Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Tặc miêu

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    Hồi thứ bảy
    HẦM NGƯỜI SỐNG
    Hồi trước nói đến đoạn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hai người đang đêm vào địa đạo bên dưới Hòe viên, phát hiện ra trong hang sâu có một tòa thành toàn ghép từ những chiếc đũa. Hai gã kinh hãi khôn xiết, liền lấy áo che mũi, khom lưng, quỳ trước cổng thành Đũa, ghé mắt quan sát động tĩnh bên trong thành.
    Con mèo đen đang ủ rũ trong lòng Trương Tiểu Biện tuy nhát nhưng cũng tò mò thò đầu ra xem, cặp mắt mèo đảo lia lịa, cùng hai chủ nhân đánh giá tình hình bên trong thành đũa.
    Cách bài trí phố xá, nhà cửa bên trong giống hệt thành Linh Châu, chỉ có điều kích thước nhỏ bé hơn nhiều, tựa như trẻ con chơi đồ hàng vậy. Không hiểu đã phải dùng đến bao nhiêu chiếc đũa của nhân gian mới ghép được òa thành Đũa như thế này.
    Đường phố chợ búa trong thành đều thắp đèn sáng trưng, đầu đường cuối ngõ đốt khá nhiều nến. Trong ánh sáng lung linh chập chờn, trùng trùng điệp điệp lầu gác làm bằng đũa toát lên một vẻ âm u lạ thường, vô số chuột to chuột nhỏ đang leo lên, leo xuông giữa đám nhà cửa nhấp nhô.
    Cũng bởi mèo khoang ở vùng này không bắt chuột nên nạn chuột trên địa bàn Linh Châu đã kéo dài gần trăm năm, khó diệt được tận gốc. Tuy bọn chuột vẫn thường dung dăng thoải mái trong thành Linh Châu nhưng vì thiên tính bẩm sinh nên vẫn sợ người, sợ mèo đôi chút. Nhưng đàn chuột lớn trong tòa thành này thì con nào con nấy đều lộ vẻ hung ác, không thèm để ý đến hai người và một mèo ở ngoài cổng thành. Rất nhiều con chuột to tướng còn táo tợn bò qua bò lại trước mặt Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử.
    Trương Tiểu Biện nhìn mà thấy buồn nôn, vội giơ tay đuổi mấy con chuột to ở trước mặt thầm nghĩ : “ Đâu ra lắm chuột thế này, chẳng lẽ đã lọt vào sào huyệt của bọn chuột thành Linh Châu rồi ư?”
    Thường có câu rằng: “ Không có lửa thì làm sao có khói”, ở nông thôn thường nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian kể về đám cưới chuột, đám ma chuột, nhưng liệu đã có ai chính mắt trông thấy? Bọn chuột sao có thể hành động giống như con người được? Cứ nghĩ đến việc bầy chuột đã ăn trộm đũa của hàng nghìn nhà, xây dựng thành trì trong hang động, lại có thể bắt chước y hệt lối sinh sống của con người, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều lạnh cả người, trong đầu chỉ có một ý nghĩ: có nhẽ đâu thế?
    Trương Tiểu Biện thầm nghĩ, bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn, chẳng lẽ bọn chuột cũng học tập Việt khấu khởi binh tạo phản…tự lập triều đình trong hang động này? Nhưng chuột chỉ là bọn giỏi phá kho trộm thóc, làm sao có trí tuệ để xây dựng thành trì được? Xem ra đây đúng là điềm chẳng lành, chẳng rõ sẽ có đại họa nào giáng xuống nữa. Trong thời loạn thì giữ mình là trên hết, Tam gia ta đánh một mẻ lớn, xong xuôi phải mau mau chóng chóng ôm tiền bạc cao chạy xa bay là tốt nhất.
    Lúc ấy, Tôn Đại Ma Tử không cầm lòng nổi, kinh hãi kêu lên một tiếng, chỉ tay vào trong thành nói với Trương Tiểu Biện: “ Tam đệ mau, bọn chuột không chỉ ăn trộm đũa đâu, ngươi xem, ngươi xem…Chúng còn bắt trẻ con nữa. Lũ chuột cống này thành tinh rồi!”
    Trương Tiểu Biện đưa mắt nhìn, quả nhiên trên con đường thẳng đối diện với cổng thành, có hàng trăm con chuột kìn kìn xúm lại một chỗ, cõng đứa bé trần truồng từ từ đi vào sâu bên trong. Đứa trẻ “oa oa” khóc lớn, chân tay giãy đạp liện tục.
    Dẫn đầu bầy chuột bắt trẻ con là một con chuột cống già, toàn thân lông trắng, trụi lỗ chỗ, nó nheo nheo đôi mắt ti hí giảo hoạt dị thường, thỉnh thoảng lại trèo lên người đứa trẻ, dùng đuôi ngoáy làm thằng bé nhột nhạt. Đứa bé trần truồng ước chừng chỉ khoảng một tuổi, lúc thì khóc lóc, quẫy đạp, lúc thì bị con chuột cù lại phá lên cười, có lẽ bầy chuột đã dùng chính thủ đoạn này làm đứa bé thôi khóc để đưa nó từ nhà dân đến đây.
    Trương Tiểu Biện xem rõ, vô cùng ngạc nhiên, hạ giọng chửi: “Bọn chuột chết toi này sao cũng học được ngón trộm gà của Tam gia ta nhỉ! ”
    Tôn Đại Ma Tử nói với Trương Tiểu Biện : “ nghe nói thành Linh Châu hay bị mất trẻ con, thường náo loạn cả thành, ai cũng bảo rằng thủ đoạn của bon mẹ mìn lợi hại. Ta cứ tưởng chỉ là lời đồn bậy trên phố, hóa ra mầm họa là từ “ thành Đũa” bên dưới Hòe viên này. Đứa trẻ đó không biết là con cái nhà ai, bị bọn chuột bắt về trong thành thì sốnglàm sao nổi, hai chúng ta phải mau cứu nó ra mới được.”
    Trương Tiểu Biện tuy không biết đàn chuột bắt đứa trẻ về làm gì nhưng đoán rằng không phải việc tốt, vả lại tính cách của hắn một là hám lợi, hai là hiếu sự. Lúc bình thường, hễ thấy gió lay cây động, là hắn lập tức nóng mắt nóng tai, chạy lại xem cho rôm rả. Hắn thường tự cho mình can đảm hơn người, thích hành hiệp trượng nghĩa, hễ thấy sự bất bình trên đường là ra tay cứu khốn phò nguy, chẳng bao giờ chịu ngồi yên. Lúc ấy hắn nhất thời tức khí lên muốn làm anh hùng hảo hán, liền tạm gác việc đi tìm sự phú quý trong Hòe viên, định xông thẳng vào trong thành giải cứu đứa trẻ bị bầy chuột bắt cóc.
    Nào ngờ cửa thành Đũa quá hẹp, Trương Tiểu Biện tuy người gầy xương nhỏ nhưng cũng không chui qua được, đành trơ mắt nhìn bầy chuột mang đứa trẻ đi xa dần, mất hút trong thành. Chẳng bao lâu nữa, đã không còn nghe thấy tiếng trẻ khóc đâu nữa.
    Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy chưa gì đã mất cả tiên cơ, liền tính cách dùng sức phá vỡ tường thành xông vào. Ngờ đâu, những chiếc đũa ấy đều được gắn keo da cá rất chặt, tuy không kiên cố bằng gạch đá nhưng chỉ với sức của hai gã, trong tay lại không có cuốc chim hay xẻng gì, muốn phá hủy hay đẩy đổ tường cũng hết sức tốn công.
    Trương Tiểu Biện nôn nóng, chợt vỗ trán, nghĩ bụng : “Đúng là cuống quá hóa hồ đồ? Sao không trèo thành mà vào? ” Nghĩ thế, hắn vội giơ đèn chiếu lên bờ tường thành, chỉ thấy tòa thành trong động có bề mặt thành cách trần động một khoảng khá xa.
    Trương Tiểu Biện kéo Tôn Đại Ma Tử dậy, chỉ tay lên trên ra iệu, sau đó hai người dùng cả chân cả tay trèo qua tường thành cao quá nửa người. Chỗ đặt chân bỗng vang lên tiếng “ chít chít” thảm thiết, cả hai giơ đèn cúi đầu xem, thì ra là cả một ổ chuột nát nhừ, máu thịt bầy nhầy một đống. Trương Tiểu Biện vội nhấc chân chà giày vào tường thành bên cạnh, kêu lên: “ Đừng trách, đừng trách. Có trách thì trách mẹ chúng mày sonh nhầm chỗ.”
