tố và tôi…
        Ngồi dưới bàn bị can Tố Bồi Bút chợt chỏ miệng lên nói lớn.
        - Ông cụ bây giờ lẩn cẩn rồi nên ngoài cái chuyện ấy ông cụ dành thì giờ viết văn và làm thơ…
        Đang ngồi lim dim ngủ nghe nói tới chuyện văn thơ, Diêm Vương chợt mở mắt ra và sắm nắm hỏi.
        - Thế à… Thằng Hình mà cũng viết văn làm thơ nữa à… Nó quả là một nhân tài hiếm có… Đâu ngươi lên ghế nhân chứng ngồi kể chuyện văn chương của bác ngươi cho ta nghe coi…
        Được Diêm Vương cho phép, Tố Bồi Bút cười hể hả lên ngồi vào ghế nhân chứng.
        - Bẩm Diêm Vương… Bác của con là một thi sĩ đại tài. Vì mãi lo chuyện cách mạng nên không có dịp làm thơ, chứ nếu mà bác chịu khó làm thơ thì không sút Lý Bạch hay Đỗ Phủ đâu… Bác của con mà làm thơ và viết văn thì sẽ được người ta khen như vầy: '' Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán. Thi xụp Tùng Tuy, nát Thịnh Đường…''
        Thôi Phán Quan nhếch môi cười khi nghe ông văn nô họ Tố nâng bi lãnh tụ. Còn Diêm Vương thì lên tiếng.
        - Ngươi đúng là thằng chuyên môn bợ… Đâu ngươi đọc văn của thằng Hình cho ta nghe xem có lọt lỗ tai không mà ngươi dám nói là '' văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán…''
        Được Diêm Vương cho phép Tố Bồi Bút cao giọng kể.
        - Một bữa nọ bác cho bảo vệ mời con vào trong phủ chủ tịch ăn cơm và sẵn đó bác đem khoe bản thảo một tập hồi ký kể lại thời hoạt động cách mạng. Con đọc lướt qua và có nhớ một truyện ngắn như thế này. Trong lúc đi kháng chiến bác tình cờ quen với một cô nữ sinh ở trong nam ra thăm viếng bác. Không biết mối quan hệ tình cảm giữa bác với cô nữ sinh đó như thế nào mà thời gian sau bác nhận được lá thư của cô nữ sinh từ trong nam gởi ra. Nguyên văn của lá thư như thế này: '' Hôm ấy, bác đòi thảo luận với con về chuyện ấy. Tuy nhiên sau khi đả thông tư tưởng để kiên định lập trường, bác muốn ấy mà con thì con chưa sẵn sàng chuyện ấy nên con hổng có muốn ấy. Bây giờ con muốn ấy rồi. Nếu bác muốn ấy thì xin bác vô trong nam mà ấy…'' Bẩm Diêm Vương ngài nghe có lọt lỗ tai không?
        Diêm Vương gật gù cười.
        - Không những lọt lỗ tai mà điếc con ráy của ta nữa… Ngươi với thằng Hình sao giống nhau quá. Ngươi làm thơ thì có chữ chục chữ '' thương '' còn thằng Hình viết văn thì cũng ngần tiếng '' ấy ''…
        Hỏi xong thấy Hình Chí Mô giơ tay lên xin nói, Diêm Vương chưa kịp cho phép lão ta nói thì Sáu Búa, ngồi bên cạnh đã lên tiếng trước.
        - Bác nói nhiều rồi nên để cho người khác nói…
        Nói xong câu đó thấy Hình Chí Mô vẫn mấy máy môi, Sáu Búa vội vàng đưa tay ra bịt mồm của lão ta lại. Thấy cử chỉ '' tôn trọng quyền ăn nói '' của Sáu Búa, Diêm Vương chỉ cười liếc Thôi Phán Quan trong lúc giọng của Tố Bồi Bút vang đều đều.
        - Bẩm Diêm Vương… Cái đó tiếng Việt của con gọi là hai tâm hồn đồng chí gặp nhau trong ánh sáng của xã hội chủ nghĩa…
        - Ủa mà sao ta hổng nghe ngươi nói cái tựa của tập hồi ký của thằng Hình…?
        - Bẩm Diêm Vương… Bác vốn tính khiêm nhường lắm. Con hỏi mấy lần bác mới chịu nói. Bác bảo tựa của tập hồi ký là '' Cái Ấy Của Bác Vừa Đi Vừa Gật Gù ''. Tuy nhiên vì cảm thấy cái tựa quá duy vật và quá hiện thực, con đề nghị bác đổi cái tựa thành Vừa Đi Vừa Gật Gù. Như vậy có vẻ văn chương và lãng mạn hơn…
        Cười cười Diêm Vương hỏi lại họ Tố.
        - Ủa… lãng mạn là của tụi tiểu tư sản bày ra mà sao lại có trong văn thơ bác ngươi vậy?
        Tố Bồi Bút đớ người khi bị Diêm Vương đá giò lái. Hắn ta chưa kịp lên tiếng, Thôi Phán Quan cười cười xen vào câu chuyện.
        - Bác của ông đúng là nhà văn siêu thực và siêu duy vật. Thật đúng với câu '' Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán ''… Thế rồi bác có viết thư hồi âm cô nữ sinh miền nam không?
        Tố Bồi Bút nhanh nhẩu đáp.
        - Có chứ… Thư hồi âm của bác dài lắm. Bác viết rồi mà chưa gởi vì lúc đó tình hình trong nam sôi động lắm nên thư từ đi lại khó khăn. Vì vậy mà con mới có dịp để đọc lá thư tình đẫm lệ của bác. Thư hồi âm của bác như thế này.
        - Cháu ấy…
        Thấy Diêm Vương nhìn mình, Tố Bồi Bút hiểu ý cười giải thích.
        - Bẩm Diêm Vương… Chính con cũng théc méc về từ '' Cháu ấy '' này. Số là mấy chục năm bôn ba cách mạng, bác quen biết nhiều phụ nữ quá nên bác hổng nhớ hết tên. Vả lại bác bảo đối với '' cháu gái miền nam '' này vì thảo luận chuyện ấy chưa sâu nên bác quên tên rồi. Ngoài ra cô em gái miền nam viết thư chỉ nói về chuyện ấy nên bác phải viết '' Cháu ấy '' cốt ý nhắc nhở cho cô ta về chuyện ấy…
        Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.
        - Bác của ngươi làm cách mạng gì mà tối ngày ta cứ nghe nói toàn chuyện ấy. Ta đề nghị đổi tên bác của ngươi ra Bác Ấy hay Cụ Ấy… Thôi bỏ qua chuyện viết văn. Ta muốn ngươi đọc thơ của bác ngươi cho chín vị bồi thẫm nghe…
        - Bẩm Diêm Vương… Ngài mà nghe con đọc thơ của bác xong ngài tưởng như mình đang ở trên thiên đường xã hội chủ nghĩa. Số là hồi lúc mới qua bên Tây làm cách mạng, bác của con hành nghề thợ nháy…
        - Nó nói cái gì vậy tụi bây?
        Diêm Vương ngơ ngác hỏi nhỏ mấy người đang ngồi chung quanh kể cả bốn nhân chứng và hai bị can. Phạm Văng Vàng lên tiếng trước nhất.
        - Bẩm Diêm Vương… Thợ nháy là phó nháy hay phó nhòm là thợ chụp hình đó…
        Vị vua âm phủ hừ tiếng nhỏ.
        - Lũ ngươi thiệt là lắm chuyện… Chụp hình thì nói đại đi còn chế ra nào thợ nháy, phó nháy, phó nhòm… Thôi thằng Tố kể tiếp chuyện bác của ngươi làm thơ đi…
        - Bẩm Diêm Vương… Lúc mới qua tây chẳng có nghề ngỗng gì hết nên bác đi làm thợ chụp ảnh… dạ chụp hình… Rồi bác quen một cô đầm tên Marie Bière. Hai người hò hẹn với nhau và con nghĩ chắc có quan hệ luyến ái nên bác mới làm bài thơ tặng cho cô đầm đó. Bài thơ dài lắm mà vì đọc thoáng qua nên con chỉ nhớ có đoạn đầu… Bẩm Diêm Vương bài thơ như vầy:

        - Marie ơi !!!
        Anh thấy trong mắt em
        Một thân hình thiên tả
        Anh thấy giữa đùi em
        Một cái gì quá đã…

        Em Marie ơi
        Nhìn vào mắt em
        Anh thấy
        Chiều Paris mưa rơi tầm tả
        Nhìn sâu xuống chút nữa
        Anh chợt cười ha hả
        Ôi giai cấp vô sản
        Ôi xã hội chủ nghĩa
        Cũng chưa bằng '' cái ấy của em '' đâu…


        Có tiếng Đán cười sằng sặc dù anh đã bụm miệng cố không cho tiếng cười phát ra. Quay qua Huyền, Bình lại thấy cô bạn gái đỏ mặt tủm tỉm cười một mình. Trông lên anh thấy Diêm Vương lắc đầu quầy quậy, còn Thôi Phán Quan thì quay mặt sang chỗ khác để giấu nụ cười.
        - Bẩm Diêm Vương… Ngài nghĩ sao về bài thơ hiện thực và tả chân cẳng của bác con. Bác có đáng liệt hàng thi bá như Nguyễn Du không?

        Hỏi xong thấy Diêm Vương đang trợn mắt nhìn mình, Tố Bồi Bút cười phang một câu.
        - Bác con còn làm nhiều bài thơ khác hay lắm…
        Diêm Vương lắc đầu quầy quậy.
        - Thôi cám ơn… Bác của ngươi viết văn thì viết chuyện ấy, còn làm thơ thì cũng có cái ấy của em... Ta mà nghe thơ tình thiên tả của thằng Hình riết chắc ta sẽ mắc bệnh thổ tả…
        Nói xong thấy đã tới giờ ông ta ra lệnh ngưng phiên xử cho mọi người đi ăn trưa xong sẽ tiếp tục đúng hai giờ chiều.

        Comment


        • #19
          19

          Vô ác bất tác


          - Muốn thay thế bác lên làm tổng bí thư nên tui với chú Sáu vẽ ra cái vụ xét lại chống đảng. Nửa đêm chú Sáu cho công an bắt Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang và nhiều người lắm mà chính tui cũng chả biết họ có tội gì nữa. Ngoài ra chú Sáu sai đàn em lục lạo trong văn khố của thực dân Pháp tìm ra được lá thư của '' thằng lùn '' hồi còn nhỏ làm đơn xin với tụi thực dân cho đi học trường tây. Thế là tụi tui phao truyền để bêu xấu '' đại tướng lùn ''. Sau một cuộc bỏ phiếu mật tụi tui loại Võ đại tướng ra khỏi bộ chín chị và cho ông ta ở nhà nựng cô vợ trẻ. Không có mặt ông tướng lùn, tui với Sáu Búa, anh Năm Thận và tướng Dũng, từ năm 1963 bắt đầu phác họa cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân …
          Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Ba Duân.
          - Ông xác nhận chính ông, Sáu Búa, Năm Thận và đại tướng Dũng chính thức chỉ đạo cuộc tổng công kích Mậu Thân…
          Quay đầu nhìn về phía Diêm Vương đang ngồi chênh chếch sau lưng của mình, Ba Duân hỏi.
          - Bẩm Diêm Vương… Con có phải trả lời câu hỏi này?
          Vị vua của âm phủ mỉm cười buông giọng lửng lơ.
          - Ngươi nói ra thì tốt, nhược bằng không nói cũng hổng có vấn đề…
          Ba Duân hơi có vẻ suy nghĩ về câu nói chứa ẩn ý của Diêm Vương. Liếc qua phía bên kia thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn mình để chờ nghe câu trả lời, hắn biết là sớm muộn gì cũng phải nói ra.
          - Chủ trương thôn tính miền nam bằng súng đạn nên tui đã lập một ủy ban gồm nhiều đồng chí thân tín. Phe dân sự thì có tui, chú Sáu, anh Năm, anh Tô và anh Tố. Còn phe quân sự thì có tướng Dũng và bộ tham mưu của ông ta. Phải mất thời gian dài, ủy ban mới đúc kết được một kế hoạch tổng công kích và tổng nổi dậy vào đầu năm 1968. Lực lượng tham chiến đa số gồm Giải phóng quân miền nam và một ít bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tất cả cộng lại khoảng 100 tiểu đoàn, tức độ 100 ngàn người, đồng loạt mở cuộc tấn công vào 36 thủ phủ, 5 thành phố và 64 tỉnh lỵ của tụi ngụy…
          Nói tới đó Ba Duân ngừng lại uống ngụm nước cho thấm giọng rồi cười nói với Thôi Phán Quan.
          - Một điều buồn cười là đám lãnh tụ của ngụy quá khờ khạo, tin vào chuyện hưu chiến. Nó quên mất câu '' binh bất yểm trá '' nên quan lớn, quan nhỏ, lính tráng đều lo ăn tết và say sưa nhậu nhẹt tưng bừng… Bởi vậy khi bộ đội vào thành chúng hoảng hồn la làng chói lọi… Phải nói tướng Dũng với bộ tham mưu của ông ta đã vẽ kế hoạch và thực hiện cuộc tổng công kích và tổng nổi dậy đúng như ý của tui muốn…

          Ba Duân ngừng lại như để suy nghĩ và sắp xếp lời nói. Phòng xử im lặng như tờ vì mọi người hầu như nín thở để nghe những chi tiết chưa hề được tiết lộ từ cửa miệng của nhân vật nắm quyền lãnh đạo hai mươi ba năm ở miền bắc từ năm 1963 cho tới 1986.
          - Lực lượng tham chiến chính gồm 100 tiểu đoàn của quân giải phóng miền nam được điều động như sau. 35 tiểu đoàn và 18 đại đội tấn công Vùng 1; 28 tiểu đoàn đánh Vùng 2; 15 tiểu đoàn đồng loạt tập kích Vùng 3 và 19 tiểu đoàn quấy phá Vùng 4 chiến thuật của ngụy. Triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ, tụi tui giữ bí mật tới giờ phút chót cũng như dùng kế dương đông kích tây giả vờ pháo kích Khe Sanh và xử dụng bộ đội chính qui tấn công cứ điểm này để đánh lạc hướng của tụi Mỹ Ngụy…
          - Tôi nghe nói là chính các ông đề nghị hưu chiến ba ngày tết. Đúng không?
          - Đúng… Tụi tui tuyên bố hưu chiến trước và tụi Mỹ Ngụy khờ quá nên tin tưởng vào lời tuyên bố này. Cho tụi nó học bài học mới khôn ra. Sau này Thiệu nói được một câu nghe lọt lỗ tai lắm. '' Đừng có tin những gì tụi tui nói mà hãy nhìn những gì tụi tui làm…''
          Ba Duân cười hì hì nhìn Thôi Phán Quan giây lát xong tiếp lời.
          - Tui chỉ đạo cuộc tổng công kích nhưng điều động các đơn vị chiến đấu thì thuộc phần của tướng Dũng. Ông muốn biết chi tiết thì phải hỏi ông ta…
          Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta gật đầu, Thôi Phán Quan bèn mời tướng Dũng lên ngồi vào ghế nhân chứng.
          - Theo như lời của Ba Duân thì ông là người chịu trách nhiệm về phần quân sự của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân?
          - Chính tôi…
          Văn đại tướng trả lời gọn.
          - Xin hỏi ông lúc đó Võ đại tướng đang ở đâu?
          - Ổng đang chữa bịnh ở nước Hung…
          Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan nói bằng giọng lịch sự.
          - Tôi nghe đồn các ông dùng mật lệnh…
          Nhẹ gật đầu Văn đại tướng hắng giọng.
          - Đúng đêm trừ tịch trước giờ giao thừa, bài thơ chúc Tết của bác được phát thanh trên đài Hà Nội. Nó chính là mật lịnh được truyền đi khắp hai miền bắc nam báo hiệu cuộc tổng công kích bắt đầu…
          - Ông còn nhớ bài thơ?
          - Thưa tôi nhớ chứ. Đó là bài thơ 28 câu như vầy:

          - Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
          Thắng trận tin vui khắp nước nhà
          Nam bắc thi đua đánh giặc Mỹ
          Tiến lên toàn thắng ắt về ta…


          Nghe xong hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi Diêm Vương nói với Đán.
          - Hình Chí Mô cũng dính dáng vào vụ thảm sát thường dân vô tội Tết Mậu Thân à. Vậy mà ta hỏi nó thì nó chối leo lẻo, bảo rằng không biết gì. Nếu không biết thì tại sao nó lại ra mật lệnh tổng tấn công bằng cách đọc bài thơ chúc tết… 9 vị bồi thẫm nên ghi nhớ điều đó khi thảo luận về hình phạt dành cho Hình Chí Mô…

          Nói xong Diêm Vương ra lệnh cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử. Bước về bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ dày cộm, vị biện lý của âm phủ tới đứng trước chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi. Giọng nói của vị đại diện cho luật pháp của âm phủ vang rền trong phòng xử chứa mấy ngàn người.
          - Kính thưa 9 vị bồi thẫm… Âm phủ chúng tôi, sau thời gian tìm kiếm đã sưu tập và đúc kết một hồ sơ về tội ác của đảng cộng sản Việt Nam vào thời gian mà hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Tội ác của chúng nếu kể ra thì nhiều vô số kể, cho nên tôi tạm thời qui vào năm biến cố của lịch sử Việt Nam. Đó là vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968, vụ bắn giết thường dân ở Quảng Trị được mọi người biết tới qua tên Đại Lộ Kinh Hoàng. Thứ ba là sau khi cưỡng chiếm được miền nam bằng súng đạn, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với các đồng chí thân cận đã bỏ tù, đày ải hơn nửa triệu người vào các trại tập trung và cải tạo. Ăn cướp của dân lành, lưu đày dân chúng đi Vùng Kinh Tế Mới, bọn chúng đã khiến cho hàng trăm ngàn người chết vì đói và bệnh tật. Thứ tư là với tham vọng điên cuồng, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với đám tướng tá trong quân đội đã nướng hơn 50 ngàn binh sĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược nước láng giềng Cao Miên. Thứ năm với chủ trương ăn cướp miền Nam sau năm 1975, với tiêu đề đánh tư sản mại bản, chúng xua, chúng đuổi một triệu dân lành ra đại dương để đi tìm tự do vì họ không thể sống dưới chế độ độc tài vô nhân của cộng sản. Không ai biết đích xác bao nhiêu người đã chết trên biển cả. Danh từ '' thuyền nhân '' trở thành một thảm họa kinh khiếp đồng thời cũng là một vết nhơ cho dân tộc Việt Nam. Hơn bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và mở nước, dân Việt Nam chưa bao giờ phải bỏ nước ra đi một cách ồ ạt và sợ sệt như khi cộng sản thôn tính cả ba miền nam trung bắc. Nói tới cộng sản trước tiên người ta phải nhắc tới tội ác, không phải của cá nhân mà là một '' tập thể các đồng chí '' xem sự giết người như một phương tiện để thực hiện mục đích và tham vọng thống trị của mình. Để dễ dàng cho bồi thẫm đoàn cũng như tất cả mọi người theo dõi, tôi xin nêu ra đây tội ác thứ nhất của hai tên Ba Duân và Sáu Búa…
          Ngừng lại giây lát, Thôi Phán Quan cao giọng tiếp.
          - Thứ nhất trong vụ tổng công kích đợt 1, 2 và 3, có hơn 100 ngàn người chết bao gồm thường dân vô tội và binh sĩ của hai phe. Đó là tôi chưa kể tới những người bị thương tật và tài sản của dân chúng đã bị hủy hoại…
          Ngừng lại uống ngụm nước, Thôi Phán Quan nhìn hai bị can rồi hỏi một câu.
          - Tôi nghe đồn là hai ông ghét người miền nam lắm. Đúng không?
          Ba Duân và Sáu Búa nhìn nhau. Dĩ nhiên chúng biết mặc dù nói '' nghe đồn '' song Thôi Phán Quan đã biết rõ điều đó. Cuối cùng Ba Duân lên tiếng.
          - Tôi nhìn nhận là tôi không ưa dân nam bộ trừ…
          - Trừ cái gì?

          Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Ba Duân cười nhẹ.
          - Trừ đàn bà con gái… Phụ nữ nam bộ đẹp, hiền, ngây thơ và thành thật. Họ hổng có lém lỉnh nên mình dễ gạt họ hơn… Nói đúng ra thì dân nam bộ hổng có thủ đoạn nên dễ bị tui gạt…
          - Trong cuộc tổng công kích năm 1968, hy sinh hơn 100 ngàn bộ đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông nghĩ là ông thắng hay bại. Ông gặt hái được kết quả gì?
          Trầm ngâm giây lát Ba Duân thong thả trả lời.
          - Chuyện này xảy ra đã lâu rồi nên tôi cũng chẳng muốn giấu diếm hoặc che đậy làm gì. Tui đã tính kỹ lắm khi mở ra cuộc tổng công kích năm 68. Đó là một mũi tên bắn ba con chim… Đầu tiên là nướng hết bộ đội chủ lực của phe Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam…
          - Ông nướng hết các đồng chí nam bộ của ông với mục đích gì?
          Ba Duân cười cười liếc nhanh Hình Chí Mô rồi từ từ lên tiếng.
          - Tui sợ tụi nó làm loạn với lại đòi chia quyền sau khi lấy được miền nam. Bởi vậy tui với chú Sáu phải tiên hạ thủ vi cường… Sau khi tổng công kích đợt 3 xong là tui đưa quân miền bắc vào thay thế và giám sát chặt chẽ đám Nguyễn Hữu Thọ. Thằng nào lạng quạng là bị chích thuốc chết liền… Thứ nhì là quân của ngụy đánh với quân giải phóng thì đứa nào cũng ngất ngư còn tụi tui đứng ngoài vỗ tay mừng chiến thắng. Phần đế quốc Mỹ thì sau vụ Mậu Thân, phong trào phản chiến lên cao khiến cho dân chúng chán nản chiến tranh không còn muốn chánh phủ Mỹ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nữa…

          Ngồi bên kia Sáu Búa chợt bật lên tiếng cười thích thú lẫn mỉa mai.
          - Mấy thằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam khờ ơi là khờ. Còn tụi lính ngụy cũng dễ tin mà tụi đế quốc Mỹ lại còn ngây thơ hơn nữa… Để tôi nói cho ông nghe như thế này. Mặt trận giải phóng miền Nam có hơn 100 ngàn quân. Nếu tụi nó đòi ly khai, đòi độc lập với bác và đảng hoặc khi lấy được miền Nam rồi tụi nó đòi chia ghế chia quyền thì chúng tôi đâu có làm gì được. Bởi vậy chúng tôi mới dàn dựng ra vụ tổng công kích để nướng hết bộ đội miền nam rồi sau đó gởi quân miền bắc vào kiểm soát hết hổng cho tụi nó cục cựa gì được. Còn tụi ngụy thì tuy chúng tôi không gây thiệt hại nặng về quân lực song cũng làm cho nó bị khó khăn nhiều về mặt kinh tế và tinh thần. Ngoài ra vụ tổng công kích đã gây tiếng vang lớn trong dân Mỹ khiến cho họ thôi ủng hộ chính phủ kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược phe xã hội chủ nghĩa. Ông thấy cách một mũi tên bắn ba con chim của chúng tôi có kết quả mỹ mãn chưa, mặc dù chúng tôi phải thí hơn 100 ngàn bộ đội của Mặt trận. Cá nhân tôi với anh Ba không ưa mấy thằng nam bộ, do đó dù phải nướng hơn trăm ngàn thằng mà thu được lợi lớn thì tội gì chúng tôi không làm…

          Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.
          - Chắc ông biết vụ Đại Lộ Kinh Hoàng?
          Ba Duân cười cười xì tiếng dài.
          - Kinh cái gì mà kinh… Tụi ngụy nó thổi phòng lên đó ông ơi… Bộ đội chỉ bắn chết có chừng chục ngàn dân mà tụi nó la om xòm…
          - Theo như tôi biết thì chục ngàn dân đó là dân Quảng Trị, đồng hương với ông…
          Ba Duân lắc đầu.
          - Tôi hổng có quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng hương gì hết. Tui chỉ biết có đảng… Đám dân đó đáng lẽ khi bộ đội về thành thì họ phải ở lại hợp tác và ủng hộ bộ đội. Đằng này bộ đội chưa tới họ đã chạy về phía ngụy. Như thế là họ ủng hộ mỹ ngụy. Bởi vậy bộ đội mới bắn họ… Riêng vụ tù cải tạo thì như thế này. Ông nghĩ coi có ai khờ khạo và ngây thơ như đám quân dân cán chính của ngụy không. Đi ở tù mà tụi nó còn mang theo quần áo, chăn chiếu và tiền bạc. Bộ tụi nó tưởng đi nghỉ hè à…
          - Tôi nghe một tin đồn là khi có người hỏi ông xử trí cách nào với những kẻ thua trận của miền nam thì ông làm như vầy…
          Thôi Phán Quan đưa tay lên cứa ngang cổ của mình xong nghiêm giọng hỏi.
          - Dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?
          Ba Duân làm thinh giây lát mới cười thốt.
          - Tui đùa cho vui vậy mà…
          Không cười, Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.
          - Tôi hỏi ông dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?
          Liếc nhanh Diêm Vương đang hầm hè nhìn mình, Ba Duân gắng gượng trả lời câu hỏi.
          - Dấu hiệu đó có nghĩa là cắt cổ, là giết chết…
          Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.
          - Giết chết mấy trăm ngàn người. Bộ ngươi điên à?
          Liếc nhanh Sáu Búa đang ngồi im suy nghĩ, Ba Duân lắc đầu.
          - Bẩm Diêm Vương... Con hổng có điên mà con làm đúng theo lời bác và đảng đã dạy. Chẳng thà giết lầm hơn tha lầm. Chẳng thà bỏ tù lầm một triệu thằng ngụy còn hơn tha lầm mấy chục ngàn. Với lại tụi nó sống tự do và no ấm hai chục năm rồi thì ở tù vài năm đâu có sao...
          Nghe Ba Duân nói Diêm Vương lắc đầu ngao ngán. Hướng về phía chín vị bồi thẫm ông ta nói lớn.
          - Lũ bây toàn ăn nói ngược ngạo. Ở âm phủ của ta đây thì '' thà tha lầm mười người còn hơn bỏ tù lầm một người ''. Còn ở cái xứ độc tài đảng trị của lũ bây thì lại nói '' chẳng thà bỏ tù lầm mười người còn hơn tha lầm một người ''. Ngươi với thằng Trật Búa hay Sáu Búa gì đó thì tội ác ngập đầu. Tiếng người ta nguyền rủa, than oán về hai ngươi đã động tới thiên đình. Ông trời nghe hoài nhức đầu quá khiến ổng nổi giận mới ra lệnh cho ta bắt ngươi và thằng Sáu Búa xuống âm phủ sớm hơn mười lăm năm...

          Tuy muốn nói nữa song bắt gặp cái nháy mắt ra hiệu của Thôi Phán Quan, Diêm Vương cười nhẹ gật đầu phán.
          - Sau đây ta xin nhường lời lại cho Thôi Phán Quan...
          Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi vị biện lý của âm phủ cao giọng.
          - Theo luật lệ của âm phủ thì tội giết người được chia ra hai loại. Đó là cố sát và ngộ sát. Ngộ sát hay giết người vì tự vệ hoặc lầm lỡ mà làm thiệt mạng của người khác, tội này tuy bị phạt song cũng được luật pháp giảm án nặng nhẹ tùy theo tội trạng và hoàn cảnh. Riêng tội cố sát hay cố ý giết người thì âm phủ có hình phạt rất khắt khe dành cho những kẻ nào chủ mưu giết người...

          Quay nhìn về phía bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.
          - Thú dữ còn không ngoảnh mặt với đồng loại của nó. Như con khỉ, khi con cái chết nó còn biết thương xót. Người xưa có câu '' Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ...''. Hai bị can Ba Duân và Sáu Búa, là người có ăn học; tuy nhiên chỉ vì tuân thủ theo các giáo điều của cộng sản đâm ra mất nhân tính; vì vậy đã dàn dựng cũng như chủ mưu cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân gây tang tóc và đau thương cho hàng triệu người khắp hai miền nam bắc. Chúng ra lịnh cho những kẻ thuộc quyền sát hại hàng chục ngàn đồng bào vô tội ở Huế. Căn cứ vào những tài liệu mà âm phủ đã thu thập được, chỉ riêng ở Huế, trong vòng 24 ngày chiếm đóng, hai bị can đã truyền lịnh bắn tại chỗ hai ngàn người. Ngoài ra người ta còn tìm được hơn hai ngàn tử thi thường dân trong những hố chôn tập thể rải rác khắp nơi trong thành phố Huế. Các hố chôn tập thể có từ năm ba người, có hố chôn hơn 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị cột chùm lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bị bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, bị chặt đầu, bị bắn vào ót, bị đập chết bằng bá súng, bị đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, bị trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống... Cách giết người dã man như vậy thật xưa nay chưa từng thấy...
          - Cái này là đám lính của Mặt Trận hoặc đám cộng sản nằm vùng làm càn chứ hai đứa tui đâu có ra lịnh như vậy...
          Ba Duân lên tiếng ngắt lời của Thôi Phán Quan. Cười hực, vị biện lý gằn giọng hỏi.
          - Ông nói là ông với Sáu Búa không có ra chỉ thị hả. Ông muốn tôi kêu người lên đây làm chứng...

          Ba Duân nín thinh. Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.
          - Điều tôi đưa ra đây sẽ chứng minh vụ thảm sát thường dân vô tội là do lệnh của hai bị can Ba Duân và Sáu Búa. Một đảng viên huyện ủy huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên, có bí danh Sơn Lâm bị bắt trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đã khai rằng, việc thảm sát tất cả dân lành vô tội trong vụ Tết Mậu Thân năm 1968 là do lệnh của Quân Ủy Trị-Thiên-Huế và cơ quan này nhận lệnh từ trung ương đảng. Ngoài ra một quản giáo trong trại cải tạo đã huênh hoang tuyên bố với các tù nhân: “ Các anh may mắn được cách mạng khoan hồng tha tội chết, vào đây thì phải biết ăn năn, học tập tốt để sớm trở về sum họp với gia đình. Tôi nói cho các anh biết, nếu năm Mậu Thân, chúng tôi thắng trận thì ba triệu ngụy quân, ngụy quyền và gia đình các anh đã bị giết theo lệnh của Hồ chủ tịch rồi... ”
          Nghe tới đó Hình Chí Mô giẫy nẩy lên.
          - Hổng có đâu... Oan cho tôi quá... Tôi đâu có ra lịnh bất nhơn như vậy... Chú Ba và chú Sáu ra chỉ thị hết trơn. Tôi nói mà nó còn bịt miệng hổng cho tôi nói thì sức mấy mà nó để cho tôi ra lịnh bắt giết ai... Ngay cái bài thơ chúc Tết mà tôi đọc trên đài phát thanh cũng của thằng Sáu làm đó...
          Quay qua chỗ Diêm Vương đang ngồi, lão Hình nói với giọng như phân trần.
          - Bẫm Diêm Vương... Năm 1969 thì con theo ông Mác về thiên đường. Đầu năm 1968, thì con đã già lắm, lú lẫn thêm bịnh hoạn, cho nên con đâu có biết hai chú ấy làm cái gì... Hai chú ác lắm... Ngay cả con mà hai chú còn chích thuốc cho chết sớm thì mấy chục ngàn quân dân của ngụy ở Huế bị hai chú ấy thảm sát thì con nghĩ chuyện ấy cũng không có gì lạ...
          Mọi người trong phòng xử nhao nhao lên khi nghe Hình Chí Mô hé mở một vài bí mật.
          - Đáng cái đời nhà ngươi...
          - Quả báo nhãn tiền mà...
          - Hắn giết không biết bao nhiêu đồng chí của hắn thì bây giờ đồng chí em út của hắn chích thuốc cho hắn sớm lên thiên đường cộng sản là phải rồi...
          Thiên hạ mỗi người nói một câu ồn ào cả phòng xử khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra lệnh cho mọi người im lặng. Đợi cho trật tự được vãn hồi xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt Ba Duân cùng với câu hỏi bật ra.
          - Tôi nghe đồn là sau khi cưỡng chiếm được miền nam năm 1945, ông và Sáu Búa có đề ra một chính sách mới lạ. Đúng không?

          Ba Duân gật gật đầu cười.
          - Chính sách này là một sáng tạo ưu việt của tui. Cái này tui gọi là chính sách Ba Xin...
          Nhìn Tố Bồi Bút, Diêm Vương hỏi gọn. Bình nhận xét thấy đối với tám bị can thì ông vua âm phủ có cử chỉ thân thiện với họ Tố hơn bảy người kia.
          - Lành... Hắn nói cái gì vậy?
          Cười cười họ Tố bắt đầu huênh hoang tuyên truyền.
          - Bẫm Diêm Vương... Dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê cũng như dưới sự chỉ đạo nổi bật của đảng, anh Ba đã đề ra chính sách Ba Xin, áp dụng cho dân nam bộ sau năm 1975... Cái xin thứ nhất là Xin Đi Ở Tù; thứ nhì Xin Đi Vùng Kinh Té Mới và thứ ba Xin Vượt Biên...
          Thôi Phán Quan và Diêm Vương nhìn nhau rồi sau đó vị biện lý của âm phủ mới lên tiếng hỏi.
          - Xin Đi Vùng Kinh Té Mới... Ông nói lầm hay tôi nghe lầm...
          Cười tủm tỉm như có điều gì đắc ý, Tố Bồi Bút thong thả đáp.
          - Thưa ngài biện lý... Tôi không nói lầm mà ngài cũng không nghe lầm đâu... Sở dĩ tôi nói Vùng Kinh Té Mới là có cái lý do của nó... Tuy nhiên ngài biện lý hãy để cho tôi nói về cái Xin Đi Ở Tù trước nhất. Dưới sự chỉ đạo anh minh và khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút đã ra một thông cáo là tất cả quân dân cán chính của ngụy phải trình diện để đi học tập '' mươi ngày '' xong sẽ được cho về xum họp với gia đình...
          Ai ai trong phòng xử cũng nghe tên Lành nhấn mạnh hai tiếng '' mươi ngày ''. Ngừng nói hắn bật cười hì hì như có vẻ thích thú điều gì.
          - Thông cáo vừa ra xong là đám quân dân cán chính ùn ùn rủ nhau đi ở tù...
          Trên môi vẫn còn nguyên nụ cười, Tố Bồi Bút nhỏ nhẹ thưa.
          - Bẫm Diêm Vương... Ngài thấy sự khôn ngoan và sáng suốt của anh Ba và anh Sáu chưa. Cái thông cáo của đồng chí Linh đã phỉnh gạt được luôn cả mấy thằng trí thức có hai ba cái bằng tiến sĩ nữa. Ngài cũng biết nếu muốn bắt bỏ tù hết hai ba triệu quân dân cán chính của ngụy không phải dễ. Lộ ra là tụi nó trốn hết bằng không cũng họp nhau làm loạn. Như thế sẽ có đánh nhau to. Để tránh tình trạng ngụy quân, ngụy quyền hô hào nổi dậy chống lại cách mạng, dưới sự chỉ đạo khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút chỉ cần ra cái thông cáo nho nhỏ là tụi lính ngụy cụ bị tiền bạc, quần áo, cơm nước xin đi ở tù...
          Diêm Vương lắc đầu ngắt lời Tố Bồi Bút.
          - Như thế là chúng mày gạt gẫm người ta. Mày hổng có xấu hổ à?
          Diêm Vương hỏi. Họ Tố cười hì hì.
          - Bẩm Diêm Vương... Gạt gẫm là nghề của đảng con mà. Tụi con gạt người ta nhiều quá rồi riết thành ra mặt dầy hổng có mắc cỡ, xấu hổ hay lương tâm cắn rứt gì hết. Bác đã dạy như thế. Nói láo, nói dóc, nói xạo, lường gạt, chôm chỉa, đối với bác là một nghệ thuật...
          Ông vua âm phủ lắc đầu than dài.
          - Thằng Lành mày nói chi lạ... Sống mấy ngàn tuổi mà ta chưa bao giờ nghe cái thứ nghệ thuật kỳ cục như bác của ngươi nói... Thôi để cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử hai thằng Ba và Sáu...
          Được lệnh của Diêm Vương, vị biện lý của âm phủ hướng về Ba Duân hỏi một câu.
          - Có bao nhiêu tù cải tạo chết vì cái dấu hiệu cứa cổ của ông?
          - Tôi không biết rõ lắm. Đối với tôi chuyện bỏ tù gần nửa triệu ngụy là cái chuyện nhỏ. Tụi nó sống hay chết là điều hổng đáng quan tâm. Tuy nhiên tôi có đọc bản báo cáo của đồng chí Mười Cút thì sơ sơ chắc cũng phải vài chục ngàn... Một số chết vì bệnh tật, một số chết vì kiệt sức do đói khổ hay nhiễm sơn lam chướng khí, còn một số bị bắn bỏ vì chống đối lại đảng và nhà nước... Thằng nào ngoan ngoãn thì tui ra lệnh các anh em đồng chí trực tiếp thụ lý vụ tù cải tạo cho tụi nó ở tù hai ba năm, thằng nào cứng đầu thì nhốt vô khám tối, còn cứng đầu nữa thì bắn bỏ...