    Tôn Đại Ma Tử cũng giơ gậy đạp tứ tung xuống đất, đuổi bọn chuột xung quanh chạy dạt ra, rồi cả hai cùng xem xét tình hình trong thành. Trong tòa thành Đũa bị lũ chuột chiếm cứ này, mỗi gian phòng ốc, lầu gác đều có vào con chuột, nhung nhúc khắc nơi không sao đếm xuể. Các gian nhà thấp bé nối dài tít tắp, lốm đốm cơ man những chân đèn, chân nến đang cháy, nhưng ánh nến phía đằng xa yếu ớt nên nhìn không rõ rốt cuộc tòa thành này quy mô như thế nào.
    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

    Comment


    • #32
      Hai người nhất thời không biết nên đi đâu để tìm ra đứa trẻ bị bầy chuột đưa đi lúc nãy, đành dò dẫm bước vào vùng nhà cửa san sát phía trong thành, TrươngTiểu Biện phát hiện ra con mèo đen trong lòng đang run lên sợ hãi, thầm cảm thấy cổ quái. Bầy chuột trộm đũa xây thành đã là một chuyện hết sức ly kỳ trong thiên hạ, không ngờ đến cả mèo trong thành Linh Châu lại cũng sợ chuột, chẳng lẽ trong tòa thành chuột này còn điều gì hung hiểm chưa hiển lộ ra nữa hay sao? Tới nước này, không thể không đề phòng cẩn thận hơn, chớ để Tam gia ta chưa phát tài đã lỗ cả vốn, mất cả tính mạng ở đây. Nghĩ đoạn, hắn bất giác đi chậm lại.
      Hai người đi được mấy bước trên con đường hẹp hai bên san sát lầu đũa nhà đũa trong thành, bỗng thấy một trận gió âm thổi vào mặt, trong gió thoảng một mùi hương lạ, nồng nồng khác hẳn mùi xú uế, lạnh lẽo trong địa động. Mặc dù Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đã dùng vải nút mũi nhưng mùi hương nọ vẫn xộc thẳng lên tận óc, hai người cùng bỏ vải che mặt ra, hít hà một lúc rồi nói: “Dường như là mùi thịt hầm, nhưng thịt gì mà hầm thơm thế? Thịt bò hay là thịt chó nhỉ?”
      Cả hai đã lâu rồi chưa được ăn mặn, ngay cả mùi vị thịt bò hầm ra sao cũng gần như quên mất rồi, lại gặp đúng lúc bụng đang trống rỗng, ngửi thấy mùi thịt nức mũi thì không khỏi them thuồng rỏ dãi, liên tục nuốt nước bọt, đưa tay áo rách quệt nước dãi đang chảy ròng ròng trên khóe miệng, bất giác rảo bước lại phía mùi thịt thơm nồng.
      Qua hai khúc ngoặt, cả hai đến trước một căn lầu đũa cao lớn dị thường. Căn lầu cao hơn một trượng, nằm giữa ngã tư, nhà cửa xung quanh đều thấp hơn rất nhiều, bên trong không có ngọn đèn ngọn nến nào. Cửa sổ, cửa ra vào lầu cũng ghép bằng những chiếc đũa, đóng lại im ỉm. Trên con đường phía trước của lầu đặt một nồi hầm to, đáy nồi là một hố bếp đang cháy, cũng không rõ bên trong đựng thứ gì, hơi nghi ngút bốc ra qua kẽ hở chỗ nắp vung khép hờ.
      Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉ chun mũi hít một hơi, biết rằng mùi thịt thơm lan tỏa trong thành chính là từ nồi này mà ra, bèn nghĩ bụng : “ Ai đang hầm thịt nhỉ? Chẳng lẽ ngoài bầy chuột lớn, trong thành còn có người cư trú?” Mùi thịt trong nồi thơm ngon khó cưỡng, hai gã chẳng buồn nghĩ ngợi gì thêm, thấy bốn phía toàn chuột là chuột, chẳng có hiện tượng dị lạ nào , liền rảo bước tới gần cái nồi.
      Trương Tiểu Biện dí mũi gần nồi, hít sâu mấy hơi, mặt mày rạng rỡ, khen rằng: “Thơm quá! Thơm quá! Ai cũng biết quán ngon nổi tiếng trong thành Linh Châu là Bát Tiên Lâu, nhưng tuy là đầu bếp trong Bát Tiện Lâu tinh thông các món ăn nổi tiếng Bắc Nam cũng chưa chắc đã làm được nồi thịt ngon thế này.” Nói xong, hắn không kìm được giơ tay mở nắp vung. Chẳng cần biết nồi thịt của nhà ai, định ăn một bữa no rồi hẵng tính.
      Tôn Đại Ma Tử ngăn lại, nói: “ Chúng ta đều là bậc trượng phu trong sạch, sao có thể ăn vụng của người ta được”
      Trương Tiểu Biện nói : “ Huynh đệ chúng ra đương nhiên là người ngay không làm chuyện mờ ám, tuy không biết ai đang ở trong thành Đũa này nhưng cũng không thể ăn không của người ta được…” Hắn vừa nói vừa sờ soạng trong người một hồi. Sau khi làng Kim Quan bị lửa chiến tranh hủy diệt, Trương Tiểu Biện đã bới trong đống đổ nát và xác người được ít lương khô và tiền nong. Lúc ấy, còn dư được vài đồng, hắn liền tiện tay lấy ra đặt xuống cạnh bếp rồi nói với Tôn Đại Ma Tử rằng: “ Bây giờ trả họ tiền là được chứ gì?”
      Tôn Đại Ma Tử tuy ngoài miệng nói cứng nhưng bụng cũng đang réo ồ ồ, nước bọt đã ứa ra chảy dài cả thước, chẳng thèm hỏi số tiền đó bao nhiêu, lập tức ngoạc mồm kêu lên: “ Nếu đã như thế, tất nhiên mỗ cũng chẳng có gì để nói…” Chưa dứt lời gã liền vội sán lại, dùng gậy nhấc nắp nồi, định cùng với Trương Tiểu Biện đánh chén một bữa.
      Dù gan dạ có sắt thép đến mấy cũng phải thưa cái bụng đói, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử bị mùi thịt thơm trong nồi quyến rũ, bao nhiêu chuyện khác đều gác hết ra sau đầu. Tới khi mở nắp vung ra, xua bớt hơi nước sôi đang nghi ngút, vừa mới ngó vào bên trong cả hai đã suýt chút nữa nôn ọe cả bữa cơm ăn từ năm ngoái. Thì ra, bên trong nồi đang hầm chín nhừ bốn đứa bé trần truồng béo mập, nhìn áng chừng đều là những bé trai bé gái tầm một, hai tuổi.
      Thật đúng là: “chạy trời không khỏi nắng” Tôn Đại Ma Tử bằng ngần này tuổi, ỷ mình can đảm chính trực, lại có võ nghệ, xưa nay chưa từng biết sợ là cái gì, thế mà lần này đúng là run rẩy từ tận đáy lòng, cả người từ đầu đến chân lạnh toát, sợ đến nỗi vội rụt tay làm cho nắp vung rơi trở lại: “ Cha mẹ ơi, hầm như người sống! Ai mà dám ăn chứ?”
      Trương Tiểu Biện nghĩ thầm: “ Thứ nấu trong nồi vừa làm món ăn vừa làm món nhậu được, nhưng chắc chắn không phải dành cho người sống ăn, hẳn là trong nhà ma Hòe viên này có thứ gì đó rất ghê tởm, lâu ngày đã tự luyện thành tinh, lại còn biết sai khiến lũ chuột bắt trẻ con trong thành. Bọn chúng ta dẫu có thủ đoạn đầy mình e cũng không phải là đối thủ của nó được. Nhân lúc tên cầm đầu còn chưa hiện thân, không đào thoát bây giờ thì còn đợi lúc nào?” Hắn liền đánh mắt với Tôn Đại Ma Tử, hai người chuẩn bị chuồn thẳng một lèo, nhưng lúc đó muốn chạy khỏi thành Đũa này không kịp nữa rồi.
      Đúng là: “Thiêu thân vào lửa thôi khôn cứu; Cá lọt đáy nồi sống được chăng?” Muốn biết việc sau thế nào, hạ hồi phân giải
      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

      Comment


      • #33
        Hồi thứ tám.
        QUÁI TĂNG.


        Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử lạc vào thành Đũa, phát hiện ra trong thành có rất nhiều điều cổ quái, trong cái nồi to phía trước một căn lầu xây bằng đũa đang hầm bốn đứa trẻ béo trắng, quần áo và giày dép trẻ con vứt bừa xung quanh, khiến hai gã đều kinh hồn lạc phách, giờ mới thấy mùi thịt thơm nức trong nồi hết sức kinh tởm, súyt nữa nôn hết mật xanh mật vàng ra ngoài.
        Hai gã đang định bỏ trốn khỏi thành, chợt nghe phía sau căn lầu vang lên một tràng loảng xoảng tiếng xích, tựa như có một con vật lớn nào đó đang di chuyển từ xa lại phía này, tốc độ khá nhanh. Bầy chuột tập trung quanh bếp lửa cũng thi nhau nấp vào các phòng ốc hai bên đường.