          Diêm Vương hừ tiếng nhỏ chưa kịp lên tiếng thì Thôi Phán Quan đã nói thay.
          - Tôi có nghe người ta kể chuyện ông ra lịnh tử hình những người tù cải tạo...
          Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm, vị biện lý của âm phủ cao giọng như muốn nói cho họ nghe.
          - Sau đây tôi kính mời Diêm Vương cùng 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một câu chuyện thuật lại những hành động tàn ác của những người trông coi các trại cải tạo dưới thời hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Chuyện này do một người tù cải tạo tên Nguyễn Thiếu Nhẫn ghi lại và sẽ được vị lục sự của tòa đọc cho mọi người nghe...
          Thôi Phán Quan bước tới trao xấp hồ sơ cho vị lục sự. Giọng nói trầm bổng của ông ta vang vang trong phòng xử khiến mọi người đều nghe rõ.
          - Đó là một buổi chiều ảm đạm vào khoảng tháng 06/1977 ở trại giam Suối Máu thuộc thành phố Biên Hoà. Vào khoảng tuần lễ cuối tháng 03/1977, trung đoàn 775 tổ chức đợt học tập chính trị cho toàn thể trại viên Suối Máu. Giảng viên là tên trung tá chính uỷ với khuôn mặt xương xương, cặp mắt láo liên, đôi môi xám xịt che kín hàm răng ám khói thuốc lào. Năm ngày đầu tuần với những lên lớp, xuống lớp, thảo luận, thu hoạch làm cho những tù binh mệt mỏi, đầu óc trống rỗng. Những luận điệu một chiều cũ rích : « Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Lao động là vinh quang. Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm » lúc bổng, lúc trầm mà chính người nói cũng không hiểu mình định nói cái gì. Nhưng mà có cần gì, bởi lẽ tên trung tá chính uỷ cũng chỉ là một con ốc trong cái guồng máy cộng sản sắt máu. Ngày cuối tuần là ngày giải đáp thắc mắc về bài học vùng kinh tế mới. Dưới cái nóng hầm hập phả ra từ mái tôn, các tù binh mệt mỏi ngồi im như những pho tượng, mặc tình tên chính uỷ múa may hò hét, khoa tay khoa chân. Với điệu bộ lấc cấc, gương mặt đầy vẻ tự mãn, tên chính uỷ nhìn xuống đám đông qua chiếc kính đeo trễ gọng trên sóng mũi, rồi cất giọng the thé :
          - Thế này nhé : Trong thời gian gần 20 tháng qua các anh đã được đảng và nhà nước khoan hồng tạo điều kiện cho các anh học tập, lao động cải tạo, các anh cũng đã được gia đình thăm viếng, mỗi ngày các anh được xem « ti-di », sách báo. Nói tóm lại các anh đã được tiếp xúc và đã biết được phần nào về chủ nghĩa xã hội tốt đẹp. Là nguỵ quân, các anh đã lớn lên và sống trong chế độ tư bản xấu xa thối nát của miền Nam. Nay qua các bài học, các anh đã được sáng mắt, sáng lòng. Nếu anh nào còn có điều gì thắc mắc nêu lên tôi sẽ giải đáp...
          Toàn thể hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ thụp xuống chiếc bục. Mọi người nghe rõ tiếng sòng sọc của chiếc nõ cầy. Khói thuốc bay lên mù mịt. Tên chính uỷ đứng lên cho lệnh giải lao. Một sợi khói thuốc lào còn sót bay qua kẽ răng lúc y nói.
          Qua giờ thứ hai, khi lớp học tập hợp xong, bỗng từ phía cuối hội trường có tiếng xầm xì. Tên chính uỷ đứng trên bục giảng, gương mặt rạng rỡ như cô gái giang hồ đêm khuya ế khách bỗng chợp được một khách làng chơi say rượu thèm tình, y ngúc ngúc cái đầu với vẻ tự đắc :
          - Anh nào có gì thắc mắc thì cứ tự do phát biểu. Thế mới dân chủ bàn bạc. Tôi cho phép các anh nêu thắc mắc về mọi vấn đề ngoài bài học.
          Y đưa tay chỉ thẳng vào một người tù đang đưa tay che mũi :
          - Anh gì đấy, có gì thắc mắc cứ đưa thẳng tay lên xin phát biểu, có gì mà phải rụt rè thế. Nào, thắc mắc gì thì cho biết ?
          Người tù vừa được nói tới lúng túng đứng dậy, gương mặt anh ta nhăn nhó rất là khó coi :
          - Thưa cán bộ tôi không có gì thắc mắc. Nhưng ...
          Tên chính uỷ khuyến khích :
          - Cứ mạnh dạn phát biểu, chả ai bắt tội anh đâu.
          Người tù đưa tay gãi gãi đầu, khịt khịt mũi, nói :
          - Thưa cán bộ thiệt tình là tôi không có điều gì thắc mắc. Nhưng tôi có điều muốn trình bày nếu cán bộ cho phép...
          Tên chính uỷ cười hể hả :
          - Cứ nói đi, có gì mà phải phép tắc.
          Người tù lại gãi gãi đầu :
          - Thưa cán bộ, tôi nghĩ là cán bộ hiểu lầm tôi đưa tay xin phát biểu ý kiến. Sự thực là tôi đưa tay che mũi vì không biết có anh nào chột bụng hay sao đã đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

          Cả hội trường cười một cái rần. Tên chính uỷ tẽn tò nhưng y cũng không nín được cười. Y lầm bầm : « Thật chẳng ra làm sao cả ».
          Đợi hội trường yên lặng, anh ta lại hát bài hát cũ :
          - Thế nào ? các anh chẳng có gì thắc mắc cả sao ? Sĩ quan cả, có ăn học cả, chắc chắn các anh phải biết phân biệt tốt xấu giữa hai chế độ. Đảng ta là đảng chủ trương dân chủ bàn bạc. Các anh cứ nêu những ý kiến, thắc mắc. Giải đáp được tôi sẽ giải đáp. Không giải đáp được tôi sẽ trình lên trên. Cần thiết tôi sẽ gặp đồng chí Lê Duẫn xin ý kiến để giải đáp cho các anh. Với danh dự của một người cộng sản, tôi xin hứa sẽ không có sự trù ếm, trả thù...
          Mặc y lải nhải, cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ vừa định ngồi thụp xuống bục gỗ kéo điếu thuốc lào, bỗng từ cuối hội trường một người đứng dậy và một giọng nói cất lên :
          - Tôi xin có ý kiến...
          Mọi người đều quay lại nhìn người vừa lên tiếng. Tên chính uỷ thở phào như người vừa trút xong gánh nặng:
          - Thế chứ. Thế nào, mời anh lên đây phát biểu...
          Người tù chậm rải tiến lên bục hội trường với vẻ mặt tự tin. Anh ta nhìn tên chính uỷ, nhìn khắp hội trường, rồi quay sang nhìn tên chính uỷ :
          - Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Ngọc Trụ, Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế, cấp bậc: Trung Uý, chức vụ: giảng viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một vợ, hai con, thân sinh tôi là một trung Tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hiện đang bị tù cải tạo tại miền Bắc...
          Anh ta ngừng nói. Cả hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ nhìn anh ta gật gù :
          - Anh có ý kiến gì cứ nêu lên. Với danh dự của một người cộng sản tôi xin hứa là sẽ không bắt tội anh đâu, dù tôi không trả lời được những ý kiến, thắc mắc của anh...
          Nói xong, y quay về đám đông :
          - Thế mới dân chủ chứ, phải không nào ?
          Cả hội trường vẫn im phăng phắc trong cái im lặng đầy bất trắc. Nguyễn Ngọc Trụ hắng giọng, lên tiếng. Giọng nói của anh rõ ràng, mạch lạc:
          - Như cán bộ đã trình bày, cá nhân tôi đã sống và lớn lên trong sự cưu mang của chế độ yư bản miền Nam. Tôi cũng đồng ý với cán bộ là xã hội miền Nam đầy dẫy những xấu xa, bất công, thối nát, những kẻ lãnh đạo bất tài tham quyền cố vị...
          Nguyễn Ngọc Trụ ngừng nói. Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ gật gù với ý nghĩ trong đầu: « Có thế chứ ! ».
          Giọng nói của người tù trên bục lại vang lên:
          - Cũng như cán bộ đã trình bày, qua gần 20 tháng, tôi đã tiếp xúc với xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Tôi đã được gia đình thăm nuôi nên biết được phần nào đời sống thực tế bên ngoài. Tôi cũng đã được đọc sách báo, được xem vô tuyền truyền hình. Thậm chí, tôi còn được sống gần gũi với những con người của chủ nghĩa xã hội miền Bắc là các cán bộ ...
          Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Những người ngồi kế bên như nghe rõ tiếng nín thở của người bên cạnh. Tên chính uỷ bắt đầu đi qua, đi lại. Giọng nói rõ ràng, mạch lạc của người tù trên bục giảng vang lên như một mũi dao nhọn xoáy vào một vết thương đang sưng tấy:
          - Qua tiếp xúc giữa hai chế độ, tôi thấy chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc cũng không tốt đẹp gì hơn chế độ tư bản miền Nam ...
          Tên chính uỷ há hốc mồm. Cả hội trường im phăng phắc, sững sờ.
          Giọng nói người tù trên bục giảng lại vang lên:
          - Tôi không tin tưởng là đất nước sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội với những cái gọi là cách mạng giáo dục đi dôi với cách mạng khoa học kỹ thuật.
          Anh ta nhìn thẳng vào mặt tên chính uỷ:
          - Tôi xin tạm mượn một hình ảnh để thí dụ: Con ngựa và chiếc xe. Người đánh xe đã tước đoạt mất tự do của con ngựa. Ông ta đã đóng móng vào chân ngựa, đã bịt mắt ngựa, tra hàm thiếc vào miệng ngựa, buộc ngựa vào xe và dùng roi quất vào mông ngựa để ra lệnh kéo cái xe. Chúng tôi và những người dân bây giờ cũng giống như những con ngựa. Đó là ý kiến của tôi về hai chế độ. Xin hết.
          Tên chính uỷ xanh mặt. Y thọc mạnh hai bàn tay đang run lên vì tức giận vào hai túi quần màu cứt ngựa. Y nghiến răng lẩm bẩm một điều gì đó không phát ra thành tiếng. Cả hội trường có tiếng xì xào, rì rầm. Nguyễn Ngọc Trụ bình tĩnh trở về chỗ ngồi. Một người nào đó nói nhỏ với anh ta:
          - Anh nói làm chi những điều như vậy...
          Nguyễn Ngọc Trụ mỉm cười trả lời:
          - Tôi phải nói những Sự Thật dù biết là sẽ nguy hiểm đến tính mạng của mình.
          Tên chính uỷ ra lệnh giải tán lớp học mặc dù còn phải 2 giờ nữa mới hết giờ. Y hấp tấp quảy cái sắc-cốt lên vai, đi như chạy ra khỏi hội trường với cái dáng đi hai hàng của y.
          Ngay sáng hôm sau, Nguyễn Ngọc Trụ được hai tên vệ binh có võ trang vào gọi anh lên trình diện Bộ Chỉ huy Trung Đoàn. Và ngay buổi chiều hôm đó anh bị biệt giam vào conex.
          Ba tháng sau. Vào một buổi chiều, một vài người tù đang thơ thẩn ở sân cát cạnh hàng rào kẽm gai bỗng kêu lên :
          - Thằng Trụ ra kìa.
          Tin tức lan nhanh. Mọi cắp mắt đều đổ xô về chiếc conex. Nguyễn Ngọc Trụ đôi mắt trũng sâu trên đôi má hóp, tóc phủ ót, phủ mang tai, râu ria tua tủa. Hai ống chân ốm tong teo chỉ còn da bọc xương, đứng không nổi phải vịn tay vào thành conex.
          Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn. Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.
          Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.
          Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên trung tá chính uỷ mà là tên thiếu tá chính trị viên tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề:
          - Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi...
          Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên thiếu tá chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :
          - Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại đảng và nhà nước nên bộ tư lệnh quân khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay...
          Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường. Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Tên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói:
          - Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu...
          Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai:
          - Vĩnh biệt anh em !
          Và bình tĩnh chờ dợi. Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ, người tù dũng cảm, người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô...
          Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang rồi sau đó có tiếng thở dài hòa lẫn trong tiếng khóc nghẹn ngào của vài người nào đó. Có thể là những chiến hữu của anh cũng đã bỏ mình trong trại cải tạo. Có thể họ là cha mẹ, vợ con hoặc anh em của người lính tù cải tạo bất khuất và anh hùng đã chọn cái chết để mắng vào mặt lũ cán bộ cộng sản vô nhân tính. Ông ta đã chọn '' Ta thà làm ma của nước Việt Nam Cộng Hòa hơn là làm người dân trong xứ cộng sản ''. Hành động của người lính Nguyễn Ngọc Trụ tương tự như Trần Bình Trọng hét vào mặt Thoát Hoan câu nói bất hủ " Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất bắc...''
          Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.
          - Chuyện kể thật buồn mà cũng thật hào hùng. Người như vậy mà lại chết sớm trong lúc mấy thằng trật búa như thằng hình thằng hồ, thằng lành, thằng thận, thằng vàng thì lại sống lâu làm chi cho chật đất... Thôi thằng Ba hãy nói tiếp về kế hoạch ngủ luôn của ngươi đi...
          Được lịnh của Diêm Vương, Ba Duân hớp ngụm nước lạnh xong hắng giọng tiếp.
          - Sáng tạo ưu việt khiến cho tui ưng ý nhất chính là làm cho đám dân ngụy Xin Đi Vùng Kinh Té Mới...
          Thấy Thôi Phán Quan mấp máy môi định nói, Ba Duân biết ý nên tiếp liền.
          - Đám ngụy quân ngụy quyền xin đi ở tù rồi thì ở nhà vợ con nheo nhóc, đói khổ nên đâm ra ta thán đủ điều. Tuy nhiên đảng và nhà nước đâu có ngu mà lo cho đám dân ngụy này. Dân miền bắc còn bị nhà nước bỏ đói dài dài thì sức đâu mà tụi tui lo cho mười triệu dân nam bộ, nhất là dân ở thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ. Phải thức đêm với mấy bà vợ lớn, nhỏ, bé và bồ nhí tui mới nghĩ ra cái vụ Xin Đi Vùng Kinh Té Mới... Với lại bộ đội về thành chưa có đủ chỗ ở nên nếu dụ dỗ hoặc ép uổng đám dân ngụy ở thành thị đi vùng kinh té mới thì tui giải quyết được hai trở ngại lớn. Thứ nhất là đày ải dân ngụy đi vào vùng hoang vu để tăng gia sản xuất. Thứ nhì là cứ mỗi gia đình dân ngụy đi là bộ đội nhào vô xí chỗ liền. Ngài biện lý thấy tui dốt mà khôn không?
          Thôi Phán Quan gật gù cái đầu tóc bạc rồi hắng giọng.
          - Ông tuy dốt, khôn mà còn thêm ác nữa... Hồi nãy ông Lành có nói về từ ngữ Vùng Kinh Té Mới, rồi bây giờ ông cũng có nhắc tới Vùng Kinh Té Mới. Xin ông vui lòng giải thích cho tòa rõ...
          - Muốn làm cho đám dân ngụy tin tưởng và tình nguyện hiến nhà dâng của cho đảng, tui phải chỉ đạo cho cơ quan của nhà nước tuyên truyền là bất cứ gia đình nào đi vùng kinh té mới, họ sẽ được nhà nước cấp phát nhà cửa mới, ruộng đất và dụng cụ để họ tự canh tác và tăng gia sản xuất. Nông phẩm của họ làm ra sẽ được nhà nước mua lại với giá cao...
          - Rồi ngươi có mua lại không?
          Diêm Vương xen vào. Ba Duân lắc đầu cười.
          - Bẩm Diêm Vương... Ngu sao mua... Vả lại nhà nước tiền đâu mà mua... Sau chiến tranh tụi con nợ còn hơn chúa chổm... Đám dân ngụy cũng khờ nên hồ hởi ới nhau đi vùng kinh té mới. Tới nơi họ mới biết thì đã muộn rồi... Hai tiếng kinh té có ý nghĩa đặc biệt của nó thưa ngài biện lý. Kinh là kinh sợ, còn té là té xỉu. Đám dân thành thị của ngụy quen hưởng thụ tiện nghi tư bản, ăn ngon mặc đẹp, bây giờ đối mặt với vùng đất mới hoang vu chúng kinh sợ quá té xỉu hết trơn nên mới gọi là Vùng Kinh Té Mới...
          - Tổ cha nó... Thằng đó với thằng Sáu Lừa nói láo như Vẹm... Cái quân cộng sản là cái đồ ăn cháo đá bát, gian xảo lọc lừa... Nhà tui ba đời ủng hộ cách mạng với mặt trận mà khi chiếm được miền nam rồi bọn chúng nó bắt tui đi cái cùng kinh té chết đói...
          Tuy nghe những lời mắng chửi trên song Ba Duân làm lơ. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ hắn tiếp liền.
          - Nhiều gia đình không chịu được kham khổ, bệnh hoạn lại lén lút trở về thành thì nhà cửa đã bị bộ đội xí rồi nên chúng Xin Làm Ăn Mày...
          - Ta chưa đi Vùng Kinh Té Mới mà chỉ nghe ngươi kể không cũng đủ kinh sợ mà té xỉu rồi...
          Diêm Vương lên tiếng. Cười cười Ba Duân nói tiếp.
          - Diêm Vương mà nghe con nói về kế hoạch '' ngủ niên '' thời ngài sẽ nín tè luôn...
          Tới phiên Thôi Phán Quan vì không dằn được tánh tò mò nên vội xen vào.
          - Tôi nghe có người gọi kế hoạch ngũ niên của ông là kế hoạch ngủ luôn. Tại sao họ lại gọi như vậy?
          Ba Duân cười hực lên tiếng.
          - Chỉ có mấy thằng Việt Kiều phản động và dân nam bộ chống đối chế độ mới gọi như thế...
          Ngừng lại giây lát Ba Duân nói nhỏ.
          - Nghĩ đi nghỉ lại thì mấy thằng phản động nói cũng đúng phần nào. Hổng biết tại sao mà tụi nó lại đoán ra cái ý của tui. Khi đề ra kế hoạch ngũ niên là tui muốn bỏ đói dân nam bộ để tụi nó khỏi làm loạn. Bị đói dài người ra thì tụi nó lo chạy gạo đổ mồ hôi còn hơi sức đâu mà chống đối. Thằng nào đói quá thì ngủ luôn hổng dậy nữa....
          - Tôi nghe đồn về kế hoạch ngũ niên 2 do ông ban hành từ năm 1976 tới 1980 mà chưa được tận tường lắm...
          Căn phòng xử chứa mấy ngàn người im phăng phắc lắng nghe vị tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam nói về kế hoạch ngũ niên, một thành quả mà dân miền nam nghe tới đều đổ mồ hôi vì phải chạy gạo ăn mỗi ngày.
          - Ngài biện lý cũng như mọi người hổng có hiểu cái ý của tui. Tên của nó là ngủ niên chứ không phải ngũ niên. Ngũ niên là năm năm còn ngủ niên của tui là ngủ nguyên năm... Hết năm này dang năm khác...
          - Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe coi...
          Diêm Vương lên tiếng. Tủm tỉm cười Ba Duân giải thích.
          - Bẫm Diêm Vương. Cái kế hoạch ngủ niên của con chủ ý bỏ đói dân nam bộ làm cho tụi nó đói triền miên rồi ngủ nguyên năm luôn để quên cái đói cái khổ...
          - Ông làm cách nào để bỏ đói mười mấy triệu dân miền nam?
          Thôi Phán Quan lên tiếng hỏi. Ba Duân cười cười trả lời.
          - Dễ ợt... Kinh tế của chủ nghĩa xã hội đặt nặng vào kỹ nghệ để hổ trợ cho nông nghiệp gia tăng sản xuất từ đó nông nghiệp sẽ giúp ngược lại để kỹ nghệ nặng được phát triển. Con tính là trong kế hoạch ngủ luôn này kỹ nghệ sẽ phát triển từ 16 đến 18% mỗi năm, còn nông nghiệp sẽ tăng từ 8% tới 10%. Lợi tức của dân nam bộ hàng năm sẽ tăng từ 13% tới 14%...( Trích Sau Bức Màn Đỏ- Hoàng Dung )
          - Xạo ke...
          - Nói láo như Vẹm...
          - Thằng cha đó xạo Diêm Vương ơi...
          - Tôi nghe lời của thằng chả chết để lại vợ con hổng ai nuôi...
          - Sau năm 75, tiền của già Hồ chùi đít hổng ai thèm...
          Thiên hạ la rầm trời. Nghe giọng nói Bình biết mấy người đó là dân miền nam. Họ là nạn nhân của kế hoạch ngủ luôn hoặc vùng kinh té mới của đảng cộng sản Việt Nam mà hai tên cầm đầu chính là Ba Duân và Sáu Lừa. Có lẽ cũng thông cảm cho sự uất ức của các nạn nhân do đó Diêm Vương cũng không gõ búa bắt họ im lặng. Lát sau mọi người mới ngưng khi giọng nói của Ba Duân cất lên.
          - Tui giao cho đồng chí Mười Cút biến kinh té miền nam rập theo khuôn mẫu của miền bắc. Dụ dỗ nông dân vào hợp tác xã mà hổng có ai chịu vào, cuối cùng cán bộ cưỡng bách bằng cách tịch thu ruộng đất, dụng cụ nghề nông thì họ giết hết trâu bò để ăn, còn cày bừa thì phè phè, chơi nhiều làm ít hay chỉ làm đủ ăn mà thôi. Vì vậy mà miền nam bị đói vào năm 1978 và 1979. Mới đầu còn có cơm trắng, sau đó độn khoai rồi sau nữa ăn độn với bo bo...
          - Bây giờ ta mới biết là tại sao dân Việt Nam xuống đây đứa nào đứa nấy ốm hơn cò ma, toàn xương bọc da... mở miệng là đòi cơm cơm tối ngày... Hóa ra họ bị xuống đây là vì kế hoạch ngủ luôn của ngươi...
          Diêm Vương lên tiếng. Ba Duân cười hì hì tiếp.
          - Vì kế hoạch ngủ luôn làm cho dân nam bộ đói quá nhưng mà con với anh Sáu cũng chưa thỏa dạ... Anh Sáu bảo con cho đồng chí Lành lên làm chức phó thủ tượng đặc trách kinh té...
          - Trời đất... Bộ hết người sao mà hai đứa bây lại cho thằng Lành làm phó thủ tượng đặc trách kinh té... Ta nghe còn té ngửa té ngang huống chi dân miền nam...
          - Bẫm Diêm Vương... Con biết đồng chí Lành mà đặc trách về kinh té thì dân miền nam sẽ té dài dài, té đủ kiểu, như ông già bà lão sẽ té xuống mồ, con nít té xuống sàn, đàn bà té chổng mông, đàn ông té ngửa té xấp... Nhưng cái này là chủ ý của con với anh Sáu và luôn cả các anh em đồng chí trong bộ chín chị. Trong kế hoạch ngủ luôn 2, con với anh Sáu còn bày thêm cái gọi là đánh tư bản và mại sản. Nó là cách lấy của nhà giàu chia cho các anh em đồng chí xài...
          - Rồi thằng Lành ở chức vụ phó thủ tượng đặc trách kinh té mà nó có làm được cái gì không?
          Nghe Diêm Vương hỏi, Thôi Phán Quan quay nhìn về ghế Tố Bồi Bút đang ngồi. Biết ý, vị phó thủ tượng đặc trách kinh té của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cười hí hí.
          - Bẫm Diêm Vương... Với sự hội ý của hai Ba và anh Sáu, sau khi nắm chức phó thủ tượng con ra cái kế hoạch ngủ niên 3 mà mấy thằng phản động đầy ác ý gọi là kế hoạch ngủ khò...
          Thiên hạ bật cười cái rần. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn tính nghiêm nghị mà cũng phải tủm tỉm cười. Nhẹ lắc đầu Diêm Vương phán.
          - Lại nữa... Thằng Hình viết văn thì chữ nào cũng ấy... Ngươi làm thơ thì có chục tiếng thương rồi bây giờ đi làm kinh té lại lòi ra tiếng ngủ... Tụi bây là quan lớn nhà nước mà tối ngày cứ lo ba cái vụ thương, ấy, ngủ thì làm sao mà lo cho nước cho dân được... Bởi vậy mà dân của ngươi nghèo càng nghèo thêm; nước đã yếu càng thêm yếu...
          Bị Diêm Vương lên lớp, Tố Bồi Bút cố gắng bào chữa.
          - Bẫm Diêm Vương... Cái này hổng phải lỗi của con đâu ạ... Trước khi con nhận chức đặc trách kinh té, thì anh Ba đã rỉ tai dặn con là cứ làm cho tụi dân nam bộ kinh với té thì nó mới sợ mà bán nhà cửa và của cải để tìm đường vượt biên. Như thế thì tụi con mỗi đứa chia nhau được vài ngàn cây vàng để dưỡng già... Mấy chú ba ở Chợ Lớn vàng cây nhiều chọi lổ đầu người ta. Biết được chú ba có vàng, nên anh Ba, anh Sáu và tất cả quan lớn của bộ chín chị và nhà nước tìm cách tống cổ chú ba về nước... Đó là kế hoạch quan trọng mà tụi con gọi là phương án 2 mà mấy thằng phản động gọi là phương án ăn cướp 2...
          Nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu than dài.
          - Thôi để cho mọi người dùng cơm chiều chứ nghe tụi bây nói riết chắc họ kinh với té hết trơn mắc công âm phủ kêu xe cứu thương chở họ vào nhà thương...
          Nói xong Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên tòa cho mọi người nghỉ ngơi và sáng mai sẽ tiếp tục.

          Comment


          • #20
            20

            Người làm cách mạng '' đè ''


            - Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quí khán thính giả của ba tầng chín cõi. Hai ngày qua quí vị đã nghe Ba Duân và Sáu Búa thuật kể về những hành động giết người của chính mình. Quí vị cũng đã nghe lời khai của các nhân chứng cũng như các tài liệu mà âm phủ đã trình bày...

            Thôi Phán Quan ngừng nói. Ánh mắt rực hào quang của kẻ có mấy ngàn năm tu vi quét một vòng, bắt từ chỗ chín vị bồi thẫm xong xuống tới chỗ khán giả rồi cuối cùng dừng lại nơi bàn tám bị can đang ngồi. Ai ai cũng im lặng chờ nghe lời buộc tội của vị đại diện cho luật pháp của âm phủ.
            - Nắm lấy quyền bính trong tay dài hơn hai mươi năm, hai bị can Ba Duân và Sáu Búa đã gây ra tang tóc điêu linh, thống khổ cho vạn vạn người dân vô tội. Những oan hồn chết bởi hai tên này chật đất âm phủ. Tiếng oán than vọng thấu thiên đình. '' Độc ác thay trúc rừng không ghi hết tội... Dơ bẩn thay nước biển không rửa sạch mùi...'' Câu nói của người xưa cũng chưa đủ để nói lên tội ác của hai bị can. Nào tổng công kích Mậu Thân. Nào mùa hè đỏ lửa. Nào đại thắng mùa xuân. Nào tù cải tạo. Nào vượt biên. Nào Vùng kinh té mới. Nào kế hoạch ngủ luôn. Nào kế hoạch ngủ khò. Nào đổi tiền. Nào đánh tư bản mại sản. Nào Phương án 2. Nào chiến tranh Miên Việt. Nào chiến tranh Trung Việt. Nào vụ án xét lại. Bao nhiêu người chết? Bao nhiêu người ở tù? Máu của các người lính trẻ chảy thành sông. Thây của họ chất thành núi vì tham vọng quyền lực của hai tên đồ tễ họ Lê. Thế mà trên dương thế, lại có kẻ có mắt như mù, đem tặng cho tên Sáu Búa cái giải thưởng Nobel Hòa Bình. Tại sao họ không đem hắn ra xét xử như tên đồ tể khát máu, một đại tội phạm chiến tranh. Ở Việt Nam, lại có những kẻ muối mặt, không biết xấu hổ, tạc hình, dựng tượng, đặt tên đường cho hai kẻ sát nhân này. Hành vi của họ là phạm tội với trời đất, với tổ tiên. Hành vi dung dưỡng, bao che tội ác, sẽ khuyến khích người ta gây thêm tội ác. Kẻ cầm quyền ở cấp trên ăn cắp thì nhân viên cấp dưới cũng sẽ ăn cắp. Kẻ có chức mà ăn hối lộ thì nhân viên cũng tham nhũng. Kẻ có quyền giết người mà không bị trừng trị thì người dân cũng theo gương đó mà giết người. Kẻ cầm quyền cưỡng hiếp phụ nữ mà không bị kết tội thì đàn ông trong nước cũng nhân đó mà làm chuyện hiếp dâm đàn bà. Kẻ lãnh đạo một nước mà có năm bảy bà vợ thì người dân trong nước sẽ trở thành đa thê hoặc có lắm nhân tình, bồ nhí. Tôi muốn nói tới '' tấm gương đạo đức '' của kẻ cầm quyền...

            Ngừng nói Thôi Phán Quan chiếu ánh mắt nghiêm nghị của mình xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô rồi sau đó chuyển sang bảy bị can đang ngồi.
            - Bất cứ kẻ cầm quyền nào cũng đều mắc phải một cái bệnh mà tôi gọi là bệnh lãnh tụ. Nghĩ mình là kẻ có chức, có quyền, có tiền, nắm quyền hành trong tay nên muốn làm gì thì làm, chẳng có ai kiểm soát hoặc chế tài họ được. Ở các nước dân chủ và tự do thì cái bệnh lãnh tụ của các kẻ lãnh đạo nhẹ hơn vì hai lý do. Người dân có quyền và có thể xử dụng cái quyền của mình bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm kẻ cầm quyền. Thứ nhì vì có luật pháp nghiêm minh do đó kẻ cầm quyền có thể bị bãi chức hoặc bị truy tố ra trước tòa án nếu phạm luật. Riêng trong các nước độc tài cộng sản, cái bệnh lãnh tụ của kẻ cầm quyến rất nặng và rất nhiều. Nó lưu hành theo máu huyết của kẻ cầm quyền. Nó ăn sâu vào trong xương tủy của kẻ cầm quyền. Nó như là cái dịch. Do ở chế độ độc tài đảng trị, luật pháp không được thực thi một cách nghiêm minh, kẻ cầm quyền tha hồ muốn làm gì thì làm. Họ biết nếu vi phạm luật pháp; họ sẽ được đàn anh che chở, bằng không chạy chọt đút lót rồi tội ác của họ sẽ được giấu diếm. Điển hình như chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam. Ngồi ở danh vị Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ mà cưỡng hiếp phụ nữ thì bảo sao thuộc cấp không chê cười và đàm tiếu. Bản thân Ba Duân với Sáu Búa vốn đã không có thứ '' đạo đức cách mạng '', lại nắm quyền bính trong một chế độ không có luật pháp công minh vì vậy mới buông lung làm theo thú tính của mình. Xem sinh mạng của dân như cỏ rác bởi vậy chúng mới cưỡng bức thanh thiếu niên nam nữ của miền bắc đi vào nam, đi qua Miên để chết cho tham vọng bá quyền của chính chúng và các lãnh tụ của hai nước đàn anh Nga Tàu. Giết người là thú tiêu khiển của hai bị can. Phải thấy máu chảy, người chết thì hai bị can mới ăn ngon ngủ yên được. Bỏ ngoài tai lời than oán vọng thấu trời xanh, mặc cho tiếng đời mai mỉa cười chê; chúng cứ làm điều gì mình muốn. Mặc cho chuyện lưu xú vạn niên, nhơ danh dòng họ; chúng thi hành bất cứ thủ đoạn tàn độc để củng cố quyền lực, bởi vì chúng thừa biết chẳng có ai làm gì chúng được. Tuy nhiên, hôm nay, nhân dân Trời và luật pháp của âm phủ, Thôi Phán Quan tôi, xin chín vị bồi thẫm xét nghiệm theo luật pháp và công tâm của quí vị, sau đó cho hai bị can Ba Duân và Sáu Búa một hình phạt tương xứng với các tội ác của chúng mà tôi nêu ra đây.

            1- Dụ dỗ gái vị thành niên.
            2- Cưỡng hiếp và gian dâm phụ nữ.
            3- Giết người có dự mưu với trường hợp gia trọng.
            4- Gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho các nạn nhân của tổng công kích Tết Mậu Thân, mùa hè đỏ lửa năm 1972 ở An Lộc, đại lộ kinh hoàng, tù cải tạo và người vượt biển. Tôi xin nhấn mạnh với 9 vị bồi thẫm là hai bị can không phải giết một, hoặc hai ba người mà họ đã giết hàng triệu người... Hình phạt dành cho hai bị can phải triệu lần nặng hơn...
            Thiên hạ vỗ tay rào rào sau khi nghe xong lời buộc tội của Thôi Phán Quan. Lát sau Diêm Vương mới gõ búa ra hiệu cho mọi người im lặng. Nhân danh chủ tịch bồi thẫm đoàn, Đán bước tới thì thầm với Diêm Vương. Nghe xong ông vua âm phủ gục gặt đầu tỏ vẻ hài lòng rồi tuyên bố hình phạt dành cho hai bị can Ba Duân và Sáu Búa sẽ được tuyên xử trước khi phiên xử của Hình Chí Mô chấm dứt. Phán xong ông ta ra lịnh cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên tòa.


            Bước tới đứng trước mặt của Hình Chí Mô, vị biện lý của âm phủ cao giọng.
            - Kính thưa quí vị. Hôm nay tôi sẽ mở phiên xử cuối cùng. Đó là phiên xử đặc biệt dành cho Hình Chí Mô. Từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, từ đông sang tây, từ nam xuống bắc không ai không biết hoặc nghe danh của bị can. Có đám trí thức thiên tả ca tụng bị can là kẻ yêu nước. Đám trí thức phòng lạnh tây phương khen bị can là một anh hùng. Có kẻ nói bị can là một lãnh tụ vỉ đại. Ai muốn khen, muốn ca tụng là quyền của họ. Khi Hình Chí Mô chết, có rất nhiều người như giáo sư đại học, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ hay nhiều lãnh tụ các quốc gia bày tỏ lòng thương tiếc bị can. Số người tán tụng, thương tiếc bị can nhiều lắm. Tuy nhiên có một điều rất lạ, đáng ngạc nhiên là, đại đa số dân Việt Nam lại không nhỏ một giọt nước mắt nào để khóc, để tiếc thương lãnh tụ của mình. Không tiếc thương, không khóc đã đành mà họ còn mắng thầm, còn nguyền rũa, còn phỉ nhổ bị can, một kẻ mà đám trí thức thiên tả của tây phương ca tụng là một vĩ nhân. Tại sao?

            Nhấn mạnh hai tiếng '' tại sao ? '', Thôi Phán Quan ngừng lại cho mọi người suy nghĩ về lời nói của mình
            - Những ai, nhất là giới trí thức thiên tả của các nước tự do dân chủ ca tụng, tiếc thương Hình Chí Mô bởi vì họ có may mắn không sống ở đất nước Việt Nam. Họ không là nạn nhân của Hình Chí Mô. Họ không bị cai trị bởi một chế độ tàn bạo, không tôn trọng những quyền căn bản của người dân. Họ không bị công an bịt miệng không cho nói trước tòa. Họ không bị công an đạp vào mặt khi đi biểu tình phản đối chính phủ. Họ không bị cảnh sát chìm tới nhà hỏi thăm sức khỏe vì viết báo tố cáo tham nhũng. Họ cũng không bị công an bắt giam vì tội chế diễu kẻ cầm quyền. Họ không bị đưa ra toà với bản án đã được định sẵn. Nếu họ là dân Việt Nam, sống dưới chế độ độc tài đảng trị của cộng sản, họ sẽ thôi, sẽ ngưng lời tán tụng một kẻ không từ bất cứ thủ đoạn, hành động gian ác nào để đạt được mục tiêu tối hậu là biến quê hương của bị can thành một công cụ của đệ tam quốc tế, giúp cho hai nước cộng sản đàn anh thực hiện mộng thống trị lân bang và toàn thế giới. Bị can bán đứng Phan Bội Châu cho Tây. Bị can làm chó săn cho mật thám tây bắt Lê Hồng Phong. Bị can đưa tin cho phòng nhì thực dân Pháp bắt Hà Huy Tập, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phùng Chí Kiên. Những người đó là ai? Họ là đồng chí của bị can. Hình Chí Mô là kẻ ăn cướp công lao cách mạng của Phan Bội Châu, Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và các đảng phái quốc gia. Hình Chí Mô báo tin cho Pháp biết Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ khởi nghĩa ở Yên Bái. Ai giết Tạ Thu Thâu? Hình Chí Mô? Ai giết Bùi Quang Chiêu? Hình Chí Mô. Ai giết Huỳnh Phú Sổ? Hình Chí Mô. Ai giết Nguyễn Bình? Hình Chí Mô. Ai giết Diệp Văn Kỳ? Hình Chí Mô. Ai giết Trương Tử Anh? Hình Chí Mô. Ai giết Lý Đông A? Hình Chí Mô. Ai giết Khái Hưng? Hình Chí Mô. Ai giết Hồ Tùng Mậu? Hình Chí Mô. Ai giết Lâm Đức Thụ? Hình Chí Mô. Ai giết Phạm Quỳnh? Hình Chí Mô? Ai giết Ngô Đình Khôi? Hình Chí Mô. Còn nhiều lắm... nhiều lắm kể không hết. Có thể nói danh sách những người bị Hình Chí Mô trực tiếp hoặc gián tiếp ra lịnh cho thuộc cấp thủ tiêu dài như cuốn sách mấy trăm trang giấy. Có thể nói cuộc đời cách mạng của Hình Chí Mô gắn liền với hành động giết người. Kẻ nào chống đối, hắn giết. Kẻ nào hắn không ưa hắn thủ tiêu. Hắn giết dân lành vô tội. Hắn đạp lên xác người chết để thi hành nghĩa vụ mà đệ tam quốc tế hay đúng hơn đàn anh Stalin đã giao phó là biến các nước nhược tiểu như Việt Nam, Lào, Cao Miên, Thái Lan thành nước cộng sản. Tôi sẽ trình bày các việc xấu xa, nhơ bẩn; các tội ác tày trời của bị can trong phiên xử sau đây cho 9 vị bồi thẫm và tất cả mọi người ở ba tầng chín cõi được biết hầu có một nhận xét đúng đắn về con người hai mặt Hình Chí Mô. Muốn có một cái nhìn '' y như thị '', ta phải xé nát hào quang mà bị can và các đồng chí của hắn đã cố tình giấu diếm và che đậy để lừa dối dân chúng Việt Nam và toàn thế giới. Thừa lệnh của Trời và Diêm Vương, nhân danh công lý của vũ trụ, Thôi Phán Quan tôi sẽ cố gắng lột trần sự thật bao quanh huyền thoại Hình Chí Mô. Tôi muốn cho dân Việt Nam thấy rõ Hình Chí Mô là một tên phản quốc thay vì là kẻ yêu nước. Tôi muốn cho 80 triệu dân Việt Nam biết Hình Chí Mô là kẻ bán nước. Vì quyền lợi của đảng, cá nhân hoặc phe phái, hắn không ngần ngại dâng hiến đất đai, biển đảo, rừng núi cho đàn anh Trung Cộng để giữ vững chức vị của mình.

            Sau thời gian dài tìm kiếm, âm phủ đã sưu tập nhiều hồ sơ, tài liệu được lưu trữ trong văn khố của các quốc gia như Pháp, Tàu, Nga và Việt Nam, sách báo hay các bài viết của các cá nhân đăng tải trên các trang mạng về đời tư của Hình Chí Mô. Bị can có bao nhiêu nhân tình nhân ngãi tôi chẳng màng. Việc bị can có mấy vợ tôi cũng chẳng quan tâm. Chuyện bị can có bồ nhí, đào tơ không làm tôi bận lòng. Tuy nhiên điều khiến cho tôi bất bình là sự lừa dối, bịp bợm của bị can đối với toàn dân Việt Nam. Sự dối trá và lừa bịp này là một tính toán, một cố tình của chính bị can và đảng cộng sản Việt Nam để lường gạt những người dân hiền lành, chất phát và ngây thơ. Bị can và băng đảng của hắn cố tình vẻ ra hình ảnh một ông tiên, ông thánh, vị thần linh hay đúng nghĩa nhất một lãnh tụ đầy đủ đạo đức cách mạng để dân chúng yêu mến, tuân phục và hy sinh cho lãnh tụ. Chủ đích của bị can là gì? Tất cả đều phục vụ cho lãnh tụ. Tất cả đều trở thành nô lệ cho lãnh tụ. Vừa thoát khỏi cái ách đô hộ của thực dân Pháp, thì liền sau đó Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản của hắn lại tròng vào cổ dân chúng Việt Nam một cái ách nô lệ mới còn tàn bạo và khủng khiếp gấp trăm lần. Với uy quyền tuyệt đối, lãnh tụ muốn làm gì thì làm ngay cả đem đất nước vốn đã chịu nhiều điêu linh thống khổ hiến dâng cho đệ tam cộng sản hầu thực hiện mộng thống trị toàn thế giới. Dân chết mặc dân. Người chết mặc người. Bị can và băng đảng của hắn vẫn sống phây phây trên xác người. Bị can vui cười trên tiếng khóc của hàng triệu thanh niên nam nữ yêu nước. Bằng bộ máy tuyên truyền xảo trá với những danh từ hoa mỹ như không gì quí hơn độc lập tự do, bị can và băng đảng của hắn đã giết hàng trăm ngàn trí thức, tương lai và rường cột nước nhà xuyên qua cuộc cải cách ruộng đất, cuộc chiến tranh Đông Dương 1, 2 và 3. Với chủ trương diệt hết nhân tài của đất nước, bị can nói câu '' tri, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ ''. Tại sao cộng sản phải tiêu diệt trí thức? Giản dị lắm. Những người có ăn học này mới khám phá ra cái giả trá của bị can. Kẻ có trình độ học vấn mới đủ khả năng hoặc cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoài để tìm ra hồ sơ, giấy tờ, tài liệu chứng minh sự lừa dối và lường gạt của bị can...

            Ngừng lại, bước trở lại bàn của mình, uống ngụm nước cho thông cổ, Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.
            - Tôi sẽ trình bày cùng 9 vị bồi thẫm và khán, thính giả của ba tầng chín cõi về tội ác của Hình Chí Mô. Từ đó 9 vị bồi thẫm có thể lượng định để cho hắn một hình phạt tương xứng với tội trạng của hắn. Đối với luật pháp của âm phủ thì Hình Chí Mô đã phạm vào 8 trọng tội sau đây.

            1- Lừa dối: đàn bà con gái
            2- Lường gạt: dân chúng và các đồng chí.
            3- Ăn cắp
            4- Gián điệp: được đệ tam quốc tế huấn luyện thành một điệp viên. Nhờ vậy mà Hình Chí Mô có đủ khả năng tuyên truyền, chiêu dụ, lũng đoạn, xâm nhập vào các đảng phái đối lập.
            5- Giết người: có dự mưu, gia trọng, cố sát...
            6- Bán nước ( bán đất, bán biển, đảo, núi non, rừng rú, quặng mỏ )
            7- Phá hoại tổ quốc và dân tộc ( phá hoại gia đình, phong tục, truyền thống, nông nghiệp, công thương và kỹ nghệ )
            8- Phản quốc: biến Việt Nam thành 1 chư hầu của Nga Tàu


            Hướng về ghế của Diêm Vương đang ngồi đoạn quay qua bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.
            - Kính thưa quí vị bây giờ phiên xử Hình Chí Mô bắt đầu...
            Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Vị lục sự cất tiếng mời Hình Chí Mô lên ngồi vào ghế bị can. Điều khiến cho mọi người thắc mắc là ông ta không đọc tiểu sử của bị can giống như bảy người trước. Đợi cho bị can an vị xong xuôi, Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt và câu hỏi đầu tiên của ông ta là:
            - Xin lỗi ông... Tôi mạn phép hỏi ông bao nhiêu tuổi?
            Câu hỏi mở đầu của Thôi Phán Quan dành cho bị can rất lịch sự nếu không muốn nói kiểu cách. Câu hỏi này cũng làm cho khán thính giả tham dự thắc mắc. Ngay cả 9 vị bồi thẫm cũng có cử chỉ ngạc nhiên bằng cách thì thầm với nhau.

            Hơi do dự giây lát Hình Chí Mô mới trả lời.
            - Thưa ngài biện lý... Tôi sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890. Tính đến năm 2012 thì tôi được 101 tuổi dư...
            Gục gặt đầu cười, hướng về nơi 9 vị bồi thẫm đang ngồi, vị biện lý của âm phủ cao giọng.
            - Căn cứ vào những tài liệu mà tôi có được trong tay thì:

            1- Trong đơn xin học Trường Hành Chính Thuộc Địa năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892...
            Không để cho bị can mở miệng biện bạch, Thôi Phán Quan tiếp liền.

            2- Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894...

            3- Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng của làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894...

            4- Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895...


            Diêm Vương gục gặt đầu có vẻ chịu cách tra hỏi bị can trước tòa của Thôi Phán Quan. Bây giờ người ta mới hiểu ra cái thâm ý của vị đại diện luật pháp âm phủ. Người ta được cha mẹ sinh ra có một lần, do đó cũng chỉ có một ngày sinh tháng đẻ thôi. Riêng lão Hình Chí Mô thì lại có tới 4 ngày-tháng-năm sinh khác nhau. Điều này đủ cho bồi thẫm đoàn biết lão nói dối, từ đó họ có ấn tượng xấu với lão.

            Chắc cũng biết điều đó nên lão Hình hướng về chỗ bồi thẫm đoàn nói như phân trần.
            - Thưa tôi làm cách mạng nên không thể tiết lộ lai lịch của mình... Tôi khai như thế vì lý do an ninh để khỏi bị mật thám tây bắt...
            Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
            - Ông tên gì?
            Đã bị bể mánh về ngày sinh tháng đẻ nên lần này lão Hình không lọt vào bẩy của Thôi Phán Quan nữa.
            - Tên cúng cơm của tôi là Nguyễn Sinh Cung...
            - Ông còn tên gì khác nữa không?
            Biết nếu nói dối thì sẽ lòi ra cái bản mặt xấu trước bồi thẫm đoàn, do đó Hình Chí Mô phải khai thật.
            - Sau này tôi còn có tên Nguyễn Tất Thành. Khi ở bên Pháp tôi lấy tên Nguyễn Ái Quốc. Khi hoạt động cách mạng ở bên Tàu tôi lấy tên Hình Chí Mô...
            - Ông lấy tên... Là người của âm phủ nên tôi không thông tiếng Việt lắm. Xin ông vui lòng giải thích tiếng '' lấy '' của ông có nghĩa như thế nào?
            Hình Chí Mô ấp úng hồi lâu mà chưa chịu trả lời. Hướng về bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.
            - Theo như các tài liệu mà âm phủ thu lượm được thì ông bắt đầu có tên Nguyễn Tất Thành năm 1901. Đúng không?
            Hình Chí Mô trả lời bằng cái gật đầu. Điều đó không làm thỏa mãn Thôi Phán Quan lập lại.
            - Trước tòa, tôi yêu cầu ông trả lời đúng hoặc không đúng...
            Liếc thấy Diêm Vương đang hằm hè nhìn mình, rồi ngó qua thấy 9 vị bồi thẫm cũng đang ngó mình, Hình Chí Mô trả lời.
            - Đúng... Tôi xác nhận là tôi bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành từ năm 1901...
            - Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Amiral Latouche-Tréville. Đúng không?
            - Đúng...
            Hình Chí Mô trả lời gọn một tiếng. Khẽ lắc đầu Diêm Vương lên tiếng.
            - Sao mà ngươi nhiều tên vậy... Mới có 21 tuổi mà ngươi đã có ba tên rồi. Nào Sinh Cung, Tất Thành rồi bây giờ lại thêm Văn Ba...
            Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
            - Sau khi tới Pháp thì ông làm gì?
            - Tôi làm cách mạng chống thực dân Pháp...
            Có tiếng vỗ tay lác đác để khen tặng cho Hình Chí Mô. Cười cười Thôi Phán Quan vặn.
            - Tôi cũng được đọc tin tức của đảng cộng sản Việt Nam nói là ông sang Pháp làm cách mạng để giải phóng cho nước ông khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Tuy nhiên tôi cũng nghe tin đồn hoặc cũng được đọc tài liệu về việc ông đi qua và sinh sống ở Pháp. Càng đọc tôi càng mù mờ và bán tín bán nghi. Nay tôi xin được hỏi ông một câu trước tòa là ông sang Pháp để làm gì?
            Hình Chí Mô do dự trong thoáng chốc rồi gật đầu.
            - Tôi xuống tàu sang Pháp là để làm cách mạng... Tôi xác nhận điều đó trước tòa...
            Mỉm cười Thôi Phán Quan chìa tờ giấy đã cũ và vàng ra trước mặt bị can.
            - Chắc ông còn nhớ vật này?
            Hình Chí Mô thay đổi sắc mặt khi thấy tờ giấy đó. Bước tới chỗ chín vị bồi thẫm đang ngồi, Thôi Phán Quan đưa tờ giấy cho Đán. Xem song anh trao cho Bình rồi chuyền tay đi vòng vòng hết 9 vị bồi thẫm.
            - Bị can lấy tên giả là Văn Ba, xuống tàu đi sang Tây nói để làm cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang là nói dối và lừa gạt mọi người. Thực ra hắn sang Pháp để tìm đường mưu sinh và xin làm quan cho thực dân Pháp. Đây là bằng chứng hiển nhiên...
            Vị đại diện cho luật pháp của âm phủ nháy mắt ra hiệu cho hai vị sứ giả đang đứng sau lưng của Diêm Vương. Hiểu ý Bạch y sứ giả phát tay áo. Trên bức vách rộng phía bên trái lộ ra màn ảnh truyền hình rồi sau đó hiện lên một vật mà mọi người đều bật lên tiếng kêu ồ sửng sốt khi thấy nó.


            Marseille le15 Septembre 1911
            À Monsieur le Ministre des Colonies
            Monsieur le Ministre
            J'ai l'honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d'être admis à suivre les cours de l ' École Coloniale comme interne.
            Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l'Amiral Latouche Tréville.
            Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m' instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction.
            Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam.
            En attendant votre réponse que j ' espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ' assurance de ma reconnaissance anticipée.
            Nguyễn-tất Thành,
            né à Vinh, en 1892, fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre
            Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois



            Tạm dịch:

            Marseille ngày 15 tháng chín 1911
            Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa
            Kính thưa ông Bộ Trưởng,
            Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa.
            Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville).
            Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích giáo hóa.
            Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam.
            Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi.
            Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán..
            .

            - Hóa ra là thế...
            - Hắn nói làm cách mạng mà tại sao lại xin vào học trường thuộc địa...
            - Bác Hình ơi sao kỳ vậy bác...
            - Trường thuộc địa là trường gì vậy anh Bảy?
            Một giọng nói già nua vang lên như để trả lời câu hỏi.
            - Trường thuộc địa là trường do chính phủ Pháp lập ra để dạy cho các học sinh của các nước thuộc Pháp ra làm quan ở tại xứ sở của mình... Sau khi tốt nghiệp thì họ trở về nước để làm quan cho Pháp...

            Sau khi xem xong Đán trả lại lá đơn xin học trường thuộc địa của Hình Chí Mô cho Thôi Phán Quan. Cầm lá đơn trong tay, vị biện lý của âm phủ cao giọng.
            - Đọc lá thư của bị can chúng ta thấy những gì. Trước nhất là ý tưởng phụng sự mẫu quốc của bị can. Thứ nhì là tính cách qui lụy và bợ đỡ của bị can. Điều đó đã được minh chứng qua những dòng chữ:
            - Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa...
            - Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp...
            - Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi...
            Phòng xử im lặng như mọi người còn đang suy nghĩ về những lời của Thôi Phán Quan đã nói. Lát sau vị biện lý của âm phủ quay sang bị can hỏi một câu.
            - Ông xác nhận lá thư này chính là lá thư tự tay ông viết để xin nhập học trường thuộc địa tại Ba Lê?
            Hình Chí Mô trả lời bằng cái gật đầu. Cau mày vị biện lý của âm phủ gằn giọng.
            - Tôi xin nhắc lại lần nữa là ông phải trả lời đàng hoàng chứ không thể gật đầu...
            Liếc nhanh Diêm Vương, Hình Chí Mô lên tiếng.
            - Tôi xác nhận lá thư này do chính tay tôi viết và gởi...
            Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
            - Ông viết bao nhiêu lá đơn để xin vào học trường thuộc địa?
            - Hai... Tôi có viết hai lá đơn; một gởi cho tổng thống Pháp và một gởi cho bộ trưởng thuộc địa, nhưng họ đều bác đơn không nhận tôi vào học...
            - Phải trong đơn gởi cho tổng thống Pháp ông lấy tên là Paul Tất Thành không?
            Hình Chí Mô nhẹ gật đầu thay cho câu trả lời.
            - Sau khi đơn xin học bị bác thì ông làm nghề gì để sống?
            - Tôi vẫn làm phụ bếp trên tàu buôn Amiral Latouche-Tréville một thời gian rồi đi qua Mỹ sau đó trở lại Luân Đôn, thủ đô của nước Anh...
            Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô bằng câu hỏi.
            - Tôi nghe đồn ông là người có số đào hoa nhất trong đảng. Đúng không?
            Hình Chí Mô hơi có vấn đề khi nghe Thôi Phán Quan nói tới hai tiếng '' nghe đồn ''. Ở trong chế độ độc tài chuyên chế của cộng sản Việt Nam thì không có tự do ngôn luận. Không có tự do báo chí, truyền thanh truyền hình gì hết, thành ra dân chúng chỉ còn mỗi cách để thông tin với nhau. Đó là tin đồn hay nói cách khác là tuyên truyền rỉ tai. Dù là tin đồn song rất xác thực bởi vì người tung tin chính là kẻ có chức, có quyền ở trong nội bộ đảng. Bởi vậy mà Hình Chí Mô phải giật mình khi nghe Thôi Phán Quan nói tin đồn.
            Lắc đầu mấy lượt, Hình Chí Mô quay nhìn Diêm Vương đoạn nói với giọng như phân trần.
            - Bẫm Diêm Vương... Con cả đời đi đây đi đó làm cách mạng giải phóng nước con khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Con đâu có thì giờ nghĩ tới chuyện bồ bịch lăng nhăng...
            Đưa tay lên vuốt râu Diêm Vương cười cười buông giọng lửng lơ.
            - Ta cũng nghĩ như ngươi, tuy nhiên...
            Hình Chí Mô có chiều suy nghĩ về câu nói của ông vua âm phủ.
            - Thế thì cô đầm trẻ đẹp Marie Brière ông bỏ cho ai?
            Thôi Phán Quan lên tiếng. Liếc nhanh bồi thẫm đoàn Hình Chí Mô làm thinh không trả lời. Vị biện lý của âm phủ cười nói tiếp.
            - Tôi còn nhớ ông làm thơ tặng cho cô ta mà... Ông Tố đã đọc bài thơ đó trước tòa...
            - Cô Marie không phải là bồ mà chỉ là người quen. Đúng hơn cô ta là thân chủ của tôi. Tôi chụp ảnh cô ta vì cô ta chơi đẹp với tôi...
            Nói tới đó Hình Chí Mô vội ngưng bặt vì biết mình lỡ lời. Không khi nào chịu bỏ qua cơ hội, Thôi Phán Quan bèn khai thác triệt để câu nói của bị can.
            - Xin ông vui lòng giải thích cho 9 vị bồi thẫm biết cô ta chơi đẹp với ông như thế nào? Cô ta có hành động, cử chỉ hoặc thái độ gì mà ông lại nói cô ta chơi đẹp?
            Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc hai câu hỏi. Hình Chí Mô im lặng. Hắn biết đã lỡ lời nên im lặng suy nghĩ để bào chữa cho câu nói của mình. Liếc thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn chờ nghe câu trả lời của mình, hắn gắng gượng thốt.
            - Thì... thì... Tôi chụp ảnh cô ta đẹp...
            - Tôi biết ông chụp ảnh đẹp tuy nhiên câu hỏi của tôi là...
            - Cô ta thấy tôi cũng sạch nước cản... Cô ta khen tôi đẹp giai... Cô ta phục tôi vì biết tôi làm cách mạng chống Pháp...
            - Tôi nhìn nhận là hồi trẻ ông trông cũng đẹp giai. Đây là bức ảnh ông chụp tại Nga Sô năm 1923... Chắc ông còn nhớ?
            Thôi Phán Quan chìa bức ảnh ra trước mặt Hình Chí Mô. Ngắm nghía bức ảnh của mình giây lát hắn cười cười.
            - Lúc mới gặp tôi lần đầu tiên, cô Marie có thiện cảm với tôi liền... Cổ khâm phục khi biết tôi bỏ nước ra đi làm cách mạng...
            - Ủa ông không nói cho cô ta biết là ông làm đơn xin vào học trường thuộc địa để sau này làm quan cho Pháp à?
            - Ngu sao nói... Chuyện đó tôi giấu biệt luôn... Mới đầu thì chúng tôi chuyện trò rất tâm đầu ý hiệp. Sau nhiều lần đi chơi, cô ta mời tôi về nhà ăn cơm tối mấy lần rồi sau đó thấy tôi tứ cố vô thân, nghề ngỗng cũng hổng có, cô thương quá nên ngõ ý rước tôi về nhà của cô ở...
            - Rồi ngươi có nhận lời về nhà cô ta ở?
            Diêm Vương vọt miệng hỏi. Hình Chí Mô tủm tỉm cười.
            - Dạ con đâu có nỡ lòng nào phụ cái hảo ý của cô Marie. Diêm Vương nghĩ coi con đang bữa đói bữa no, lại thêm thằng chủ nhà trọ sắp tống cổ con ra vì thiếu mấy tháng tiền phòng chưa trả, thì bây giờ có '' cơm no bò cỡi '' thì ngu cách mấy con cũng hổng chịu bỏ qua dịp may, huống chi cô Marie thì vòng 1, 2 và 3 đều hội đủ tiêu chuẩn cách mạng vô sản...
            - Lành, nó nói cái gì ta hổng hiểu?
            Diêm Vương lên tiếng hỏi Tố Bồi Bút. Biết hắn là bút nô văn hay thơ giỏi lại học nhiều biết rộng về những chuyện '' thâm cung bí sử '' của các lãnh tụ cao cấp trong đảng nên có thắc mắc ông ta hỏi hắn liền. Họ Tố cười cười.
            - Bẩm Diêm Vương... Tiêu chuẩn của cách mạng vô sản là người ta hổng có cái gì hết. Cô Marie mà cởi quần áo ra cho bác của con cân đo và chụp ảnh thì cô trở thành kẻ vô sản. Bởi vậy bác con mới nói là đủ tiêu chuẩn cách mạng vô sản... Để con giải thích cho Diêm Vương hiểu thêm về cách cân đo của bác. Thời ấy chưa có thước dây như bây giờ nên bác con phải dùng tay để đo vòng 1,2 và 3 của cô Marie. Bởi vậy tụi con mới bắt chước bác rồi gọi là tiêu chuẩn cách mạng vô sản...
            Diêm Vương lắc đầu lẩm bẩm.
            - Bác của ngươi phun ra toàn lý thuyết cách mạng cao xa quá thì ai mà hiểu được...
            Nói tới đó ông ta vội ngưng lại khi nghe tiếng tằng hắng của Thôi Phán Quan.
            - Ngoài lý do '' cơm no bò cỡi '' ông còn lý do nào khác hơn để trở thành tình nhân của cô Marie và nhiều người khác...
            Hình Chí Mô tủm tỉm cười khi nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc nhanh về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi, hắn thong thả thốt.


            Hình cô Marie Brière chụp chung với Hình Chí Mô ở Hà Nội.


            - Thưa ngài biện lý... Tôi có lý do chứ, một lý do đặc biệt mà tôi tạm gọi là lý do cách mạng. Đó là tôi thay mặt dân tôi để trả thù...
            Hình Chí Mô dừng lại như muốn cho mọi người suy nghĩ về câu nói của mình. Lát sau hắn mới cười lên tiếng nói với Diêm Vương và cũng cốt ý cho mọi người nghe.
            - Bẫm Diêm Vương... Nước Việt Nam con bị thằng Tây đô hộ cả trăm năm. Nó ỷ mạnh nó đè, chèn, ép dân con. Bởi vậy chủ ý của con đi qua Tây là để đè mấy cô đầm trẻ đẹp. Đó là con đại diện dân con làm cách mạng hay là trả thù cho dân tộc của con... Rồi khi qua tới Nga, bản thân con cũng bị mấy đồng chí trong đảng cộng sản Liên Sô ăn hiếp. Vì vậy mà còn đè cô Véra Vasiliera để trả thù...

            Diêm Vương và Thôi Phán Quan liếc nhau rồi tủm tỉm cười. Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi chăm chú nghe mình kể chuyện, Hình Chí Mô nói như phân trần.
            - Dù chính kiến bất đồng song 9 vị và tôi đây đều là dân Việt. Nước mình, dân mình đã bị các đồng chí Tàu đô hộ cả ngàn năm. Mỗi lần đọc lại lịch sử nước nhà, tôi rất bất bình và ấm ức cho dân mình. Bởi vậy khi được sang Tàu hoạt động, có dịp là tôi cứ đè mấy con xẩm ra để giải tỏa nỗi ấm ức của mình...

            Nghe tới đó Huyền quay sang thì thầm vào tai Bình.
            - Ổng đi làm cách mạng mà sao tôi nghe ổng cứ nói đè không vậy anh Bình...
            Đán vọt miệng xen vào.
            - Thì ổng làm cách mạng đè mà chị... Nếu sinh ra cùng thời với ổng thì tôi cũng theo ổng đi làm cách mạng đè cho sướng cái thân...
            Bình cười gật đầu.
            - Anh nói có lý... Mấy đồng chí theo ổng đi làm cách mạng đè thì người nào cũng vợ cả, vợ lớn, vợ bé, vợ nhỏ, đào trẻ, bồ nhí tùm lum...

            Dù ba vị bồi thẫm thì thầm với nhau mà Hình Chí Mô cũng nghe được. Hắn chỏ miệng vào câu chuyện.
            - Tụi nó học nghề của tôi đó... Hồi còn ở Ba Lê, làm nghề phó nháy không đủ ăn tôi phải kiêm thêm nghề thợ đè...
            Nghe tới đó Diêm Vương vội lên tiếng.
            - Ta sống mấy ngàn tuổi, làm đủ trăm nghề mà chưa nghe ai nói làm nghề thợ đè. Thôi đã tới giờ rồi. Vậy hãy để cho mọi người ăn trưa chứ ở đây mà nghe thằng Hình nó kể về chuyện đè chắc ta lên máu chết...

            Comment


            • #21
              21

              Con dê cụ của đảng

              Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử buổi chiều bằng câu hỏi.
              - Ông có mấy vợ?
              Tủm tỉm cười Hình Chí Mô trả lời.
              - Tôi chưa hiểu ý của ngài. Vợ là nghĩa làm sao. Vợ cả, vợ lớn, vợ bé, vợ nhỏ, vợ mọn, vợ hờ... Vợ có hôn thú hay vợ không chính thức... Nếu tính hết các bà vợ mà tôi vừa kể trên thì nhiều lắm...
              Hình Chí Mô đưa ngón tay lên nhẫm tính một hồi mới quay qua Diêm Vương.
              - Bẫm Diêm Vương... Ngài có máy tính cầm tay không cho con mượn một cái. Nhiều quá mười ngón tay con đếm hổng đủ...
              Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương lắc đầu. Thôi Phán quan lên tiếng hỏi.
              - Ông có vợ lớn vợ nhỏ, nhân tình bồ nhí cả tá mà sao trong hồ sơ của ông lại ghi là không có vợ?
              - Tôi không muốn cho người ta biết tôi có vợ...
              Diêm Vương chợt lên tiếng.
              - Thằng này lạ... Đàn ông thanh niên lớn lên là phải có vợ. Chuyện đó có gì đâu mà ngươi phải giấu diếm...
              - Bẫm Diêm Vương... Trường hợp của con thì khác... Con đi làm cách mạng đè mà nếu biết con có vợ thì mấy cô đâu dám cho con đè... Với ai con cũng nói là con chửa vợ...
              Tằng hắng tiếng nhỏ Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô.
              - Tôi nghe đồn là khi chân ướt chân ráo tới Ba Lê ông có gặp cô Bourdon...
              Hình Chí Mô có vẻ buồn khi nghe nói tới tên Bourdon. Lát sau hắn thở dài nói nhỏ.
              - Cô Bourdon là cô gái đầu tiên tôi quen ở Paris...
              - Hình như ông có thư từ qua lại với cô ta?
              Thấy bị can do dự chưa chịu trả lời, Thôi Phán Quan cười tiếp
              - Theo như lời đồn thì ông đã viết một bức thư tỏ tình và cầu hôn với cô Bourdon. Ông xác nhận điều này...
              Hình Chí Mô cau mày suy nghĩ. Hắn biết hai tiếng '' lời đồn '' vị đại diện cho luật pháp có một nghĩa đặc biệt. Đó chỉ là một cách nói để tỏ cho bị can biết là ông ta đã nắm được chứng cớ hoặc giấy tờ trong tay.
              - Bức thư ông viết cho cô Bourdon đề ngày 10 tháng 5 năm 1923. Sau đó hơn 1 tháng sau tức ngày 11 tháng 6 năm 1923, cô ta viết thư hồi âm từ chối lời cầu hôn của ông...
              Hình Chí Mô lặng thinh. Tủm tỉm cười Thôi Phán Quan tiếp.
              - Cô Bourdon là người tình đầu tiên của ông?
              - Đúng như vậy... Tôi có làm thơ tặng cho cô ta...
              - Phải bài thơ mà thằng Lành đã đọc cho ta nghe...
              Nghe Diêm Vương lên tiếng hỏi, Hình Chí Mô sắm nắm trả lời.
              - Bẫm Diêm Vương... Thằng Lành nó nhớ bài thơ trừ vài chữ...

              Em Bourdon ơi
              Anh thấy trong mắt em
              Một thân hình thiên tả
              Anh thấy giữa đùi em
              Một giai cấp vô sản…

              Em Bourdon ơi
              Nhìn vào mắt em
              Anh thấy
              Chiều Paris mưa rơi tầm tả
              Nhìn sâu xuống chút nữa
              Anh chợt cười ha hả
              Ôi thế giới đại đồng
              Ôi thiên đường cộng sản
              Cũng chưa đã bằng cái đó của em yêu…


              Dù đã nghe bài thơ một lần rồi song Bình nhận thấy giọng đọc của chính tác giả truyền cảm và trầm bổng hơn. Liếc qua Huyền anh thấy cô bạn gái đang tủm tỉm cười.
              - Cũng vì bài thơ này mà cô Bourdon từ chối lời cầu hôn của tôi. Trong thư hồi âm cô bảo tôi có quá nhiều tư tưởng ủy mị của tư bản...
              Trong lúc mọi người lắng nghe Hình Chí Mô nói thì không biết nghĩ sao mà Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương những gì không ai nghe được. Người ta chỉ thấy ông vua âm phủ gật gật đầu nói lớn.
              - Ta cho phép khanh làm việc đó...

              Được lệnh của Diêm Vương, Thôi Phán Quan trở lại bàn của mình. Cầm xấp giấy dày cộm, bước tới chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi, ông ta giơ cao xấp tài liệu lên đoạn cao giọng thốt.
              - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Đây là những gì tôi thu thập được về các người đã là tình nhân hoặc vợ của Hình Chí Mô mà tôi tạm gọi là hồ sơ về cuộc đời tình ái của lãnh tụ.

              1- Cô thợ làm nón ở Paris: Tuy không có hôn thú song cô với Hình Chí Mô có một người con gái tên Louise.

              2- Cô Bourdon: Hình Chì Mô viết thư tỏ tình ngày 10 tháng 5 năm 1923, cô có thư từ chối lời cầu hôn ngày 11 tháng 6 năm 1923. Bức thư này được lưu trữ trong văn khố Solotfom.

              3- Marie Brière: Hình Chí Mô gặp cô ta vào năm 1920 . Đây có thể là người có con gái với ông như lời ông viết trong di chúc ngày 14/8/1969: “ Trước khi viết phần cuối của tờ di chúc này, tôi xin thú nhận, tôi là một người không phải thần thánh gì nên khi tôi còn sống cũng đủ " bảy tính " như kinh nhà Phật đã đề cập. Tôi không có vợ chính thức, nhưng cũng có được đứa con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi, khi đọc tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi đã không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm". Marie Brière được sử gia Daniel Héméry ghi là người tình cũng là đồng chí.
              Theo lời đồn đại thì khi Hình Chí Mô về Hà Nội cầm quyền 1945-1946, người Pháp có đưa một số cô đầm từ Pháp sang gặp họ Hình, trong đó có cô Brière chụp ảnh chung với Hình Chí Mô.

              4- Một người vợ tại Moscow: Người này do nhà cầm quyền Liên Xô cung cấp. Người đàn bà này có thể là Véra Vasiliera. Con gái của Vera Vasilieva, lúc ấy được 10 tuổi, còn nhớ rằng Hình Chí Mô thường nằm ngủ trên chiếc ghế trường kỷ trong ngôi nhà gỗ mà cô đang sống tại trung tâm Moscow. Lúc đó Hình Chí Mô đã dính líu tới nhiều vụ bắt bớ gây tổn thất nặng nề cho Phân Bộ Viễn Đông lẫn đảng cộng sang Trung Hoa trong năm 1931. Vasiliera là một người đàn bà ngây thơ từng được biết đến là đã bảo vệ những bạn bè bị tố cáo về những tội danh chính trị. Manabendra N. Roy, lãnh tụ Cộng Sản Ấn Độ, ủy viên chính trị của Đệ Tam Quốc Tế, bị khai trừ năm 1928, trong cuốn sách mang tên Men I Met, có nhắc sơ đến Hình Chí Mô như sau: '' Vào những năm 1920, cuộc sống ở Mạc Tư Khoa rất buồn chán và kham khổ vì thế mà Hình Chí Mô đã tìm thú vui nơi đàn bà. Đó là các cô gái giàu có của chế độ tư bản sa đọa hay các cô gái theo cộng sản nhưng lại lãng mạn và phóng đãng vì thế họ bị thu hút mãnh liệt bởi những khóa sinh Á châu ".

              5- Lý Huệ Khanh là em gái của Lý Huệ Quần, vợ Lâm Đức Thụ. Từ năm 1925 đến năm 1927, Hình Chí Mô tá túc với Lâm Đức Thụ. Vì vậy mà vợ chồng Thụ đã mối mai cô em gái cho Hình Chí Mô. Hai người yêu nhau say đắm và có với nhau một đứa con gái. Lý Huệ Khanh về sau gia nhập đảng cộng sản Trung Hoa, rồi bị Quốc Dân Ðảng Trung Hoa giết trong vụ biến Quảng Châu Công Xã ngày 12 tháng 12 năm 1927.

              6- Cũng theo tin đồn thì sau này khi hoạt động tại Hồng Kông, Hình Chí Mô cũng có một người vợ Tàu và có một con gái. Hồi năm 1950 hắn có nhờ chi bộ đảng cộng sản tìm giúp nhưng không tìm ra tông tích của người này

              7- Tuyết Lan: Thời gian hoạt động ở Thái Lan, Hình Chí Mô có yêu một cô gái tên Tuyết Lan, đây cũng chính là tên T. Lan mà hắn đã dùng để viết sách, như cuốn Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện.

              8- Tăng Tuyết Minh:






              Sau đây là bản dịch lá thư của Hình Chí Mô ( lúc đó có tên Lý Thụy ) gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng Đông Dương phát hiện ngày 14-8-1928:
              Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự hiểu. Từ nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã da vọng. Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thụy. Tóm dịch: Cùng em chia tay nhau, Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm, Nhớ nhung tình sâu, Không nói cũng tự biết. Nay nhân gởi tin hồng nhớn, Xa xôi gởi lá thư mang tấm lòng, Mong em yên tâm, Là điều anh trông ngóng. Cũng xin vấn an nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về Thụy.

              Năm 1959, khi Đào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng cộng sản Trung Hoa kiêm phó thủ tướng sang thăm Việt Nam, Hình Chí Mô bí mật nhờ một người thân tín trong hàng ngũ lãnh đạo Hà Nội đến nói riêng với Ðào Chú rằng hắn ta muốn tái hôn với một người vợ cũ ở Quảng Ðông. Ðào Chú đã vui vẻ nhận lời, không ngờ hết thời gian Đào Chú điều dưỡng, hy vọng của ông cũng tan thành mây khói. Thủ tướng Chu Ân Lai sau khi nghe vị phó thủ tướng dưới quyền kể lại, đã thận trọng đưa ra nhận định: " Phải đề nghị phía Việt Nam xem xét đã ". Mặt khác, Lê Duẩn không muốn làm hỏng hình tượng của “Cha già dân tộc", của Đảng quang vinh. Do đó chuyện… tái ngộ đã không xảy ra.

              Theo Hồ Chí Minh sinh bình khảo của Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan), Phần 4 cũng nhắc đến Tăng Tuyết Minh: “ Năm 1925, Hình Chí Mô ( lúc này mang tên Nguyễn Ái Quốc ) tại Quảng Châu quen người con gái Trung Quốc tên Tăng Tuyết Minh. Năm 1926 kết hôn, sau khi cưới cả hai cùng ở trong căn biệt thự của Mikhail Borodin, có báo cáo nói rằng kết quả cuộc hôn nhân này là một bé gái ".





              Quí vị nào muốn biết thêm chi tiết xin mời vào 2 trang mạng có tên: HCM với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh của Hoàng Tranh (Huang Zheng), Phó Viện Khoa Học Xã Hội, Quảng Tây, Trung Quốc, đăng trên tạp chí Ðông Nam Á Tung Hoành (Trung Hoa) tháng 11-2001. Báo Diễn Ðàn, Paris, số 121, tháng 9-2002 dịch đăng lại, tt.17-20; '' Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh'' của Khổng Khả Lập.

              9- Lâm Y Lan: Năm 1930, Đào Chú sắp xếp để cô gái này cùng Hình Chí Mô đóng giả vợ chồng nhằm bảo vệ cho hắn ta trong lúc phong trào ở Quảng Đông nói chung và khu hành chính Bạch Sắc bị khủng bố. Thời gian sau hai người đã thương nhau. Lâm Y Lan mất vào năm 1968. Trước lúc lâm chung bà ta cũng không quên lấy ra quyển “nhật ký tình yêu" mà người yêu đã tặng cho mình và nhờ người chuyển cho Hình Chí Mô với lời nhắn nhủ khuyên người tình không nên quá buồn phiền.

              10- Nguyễn Thanh Linh: Hình Chí Mô đã có đoạn tình duyên ngắn ngủi với cô gái này; tuy nhiên bây giờ không nghe ai nhắc nhở tới cô ta.

              11- Nguyễn Thị Minh Khai: cũng như Tăng Tuyết Minh, Minh Khai là người vợ chính thức nghĩa là có giấy hôn thú đàng hoàng. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản Nga-xô, người ta tìm ra giấy hôn thú giữa Hình Chí Mô và Nguyễn thị Minh Khai mặc dù đảng cộng sản Việt Nam cứ khăng khăng tuyên bố Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong...

              Nhìn thẳng vào mặt bị can Thôi Phán Quan hỏi.
              - Tôi nói điều này có đúng không thưa ông...?
              - Bẫm Diêm Vương... Con có bị bắt trả lời câu hỏi này không?
              Nghe bị can hỏi câu trên, Diêm Vương cười cười trả lời.
              - Ngươi trả lời thì tốt mà không trả lời thì hơi có vấn đề...

              Tủm tỉm cười Thôi Phán Quan cao giọng nói.
              - Tại sao lại có chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy. Sau đây là câu trả lời. Số là trước khi rời Việt Nam qua Nga-xô thì Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê Hồng Phong. Việc này đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu tập qua Nga-xô để học thì Lê Hồng Phong đi trước, còn Minh Khai qua ngã Hồng-kông để được Hình Chí Mô (dưới bí danh Lý Thụy) dạy vỡ lòng tiếng Nga và chính trị sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết hắn dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “ đầy bụng ”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê Hồng Phong đành nuốt hận nghe lời lãnh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hình Chí Mô và có giấy giá thú làm bằng để sau này Lê Hồng Phong khỏi lôi thôi. Vì sự thiệt thòi đó và thái độ vâng lời cấp trên mà Lê Hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là “ lãnh đạo của cộng sản quốc tế ”. Còn Hình Chí Mô, thực ra chưa bao giờ là thành viên trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, một bộ phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-Đương với quốc tế 3. Câu chuyện tình bi ai giữa Hình Chí Mô, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các thành viên cộng sản Đông-Dương. Bởi vì trước đó ai ai cũng biết Minh Khai là hôn thê của Lê Hồng Phong. Hình Chí Mô là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô trong vùng Đông-Nam-Á; còn Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành “lãnh tụ” của cộng sản Đông-Dương, tức đạo quân thứ 5 của Nga-xô tại Đông-Dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê Hồng Phong bị Hình Chí Mô cắm sừng vợ của đồng chí mình thì hậu quả sẽ làm hại tới danh tiếng của các lãnh tụ cộng sản. Cuộc tình tay ba đó đã khiến Lê Hồng Phong ngã ngựa. Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê Hồng Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương. Khi ấy Hình Chí Mô là phái viên của cục Phương Đông, nên trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-gòn) giả dạng trong vai thương gia người Tàu, Lê Hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hình Chí Mô báo cáo tình hình ở Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê Hồng Phong và Hình Chí Mô biết với nhau; vậy mà khi Lê Hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-Lớn đã bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ lại vụ Hình Chí Mô bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp thì tình huống vụ Lê Hồng Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hình Chí Mô tìm mọi cách mượn tay thực dân Pháp hãm hại tất cả những ai là đối thủ của hắn bất kể quốc gia hay cộng sản . Đối với Lê Hồng Phong, hắn còn sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3, kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản
              Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận hắn cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “ thiến sống ” mình, vì vậy mà hắn phải ra tay trước. ( Trích dẫn từ hồ sơ Con Yêu Râu Xanh của Việt Thường. Có sửa đổi vài chỗ ). Sau này Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Tây bắt và xử tử hình mà theo lời đồn thì Hình Chí Mô đã báo cho mật thám Tây bắt giết vợ để ém nhẹm chuyện xấu xa của mình.

              12- Nông Thị Xuân: Trong phiên xử của Trần Nước Hòn, tôi đã đề cập tới người vợ này của Hình Chí Mô.

              13- Đỗ Thị Lạc
              Sau đại hội Moscow ngày 25-7-1935, Lê Hồng Phong (1902-1942) được Quốc tế Cộng Sản gởi về nước hoạt động, còn Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc) bị thất sủng và bị giữ lại ở Liên Xô cho đến cuối năm 1938, Thành được gởi về Trung Hoa dưới một tên mới là Hồ Quang, điều khiển ban Hải ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương.
              Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn Đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942. Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển.
              Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư đảng, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943.
              Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau. Dầu bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành đại hội tại Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba ủy viên giám sát.

              Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậy. Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, và một số súng đạn, thuốc men và tiền bạc. Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cọng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.

              Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức "chị Thuần." Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi đã cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh.

              Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang). Từ đó không còn ai nghe nói tới Đỗ Thị Lạc.

              Cuộc đời tình ái của Hình Chí Mô còn dài lắm tuy nhiên tôi xin tạm dừng lại ở đây. Trong phiên xử sáng mai tôi sẽ trình bày cùng quí vị về tội lường gạt của Hình Chí Mô
              Last edited by Poupi; 25-04-2012, 06:54 AM.

              Comment


              • #22
                22

                TÊN ĂN CẮP TÊN NGƯỜI

                - Theo như lời đồn thì ông còn có tên Nguyễn Ái Quốc?
                Thôi Phán Quan mở đầu ngày thứ nhì của phiên xử Hình Chí Mô bằng câu hỏi trên. Do dự giây lát hắn từ từ trả lời.
                - Đúng...
                Hình Chí Mô trả lời gọn một tiếng. Hắn biết càng dài vòng văn tự chừng nào càng dễ bị Thôi Phán Quan bắt bẻ vặn hỏi.
                - Tên của ông có ý nghĩa lắm. Nghe tên này ai ai cũng biết ông là người yêu nước. Tôi mạn phép hỏi trong trường hợp nào mà ông lại nghĩ ra cái tên Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa cao đẹp như vậy?
                Hình Chí Mô im lặng khá lâu như suy nghĩ về câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc qua bên trái thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn như chờ nghe câu trả lời của mình. Liếc chênh chếch về phía bên tay mặt chỗ Diêm Vương đang ngồi hắn thấy ông vua âm phủ đang hằm hè. Ngước lên lại thấy Thôi Phán Quan trợn đôi mắt lấp lóe hàn quang, hắn mỉm cười lên tiếng.
                - Tôi đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp thành ra tôi phải lấy tên Nguyễn Ái Quốc để tỏ cho mọi người biết tôi yêu nước...
                - Dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc, ông đã viết tài liệu mang tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Đây là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ Việt Nam. Đúng không?
                - Đúng... Tôi công nhận chuyện đó...
                Hình Chí Mô trả lời thật gọn. Tủm tỉm cười vị đại diện luật pháp của âm phủ bước tới đứng trước mặt bồi thẫm đoàn và giọng nói của ông ta cao lên.
                - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Để biết cái tên Nguyễn Ái Quốc của Hình Chí Mô do đâu mà có, tôi sẽ trình bày cho 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một tập tài liệu với cái tên '' Bút danh Nguyễn Ái Quốc của ai? '' mà âm phủ đã sưu tầm được
                Dứt lời ông ta bước tới trao xấp tài liệu cho vị lục sự. Mọi người đều nghe rõ mồn một không sót tiếng nào.
                - Về tên Nguyễn Ái Quốc thì có nhiều tài liệu nói .

                1- Trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 của tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ (trang 87) thì tờ báo viết bằng chữ Pháp Le Paria có nghĩa là Người Cùng Đinh do đảng cộng sản Pháp xuất vốn và do Nguyễn Thế Truyền hợp tác trông nom. Nguyễn Thế Truyền, người tỉnh Nam Định, có bằng kỹ sư hóa học, ở Pháp rất lâu, có vợ đầm, có hai cô con gái đặt tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị để kỷ niệm tên hai vị nữ anh hùng Việt Nam. Ông là một đảng viên kỳ cựu trong đảng Cộng sản Pháp (trang 89 sđd). Dù là kỹ sư hóa học, nhưng không dùng bằng cấp sống với nghề nầy; trái lại Truyền đi theo con đường chính trị, viết báo hô hào binh vực quyền lợi người dân Việt Nam bị Pháp áp chế. Theo bà Phương Lan Bùi Thế Mỹ (bà viết lại theo lời kể của Tạ Thu Thâu, vì bà cùng nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người đồng hương ở tỉnh Long Xuyên và giữa hai người có giao tình nghĩa huynh nghĩa muội rất đậm đà) thì ban biên tập tờ Le Paria như sau:

                “ Trong nhóm của Truyền, có nhiều cây viết mạnh như Truyền, đồng ký tên chung trong mục xã thuyết là Nguyen Le Patriote tức là Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho đó là của một mình Nguyễn Tất Thành, tức là Hình Chí Mô sau nầy. Nhưng sự thật do nhiều người đảm nhận, thay nhau viết, như Hoàng Quang Giụ, một chiến sĩ làm phụ tá cho Truyền, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự v.v... Nhiều người viết cho một mục chung, chớ chẳng phải bút tự riêng cho một cá nhơn nào cả ”.

                Theo Phương Lan Bùi Thế Mỹ, thì quyển Kết án Thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) do Nguyễn Thế Truyền là tác giả bán rất chạy ở Việt Nam cũng như ở Pháp (trang 90 sđd). Phạm Quang Trình cũng đặt nghi vấn về tác giả của bản văn đó như sau: “Bản án Chế độ Thực dân Pháp là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của Thực dân Pháp đối với các Dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ An Nam. HCMTT/Tập

                2 (tức là quyển Hồ Chí Minh Toàn tập) viết rằng Bản án Chế độ Thực dân Pháp được in lần đầu năm 1925 ở Paris bằng Pháp ngữ, do Nguyễn Thế Truyền đề tựa ”.
                2- Phạm Quang Trình cho rằng trong thời gian này Hình Chí Mô đang hoạt động ở Nga, và từ lâu, nhiều nhân vật hoạt động cũng như dư luận đều cho rằng tài liệu này do một nhóm người hoạt động ở Pháp, chủ chốt là Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền cùng một số nhân vật khác ký tên chung là Nguyễn Ái Quấc hay Nguyễn Ái Quốc. Khi sang Nga làm việc cho ban Phương Đông, Hình Chí Mô đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình và sau này cầm nhầm luôn tài liệu đó, tự cho mình là tác giả. Dư luận này đã được nhiều người chú ý và cho là khả tín.
                Phạm Quang Trình, trong quyển Chiến đấu (tr. 275), cũng đặt nghi vấn tương tự: “ Có điều lạ là trong thời kỳ này, nhiều bút tích ký tên là Nguyễn Ái Quấc (lối nói của người miền Nam) chứ không phải là Quốc như lối nói của người miền Bắc và miền Trung ( bản in ghi là Quốc khác với bút tích là Quấc), vậy phải chăng có hai hay một nhóm người dùng tên Nguyễn Ái Quốc mà sau này Hình Chí Mô cố ý cầm nhầm chăng? ”

                3- Trong tác phẩm Chân Tướng Hồ Chí Minh (trang 47), Cao Thế Dung cũng nhận xét về sự việc mạo nhận bút danh Nguyễn Ái Quốc như sau: “ Nhóm Nguyễn Ái Quốc với cái tên chung xuất hiện trên một số báo như L’Humanité, Le Libertaire, La Vie Ouvrière cũng đều do Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền viết. Hình Chí Mô cũng nhìn nhận khả năng tiếng Pháp học trò của ông, nhưng lanh tay chôm tên Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đã nổi tiếng trên báo L‘Humanité của đảng Cộng sản Pháp. Với tên Nguyễn Ái Quốc này, Hình Chí Mô đi vào cộng đồng cộng sản và thiên tả Pháp. Hắn ta được Nguyễn Thế Truyền giới thiệu với các đồng chí của ông trong đảng Xã Hội và từ đảng Xã Hội, Hình Chí Mô nhảy qua đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện minh chứng rất rõ rệt, không có luật sư Phan Văn Trường và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền thì không có Nguyễn Ái Quốc. Cái danh Nguyễn Ái Quốc và Bản Án Thực Dân Pháp là sản phẩm của Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền”.

                4- Một nhân chứng ở Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng nhận xét về ý đồ dùng tên giả của Hồ Chí Minh như sau (Trích Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, tr. 327): “Tuy nhiên, xét kỹ thì một người đã mượn họ tên khác đặt vào mình trong một địa vị cao quý nhất của một nước, người ấy ắt có một tâm địa tráo trở. Vì lẽ gì đã phải giấu tên thực với quốc dân, với quốc tế? Những ngày đầu của chính quyền Việt Minh, trên mặt các báo có thấy nói đến tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng dụng ý là úp mở cho biết Hồ Chí Minh ngày nay tức là Nguyễn Ái Quốc trước ”


                Đợi cho vị lục sự dứt lời, Thôi Phán Quan hắng giọng.
                - Sau đây là một tài liệu khác chứng tỏ cho chúng ta biết tên Nguyễn Ái Quốc là của người khác chứ không phải của Hình Chí Mô đặt ra. Hắn là kẻ ăn cắp hay chôm chỉa tên của người khác. Tài liệu này mang tên '' Về Trình Độ Tiếng Pháp của Hình Chí Mô '' của trang mạng DDTK. Tôi sẽ trình bày cho bồi thẫm đoàn và quí vị khán thính giả thấy để biết về trình độ tiếng Pháp của bị can Hình Chí Mô...

                Vừa dứt lời Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Màn ảnh truyền hình sáng lên và những dòng chữ từ từ hiện ra và mọi người đều thấy rõ:
                - Trong bài « Dối trá cuối cùng phải bại lộ » của Cam Vũ ngày 16/4 vừa qua có đăng nguyên văn những câu hỏi và câu trả lời trong cuộc phỏng vấn Hình Chí Mô do một nhà báo Pháp thực hiện năm 1964. Từ lời lẽ ghi âm trong phim, ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã có công ghi thành văn bản.

                Sau khi đọc bài này, một số độc giả đã góp ý kiến với Tòa soạn rằng mặc dù ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã viết trong lời giới thiệu « những lỗi Pháp ngữ vô số, những lỗi văn phạm sơ đẳng» nhưng vì họ không rành tiếng Pháp nên muốn biết cụ thể những lỗi ấy là như thế nào.
                Sau đây chúng tôi xin đăng một bản phân tích các lỗi trong các câu trả lời của ông Hồ Chí Minh do nhà báo Bút Vàng thực hiện bằng cách đánh dấu và chú thích ngay trong văn bản được ông Nguyễn Ngọc Quỳ ghi lại. Xin mời quý độc giả theo dõi dưới đây.DĐTK
                (Bút Vàng chú thích những chỗ sai bằng cách tô màu đỏ và màu tím)


                Nguyên văn phỏng vấn và trả lời bằng tiếng Pháp của Hình Chí Mô và một ký giả Pháp. Những dòng in đậm là câu trả lời của Hình Chí Mô.

                - Est-ce que vous pensez, Monsieur le Président, qu’il y a une solution militaire à la guerre du Sud Viêt Nam ?

                - Non, parce que ah, vous savez bien que le peuple Viêt Nam, c’est un Un,(un un là cái gì ? Đâu có ai nói tiếng Pháp như thế ?) et le pays du Viêt Nam, c’est Un. Les Américains veulent faire une guerre d’agression, comme qu’ils disent, (thừa chữ que) une guerre non déclarée. Comme vous savez aussi, vous avez pu lire dans la presse mondiale, que plus la guerre prolonge, (phải là "la guerre se prolonge" thì mới đúng) plus les Américains et leurs valets, n' est ce pas, comment dire ça, (se tournant vers quelqu’un à côté), sa lầy… s’enliser… et plus, ils supportent des échecs comme vous savez là récemment.
                -Par conséquent, la guerre ne peut pas durer éternellement, et je suis très heureux que les politiciens haut placés français ont reconnu cela (aient reconnu mới đúng văn phạm).
                - Vous pensez que le général de Gaulle pourrait en quelque sorte, à un certain moment, arbitrer le conflit ?
                -Arbitrer ! Qu’est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne sommes pas des équipes de foot ball. Rire et ricanement.
                - Au-delà des Accords de Genève si je ne me trompe, une idée du général de Gaulle est la neutralisation de tout le Sud-Est Asiatique. Est-ce c’est une idée qui vous paraît intéressante ?
                - Comme j’ai déjà dit quelquefois, c’est une idée intéressante, mais ça dépend la volonté (depend de la volonté mới đúng) de ces peuples, et… la manière comment on procède.(bồi, dịch nguyên văn tiếng Việt) . à la réaliser. C’est une grande question. n’est-ce pas ?. et je ne peux pas dire que je suis d’accord, n’est-ce pas ?…je ne dis pas que je ne suis pas d’accord, n’est-ce pas ? Parce que.. vous dites fleurs, fleurs ; il y a beaucoup de sortes de fleurs, il y a des roses, des blanches, des rouges, etc... des fleurs qui sentent bon, d’autres qui ne sentent pas bon… , mais on dit fleurs, n’est-ce pas ?
                - Monsieur le Président, nous avons constaté avec chagrin au cours de notre voyage au Nord Viêt Nam, que l’influence française est devenue à peu près inexistante dans votre pays. Les moins de 25 ans ne comprennent plus du tout le français. Et je me demande si, à votre idée, des rapports peuvent se rétablir tels que la France continue à jouer… une sorte de rôle culturel ?
                - Avec la France surtout, et avec tous les autres pays, nous voulons avoir une coopération amicale, culturelle, économique, etc… , mais je suis sûr que vous ne voulez pas avoir (phải xóa bỏ chữ avoir mới đúng), n’est-ce pas, que la France ait l’influence qu’elle avait avant, … c’est une autre chose … mais coopération culturelle, économique, qu’est ce qu’il y a encore ?, sportive par exemple, etc…etc… nous, nous désirons.
                - Si la guerre se cristallise au Sud et se poursuit encore pendant quelques années, pensez-vous que l’avenir économique du Nord Viêt Nam soit viable ?
                - Je suis sûr que ça (?) non seulement viable (câu thiếu verbe être, phải viết là c'est), mais ça progresse. Parce que vous avez vu vous-même, vous avez constaté vous-même que, ici, nous travaillons beaucoup, notre peuple travaille beaucoup, avec abnégation, n’est-ce pas?, et avec dévouement, avec enthousiasme.
                D’un côté, nous travaillons pour…, comment dirais-je, pour principalement, n’est-ce pas, de nos propres forces, et aussi nous avons l’aide fraternelle des pays socialistes.
                Jusqu’ici, nous avons déjà réalisé des progrès, pas tant comme nous le voulons, nous avons réalisé des progrès et dans l’avenir, nous progressons nous-mêmes.
                - Vous mentionnez là l’aide des pays socialistes. Est-ce que cette aide ne s’est pas trouvée légèrement compromise à la suite du conflit idéologique entre la Russie et la Chine ?
                - Non,…… parce que ces questions, n’est-ce pas, n’est pas différence idéologique (ces questions là số nhiều, phải dùng ne sont pas mới đúng) entre nos différents partis-frères, c’est nos affaires intérieures ; ça passera, et l’union…l’unité, ça se fera. Mais l’aide fraternelle continue, continuera, c’est très précieuse pour nous.
                - Certains ont l’impression chez nous, Monsieur le Président, que le Nord Viêt Nam se trouve actuellement assez isolé, asphyxié même, et, politiquement , il ne pourra difficilement éviter de devenir une sorte de satellite de la Chine. Qu’est-ce que vous répondez à ça ?
                JAMAIS !! (Comme un cri)

                Trong lúc mọi người đọc những dòng chữ trên màn ảnh, Bình quay qua cười hỏi Huyền.
                - Ở bên Tây ba mươi năm chị nghĩ sao về trình độ nói và viết tiếng Tây của Hình Chí Mô?