        Trương Tiểu Biện thường hay bắt gà trộm chó, xưa nay vốn rất nhanh nhẹn cơ trí, thấy tình hình không ổn, lập tức thổi tắt ngọn đèn đang cầm trên tay, kéo Tôn Đại Ma Tử nằm phục xuống, nấp sau đám lầu gác lúp xúp. Đám phòng ốc dựng lên bằng đũa này cái cao cái thấp, vừa vặn che được thân hình của hai gã, vừa lại có chỗ để ghé mắt nhìn động tĩnh trên con đường phía trước.
        Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử biết rằng, đây là lúc then chốt của sự sống và cái chết, tuyệt đối không phải trò đùa, tuy cả hai đều đã nín thở, nằm yên không nhúc nhíc nhưng tim vẫn đập thình thịch liên hồi, đồng thời cũng có vài phần hiếu kỳ, muốn xem kẻ nào đang nắp trong thành Đũa này ăn thịt trẻ con.
        Bầy chuột trong thành, lúc ấy cũng đều co đầu co đuôi nhìn ra phía xa chờ đợi. Bốn bề nhất thời im phăn phắc, chỉ còn tiếng xích sắt kéo lê trên mặt đất, vọng đến càng lúc càng gần. Từ phía sau căn lầu Đũa, một vật đen sì sì to lù lù bò ra, xung quanh đèn lửa mờ mờ, cũng không nhìn được rõ, quan sát một lúc lâu cũng không biết rốt cuộc đấy là thứ gì.
        Trương Tiểu Biện dụi mắt nhìn kỹ lại, thì ra trong ánh nến tàn và bóng đèn lồng chập chờn kia, xuất hiện một quái nhân mình khoác bộ da chuột, phía trước, phía sau có rất nhiều con chuột to đùng tiền hô hậu ủng. Người đó để đầu trọc, trên trán có vết chấm tàn hương, trông có vẻ giống một nhà sư.
        Gã sư đó tựa như một bị thịt, béo tới mức rụt cả cổ lại, cái đầu trọc lông lốc giống một hình tam giác ngược, đỉnh đầu có một túm tóc bện lại như chỏm tóc của trẻ con, cuốn thêm mấy vòng dây đỏ lộn xộn. Nhìn từ phía sau, trông lão giống như một quả lê to, lại vừa giống một đạo đồng. Trên khuông mặt béo trắng, mắt mũi bé ti, ngũ quan dồn lại sát với nhau. Dưới ánh đèn mờ mờ trông lão còn nhác giống con người, chứ nếu không rất dễ lầm tưởng là một con chuột trắng lớn thành tinh.
        Hòa thượng nọ khoác một cái áo ngắn rách rưới làm bằng da chuột lửa, không rõ đã chui ra chui vào địa động bao năm khiến lớp lông chuột đã bị mài đến mức trơ trụi. Bên trong lão chỉ mặc một cái yếm đỏ vừa rộng vừa to, bên trên có thêu hình uyên ương bỡn nước rất tươi tắn sinh động. Không hiểu lão gìn giữ thế nào mà da dẻ toàn thân trắng bóng nõn nà, tưởng như chọc vào là chảy mỡ ra ngay.
        Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy gã sư to béo, tâm lý đề phòng đã vơi đi một nữa, nhưng trông trang phục, cử chỉ của lão đều hết sức dị hợm, sư không ra sư, đạo sĩ không ra đạo sĩ, lại nghĩ đến mấy đứa trẻ trong nồi, nỗi sợ hãi càng tăng thêm, thầm nghĩ lão hòa thượng này chắc hẳn là yêu quái phương nào đó hóa ra, chẳng lẽ nào hạng chuyên ăn thịt người. Chuyện hòa thượng Chuột ăn thịt người đồn đại khắp thành Linh Châu, không rõ thực hư thế nào, chẳng lẽ lại chính là đây?
        Hai gã đang kinh hãi, chợt thấy nhà sư mặc áo da chuột kia bò đến trước căn lầu Đũa, dừng lại nằm bò ra đất thở hổn hễn. Dường như lão đã lâu không trông thấy mặt trời, da dẻ nần nẫn lộ ra trắng tới mức nhợt nhạt, không có chút huyết sắc. Phía sau người lão kéo lê hang trăm cái khóa lấy khước của trẻ con có cả đồng lẫn bạc…trông như một cái đuôi chuột, kêu lanh canh loảng xoảng trên mặt đất.
        Lão nghĩ ngơi một lúc rồi chầm chậm trở mình, trong miệng lầm rầm như đang nói tiếng của loài chuột, đoạn dùng ngón tay vừa ngắn vừa mập mở cửa lầu Đũa. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nấp trong bóng tối nhìn trộm, liền thấy bên trong hóa ra là một đống vàng bạc châu báu nhìn mà hoa cả mắt, nào là nén vàng thoi bạc, nào là ngọc ngà mã não, xếp chật cứng cả căn lầu.
        Đang lúc ấy, có một bầy chuột vận chuyển bạc đi đến. Trương Tiểu Biện từng tận mắt nhìn thấy chuột trộm trứng gà: Một con chuột nằm ngửa, bốn chân quắp chặt quả trứng gà trong lòng, một con chuột khác ngậm đuôi nó kéo đi, cứ như thế mang quả trứng về hang chuột. Nhìn tình cảnh lúc này, hóa ra bầy chuột lớn trong thành Đũa đang sử dụng phương pháp đó để ăn trộm từng thoi, từng thoi vàng bạc mang đến trước cửa căn lầu, rồi gã sư kia lượm lại cất hết vào bên trong.
        Trương Tiểu Biện thấy vàng liền nổi lòng tham, cảm thấy miệng khô lưỡi đắng, lòng nóng như lửa đốt, hai mắt xanh rờn, thầm nhủ, Lâm Trung Lão Quỷ quả nhiên không lừa Tam gia ta, trong Hòe viên đúng là có một món tiền lớn, chỉ có điều phải làm cách nào lấy được đây? Thấy thời cơ chưa đến, hắn đành nhẫn nại, tiếp tục nấp bên trong đám phòng xá để quan sát động tĩnh.
        Gã sư trong động dường như có thể sai khiến lũ chuột. Tất cả chuột lớn, chuột bé trong thành Đũa đều tuân theo sự chỉ bảo của gã, từng đàn chuột lũ lượt kênh đũa tre và bạc đến giao nộp. Mỗi lần nhặt một nén bạc lên, lão đều xoa xoa trên mặt, cười hi hi một hồi, sau đó mới tần ngần bỏ vào trong lầu. Thần sắc trên khuôn mặt cổ quái hiện lên vẽ tham lam, đáng ghét cực độ.
        Một lúc sau, vận chuyển hết số bạc, lão đóng cửa lầu lại, rồi tập trung tinh thần dùng đống đũa để xếp ra các đình đài lầu gác. Dường như lão ta không biết đi, chỉ có thể bò bằng tay chân như một đứa trẻ chưa thôi nôi. Được một lúc, lão lấy tay xoa bụng ra chiều hơi đói, rồi bò lại trước nồi thịt hầm, ghé mũi hít hà mùi thịt, mặt lộ vẻ vui sướng, nước dãi nhễu ra bên mép.
        Lão giở nắp vung, lôi ra một đứa bé chin nhừ, lật qua lật lại nhìn ngó rồi xé tay, dứt cẳng, lẳng xương thịt xuống đất. Bọn chuột trong các phòng xá xung quanh liền nhao ra lao tới tranh ăn. Lão sư cười khằng khặc hai tiếng, giơ cái đầu trẻ con trong tay lên húp nước dịch trong ấy.
        Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nhìn cảnh ấy vừa sợ hãi vừa kinh tởm phát buồn nôn, đành nhắm mắt không dám nhìn trộm nữa. Nhưng tiếng húp dịch não xì xụp của lão và tiếng gặm xương thịt người răng rắc của lũ chuột vẫn vang lên, không ngừng xói vào tai hai kẻ.
        Trương Tiểu Biện chỉ còn cách lấy tay bịt chặt tai lại, chẳng ngờ vì nup quá lâu, lại không dám thở mạnh nên mạch máu ở chân tay không lưu thong, tứ chi đã gần như tê dại, hắn vừa nhấc tay lên thì cả người mất trọng tâm, ngã chồm về phía trước. Con mèo đen trong lòng gã vốn đã sợ đến nỗi cuộn tròn người lại, bị hắn ngã đè lên, không nhịn nổi đau, liền gào lên một tiếng thảm thiết.
        Bầy chuột đang ăn thịt trẻ con chợt nghe tiếng mèo kêu, lập tức đờ ra, vô số con mắt chuột liên láo nhìn lại. Quái nhân nửa tăng nửa đạo mặc áo chuột Lửa cũng từ từ cất đầu lên, thần sắc ngơ ngác, bên mép còn dính nước thịt, hai con mắt ti hí không ngừng dò nhìn bốn phía.