                Mỉm cười Huyền trả lời chậm.
                - Có mấy câu trả lời mà ổng nói còn trật tới trật lui thì làm sao ổng viết nổi quyển Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Ba ông Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Nguyễn Thế Truyền viết thì còn có lý hơn nhiều... Viết sai chính tả người ta cười chết...
                Thấy màn ảnh tắt, Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can. Nhếch môi cười ông ta cao giọng thốt.
                - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Sau đây thêm một bài viết mà âm phủ đã tìm được nói về trình độ tiếng Pháp của Hình Chí Mô với tựa đề '' Đơn xin nhập học sai lỗi chính tả ''. Khi vừa đến Pháp, ông liền viết đơn xin học Trường Thuộc địa ở Paris, nơi đào tạo quan chức phục vụ cho các thuộc địa của Pháp trong đó có Đông Dương. Đơn viết làm 2 bản đề ngày 15-9-1911 gởi cho Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trong đơn xin học nầy, ông đã viết tay một cách nắn nót và ký đề tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Đơn không được chấp thuận vì trường chỉ nhận tuyển sinh do sự đề cử của chính quyền các nước thuộc địa. Nhưng khi viết đơn, ông đã phạm một lỗi chính tả (faute d’orthographe) rất sơ đẳng, chứng tỏ trình độ Pháp văn của ông rất thấp kém. Trong đơn, đúng ra phải dùng chữ subsistance là kế sinh nhai, thì ông lại viết sai thành chữ substance có nghĩa là chất liệu. Với những vị cao niên từng thân thuộc với nền học vấn Pháp thời Pháp thuộc, thì cái lỗi chính tả Hồ Chí Minh phạm phải là một lỗi rất nặng, giống như khi làm toán mà sai con toán phải bán con trâu vậy. Về cái lỗi chính tả trong đơn xin nhập học nầy, xin có lời dẫn giải thêm sau đây.

                Nguyên cha của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Huy có quen với cụ Bùi Thức là cha của Bùi Kỷ, trong dịp gặp nhau tại trường thi, lui tới với nhau khi chờ đợi kết quả. Khoa thi Hội 1898, cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, còn cụ Nguyễn Sinh Huy, đến năm 1901, mới đỗ Phó bảng. Thi đỗ xong, cụ Sinh Huy đưa con mình là Tất Thành ra Bắc thăm cụ Bùi Thức ở làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ rất giỏi, mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng, đã học trường Thông ngôn, và được học bổng sang Pháp học trường Thuộc địa từ tháng 2 năm 1911. Lúc Nguyễn Tất Thành mang tên Văn Ba đến Pháp, đi thăm cụ Phan Châu Trinh ở Paris, nhân đó đã gặp lại người quen cũ Bùi Kỷ. Có thể tại nhà cụ Phan, Bùi Kỷ đã gợi ý và thảo lá đơn xin nhập học cho Nguyễn Tất Thành chép lại. Và có lẽ vì trình độ Pháp văn còn thấp kém, trông gà hóa cuốc, bản thảo của Bùi Kỷ viết là subsistance mà Nguyễn Tất Thành chép lại sai thành substance chăng?

                Trong thời gian thật dài 72 năm (từ 1911 đến 1983), lá đơn sai lỗi chính tả ấy đã nằm yên trong văn khố của Bộ Hải Ngoại Pháp quốc mà không ai biết cho tới khi hai sử gia Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu tìm được và nêu ra trong tác phẩm Một Ngôi Trường Khác cho Nguyễn Tất Thành...

                Căn phòng xử im lặng rồi lát sau có tiếng xì xào nho nhỏ. Bước trở lại bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ đưa lên cao, vị đại diện cho luật pháp của âm phủ thốt. Không cần qua hệ thống khuếch đại âm thanh mà giọng nói của ông ta rền vang căn phòng xử chứa mấy ngàn người.
                - Không ai không biết tới tên Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung. Họ là những anh hùng dân tộc, những anh hùng thứ thiệt vì toàn thể dân Việt đã ban cho họ để cám ơn những gì họ đã đóng góp cho đất nước trong công cuộc chống ngoại xâm giành lấy độc lập và tự do cho tổ quốc. Hình Chí Mô cũng là '' anh hùng dỏm '', anh hùng tự phong hay tự xưng. Chỉ có những kẻ mặt dầy mới dám tự xưng mình là anh hùng. Chỉ có kẻ không có lòng tự trọng mới viết sách, làm thơ ca tụng chính mình. Để chứng minh cho lời nói đó tôi mời quí vị nghe câu chuyện sau đây.

                '' Năm 1950, Hình Chí Mô viếng thăm đền thờ Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn ở Kiếp Bạc và xuất khẩu thành bài thơ bảy chữ tám câu:

                Bác anh hùng tôi cũng anh hùng,
                Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
                Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
                Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
                Bác đưa một nước qua nô lệ
                Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
                Bác có linh thiêng cười một tiếng
                Rằng tôi cách mạng đã thành công...


                Nghe tới đây Diêm Vương vỗ bàn cái rầm cất giọng oang oang.
                - Tên Hình Chí Mô này mất dạy quá. Hưng Đạo Vương đã được Trời phong làm thần vì có công lao to lớn với đất nước. Ta gặp Hưng Đạo Vương còn phải gọi là '' ngài ''. Ngươi là thằng giả anh hùng, thứ sở khanh, chuyên môn chôm chỉa, ăn cắp, giết người, không có thứ tội ác nào không làm mà dám xưng '' bác bác tôi tôi '' với ngài Hưng Đạo Vương. Ngươi là thằng vô lễ, vô giáo dục, ngạo mạn, lại thêm không biết xấu hổ. Bây đâu... Đè nó ra quất vào đít nó chục roi để chừa cái tội vô lễ và xấc xược...
                Thấy Diêm Vương nổi cơn thịnh nộ, Thôi Phán Quan vội bước tới thì thầm. Không biết ông ta nói gì mà ông vua âm phủ gật đầu gằn giọng.
                - Khanh nói như thế thì ta cũng tạm bỏ qua cho hắn. Sau khi phiên tòa xong ta sẽ đặt vấn đề với hắn...

                Mỉm cười Thôi Phán Quan vừa đi tới chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi vừa cao giọng thốt.
                - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Tội ăn cắp tên của Hình Chí Mô chưa hết đâu. Ở Pháp bị can ăn cắp tên Nguyễn Ái Quốc của người khác. Thời gian sau khi hoạt động ở Tàu bị can lại ngựa quen đường cũ, đi ăn cắp tên của một người nữa. Ngoài ra với những gì học hỏi được từ các khóa huấn luyện về ngành điệp báo của các cơ quan tình báo của Nga Tàu, bị can lại giở thủ đoạn ăn cướp hay sang đoạt danh tánh các đảng phái cách mạng đang hoạt động chống Pháp tại Tàu. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe qua một tài liệu nhan đề: Tên Hồ Chí Minh là của ai?
                ( Đoạn văn có chữ in nghiêng dưới đây là bài trích dẫn của 1 tác giả mà người viết xin lỗi không nhớ tên và nguồn trích dẫn )

                Biệt danh Hồ Chí Minh lại cũng không phải là tên cúng cơm của Hình Chí Mô. Trong quyển Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (tr. 238 sđd): “ Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Qua Xiêm lánh nạn đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem cả hai sang Tàu cư ngụ ”.

                Trong chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi, vợ cụ Hồ Chí Minh thật và viết tiếp: “ Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng ở Tàu thì bao nhiêu năm bà Khôn Nghi cũng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng VN ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”

                Người có tên Hồ Chí Minh thật đó tức là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, vị anh hùng đã hy sinh như một liệt sĩ dân tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng, mang quân hàm trung tá, thành viên sáng lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che giấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu, và chiếm luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân quốc dưới quyền Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận Cộng sản).

                Đến bây giờ, chúng ta đã biết Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, còn Hồ Chí Minh giả là con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi lại là Nguyễn Tất Thành. Biết là biết vậy thôi, nhưng giả đã biến thành thật quá lâu rồi, cho nên ta cứ đọc và hiểu rằng Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, cùng với biết bao giả danh khác nữa! Nhưng biết là biết vậy thôi, cũng chưa đủ.
                Khi biết có hai Hồ Chí Minh, thì phải biết thêm một án mạng, nạn nhân là con gái Hồ Học Lãm, tức con của cụ Hồ Chí Minh thật. Chuyện do tác giả Nguyễn Thái Hoàng ghi chép trong bài Chân dung Hồ Chí Minh qua bài vè dân gian (Bài viết tại Hà Nội tháng 3-2006, Bán tuần báo Việt Luận đăng tải trong số 2052 ngày 17-3-2006), nguyên văn như sau: “Khi con gái ông Lãm phát hiện ra, làm ầm ỉ trước cửa Phủ Chủ tịch (Hà Nội) vào năm 1946, thì không biết Hình Chí Mô sai bảo ra sao mà trên đường bà này về thăm quê ở Thanh Hóa đã bị thủ tiêu một cách bí mật”.

                Liếc lên tường thấy đã tới giờ ăn trưa, Thôi Phán Quan cười lên tiếng.
                - Tôi xin chấm dứt về chuyện ăn cắp tên người khác của bị can Hình Chí Mô ở đây. Sau khi ăn trưa xong, trong phiên xử kế tiếp tôi sẽ trình bày thêm về tội lừa gạt của Hình Chí Mô...

                Comment


                • #23
                  Tên '' lái buôn người ''


                  - Năm 1923, ông rời nước Pháp đi qua Đức rồi từ Đức qua Nga. Đúng không?
                  - Đúng... Tôi thừa nhận chuyện đó.
                  Hình Chí Mô trả lời. Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
                  - Ông đi qua Liên Xô để làm gì?
                  Do dự giây lát họ Hình mới thong thả trả lời.
                  - Tôi muốn thăm nước Liên Xô...
                  - Vào năm 1915, ông từng lưu trú ở thành phố Boston của nước Mỹ. Năm 1916 ông rời nước Mỹ tới ở nước Anh. Năm 1917 ông trở lại nước Pháp cho tới năm 1923 mới đi qua Liên Xô. Tôi mạn phép hỏi lý do gì làm cho ông thăm viếng các nước đó?
                  Dường như muốn giải thích cho rõ ràng câu hỏi của mình, Thôi Phán Quan tiếp nhanh.
                  - Như ông đi du lịch, kiếm cách mưu sinh, thay đổi chỗ ở vì sinh kế hoặc để học hỏi những cái hay cái đẹp của các nước tư bản...

                  Liếc nhanh bồi thẫm đoàn, Hình Chí Mô từ từ trả lời câu hỏi.
                  - Như tôi đã xác nhận ở trên. Tôi đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc tôi khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp...
                  - Đi làm cách mạng đè mà khoe hoài... Thôi bỏ đi tám...

                  Diêm Vương hướng mắt về chỗ có tiếng nói phát ra. Hình Chí Mô nhìn Thôi Phán Quan. Vị biện lý của âm phủ mỉm cười hắng giọng.
                  - Âm phủ có tự do ngôn luận nên thiên hạ ai muốn nói gì cũng được. Mời ông cho nghe tiếp...
                  - Vì lý do làm cách mạng do đó tôi phải tìm hiểu cái sở trường và sở đoản của xã hội tư bản. Vào thời buổi đó bốn nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô là khuôn mẫu cho xã hội tây phương. Vì vậy mà tôi muốn tìm hiểu để học hỏi cái hay cái đẹp của người để sau này áp dụng vào đất nước tôi. Ngài biện lý cũng biết là thời buổi đó văn minh cơ khí của tây phương đã dấy lên và tràn lan khắp nơi...
                  - Ngoài mục đích học hỏi ông còn có mục đích gì khác hơn?
                  Hơi nghĩ ngợi giây lát Hình Chí Mô mới trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.
                  - Ngoài chuyện học hỏi tôi cũng có ý tìm kiếm một sự giúp đỡ khác...

                  Vừa thấy Thôi Phán Quan mở miệng, Hình Chí Mô biết thế nào ông ta cũng hỏi nên hắn mau mắn trả lời.
                  - Sau khi ở Hoa Kỳ, Anh và Pháp thời gian, tôi thấy ba nước này không giúp ích gì được cho tôi trong chuyện cách mạng giải phóng dân tộc nên tôi mới tính đường sang Liên Xô...
                  Khẽ gật gù vị biện lý âm phủ cười buông một câu hỏi.
                  - Năm 1920 ông có tham dự hội nghị của Đảng Xã Hội Pháp. Đúng không?
                  - Đúng...
                  - Ông bỏ phiếu ủng hộ Đệ Tam Quốc Tế hay là Quốc Tế Cộng Sản do Lê Nin thành lập vào tháng 3 năm 1919. Cũng trong hội nghị này ông trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản Pháp. Đúng không?

                  Hình Chí Mô chưa vội trả lời. Nhìn vào xấp tài liệu mà Thôi Phán Quan đang cầm, hắn có vẻ suy nghĩ. Dĩ nhiên hắn đủ khôn ngoan để biết là vị biện lý âm phủ đã nắm trong tay những hồ sơ về các hoạt động của mình. Nếu phủ nhận thì lòi ra tội nói dối. Như thế sẽ mất điểm với bồi thẫm đoàn.
                  - Ngài biện lý nói không sai...
                  Hình Chí Mô giảo hoạt ở chỗ không nhìn nhận đúng mà chỉ nói không sai. Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
                  - Ông qua Nga năm 1923 tức là sau khi Lê Nin thành lập nước Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết gọi tắt là Liên Xô. Đúng không?
                  - Đúng...
                  - Ông tự động đi hay Đảng Cộng Sản Pháp phái ông đi qua Liên Xô?
                  - Tôi tự động đi nhưng tôi xin Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ lộ phí...
                  - Ông làm gì khi tới Liên Xô năm 1923?

                  Nhìn nụ cười của vị biện lý Hình Chí Mô biết mình không thể nói dối vì ông ta đã nắm được tài liệu. Cách hay nhất là khai thật.
                  - Tôi tham dự Đại Hội Quốc Tế Nông Dân được mở ra vào tháng 3...
                  - Rồi ông làm gì nữa?
                  - Lấy danh nghĩa đại diện cho Đảng Cộng Sản Pháp, tôi tham dự Đại Hội Kỳ 5 của Đệ Tam Quốc Tế được mở ra từ tháng 17 tháng 6 tới ngày 8 tháng 7 năm 1924. Sau đó tôi được giao cho làm nhân viên trong Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế...
                  - Điều này có nghĩa là ông là đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Đúng không?
                  - Không đúng...
                  - Ngoài chuyện trở thành nhân viên của Ủy Ban Tuyên Truyền của Đệ Tam Quốc Tế, ông còn làm việc gì, bất cứ việc gì?
                  Thôi Phán Quan nhấn mạnh bốn tiếng '' bất cứ việc gì ''. Do dự giây lát Hình Chí Mô lắc đầu.
                  - Tôi chỉ làm nhân viên tình nguyện cho Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế thôi mà không có làm việc gì khác hơn nữa...
                  Nghe bị can trả lời như thế, Thôi Phán Quan cười nhạt.
                  - Sau thời gian ở Liên Xô thì ông đi đâu?
                  - Năm 1924 tôi rời Liên Xô đi qua Quảng Châu thuộc vùng Hoa Nam của Tàu. Vùng này gần với Việt Nam do đó rất tiện cho tôi liên lạc với các đảng phái quốc gia của Việt Nam chống Pháp đang hoạt động tại đây...
                  - Ông làm gì để sống trong thời gian ở Quảng Châu?
                  - Tôi bán báo, bán thuốc lá để sống qua ngày. Cuộc sống rất vất vả và bận bịu. Một bữa nọ thấy trên báo cần thông dịch viên nên tôi tới xin làm thông dịch viên cho ông Borodin. Đây là phái bộ của Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của ông Tôn Dật Tiên...
                  - Họ trả lương cho ông bao nhiêu?
                  - Đủ cho tôi sống...
                  Thôi Phán Quan hỏi dồn có lẽ vì câu trả lời của bị can không làm ông ta hài lòng.
                  - Đủ cho ông sống là bao nhiêu?
                  - Tôi làm cách mạng nên đời sống rất giản dị...
                  Cười cười Thôi Phán Quan bước tới chỗ Đán và Bình đang ngồi cùng với giọng nói của ông ta cao lên.
                  - Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Bị can Hình Chí Mô nói đi bán báo và thuốc lá để sống qua ngày trong lúc lưu trú tại Quảng Châu là hắn nói dối. Cũng như việc hắn đọc báo thấy đang tin cần thông dịch viên nên mới tới xin làm thông dịch cho Borodin là gian trá. Sau khi nghe qua đoạn tài liệu này quí vị sẽ biết rõ sự thực...
                  Dứt lời Thôi Phán Quan trao cho vị lục sự một xấp giấy. Mọi người im lặng lắng nghe giọng đọc rõ ràng của vị lục sự.
                  - Trong ngày Lễ Lao động 1-5-1924, tại Mạc Tư Khoa, thủ đô của Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc được đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc Tế Cộng sản sau lá cờ đỏ thêu hàng chữ '' Chúng tôi nguyện đem Lá Cờ của Người đi khắp thế giới ''. Chữ Người của khẩu hiệu trên là Lênin, lá cờ là Cờ Búa Liềm của Liên Xô, còn khẩu hiệu trên là mục tiêu tranh đấu của Cương lĩnh Lênin về vấn đề thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc còn đi xa hơn nữa khi long trọng hứa hẹn với Manuilski như sau: “ Tôi (Nguyễn Ái Quốc) còn chịu trách nhiệm trước Quốc Tế Nông Dân về tham gia chỉ đạo phong trào nông dân châu Á ”. Manuilski tuyên bố trao cho Nguyễn Ái Quốc trọng trách lớn hơn: “ Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chấp thuận đề nghị của đồng chí. Quốc tế Cộng sản cử đồng chí làm ủy viên ban Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước Đông Nam châu Á ”. Nguyễn Ái Quốc hứa với Manuilski: “ Tôi tin rằng lần sau gặp đồng chí thì Tổ quốc Việt Nam của tôi đã có đảng Cộng sản ”. Cũng vì lời hứa đó, ngày 25-9-1924, Ban Chấp Hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định: “ Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ ”...
                  - Hắn đúng là cộng sản thứ thiệt rồi Anh Bảy ơi...

                  Một người nào đó lên tiếng. Giọng nói già nua vang lên.
                  - Dĩ nhiên hắn là cộng sản thứ thiệt. Cái gì của Hình Chí Mô cũng giả trá hết trừ cái chuyện hắn là cộng sản thì thật...
                  Cười cười khi nghe lời phát biểu trên, hướng về 9 vị bồi thẫm đang ngồi, vị biện lý của âm phủ tiếp tục cuộc chất vấn.
                  - Ngày 11 tháng 11 năm 1924 ông rời Liên Xô tới Quảng Châu thuộc Hoa Nam của Tàu?
                  - Đúng không?
                  - Đúng...
                  - Ông là phụ tá kiêm thông dịch viên cho Borodin, trưởng đoàn trong phái bộ của Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa của Tôn Dật Tiên. Đúng không?
                  - Đúng...
                  - Như vậy ông là nhân viên của Liên Xô. Chắc họ trả lương cho ông nhiều lắm?
                  Hình Chí Mô lắc đầu quầy quậy.
                  - Tôi tình nguyện làm việc mà không có lương hướng gì hết. Tôi muốn theo phái đoàn của ông Borodin để tới đất Tàu hoạt động cách mạng. Những gì mà ông nói ở trên là tôi chỉ hứa hẹn với Liên Xô để họ giúp tôi chống lại thực dân Pháp...
                  Thôi Phán Quan cười nhạt khi nghe lời bào chữa của bị can.
                  - Thế ông làm gì để sống trong thời gian ở Quảng Châu?
                  - Như tôi đã nói là tôi làm thông ngôn cho ông Borodin. Liên Xô không có trả lương mà chỉ cho tôi chỗ ăn ở và chút ít xài vặt...
                  Nhẹ gật đầu, Thôi Phán Quan nói với 9 vị bồi thẫm đồng thời cũng muốn nói cho mọi người đang hiện diện trong phòng xử.
                  - Bị can nói là bị can bán báo, bán thuốc lá, rồi đọc mục rao vặt trên báo thấy tin cần người thông ngôn nên bị can tới xin việc với phái bộ Liên Xô của ông Borodin. Chuyện đó hoàn toàn bịa dặt. Sự thật trong lịch sử bang giao Nga Hoa trong thời gian Tôn Dật Tiên còn chủ trương Liên Nga Dung Cộng thì phái bộ Borodin được Nga phái sang Quảng Châu cố vấn cho Trung Hoa Dân quốc có đồng chí Nguyễn Ái Quốc (dưới ám danh Lý Thụy) tháp tùng với mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ. Liên Xô trả lương hàng tháng cho bị can 60 rúp. Chuyện này không ai biết vì bị ông ém nhẹm luôn. Tới năm 2002, nữ tiến sĩ người Mỹ tên Sophia Quinn-Judge đã tìm thấy trong văn khố của Nga Sô một ngân phiếu 5000 rubles của Quốc Tế Nông Dân gởi cho Nguyễn Ái Quốc vào tháng 8-1925. Số tiền 5000 rubles tương đương với 2500 Mỹ kim vào lúc đó...

                  Nhìn thẳng vào mặt Hình Chí Mô, Thôi Phán Quan gằn giọng.
                  - Nếu chỉ làm viên thông ngôn thường thì tại sao Liên Xô lại gởi cho ông số tiền lớn như vậy. Ông phải là một đảng viên quan trọng thì họ mới gởi nhiều tiền cho ông. Đúng không?
                  Hình Chí Mô làm thinh. Im lặng đồng nghĩa với thừa nhận. Bắt gặp Thôi Phán Quan liếc mình ra hiệu, Diêm Vương hội ý bèn lên tiếng.
                  - Ngươi biết điều thì khai thật đi... Ta biết hết chuyện ngươi làm tuy nhiên ta muốn biết ngươi có thành tâm hối cải...
                  - Bẫm Diêm Vương con đâu có làm gì quấy đâu. Con chỉ nhờ họ cấp tiền để con làm cách mạng...
                  - Thằng này ngoan cố lắm...
                  Diêm Vương nói với Thôi Phán Quan. Khẽ gật đầu như đồng ý, vị biện lý của âm phủ cười nhẹ nói với bồi thẫm đoàn.
                  - Bị can là nhân viên lãnh lương của Đệ Tam Quốc Tế để thực hiện công tác thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Bị can được trả lương 200 rubles tức tương đương với 100 đô la một tháng vào năm 1924. Sau đây là lá thư của bị can xin được trả lương.

                  THƯ GỬI BAN CHẤP HÀNH QUỐC TẾ CỘNG SẢN

                  Từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau 3 tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc . Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định. Vậy chuyến đi sẽ là một chuyến đi để khảo sát và nghiên cứu.
                  A- Thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.
                  B- Thông báo cho Quốc tế Cộng sản về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của thuộc địa này.
                  C- Tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó
                  D- Tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền.
                  Tôi hành động thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Số tiền cần thiết cho sự ăn ở của tôi sẽ là bao nhiêu? - Hẳn là tôi sẽ phải đổi chỗ luôn, duy trì những mối liên hệ với các giới khác nhau, trả tiền thư tín, mua những ấn phẩm nói về Đông Dương, tiền ăn và tiền trọ, v.v., v.v.. Tôi tính rằng, tôi cần phải có một ngân sách xấp xỉ 100 đôla Mỹ mỗi tháng, không kể hành trình Nga - Trung Quốc (vì tôi không biết giá vé).
                  Ngày 11-4-1924.
                  Nguyễn Ái Quốc


                  Bị can nói đi làm cách mạng, đời sống thiếu thốn và kham khổ song thực ra bị can được Đệ Tam Quốc Tế cấp nơi ăn chốn ở. Khi được cấp nhà nhỏ quá thì bị can than và không đồng ý, kêu nài phải xét lại và cho một chổ ở thoải mái hơn. Trong thư kêu nài về nhà ở, bị can viết:

                  Gửi Đồng Chí PÊTƠRỐP, Chủ Tịch BAN PHƯƠNG ĐÔNG
                  Tôi đã nhận được bức tối hậu thư của Sở quản lý nhà giục phải trả 40 rúp 35 côpếch về chỗ ở của tôi, không có thì tôi sẽ bị đưa ra toà. Trong những tháng mười một, tháng mười hai, tháng giêng và tháng hai tôi thuê phòng số 176, ở đây bao giờ cũng có 4 và 5 người thuê. Ban ngày thì tiếng ồn liên tục ngăn trở tôi làm việc. Ban đêm tôi bị rệp ăn thịt, không cho tôi nghỉ ngơi. Từ tháng ba, tôi nhận một phòng nhỏ, rất nhỏ. Sở quản lý nhà buộc tôi gánh 13 rúp 74 cho tháng ba, và 11 rúp 61 cho những tháng sau.

                  So sánh không gian hẹp và trang bị quá đơn sơ với các phòng khác rộng hơn nhiều, tiện nghi hơn, có nhiều đèn, điện thoại, tủ, ghế bành dài, phòng tắm, v.v. và tiền thuê thoả đáng thì giá mà người ta muốn buộc cho tôi là hoàn toàn đáng công phẫn. Vì vậy tôi xin đồng chí vui lòng làm một cuộc điều tra. Và sau cuộc điều tra đó, với mọi quyết định của mọi toà án, tôi tuân theo tinh thần của đồng chí về công bằng và bình đẳng.

                  3-1924
                  Nguyễn Ái Quốc


                  Các điều trên cho ta biết sự dối trá, lọc lừa của bị can. Hắn dối trá với mục đích gì? Chẳng qua là để lừa gạt những phần tử cách mạng chân chính của các đảng phái quốc gia đang hoạt động ở Quảng Châu. Muốn được sự ủng hộ của họ, bị can phải giấu mình là đảng viên của cộng sản quốc tế, được trả lương để thiết lập Đảng Cộng Sản Đông Dương rồi sau đó biến ba nước Việt Miên Lào thành cộng sản... Để chứng minh bị can Hình Chí Mô không bao giờ có thực tâm vì dân tộc và tổ quốc Việt Nam, tôi sẽ trình bày một câu chuyện sau đây...
                  Dứt lời Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Hình Chí Mô cùng với câu hỏi bật ra mà khi nghe xong ai ai cũng đều thắc mắc dù không nói ra. Họ nghĩ câu hỏi của ông ta lạc đề.
                  - Ông có làm nghề buôn bán bao giờ chưa?
                  Hình Chí Mô cau mày. Ông ta ngạc nhiên vì câu hỏi đi ra ngoài lề của phiên xử. Dù vậy ông ta vẫn cẩn thận trả lời.
                  - Xin lỗi ngài biện lý... Tôi chưa bao giờ làm nghề buôn bán bất cứ thứ gì...
                  Thôi Phán Quan cười cười thốt.
                  - Tôi nghĩ ông có làm nghề buôn bán và ông rất thành công trong cái nghề buôn bán người...
                  Có tiếng xì xầm nho nhỏ trong căn phòng xử im lặng rồi sau đó câu nói vang lên.
                  - Cha biện lý này gớm thật...
                  - Kính thưa quí vị. Để chứng minh bị can Hình Chí Mô là kẻ chuyên môn mua bán người, tôi xin mời một người lên làm chứng...
                  Hướng về nơi dãy bàn các nhân chứng đang ngồi, Thôi Phán Quan cao giọng.
                  - Kính mời ông Nguyễn Công Viễn lên ngồi vào ghế nhân chứng...
                  Đán với Bình đều nhận thấy Hình Chí Mô tỏ ra có vấn đề khi thấy nhân chứng xuất hiện. Dường như hắn ta nhận ra điều mà Thôi Phán Quan định làm. Vị biện lý hỏi liền sau khi nhân chứng làm xong mọi thủ tục.
                  - Xin ông vui lòng cho tòa biết sơ qua về ông...
                  Khẽ gật đầu Nguyễn Công Viễn nhỏ nhẹ thốt.
                  - Tôi tên thật là Nguyễn Công Viễn nhưng tôi còn có tên khác là Lâm Đức Thụ...
                  - À thì ra là thế...
                  Có giọng của người nào đó vang lên. Đoán người vừa lên tiếng quen biết với mình nên họ Lâm mỉm cười tiếp.
                  - Tôi sinh ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Tôi cũng sinh năm 1890, cùng tuổi với Nguyễn Tất Thành. Hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu tôi muốn được sang Nhật Bản học hỏi song vì hoàn cảnh nên khi cụ Phan đi qua Tàu thì tôi tháp tùng theo cụ qua Quảng Châu. Tại đây cụ Phan lập ra Việt Nam Quang Phục Hội thì tôi cũng gia nhập hội này. Cũng tại Quảng Châu tôi gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này với bí danh là Lý Thụy...
                  - Lúc này ông có biết Lý Thụy là đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế chưa?
                  - Tôi chưa biết. Tôi cứ nghĩ Quốc cũng là thành phần quốc gia chống Pháp nên lấy tình thực mà đãi hắn. Tôi mang hắn về nhà tôi ở. Sau đó hắn nhờ tôi kiếm cho một cô vợ Tàu để bớt cô đơn trong khi lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp hắn nên tôi mới bàn với vợ tôi làm mai em vợ là cô Lương Huệ Khanh cho Quốc...
                  - À... thì ra là thế...

                  Thôi Phán Quan mỉm cười khi nghe câu nói của người nào đó.
                  - Lợi dụng tình quen biết cộng thêm với sự tuyên truyền lão luyện của một điệp viên, Quốc dẫn dụ tôi đi theo cộng sản. Lúc đó tôi mới biết hắn là đảng viên của Cục Phương Đông thuộc Quốc Tế 3. Cũng nhờ sự trợ giúp ngầm của tôi mà Quốc mới xâm nhập vào Tâm Tâm Xã rồi sau đó chiêu dụ được các thành viên của tổ chức này theo hắn. Tuy nhiên hắn vẫn không cho bất cứ ai biết hắn là cộng sản trừ tôi. Bên ngoài hắn vẫn mang cái lốt người quốc gia chống Pháp. Chỉ trong vòng bảy tháng thôi, Quốc đã nắm quyền chỉ huy Tâm Tâm Xã rồi sau đó cải tên thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội... Lúc đó hắn mới bật mí cho mọi người biết hắn là cộng sản gộc. Những thành viên của Tâm Tâm Xã nào không chịu theo thì hắn loại trừ bằng cách gởi người đó về Việt Nam xong báo cho mật thám đón bắt...
                  - Cụ Phan Bội Châu có biết Tâm Tâm Xã đã bị chi phối bởi Nguyễn Ái Quốc chưa?
                  Lâm Đức Thụ thở dài lắc đầu.
                  - Chưa... Cụ Phan chưa biết... Tôi biết là tôi có tội. Tôi đã làm nên một tội ác tày đình. Tôi là một tội đồ của dân tộc...
                  - Ông làm nên tội gì mà ông gọi là tày đình?
                  Liếc nhanh Hình Chí Mô đang ngồi ở ghế bị can, Lâm Đức Thụ trả lời nhỏ song ai cũng nghe được.
                  - Tôi cùng với Quốc bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp...
                  - Thằng phản quốc...
                  - Quân bán người ghê tởm...
                  - Để tôi lên hỏi thăm sức khỏe của hắn...
                  Thiên hạ la rầm lên khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra lệnh cho mọi người im lặng.
                  - Ông và Hình Chí Mô làm cách nào để bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp? Bán với giá bao nhiêu?
                  Ngập ngừng giây lát họ Lâm trả lời.
                  - Cụ Phan là chính nhân quân tử nên đâu có bao giờ ngờ tới thủ đoạn ma giáo của Quốc. Nhờ quen biết lâu năm và thường xuyên theo dõi tôi biết được lộ trình di chuyển của cụ. Tôi báo cho Quốc và Quốc báo cho mật tháp Pháp ở Thượng Hải. Thế là tụi mật thám đón bắt cụ về Việt Nam. Mất cụ Phan, phong trào Đông Du cũng như Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội tan rã. Vụ bán cụ Phan tụi này được Pháp trả cho 100 ngàn đồng bạc Đông Dương...
                  - Đồ cái quân tham tiền...
                  - Thằng bất nhân bất nghĩa...
                  - Vậy mà hắn huênh hoang nói làm cách mạng...
                  - Chắc tại nghề cách mạng đè hết thời rồi nên hắn chuyển sang nghề lái buôn người...
                  - Mới bán có một mình cụ Phan mà hai đứa nó bỏ túi trăm ngàn...
                  Tuy nghe hết những lời mắng nhiếc của thiên hạ song Hình Chí Mô và Lâm Đức Thụ vẫn tỉnh bơ. Liếc nhanh Hình Chí Mô, họ Lâm cười nói tiếp với Thôi Phán Quan
                  - 100 ngàn đồng bạc Đông Dương lớn lắm. Lúc đó con trâu chỉ giá có 5 đồng thôi. Nghề buôn bán người này coi bộ làm dễ mà ăn ngon nên tôi với Quốc cứ tiếp tục làm trong nhiều năm nữa. Mỗi thanh niên Quang Phục Hội ( tổ chức nầy do cụ Phan Bội Châu thành lập để đưa đón người xuất ngoại ) sang Tàu phải nộp cho tôi ở Hồng Kông hoặc cho đại diện của tôi ở Quảng Châu hai bức hình, nói là để lập hồ sơ xin vào trường võ bị Hoàng Phố. Đến ngày những sinh viên này tốt nghiệp, sẵn sàng lên đường về nước để hoạt động cách mạng thì số phận mỗi người đã được định sẵn. Những người nghe theo tuyên truyền cộng sản và gia nhập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội thì được an toàn đưa về quê hương để hoạt động bí mật cho cộng sản. Còn những người vẫn khăng khăng giữ vững lập trường quốc gia thì hễ qua khỏi biên giới là bị mật thám đón bắt, vì theo ám hiệu riêng của Quốc với mật thám Pháp, tôi sẽ trao cho họ ở Hồng Kông một tấm ảnh của những người mà Quốc không thu phục được. Những thanh niên này bị bắt và bị đưa vào tù, khiến phong trào quốc gia ở Việt Nam mất liên lạc với trụ sở ở Quảng Châu. Những người trong nước phái ra liên lạc với bên ngoài hoặc bị Quốc dẫn dụ theo hắn còn không thì hắn chỉ điểm cho Pháp bắt bỏ tù. Tình trạng cứ tiếp diễn đến nỗi những sinh viên tốt nghiệp Hoàng Phố không chịu theo cộng sản sợ hãi không dám về nước và chỉ còn cách gia nhập quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Dần dà phong trào quốc gia mỗi ngày mỗi suy sụp và phong trào cộng sản do Quốc chỉ huy mỗi ngày một lớn mạnh hơn...

                  Phòng xử lặng trang sau khi Lâm Đức Thụ ngừng nói. Lát sau Diêm Vương mới lên tiếng hỏi.
                  - Thằng Hình này ác thì thôi. Rồi kết quả chuyện buôn bán người của ngươi với thằng Hình ra sao?
                  Liếc nhanh Hình Chí Mô, Lâm Đức Thụ thở dài từ từ trả lời câu hỏi của Diêm Vương.
                  - Bẫm Diêm Vương... Con cùng với Quốc bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp xong rồi thì sau đó tới lượt con lại bị thằng Quốc bán cho Pháp để giấu diếm chuyện bán đứng cụ Phan Bội Châu...
                  - Đáng cái đời nhà ngươi. Ta nghe ông Nguyễn Hải Thần khen ngươi có ăn học và khôn ngoan lại thêm dòng dõi cách mạng mà ăn phải cám xú nên u mê đi theo tụi cộng sản làm chuyện phản dân hại nước để đến nỗi vong mạng và làm nhơ danh dòng họ. Ngươi không biết cộng sản là quỉ ma yêu tinh sao mà chơi với nó... Ta còn không dám lại gần nó vì sợ bị lây con vi trùng cộng sản của nó...
                  Bị Diêm Vương xì nẹt, Lâm Đức Thụ làm thinh. Tằng hắng tiếng nhỏ, Thôi Phán Quan cao giọng nói.
                  - Để làm sáng tỏ thêm vụ án bán Phan Bội Châu, tôi kính mời bồi thẫm đoàn và quí vị đọc thêm một tài liệu sau đây...

                  Màn ảnh truyền hình từ từ sáng rực lên cho mọi người thấy rõ những dòng chữ:
                  - * Trong lịch sử VN thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu (1867-1940) thường được nhắc đến như một chí sĩ, một nhà cách mạng nổi bật. Là một nhà nho ưu thời mẫn thế, Phan Bội Châu (PBC) đã chọn cho mình con đường cứu nước, cứu dân mà kẻ sĩ xứng danh nào cũng không thể từ chối khi đất nước lâm nguy theo câu nói đã thành châm ngôn: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

                  Mới 17 tuổi, PBC đã thảo hịch Bình Tây Thu Bắc và tích cực vận động thành lập Thí Sinh Quân để góp sức vào phong trào kháng Pháp đương thời. Nhưng phong trào Cần Vương cũng như lực lượng triều đình Huế lúc đó không đủ sức đương cự với quân Pháp nên tất cả đều tan rã. Trong khi người Pháp tiếp tục tiến hành bình định để củng cố chính quyền thực dân, PBC không từ bỏ chí hướng đã có. Vừa dùng ngòi bút sáng tác thơ văn để nung nóng nhiệt tình cứu nước, ông vừa bôn ba tìm gặp các phần tử đấu tranh để gây dựng lực lượng chống Pháp.

                  PBC đã tiếp xúc với nhiều người từng chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương của Phan Đình Phùng, từng tới Yên Thế gặp Đề Thám, bàn tính việc đấu tranh với nhiều nhân vật trí thức yêu nước như Nguyễn Hàm, Đặng Thái Thân… và đặc biệt đưa ra chủ trương “giao kết giáo đồ ” vận động tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đây là một chủ trương hết sức mới mẻ vì vào thuở đó vẫn có định kiến là tín đồ Thiên Chúa Giáo ủng hộ thực dân Pháp. PBC cho rằng cuộc đấu tranh chỉ thành công khi đạt được sự hợp quần dân tộc và tin tưởng tuyệt đối ở lòng yêu nước của giáo dân.

                  Thực tế chứng minh PBC hoàn toàn nghĩ đúng vì sau đó phong trào nhận được sự đóng góp rất lớn của tín đồ Thiên Chúa giáo, gồm cả các vị linh mục ở nhiều giáo xứ như linh mục Thông xứ Mộ Vinh, linh mục Truyền xứ Mỹ Dụ, linh mục Thông xứ Quỳnh Lưu, Nghệ An và linh mục Ngọc xứ Ba Đồn, Quảng Bình… PBC đã ghi lại trong PBC niên biểu rằng:
                  “công ơn các người giáo dân phù giúp rất nhiều”
                  và ghi lại một kết quả rất đáng kể của chủ trương là “
                  các đám mây mù nghi ngờ giữa Lương Giáo, quét một trận sạch bong” (1).

                  Năm 1905, PBC cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ xuất dương qua Trung Hoa rồi Nhật Bản, bắt đầu phát động phong trào Đông Du cứu nước. Trong số giáo đồ Thiên Chúa Giáo hưởng ứng phong trào có tu sĩ Mai Lão Bạng với biệt danh Già Châu đã đích thân đưa một nhóm thanh niên tới tận Hong Kong gặp PBC năm 1908 và sau đó trở thành cộng sự viên đắc lực của PBC.

                  Suốt 20 năm lưu vong ở Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, PBC kết giao với nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới Trung Hoa, Nhật Bản như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên, bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki)… thành lập Việt Nam Quang Phục Hội cùng nhiều hội đoàn khác thúc đẩy, hỗ trợ các phong trào đấu tranh ở trong nước bằng sách báo tuyên truyền và giúp đỡ võ khí… (2)

                  PBC trở thành tiêu biểu của lòng yêu nước, động cơ kích động thu hút mọi người tham gia hoạt động lật đổ ách thực dân, trở thành kẻ đại quốc phạm đối với chính quyền bảo hộ Pháp nên đã bị kết án tử hình khiếm diện vào năm 1913 cùng với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nguyễn Hải Thần.
                  Sau khi Lênin cướp chính quyền thành công tại Nga, PBC đã nghĩ tới việc kết giao với người Nga để tìm thêm sự yểm trợ cho lực lượng đấu tranh VN. Trong PBC niên biểu (3), PBC khen Lênin có tài về chiến lược đấu tranh cách mạng nên có ý muốn gửi một số du học sinh nhờ Liên Xô giúp đỡ cho việc huấn luyện. Vì thế năm 1920, PBC đã đi Bắc Kinh gặp hai người Nga và ghi lại cuộc gặp gỡ đó như sau:
                  “Năm Canh Thân (1920), tháng 11, tôi nghe được người của Đảng Xã Hội Cộng Sản của nước Hồng Nga nhóm họp ở Bắc Kinh khá nhiều mà đại bản doanh của họ chính là nhà Bắc Kinh đại học. Tôi vì tính sẵn ham lạ mà nghiên cứu chân lý của đảng Cộng Sản… Tôi đi Bắc Kinh… tới thăm Thái Nguyên Bồi tiên sinh… Thái mới giới thiệu tôi với hai người Nga, một người lao nông Nga La Tư du Hoa đoàn đoàn trưởng (tên chữ Nga tôi không nhớ được), một người là Hán văn tham tán Lạp tiên sinh là thuộc viên của đại sứ Gia-Lạp-Hãn.

                  Lần này là lần thứ nhất mà tôi trực tiếp kết giao với người Nga. Tôi có hỏi Lạp tiên sinh rằng: “Người nước tôi muốn đi du học quý quốc, nhờ tiên sinh chỉ vẽ đường lối cho”. Lạp nói rằng: “Chính phủ Lao Nông đối với đồng bào thế giới ở nước Nga rất là hoan nghênh, người Việt Nam nay du học lại tiện lợi lắm. Do Bắc Kinh đến Hải Sâm Uy, đường thủy, đường bộ thông được cả. Do Hải Sâm Uy đến Xích Tháp có đường sắt vào Tây Bá Lợi Á, đi thấu được vào Mạc Tư Khoa, kể hành trình chỉ có 10 ngày thôi. Học sinh tới Nga tất trước phải đến Bắc Kinh, có đại sứ nước Lao Nông ở đó, vào xin lĩnh chứng thư và giấy giới thiệu. Được chứng thư của đại sứ thì từ Xích Tháp đến Mạc Tư Khoa, các tổn phí tiền xe và thực dụng thảy có chính phủ Lao Nông ưu đãi cho. Kể từ Việt Nam đến đất Nga, nhu phí chỉ trong 200 đồng chắc dễ biện lắm. Nhưng du học sinh trước khi vào học tất phải quyết tâm thừa nhận những điều kiện như dưới này: 1– Tín ngưỡng chủ nghĩa Cộng Sản. 2– Học thành rồi, về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông. 3– Học thành rồi, về trong nước mình phải ra sức làm những sự nghiệp cách mệnh. Còn như phí tổn chi dụng trong khi tại học và khi về nước, nhất thiết do chính phủ Lao Nông đảm nhiệm.

                  Bấy nhiêu lời như trên là những lời mà lúc ấy tôi hội thoại với ông Lạp. Ông Hoàng Đình Tuân dùng tiếng Anh thông dịch cho tôi… Người Nga khi nói chuyện với tôi biểu hiện một cách hòa ái thành thực, tư sắc rành thấy là không đạm không nồng. Tôi còn nhớ một câu rằng: “Chúng tôi được thấy người Việt Nam là bắt đầu từ ông. Ông nếu dùng được chữ Anh làm một bản sách kể cho hết chân tướng người Pháp ở Việt Nam đem cho chúng tôi, chúng tôi cảm tạ mà không dám quên” (4)
                  Sau lần tiếp xúc này, PBC trở về Quảng Châu không gặp gỡ người Nga nữa mà chỉ lo trung hưng Quang Phục Hội theo tình hình mới, nhất là sau khi xẩy ra vụ Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Merlin tại Sa Điện. PBC gặp Tưởng Giới Thạch, Lý Tế Thâm đề nghị giúp đưa du học sinh Việt Nam vào trường Hoàng Phố và bàn với các đồng chí cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội đổi thành Việt Nam Quốc Dân Đảng dựa theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
                  PBC hoàn tất việc soạn thảo các văn kiện căn bản như đảng cương, chương trình vào tháng 9 năm Giáp Tý tức khoảng tháng 10-1924 giao cho Hồ Tùng Mậu đưa về trong nước lấy thêm ý kiến, rồi rời Quảng Châu về Hàng Châu. Theo hồi ức PBC niên biểu, PBC không rõ Hồ Tùng Mậu có chuyển tài liệu về nước không nhưng từ khoảng đầu năm 1925, PBC nhiều lần nhận được thư góp ý của Hồ Chí Minh.
                  Đây là thời gian Hồ Chí Minh báo cáo với Đệ Tam Quốc Tế về việc vừa lập xong nhóm bí mật Cộng Sản Đoàn với 8 người thuộc Tâm Tâm Xã trong đó có con rể PBC là Vương Thúc Oánh đang hoạt động ở Thái Lan được Hồ Tùng Mậu đích thân qua gặp đưa về Quảng Châu. Hồ Chí Minh đang cùng nhóm này sắp xếp biến Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội vào tháng 6-1925 là thời gian mà người Việt Nam tranh đấu tại Trung Hoa dự trù tổ chức lễ tưởng niệm liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh ngày 19-6-1924 (tức ngày 15-5 Giáp Tý).
                  Sự có mặt của PBC trong dịp này là điều mong đợi của mọi người và cũng hoàn toàn hợp ý PBC đang muốn nhân dư vang tiếng bom Phạm Hồng Thái hun nóng nhiệt tình tranh đấu. Do đó, PBC rời Hàng Châu ghé Thượng Hải theo dự trù xuống thuyền tại đây về Quảng Châu.
                  PBC thuật lại:
                  “Mười hai giờ đồng hồ chính trưa ngày 11 tháng 5 âm lịch (5) , xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm, tôi vì cớ nóng gởi bạc cho ông Trần nên gởi đồ hành lý ở nhà chứa đồ mà tay tôi xách một cái kha-băng nhỏ. Vừa ra cửa trạm thì thấy có một cái cỗ xe hơi, xe khá lịch sự, đứng xung quanh có 4 người Tây, tôi không nhận được ra người Pháp. Bởi vì xứ Thượng Hải người Tây nước nào cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể, đem xe hơi rước khách cũng là thông lệ của các lữ quán to.
                  Tôi có biết đâu chiếc xe hơi này là đồ gian của kẻ cướp bắt cóc người. Tôi mới ra khỏi cửa trạm vài ba bước thì thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt tôi dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng: “Trứa cơ xe hấn hảo, xính xin xang xàng xe! – Xe này rất tốt, mời tiên sinh lên xe!”. Tôi đương cự rằng: “ Ngộ bú giảo! – Tôi không cần!”
                  Thình lình người Tây nữa ở sau xe ra, hết sức đẩy tôi lên xe. Máy xe tức khắc vặn, tôi đã vào tô giới Pháp rồi. Xe chạy đến bờ bể thì binh thuyền nước Pháp đã chực sẵn. Tôi từ đó thành ra người tù phạm ở trong tàu binh”. (6)
                  Tin PBC bị bắt trở thành làn sóng thúc đẩy bùng nổ một phong trào đấu tranh lan rộng khắp các miền đất nước và ngay tại chính quốc Pháp. Gần như mọi thành phần, mọi giới đều lên tiếng đòi tha PBC, xóa bỏ bản án tử hình khiếm diện năm 1913. Nhiều phần tử trí thức, sinh viên học sinh, đại diện các nghiệp đoàn… nối nhau gửi thư bênh vực PBC tới Hội Quốc Liên, tòa án quốc tế La Haye, Quốc Hội và chính phủ Pháp. Những nhân vật nổi tiếng thân Pháp như học giả Phạm Quỳnh cũng công khai yêu cầu ân xá cho PBC.
                  Dư luận sôi nổi kéo dài nhiều ngày trước và sau ngày 23-11-1925 là ngày khai diễn phiên tòa tại Hà Nội. Ngay giữa phòng xử luôn rộ lên những tiếng phản đối và đã có một người đứng ra xưng rõ họ tên quê quán là Nguyễn Khắc Doanh, người xã Trình Xuyên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định đệ đơn xin Tòa cho được chết thay PBC. Trong Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn đã ghi lại cảnh hàng trăm bà già buôn thúng bán bưng quỳ dọc theo phố hàng Đường, Hà Nội dâng thỉnh nguyện thư xin ân xá cho PBC vào lúc Toàn Quyền Alexandre Varenne vừa nhậm chức đi thị sát qua khu phố này. (7)
                  Đây là lần đầu chính quyền thuộc địa Pháp đứng trước một phong trào đấu tranh quyết liệt và có quy mô bao trùm toàn cõi Việt Nam. Kết quả, Tòa chỉ đưa ra một án tù treo và Toàn Quyền Varenne phải cử Khâm Sứ Trung Kỳ Pierre Pasquier đích thân tới phòng giam Hỏa Lò gặp PBC, sắp xếp việc đưa đi an trí tại Huế.
                  PBC bị bắt khiến hàng ngũ dân tộc yêu nước mất một điểm tựa mang tính chỉ đạo nhưng đã củng cố thêm niềm tin đặt vào các phong trào đấu tranh và hun nóng nhiệt tình của mọi giới ở trong nước. Riêng PBC cho tới khoảng 1928-1929 khi ngồi viết PBC niên biểu vẫn không hiểu vì sao mật thám Pháp lại biết rõ hành trình của mình để chờ sẵn tại Bắc trạm Thượng Hải, ngoài một mối nghi ngờ:
                  “Ai dè lúc tôi ra đi, thì cái thời giờ hành động của tôi đã có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp mà cái người mật báo đó lại chính là người ở chung với tôi, từng nhờ tôi nuôi nấng… Người ấy nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền… gọi cụ Thượng Hiền bằng ông chú, thông chữ Hán, đã từng đậu cử nhân, chữ Pháp, chữ quốc ngữ cũng đủ xài. Tôi nhân yêu tài nó, lưu nó làm thư ký còn như nó làm ma cho Pháp thì tôi có nghĩ tới đâu!” (8)
                  PBC không cho biết đã được nghe ai nói Nguyễn Thượng Huyền làm ma (tức mật thám) cho Pháp và báo rõ hành trình của ông, tuy nhiên có vẻ tin theo. Vào lúc PBC được nghe nói như thế thì tại Hà Nội, năm 1928, nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu Ai bán đứng cụ PBC? của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt PBC là nhóm Lý Thụy, Lâm Đức Thụ. Nhượng Tống phát giác sự việc trên dựa theo nhiều nguồn tin từ những người xung quanh PBC tại Trung Hoa.
                  Vào thời điểm đó, Lý Thụy cũng như Lâm Đức Thụ không phải những nhân vật tên tuổi trong hàng ngũ đấu tranh và cũng chưa tiêu biểu nổi cho một xu hướng chính trị rõ rệt nào ngoài tư cách người của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội vừa được thành hình. Điều mọi người biết về Lâm Đức Thụ chỉ là còn có tên Trương Béo hoặc Hoàng Chấn Đông, tên thật là Nguyễn Công Viễn, từng tham gia Tâm Tâm Xã của PBC và có tương quan với tòa lãnh sự Pháp tại Hong Kong.

                  Như vậy, những nguồn tin mà Nhượng Tống nhận được chắc chắn không do dụng ý chống cộng nhắm xuyên tạc về lãnh tụ Hồ Chí Minh như các tác giả Cộng Sản Việt Nam sau này nêu ra. Trên thực tế, cái tên Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện từ tháng 8-1945 và năm 1928 không ai biết Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc. Hơn nữa, dù năm 1949 Nhượng Tống bị Cộng Sản ám sát tại Hà Nội, nhưng vào năm 1928, Nhượng Tống chưa hề đặt Cộng Sản vào thế thù địch.
                  Nhượng Tống bước vào làng báo năm 1924 chuyên hoạt động về văn hóa cho đến cuối tháng 12-1927 mới gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tập tài liệu Ai bán đứng cụ PBC? có thể được viết từ trước thời điểm này để ấn hành kịp vào năm 1928 và như thế Nhượng Tống không những chưa biết Lý Thụy là cán bộ Đệ Tam Quốc Tế mà thậm chí còn không biết Lý Thụy là ai nữa. Người ta đã biết tới cuối năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng còn cử người qua Thái Lan liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đề nghị giúp đỡ võ khí để khởi nghĩa.
                  Thực ra, không chỉ riêng Nhượng Tống nhận được các tin tức cho biết Lý Thụy và Lâm Đức Thụ chủ mưu bán đứng PBC. Năm 1948, trên tạp chí Cải Tạo tại Hà Nội số tháng 10-1948 được Joseph Buttin-ger trích lại (9), Đào Trinh Nhất đã viết bài Một bí mật chưa ai nói ra nêu tên Hồ Chí Minh là kẻ chủ mưu bán đứng PBC cho mật thám Pháp.
                  Đặc biệt hơn, chính Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là người từng có Lâm Đức Thụ bên cạnh nhiều năm ở Trung Hoa cũng ghi lại sự việc này như sau:
                  “Cuối tháng 5 năm 1925, Lâm Đức Thụ viết thư và gửi tiền lên Hàng Châu cho ông PBC, mời về Quảng Châu nhân dịp kỷ niệm Phạm Hồng Thái ngày 19 tháng 6, làm một cuộc tuyên truyền lừng lẫy cho cách mệnh Việt Nam. Ông Phan nhận được thư và tiền, liền đi Thượng Hải để đáp tàu thủy về Quảng Châu. Ông Phan đi rồi, mãi không thấy có thư từ gì về, bọn Hồ Học Lãm ở Hàng Châu lấy làm lạ, viết thư hỏi các đồng chí ở Quảng Châu. Thư trả lời nói không thấy ông Phan xuống đó, ai cũng lo.
                  Hơn một tháng sau, Lâm Chi Hạ, chủ nhiệm Quân Sự Biên Tập Xứ, tiếp được một phong thư từ Sán Đầu gửi tới, có kèm theo một mảnh thư do ông Phan viết, mới biết là ông bị bắt rồi.
                  Gửi thư ấy đến Lâm Chi Hạ là một học sinh Tàu. Người này cho biết rằng nhân dịp nghỉ hè, từ Thượng Hải về Sán Đầu thăm nhà, gặp ông Phan ở trên tàu thủy, ông Phan thừa lúc người đi kèm không ở cạnh, nói chuyện với y và viết mảnh giấy ấy, nhờ y gửi đi Hàng Châu cho Lâm Chi Hạ.
                  Cứ như lời ông Phan nói trong mảnh giấy ấy thì khi ông đi xe lửa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, vừa ra khỏi cửa ga, liền bị mấy người cảnh sát tô giới Anh núm lấy, điệu lên xe hơi đưa đến tô giới Pháp giao cho người Pháp. Ông bị giam ở đó ít lâu, rồi bị giải về nước bằng tàu thủy.
                  Lâm Đức Thụ ở Quảng Châu, lúc đầu cố phao vu cho người này người khác để che lấp tội ác của mình nhưng về sau thấy ông Phan bị bắt về đến trong nước, thành ra một cuộc tuyên truyền có hiệu lực cho cách mệnh, Lâm Đức Thụ mới khoe với mọi người đó là công hắn, vì chính hắn bắt ông Phan. Hắn lại nói sở dĩ bắt ông Phan là vì hắn nghĩ ông đã trở nên già hủ, không thích hợp với thời đại mới nữa, ở ngoài bất quá biết làm mấy câu văn tuyên truyền hão bằng chữ Nho, chẳng được chuyện gì, không bằng đưa ông về nước lấy bản thân ra làm lợi khí tuyên truyền, lại có ích hơn” (10)

                  Những ý kiến mà Cường Để ghi là của Lâm Đức Thụ đã được Hoàng Văn Chí dựa theo tài liệu của nhạc phụ là Sở Cuồng Lê Dư xác nhận là ý kiến của Hồ Chí Minh. Lúc đó, nhóm Lâm Đức Thụ rất tin theo Hồ Chí Minh và đang tính toán biến Tâm Tâm Xã thành tổ chức riêng. Một vấn đề khiến cả nhóm ưu tư là có thể gặp trở ngại khi PBC không đồng ý, vì PBC đang tiến hành việc cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

                  Lê Dư theo PBC hoạt động trong Tâm Tâm Xã nhưng gần gũi với Lâm Đức Thụ. Vì thế, Lê Dư đã được nghe nhắc tới ý kiến của Hồ Chí Minh – lúc đó mang tên Lý Thụy và biệt danh Vương Sơn Nhị. Theo Lê Dư, Hồ Chí Minh đã nói:
                  “Cụ đã gần đất xa trời mà chẳng nên công việc gì, chi bằng bán cụ cho Pháp lấy tiền cho Đảng ta”.

                  Một người trực tiếp nghe Hồ Chí Minh phát biểu như trên là Vương Thúc Oánh. Vương Thúc Oánh là người thứ 7 trong 9 hội viên bí mật của Cộng Sản Đoàn thành lập vào tháng 2-1925. Lúc đó, Vương Thúc Oánh rời Thái Lan theo Hồ Tùng Mậu về Quảng Châu và luôn có mặt trong mọi phiên họp bàn bạc về hoạt động của nhóm.
                  “Trong cuốn sách tự thuật in vào năm 1962, Vương Thúc Oánh cho biết trong phiên họp khoảng đầu năm 1925 của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, một hội vừa mới được Lý Thụy móc nối và thành lập, và Vương Thúc Oánh có hiện diện trong buổi họp đó, Lý Thụy nói: “Cụ Phan ái quốc thật, nhưng cụ đã quá già, đầu óc rất khó hấp thụ những trào lưu tư tưởng mới. Cụ lại quá thành thực, dễ tin người …”

                  Lý Thụy đã lý luận hãy để cho cụ Phan trở thành biểu tượng đấu tranh bằng cách để người Pháp bắt giam cụ Phan xong rồi Hội tổ chức các cuộc đấu tranh cho cụ. Song song, khi bán tin cho người Pháp bắt cụ, người Pháp phải gởi lại cho Hội một số tiền và Hội dùng số tiền này để phát triển lực lượng. Lý luận “nhất cử lưỡng tiện” này đã được các thành viên trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội biểu quyết chấp thuận”. (11)

                  Vương Thúc Oánh là con rể PBC cũng không thể phản đối và số tiền nhận được từ người Pháp trong vụ này, theo Vương Thúc Oánh, là 10 vạn quan, tức 100 ngàn quan. Vụ “bán người” này được hầu hết các tác giả khác nhắc tới trong số có Đào Văn Hội, tác giả Ba nhà chí sĩ họ Phan, cho biết thêm một chi tiết khác:
                  “Sau khi PBC đi Hàng Châu, Lý Thụy và Lâm Đức Thụ đã triệu tập các nhà cách mạng tại Quảng Châu lại, trừ Nguyễn Hải Thần, để bàn về vấn đề tài chánh. Không ai đưa ra được giải pháp nào về vấn đề này. Lâm Đức Thụ đã đề nghị hy sinh cụ PBC… Và hội nghị đã ủy cho Lâm Đức Thụ và Phan Vị đến tiếp xúc với tòa TLS Pháp ở Hương Cảng để thương lượng” (12).

                  * Bài viết trên đây được lược trích từ HCM- Nhận Định Tổng Hợp- Minh Võ.
                  Phòng xử lặng trang sau khi mọi người đọc xong những dòng chữ cuối cùng trên màn ảnh truyền hình. Có lẽ họ còn đang bàng hoàng về những bí mật đã được giấu kín mấy chục năm cho tới bây giờ mới bật mí nhờ vào sách báo và các mạng lưới thông tin toàn cầu.

                  Comment


                  • #24
                    24

                    Đạo đức cách mạng thứ nhất của bác:
                    LỪA BỊP...


                    Tiếng động vang lên từ chiếc búa làm bằng cây của Diêm Vương báo hiệu phiên xử Hình Chí Mô ngày thứ nhì được tiếp tục. Thôi Phán Quan thong thả rời khỏi ghế ngồi của mình. Bước tới đứng trước mặt bị can ông ta buông một câu.
                    - Trong đời cách mạng ông đi đây đi đó và làm thê làm mướn để sinh sống? Đúng không?
                    Hình Chí Mô cau mày như suy nghĩ về câu nói trên rồi sau đó mới trả lời.
                    - Đúng... Tôi làm thuê làm mướn, làm đủ mọi nghề để sống...
                    Hơi mỉm cười vị biện lý âm phủ hỏi.
                    - Ông có làm thuê làm mướn cho các cơ quan gián điệp không?
                    Tiếng xì xầm thoạt đầu nhỏ rồi sau đó lớn dần lên.
                    - Bộ bác là điệp viên hả anh Bảy?
                    - Chứ còn gì nữa. Bác còn giỏi hơn Jame Bond 007 của Anh và Tống Văn Bình Z28 của Việt Nam mình nữa. Bác là thầy của Trần Bạch Đằng, Phạm Ngọc Ẩn, Mười Hương và Lê Câu...
                    Đợi cho người nào đó dứt lời, Thôi Phán Quan nhắc lại câu hỏi của mình.
                    - Ông có làm thuê làm mướn cho các cơ quan gián điệp không?
                    - Tôi già rồi nên không nhớ được nhiều chuyện cũ...
                    Hình Chí Mô chối quanh.
                    - Vậy để tôi nhắc lại cho ông nhớ... Ngày 16-9-1934, ông nhập học khóa tình báo ngắn hạng 6 tháng của KGB với tư cách là học viên nội trú của đại học Lênin, mang tên giả là Linov với bí số 375. Tại học viện Nghiên cứu các Vấn đề Thuộc địa, ông lãnh đạo tiểu tổ các học sinh Việt Nam và dùng tên giả là Lin... Ông xác nhận điều này?
                    Thấy bị can dụ dự chưa chịu trả lời, Thôi Phán Quan cười thốt.
                    - Ông muốn tôi trình tòa nhân chứng và tài liệu?
                    Hình Chí Mô lắc đầu. Thôi Phán Quan hỏi lại.
                    - Như vậy là ông xác nhận ông là điệp viên của KGB?
                    - Tôi chỉ học một khóa bổ túc 6 tháng...
                    - Như vậy là ông đã tham dự các khóa học căn bản từ trước, bởi vậy ông mới học thêm khóa bổ túc. Đúng không?
                    Hình Chí Mô gượng gạo gật đầu vì biết mình nói hớ nên bị Thôi Phán Quan bắt bẻ. Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi, vị biện lý của âm phủ cao giọng nói với bị can đang ngồi trước mặt.
                    - Trong thời đệ nhị thế chiến vào khoảng năm 1945, Hình Chí Mô hoạt động khắp vùng rừng núi Việt Bắc với các tên giả Già Thu, Sáu Sán, Ong Ké. Sau đó, bị can lại sang Tàu rồi bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp của Nhật. Lần nầy, bị can được Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần bảo lãnh nên tướng Trương Phát Khuê trả tự do cho bị can. Nhờ khả năng tình báo do KGB đào luyện, bị can được tướng Trương Phát Khuê tin dùng và cho phục vụ trong ngành quân báo của Bộ Tư Lệnh Đệ Tứ Chiến Khu ở Hoa Nam. Xuyên qua cơ quan tình báo của Trung Hoa, bị can bắt liên lạc với tình báo Hoa Kỳ do Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti, đặc vụ phụ trách chiến trường Đông Dương của OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA. Bị can trở thành một trong 25 điệp viên của Charles Fenn với bí danh Lucius, bí số 19. Bị can được Charles Fenn cung cấp cho 6 khẩu súng lục 38 cùng với 120 băng đạn. Ngoài ra họ còn viện trợ cho bị can nhiều súng ống, đạn được và quân dụng. Đúng không?
                    - Đúng...
                    Trở lại bàn của mình, cầm quyển sách đưa lên, Thôi Phán Quan cao giọng.
                    - Kính thưa Diêm Vương... Kính thưa Bồi Thẩm Đoàn... Kính thưa quí vị... Sau đây tôi xin trình tòa một tài liệu, đúng hơn là quyển sách nói về những hạot động của Hình Chí Mô dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô từ năm 1923 cho tới năm 1938. Đó là quyển Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà...

                    Ngừng lại giây lát vị biện lý của âm phủ thong thả nói tiếp.
                    - Hồng Hà là bút hiệu của Hà Văn Trường, người viết cuốn Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng. Mang cấp bậc đại tá, nguyên tổng biên tập nhật báo Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam, nguyên bí thư trung ương đảng kiêm trưởng ban đối ngoại trung ương, Hồng Hà có cơ hội tiếp cận với nguồn tài liệu quan trọng của đảng cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản quốc tế. Vì vậy những gì ông ta trình bày trong sách chúng ta có thể tin được phần nào. Với sự thận trọng cần thiết, tôi thiết nghĩ chúng ta có thể đọc để tìm thấy một vài chi tiết trong sách, chứng minh hành trình cách mạng của Nguyễn Ái Quốc là phục vụ cho cộng sản quốc tế cũng như Nguyễn Ái Quốc là đảng viên thâm niên của cộng sản Liên Xô. 16 năm, tính từ 1923 tới 1938; bị can đã nhiều lần đến và đi, lưu trú nhiều năm ở Nga, được cộng sản Liên Xô huấn luyện thuần thục để sau này trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản Đông Dương. Bây giờ tôi xin mời quí vị theo dõi đoạn đời cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô từ năm 1923 cho tới năm 1938. Tôi cũng xin nhấn mạnh danh xưng '' anh Nguyễn '' trong sách chỉ tới Nguyễn Ái Quốc... Đoạn văn có chữ in nghiêng sau đây được trích nguyên văn trong sách Bác Hồ trên đất nước Lê Nin của Hồng Hà...

                    Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Màn ảnh rộng hiện ra cho mọi người đọc thấy những dòng chữ.
                    - Anh Nguyễn cho rằng Liên Xô của Lê-nin không phải là địa ngục mà cũng chưa phải là thiên đường. Liên Xô có những khó khăn và có những thiếu sót nhưng Liên Xô đang đứng vững, đang đi tới, sẽ phồn vinh, giàu mạnh, và chế độ trên đất nước này là ưu việt, là tấm gương và là tương lai của các dân tộc. Anh đã thấy vàng trong cát, thấy cây và thấy cả rừng. Phải có cái nhìn biện chứng, một tư duy khoa học và một tấm gương cách mạng trong đẹp mới có được niềm tin như thế vào lúc cái xã hội mới ấy chỉ vừa mới nhú mầm.
                    Còn nhân dân Mát-xcơ-va và nhân dân Liên Xô thì vẫn vui tươi, hăng say lao động, không động dao, không bi quan trước những khó khăn trong đời sống, vì họ hiểu tại sao có những khó khăn đó và thấy con đường đúng đắn nhất của họ là lao động quên mình xây dựng đất nước vì lợi ích nhân dân Nga và vì cách mạng thế giới, với niềm tin rằng một tương lai tươi sáng, hạnh phúc sẽ đến với họ, mức sống của ngày mai do thái độ lao động của họ hôm nay quyết định. Cứ nhìn những khuôn mặt quanh anh, những công nhân, nông dân, trí thức đang làm việc đủ thấy nét rạng rỡ, tự hào và tự tin của những người chủ đất nước và làm chủ vận mệnh của mình.

                    Hàng trăm con người reo hò, tung mũ nhảy múa, vây quanh những chiếc xe hơi AMO đầu tiên ra xưởng. Chiếc xe mui trần, cục mịch, hai chỗ ngồi tượng trưng cho tinh thần tự lực tự cường của nhân dân xô-viết hãnh diện lăn bánh qua các đường phố thủ đô. Hàng vạn nhân dân đứng kín sân bay Tu-si-nô xem máy bay biểu diễn trong ngày hội hàng không, và hoan hô dậy đất kỷ lục bay của nước Nga năm 1923 : cao 1200 mét với tốc độ 200 ki-lô-mét / giờ. Những tốp thanh niên vác cuốc xẻng đi xây nhà máy thủy điện Vôn-khốp, vừa đi vừa hát vang…

                    Anh Nguyễn tắm mình trong không khí lạc quan, tự do ấy. Chưa bao giờ anh thấy mình khoan khoái như lúc này sống giữa Mát-xcơ-va, sống giữa môt xã hội mà hôm nay đã là ngày mai rồi.
                    Khung cảnh ấy càng giục giã anh lao tới thực hiện lý tưởng của đời mình. Từ Mát-xcơ-va, trái tim cộng sản ấy nghĩ tới quê hương, đồng bào, đồng chí và bao nhiêu công việc của cách mạng chưa được giải quyết. Anh lo đến trách nhiệm của người cộng sản quan tâm tình hình Tổ quốc và các nước thuộc địa luôn muốn thúc đẩy cái gì ngưng trệ trong cuộc đấu tranh để giải phóng nhân dân. Vừa tới Mát-xcơ-va, anh vội viết thư ngay cho các đồng chí Trung ương Đảng Cộng sản Pháp:

                    “ Các đồng chí,
                    Những quyết định của Quốc tế thứ hai về vấn đề thuộc địa có hai tác động song song nhưng trái ngược nhau, một mặt, chủ nghĩa đế quốc áp bức, thấy trước hậu quả nặng nề của chính sách đó nếu được thực hiện đúng, bắt đấu đề phòng và ra sức tuyên truyền ngu dân và đàn áp. Mặt khác, nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa thức tỉnh bởi tiếng vang cách mạng tự nhiên quay nhìn về Quốc tế của chúng ta, chính đảng duy nhất hứa quan tâm đến họ với tình anh em và họ đặt vào chính đảng đó tất cả niềm hi vọng giải phóng. Từ đó chúng ta có thể không phải chỉ phá tan ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân bóc lột và lay chuyển tình thế mà còn biến mối cảm tình hoàn toàn cảm tính và thụ động của nhân dân các thuộc địa đối với chúng ta thành một mối cảm tình có lý tính, có hành động thật tự giác nếu các nghị quyết của Quốc tế cộng sản chúng ta được thực hiện. Khốn thay, những nghị quyết đó cho đến nay chỉ dùng để tô đẹp vào tờ giấy ! Thử hỏi các chi bộ cộng sản Pháp, Anh và ở các nước thực dân khác đã làm gì cho các thuộc địa ? Họ có một chính sách và chương trình rõ ràng, cụ thể và nhất quán về vấn đề thuộc địa không ? Những đảng viên của các chi bộ có hiểu thuộc địa là cái gì không và có hiểu tầm quan trọng của nó không ? Có thể trả lới tất cả là không.

                    Đối với các thuộc địa Pháp,
                    a) Một ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa đã được thành lập.
                    b) Một mục về thuộc địa đã được mở trên báo Nhân Đạo.
                    c) Trong các Đại hội Đảng toàn quốc đã có những tuyên bố ủng hộ nhân dân các thuộc địa.
                    d) Đã có hai chuyến đi tuyên truyền của những đại biểu quốc hội người của Đảng.
                    Sau khi thành lập được ít lâu và khi được dùng các cột báo Nhân Đạo một cách dễ dàng, Ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa đã hoạt động khá tốt. Nhiều tài liệu và nhiều tin tức lý thú từ các thuộc địa bắt đấu gửi đến cho họ. Chiến dịch do nó tiến hành trên báo Đảng chống sự lạm dụng và những tội ác của bọn thực dân đã làm choc n đế quốc và các báo của nó phải lo sợ. Nhưng cái diễn đàn đó về vấn đế thuộc địa bỗng bị báo Nhân Đạo bỏ đi đột ngột. Không có phương tiện làm việc và hoạt động, Ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa và chúng luôn luôn sợ bị cải chính và vạch trần.


                    Điều đó đặc biệt gây ra cảm giác nặng nề trong nhân dân các thuộc địa. Dù không có hiệu quả, các tuyên bố trong các Đại hội Đảng toàn quốc ủng hộ nhân dân các thuộc địa đã góp phần củng cố cảm giác của họ đối với Đảng. Người ta không thể cứ nhắc đi nhắc lại mãi một điều giống nhau trong khi không làm gì cả. Và những người bị áp bức đáng thương, thấy chúng ta chỉ hứa nhưng không làm gì, bắt đầu tự hỏi chúng ta là những người nghiêm túc thật sự hay là những anh bịp. Chuyến đi của các đồng chí V. Cu-tuya-ri-ê và A. Béc-tu sang An-giê-ri và Tuy-ni-di, gần như cùng lúc với những cuộc ngao du cả các đại biểu quốc hội tư sản, được nhân dân châu Phi hoan nghênh. Nên có hững chuyến đi cùng tính chất như thế đến tất cả các thuộc địa khi kết quả có thể chắc chắn là đáng khích lệ.

                    Nhưng thay vì tăng cường tuyên truyền, chúng ta đã đánh trống bỏ dùi và bỏ lỡ những cơ hội tốt. Chúng ta đã làm rất ít việc trong lúc có bãi công đẫm máu ở Mác-ti-ních, nạn đói ở Bắc Phi và cuộc nổi dậy ở Đa-hô-mây. Trong trường hợp sau, chúng ta đã mang về một bộ mặt thảm hại. Báo Đảng đưa tin về cuộc nổi dậy sau báo chí tư sản nhiều ngày và mươi ngày sau báo Sự Nghiệp. Trong khi chính quyền thuộc địa đã ra lệnh giới nghiêm, tập trung binh lính, huy động tàu chiến, phát động bộ máy đàn áp, bắt giam các chiến sĩ cách mạng từ 5 đến 10 năm, trong khi báo chí viết thuê tiếp tục một chiến dịch lừa dối và bóp nghẹt triệt đẻ, thì chúng ta bằng lòng với hai, ba bài báo nhỏ không có triển vọng gì. Không phải không khôi hài và không buồn rầu khi trong bóng tối những nhà tù “ văn minh “, những anh em Đa-hô-mây đáng thương của chúng ta đọc điều thứ 8 trong số 28 điều của Quốc tế cộng sản nói rằng : “ Mỗi Đảng Cộng sản cam kết ráo riết hoạt động trong quân đội nước mình chống mọi sự áp bức nhân dân thuộc địa, và nó phải ủng hộ, không chỉ bằng lời nói mà bằng hành động, phong trào giải phóng dân tộc”.

                    Lúc này buộc tội quá khứ và ngồi tiếc thời gian đã mất là vô ích. Tốt nhất là trong tương lai phải biết dùng nó. Chúng tôi yêu câu Đảng :
                    1. Công nhận chính thức Đảng bộ Mác-tê-ních (nhóm G. Giô-rét).
                    2. Mở lại mục Thuộc địa trên báo Nhân Đạo.
                    3. Đề nghị tiểu ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa cung cấp tài liệu cho Ban thuộc địa và hai hoặc ba tháng một lần gửi đến ban đó báo cáo công tác.
                    4. Động viên các đảng bộ thuộc địa, nơi nào có, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phát triển của Đảng.
                    5. Mở trên các báo của Đảng mục Vấn đề thuộc địa để người đọc làm quen với các việc của thuộc địa.
                    6. Nói đến các thuộc địa ở mọi đại hội, cuộc mít tinh hoặc cuộc họp của Đảng.
                    7. Khi nào tình hình của Đảng cho phép, cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa.
                    8. Tổ chức những công đoàn hoặc lập những nhóm tương tự ở các thuộc địa.

                    Mát-xcơ-va tháng 7-1923
                    NGUYỄN ÁI QUỐC”


                    Mát-xcơ-va chào mừng ngày khai mạc Hội nghị nông dân quốc tế bằng những số báo đặc biệt, những lá cờ tung bay trên Hồng trường và trên các đỉnh tháp điện Crem-li, Báo Sự thật của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 10-10-1923 đăng hàng chữ lớn suốt bề ngang trang nhất:
                    “Hôm nay bên trong tường thành điện Crem-li diễn ra hội nghị nông dân toàn thế giới đầu tiên.
                    Những đội ngũ nông dân đang đến hỗ trợ giai cấp công nhân.
                    Chống lại liên minh áp bức và ăn cướp của bọn tư bản và địa chủ, sự liên minh vĩ đại công nông đang phát triển.
                    Chào mừng các bạn đồng minh chiến đấu mới !
                    Tay cầm tay, vai kề vai thân thiết, chúng ta hãy vùng dậy chống bọn tư bản, chống những cuộc chiến tranh mới mà chúng đang mưu toan, chống những kế hoạch của chúng hòng bóp nghẹt nhân dân lao động !”

                    Anh Nguyễn cùng các đại biểu quốc tế đi bộ qua Hồng trường để vào nơi họp. Nhân dân đứng trên hè giáp nhà bách hóa tổng hợp vẫy tay chào. Một biểu ngữ lớn treo bên đường : “Tin tưởng và quyết tâm thực hiện chính sách kinh tế mới của Lê-nin !”
                    Lê-nin đã nói được và đọc được các báo cáo, nhưng Người vẫn còn yếu, không đến dự Đại hội quốc tế nông dân mà Người mong đợi từ lâu.
                    Nhưng số phận người nông dân thuộc địa sống dưới chế độ thực dân – phong kiến thì còn tồi tệ gấp chục lần. anh Nguyễn là người đại diện thuộc địa duy nhất miêu tả trước Đại hội tình cảnh đồng bào nông dân của anh và đọc bản cáo trạng tội ác kẻ thù của dân tộc anh.
                    Đấy là vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 13-10-1923, tại phiên họp thứ 7 của Đại hội. Mặc chiếc áo sơ-mi vải xám, tóc cắt ngắn, vóc gầy, anh Nguyễn bước lên diễn đàn trong tiếng vỗ tay sôi nổi, kéo dài của toàn Đại hội, trong đó có những người chưa biết nước Việt Nam ở đâu trên quả đất. Anh nói bằng một giọng chân thành, tự nhiên và nhiệt tình :

                    “Thưa các đồng chí.
                    Tất cả các đồng chí đều đã nói về tình cảnh nông dân đất nước các đồng chí. Tôi sẽ không làm tròn bổn phận của tôi nếu được đặc quyền đến đây với các đồng chí mà tôi lại không nói một đôi lời về tình cảnh nông dân nước tôi.
                    Để minh họa tình cảnh nông dân Đông Dương, tôi phải làm một sự so sánh : một bên là người nông dân Nga và một bên nữa là nông dân Đông Dương. Nông dân Nga giống như một người ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành còn nông dân Việt Nam thì giống như một người bị trói vào cột, đầu ngược xuống đất. Nói thế không phải là nói phóng đại đâu, sau đây các đồng chí sẽ thấy rõ.

                    Khi các đồng chí đi qua Quảng trường Đỏ, các đồng chí thấy có một dòng chữ : “Nhà thờ là thuốc phiện của thế giới” ; nhưng chúng tôi, nhờ nền văn minh phương tây, chúng tôi có cả nhà thờ lẫn thuốc phiện.

                    Về thuốc phiện, tôi sẽ xin chỉ kể lại với các đồng chí rằng mỗi năm chính phủ Pháp phương tây đã bán cho nhân dân Việt Nam, 20 triệu người, trên 400 triệu đô-la thuốc phiện. Mặc khác, người ta tính ra rằng cứ 1000 đại lý bán rượu và thuốc phiện thì không có lấy 10 trường học. Các đồng chí thấy sự việc như thế đấy.
                    Bây giờ tôi xin nói với các đồng chí về vấn đề nhà thờ.
                    Tôi đã nói với các đồng chí rằng những tên thực dân đã tước đoạt tài sản của người Việt Nam như thế nào. Bây giờ tôi xin nói để các đồng chí biết Chúa Ki-tô đã tước đoạt tài sản của nông dân như thế nào.

                    Trong cuộc xâm chiếm Đông Dương chính những nhà truyền đạo Thiên chúa đã đi do thám để báo cho đội quân chiếm đóng biết những kế hoạch phòng thủ của nước chúng tôi. Cũng chính những nhà truyền đạo đã dẫn đường những đội quân tiến công, cũng chính những nhà truyền đạo đã lợi dụng tình trạng đất nước rối loạn để ăn cắp những văn bản chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của ngưởi nông dân này nọ hay của một làng nào đó. Khi hòa bình được lập lại, nông dân trở về thì tất cả ruộng đất đều đã bị các nhà truyền đạo nắm được văn bản nói trên, chiếm mất. Chính bằng cách đó, mà ở Nam Kỳ những nhà truyền đạo Thiên chúa có trên một phần tư ruộng đất cày cấy được. Ở Cao Miên, các nhà truyền đạo nắm trên một phần ba ruộng đất, ở Bắc Kỳ, chỉ riêng ở thủ phủ, trong thành phố Hà Nội, các nhà truyền đạo có những bất động sản rộng mênh mông.
                    Không phải chỉ bằng cách đó họ chiếm của cải, ruộng đất của nông dân. Các đồng chí đều biết rằng trong các nước ven biển, nhất là trong những nước ở Viễn Đông, thường xảy ra giông bão và lụt lội làm cho mùa màn thất bát ; các nhà truyền đạo lợi dụng những dịp đó để ứng tiền trước cho nông dân vay với những tỷ suất lãi rất nặng và một thời hạn rất ngắn. Biết rõ rằng làm như vậy thì nông dân không bao giờ có thể trả nợ được, các nhà truyền đạo đòi nông dân phải đem ruộng đất ra bảo đảm. Đến hạn trả nợ, toàn bộ ruộng đất của nông dân đều rơi vào tay những người truyền đạo.

                    Các đồng chí đã thấy bọn thực dân bóc lột nông dân như thế nào và các quan chức của chúa tước đoạt nông dân như thế nào.