        Trương Tiểu Biện thầm kêu khổ: “Dớ dẩn quá, lần này mà lộ tung tích chắc hẳn sẽ bị bắt đem luộc nhừ trong nồi rồi. Ông trời không có mắt, sao lại hành hạ Tam gia ta đến thế này?”
        Tôn Đại Ma Tử thấy đã bị lộ, cậy mình khỏe mạnh, định liều mình quyết chiến một phen, liền nhấc cây gậy chuẩn bị lao lên đánh. Nào ngờ, gã sư mặc áo chuột lửa kia vừa lẩm bẩm một chuỗi âm thanh sin sít trong cổ họng, lập tức có vô số chuột lớn trong thành ào ra, xông đến vây kín chỗ nấp của Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử.
        Thường có câu rất hay rằng: “Mãnh hổ nan địch quần hồ”, hành ngàn con chuột kết thành một đội quân dày đặc vây công, Tôn Đại Ma Tử làm sao chống lại cho được?
        Yêu tăng nọ thấy có người sống bước vào thành Đũa thì nổi giận đùng đùng, không đợi đàn chuột kết xong thế trận bao vây đã lao phắt đến gần. Người lão nặng chừng hai trăm cân thịt, huých cho nhà cửa đổ nghiêng đổ ngã. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy hơi tanh xộc vào mặt, đờ đẫn cả ra, không kịp phản khánh, liền bị lão quật ngãlăn ra đất.
        Trương Tiểu Biện biết sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, liền níu cứng xon mèo đen trong lòng định ném ra để giương đông kích tây, thừa cơ thoát thân. Nào ngờ đâu, con mèo vốn đã sợ chết khiếp, cứ rút vào trong lòng hắn không chịu ra.
        Trương Tiểu Biện không tóm được đuôi mèo, trong lúc nguy cấp liền thò cả hai tay tóm vào hai bên tai mèo, lôi thẳng con mèo đen ra che trước ngực. Tóm tay mèo vốn là một thủ pháp trong thuật xem tướng mèo thời xưa. Tương truyền, muốn biết gân cốt một con mèo ra sao, người ta chỉ cần tóm hai tai mèo rồi giơ lên. Nếu là con mèo hay, biết bắt chuột thì khi tai bị đau, nó sẽ co rúm bốn chân lại, đuôi mèo cuộn lên trên đầu, toàn thân biến thành một quả cầu lông để giảm bớt đau đớn ở tai; ngược lại nếu là một con mèo lười, khi bị người ta nhấc tai lên thì bốn chân cào cấu lung tung, nhá mõm nhe nanh gào thảm thiết, loại mèo đó không đuổi được chuột.
        Lại nói thêm, có câu rằng: “Nói Tam Quốc phải bàn Gia Cát Lượng, kể Triệu Vân phải nhắc trận Đương Dương”, câu chuyện của chúng ta vốn có tên là “Tặc miêu”, đã là “Tặc miêu” thì đượng nhiên phải đề cập đến thuật xem tướng mèo, điều khiển mèo đã có từ thời xa xưa. Đó là điều cốt tủy của cuốn sách này, nhưng đó đều là chuyện về sau, từ từ sẽ nói rõ.
        Lại nói đến đoạn Trương Tiểu Biện hoảng loạn tóm chặt hai tai của con mèo đen, giơ lên. Con mèo đen vốn là mèo nhà, lười hơn cả những con mèo hoang ở ngõ Miêu Nhi, nhờ vào phúc ấm của Miêu Tiên gia mà từ xưa tới nay được hưởng cuộc sống vô tư lự trong thành Linh Châu. Tuy có gân cốt thượng phẩm của giống Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu nhưng trước nay chưa bao giờ bắt chuột hay trộm vàng trộm bạc gì, ngày thường chỉ biết trèo cây leo cột, đuổi sẻ làm vui, khi đói thì lẻn vào nhà bếp trộm cá, trộm bánh bao. Lúc này, hai tai bị đau, nó liền học theo lối của tổ tiên là cuộn chân, cuộn đuôi lại, nhưng không làm nổi, đuôi mèo mới cuộn vào một nửa đã đến cực hạnh, bốn chân mèo lại chỉ biết quờ lung tung phía trước.
        Đúng lúc đó, gã sư kia đang chồm về phía Trương Tiểu Biện, không kịp đề phòng thì thấy trước mặt xuất hiện một con mèo đen bấu chặt vào bộ mặt gã, hai cặp mắt người và mèo nhìn thẳng vào nhau, móng chân mèo cào lên mặt khiến máu tươi chảy dầm dề. Gã sư này mặt mũi xấu xí, giờ máu lại chảy đầy mặt trông càng hung tợn gớm ghiếc. Lão đã sợ hãi thì chớ, con mèo đen càng sợ hãi hơn. Giống mèo sản sinh ở Linh Châu, ngày thường thì chẳng sao, nhưng một khi đã khiến chúng sợ tới cực điểm thì hai mắt lập tức vằn lên tia máu đỏ. Con Nguyệt ảnh ô đồng kim tước miêu vừa gào thê thảm, cặp mắt lập tức biến thành hai đốm máu như hai ngọn đèn đỏ trong đêm đen.
        Không đến lúc sinh tử tồn vong, sao có thể thấy mắt mèo kỳ dị? Gã quái tăng bị con mèo đen trừng mắt nhìn mà đến nỗi “Anh hùng ngã chết từ lưng ngựa, giỏi lội bơi song vẫn chết chìm” Muốn biết sự thể ra sao, xem hồi sau sẽ rõ
        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

        Comment


        • #34
          Hồi thứ chín:
          BÁT TIÊN LÂU

          Lại nói, con mèo quý hiếm dị thường Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu sợ hãi tột độ, bị Trương Tiểu Biện nắm chặt hai tai giơ lên, vừa đúng lúc bấu chặt vào mặt tên quái tăng. Bốn mắt nhìn nhau, cặp mắt mèo liền vằn lên tia máu đỏ, mình mẩy xù hết lông lên như bị ma nhập, khác hẳn lúc thường.
          Gã quái tăng có ngón nghề sai khiến bầy chuột kia bỗng bị cặp mắt mèo đỏ máu chiếu tướng, lấy làm khiếp sợ, không kịp đề phòng, thét lên một tiếng, ngã ngửa ra sau.
          Cũng hợp với lẽ mèo chuột tương khắc, thêm vào bản thân gã quái tăng này bẩm sinh đã rất sợ mèo đen, chỉ thấy lão ngã lăn ra đất, miệng sùi bọt mép, tứ chi ngắn ngủn co rút lại, giống như người bị động kinh, lồng ngực tức nghẹn không thể thở được.
          Tôn Đại Ma Tử thừa cơ bật dậy, vung cây gậy trong tay lên giáng thẳng vào đầu lão. Gã vốn là loại khỏe như văm, một gậy đánh ra cuốn theo tiếng gió vùn vụt, giáng trúng đỉnh đầu của gã quái tăng làm máu thịt bắn tung tóe, chết ngay tại chỗ.
          Lũ chuột trong thành Đũa mất chủ, lập tức như tỉnh cơn mê, chẳng đợi Trương Tiểu Bân và Tôn Đại Ma Tử động thủ, chúng đã tranh nhau trốn khỏi thành. Bốn phía xung quanh có rất nhiều hang chuột, trong chớp mắt chúng đã bỏ chạy sạch không còn một bóng.
          Trương Tiểu Bân định thần lại sau cơn hoảng hốt, vội bế thốc con mèo vào long, nói với Tôn Đại Ma Tử: “Việc này đúng là trời định, đều nhờ Miêu Tiên gia hiển linh phù hộ, cũng may là Tam gia này nhanh trí dung mèo đen phá tà thuật của yêu tăng, lại cũng nhờ cách xử trí cũng như kiến thức của bậc anh hung hào kiệt Ma Tử huynh đây tương trợ nữa, vậy mới có thể đánh bại được lão hòa thượng Chuột này.”
          Tôn Đại Ma Tử lau vết máu dính trên mặt, nói với Trương Tiểu Biện: “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, trên trời có thần phật, nhân gian có vương pháp, dưới âm có Diêm vương, sao chẳng ai biết đến việc này nhỉ? Gã hòa thượng Chuột này bắt cóc trẻ em con nhà người ta đem đi ăn thịt, thực là trời đất không thể dung tha, thế mà hóa ra không chịu được đòn, mỗ mới đập có một gậy mà đã kết liễu được cái mạng chó của gã, thực là quá dễ dãi cho tên giặc này. Thứ này phải bắt sống giải lên nha môn xử trí, lột da lóc thịt mới đúng.”
          Trương Tiểu Biện nói: “Nó đã chết ở đây, coi như cũng bị báo ứng rồi. Huynh đệ chúng ta gặp nạn không chết ắt là có phúc về sau. Giờ đây đám vàng bạc châu báu giấu trong thành Đũa này đã thành vật trong túi bọn ta rồi. Từ khi gặp ma trong mộ Kim quan, Tam gia ta trải qua muôn vàn gian khổ, chịu biết bao đè nén, gặp biết bao hiểm nguy, rốt cuộc cũng đạt thành chính quả, ngày tháng sau này khổ tận cam lai, chỉ còn việc ăn sung mặc sướng, sống hưởng thụ thôi…” Hắn nói vung thiên địa, quên sạch mọi thứ xung quanh, biết đâu rằng chuyện thế gian xưa nay biến đổi khôn lường, những gì không phải của mình về sau ắt phải hoàn trả.
          Hai gã nhớ lại tình cảnh lúc hòa thượng Chuột ăn thịt người bỗng nổi giận khôn tả, liền ra sức đá mấy cái lên người gã quái tăng, sau đó mới lần mò đến trước cửa lầu Đũa. Trong lầu bạc chất như núi, nhìn hoa cả mắt, hai người có bốn cánh tay làm sao vận chuyển ngần ấy bạc được. Bàn tính sơ qua, Trương Tiểu Biện nghĩ ra một mánh: Ước chừng tới giờ trời cũng sắp sang, chi bằng tạm quay về trước, trả chìa khóa Hòe viên cho Thiết chưởng quầy, đồng thời nói dối là trong Hòe viên đúng là có con ma rất khủng khiếp, đêm hôm qua cả bọn không dám vào ở, sau đó đợi đến khi trời tối, đẩy xe lừa lại phía cửa vườn sau, trèo tường vào chuyển bạc. Con phố này vốn không ai dám ở, hành sự như vậy thì thực là thần không biết, quỷ không hay.
          Hai người quyết định như thế, lập tức nhét đầy một bao bạc giắt vào người, lần theo đường cũ trở ra, rồi lại che đậy lối vào đường ngầm trong Hòe viên. Xong xuôi thì trời cũng đã hừng sáng, hai gã liền đến Miêu Tiên tử tìm Tiểu Phượng. Cả ba khấu đầu mấy cái thật kêu trước Miêu Tiên gia, đoạn đứng ở trong ngõ đợi lão lính già cầm canh Thiết Trung.
          Tiểu Phượng thấp thỏm lo sợ cả đêm trong ngôi miếu nát, lại nghe hai gã thêm mắm dặm muối kể chuyện bọn chuột trong Hòe viên xây thành, bắt cóc trẻ con ăn thịt, lại càng thêm kinh hãi thót tim. Cả ba đều không đoán được lai lịch của gã quái tăng có thể điều khiển đàn chuột trộm bạc kia.
          Cứ theo tính cách của Trương Tiểu Biện trước đây, nhất định hắn sẽ sinh long hiếu kỳ, sẵn sàng làm loạn mọi chuyện lên, nhưng lúc này thì khác, hắn thấy rằng thêm một chuyện chẳng bằng bớt đi một chuyện, vì giá trị của Trương Tam gia giờ đã khác rồi, mạng người giàu quý như vàng, sao lại có thể xông vào chỗ nguy hiểm được nữa? Tới giờ, món đại phú đại quý đã vào tay, những việc hắn muốn làm chỉ là tìm cách mang hết số bạc lớn đó rời thành cao chạy xa bay, quyết không để sinh thêm chuyện râu ria nữa.
          Ba người thì thào một lúc lâu trong ngõ, đầu tiên là bàn xem làm thế nào để chuyển bạc trong đêm nay, rồi lại thương lượng xem tiêu tiền thế nào, bàn tới chỗ Trương Tiểu Biện đồng ý chia cho Tôn Đại Ma Tử hai phần mười. Trương Tiểu Biện gặp được Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim quan, được tiên gia mach bảo mới biết trong Hòe viên thành Linh Châu có kho báu. Theo lý, số tài sản này đều thuộc về Trương Tiểu Biện. Nhưng Trương Tiểu Biện tự xưng là bậc trượng nghĩa, thấy cũng phải nhờ vào sức lực của Tôn Đại Ma Tử, nên đã chia cho gã hai phần.
          Tôn Đại Ma Tử vô cùng cảm kích, rối rít tạ ơn Trương Tiểu Biện: “Sinh ra trong thời loạn thế thiên tai dịch họa liên miên này, ngày ngày chỉ cần có bữa cơm ăn là đã mãn nguyện lắm rồi. Nay được hiền đệ không chê mà chu tất cho Tôn mỗ phen này, từ giờ về sau xin nguyện theo Trương gia dắt cương buộc ngựa, cho dù hiền đệ có điều gì sai bảo, mỗ cũng xin làm theo, dẫu nhảy vào nước sôi lửa bỏng, cũng không từ nan.”
          Trương Tiểu Biện rất thích được khen là nghĩa khí, nhưng riêng cô ả Tiểu Phượng thì từ đầu chí cuối hắn vẫn thấy khó chịu trong lòng, không muốn chia đồng nào cho cô ả quê mùa này. Có điều, niệm tình đồng hương đồng khói, từ rày trở đi cứ để cho ả ta làm người hầu cho Trương Tam gia sai vặt, việc khổ việc nhọc gì giao hết cho ả ta làm, ngày cho hai bữa cơm mà ăn. Gặp lúc lễ tết, nếu làm Tam gia ta vui lòng, biết đâu còn cao hứng ban cho ả một hai cái áo hoa mà mặc.
          Tiểu Phượng uất đến phát khóc, càng nghĩ càng ấm ức, đúng là “Cáo đã gặp thời còn quá hổ; Phượng khi trụi cách chẳng bằng gà.” Trước đây ở làng Kim Quan, ai thèm để mắt đến thằng bắt gà trộm chó như Trương Tiểu Biện. Một thằng con hoang không cha không mẹ như hắn, muốn đánh là cho ăn đánh, muốn chửi là cho ăn chửi, ai ngờ hôm nay lại thành tài chủ, đến Tôn Đại Ma Tử cũng trở thành thủ hạ của hắn, mình thì bơ vơ, tan cửa nát nhà, về sau chắc phải cắn răng mà hầu hạ hắn rồi.
          Trước đây, Trương Tiểu Biện bị mẹ con Vương quả phụ khinh khi quá lắm, bây giờ mới coi như hả cơn giận, định bụng bắt Tiểu Phượng đấm lưng bóp đùi, nhưng bỗng nhiên chợt thấy lo lắng, liền nói: “Không hay rồi, mặt trời đã quá con sào sao không thấy lão Thiết Trung tới đòi chìa khóa? Chẳng lẽ lão cho rằng chúng ta đã chết cả rồi sao?”
          Ba người bọn Trương Tiểu Biện chờ mãi không thấy lão Thiết Trung tới lấy chìa khóa Hòe viên, đành tự mình đến Tùng Hạc đường. Nào ngờ đến trước cửa hiệu thuốc, thấy cửa đóng im ỉm, sắp đến giờ ngọ mà chưa mở hang, dò hỏi bọn người làm mới vỡ lẽ rằng từ sớm tới giờ không thấy bóng dáng Thiết chưởng quầy đâu, cả lão Thiết Trung cũng không thấy quay về. Tùng Hạc đường đang rối như canh hẹ, cử người đi tìm khắp nơi, việc buôn bán đành phải dừng lại.
          Bọn người làm công trong cửa hiệu bàn tán ầm ĩ, đều nói Thiết chưởng quầy xưa nay quen ở nhà giữ của, tối đến thì không bước chân khỏi cửa, bây giờ sống không thấy người, chết không thấy xác, chuyện thật phiền phức. Có người đề nghị đến nha môn báo quan, cũng có người cho rằng có khả năng là Thiết chưởng quầy đương đêm đi tìm tiểu cô nương nào đó giải trí rồi ngủ lại không về, chẳng có gì đáng làm rộn lên, không nên báo quan vì chuyện vặt này làm gì. Lắm người nhiều miệng, phút chốc chộn rộn hết cả lên.
          Trương Tiểu Biện ngầm cảm thấy có gì đó không ổn. Thiết Công Kê đang ở nhà như thế, sao đột nhiên mất tăm mất tích một cách mờ ám như vậy? Lẽ nào có liên can đến việc lão ta mua cương thi mỹ nhân ở Úng Trủng sơn? Nhưng chuyện này còn nhiều ẩn tình sâu xa, Trương Tiểu Biện căn bản không biết Thiết Công Kê cần Mỹ nhân và để làm gì, nghĩ nát óc mà cũng không hiểu đầu đuôi ra sao, đành mặc kệ, tính tiếp chuyện đến Hòe viên chuyển bạc khi đêm về.
          Ba người bàn bạc xong, liền vào cửa hiệu quần áo trên phố mua lấy vài món đồ mới, rồi vào hàng ăn mua mười mấy cân rượu thịt về Miêu Tiên tử, thay những thứ quần áo rách rưới trên người ra, ăn một bữa no say, còn thừa bao nhiêu thì chia cho bọn mèo hoang trong miếu, đoạn trốn dưới bệ thờ đánh một giấc.