                    Bây giờ, còn có những kẻ bóc lột khác nữa, chẳng hạn như nhà nước. Dù mủa màng có xấu đến mức nào đi nữa, nông dân Việt Nam vẫn cứ phải đóng thuế, nông dân phải bán mùa màng của mình đi ; đẻ khỏi bị bỏ tù (hễ đóng thuế chậm là họ bị bỏ tù) họ phải bán non mùa màng của họ, nghĩa là bán trước khi gặt ; họ bán cho con buôn theo cách ước lượng bằng mắt. Bằng cách đó con buôn mua lúa trước khi gặt bằng một giá rất rẻ và sau đó đem bán lại rất đắt. Như vậy là người nông dân Việt Nam không phải bị trói vào chiếc cột như tôi đã trình bày với các đồng chí, mà họ còn bị đóng đinh câu rút bởi bốn thế lực liên hợp là : Nhà nước thực dân, tên thực dân, Chúa Ki-tô và con buôn.
                    Chắc các đồng chí sẽ hỏi rằng tại sao nông dân Việt Nam không tổ chức nhau lại, không làm như các đồng chí là thành lập hợp tác xã. Chỉ vì họ không thể làm như thế được.
                    Tôi phải nói với các đồng chí rằng chúng tôi bị cai trị bởi một chế độ nô lệ. Chúng tôi không được quyền tự do đi lại ; chẳng hạn như chúng tôi không được đi từ Mát-xcơ-va đến Pê-tơ-rô-grát được ; chúng tôi phải xin được giấy thông hành, nếu không họ sẽ bắt giữ và ném chúng tôi vào tù. Cũng vậy, chúng tôi không được quyền hội họp trên 4 hoặc 5 người nếu không xin được giấy đặc biệt của chính quyền Pháp.
                    Tôi cũng sin nhắc lại rằng các đồng chí đã nói đến chính quyền vô sản về việc lật đổ chủ nghĩa tư bản. Nhưng tất cả những điều các đồng chí nói ở đây sẽ trở thành vô ích, nếu các đồng chí quên mất cái yếu tô quân phiệt thực dân. Các đồng chí đều biết các sự việc. Trong chiến tranh thế giới, chỉ riêng ở nước Pháp, người ta đã đưa từ các thuộc địa về trên một triệu người bản xứ để tham gia chiến tranh. Trong những năm 1916-1917, người ta đã chở về 2 triệu tấn ngũ cốc, trong khi dân bản xứ châu Phi và Đông Dương chết đói.
                    Thưa các đồng chí, để kết thúc, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế khi không những nông dân phương tây, mà cả nông dân phương đông, nhất là nông dân các thuộc địalà những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí (vỗ tay).
                    Nông dân bị giai cấp tư sản bóc lột và áp bức không kém công nhân. Phải đấu tranh để tự giải phóng. Giai cấp duy nhất đã đấu tranh thẳng tay chống chế độ hiện nay là giai cấp công nhân ; vì vậy nông dân và công nhân là hai bạn đồng minh tự nhiên. Chỉ với lực lượng của riêng mình, nông dân không bao giờ có thể trút bỏ được gánh nặng đang đè nén họ. Sống tản mác trong các làng mạc, họ có thể nổi dậy và tiến hành đấu tranh, nhưng một mình họ thì không thể chiếm được bộ máy nhà nước và giữ được bộ máy đó. Đời sống xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và vào những đường giao thông. Những kẻ nắm đường sắt, nhà máy, hầm lò, những kẻ thống trị trong các thành thị, luôn luôn có thể đè bẹp nông thôn. Hiện nay, chính giai cấp tư sản là kẻ nắm được tất cả những thứ đó, và chỉ công nhân mới tước được của giai cấp tư sản những phương tiện thống trị mạnh mẽ của nó, mới có thể chỉ đạo sản xuất và tương lai của nhân loại.
                    Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân. Những trào lưu cơ hội chủ nghĩa, phỉnh nịnh nông dân, coi công nhân là lực lượng chủ yếu, là động lực duy nhất của cách mạng, là đội ngũ cách mạng nhất, chỉ dẫn tới chủ nghĩa phiêu lưu, chủ nghĩa cực đoan, vô chính phủ và đi tới chỗ phản bội chủ nghĩa Lê-nin mà thôi”.
                    Cả Đại hội đứng dậy vỗ tay hồi lâu hoan nghênh bản tham luận xuất sắc của anh Nguyễn. Giữa một vài tiếng nói lầm lẫn cất lên trong Đại hội, đánh giá rất thấp hoặc cường điệu, đề cao quá đáng vai trò nông dân, ý kiến của anh nổi lên ngắn gọn, đầy lẽ phải và có sức thuyết phục, làm cho các đại biểu và các nhà báo xô-viết có mặt tại Đại hội rất chú ý. Lần đầu trên một diễn đàn quốc tế anh nói rõ quan điểm của anh về sứ mệnh lịch sử, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và vị trí của nông dân trong cách mạng. Anh hiểu biết vấn đề nông dân từ thực tiễn Việt Nam và từ những năm làm công nhân ở các châu Âu, Mỹ, Phi, lăn lộn trong phong trào công nhân và tiếp thụ ánh sáng của Lê-nin. Tầm nhìn sâu rộng, tư duy cách mạng của anh đánh giá đúng vai trò nông dân, chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, và ngay từ buổi bình minh ấy của phong trào chung, anh đã báo động thế giới về nguy cơ của những trào lưu cơ hội chủ nghĩa phản Lê-nin.

                    Các nhà điện ảnh xô-viết quay phim anh khi anh kết thúc bài tham luận trở về chỗ ngồi, vừa đi vừa giơ tay chào đáp lại tiếng hoan hô của các đại biểu nông dân khắp năm châu.
                    Đại hội quyết định thành lập Quốc tế nông dân, thông qua Dự thảo điều lệ và khẩu hiệu : “Công nhân và nông dân các nước, hãy đoàn kết lại !”. Trước ngày chuyển ra nhà hát lớn Mát-xcơ-va để làm lễ bế mạc trọng thể, Đại hội bầu những người lãnh đạo Quốc tế nông dân. Các đại biểu nghiên cứu lý lịch và lời giới thiệu những người được cử ra và ứng cử. 122 đại biểu chính thức bỏ phiếu kín bầu Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch. Với lòng mến yêu, niềm tin cậy, Đại hội bầu anh Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ có tầm nhìn và lập trường lê-nin-nít vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế nông dân cùng với 10 người nữa : Smiếc-nốp (Nga xô-viết), Đôm-ban (Ba Lan), Bu-éc-ghi (Đức), Va-dây (Pháp), Rít-lơ (Tiệp Khắc), Gơ-rô (Bun-ga-ri), Đu-ơ-rô (Thụy Điển), Gơ-ri (Mỹ), Gan-van (Mê-hi-cô), Xen Ca-ta-i-a-ma (Nhật Bản). Anh Nguyễn là đại biểu thuộc địa duy nhất được chọn vào cơ quan lãnh đạo tối cao của tổ chức Quốc tế nông dân.

                    Cùng với các đồng chí khác trong Đoàn Chủ tịch, để đáp lại những tiếng vỗ tay, tiếng chào mừng, tiếng hoan hô của Đại hội, anh Nguyễn xúc động bước lên lễ đài và cũng là bước lên một vị trí mới trong đời hoạt động cách mạng của mình : vị trí một chiến sĩ cách mạng quốc tế chân chính.

                    Đứng giữa hội trường An-đrê-ép—xki, xen vào tiếng nhạc Quốc tế ca, anh Nguyễn giơ cao nắm tay cùng với Đại hôi hô lớn :
                    “ Các bạn nông dân toàn thế giới ! Các bạn hãy đứng dậy, sát cánh với công nhân để cùng đấu tranh chống lại tư bản thực dân và bọn đại địa chủ phong kiến !”
                    Trong thời gian màn ảnh mờ dần để chuẩn bị chuyển sang một đoạn văn khác, giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan vang lên.
                    - Kính thưa 9 vị bồi thẫm... Đoạn văn trên cho chúng ta thấy rõ một điều. Bị can Hình Chí Mô vào năm 1923 đã trở thành đảng viên đảng cộng sản quốc tế. Trái tim của bị can là trái tim cộng sản, xem chế độ cộng sản của đất nước Liên Xô là ưu việt. Liên Xô là nước mẹ của bị can chứ không phải là Việt Nam nghèo nàn khốn khổ. Là thành viên của Chủ Tịch Đoàn Quốc Tế Nông Dân, bị can đã tự nguyện chiến đấu cho cộng sản, áp đặt lên quê hương mình một chế độ độc tài chuyên chế vô nhân và tàn hại dân tộc mà chúng ta đã thấy hiện nay...
                    Từ bản yêu sách 8 điểm của anh gửi Hội nghị Véc-xay năm 1919 đến bản dịch Lời kêu gọi này của Quốc tế nông dân, anh đã viết rất nhiều, không mệt mỏi, để trực tiếp truyền bá về Đông Dương chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản. Báo Lơ Pa-ri-a, các bài báo của anh trên báo Nhân Đạo và Tạp chí Cộng sản ở Pháp về tới Việt Nam, được bí mật truyền tay nhau qua các nhà máy, làng quê, các trường Bưởi Hà Nội, Quốc Học Huế, Sa-xơ-lu Lô-ba Sài Gòn, thức tỉnh, cổ vũ và lôi cuốn cả một thế hệ Việt Nam hướng về chân lý cách mạng của thời đại, về con đường cứu nước, cứu dân...
                    Người trực tiếp gieo những hạt giống đầu tiên ấy của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, của sự nghiệp giải phóng dân tộc trên đất Việt Nam chính là anh, không phải ai khác, và càng không phải là một người nước ngoài nào khác. Lời kêu gọi của Quốc tế nông dân, mà anh là một trong những nhà lãnh đạo chủ yếu, phát đi từ Mát-xcơ-va bằng tiếng Việt còn là sự tỏ tình đoàn kết chiến đấu của nhân loại tiến bộ trên thế giới đối với nhân dân Việt Nam.
                    Các nhà báo ở Mát-xcơ-va bắt đầu gọi anh là chiến sĩ quốc tế cộng sản.
                    Một trong số những nhà báo đó đến trụ sở Quốc tế nông dân nông dân yêu cầu được phỏng vấn anh. Đấy là nhà báo và là nhà thơ xô-viết nổi tiếng Ô-xíp Man-đen-xtam, phóng viên báo “Ngọn lửa nhỏ”, người đã gặp anh tại Đại hội Quốc tế nông dân và có rất nhiều cảm tình với anh khi nghe anh nói trước Đại hội.
                    – Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho biết ảnh hưởng của phong trào Găng-đi ở Đông Dương như thế nào ? Man-đen-xtam hỏi – Ở nước đồng chí người ta có nói đến chủ nghĩa Găng-đi không ?
                    Anh Nguyễn trả lời bằng tiếng Pháp :
                    – Không ! Người Việt Nam bình thường, người nông dân Việt Nam chìm đắm trong đêm tối dày đặc. Họ không biết những gì xảy ra trên thế giới. Một sự tăm tối hoàn toàn.
                    Rồi bằng một giọng khinh bỉ, anh nói đến cái gọi là “nền văn minh” phương Tây thực hiện ở Việt Nam. Nhưng với con người đã đi khắp thế giới ấy, khi nói đến những anh em, bè bạn, đối với anh tức là những người da đen, da nâu, da vàng bị mất nước, thì giọng anh tha thiết, trìu mến và thương yêu biết chừng nào.

                    Anh Nguyễn kể tiếp :
                    - Năm 13 tuổi, tôi lần đầu được nghe những từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”… Và tôi muốn học hỏi ít điều ở nền văn minh Pháp để khám phá những gì ẩn nấp sau những từ đó. Nhưng trong các trường bản xứ, người Pháp chỉ đào tạo những con vẹt. Họ giấu sách báo không cho chúng tôi xem. Không chỉ cấm đọc những tác giả cận đại mà cả Rút-xô và Mông-tét-ski-ơ nữa…

                    Nhân dân chúng tôi bị áp bức và bóc lột một cách tàn bạo, bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Chúng tôi đã bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện. Ở Việt Nam, nhà tù nhiều hơn trường học. Người bản xứ nào có tư tưởng cách mạng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội. Chúng tôi không có quyền sống hoặc đi du lịch ở nước ngoài. Chúng tôi sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập...
                    Trong tạp chí “Ngọn lửa nhỏ” tháng chạp năm 1923, Ô. Man-đen-xtam tả lại cuộc gặp gỡ nói trên trong bài phóng sự chiếm cả một trang báo nhan đề “Gặp một chiến sĩ quốc tế cộng sản : Nguyễn Ái Quốc” kèm theo tấm ảnh anh Nguyễn...



                    Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (7/1924) tại Mátxcơva.


                    Cái chết của Lê Nin năm 1924 là một sự kiện quan trọng trong quãng thời gian Nguyễn Ái Quốc sống ở Liên Xô. Đây là cảm tưởng của Nguyễn Ái Quốc khi nghe Lê Nin chết:

                    '' Sáng ngày 22-2-1924, theo lệ thường, anh Nguyễn xuống tầng một của khách san Luých, nơi có phòng ăn tập thể, để ăn sáng. Bỗng loa truyền thanh báo tin : Lê-nin đã từ trần ! Tiếp theo là bản nhạc tang. Anh Nguyễn sững sờ, lòng đau như thắt lại. Anh muốn kêu lên : Không thể như thế được ! Điều đó không có thực ! Nhưng rồi mọi người trong phòng ăn, từ đồng chí phục vụ đến đồng chí lãnh đạo phong trào công sản quốc tế, tất cả đều khóc nức nở. Anh Nguyễn nhìn qua cửa kính thấy trên nóc nhà “Mốt-xô-viết” một lá cờ tang để rủ. Nỗi đau buồn ập lấy người anh : Thế là anh không được gặp Lê-nin nữa ! Đấy là một điều ân hận lớn trong đời anh...
                    Bằng lời văn trong sáng, giản dị, sự nhận xét cô đọng sâu sắc, tình cảm chân thành và nồng cháy, anh Nguyễn viết: :

                    “Lê-nin đã mất ! Tin này đến với mọi người như sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên phì nhiêu ở châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở châu Á. Đúng, những người da đen và da vàng chưa có thể biết rõ Lê-nin là ai, nước Nga ở đâu. Bọn đế quốc thực dân cố ý bưng bít không cho họ biết. Sự ngu dốt là một trong những chỗ dựa chủ yếu của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả họ, từ những người nông dân Việt Nam, đến người dân săn bắn trong các rừng Đa-hô-mây, đã thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lý lấy đất nước mà không cần đến bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước đó là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lê-nin. Chỉ như thế cũng đủ làm cho họ ngưỡng mộ sâu sắc và đầy nhiệt tình đối với nước đó và lãnh tụ của nước đó.

                    Nhưng không phải chỉ có thế. Họ còn được biết rằng người lãnh tụ vĩ đại này sau khi giải phóng nhân dân nước mình, còn muốn giải phóng các dân tộc khác nữa. Người đã kêu gọi các dân tộc da trắng giúp đỡ các dân tộc da vàng và da đen thoát khỏi ách áp bức của bọn ru-mi, của tất cả bọn ru-mi, toàn quyền, công sứ, v. v… và để thực hiện mục đích ấy, Người đã vạch ra một cương lĩnh cụ thể.


                    Lúc đầu họ tưởng trên đời không thể có một người như thế và cương lĩnh như thế được. Nhưng về sau họ được biết tin, tuy lờ mờ, về Đảng Cộng sản, về tổ chức gọi là Quốc tế cộng sản đang đấu tranh vì những người bị bóc lột, và tất cả những người bị bóc lột, trong đó có cả họ nữa, họ biết rằng chính Lê-nin là người lãnh đạo tổ chức này.

                    Và chỉ như thế cũng đã để cho những người đó, tuy văn hóa kém cỏi nhưng là những người có thiện chí và biết ơn, hết lòng tôn kính Lê-nin. Họ coi Lê-nin là người giải phóng cho họ. Lê-nin đã mất rồi thì chúng ta biết làm thế nào ? Liệu có những người dũng cảm và rộng lượng như Lê-nin để không quản thời gian và sức lực chăm lo đến sự nghiệp giải phóng của chúng ta không ? Đó là những điều mà quần chúng nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa băn khoăn tự hỏi.

                    Còn chúng tôi, chúng tôi vô cùng đau đớn trước sự tổn thương không thể nào đến bù được và chia sẻ nổi buồn chung của nhân dân các nước với những người anh, người chị của chúng tôi. Song chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có chi bộ của các nước thuộc địa, sẽ thực hiện được những bài học và những lời giáo huấn mà vị lãnh tụ đã để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người đã căn dặn chúng ta, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu mến của chúng ta đối với Người hay sao ?
                    Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội.
                    Lê-nin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.

                    Kính thưa quí vị. Tôi không biết khi hai đấng sinh thành qua đời, bị can Hình Chí Mô có sững sờ, lòng đau như cắt hoặc như sét đánh ngang tai như khi bị can nghe tin Lê Nin chết. Chắc là không, bởi vì trong trái tim cộng sản của Nguyễn Ái Quốc- Hình Chí Mô không có tình tự dân tộc, cha mẹ, anh chị em gì hết. Bị can chỉ biết có Quốc Tế 3...

                    Comment


                    • #25
                      25

                      Đạo Đức Cách Mạng thứ nhi của Bác:
                      DỐI GẠT


                      - Ngày 11 tháng 11 năm 1924, bị can Hình Chí Mô, đặt chân tới Quảng Châu với bí danh mới Lý Thụy và một nhiệm vụ mới: thiết lập Đảng Cộng Sản Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo của đệ tam quốc tế cộng sản...

                      Bỏ dở câu nói của mình, Thôi Phán Quan chỉ tay vào màn ảnh. Mọi người im lặng đọc từng dòng chữ hiện ra.
                      - Đường phố Quảng Châu còn ngùn ngụt khí thế cách mạng. Anh Nguyễn đến ở và làm việc tại cơ quan đồng chí Bô-rô-đin, cố vấn của ông Tôn Dật Tiên, đặt tại khu Đông Sơn. Đây là một khu nhà nhỏ dành riêng cho các chuyên gia Liên Xô cùng gia đình, những người theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản, xa Tổ quốc thân yêu, đến một vùng thời tiết khắc nhiệt và tình chính trị chưa ổn định để giúp đỡ cách mạng Trung Quốc. Tại đây, anh Nguyễn gặp cả tướng Bliu-khe, mang tên ở Trung Quốc là Ga-lin, cố vấn quân sự cao cấp của ông Tôn Dật Tiên. Người tầm thước, vai rộng, tóc hung hung cắt ngắn như mọi chiến sĩ Hồng Quân, đồng chí Bliu-khe từng là Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng quân sự nước Cộng hòa Viễn đông thuộc Liên Xô. Đồng chí có nhiều công lao góp phần xây dựng quân đội cho cách mạng Trung Quốc, tổ chức những cuộc hành quân chống bọn phản động và nhất là đã chỉ huy giành thắng lợi trong cuộc bắc phạt lần thứ nhất.
                      Anh Nguyễn ở và làm việc trong một ngôi nhà hai tầng. Anh ở tầng một, đồng chí Bô-rô-đin ở tầng hai. Cương vị của anh trong tổ chức Quốc tế cộng sản và nhiệm vụ công tác của anh ở Quảng Châu chỉ có Bô-rô-đin và vợ là đồng chí Pha-nhi-a Xê-mê-nô-vô-na Bô-rô-đi-a biết. Về công khai, anh là cố vấn riêng và người phiên dịch của đồng chí Bô-rô-đin, đồng thời là phóng viên của hãng Rô-xta. Trong cơ quan của Bô-rô-đin mà người ta còn gọi là Phủ Đại nguyên soái Liên Xô hoặc lãnh sự quán Liên Xô, làm việc giữa tập thể các đồng chí chuyên gia xô-viết, anh Nguyễn mang thêm một tên Nga :Ni-lốp-xki. Nhưng các bạn quen gọi anh là đồng chí Lý...
                      Kính thưa quí vị... Quảng Châu vào năm 1924, là cái nôi của các phần tử quốc gia lưu vong chống Pháp trên đất Tàu. Đây cũng là địa bàn hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội và Tâm Tâm Xã do cụ Phan Bội Châu lập ra. Vì thế hội này trở thành mục tiêu của Lý Thụy trong công tác biến nó thành ra cái nhân của Đảng Cộng Sản Đông Dương với cái tên mới: Việt Nam Cách Mệnh Đồng Chí Hội.

                      Anh Nguyễn đến chỗ ở của nhóm “Tâm tâm xã” và tự giới thiệu tên là Vương, thăm hỏi các nhà yêu nước, đồng chí của Phạm Hồng Thái, và bàn chuyện quê hương, đất nước. Đấy là những thanh niên sôi nổi, hăng hái cách mạng, nhiều người là đồng hương Nghệ An với anh và từ Xiêm tới: Anh Hồ Tùng Mậu, 28 tuổi, người huyện Quỳnh Lưu, Lê Hồng Sơn, 28 tuổi, người huyện Nam Đàn, Lê Hồng Phong, 22 tuổi, người huyện Hưng Nguyên, cùng những thanh niên khác : Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Lâm Đức Thụ tức Trương béo…
                      Tất cả những biến động chính trị, những phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng nhân dân ở Quảng Châu tác động rất mạnh đến các đồng chí Việt Nam ở Quảng Châu. Được sự hướng dẫn và giáo dục của anh Nguyễn, họ đã bắt đầu nhìn thời cuộc Trung Quốc, thế giới và Tổ quốc mình bằng đôi mắt mới, quan điểm và tình cảm mới, vừa khoa học vừa cách mạng . Những người thanh niên yêu nước ấy tiếp thu được từ anh Nguyễn ánh sáng rực rỡ của một chủ nghĩa mới, một chủ nghĩa có sức thuyết phục và lôi cuốn, đem lại thế giới quan vàhân sinh quan cách mạng cao quý của giai cấp công nhân, khác xa chủ nghĩa của ông Phan Bội Châu cũng như của ông Tôn Dật Tiên, và cũng khác xa cái mẫu quân chủ Nhật Bản mà có thời “Việt Nam quang phục hội” ngưỡng mộ hết lòng. Họ cảm thấy náo nức như mở hội trong đời, và trong buổi bình minh của sự giác ngộ lớn lao có tính bước ngoặt, họ thấy dâng lên niềm hạnh phúc tìm thấy đường lối cách mạng mới và người lãnh đạo xuất sắc. Anh Nguyễn tuyên truyền, giải thích cho từng người về mục đích, nhiệm vụ cách mạng và kết nạp từng người vào nhóm nồng cốt cách mạng, với điều lệ hoạt động do chính anh thảo. Lễ kết nạp nhóm đơn giản nhưng rất trang trọng. Anh Nguyễn đọc chương trình, điều lệ của nhóm, người giới thiệu phát biểu ý kiến về người được kết nạp. Rồi người được vào nhóm nòng cốt đọc lời thề tuân theo chương trình, điều lệ, nguyện chiến đấu suốt đời cho lý tưởng cách mạng.

                      Một trong những người được kết nạp cuối cùng là Vương Thúc Oách, con rể ông Phan Bội Châu. Anh mới ở trong nước ra, đến gặp anh Nguyễn và kể những việc mình đã làm khi ở Việt Nam.

                      Thuộc nhóm “Tâm tâm xã”, Vương Thúc Oách được cử về nước đem thư của Cường để gửi cho Thân Trọng Huê, Thượng thư Bộ lại triều đình Huế và thư gửi vua Khải Định, cùng với thư của ông Phan Bội Châu gửi các thân sĩ yêu nước. Sau đó, Vương Thúc Oách sang Xiêm, ở chỗ ông Đặng Thúc Hứa, một kiều bào yêu nước. Hai ngày sau anh gặp anh Hồ Tùng Mậu, từ Quảng Châu về nước và từ nước sang Xiêm để trở lại Quảng Châu. Gặp anh, Hồ Tùng Mậu nói :
                      - Mọi công việc chúng ta làm từ trước đến nay hỏng hết cả. Công việc phải đình lại thôi... Có đường lối mới rồi !

                      Và Hồ Tùng Mậu nói với Vương Thúc Oách về đường lối của anh Nguyễn…

                      Anh Nguyễn chăm chú hỏi và nghe Vương Thúc Oách kể tình hình mọi mặt ở Đông Dương, tình hình kiều bào ở Xiêm, các cơ sở quen biết ở Việt Nam và ở Xiêm.

                      Trong một phố nhỏ và nghèo khổ của Quảng Châu, một ngày tháng hai năm 1925, chín người thanh niên, đầu tiên của nhóm nòng cốt, bầu bí thư của nhóm và cũng là người lãnh đạo của họ: Đồng chí Lý Thụy (tức anh Nguyễn). Chín người đó là : Lý Thụy, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ, Vương Thúc Oánh, Trương Văn Lễnh, Lưu Quốc Long.

                      Đấy là cái mầm non của tổ chức cộng sản mà anh Nguyễn ôm ấp kế hoạch xây dựng từ lâu và trào lưu của thời đại đang đòi hỏi.

                      Một bức điện tối mật của toàn quyền Đông Dương Méc-lanh đầu năm 1925 gửi về Bộ Thuộc địa Pháp báo: xuất hiện ở Quảng Châu một người cách mạng Việt Nam tên là Lý Thụy hoạt động rất tích cực trong số những người Việt Nam tại đây và dùng những biện pháp tuyên truyền có xu hướng cộng sản chủ nghĩa.

                      Đối với anh Nguyễn, công việc hàng đầu lúc này là chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Một công việc to lớn, phức tạp, khó khăn, đòi hỏi sự trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, sự thống minh, đầu óc khoa học, tính kiên nhẫn, tác phong cụ thể, tỉ mỉ. Anh đã mất nhiều công sức để theo dõi và nghiên cứu tình hình Đông Dương, gây dựng những cơ sở đầu tiên, và điều cực kỳ quan trọng là hình thành một tổ chức thích hợp để mở đầu và rèn luyện, diễn tập theo con đường Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tạo ra cái nền móng để xây nên tòa lâu đài vĩ đại là Đảng Cộng sản. Anh chăm lo đến từng người nòng cốt trung kiên để đi tới tổ chức mà anh đã phác thảo, vì anh thấy rõ muốn có tổ chức phải đào tạo được những con người đáp ứng yêu cầu của tổ chức đó. Trong ngôi nhà hai tầng ở khu Đông Sơn, Quảng Châu, anh đã nghĩ rất lung đến việc tạo ra một đội ngũ cán bộ Việt Nam đầu tiên, có lập trường và quan điểm của giai cấp công nhân, cùng anh đưa cách mạng Việt Nam đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Anh đã liên hệ nhiều lần với trường Đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va và trường Quân sự Hoàng Phố để tìm hiểu khả năng tiếp nhận đào tạo giúp những cán bộ Việt Nam… Nhưng cuối cùng anh thấy tốt nhất là phải trực tiếp truyền bá những hiểu biết, kinh nghiệm và đạo lý cách mạng mới cho những đồng bào yêu nước mà anh đã chọn lựa. Ngày 19-2-1925, anh viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế cộng sản :

                      Các đồng chí thân mến,
                      Tình hình Đông Dương tôi đã tả trong báo cáo đầu tiên của tôi. Tôi chỉ báo để các đồng chí biết ba việc sau đây:

                      1. Đảng Lập hiến, mà tôi đã nói đến trong báo cáo cuối cùng của tôi, vừa được tăng cường bằng việc gia nhập của một nhà cách mạng Việt Nam lão thành, một nhà nho, bị kết án tử hình, được ân xá, trục xuất sang Pháp và cuối cùng vào quốc tịch Pháp nhờ ơn Chính phủ He-ri-ô. Cương lĩnh do Đảng này công bố là Pháp – Việt hợp tác và giới thượng lưu Việt Nam được vào quốc tịch Pháp.

                      2. Những người bảo thủ và những người dân chủ Pháp ở Đông Dương tranh giành lẫn nhau như những người cầm đầu của họ làm ở Pháp. Mới đây có những truyền đơn chống đế quốc rải ở Nam Kỳ (Tôi cho rằng – qua những lời trích – những truyền đơn đó là của Ban thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp). Bọn bảo thủ kêu lên : Bọn bôn-sê-vích ! Những người dân chủ trả lời ngay : chính các anh dựng lên chuyện này để dọa chúng tôi.

                      3. Chính phủ Xiêm vừa trao cho Chính phủ Pháp một nhà cách mạng Việt Nam lão thành từ Trung Quốc đến. Chính phủ Xiêm thường yêu cầu trục xuất những người cách mạng Việt Nam lánh nạn ở Xiêm. Nhà cách mạng vừa bị trục xuất đã bị chém đầu, không có xử án, 24 giờ sau khi về tới Sài Gòn.


                      Công việc đã làm:
                      Chúng tôi đã lập được một nhóm bí mật 9 người, 2 người đã được phái về nước, 3 người ra mặt trận (trong quân đội của ông Tôn Dật Tiên), một đi công tác quân sự (cho Quốc dân Đảng). Trong số những người đó, có 5 đảng viên dự bị Đoàn Thanh niên Cộng sản”…



                      Lớp huấn luyện kết thúc, anh chọn các học sinh xuất sắc Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu làm giảng viên phụ cho anh trong khóa học sau, và cử Hoàng Lùn, Lê Huy Điểm về trong nước chọn những thanh niên nhiệt tình yêu nước sang học chính trị ở Quảng Châu. Rồi anh phái Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Nhật Tân về tận biên giới Việt Trung đón anh em thanh niên từ trong nước ra. Khóa ấy lúc lên đường gốm mười người, tới được Quảng Châu tám người, trong số đó có thầy giáo Trần Phú, từ nay lấy bí danh là Quý, họ Lý.
                      Những người học trò đầu tiên của anh Nguyễn được trang bị một tư tưởng hoàn toàn mới và trở thanh hạt nhân của phong trào cách mạng mới, của một tổ chức cách mạng mới do anh lập ra một ngày tháng 6 năm 1925. Đấy là “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, tổ chức cách mạng đầu tiên của Việt Nam đi theo đường lối chủ nghĩa Mác – Lê-nin, với tôn chỉ và mục đích: trước làm cách mạng giải phóng dân tộc, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
                      Ở Quảng Châu, anh Nguyễn và những người yêu nước Việt Nam sắp tổ chức giỗ đầu liệt sĩ Phạm Hồng Thái, thì được tin cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt khi cụ trên đường từ Hàng Châu đi Quảng Châu, tại ga xe lửa Bắc Thượng Hải. Bốn tên mật thám Pháp giả lái xe tắc-xi bắt cóc cụ đưa về tô giới Pháp, rồi đưa xuống tàu Pháp chờ ở bến Ngô Tùng, giải về Hải Phòng.
                      Rồi tiếp đến vụ bọn phản động ở Quảng Châu đâm chết ông Liêu Trọng Khải, người cùng anh sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tình hình Quảng Châu đang biến động lớn. Thấy phong trào cách mạng của nhân dân lên mạnh, các thế lực đế quốc và bọn phản động Trung Quốc điên cuồng phản kích. Bọn đế quốc Anh, Mỹ bắn phá Nam Kinh, Thượng Hải. Sau ba lần khởi nghĩa thất bại, công nhân Thượng Hải bị dìm trong biển máu. Tưởng Giới Thạch trở mặt hoàn toàn. Hắn tiến công cách mạng, giết một loạt những người yêu nước, cướp quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng, giải tán các công hội, nông hội và gây ra những vụ thảm sát lớn. Ngày 12-4-1927 bè lũ Tưởng làm đảo chính phản cách mạng ở Thượng Hải. Hôm sau ở Quảng Châu, Đảng Cộng sản Trung Quốc, các đoàn thể quần chúng, và cả “Việt Nam thanh niên các mạng đồng chí hội” phải rút vào bí mật. Cơ quan của đồng chí Bô-rô-đin và các chuyên gia Liên Xô rút về Vũ Hán nơi những người cánh tả Quốc dân Đảng còn nắm quyền. Anh Nguyễn tránh về vùng nông thôn Hải Lục Phong để duy trì công việc của Hội. Một đêm khuya, đồng chí Trương Văn Lễnh, chạy đến anh báo tin : “Bọn Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt anh đấy. Anh em ở Tổng bộ đề nghị anh cần nhanh chóng rời khỏi Quảng Châu, anh em thu xếp đi sau”.
                      Bọn lính quân phiệt của Tưởng xông vào nơi ở của anh Nguyễn. Lúc này anh đã ngồi ở Hương Cảng. Cảnh sát, mật thám Anh ở Hương Cảng xét hỏi anh và bắt anh rời Hương Cảng trong vòng 24 giờ. Anh chạy đến Thượng Hải, giữa lúc bọn Tưởng Giới Thạch đang khủng bố gắt gao. Anh mặc thật sang trọng, vào ở một khách sạn lớn, chúng không để ý. Nhưng không thể kéo dài được vì quá tốn tiền, anh thấy chỉ còn một cách – và cách này anh em Tổng bộ đã nói với anh khi tiếng súng đảo chính của Tưởng Giới Thạch nổ ở Quảng Châu – là anh phải đi Liên Xô ngay. Anh rời Trung Quốc, nơi anh đã nhìn thấy một sự phản bội tệ hại nhưng lại là nơi anh đã gây dựng thành công một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam đầy hứa hẹn...
                      Màn ảnh tắt cung với tiếng nói của Thôi Phán Quan vang vang trong căn phòng xử im lặng.
                      - Những gì trong đoạn văn trích dẫn ở trên đưa chúng ta tới một kết luận. Bị can Hình Chí Mô, bí danh Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy hay bất cứ tên giả mạo nào, cũng là đảng viên trung kiên của cộng sản đệ tam quốc tế và sáng lập viên đảng cộng sản Việt Nam. Bị can được phái tới Quảng Châu tìm cách xâm nhập và biến các đảng phái quốc gia chống Pháp thành cộng sản dưới quyền chỉ đạo của bị can. Hắn đã đạt được kết quả mỹ mãn nhờ vào sự hiểu biết và những thủ đoạn gian manh của một nhân viên tình báo được đào tạo qua các khóa huấn luyện đặc biệt của các cơ quan tình báo Liên Xô. Dấu kín tung tích của một đảng viên cộng sản quốc tế, Hình Chí Mô xuất hiện ở Quảng Châu như một phần tử quốc gia yêu nước thương dân, tranh đấu cho độc lập và tự do của dân tộc. Bằng cái vỏ bọc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, bị can móc nối, tuyên truyền, dụ dỗ các thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết trong cũng như ngoài nước thành đảng viên của Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong suốt thời gian hoạt động ở Quảng Châu từ tháng 11 năm 1924 cho tới tháng 12 năm 1927, không một ai biết Lý Thụy là đảng viên cộng sản. Nếu có ai biết thì người đó sẽ bị bị can thủ tiêu bằng cách bán cho mật thám Pháp. Dịch vụ buôn người quốc gia và bán đồng chí hái ra tiền đủ để cho bị can bành trướng ảnh hưởng của đảng. Không một ai biết Lâm Đức Thụ và Lý Thụy đã bán bao nhiêu thanh niên yêu nước của các đảng phái quốc gia như Quang Phục Hội, Quốc Dân Đảng và vô số phần tử quốc gia không theo đảng phái nào...
                      Ngừng lại, hớp ngụm nước cho thấm giọng xong Thôi Phán Quan thong thả tiếp.
                      - Điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là bản chất lừa bịp, dối gian và xảo trá của Hình Chí Mô. Bị can lợi dụng lòng tốt, sự tín nhiệm và tình thương yêu tổ quốc của các đồng chí để trục lợi cho bản thân và mẫu quốc cũng như người cha già Lê Nin của bị can. '' Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam ''. Câu này là một bằng chứng hiển nhiên. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đất nước Việt Nam của bị can đã bị hủy hoại để nhường chỗ cho mẫu quốc Liên Xô, cha già Lê Nin, Xít Ta Lin và đồng bào Nga xô. Ở trong người của bị can là một trái tim cộng sản, máu Liên Xô và nhung nhúc những con '' vi trùng mác-lê '', biến bị can thành một quỉ vương tàn bạo vô nhân tính.

                      Hỡi đồng bào cả nước,
                      Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
                      Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được...

                      Kính thưa quí vị... Trên đây là những lời nói đầu tiên trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà bị can Hình Chí Mô đã đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng Trường Ba Đình trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn người dân trong nước. Hồ Chí Minh xuất hiện như vị anh hùng yêu nước thương dân. Than ôi... Người ta đã lầm... Độc lập đâu không thấy mà chỉ thấy độc tài, độc đảng. Tự do thì có nhưng lại là đặc quyền của đảng. Đó là tự do giết người, tự do bắt bớ và giam cầm người dân, tự do bán nước và tự do tham nhũng. Độc lập, tự do, dân chủ chỉ là cái bánh vẻ của một đại ma đầu chính trị treo lơ lửng trước mặt mà mọi người không bao giờ được nếm để biết mùi vị. Nó chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền dùng để kích động lòng yêu nước của dân chúng, để cho người ta chết cho bác và đảng. 57 năm đã trôi qua, người dân Việt vẫn sống, gồng mình sống trong chế độ công an trị. Đấu tố, cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, thủ tiêu, bắt bớ, giam cầm, lưu đày biệt xứ, nghèo khổ và lầm than vẫn tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bị can Hình Chí Mô đã dối gạt, lừa bịp dân chúng Việt Nam từ lâu lắm rồi...

                      Thôi Phán Quan ngừng nói. Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ông ta hắng giọng.
                      - Sau đây tôi xin trình bày thêm về những hành động '' cách mạng bịp '' của bị can Hình Chí Mô để cho 9 vị bồi thẫm và mọi người được tận tường về con người ngoài mặt thì nói quốc gia mà lại có trái tim cộng sản...

                      Anh Nguyễn đến Hương Cảng với hộ chiếu mang tên Tống Văn Sơ. Thành phố sắp đón xuân mới. Trên các hè đường, người ta bán hoa đào, mẫu đơn, thủy tiên, cá vàng. Người đi sắm Tết nườm nượp. Anh Nguyễn gặp lại anh Hồ Tùng Mậu, cùng nhau bàn việc chuẩn bị chỗ họp và đón các đại biểu từ trong nước ra. Riêng anh Nguyễn còn bận nghiên cứu, dự thảo những văn kiện cho Hội nghị sắp tới, viết báo cáo về tình hình Đông Dương cho Quốc tế cộng sản trên cơ sở những tin tức anh nắm được ở Thượng Hải và Hương Cảng. Một học sinh Việt Nam ở trường Đại học Phương Đông, Mát-xcơ-va, đã trở về nước. Sắp tới có các học sinh từ trong nước ra Hương Cảng để đi học ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn sẽ phải lo thu xếp cho họ đi. Một đồng chí phụ trách của tổ chức cách mạng Mã Lai vừa từ Xin-ga-po và một đồng chí cộng sản Nam Dương từ đảo Gia-va tới gặp anh Nguyễn để hỏi một số ý kiến. Anh đã gửi về Quốc tế cộng sản một báo cáo về tình hình Mã Lai.

                      Đến Hương Cảng trước tất cả là đoàn đại biểu An Nam Cộng sản Đảng gồm hai đồng chí Châu Văn Liên và Nguyễn Thiệu đáp tàu từ Sài Gòn. Tiếp đến là đoàn đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng gồm hai đồng chì Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đinh Cửu đáp tàu Liêm Châu từ bến Hải Phòng. Họ phải ngồi bó gối dưới gầm giường một người của tổ chức làm điện báo viên dưới tàu. Hai đoàn đều được người liên lạc của anh Nguyễn đón riêng rẽ, đi tàu điện hai tầng về nhà nghỉ. Riêng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn do thành lập chậm không kịp gửi đại biểu đến.

                      Người liên lạc của anh Nguyễn đến nhà nghỉ đón các đại biểu đi phà mười phút qua eo biển sang Cửu Long. Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác. Anh Nguyễn bố trí cuộc họp hợp nhất ở xa trung tâm Hương Cảng, cách hẳn một eo biển, để giữ bí mật đối với Thụ. Các đại biểu đi lại về đêm, không ra phố Hương Cảng ban ngày, e gặp Thụ.

                      Cửu Long là một bán đảo đông dân, phần lớn là người lao động. Các đại biểu được dẫn đến một xóm thợ nghèo nàn, chập hẹp, bẩn thỉu, vào ngôi nhà một tầng nhỏ bé, bàn ghế đơn sơ, là gia đình công nhân. Anh Nguyễn gặp nhân dân, chúc mừng năm mới bằng tiếng Quảng Đông : “Cống hỉ ! Cống hỉ !”.

                      Cuộc họp tiến hành trang nghiêm, vì người dự ai cũng nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của nó. Đồng chí Vương, tức Nguyễn Ái Quốc ngồi giữa, nhân danh Quốc tế Cộng sản tuyên bố lý do Hội nghị. Chỉ có uy tín, cương vị, đạo đức, năng lực, kinh nghiệm và óc tổ chức của anh mới tạo ra được cuộc Hội nghị này, mới làm cho những ý kiến khác nhau cùng ngồi lại được để tìm chân lý và tiếng nói chung, mới chỉ được hướng đi tới cho phong trào. Ngồi bên phải anh là anh Nghĩa (tức Nguyễn Thiệu), và anh Việt (tức Châu Văn Liêm), đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Bên trái là anh Chí (tức Trịnh Đình Cửu), anh Trọng (tức Nguyễn Đức Cảnh), đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng.

                      Ngoài ra còn có anh Lương (tức Hồ Tùng Mậu) và anh Đỗ (tức Lê Văn Phan) là những người chuyên lo bố trí nhà ở, nơi họp, việc đi lại, thỉnh thoảng dự một vài buổi họp để góp báo cáo về tình hình.

                      Anh Nguyễn đề nghị từng đoàn đại biểu phát biểu ý kiến về vấn đề hợp nhất. Các đại biểu trình bày sôi nổi những quan điểm, ý nghĩ và dự định của mình. Sau những buổi lắng nghe các ý kiến, anh Nguyễn kết luận:

                      “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”.
                      Tất cả mọi người giơ tay biểu quyết đồng ý. Những lời phân tích, giải thích, chỉ dẫn của anh Nguyễn trước và trong Hội nghị đã làm tan biến những thành kiến, hoài nghi, thắc mắc, lo âu trong các đại biểu. Ai cũng thấy rõ sự bức thiết phải lập một Đảng Cộng sản thống nhất.
                      Khi thảo luận chọn tên Đảng, có ý kiến đền ghị lấy tên An-nam Cộng sản Đảng, có ý kiến nên gọi là Đông Dương Cộng sản Đảng. Anh Nguyễn nói:


                      – Không nên lấy tên An-nam mà cũng không lấy tên Đông Dương. Chúng ta nên đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.


                      Tất cả mọi người nhất trí tán thành ý kiến của anh Nguyễn, mừng rỡ chào đón Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mác-xít lê-nin-nít chân chính, chấm dứt tình trạng khủng hoảng, rời rạc, thiểu phương hướng rõ trong phong trào chống đế quốc thực dân và phong kiến ở Việt Nam.




                      Lễ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (Tháng 2 năm 1930)

                      Duyệt xét đoạn văn trên chúng ta thấy rõ ràng chỗ nào cũng cộng sản, ở đâu cũng cộng sản. Nào là An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Đây là lời phát biểu của anh Nguyễn tức Nguyễn Ái Quốc trong Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà.
                      “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”.
                      Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đúng như ý nguyện của bị can.
                      Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mác-xít lê-nin-nít chân chính,
                      Ít có người Việt Nam biết ngày 3-2-1930 là ngày Chúa Quỉ Hình Chí Mô lộ mặt. Với sự trợ giúp của các con quỉ nhỏ trong đảng cộng sản Việt Nam, bị can đủ quyền phép để lèo lái cuộc cách mạng chống Pháp đem độc lập và tự do của dân Việt thành cuộc thánh chiến cho một '' Đảng kiểu mới, mác-xít lê-nin-nít chân chính ''.