          Cả bọn vốn định ngủ một mạch đến tối rồi động thủ, nhưng trong tay đã sẳn tiền đâm ra ngứa ngáy, thao thức không ngủ được, cảm thấy ngày sao mà dài dằng dặc, mặc trời mãi chẳng xuống núi. Trương Tiểu Biện chỉ hận mình không phải là Hậu Nghệ thời xưa, giương cung bắn rơi mặt trời, rốt cuộc cũng không dằn lòng được nữa, xoay sang nói với bọn Tôn Đại Ma Tử: “Nhàn rỗi đâm ra khó chịu quá! Đằng nào thì chúng ta đã rủng rỉnh rồi, cứ ngồi yên trong miếu thế này chi bằng để Tam gia ta mời các người đến Bát Tiên lâu ăn một bữa, nghỉ ngơi khỏe khoắn rồi tối sẽ hành động.”
          Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng luôn miện khen hay, hai người sớm đã nghe tiếng Bát Tiên lâu trong thành Linh Châu. Trong vòng mấy trăm dặm quanh đây, ai mà chẳng biết đây là tửu lâu lớn nhất, xa hoa nhất trong thành. Thành Linh Châu nổi tiếng là chốn phồn hoa thiên cổ, Bát Tiên lâu cũng là hiệu lâu đời cả mấy trăm năm, thực khách tới đó ăn cơm uống rượu đều là quý nhân, quan lại và đám thương gia giàu có lai vãng khắp miền Nam Bắc, bọn cùng đinh quê mùa như mấy người bọn hắn làm gì có phúc phận mà hưởng thụ? Đến nằm mơ cũng chẳng thấy trong Bát Tiên lâu có những thức sơn hào hải vị gì.
          Cả ba nổi lòng ham ăn them uống, cũng mong đến đó một phen cho mở rộng tầm mắt, nói đi là đi liền, bèn mang theo con mèo đen, hỏi thăm đường xá đến Bát Tiên lâu. Bát Tiên lâu nằm trên con phố lớn, nhộn nhịp nhất ở phía Nam thành. Dọc hai bên phố, hang ăn mọc lên san sát. Thương nhân trong thành Linh Châu rất đông, lại đều là nhà giàu có, cho dù ngoài thành đang đánh trận nhưng bên trong vẫn nhộn nhịp đàn ca, hết sức náo nhiệt.
          Trương Tiểu Biện thính tai, nghe loáng thoáng trong quán trà vệ đường có tiếng kể chuyện liền ngừng chân, thấy trời còn sớm, chưa đến lúc tới Bát Tiên lâu ăn cơm, liền dắt Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vào quán trà, gọi ít trà nước điểm tâm hảo hạng, học lối của người có tiền, ngồi thưởng trà nghe truyện.
          Vị tiên sinh trong quán đang kể truyện “Thủy Hử”. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thích nhất là nghe tích này, đặc biệt là sự tích hảo hán Võ nhị lang đánh hổ. Nói theo cách hiện đại thì hai tên này là “fan cuồng” của Võ Tòng và Yến Thanh. Nghe đến đoạn Trương đô giám hãm hại Võ Tòng, anh hung gặp nạn, cả hai đều nghiến răng căm tức, vỗ bàn đập ghế, nghe đến khi Võ Tòng đại náo Phi Vân phố, máu rửa Uyên Ương lâu, giết sạch cả nhà kẻ thù, đám người vỗ tay khen hay rối rít.
          Nghe hết chuyện thì cũng đến giờ cơm, cả ba đi thẳng đến Bát Tiên lâu, chưa vào tới nơi đã ngửi thấy mùi rượu thịt thơm lừng từ trong lầu xộc lên nức mũi. Ba người chưa từng đến tửu lâu nào sang trọng như thế, nhưng trong túi có tiền, lá gan cũng lớn hơn nhiều, vừa đặt chân vào, lập tức thấy cô tiểu nhị chạy ra nghênh đón.
          Tên tiểu nhị nọ chuyên phụ trách đón khách, thấy một người mặt mụn, một ả nha đầu quê mùa đang dáo dát nhìn bốn phía, bộ dạng ngó nghiêng ngơ ngác, ngoài ra, còn có một tên nhỏ thó, mặt mày đầy vẻ lưu manh vô lại, liền biết ngay đây là lũ cùng đinh mới lên tỉnh, nhưng thấy cả ba tuy đầu bù tóc rối mà quần áo trên người lại sạch sẽ chỉnh tề, không giống bọn hành khất vào xin ăn, bèn thầm nhủ lúc này đương khi khách quý nhộp nhịp, không tiện quát tháo đuổi chúng ra, nếu chúng ăn xong quịt tiền thì lột mấy món quần áo gán nợ cũng không muộn.
          Thế rồi tên tiểu nhị liền mời bọn Trương Tiểu Biện vào chỗ ngồi, hắn cậy tiệm lớn coi thường khách, khinh khỉnh hỏi ba vị quan khách muốn dung món gì, lại nói thêm rằng Bát Tiên lâu không bán mấy món rẻ tiền.
          Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng chưa từng bước vào tiệm ăn lớn, không khỏi cảm thấy tự ti, chỉ biết nghiêng ngó xung quanh, bị tên tiểu nhị hỏi liền lung túng không biết gọi món thế nào. Duy có Trương Tiểu Biện to gan lớn lối, vỗ bàn mắng: “Con bà nhà ngươi, dám khinh Tam gia ta không có tiền phòng? Tam gia ta muốn ăn cơm lạt canh suông mà lại đến cái tiệm này của nhà ngươi sao?” Nói xong, hắn quăng hai đỉnh bạc lớn lên bàn, cao giọng nói: “Hôm nay Tam gia ta làm chủ, mời hai vị bằng hữu đến ăn cơm. Cái đồ mặt sẹo mù mắt nhà ngươi báo cho Tam gia ta biết trong tiệm này có món gì ngon nhất?”
          Phàm bọn tiểu nhị đón đưa khách, phần lớn đều là lũ thấy tiền sáng mắt, chỉ biết vụ lợi. Tên tiểu nhị thấy Trương Tiểu Biện mở miện ra đã măng chửi, đang định nổi sung lên, bỗng thấy tiền bạc hiện ra trước mắt, cả một bụng bực tức liền xẹp ngay xuống, lập tức đổi thái độ, chớp chớp mắt, toét miệng cười cầu tài: “Đúng,đúng, khách quan dạy rất phải, con đúng là có mắt không tròng, xin quý khách mở lượng hải hà! Bát Tiên lâu chúng con mời toàn đầu bếp danh tiếng ở các nơi về, chuyên làm các món nổi tiếng khắp Bắc Nam, được gọi là “Thiên cổ danh thành đệ nhất lâu”. Các thứ bay trên trời, chạy dưới đất, sống trên núi, bơi dưới nước, muốn ăn gì là có thức nấy, thực sự là không thiếu thức nào. Con xin đọc tên vài món cho ba vị nghe ạ.”
          Từ xưa có câu rằng: “Mở tiệm chớ nề khách chén nhiều” đã có bạc vào đánh chén thì cửa hàng có lý đâu lại đi tiết kiện hộ thực khách, chỉ thấy tên tiểu nhị vội vàng dâng trà, rót nước, sau đó đứng bên cạnh đọc tên lần lượt các món ăn.
          Bọn Trương Tiểu Biện hầu như chưa từng nghe nói tới, những món này cũng chẳng biết món ngon Nam Bắc là những thứ gì, làm tình làm tội tên tiểu nhị kia chán chê, cuối cùng mới bảo, Tam gia hễ ăn thì không bao giờ hỏi giá tiền, thôi thì chỉ cần là món ngon của Bát Tiên lâu, cứ mang ra độ mười mấy món là được. Loáng một cái, tiểu nhị đã lần lượt dâng cơm rượu lên, bảy đĩa tám bát, bày chặt cả bàn. Món ăn của Bát Tiên lâu thành Linh Châu danh bất hư truyền, quả nhiên đủ cả sắc, hương, vị.
          Bọn Trương Tiểu Biện vén tay xắn áo, cầm đũa há mồm, đang định thả sức ăn uống một trận đã đời, nhưng chưa kịp gắp đã nghe một tiếng hét lớn bên ngoài Bát Tiên lâu, rồi một đám mấy chục tên công sai hung hục xộc vào. Đám người này bước đi như hổ, hành động như sói, vào trong tửu lầu liền cất chân đá tung mấy cái bàn, chẳng nói chẳng rằng đạp Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng xuống đất như diều hâu bắt gà, rút dây thừng, trói nghiến cả bọn lại.
          Trương Tiểu Biện thất sắc, vội kêu: “Các vị trưởng quan xin giơ cao đánh khẽ, tiểu nhân vào thành bán ếch, không phải là gian tế của Việt khẩu, các vị bắt lầm người mất rồi!” Tôn Đại Ma Tử cũng hô to: “Oan uổng tày trời! Chúng tôi đều là dân lương thiện mà!”
          Một tên công sai nghe vậy thì nổi giận, giơ tay tát Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mấy cái nổ đom đóm mắt, máu mũi chảy ròng ròng, gãy mất mấy cái răng.
          Tôn Đại Ma Tử vẫn còn muốn kêu oan, bỗng thấy trong đám công sai có một tay đầu lĩnh chỉ mặt chửi: “Ba người các ngươi tội đáng muốn chết mà còn dám nhiều lời hả? Mau ngậm mồm lại, ngoan ngoãn theo ông nội các ngươi về trình diện, may ra bớt chút đau khổ xác thịt. Vụ trọng án tày trời này cũng đủ cho các ngươi tan xác rồi.”
          Thật đúng là: “Ngỡ lòng sắt đá nhưng đâu phải. Đến trước quan nha cứng hóa mềm.” Muốn biết sự thể tiếp diễn ra sao,xem hồi sau sẽ rõ.
          Hồi thứ mười:
          Tạo Súc
          Hồi trước nói đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện vào Bát Tiên lâu gọi cơm rượu hết sức đắc ý, bỗng một đám công sai hùng hùng hổ hổ xông tới, chẳng nói chẳng rằng đạp cả bọn xuống đất. Con mèo đen bên cạnh thấy tình thế không hay, đớp ngay một con cá chép chua ngọt trên mặt bàn rồi lủi ra ngoài như gió, biến mất tăm mất tích trong ngõ sâu.
          Bọn công sai tất nhiên chẳng thèm để ý con mèo ăn vụng cá kia, liền lục soát tại chỗ, lấy ra một bao bạc trắng phớ, tên đầu lĩnh đám công sai liền mắng: “Quân ăn cướp trời đánh, đây là bạc trong phiên khố của triều đình, bây giờ nhân chứng vật chứng đầy đủ, còn gì để nói nữa?” Nói đoạn hắn liền lập tức ra lệnh cho bọn thủ hạ trói nghiến bọn Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng lại, giải về tống vào lao, đợi quan gia xử trị.
          Trương Tiểu Biện vốn tưởng được Lâm Trung Lão Quỷ mách cho một món phú quý, ngỡ là vật vô chủ, trước giờ chưa từng tìm hiểu kỹ lai lịch đống ngân lượng trong thành Đũa. Cả đời hắn, đến bạc vụn còn chưa được cầm vào tay, nói chi đến đĩnh bạc có đúc dấu của công khố, đâu ngờ lại rước phải cái họa tày trời này? Tới khi tên đầu lĩnh nói ra, hắn mới vỡ lẽ giật mình như người tỉnh mộng, hối hận cũng không kịp, bụng bảo dạ lần này đúng là tự mình dẫn lửa thiêu thân, vạn kiếp không ngóc đầu dậy được nữa, thực đúng là : “ Sục sôi muôn ý trong đầu, thảy đều nguội lạnh trước gàu nước băng”. Muôn ý niệm đều tiêu tan, trong long cũng không quên chửi rủa tổ tong mười tám đời nhà Lâm Trung Lão Quỷ.
          Quý vị độc giả hẳn từng nghe, thành Linh Châu vốn là đầu mối giao thong trọng yếu của hai đường thủy bộ, lại là nơi thương lái hai miền Nam Bắc lưu thông hàng hóa tiền bạc, từ đầu đời nhà Thanh đã thành lập các phiên khố, toàn bộ tiền thuế tiền lương của hai tỉnh miền Nam Trường Giang đều chứa trong kho này, đợi tới khi đủ hạn số nhất định sẽ chuyển về Kinh thành. Con đường nơi đóng phiên khố ở thành Linh Châu tên là phố Ngân Phòng, có nhiều thợ bạc sống ở đó.
          Tiền thu được thường là hào, cắc và bạc lẻ, khi nhập vào phiên khố cần phải đúc lại thành đĩnh. Bởi vùng Giang nam giàu có, lắm tiền nhiều của, các hạng thuế thu ở đây chính là tính mạng của triều đình, bởi vậy việc phòng vệ vô cùng nghiêm ngặt. Tường kho luôn có hay lớp dày chắc dị thường gọi là “ Hổ tường”, đồng thời đặt thêm cửa đồng vách sắt, mấy lớp khóa nặng, lại phái một tốp quan binh chuyên giữ kho.
          Từ khi Thái Bình quân khởi sự ở mạn Quế Tây, Việt Đông, đánh ngược lên phía Bắc, thế mạnh như chẻ tre, các thành trấn quan trọng ở phía nam Linh Châu đều bị Việt khấu chiếm giữ. Các lộ binh mã hình thành thế bao vây hợp công Linh Châu, một lượng lớn tiền thuế trong phiên khố Linh Châu không kịp chuyển đi, để lại trong thành cùng với quân dân.
          Thành Linh Châu từ xưa đã là vùng đất binh gia tranh giành, nên thành cao hào sâu, vững như bàn thạch, hơn nữa lái buôn trong thành rất nhiều, những người này đều không tiếc của cải, xuất tiền xuất lương giúp đỡ triều đình chiêu mộ lính dõng; trong thành cũng có rất nhiều súng Tây, pháo Tây, hỏa khí chẳng những nhiều vô kể mà còn hết sức hiện đại, Thái Bình quân tiến đánh mấy lần đều không thành. Nhưng cấc thủ lĩnh Thái Bình quân cũng đều biết trong thành Linh Châu có phiên khố, tiền bạc nhiều vô kể nên mấy trận trước tuy hao tổn không ít người ngựa song vẫn cố chiếm bằng được, có thể kéo quân tiến đánh bất cứ lúc nào.
          Cũng bởi bạc trong kho thành Linh Châu quá nhiều, khó tránh khỏi có lắm kẻ động lòng tham, không chỉ có Việt khấu muốn tranh đoạt mà bọn trộm cướp phi tặc cũng muốn thừa lúc loạn lạc để vơ vét một mẻ, đám người này hoặc kết thành từng đám năm ba tên, hoặc độc lai độc vãng, hành tung xuất quỷ nhập thần, rất khó đề phòng. Để bảo vệ ngân khố, quan phủ đã phái binh lính tuần tra ngày đêm, đặt vô số gác canh trên phố Ngân Phòng. Thời loạn thì luật lệ càng phải chặt chẽ, hễ bắt được tên nào có ý định trộm bạc là quan phủ cho lăng trì bêu đầu, giết một để răn mười, quyết không khoan dung.
          Trông coi đã nghiêm cẩn đến vậy mà gần đây bạc trong kho cứ liên tục biến mất. Lạ ở chỗ Hổ tường cao ngất, khóa sắt y nguyên, không hiểu là bọn giặc phương nào, dùng thủ đoạn thần thông gì mà qua mặt được bao nhiêu quan binh canh giữ, trộm đi bạc trắng trong khố mà chẳng để lại mảy may dấu vết.
          Việc kho bạc bị mất trộm hết sức nghiêm trọng, quan phủ mất ăn mất ngủ, phàm là người ra vào khỏi thành đều bị tra xét rất nghiêm ngặt, đề phòng bọn trộm chuyển bạc đi, đồng thời đặt hạn kỳ, lệnh cho đám bổ khoái ở nha môn phải tróc nã cho được tên tặc nhân, tìm lại số bạc bị mất, bằng không sẽ liên lụy cả nhà. Xưa nay vẫn có câu “ quan cướp một nhà”, đám công sai bộ đầu vẫn thường câu kết với lũ trộm cướp cường đạo trong thành, quan nuôi dưỡng cướp, vì vậy tai mắt rất rộng, chỉ cần gió hơi lay, cây hơi động là đám ấy dò la ra được ngay. Hơn nữa, tai mắt bọn công sai cực nhạy, chúng tìm bắt mấy tên cưới chẳng khác gì mèo tìm chuột, chỉ cần đánh hơi thấy động một cái là tìm ra được ngay.
          Ấy vậy mà đã trăm phương nghìn kế tìm tòi tra xét, vụ án lớn tày trời này không ngờ vẫn không có chút manh mối nào, đành phải bắt bừa mấy tên giặc cỏ cho đủ số, tuy đã bức cung đánh đập, bắt bọn kia khai nhận rồi, nhưng kho bạc vẫn tiếp tục bị mất trộm, thử hỏi phải ăn nói thế nào với quan trên được đây.
          Đám công sai đang cuống quýt chưa biết làm thế nào, bỗng tên đầu lĩnh đám bộ khoái trong nha môn nghe phong thanh ở tiệm y phục nọ, có người dùng bạc đúc đĩnh lớn mua quần áo, dưới đáy đĩnh bạc có đúc dấy ấn của phiên khố Lĩnh Châu, thám tử đã nhìn rất rõ ràng, không thể sai trật được. Y liền lập tức bủa người đi khắp nẻo, cuối cùng bắt được cả đám ở Bát Tiên lâu.