                      Anh viết thư cho các đồng chí đại diện Đảng Pháp ở Quốc tế cộng sản:
                      Các đồng chí thân mến,
                      1. Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. về vấn đề tổ chức, tôi đã gửi báo cáo cho Bộ Phương Đông. Do đó, tôi thấy không cần nhắc lại ở đây, các đồng chí sẽ xem báo cáo đó ở Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản.
                      2. Tôi có mấy yêu cầu và câu hỏi sau đây với các đồng chí. Cần giáo dục các đồng chí Việt Nam chúng tôi, vì trình độ tư tưởng, lý luận và kinh nghiệm chính trị của các đồng chí đó còn rất thấp. Tôi yêu cầu các đồng chí : (a) cho chúng tôi một tủ sách (các tác phẩm của Mác và Lê-nin, và các sách khác cần cho việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa) ; (b): gửi cho chúng tôi báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín Quốc tế và cả Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản.
                      3. Cách gửi : sách thì đóng vào những gói nhỏ, báo và tài liệu thì cho vào phong bì, giấu vào trong các đầu đề : Điều lệ và Chương lĩnh.
                      4. Cho tôi vài địa chỉ chắc chắn ở Pa-ri để chúng tôi có thể viết thư cho các đồng chí.
                      Cho chúng tôi biết tên những con tàu chạy đường Pháp – Viễn Đông trên đó các đồng chí Pháp làm việc và cho chúng tôi biết tên các đồng chí đó để chúng tôi có thể bắt liên lạc với họ (chúng tôi ở đây buộc phải thay đổi chỗ ở luôn cho nên không thể cho biết địa chỉ được).
                      5. Chúng tôi sẽ làm thế nào để sự hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp thực sự có hiệu quả.
                      6. Tôi được biết có những đồng chí Việt Nam ở Pa-ri lợi dụng danh nghĩa đảng viên để nhận (nói đúng hơn là bòn rút) tiền của các công nhân Việt Nam. Tôi đề nghị các đồng chí kiểm soát họ để tránh gây ấn tượng xấu trong công nhân. (B) (nguyên văn có chữ (B) chưa rõ nghĩa) Hoàng là một người tốt nhưng không biết gì về chính trị. Anh đã gửi những người phản cách mạng đến trường Đại học các dân tộc Phương Đông (những người nhiệt tình theo phái Nguyễn Thế Truyền) và đã cử những người đại biểu (đến đại hội lần thứ sáu) đánh lẫn nhau và gây những chuyện tai tiếng. Tôi đề nghị từ nay Trường không nhận các đại biểu hoặc học sinh Việt Nam nào không có sự giới thiệu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
                      7. Coi như bước đầu của sự hợp tác, tôi đề nghị Đảng Cộng sản Pháp công bố một bức thư góp ý kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam và ra lời kêu gọi lính pháp ở Đông Dương. Thư và lời kêu gọi đó phải ngắn gọn để chúng tôi có thể dịch và phân phát dưới hình thức truyền đơn (do chúng tôi phải in theo lối cổ sơ). Tôi đề nghị các đồng chí gửi cho tôi bản gốc những tài liệu đó.
                      8. Địa chỉ gửi cho tôi : Về thư (Gửi cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đề trên phong bì : Ông Vích-to Lơ-bông, 123, đại lộ Cộng hòa, Pa-ri, Pháp). Về sách báo : Ông Lý, Hương Cảng tiểu dạ báo, 53, phố Uyn-hêm, Hương Cảng.
                      9. Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi. Tôi hiện là Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hay Đảng Cộng sản Việt Nam ? Cho đến khi có lệnh mới, tôi vẫn phải chỉ đạo công việc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi chưa trở về Đông Dương được, nhất là lúc này, chúng đã ban cho tôi một cái án tử hình vắng mặt. Sự ủy nhiệm công tác của Quốc tế Cộng sản cho tôi đã hết hạn chưa ? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Bộ Phương Đông ở đây ? Tôi đề nghị các đồng chí nhắc Ban Thường vụ Quốc tế cộng sản cho quyết định về việc này.
                      10. Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có lời kêu gọi sẽ được phân phát trong cả nước vào khoảng ngày 20/3.
                      Tôi đề nghị các đồng chí:
                      a) Công bố trên báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín quốc tế lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
                      b) Chuyển những thư kèm theo và trả lời cho tôi biết.

                      Ngày 27/2/1930
                      Lời chào cộng sản thân ái
                      NGUYỂN ÁI QUỐC

                      Anh Nguyễn còn viết thư cho đại diện Tổng công hội thống nhất Pháp trong Quốc tế Công hội :
                      Đồng chí thân mến,
                      Đề nghị đồng chí hỏi Đảng hộ về việc gửi các báo và tạp chí của Đảng cho chúng tôi để chúng tôi dịch đăng báo của chúng tôi. Đầu đề và tên báo, tạp chí nên gấp vào bên trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi một tờ báo tư sản của nước các đồng chí để cãi với cảnh sát nếu chúng phát hiện chúng tôi nhận báo chí cộng sản.

                      Lời chào cộng sản
                      Thay mặt Đảng Cộng sản Đông Dương
                      NGUYỄN ÁI QUỐC
                      Ngày 27/2/1930



                      Địa chỉ của tôi :
                      Ông Lý
                      Hương Cảng tiểu dạ báo
                      Số nhà 53, đường Uyn-hêm,
                      Hương Cảng


                      Ngày hôm sau, anh Nguyễn lại viết thư gửi cho Văn phòng đại diện Đảng Cộng sản Anh ở Quốc tế cộng sản :
                      Đồng chí thân mến,
                      Tôi đề nghị đồng chí gửi cho tôi báo Đời sống công nhân và tạp chí của Quốc tế Công hội đỏ. Các báo đó sẽ dán tem Pháp và tên báo giấu ở phía trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi bất kỳ một tờ báo tư sản nào (nhận ở báo Đời sống công nhân). Đây chỉ là một cách để cãi với cảnh sát nếu chúng biết chúng tôi nhận các báo “phá hoại”.



                      Lời chào cộng sản thân ái
                      Thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam (Đông Dương)
                      NGUYỄN ÁI QUỐC



                      Địa chỉ của tôi :
                      Ông LýHương Cảng tiểu dạ báo
                      Số nhà 53, đường Uyn-hêm,
                      Hương Cảng


                      Anh Nguyễn ngày đêm lo nghĩ về công việc và tình hình đồng chí, đồng bào trong nước, nhưng anh không quên trách nhiệm Quốc tế cộng sản đã giao cho anh là xây dựng phong trào cách mạng của toàn vùng Đông-Nam châu Á. Để làm việc đó, anh chọn Hương Cảng là căn cứ hoạt động thuận tiện nhất. Từ đây, anh giữ các đầu mối liên lạc với các cơ sở cách mạng và các đồng chí cộng sản trong vùng, với Quốc tế cộng sản qua đường Hương Cảng – Mác-xây – Pa-ri – Mát-xcơ-va và nhất là với trong nước, qua đường Hương Cảng – Hải Phòng – Sài Gòn… Cũng từ đấy, anh liên hệ công tác dễ dàng với các cơ quan quốc tế mà anh tham gia hoạt động : Văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản ở Thượng Hải, Văn phòng Tổng công hội Thái Bình Dương, Bộ Phương Đông của Liên đoàn chống đế quốc…

                      Từ tháng giêng đến tháng 4-1931, ở Sài Gòn, nơi đóng cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, chúng giăng một mẻ lưới lớn, dựa vào sự phản bội của tên Ngô Đức Trì, bắt nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng bí thư Trần Phú. Lê Văn Kiệt, vừa đi dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế công hội họp ở Mát-xcơ-va về tới Sài Gòn cũng bị bắt. Trong khi đó, sớ mật thám Pháp ở Đông Dương phái ba tên ác ôn Pa-ri, Ca-na-va-gi-ô và Ri-ni-ê-ri sang tô giới Pháp ở Thượng Hải theo dõi và bắt anh Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du, Lê Quang Đạt, Lưu Quốc Long và chị Lý Phượng Đức. Lưu Quốc Long nhảy từ gác ba xuống đường, hy sinh ngay tại chỗ. Tên Nê-rông, phụ trách Vụ chính trị Sở mật thám Bắc Kỳ cùng một bọn ác ôn từ Hà Nội sang Hương Cảng để dò xét và phối hợp với mật thám Anh lùng bắt những người cộng sản Việt Nam. Ngày 21-4, chúng bắt anh Hồ Tùng Mậu, chị Minh Khai tức cô Duy hoặc Trần Thái Lan hoặc Lý Huệ Phượng, đang làm cán bộ liên lạc ở văn phòng chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản đóng tại Hương Cảng do anh Nguyễn phụ trách. Bọn mật thám đế quốc tìm anh Nguyễn nhưng anh đổi chỗ ở luôn và đi đi về về giữa Hương Cảng – Thượng Hải – Xiêm – Mã Lai, chúng khó theo dõi. Chúng đã có kế hoạch : nếu phát hiện anh trên đất Trung Quốc, không thuộc các tô giới của chúng, thì chúng sẽ thuê người bắt cóc anh đưa về tô giới. Có lần, chúng bắt được một tài liệu ở một chi bộ cộng sản Sài Gòn trong đó nói rằng anh Nguyễn sốt ruột trước tình hình các đồng chí trong nước bị bắt nhiều, sẽ về Sài Gòn để kiểm tra công tác của Trung ương Đảng và góp ý kiến. Thế là chúng bố trí một lực lượng mật thám khá đông để đón bắt ở Sài Gòn và Hải Phòng, nhưng không có kết quả.

                      Trong khi sục sạo ở Sải Gòn, ngày 30-4-1931, mật thám Pháp bắt được anh Nguyễn Thái từ Hương Cảng mới tới mang thư của anh Nguyễn đề ngày 24-4-1931 gửi Trung ương Đảng. Sau đó, Hồ Lan Sơn, được anh Nguyễn phái từ Hương Cảng về Sài Gòn để tìm liên lạc với Trung ương cũng bị địch bắt ngày 11-5. Địch đã có thể khẳng định : anh Nguyễn đang ở Hương Cảng. Trong khi đó đế quốc bắt ở tô giới Anh tại Thượng Hải một nhân vật quan trọng: Nu-len, tên thật là Ru-éc, phụ trách văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản, cơ quan đóng tại Thượng Hải. Từ đó, bọn đế quốc cùng nhau tìm đến một cơ quan khác của Bộ Phương Đông đặt ở Xin-ga-po. Đấy là văn phòng giao dịch của một hiệu buôn ơ trung tâm thành phố có đăng ký đàng hoàng và có môn bài đầy đủ. Tên chánh mật thám người Anh thuê một ngôi nhà ngay trước cửa văn phòng hiệu buôn để quan sát. Văn phòng mở cửa từ 7 giờ sáng đến trưa. Một người phục vụ trông nom nhà cửa, quét dọn. Từ trưa đến chiều, văn phòng không làm việc, nhưng người chủ văn phòng vẫn tiếp nhiều khách. Sở mật thám bí mật kiểm duyệt toàn bộ các công văn, thư từ của văn phòng này gửi đi Thượng Hải, Hương Cảng, Pa-ri. Thư viết chữ Pháp và chữ Anh, nói về buôn bán, nhưng có hơi hướng của mật mã. Bọn mật thám chụp ảnh người chủ văn phòng, theo nhiều kiểu khác nhau, gửi về Lơn-đơn để điều tra. Trên giấy tờ đăng ký, người chủ đó mang tên Xéc-giơ Lơ-phrăng.
                      – Tôi xin trân trọng giới thiệu với các đồng chí đây là đồng chí Lin, cán bộ của Quốc tế cộng sản. Theo quyết định của Ban bí thư Quốc tế cộng sản, từ nay ngoài công tác ở Bộ Phương Đông, đồng chí Lin nhận thêm nhiệm vụ lãnh đạo nhóm học sinh Việt Nam ở Nin Ca Pê (Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa viết tắt theo tiếng Nga).

                      Quốc tế Cộng sản cho anh Nguyễn biết Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ba ngưởi và Đảng Cộng sản Xiêm và Mã Lai hai người từ trong nước ra, đi dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đã tới Mát-xcơ-va bằng chuyến xe lửa Vla-đi-vô-xtốc – Mát-xcơ-va. Đấy là nét mới của phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã khôi phục được lực lượng sau những năm sống trong bão táp khủng bố và đàn áp. Được sự trợ giúp của Quốc tế cộng sản, Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước, đứng đầu là đồng chí Lê Hồng Phong, được thành lập năm 1934 ở Ma Cao. Các cơ sở bị địch phá được lập lại. Các Xứ ủy mới được xây dựng. Đảng vẫn sống và phát triển. Biết ơn những đồng chí, đồng bào trung kiên, bất khuất, giữ trọn niềm tin son sắt ở Đảng, ở tiền đồ dân tộc ; biết ơn những liệt sĩ anh hùng đã ngã xuống trong ngục tù và trên trường bắn vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang ; Cảm ơn Quốc tế cộng sản, các Đảng Cộng sản anh em, các tổ cức quốc tế đã đấu tranh bằng mọi hình thức chống bàn tay khủng bố của thuộc địa Pháp ở Đông Dương và đã lên tiếng ủng hộ, cổ vũ những người cộng sản Đông Dương giữ vững ý chí, tiến lên và quyết thắng.

                      Anh dặn tất cả mọi người phải đổi tên trong thời gian ở Liên Xô. Đồng chí Lê Hồng Phong mang tên Hải An, đồng chí Minh Khai là Phan Lan và Đôn Min, đồng chí Tú Hưu là Văn Tân.
                      Anh dẫn một số học sinh đi xem “Ba bài ca về Lê-nin” của nhà đạo diễn nổi tiếng Véc-tốp, chiếu nhân dịp lần thứ 10 ngày Lê-nin từ trần. Anh muốn họ thấy giờ phút đau thương bi tráng mười năm về trước mà anh đã sống ở Mát-xcơ-va, để càng nhớ Lê-nin. Từ năm 1924 ấy anh đã viết : “Chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có các chi bộ của các nước thuộc địa, sẽ thực hiện được những bài học và những lời di huấn mà lãnh tụ để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người ra đi dặn lại, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu của chúng ta đối với Người hay sao ?

                      Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam. Để vận dụng tốt chủ nghĩa Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, tiếp thu thêm kinh nghiệm quốc tế đã được tổng kết và trao dồi thêm lý luận cách mạng, anh ghi tên theo một khóa nghiên cứu lý luận của Trường Quốc tế Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Trong bản khai lý lịch gửi trường, anh viết: “Địa vị xã hội : Người cách mạng. Nghề nghiệp chính: làm công tác Đảng”. Trường này được thành lập năm 1926 theo nghị quyết Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản mà chính anh Nguyễn đã giơ tay biểu quyết. Trường dành riêng cho các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản các nước tư bản và các nước thuộc địa. Trong số giảng viên của trường có đồng chí Xta-lin. Phương pháp học chủ yếu là các nhân tự nghiên cứu sau khi nghe giảng viên giới thiệu đề tài.

                      Trường đặt ở một nơi khá kín đáo, thuận tiện cho việc bảo vệ các đồng chí quốc tế. Đây là một ngôi nhà hai tầng màu vàng, xây từ đầu thế kỷ 19, nguyên là biệt thự của một công tước Nga, mang biển số nhà 25 ở giữa phố Vô-rốp-xcô-vô. Phố này ở trung tâm Mát-xcơ-va mà lại rất yên tĩnh, ít người, ít xe cộ qua lại với những hàng cây cao rợp bóng cùng nhiều lâu đài và dinh thự cũ.

                      Trường Quốc tế Lê-nin, lúc mới lập mang tên Lớp quốc tế Lê-nin, ở phía sau một vường cây rậm, có giậu sắt, người đi ngoài đường không thấy. Ở cửa nhỏ bước vào nhà, hai bên tường đắp phù điêu đầu sư tử và dưới mái hiên treo hai chiếc đèn lồng kiểu cổ. Tại đây, theo nguyên tắc tổ chức chặt chẽ của Quốc tế cộng sản, Ban thẩm tra tư cách các nghiên cứu sinh, gồm 12 người do đồng chí Na-sốp làm trưởng ban, họp ngày 16-9-1934 để xem hồ sơ về anh Nguyễn. Cuộc họp ra quyết định “Nhận đồng chí Lin, Đảng Cộng sản Đông Dương, vào Trường Quốc tế Lê-nin, số hiệu 375, niên khóa 1934-1935”.
                      Cũng như mọi đại biểu dự Đại hội, anh Nguyễn viết bản sơ yếu lý lịch và quá trình hoạt động cách mạng của mình. Làm sao mấy dòng chữ có thể miêu tả đầy đủ lịch sử cuộc chiến đấu hết sức thần kỳ của anh với những chặng đường, đất nước, công việc, cảnh ngộ mà anh đã trải qua. Anh trả lời ngắn gọn tất cả những câu hỏi in sẵn mà theo nguyên tắc và thủ tục thẩm tra tư cách đại biểu người ta đưa anh trong bốn trang giấy :

                      Bản tự khai
                      – Tên hoặc bí danh trong Đảng ? – Tống Văn Sơ.
                      – Tên hoặc bí danh dùng trong Đại hội ? – Lin.
                      – Thành phần gia đình ? Nhà nho.
                      – Trình độ văn hóa ? Tự học.
                      – Đồng chí đã học ở trường Đảng nào ? Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
                      – Nghề nghiệp : Tôi làm nghề thủy thủ. 10 năm trời tôi đi làm thuê.
                      – Phương tiện sinh sống hiện nay ? Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
                      – Đồng chí đã hoặc đang tham gia chi bộ nào của Quốc tế cộng sản, từ năm nào ? Từ năm 1920 đến năm 1930 : tôi là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Từ năm 1930 đến nay : là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
                      – Đồng chí có tham gia đảng phái nào khác không, và nếu có, từ bao giờ ? Không.
                      – Đồng chí đã qua những công tác gì từ Đại hội lần thứ 6 (Quốc tế cộng sản) đến nay ?
                      Từ năm 1928 : tôi tổ chức phong trào công nhân và nông dân ở Xiêm.
                      Năm 1930-1931: tôi tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương.
                      – Đồng chí có bị bắt vì hoạt động cách mạng không ? Hoặc bị vào tù, hoặc đi đày, vào ngục bao nhiêu năm ? Năm 1931 tôi bị bắt. Ngồi tù 2 năm. Năm 1933 tôi trốn thoát.
                      – Đồng chí đã dự những Đại hội, hội nghị quốc tế nào ? Tôi đã dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản. Đại hội lần thứ ba Quốc tế công đoàn.
                      – Đồng chí từ đất nước mình đến hoặc đang sống ở nước ngoài ? Tôi đang sống ở nước ngoài.
                      – Đồng chí có tham gia Nghị viện hoặc hội đồng hành chính nào không ? Không.
                      – Đồng chí biết những ngoại ngữ gì ? Tôi biết các tiếng Pháp, Anh, Đông Dương, Quảng Đông, Ý và một ít tiếng Nga.

                      Người khai
                      LIN.
                      Đại hội 7 Quốc tế cộng sản thông qua nghị quyết của hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản năm 1931, quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Một vinh dự lớn lao, một trách nhiệm nặng nề của Đảng Cộng sản Đông Dương, một sự cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng toàn thế giới.

                      Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản và anh Nguyễn tích cực chuẩn bị cho các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu về nước. Hai người đóng giả là cặp vợ chồng đi du lịch sang Pháp rồi từ đó đi Hương Cảng, về Việt Nam. Việc thu xếp chuyến đ hết sức tỉ mỉ. Phải làm đủ các giấy tờ hợp pháp đi đường, qua nhiều nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa. Lại còn phải mua sắm cho hai người những quần áo, giày dép, va-li mới và sang trọng, đúng “mốt” Tây Âu, vì không được phép mang trên người bất cứ một thứ vật nhỏ gì sản xuất ở Liên Xô. Ngoài ra còn có vé xe lửa hạng nhất, vé trọ ở các khách sạn cũng loại nhất và 5.000 đô-la để tiêu dọc đường. Anh Nguyễn phổ biến kinh nghiệm sống ở các nước tư bản chủ nghĩa, dặn cách giữ bí mật và các ám hiệu cần thiết : trước khi đến Hương Cảng, phải lên bến Xin-ga-po mua sắm quần áo Trung Quốc để thay. Đến Hương Cảng, phải vào ở khách sạn, rồi đến trước cửa Ngân hàng hối đoái Anh, cầm một điếu xì-gà ở tay, chờ một người Pháp đi qua, trao đổi mật hiệu để liên lạc với cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài.

                      Trong buổi gặp cuối cùng các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn dặn một số việc quan trọng và anh đề nghị hai người nhớ kỹ, thuộc nhẩm trong bụng chứ không được ghi chép một chữ nào. Anh Nguyễn nói ôn tồn :
                      – Thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp dịp may hiếm có đối với chúng ta, không nên bỏ lỡ. Điều quan trọng lúc này là cũng cố sự đoàn kết vững chắc trong Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết giữa bộ phận ở trong nước và bộ phận ở hải ngoại. Khi về tới Sài Gòn, các đồng chí chuyển cho anh Duy (anh Lê Hồng Phong) mấy ý kiến sau đây :

                      Một là do kết quả thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp, tình hình Đông Dương sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực. Do đó bộ phận Trung ương Đảng ở hải ngoại cần phải trở về nước ngay để trực tiếp lãnh đạo phong trào yêu nước, chỉ để lại ở nước ngoài một nhóm cán bộ rất nhỏ để liên lạc với quốc tế.

                      Hai là, khắp mọi nơi, kể cả Việt Nam, bọn tờ-rốt-kít đã bộc lộ chân tướng phản động của chúng. Đảng ta phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị. Không được có một thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào đối với chúng.

                      Ba là, phải ra sức lập một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc, thu hút tất cả mọi lực lượng yêu nước rộng rãi, tất cả những người nào tán thành đấu tranh cứu nước, cứu dân. Nhưng phải nhớ rằng việc lập mặt trận ấy không được lúc nào đi ngược lại lợi ích của Đảng và giai cấp. Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thật nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đãng mới giành được địa vị lãnh đạo.
                      Tiễn hai đồng chí của mình ở sân ga Bi-ê-lô-rút-xi-a đi Ba Lan trên đường sang Pháp, anh Nguyễn lại nói :
                      – Cố nhớ những lời tôi dặn nhé và kể lại cho anh Duy. Tôi nhắc lại : dứt khoát không được thỏa hiệp với bọn tờ-rốt-kít đấy !
                      Những ý kiến chỉ đạo trên đây ít lâu sau anh viết về cho các đồng chí ở Việt Nam, ghi trên những tờ giấy cuốn thuốc lá để giữ bí mật và ký tên P.C.

                      Mọi điều kiện đã chín muồi để anh về nước. Do sự trưởng thành của các Đảng Cộng sản trên thế giới và do những biến đổi mới của phong trào quốc tế, bản thân Quốc tế cộng sản có sự cải tổ lớn về bộ máy làm việc và phương thức hoạt động. Sau Đại hội lần thứ 7, Đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản quyết định tăng thêm tính độc lập, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng Cộng sản mỗi nước, thu hẹp phạm vi và quyền hạn chỉ đạo của Quốc tế cộng sản. Từ nay, mỗi Đảng Cộng sản hoàn toàn gánh vác lấy việc lãnh đạo trực tiếp Đảng mình. Các ban phụ trách các cục và bộ của Quốc tế cộng sản, trong đó có Cục phương Nam và Bộ Phương Đông, trước đây lãnh đạo phong trào và các đảng toàn khu vực, nay giải thể. Quốc tế cộng sản cũng bỏ các đại diện của mình đặt ở các Đảng, bỏ đi nhiều ban, bộ, chỉ giữ lại Bộ Cán bộ và Bộ Tuyên truyền và Công tác quần chúng, một văn phòng làm nhiệm vụ phối hợp và hợp tác giữa các Đảng. Tổng bí thư và các ủy viên ban bí thư Quốc tế cộng sản làm chức năng của mình với sự cộng tác của đại diện các Đảng ở cạnh Quốc tế cộng sản là người chịu trách nhiệm thông báo tình hình hoặc góp ý kiến khi thảo những văn kiện, hoặc nghị quyết của Quốc tế cộng sản liên quan đến Đảng mình. Đảng Cộng sản Đông Dương từ nay cũng phải tự quản hoàn toàn công việc lãnh đạo cách mạng nước mình, nếu chiến tranh xảy ra, mất liên lạc với Quốc tế cộng sản, thì càng phải chủ động, kịp thời, sáng tạo, độc lập công tác. Đảng vừa bầu Tổng bí thư mới : đồng chí Nguyễn Văn Cừ người hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” lớp đầu tiên, một người cộng sản chân chính, mới 26 tuổi nhưng cuộc đời cách mạng đã chói lọi chiến công, một chiến sĩ anh hùng, bất khuất, đầy năng động tính. Bị địch giam ở nhà tù Côn Đảo đồng chí Nguyễn Văn Cừ vẫn cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng dạy văn hóa, chính trị và chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho anh em trong tù. Nhiều đảng viên cộng sản tươi trẻ và xuất sắc như các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… bị địch đẩy vào các ngục tối và bị tra tấn đã được trả lại tự do nhờ ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp và đã lại lao ngay vào cuộc chiến đấu mới. Bộ phận công khai của Đảng ở Bắc Kỳ đã ra báo giữa Hà Nội, báo Tin Tức, do đồng chí Trường chinh làm bí thư chi bộ báo, là cơ quan tuyên truyền và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của nhóm Tin Tức, một cuộc mít tinh lớn hai vạn rưởi người đã diễn ra tại khu Đấu Xảo Hà Nội đòi “Cơm áo, Hòa bình, Tự do”. Trong khi đó, ở Sài Gòn, cũng có mít tinh lớn hàng nghìn người đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Những đám mây đen chiến tranh phát xít đang ùn ùn kéo tới. Nhưng bão táp cách mạng đã bắt đầu nổi lên phía chân trời. Tình hình và phong trào hơn lúc nào hết rất cần trên đất Việt Nam sự có mặt của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ngôi sao sáng dẫn đường, vị lãnh tụ thiên tài và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Trung ương Đảng mong ngóng đồng chí về. Dân tộc và lịch sử chờ đợi đồng chí...

                      Đoạn văn trên là đoạn trích dẫn cuối cùng của tôi về quyển Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà. Bỏ qua những hoa ngôn xảo ngữ, lời ca tụng, tâng bốc bác; tác giả cũng hé mở cho ta thấy tính lưu manh, tráo trở, lọc lừa của bị can. A tòng với Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu và vô số thanh niên không chịu theo cộng sản cho Pháp, thế mà bị can lại trút tội ác đó lên đầu kẻ cộng tác với mình. '' Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác...'' Đây là hành động '' ăn cháo đá bát '' nói theo kiểu Việt Nam chúng ta. Còn nói theo kiểu cộng sản là '' anh Nguyễn '' bắt đầu máng vào cổ Lâm Đức Thụ bản án '' Việt Gian, phản quốc '' để rồi sau này ra lịnh thủ tiêu người cộng tác biết quá nhiều các hành vi phản dân hại nước của mình.

                      Hình ảnh bị can Hình Chí Mô, vị lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với bịp-lừa-dối-gạt-gian-ác...

                      Ngày mai tôi xin trình bày cùng 9 vị bồi thẫm và tất cả mọi người trong ba tầng chín cõi về nhân vật được coi như một trong những thiên hạ đệ nhất ác.

                      Comment


                      • #26
                        26

                        Đạo Đức Cách Mạng thứ ba của bác:
                        Ác Quán Mãn Doanh

                        - Có bao nhiêu người đã chết bởi bị can Hình Chí Mô? Đó là một câu hỏi mà âm phủ cũng chưa có câu trả lời chính xác dù đã bỏ công sưu tầm kể từ khi có người đầu tiên chết bởi tay Quỉ Vương, bí danh mới của Hình Chí Mô, tên đồ tễ lớn nhất và khát máu nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trần Thủ Độ chôn sống vài trăm tôn thất Lý triều so ra cũng chưa bằng một phần ngàn cuộc tắm máu trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, Mậu Thân ở Huế hay Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị. Biết bao nhiêu người, triệu triệu người, trẻ có, già có, đàn ông có, đàn bà có, nông dân, trí thức, học sinh, sinh viên, thợ thuyền; tất cả là tinh hoa của dân tộc Việt đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và viễn chinh sang xứ Chùa Tháp. Có đám người thúi mồm, dơ miệng cố gắng bào chữa cho hành động sát nhân của Quỉ Vương là hắn hy sinh bao nhiêu nhân mạng đó cốt ý giành lại độc lập và tự do cho xứ sở. Sự hy sinh hàng triệu nhân mạng này chỉ có ý nghĩa khi đất nước thực sự độc lập và dân chúng được thực sự hưởng tự do và dân chủ. Điều đó đã không xảy ra. Độc lập không có. Tự do không bao giờ tới. Dân chủ chỉ là danh từ trống rỗng tương tự như cái bao tử của người dân...

                        Ngừng lại giây lát như để cho 9 vị bồi thẫm suy nghĩ về lời nói của mình, Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.

                        - Với phép mầu và những thủ đoạn gian ngoa xảo trá, Quỉ Vương biến những kẻ hiền lành, lương thiện thành những quỉ con, quỉ nhỏ, quỉ lớn, quỉ già, quỉ trẻ, quỉ cái; tất cả bọn họ lãnh lệnh giết người một cách điên cuồng và mù quáng. Họ là những người đã bị cướp mất linh hồn. Tất cả những thứ quỉ đó cũng có tội, nhưng cũng không có tội lớn bằng Quỉ Vương. Bây giờ tôi kính mời quí vị cùng âm phủ đi theo bước chân giết người của Quỉ Vương Hình Chí Mô...

                        Thôi Phán Quan ngừng lời. Thiên hạ đồng quay nhìn về màn ảnh. Tuy nhiên họ lại nghe giọng nói của ông ta vang lên trong bầu không khí im lặng.

                        - Chúng ta đã đi qua một chặng dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh ngục tù do Hồ Quỉ Vương xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa Ngục Sình Lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa ngục sình lầy:
                        “TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác Văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác Văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.” Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ thần Tự do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa ngục sình lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi!

                        Trong Lời nói đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả:

                        “Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả Dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời”.

                        Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là ngục tù mẫu mực của chế độ Hồ Quỉ Vương. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi!

                        Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Quỉ Vương như sau:
                        “…Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.”

                        Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì “những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.” Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng sư Tuệ Minh bình tĩnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẳng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không. Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu: “Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật đản a… Rồi a… Ban Giám thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!”

                        Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật tử Yêu nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự tình Dân tộc.

                        Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết...

                        Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau:

                        “Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói:
                        - Mọi người đều được dựng lên “bình đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả...
                        Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi:
                        - Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
                        Tất cả xúc động, đồng thanh:
                        - Thưa cụ, rõ!

                        Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!”...

                        Căn phòng xử rộng thênh thang chứa mấy ngàn người im lặng tới độ hầu như người này nghe được hơi thở của người kia. Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.
                        - Tên Hình đúng là quỉ nên mới cho người hành hạ và giết cả kẻ tu hành... Đây là một tội ác không thể thứ tha được...
                        Giọng nói trầm hùng của Thôi Phán Quan vang lên ngắt lời của Diêm Vương.
                        - Chưa hết đâu thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm. Nạn nhân của Quỉ Vương còn nhiều vô số kể, dài bằng Ải Nam Quan tới tận Mũi Cà Mau. Ở đâu có người là nơi đó có nạn nhân của hắn. Bây giờ tôi mời quí vị nghe tiếp những mẫu chuyện về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô và đảng cộng sản của hắn...

                        - HCM không mang tự do cho Dân tộc cho nên pháo thủ Phạm Đình Sơn phải vượt biên tìm tự do, nhưng một người hùng Điện Biên khác là Trung tá pháo binh Hoàng Tiến Như không được may mắn như vậy. Ông chết trong trại tập trung Hoàng Xu Phì ở Hà Giang, đã chết rồi mà còn bị tên đại úy quản giáo, giống như loài khỉ vượn chưa kịp hóa kiếp thành người, trong cơn giận dữ, rút dao găm “đâm ngoáy” vào đôi mắt chưa chịu nhắm hẳn. Chuyện kể: sau chiến thắng Điện Biên, người hùng Trung tá Hoàng Tiến Như về thủ đô, ngực mang đầy huy chương, nhưng lại mất niềm tự do lớn nhất của đời mình: ông không cưới được người mình yêu! Nàng là Lê Thị Phượng, sinh viên Đại học Văn khoa năm thứ hai bị đuổi học vì tham gia phong trào Nhân văn - Giai phẩm nên Đảng không cho phép ông cưới nàng! Để đi theo tiếng gọi của con tim, Trung tá Như xin ra khỏi Đảng. Thảm kịch đời ông bắt đầu. Ông bị bắt đưa về trại tâm thần Sơn Tây, bị tra tấn dã man gần một tháng, và tiếp tục bị tra tấn ở trại tập trung Hoàng Xu Phì đến khi lê lết, quằn quại, sống như một cái xác không hồn. Đúng một năm, khi gượng đi lại được, sau mấy tháng lao động đền tội, ông bị rút gân chân, lột từng mảnh da đầu, cắt trụi tai, và để cho cái chết đến từ từ trên tấm thân tàn phế! Câu chuyện bi thảm này được viết lại trong quyển Địa ngục sình lầy (tr.201-264), tác giả Trần Nhu là bạn đồng tù đã nhận xét: “Đời tù! Sống cực hình, chết lại càng cực! Và thê thảm. Tôi chưa hề thấy cái chết nào ghê rợn như cái chết của viên Trung tá Pháo binh Điện Biên Phủ.”
                        - Hiện tại anh Phan văn Tuấn là một thuyền nhân được định cư ở Sydney, Úc Châu. Vào Tết Mậu Thân 1968, cậu bé Tuấn 16 tuổi đang học lớp Đệ tam trường tư thục Nguyễn Du ở Huế. Ngày mồng hai Tết (Thứ năm 1-2-1968), VC tràn ngập Huế, Tuấn bị bắt cùng với mười mấy thiếu niên khác cùng lứa tuổi với anh. Mấy ngày đầu, VC bắt họ làm dân công đi khuân vác. Sau đó, VC bắt họ đào hầm vào ban đêm ở quanh vùng Gia Hội, những hầm mà Tuấn tưởng rằng chỉ để bọn chúng ẩn núp, không ngờ đó sẽ là những hầm chôn người. Đến bây giờ, tuổi đã gần lục tuần, Phan Văn Tuấn nhớ lại chuyện xưa, thuật lại rằng những người bị VC bắt, bị trói hai tay sau lưng thành từng chùm, mỗi chùm khoảng 15, 16 người, và bị sắp đứng xoay lưng về cái hố. Một tên VC ăn mặc theo lối chính quy với nón cối đọc bản án tử hình. Rồi một tên du kích áo đen ngắn tay, quần đen ngắn, mang dép râu, đội nón tai bèo, dùng súng AK bắn một tràng vào người đầu tiên. Ông này bị trúng đạn, té ngược ra sau, và lọt xuống hố, kéo theo cả chùm người bị cột chung. Đây, lời tả chân của Phan Văn Tuấn, Nam Dao ghi lại:

                        “Ông té xuống, quý vị biết không, mấy người sau có trúng đạn gì đâu, cũng lăn xuống. Lăn và lộn, lộn vòng xuống, lật ngửa ra. (Tuấn khóc rống lên). Nó bắt tôi lấp! Nó kêu lấp, lấp, lấp lẹ! (Vẫn khóc). Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi nhìn mấy người đó, tôi khóc, tôi khóc! Không! Người ta còn sống mà! Lấp đi! Không! Thế là nó dọng báng súng vào tôi, súng AK nó dọng, nó dọng đàng sau xương sống tôi (Vừa thở như bị ngộp, vừa khóc). Chưa được, nó quay mũi lưỡi lê nó đâm tôi, nó đâm vào sườn tôi. Trời ơi, máu me! Nó đâm! Mấy thằng bạn, thằng nào cũng khóc! Nó đánh, nó đánh! Tôi phải lấp, phải lấp. Tôi lấp đồng bào tôi (Khóc nức nở). Trời ơi, trời ơi, Thượng Đế coi này! Bây giờ tôi nhớ tôi có tội quá Tôi nhớ mấy con mắt đồng bào, mấy người dưới hố ngó tôi. Trời, trời, trời, trời ơi! VC ơi là VC! Không lấp thì nó đánh! Lấp thì bà con tôi chết! Thôi, thôi, lạy Phật, lạy Trời, lạy Thượng Đế. Chưa có thằng nào nó tàn ác như vậy… (Tiếp tục khóc).”

                        Người phỏng vấn Nam Dao cũng khóc theo và an ủi Tuấn: “Anh không phải là người giết đâu. Tội đó là mấy thằng Cộng sản”

                        Cả hai người Nam Dao và Tuấn đều khóc và người viết hàng chữ nầy đến đây cũng khóc theo, phải lau nước mắt mới viết tiếp được, và lần nào đọc lại bản thảo cũng không cầm được nước mắt, thương cho Đồng bào Huế và thương cho cả Dân tộc VN! Những lần chôn sau, Tuấn thuật tiếp, VC chỉ lấy báng súng AK dộng vào người đứng đầu cho anh ta ngã té xuống kéo theo cả dây người xuống hố, người nào ngoi lên thì VC xoay ngược cuốc đập vào đầu cho bể sọ. Tuấn thuật tiếp rằng suốt mười mấy đêm, họ đã đào mười mấy cái hố và đã chôn mười mấy lần. Đến khi phi cơ trực thăng của Quân Lực VNCH xuất hiện để truy kích, thừa lúc VC lo trốn máy bay, Tuấn cùng ba người bạn cùng xóm bỏ chạy. VC bắn theo, bắn chết một thằng chạy chậm đàng sau.

                        Đến khi Tuấn và hai bạn còn lại gặp lính của Quân lực VNCH, một cảnh vô cùng cảm động diễn ra, ngắn ngủi thôi, nhưng là bức tranh tình cảm tuyệt đẹp đủ sức nói lên tất cả Tình Quân dân như cá với nước và Chính nghĩa của Quân lực VNCH. Trong suốt “Cuộc Chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc”, Quân đội QGVN được thành lập từ thời Quốc trưởng Bảo Đại với mục tiêu ngăn chận làn sóng đỏ của Cộng sản để bảo vệ dân. Quân đội lớn mạnh và đổi tên thành Quân lực VNCH qua Đệ nhất Cộng hòa và Đệ nhị Cộng hòa. Thành tích bảo vệ Dân tộc suốt gần ba mươi năm đó, CHÍNH NGHĨA CỦA QUÂN LỰC VNCH, xin được diễn tả hùng hồn bằng lời thuật của anh Tuấn với chị Nam Dao như sau:

                        “Trời ơi, tôi kể chị nghe : trong tay bọn VC mấy chục ngày, đến lần đầu tiên gặp anh lính Cộng hòa (ảnh cầm khẩu súng, ảnh ngoắc ngoắc tới). Trời ơi, tôi tới tôi ôm ảnh đó chị! Trời ơi, giống như mẹ đi chợ về! Tôi ôm ảnh tôi khóc, khóc nức nở. Ba thằng ôm ảnh khóc nức nở, không bảo nhau gì hết. Tự nhiên cái lòng thương người lính VNCH, một người mà mình thấy có sự bảo vệ… Tôi ôm ảnh khóc! Ảnh vuốt đầu nói: “Không sao đâu! Không sao đâu! Không sao đâu em!” Bắt đầu tôi kể từ đầu đến cuối. Ảnh dắt vô cho ăn. Phía sau có nước, ảnh cho tắm…”

                        Tàn cuộc, trong số mười mấy thiếu niên Huế bị VC bắt đi đào hầm và chôn người trong chiến trận Tết Mậu Thân đó, chỉ có Tuấn và 2 người chạy thoát. Số còn lại bị VC dẫn theo và bắn chết hết khi chúng rút lui khỏi Huế! Mấy ngày sau, khi tìm đặng xác, “Trời ơi, đứa nào cũng lỗ chỗ trên đầu!”, anh Tuấn vừa kể vừa khóc.( Câu chuyện do Thông tín viên Nam Dao của Đài TwoVNR phỏng vấn Phan Văn Tuấn và được viết lại trong bài Vụ thảm sát Tết Mậu Thân (Bns Tự do Ngôn luận số 46 ngày 1-3-2008 ).

                        - Sau đây là câu chuyện nói lên “thành tích đuổi dân đi vùng kinh tế mới” để cướp đoạt nhà cửa ở Sài Gòn. Câu chuyện về một người mẹ trẻ bị đưa đi vùng Kinh tế mới đã tự thiêu và ôm chặt 2 đứa con để cùng chết chung với mình. Thời điểm: người tường thuật là người tù học tập cải tạo Uyên Thao không nhớ rõ mùa đông năm 79 hay 80. Vào lúc đó, Uyên Thao ở Trại tù K6 trên đồi Phượng Vĩ dưới chân núi Chứa Chan, tiếp giáp với khu Kinh tế mới của người mẹ trẻ. Gần đấy có chợ Ngã Ba Đồn. Ba tuần lễ trước đó, Uyên Thao lao động phác cỏ và gặp người thiếu phụ cũng đang dọn đất gần đó. Người mẹ cuốc cỏ và cào cỏ lại, thằng bé 5 tuổi và con chị nó không lớn hơn nó bao nhiêu giúp mẹ ôm những bó cỏ vào góc bờ. “Tôi ở quận Năm, lên đây hơn hai năm rồi. Mười tám tháng nay, ba mẹ con tôi chưa biết hạt gạo là gì. Tội nghiệp thằng bé mới năm tuổi”. Đó là tâm sự của người mẹ, Uyên Thao chỉ nghe được như vậy, chưa kịp nói lời an ủi, thì cán bộ quản giáo võ trang phát hiện khoảng cách quá gần giữa họ nên ôm súng đi tới!

                        “Sự nghiệp giải phóng biến miền Nam thành địa ngục trần gian” hoà hợp hoà giải với “thành tích đuổi dân đi vùng Kinh tế mới” đã đến “trình độ” 3 tuần lễ sau đó. Buổi tối đó, cán bộ giảng dạy về lập trường đấu tranh cách mạng và chỉ trích thói hư tật xấu trong nếp sống cũ của người dân miền Nam. Một điều bất ngờ và cực kỳ hi hữu trong các Trại học tập cải tạo của VC, người thiếu phụ mà chồng không biết lưu lạc phương nào đó, người mẹ trẻ có hai con còn quá nhỏ bị bỏ cho đói khát và thất học đó, người cư dân ở quận Năm Sài Gòn bị Đảng đuổi đi để cướp nhà, “người con gái Việt Nam da vàng” mà Đảng ác nhân đã dồn đến đường cùng đó, chính Người thiếu phụ can cường đó vụt đứng lên giữa lớp học và nói như hét vào mặt người cán bộ: “Tôi khỏi cần nghe ai dạy dỗ. Tôi bị lùa tới cái xó rừng nầy là quá đủ rồi. Tôi chẳng biết Đảng với Cách mạng của các ông là những thứ gì. Bây giờ tôi phải về lo cho mấy đứa con tôi”.
                        Khuya hôm ấy, cơn hoả hoạn nhỏ bùng lên, thiêu rụi túp lều của ba mẹ con. Cả khu Kinh Té Mới đều chạy đến túp lều để cùng đứng chết trân nhìn ngọn lửa hoành hành. Giữa đống tro tàn, xác người mẹ trẻ cháy đen tay còn vòng ôm chặt hai đứa con cũng cháy đen như mẹ. Lời giải thích tìm ra dễ dàng: người mẹ “về lo cho mấy đứa con” đã nổi lửa hoả thiêu và ôm chặt hai đứa con để cùng chết chung với mình!!!


                        Thôi Phán Quan dứt lời. Có tiếng thở dài. Có tiếng sụt sùi. Có tiếng khóc nghẹn ngào. Lát sau Diêm Vương mới quay qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi.
                        - Ngươi đúng là quỉ rồi...

                        Khi nghe Diêm Vương phán, Thôi Phán Quan cười bước về chỗ dãy bàn của nhân chứng và giọng nói rang rảng của ông ta vang lên.
                        - Bị can Hình Chí Mô là tên đồ tễ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Thế mà có những kẻ có ăn học, tự xưng là thi sĩ lại muối mặt làm thơ hùa theo bị can để ca tụng hành vi giết người. Tôi gọi những kẻ làm thơ đó là thi sĩ-vô liêm sỉ. Mời quí vị nghe qua những vần thơ của thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam...

                        Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm đồng quay nhìn về chỗ Tố Bồi Bút đang ngồi khi nghe Thôi Phán Quan nói câu thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam.

                        - Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ.
                        Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong.
                        Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng.
                        Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt”...

                        - Bọn địa chủ cắm vòi hút máu.
                        Phải vùng lên mà đấu thẳng tay!
                        Thực dân địa chủ một bầy.
                        Chúng là thú vật, ta đây là người”


                        Vừa nghe xong hai bài thơ Diêm Vương lên tiếng hỏi liền.
                        - Phải thơ của thằng Lành không?
                        Nhẹ gật đầu Thôi Phán Quan hắng giọng.
                        - Bẫm Diêm Vương đúng ạ. Đó là hai vần thơ tuyệt tác của đại thi sĩ-đại vô liêm sỉ họ Tố. Bài thứ nhất có tên là '' Thơ Giết '' còn bài thứ nhì tên '' Tự Khoe Là Người ''...

                        Lắc đầu ông vua âm phủ hướng về chỗ họ Tố đang ngồi.
                        - Thiệt hết biết thằng Lành... Ngươi khoe ngươi là người mà nghe qua hai bài thơ ta nghĩ lũ bây là '' người-cộng sản mất hết tình người...''
                        Bị Diêm Vương xỉ vả Tố Bồi Bút cười làm thinh.
                        - Kính thưa quí vị. Sau đây mời quí vị nghe qua hai bài thơ của đại thi sĩ- đại vô liêm sỉ lớn thứ nhì...

                        - Anh em ơi! Quyết chung lưng.
                        Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.
                        Địa hào, đối lập ra tro.
                        Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
                        Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường.
                        Thắp đuốc lên cho sáng đình làng đêm nay.
                        Lôi cổ bọn chúng ra đây.
                        Bắt quỳ gục xuống, đọa đày… chết thôi!”


                        Đó là bài '' Thơ Máu '' của Xuân Diệu lấy cảm hứng từ vụ đấu tố của Cải Cách Ruộng Đất. Còn đây là bài '' Thơ Bắn ''...

                        - Máu kêu máu trả thù
                        Súng đâu anh em đâu
                        Bắn nó thủng yết hầu
                        Bắn tỉa bắn dài lâu


                        Tôi nghe đồn là sau khi bốn vần thơ này được ra đời thì dân chúng khen nức khen nở, khen tới độ họ đem '' lộng kiến '' bốn bài thơ này...
                        - Thơ gì nghe kinh bỏ mẹ...
                        - Nghe xong bốn áng thơ tuyệt tác này tôi nuốt cơm hổng nổi anh Chín...
                        - Bởi vậy tên Tố mới được cho làm thứ trưởng đặc trách Kinh Té... Dân miền nam sau 75 đọc thơ hắn té xỉu hết trơn. Tao nghe đâu hồi trước 1975, bác và đảng còn tính đem mấy bài thơ này ghi âm và phát thanh vào miền nam để cho lính Việt Nam Cộng Hòa nghe mà kinh sợ bắn giết nên quăng súng đầu hàng...

                        Đợi cho tiếng nói dứt, Thôi Phán Quan cao giọng nói với bồi thẫm đoàn.
                        - Sau đây là một số nhân chứng và nạn nhân kể lại những vụ giết người của bị can Hình Chí Mô và các đồng đảng của hắn đã nhúng tay vào máu...

                        - Tác giả Phạm Văn Liễu, trong quyển Trả Ta Sông Núi, đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau:
                        “Suốt cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê. Nạn nhân phần đông là những người có đôi chút tiếng tăm hay gia sản. Cán bộ Cộng sản chụp cho họ cái mũ “Việt gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo này. Khi bị báo chí chất vấn về những vụ bắt bớ bừa bãi, Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh kiêm Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trâng tráo đáp: “Tất cả những người bị bắt giữ đều là những người có tội với quốc dân.” Những tội nhân này, theo báo chí Cộng sản, có cả những cựu đồng chí VNQDĐ của Trần Huy Liệu như Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Đào Chu Khải, các tu sĩ Phật giáo và một số linh mục, thày giảng, trùm đạo Thiên Chúa Giáo”.

                        “Ngày 5-9-1945, Võ Nguyên Giáp còn nhân danh Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời đặt đảng Đại Việt và các tổ chức Thanh niên không nằm trong Mặt trận Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật. Từ ngày này, các đội tự vệ, du kích địa phương đêm đêm gậy gộc, giáo mác, tăng cường bằng vài khẩu súng lục hay ngựa trời, kéo nhau đi bắt Việt gian và gián điệp cho Tây! Tại miền Bắc, hàng trăm, hàng ngàn người bị bắt, giết…”

                        - Chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ
                        Những câu chuyện về Việt gian thật phổ biến trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến. Sau đây là chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ trong quyển Việt Nam máu lửa (trang 128) với đầy đủ chi tiết hơn.

                        “Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận. Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế mãi. Dân chúng với cuộc đời vô định đã làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bom đạn, cho các trận càn quét...

                        Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ còn vẻn vẹn một quán nước con con. Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày giơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét, chưa đủ, người dân còn phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: những vụ bắt bớ liên tiếp với lời sỉ vả Việt gian.

                        Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau lòng lắm bằng theo Chánh phủ mà Chánh phủ lại xử bắn vì tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót!

                        Những người bắt Việt gian thường khi chẳng phải là Công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác tình nghi và bắt bớ. Những cớ để bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên hình vạn trạng:

                        Cô tiểu thư vô tình cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi đại tiện trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô tình trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên bãi cỏ: Việt gian, Việt gian tất… Một học sinh mang theo trong người chiếc bút chì nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: đấy là cờ của Pháp, đấy là dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ.

                        Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ vì lý do Việt gian lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân còn luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh mình ai cũng có thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi mình cư ngụ.

                        Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, Công an, hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc”.

                        - Xác người trôi đầy sông.
                        Một nhân chứng khác là tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn Đời Chạy Giặc đã phải bỏ nghề kiểm lâm để mua một thuyền nan nhỏ buôn bán một ít đồ hàng trên sông ở khoảng Đò Lèn và đã chứng kiến (trang 187 sđd):
                        “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”.

                        Last edited by Poupi; 25-04-2012, 06:14 AM.

                        Comment


                        • #27
                          27

                          Đạo Đức Cách Mạng thứ 4 của bác:
                          Ngoài miệng thì niệm nam mô
                          Trong bụng thì chứa một bồ dao găm


                          - 2-9-1945 là ngày ông đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng chục ngàn dân chúng ở Quãng Trường Ba Đình. Tôi nói đúng không?
                          Thôi Phán Quan mở màn phiên xử Hình Chí Mô sáng hôm nay bằng câu hỏi này. Họ Hình có vẻ suy nghĩ giây lát mới trả lời.
                          - Ông nhớ không sai... Đó là ngày quan trọng của tôi cũng như của toàn dân Việt Nam...
                          - Đây là đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập mà ông đã tuyên bố với đồng bào cả nước:
                          - Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
                          Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được...
                          Đúng không?
                          - Đúng... Ông nhớ không sai một chữ nào...
                          Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.
                          - Ông có thực hành đúng những gì ông hứa hẹn với đồng bào của ông không? Ông có thực thi tự do, dân chủ, no ấm cho họ không?
                          Ngần ngừ giây lát Hình Chí Mô cười trả lời.
                          - Chưa mà chắc hổng bao giờ tôi làm...
                          - Tại sao?
                          - Tại vì... tại vì... Mọi người đều hiểu sai ý nghĩa của bản tuyên ngôn mà tôi đã đọc ngày 2-9-1945...
                          - Ông có thể cho tòa biết ý nghĩa của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà ông đã đọc?
                          - Được chứ... Đồng bào trong nước lúc bấy giờ hiểu sai cái ý nghĩa của hai chữ độc lập của tôi. Nó có một ý nghĩa đặc biệt hơn. Độc là độc tài, còn lập là thiết lập. Như vậy hai tiếng '' độc lập '' của tôi là thiết lập một chế độ độc tài chuyên chế, độc tài đảng trị như ở Liên Xô mà đồng chí vĩ đại Lê Nin và Xít- Ta- Lin đã làm hay Mao Chủ Tịch đã lập ở Trung Hoa lục địa. Đồng bào tôi lúc đó, tám mươi năm sống dưới chế độ ngu dân của thực dân Pháp nên hiểu sai ý nghĩa của hai tiếng độc lập mà tôi đã tuyên cáo với quốc dân đồng bào trong ngày 2-9-1945...

                          Từ Diêm Vương cho tới 9 vị bồi thẫm mà luôn cả mấy ngàn người đang hiện diện trong phòng xử đều trợn trắng hai con mắt sau khi nghe Hình Chí Mô giải thích về hai tiếng độc lập. Ông vua âm phủ thở khì.
                          - Ngươi đúng là thứ ăn nói ngược ngạo...
                          - Bẫm Diêm Vương... Cái này hổng phải lỗi của tôi mà do ở tiếng quốc ngữ của tôi nó có nhiều ý nghĩa sâu xa quá bởi vậy ai muốn nói sao cũng được và hiểu sao cũng được...
                          Diêm Vương cứng họng. Ở âm phủ mấy ngàn năm, không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài do đó ông ta làm sao cãi lại một người nổi tiếng nói một đàng làm một nẻo, nói như vậy mà hổng phải như vậy. Chi có Thôi Phán Quan là giữ được thái độ bình thản. Hướng về đám đông đang ngồi dưới kia ông ta cao giọng.
                          - Kính thưa quí vị... Thủ tiêu các đảng phái đối lập, hạ sát những phần tử quốc gia yêu nước chưa đủ, Hồ Quỉ Vương còn chiếu cố tới hai thành phần mà cộng sản coi như kẻ thù không đội trời chung. Đó là giới trí thức và tôn giáo. Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo đều có tên trong sổ phong thần của quỉ vương. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe lời thuật kể về vụ sát nhân ghê tởm của bị can và băng đảng cộng sản...
                          - Đúng ngay ngày 19-8-1945, ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông sư phụ của Thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị xử tử.
                          Ngày 19-8-1945, vào lúc 10 giờ sáng, Hòa thượng Thích Đức Hải, trụ trì tại chùa Linh Quang, xã Thanh Sam, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông đã bị đánh đập dã man trước khi bị hành quyết tại bãi cỏ trước đình làng Bặt thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, cách chùa của hòa thượng hai cây số. Trong bức thư gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 19-8-1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ giãi bày như sau:

                          “Nhưng dù có bị giết chăng nữa thì tôi cũng nói lên niềm tin vững chắc của tôi là chủ nghĩa Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài. Không phải bây giờ tôi mới có niềm tin ấy, mà nó đã nảy sinh trong tôi ngay từ lúc 10 giờ sáng ngày 19-8-1945 (hồi đó tôi 18 tuổi) khi tôi nhìn sư phụ tôi, hai tay bị trói bằng dây kẽm quặt về phía sau, cổ đeo hai tấm biển viết mấy chữ Việt gian Bán nước, một tấm trước ngực một tấm sau lưng, đứng giữa sân đình làng Bặt, hai bên một đoàn người tay cầm gậy gộc giáo mác, cu liêm bồ cào đứng canh gác. Một nhóm người mệnh danh là quan tòa của Tòa án nhân dân đứng trên thềm đình để xử án. Họ bắt sư phụ tôi quì xuống sân đình và cúi đầu nghe tòa luận tội. Nhưng sư phụ tôi đã không chịu làm thế. Một người từ trên thềm đình bước xuống đứng trước mặt sư phụ tôi, nói: “Mày là thằng Việt gian Bán Nước mà còn ngoan cố à?”
                          “Nói xong, họ đấm vào quay hàm thầy tôi mấy cái, một dòng máu từ trong miệng sư phụ tôi ứa ra, chảy theo cằm nhỏ xuống thấm đỏ tấm biển Việt gian Bán nước ở trước ngực. Lập tức họ tuyên án tử hình rồi đưa sư phụ tôi ra trước bãi cỏ trước đình, máu từ miệng sư phụ tôi tiếp tục chảy ra, thấm vạt áo dài, nhỏ xuống sân đình. Khi đến bãi cỏ, họ vật sư phụ tôi nằm nghiêng xuống rồi một người bắn vào màng tai sư phụ tôi ba phát súng lục, lại một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp và sư phụ tôi chết liền tại chỗ. Dòng máu ấy với hình ảnh sư phụ tôi hai tay bị trói nằm chết trên bãi cỏ máu me đầy mặt, hai tấm biển Việt gian Bán nước thấm máu, vạt áo thấm máu, hai bàn chân thấm máu, máu vương trên bãi cỏ, chỗ nào cũng thấy máu. Tất cả những hình ảnh ấy đến nay đã 49 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ như in và tưởng chừng như mới hôm nào đó thôi. Thật là một cơn ác mộng.”
                          “Trong cơn đau đớn tột cùng và hai hàng nước mắt tuôn chảy, ngay từ giờ phút ấy, ngồi trên bãi cỏ nhìn xác sư phụ tôi, tôi đã nghĩ Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài, lí do: Cộng sản chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, đánh và giết người như thế là ác quá, mà cái ác thì thường không bền, lịch sử đã chứng minh điều đó. Bởi lẽ, tâm lí người ta nói chung, tuyệt đại đa số đều yêu cái thiện ghét cái ác, mà cái người ta đã ghét thì khó tồn tại lâu được. Bảy mươi bốn năm tồn tại (1917-1991) của chế độ Cộng sản Liên sô không phải là một thời gian lâu dài nếu so với 215 năm tồn tại của triều đại nhà Lý tại Việt Nam mà, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, là một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam.”
                          Bức thư Hòa thượng Thích Quảng Độ viết ngày 19-8-1994 gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười là một bức thư lịch sử vô cùng quan trọng, bởi vì đúng vào ngày 19 tháng tám 49 năm trước, tức là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền 19-8-1945, máu vị chân tu Thích Đức Hải đã chảy thấm tấm biển Việt gian Bán nước, để khởi đầu cho CƠN PHÁP NẠN do Cộng sản vô thần gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, hòa thượng Thích Quảng Độ cũng tố cáo Cộng sản đã sát hại vị sư bá và sư tổ của mình.

                          Vị sư bá của Hoà thượng Thích Quảng Độ (tức là đạo huynh của Hòa thượng Thích Đức Hải) là Hòa thượng Thích Đại Hải. Ngài trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) thuộc tỉnh Bắc Ninh, cũng đã bị Cộng sản bắt vào năm 1946 và sau đó đã chết vì bị kết tội là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.

                          Vị sư tổ của Hòa thượng Thích Quảng Độ pháp huý là Thích Thanh Quyết trụ trì chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1954, Cộng sản vào chùa bảo ngài có tội dùng tôn giáo chính là thuốc phiện để ru ngủ nhân dân và sẽ bị qui định thành phần đưa ra đấu tố. Ngài quá sợ bèn thắt cổ chết để khỏi bị mang ra đấu tố...
                          - Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Việt Cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị.

                          Comment


                          • #28
                            Chương 27 (tt)

                            - Từ quyển Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ

                            Trong 5 vị thành lập Ủy ban Kiến quốc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Đình Dy và Lê Toàn (Ngô Đình Diệm làm lãnh tụ, bác sĩ Chữ làm phó) thì có 2 vị đã bị Cộng sản sát hại: Vũ Đình Dy bị Cộng sản xử tử năm 1945 và qua năm sau 1946, Vũ Văn An cũng bị xử tử trong điều kiện tương tự (Hồi k ‎ý Nguyễn Xuân Chữ, trang 18). Hai lãnh tụ quan trọng Quốc dân đảng là Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Thế Nghiệp mà Bác sĩ Chữ có được gặp mấy lần trong thời gian trước ngày Việt Minh đảo chính, đều bị cắt tiết ở Trèm Vẽ, xác thả trôi sông. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng tường thuật những cách giết người dã man của Hồ Chí Minh vào thời gian đó như sau (Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, trang 303): “Thời kỳ đầu, Việt Minh cầm chính quyền, cán bộ còn thiếu súng đạn. Chôn sống, cắt tiết, đành là những triệu chứng căm thù, cũng còn là những phương pháp tiết kiệm đạn. Ở đây, cắt tiết còn thêm moi gan trong những trường hợp giết vì thù cá nhân. Lại còn một thủ đoạn nữa, tàn nhẫn bội phần, là lấy búa bổ lên đầu người, như đồ tể bổ vào đầu vật...

                            Vụ sát hại Tín đồ Cao Đài ở Quảng Nam và Quảng Ngãi


                            Trích từ Bạch thư Cao Đài giáo do Giáo hữu Ngọc Sách Thanh phổ biến ở California, Hoa kỳ, ngày 9-4-1999, các tín hữu Cao Đài ở những tỉnh phía nam Trung phần đã gánh chịu tai ách về Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh như sau:
                            “Trong suốt ba tuần lễ từ 19-8-1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi, đã có 2.791 Chức sắc, Chức việc và Tín hữu Cao Đài đã bị những người Cộng sản Việt Nam sát hại bằng đủ mọi cách, như chém đầu, chôn sống, thả biển và cả hình thức tùng xẻo như thời Trung cổ. Trong đó có các vị Chức sắc cao cấp như Đức Liễu Tâm Chơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo sư Lê Đức, Giáo sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu, v.v… Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cùng năm nhân sĩ khác bị giết tại Làng Bầu, Quảng Nam.
                            “Việc sát hại tập thể người Cao Đài này vì lẽ họ không chối bỏ đức tin Thượng Đế, Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Đây là lệnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành sự chém giết tại Quảng Ngãi; còn Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng thi hành tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Hơn thế nữa, họ còn tiêu diệt chôn sống nhà trí thức nổi tiếng Tạ Thu Thâu, quý Nhân sĩ chân chánh quốc gia như các ông Cao Văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhãn, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chánh kiến khác cũng bị giết hại tại Quảng Ngãi tháng 8-1945.”

                            Vụ sát hại sông Lòng Sông

                            Nhắc lại thời điểm 23-9-1945 ngày Nam bộ Kháng chiến, khi quân Pháp trở lại tái chiếm Sài Gòn, nhóm Đệ tứ đã tập hợp các toán võ trang để chống cự. Trong khi nhóm Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn kéo khỏi Sài Gòn đi về phía Bình Chánh, Tân An thì nhóm võ trang Đệ tứ tập trung và lập bản doanh ở vùng suối Xuân Trường, Thủ Đức. Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những ngày qua tường thuật vụ ra tay hèn hạ của nhóm Đệ tam của Trần Văn Giàu như sau (trang 130 sđd):
                            “Bộ đội của Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai thay vì lo đánh Pháp lại tìm cách bao vây giải giới nhóm này với chủ trương để thống nhất bộ đội võ trang. Nhiều người trong nhóm võ trang Đệ tứ đã không đồng ý cho giải giới, nhưng nhiều người khác lại không muốn có chuyện đổ máu giữa người Việt với nhau. Cuối cùng 64 người trên 68 có mặt hôm ấy bỏ thăm chịu ở lại, chấp thuận chịu cho giải giới. Những liệt sĩ này không ngờ là họ đã tự trói tay để sau này bị giết tập thể ở sông Lòng Sông ở Phan Thiết.” Trong số 64 người bị giết ở địa điểm sông Lòng Sông này, có 2 người nổi tiếng là Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch.

                            - Tác giả Hứa Hoành tường thuật

                            Bằng cách thu thập tài liệu theo lời kể của những nhân chứng ở miền Nam vào lúc đó, trong bài Việt Minh Cộng sản cướp công kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, Hứa Hoành thuật lại những thủ đoạn ám sát khủng bố như sau:
                            “Từ ý nghĩa cuộc chiến tranh Vệ quốc, chống lại kẻ thù trở thành xâm lăng là Pháp, bọn Cộng sản chỉ hô hào, tuyên truyền để giành lấy chính nghĩa, rồi đêm đêm tìm cách bắt những người nào chống lại chúng, thủ tiêu. Ban ngày chúng mời đến họp, thành lập ủy ban, ban đêm chúng gõ cửa dẫn đi mất. Mấy ngày sau, xác nạn nhân sình thối trôi nổi trên sông. Thời kỳ đó Việt Minh khủng bố còn hãi hùng hơn cả Thực dân. Chúng bắt người bỏ vào bao bố, trấn nước cho chết gọi là mò tôm, hoặc bắt người mổ bụng dồn trấu, với tội danh mơ hồ Việt gian, hoặc không bao giờ kết tội gì cả.”
                            Trong bài Dưa hấu Trà Bang (do Nguyệt san Làng Văn số 101 tháng 1-1993), tác giả Hứa Hoành nói về địa danh Ba Động, vùng đất ven biển của tỉnh Trà Vinh, là do nơi đó có 3 đụn cát gió thổi bồi lên nên dân chúng mới gọi là Ba Động. Tác giả Hứa Hoành viết:
                            “Ba Động có một con sông chảy ngang qua, song song với bờ biển. Năm 1936, Pháp cho bắc cây cầu sắt nối liền với nhà nghỉ mát của họ mới xây ngoài bờ biển. Năm 1946, Cộng sản lấy danh nghĩa “tiêu thổ kháng chiến” để phá sụp cầu, đến nay cũng không bắc lại được. Con sông Ba Động từng chứng kiến cảnh giết người man rợ của Cộng sản. Chúng bắt các nhân sĩ yêu nước thuộc Phật giáo Hòa Hảo như Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiện, Võ Văn Thời, Lâm Thành Nguyên… đem neo dưới nước cho chết ngộp. Riêng ông Lâm Thành Nguyên may mắn tự mở trói được, trong đêm tối lẩn trốn trong các bụi rậm thoát hiểm.”
                            Cách giết người gọi là mò tôm trên đây, có lẽ phổ biến khắp nước. Ở miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ nghe một người học trò lớp y tá của ông trò chuyện với các bạn học và viết lại trong Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ như sau: “Thày mà Quốc dân Đảng, cũng tôm cả thày”. Thời Việt Cộng, nói “Cho thầy đi mò tôm” chi cho dài. Phải nói ngắn gọn “Tôm cả thầy” thì mới “trình độ” hơn!

                            - Tham khảo bài viết CSVN đã từng giết tập thể tín đồ PGHH của tác giả Nguyễn Huỳnh Mai
                            , bài đăng ở Thương nghiệp Tuần báo số 106, ngày 12-8-1999.
                            Ngày 25-7-1999, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cụ Phan Thanh Nhãn, lúc đó 84 tuổi cư ngụ tại Garden Grove, tiểu bang California, đã viết Thỉnh nguyện thơ gởi Quốc hội, các cơ quan Lập pháp và Hành pháp Hoa Kỳ, các cơ quan Nhân quyền và Truyền thông Quốc tế tố cáo tội ác Việt Cộng như sau:
                            1- Cộng sản giết người và chôn trong những hầm chôn tập thể. Ở xã Tân An gần nhà cụ có 2 hầm chôn 400 người. Tại xã Mỹ Ngãi, rạch ông Cả Điền quận Cao Lãnh có 4 hầm, trong đó có 3 hầm chứa 180 người chết vì đạo. Hai hầm khác chôn 652 người tại xã Tân Thành quận Tân Hồng (là hai quận cũ Tân Châu và Hồng Ngự nhập lại). Riêng 9 hầm nữa, cụ Nhãn không biết rõ số người, tại đình Long Thuận xã Long Thuận tỉnh Long Xuyên.
                            2- Riêng về gia đình cụ có 15 người là cha mẹ, anh em, và bà con ruột thịt trong nhóm bị bắt 115 người. Tất cả bị trói tréo tay sau lưng bằng dây chì và chở trên chiếc ghe cà dom vào rạch Cá Gừa xã Mỹ Ngãi quận Cao Lãnh tỉnh Sa Đéc (cũ), nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, đến 3 cái hầm lớn đã đào sẵn. Theo nhân chứng còn sống sót kể lại, thì Cộng sản đem từng người đến miệng hầm, dùng dao găm đâm vào hang cua ở cần cổ rồi đạp cho rớt xuống hầm. Nếu có ai còn sống bò dậy thì chúng lấy chày vồ đập vào đầu rồi xô trở xuống, sau cùng lấp đất lại. Vào lúc cụ Nhãn viết thỉnh nguyện thơ nầy, cụ cho biết hai tên hung thủ tham gia cuộc tàn sát là tên Quắn đã chết và tên Năm Hỉ lúc đó còn sống và ngụ tại chợ Trần Quốc Toản, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
                            3- Cụ Phan Thanh Nhãn đau lòng nói rằng em gái cụ là người ăn chay trường, mặc y phục màu dà, và tu theo Phật giáo Hòa Hảo, vì xinh đẹp nên bị ba tên thay phiên nhau hãm hiếp! Sau đó chúng mổ bụng lấy gan làm đồ nhậu tại nhà Nguyễn Xuân Vinh, tại xã Tân An Cao Lãnh. Cha mẹ ông vì thương con bị hãm hiếp, đã kêu la nên cũng bị giết luôn!
                            Trong Bản Cáo trạng của cụ Phan Thanh Nhãn, chúng ta đếm được tất cả 18 hầm chôn tập thể. Nhưng tổng số nạn nhân bị sát hại thì không thể nào kiểm chứng được!

                            - Hầm chôn người tập thể ở Mỹ Tho năm 1945

                            Luật sư Hình Thái Thông, bạn học của Tạ Thu Thâu ở trường Bổn Quốc, sau có du học ở Pháp, cũng là nạn nhân Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ viết vài dòng ngắn ngủi (Trích quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tr. 90): “Thông làm trạng sư ở Sài Gòn sau về Mỹ Tho, rồi bị giết hại trong Phong trào Thanh niên Tiền phong, 1945, chôn tập thể một hầm gần 100 người tại Quởn Long (Chợ Gạo Mỹ Tho), năm sáu năm sau mới tìm thi hài ra được.”
                            Bà góa phụ Hình Thái Thông, sau là giáo sư dạy Pháp văn trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, các học sinh vào đầu thập niên 1950 đều có học Pháp văn với bà.

                            - Đám Giỗ hội ở Gò Công

                            Xin nhắc lại một thiên tai xảy ra ở Gò Công vào năm Giáp Thìn cách đây hơn 100 năm, tức là khoảng tháng 3-1904. Đó là một cơn Sóng thần Tsunami ập vào miền duyên hải tỉnh Gò Công, vùng Vàm Láng và cửa Cần Giờ, gây thiệt mạng rất nhiều, gần như gia đình nào cũng có người bị chết. Vì cơn sóng thần đó, nên ở Nam Kỳ có câu vè truyền tụng “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc – Gió nào độc bằng gió Gò Công”. Từ đó về sau, vào ngày kỷ niệm Sóng thần, gia đình nào cũng làm đám giỗ. Đi khắp vùng, vì nhà nào cũng cúng giỗ, nên mới có tên là “Đám Giỗ hội”.
                            Vào Mùa thu “Kách mệnh” 1945, Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh cũng gây một “Đám Giỗ hội” tương tự như Tsunami 1904 ở Gò Công. Theo lời kể của một vị cao niên quê ở Gò Công là L.T.Q., thì nạn nhân là ông Đốc Phủ Hải và một số nhân viên làm việc ở Tòa Hành chánh khoảng trên 20 người đã bị Việt Minh Cộng sản tố cáo là “Việt gian”. Thế rồi họ bị tàn sát tập thể và chôn trong một hầm ở xã Bình Thành cách tỉnh lỵ 13 cây số. Theo lời kể của vị cao niên ấy, thì vào lúc đó ông Đốc Phủ Hải đã về hưu và là người rất nhân đức nên được người dân Gò Công thương yêu kính trọng!

                            - Thêm vài vụ xử tử ở Gò Công

                            Ông Đốc Phủ Hải bị sát hại vì bị tố cáo là “Việt gian”, nhưng thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư dạy môn sử địa ở trường Trung học Trương Vĩnh K ‎ý, thì bị giết vì thuộc thành phần “Trí thức”. Trong quyển Những ngày qua, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu nhắc đến Trần Thanh Mậu cùng là học sinh nội trú trường Petrus Ký với ông. Về những vụ xử tử nầy, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết như sau (trang 36 sđd):
                            “Trần Thanh Mậu là người có nhiệt tâm với đất nước, thường bàn với anh em nội trú về tương lai Việt Nam trong các giờ chiều sau buổi học. Khi Việt Minh cướp chánh quyền ở Miền Nam, anh thuộc những thanh niên đã tiên phong góp sức nhưng đã bị Cộng sản đem ra xử tử ở sân vận động Gò Công cùng hơn mười thanh niên trí thức và thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư sử địa trường Petrus K ‎ý. L ‎ý do thầm kín thật ra là vì các anh thuộc thành phần trí thức hăng hái nhưng hay chỉ trích các sai trái của Cộng sản địa phương. Đảng Tân Dân chủ lúc bấy giờ có phái Đặng Ngọc Tốt từ Sài Gòn đến can thiệp cho các anh nhưng không hiệu quả. Tốt chỉ có nước khóc và ôm anh em trước giờ hành quyết mà thôi!”

                            - Những vụ sát nhân lẻ tẻ

                            Việt Minh Cộng sản đã sát hại 2 vị cao niên đạo Cao Đài. Theo lời kể của anh Ng. Đ. L., một thuyền nhân tỵ nạn hiện ở Sydney: “Chú Ba Ân và chú Bảy Ri, lúc đó đã trên 60 tuổi, thường cúng tứ thời mỗi ngày. Hôm đó, trong khi 2 người đang cúng kỳ 12g khuya ở bàn Thiên ngoài trời, thì bị chúng bắt dẫn đến bờ sông Cái và giết chết. Ba ngày sau, xác 2 người nổi lên, dân làng mới biết 2 người bị đập đầu chết và vạt áo dài họ mặc lúc làm lễ đã bị cột dính vào nhau.”

                            Người tín đồ Cao Đài thứ 3 là bác Ba Chà bị chúng cho đi mò tôm. Khi chân bác chạm đáy sông, bác đạp bung lên nên dây cột sút ra. Khi trồi lên, Bác còn bị đập đầu, nhưng không chết. Bác lặn xuống và lần theo đáy sông lặn đi thật xa. Đến khi hết hơi, bác trồi lên, tấp vào bờ bất tỉnh. May cho bác vì đến đó bọn sát nhân đã bỏ đi. Bác may mắn thoát chết, nhưng không dám ở Long Hựu nữa, bác đành bỏ cả nhà của ruộng vườn, di tản lên Thánh thất Tây Ninh lánh nạn.
                            - Câu chuyện anh B. Đ. Ph., người tỉnh Trà Vinh hiện định cư ở Sydney, trốn chạy Cộng sản cũng giống như bác Ba Chà ở Long Hựu, tỉnh Long An. Gia đình anh tất cả đều theo đạo Cao Đài, nhà ở gần thánh thất nhỏ của tỉnh nhà. Cũng vào khoảng 1946, người chú ruột của anh bị Việt Cộng giết! Biết không thể sống ở Trà Vinh được nữa, cha anh mới âm thầm sắp xếp cuộc trốn chạy. Chờ đến nửa đêm, cả nhà lặng lẽ xuống ghe, bỏ lại tất cả tài sản nhà của ruộng vườn, theo đường sông, tìm cách về Tây Ninh để tỵ nạn Cộng sản. Vào lúc đó, anh B. Đ. Ph. còn quá nhỏ nên anh không nhớ phải mất mấy ngày chiếc ghe tỵ nạn của gia đình anh mới đến Tây Ninh và phải đi theo thủy lộ nào. Vào lúc đó, Thánh thất Tây Ninh là vùng an toàn cho tín đồ đạo Cao Đài, và gia đình anh B. Đ. Ph. là những thuyền nhân tỵ nạn Cộng sản đầu tiên, trước đồng bào di cư miền Bắc năm 1954 và những thuyền nhân sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

                            - Sau đây là câu chuyện của anh L. V. Ng., một thuyền nhân hiện định cư ở Sydney.

                            Anh cũng là một tín đồ đạo Cao Đài quê ở ấp Trâm Vàng, làng Thạnh Phước, quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh. Một đêm trong năm 1947, Việt Cộng về ấp, đốt nhà và sát hại những tín đồ Cao Đài trong ấp của anh. Lúc đó anh 12 tuổi. Anh còn nhớ núp trong rừng chồi gần đó, anh nhìn thấy nhà của anh, của bác anh, và các nhà khác cháy rực cả góc trời. Bác của anh, một nông dân ròng rặc không biết một chữ Pháp cũng bị giết cùng với một số bạn đạo khác. Nhà ông Ba Mít bị cháy, lửa ăn qua chiếc xe bò là phương tiện làm ăn của ông. Ông bất kể mạng sống, liều chết chạy lại kê vai kéo chiếc xe ra khỏi đám lửa. Một tên Việt Cộng thấy vậy, cũng chạy lại đâm ông chết. Đến sáng, cha anh dẫn đàn con 5 đứa đi lánh nạn, mẹ anh bồng đứa con nhỏ nhất, anh cũng cõng một đứa em, đoàn người lết bết đi đến Châu Vi, một vuông đất trống gần bót Cao Đài. Trên đường đi, ngang qua nhà ông Thàng, họ nhìn thấy xác mẹ ông Thàng nằm chết cong queo trên đống than còn đang bốc khói. Theo lời anh L. V. Ng, tất cả những tín đồ Cao Đài đều bị giết trong đêm đó.

                            - Mang súng vào lớp xử tử học sinh


                            Câu chuyện do một nhân chứng vốn là học sinh và sau nầy là đại tá Nguyễn Văn Ánh thuật lại và do giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm là cựu hiệu trưởng của trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ghi chép trong quyển Trường Trung học Petrus Ký và nền giáo dục phổ thông Việt Nam (trang 56):
                            “Một học sinh Petrus Ký bị xử tử ngay trong lớp học trước sự ghê sợ của giáo sư và học sinh của trường... Hồi năm 1950, một buổi chiều, khoảng 2 hay 3 giờ, trong giờ Pháp văn của giáo sư Nguyễn Văn Hai, có 6 người lạ mặt xông vào trường Petrus Ký. Hai người đi thẳng vào lớp Troisième Année B. Mấy người còn lại đứng canh chừng ở bên ngoài. Hai người vào lớp kêu tên hai học sinh của lớp nầy. Họ bắt một trong hai học sinh đó lên trên chỗ vách tường gần bàn giáo sư. Họ đọc to bản án tử hình cho mọi người nghe. Sau khi đọc xong bản án, một trong hai tên nầy dùng súng lục bắn chết anh học trò kia ngay trước sự chứng kiến của giáo sư Hai và tất cả học sinh của lớp Troisième Année B. Sau khi thi hành xong thủ đoạn, cả bọn cùng chạy ra đường Cộng hòa vừa hô to khẩu hiệu Việt Nam Độc lập muôn năm. Người bị xử tử tên là Minh, mà theo đại tá Ánh thì là một học sinh học hành rất chăm chỉ và là người có phẩm hạnh không có gì đáng chê trách... Bản án kết tội anh Minh là làm mật thám cho Pháp. Dù có hay không, việc xử tử công khai một học sinh ngay tại lớp học, ở trong một trường học lớn, trước sự chứng kiến của giáo sư và học sinh, vẫn là một hành động khát máu và hoàn toàn trái ngược với luân lý giáo dục.”

                            Theo lời kể của cụ Nguyễn Trân, thì số nạn nhân bị sát hại trong đại họa Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là 8000 người trong vòng 40 ngày. Theo giáo sư Stephen Morris thuộc Viện Nghiên cứu Đông Á (Institute of Asean Studies), trường Đại học U. C. Berkeley, thì chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Cộng sản Việt Nam đã tàn sát đến 10 ngàn người của phía Quốc gia và phe Đệ IV Quốc tế. Chi tiết nầy được trích từ quyển Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc gia-Cộng sản của Nhóm Nghiên cứu Lịch sử ở Santa Clara, California (trang 281). Nhưng nếu chúng ta làm bản tổng kết của các tác giả vừa tường thuật trên đây, thì số nạn nhân trong Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh không thể dưới con số 20.000 người được...
                            Thôi Phán Quan ngừng đọc. Gấp xấp giấy dày cộm lại, hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cất giọng trầm và buồn.

                            - Bị can Hình Chí Mô giết người thì nhiều không kể xiết. Tuy nhiên cái khiến cho hắn trở thành '' ác nhất thiên hạ '' chính là hành hạ và giết chóc trẻ con. Sau đây là những câu chuyện kể thật đau lòng nói về hành động vô nhân của bị can...

                            - Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ tuổi nhất

                            Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!”(Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26). Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.

                            Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.

                            Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi

                            Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của ký giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):
                            “Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”
                            “Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”
                            Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của Việt Nam Cộng Hòa nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.

                            Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn

                            Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!

                            Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!

                            Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).

                            Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy


                            Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương. Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?”

                            Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội

                            Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “ Quê hương năm tấn ”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:
                            - Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?
                            - Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.
                            - Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?
                            - Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.
                            - Chúng mày không sợ chết à?
                            - Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.

                            Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đã diễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):
                            “Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.”

                            Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoại hỏi tác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng:“Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.”

                            Căn phòng xử thật yên lặng. Dường như người ta đang bận tâm suy nghĩ điều gì đó. Lát sau giọng nói của Thôi Phán Quan vang lên.
                            - Kính thưa quí vị. Cám ơn quí vị chịu khó ngồi nghe tôi trình bày về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô. Sáng may tôi sẽ trình bày thêm hai tội trạng của bị can. Đó là tội bán nước và phá hoại đất nước...

                            Comment


                            • #29
                              28

                              Đạo Đức Cách Mạng thứ 5 của bác:
                              BÁN NƯỚC

                              Thiên hạ đi dự phiên tòa càng lúc càng đông thêm tới mức âm phủ phải dời phiên xử vào trong đại sảnh đường rộng gấp mấy lần căn phòng cũ. Đợi cho bị can Hình Chí Mô làm xong thủ tục, Thôi Phán Quan mới mời Phạm Văng Vàng làm nhân chứng. Tuy hơi ngạc nhiên song họ Phạm cũng bước lên ngồi vào ghế nhân chứng. Khi hắn làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ đặt liền câu hỏi.
                              - Trước khi ông đặt bút ký công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Cộng thì...
                              Thôi Phán Quan mỉm cười ngừng nói. Ông ta nhận thấy vị thủ tướng của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có vấn đề liền khi nghe tới vụ ông ta ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958.
                              - Theo như '' lời đồn '' thì trước khi ông ký công hàm đó, bộ chín chị của đảng cộng sản Việt Nam có mở phiên họp kín. Đúng không?
                              Do dự giây lát Phạm Văng Vàng lên tiếng. Dường như muốn lấy điểm với Diêm Vương hoặc bồi thẫm đoàn nên hắn vui vẻ giảng giải một cách rành mạch.
                              - Lời đồn của ngài biện lý đúng lắm. Ngay khi cái thông cáo về biển của nước đàn anh Trung Hoa vỉ đại do đồng chí anh minh và sáng suốt Chu Ân Lai ký được gởi cho Việt Nam thì bác gọi tôi vào họp trong phủ chủ tịch. Ngoài tôi còn có anh Thận, anh Ba, anh Sáu và anh Giáp...
                              Ngừng lại giây lát vị thủ tướng thâm niên nhất của nhà nước cộng sản Việt Nam cười tiếp.
                              - Gọi là họp chứ thật ra thì bác đã quyết định rồi. Bác nói với bọn tôi như thế này: '' Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc… Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối? ” ( Trần Nhu- Tướng Đi Đêm )...
                              - Vậy là bác cúng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu thực hả anh Chín?
                              - Chứ còn gì nữa. Năm 1958, bác còn mạnh cùi cụi chứ đâu có bịnh hoạn ốm đau gì đâu mà bảo bác không biết. Đang làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư thì nếu bác không bằng lòng cúng bố bảo thằng Chì Cháy cũng hổng dám ký tên vào cái công hàm bán nước ngày 14-9-1958. Chẳng qua bác sợ nhân dân nói bác bán nước nên mới nắm tay Chì Cháy bắt ký tên...
                              - Làm sao anh biết vậy anh Chín...
                              - Dân họ biết họ nói cho tao nghe... Mày đừng tưởng dân ngu... Dù bác và đảng có giấu dân cũng biết. Bởi vậy mới có mấy câu vè sau đây:
                              - Bây giờ chết mẹ đảng ta,
                              Đám chệch tràn lan khắp nước nhà,
                              Chẳng thà bám đít bu theo Mỹ,
                              Thoát cảnh lầm than ôi xót xa.
                              Nghe bốn câu thơ Diêm Vương tủm tỉm cười lên tiếng.
                              - Thơ này ta nghe còn hay hơn thơ của thằng Lành. Hắn xưng thi sĩ mà làm thơ nghe điếc con ráy...
                              Như muốn đi thẳng vào chuyện quan trọng hơn nên Thôi Phán Quan nghiêm giọng hỏi.
                              - Trong buổi họp đó bác của ông còn nói thêm điều gì nữa không?
                              Phạm Văng Vàng liếc nhanh Hình Chí Mô đang ngồi nơi ghế bị can rồi lắc đầu trả lời.
                              - Không có... Bác chỉ nói như vậy rồi bảo tôi ký tên vào cái công hàm 14-9-1958 mà thôi...
                              Thôi Phán Quan cười hực. Giơ cao xấp hồ sơ đang cầm trong tay ông ta cao giọng.
                              - Kính thưa bồi thẫm đoàn... Đây là một hồ sơ chứa đựng nhiều hình ảnh về những chuyến đi đêm của bị can Hình Chí Mô sang nước đàn anh vỉ đại để bàn chuyện bán nước trong đó có vụ nhường Ải Nam Quan cho Tàu...
                              Vị biện lý của âm phủ phất tay áo rộng. Mọi người đều thấy trên màn ảnh hiện lên những hình ảnh như là bằng chứng hiển nhiên về hành động bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam...



                              Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950 (HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình)

                              Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.

                              Hình G2. HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950

                              - Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.
                              - Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh.
                              - Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.


                              Hình G3. Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai


                              - Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.



                              Hình G4. HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06/1955

                              - Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.
                              - CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân, Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ.
                              - Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.
                              - Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.


                              Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)
                              Last edited by Poupi; 25-04-2012, 06:49 AM.

                              Comment


                              • #30


                                Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC


                                Hình G7. Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan. Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền "nhà tròn". Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại.


                                - Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.


                                Hình G8. Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc "hội đàm" giữa CÂL và HCM



                                Hình G9. Bảng vàng ghi lại sự kiện


                                - Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện T
                                rung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn. Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.


                                Hình G10. Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN


                                Hình G11. So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN

                                - Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.

                                Hình G23. Phụ ảnh tham khảo "Cột Mốc Số 18" giả mạo (?)
                                Đây là "Cột Mốc Số 18" mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với "Cột Mốc Số 18" theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I).
                                Trên cột mốc này khắc rằng: "BORNE.18 ANNAM-CHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam". Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: "Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!" Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó hiểu.
                                Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN). Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình (so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).


                                Hình G26. "Km0" "Km0" trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan "Hữu Nghị" và kế hoạch cao tốc Nam-Hữu . Lúc này trên cột còn ghi "Hữu Nghị Quan" và cây si PVD còn đó.


                                Hình G27. "Km0" mất chữ Quan


                                Màn ảnh mờ dần dần trong lúc giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan vang lên trong căn phòng xử im lặng.
                                - Quí vị đã xem qua một số hình ảnh nói lên phần nào chủ trương bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều cuộc đi đêm, đàm phán, thương thảo bí mật đã diễn ra giữa bị can và giới cầm quyền Trung Cộng là khởi điểm cho những hiệp ước nhượng đất, nhượng biển, bán rừng, cho thuê quặng mỏ, cho mướn đất của các kẻ kế quyền về sau này...
                                Last edited by Poupi; 25-04-2012, 07:07 AM.

                                Comment

                                Working...
                                X