          Linh Châu vốn là một châu thuộc tỉnh Trực Lệ, nhưng vì những thành trấn phụ cận đã bị Việt khấu công hãm nên các quan viên trong tỉnh đều đã chuyển nhà, thêm vào đó là yêu cầu của thời chiến, vì vậy các đạo, các ty, thậm chí các cơ quan đầu não của toàn tỉnh như nha môn Đề đốc và nha môn Tuần phủ đều tập trung trong thành. Hiện tại, thành Linh Châu có cả Đề đốc và Tuần phủ. Giờ thì đám quan lại địa phương may mắn còn sống sót phải ra sức mà hiệp trợ Tuần phủ Mã THiên Tích trù bị tiền bạc lương thảo, chiêu mộ lính dõng để thủ thành. Việc mất trộm phiên khố đã sớm kinh động đến triều đình, Tuần phủ Mã đại nhân nghe tin bắt được phi tặc, liền không dám chậm trễ, đích thân cùng hữu ty thẩm vấn cho ra ngọn nguồn vụ án.
          Chỉ thấy trên công đường đèn đuốc sáng lòa, bày la liệt các dụng cụ tra tấn, tiếng trống nha môn vang lên thùng thunfgm nha sai xếp hai hàng, đúng là “ Uy nghiêm còn quá Diêm La điện; Khiếp sợ nào thua Đông Nhạc đài”. Bọn Trương Tiểu Biện ba người quỳ trên đất thấy thế, mặt xanh như chàm đổ, người mềm như bún, thật là “ Có cánh thì cứ thăng thiên; Có móng, độn thổ, chạy liền vào hang. Đã không biết thuật chạy làng; Chớ rước rắc rối cửa quan công đường.”
          Trương Tiểu Biện biết chuyện rất nghiêm trọng, đến nước này chỉ còn cách cố sức thanh minh mà thôi. Hắn quen thói lựa gió đưa thuyền, không đợi Mã đại nhân lên tiếng, đã vội nói: “ Xin các vị chớ nhọc dùng đến đại hình! Thanh thiên đại lão gia minh giám, chúng tiểu nhân xin không đánh mà tự khai hết.”
          Mã đại nhân là kẻ già đời, nhiều âm mưu, tính quyết đoán, trước nay nổi tiếng là người giỏi tra khảo thẩm vấn, cũng biết phàm là ấn nặng thì đều phải tra hỏi ba lần bảy lượt, thẩm định kỹ càng mới được. Lão vừa nhìn tướng mạo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử là biết ngay hai tên này chỉ là bọn lưu manh đầu đường xó chợ, nghĩ đến chuyện phiên khố mất bạc, bổ khoái nha môn tra xét nhiều ngày mà không có kết quả, lại chảng phát hiện được manh mối gì, thủ đoạn đó hẳn bọn trộm vặt không thể làm được. Vậy mà ba kẻ quỳ dưới công đường kia đều không quá mười sáu, mười bẩy tuổi, lại còn có một cô ả nhà quê, chỉ dựa vào mấy tên tẹp nhẹp bọn chúng thì sao có thể gây được đại án tày trời thế này? Nhưng đích thực là có soát được trên người chúng có số bạc phiên khố bị mất, xem ra bên trong ắt có uẩn khúc, nhất thiết cần phải tra hỏi cho ngọn ngành mới xong. Nghĩ đoạn, lão liền đập bàn thẩm vấn.
          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

          Comment


          • #35
            Trương Tiểu Biện hết sức ngoan ngoãn, hỏi một đáp mười, bộ mặt ra vẻ vô tội, kể hết một lượt từ đầu chí cuối. Quy củ nha môn thì hắn biết rõ, đầu tiên phải khai báo tên tuổi xuất thân, nhưng Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử ba người vốn là dân quê nghèo khổ, làm gì có tên có hiệu đâu chứ? Tiểu Phượng lấy theo họ mẹ là bà Vương quả phụ nên gọi là , Vương Tiểu Phượng, Tôn Đại Ma Tử là anh cả trong nhà, từ nhỏ mặt đã đầy mụn nên mới có biệt danh như thế, trước nay cũng không có tên gì khác.
            Nguyên quán Trương Tiểu Biện vốn không phải ở làng Kim Quan, mà là con nhà dòng dõi, đời ông tổ từng làm quan trong Kinh thành, về sau gia cảnh suy vi nên mới lưu lạc đến đây. Từ nhỏ, hắn đã được học lễ nghĩa, vốn cũng có tên tuổi đàng hoàng, chỉ vì lúc ấy quá nhỏ nên không nhớ được nhiều, giờ nghĩ kỹ lại thì dường như tên là Trương gì gì Hiền, chữ “Hiền” trong sách dạy thánh hiền, không phải là chữ”Huyên” trong từ “huyên thuyên”, tên đệm thì nhớ không ra. Sau này lưu lạc, cũng không rõ từ đâu mà làng Kim Quan đều gọi là “Quan lão tam”, người có tuổi trong làng thì gọi là “Tiểu tam”, bọn cùng trang lứa xưng huynh gọi đệ thì kêu là “ Tam ca, Tam đệ”.
            Trương Tiểu Biện trước tiên nói mình là người giữ phép trọng đạo, hiểu thi thư lễ nghĩa, lại còn bảo về sau định đóng cửa đọc sách, thi đỗ làm quan để rạng rỡ tổ tông, ra sức vì triều đình, chứ những chuyện xấu xa bắt gà trộm chó thì không bao giờ chịu làm. Nhưng cũng chỉ vì đao thương không có mắt, chiến hỏa vô tình khiến cho làng Kim Quan bị phá hủy, bất đắc dĩ mới cùng hai người cùng lành là Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cuốn gói rời khỏi quê hương, chỉ biết lên núi bắt ếch mang vào thành đổi ít gạo dầu mắm muối sống qua ngày.
            Cũng bởi dạo gần đây nạn chuột hoành hành, đúng lúc mấy hôm trước cả bọn đào được một thứ dược phẩm quý hiếm, liền mang đến Tùng Hạc đường trong thành để đổi lấy một con mèo đen giỏi bắt chuột, mang về trông nom cửa nhà. Lúc ấy trời đã tối, cửa thành đã khóa, lại sợ đội lính dõng tuần tra tưởng là gian tế, mấy tên liền mượn tạm căn nhà hoang Hòe viên của Thiết chưởng quầy mà trú ngụ qua đêm.
            Mã đại nhân nghe tới đó liền gật đầu, nói : “ Ờ… Hòe viên là nhà cũ của họ Lâu, bỏ hoang phế từ lâu rồi, nghe nói bên trong có ma, lại không được sạch sẽ cho lắm.”
            Trương Tiểu Biện đáp: “ Đại nhân đúng là một vị quan tốt hiểu thấu dân tình, yêu dân như con, đến chuyện nhỏ như vậy cũng rõ như lòng bàn tay, trong Hòe viên quả có một con ma rất ghê gớm.” Đoạn hắn liền đem chuyện trong Hòe viên gặp lũ chuột bắt cóc trẻ con thế nào, thành Đũa trong đường hầm ra sao, cả tên quái tăng ăn thịt trẻ con thế nào, rồi chuyện hắn dùng con mèo đen đánh ngã quái tăng trừ hại cho dân, tất cả tình tiết đều kể hết một lượt
            Cuối cùng, hắn mới nói đến món bạc lớn trong lầu Đũa, bảo rằng không biết đõ là vật của quan phủ, cả ba chỉ vì tham món lợi nhỏ, tiện tau cầm một ít đem dùng. Riêng việc gặp Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim Quan và chuyện đào được cương thi mỹ nhân ở Ứng Trung Sơn thì hắn không nhắc đến một chữ nào.
            Kế đó, Mã đại nhân lại thẩm vấn riêng hai người kia. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vốn không biết toàn bộ sự tình, tuy cung khai có chỗ sai khác nhưng về đại thể cũng giống với lời cua Trương Tiểu Biện.
            Mã đại nhân tra hỏi đến đây, không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bản thân lão kiến thức uyên bác, nắm rõ việc hình ngục cũng không thể ngờ được rằng vụ án mất trộm ngân khố lại phanh phui ra nhiều việc dị thường đến thế. Thành Linh Châu mấy năm nay thường có trẻ con mất tích, mãi đến giờ cũng không phá được án, có điều trước mắt đại quân Việt khấu đang vây thành, quan phủ không có thời gian truy lung mấy đứa mẹ mìn bắt cóc trẻ con. Chẳng ngờ việc này lại liên quan đến vụ trộm công khố, lão vội phái người đến Hòe viên điều tra, đồng thời tới Tùng Hạc đường triệu kiến Thiết Công Kê đến đối chứng.
            Hiện giờ, không ai biết Thiết chưởng quầy đã đi đâu, sống không thấy người, chết không còn xác, làm sao đến công đường được? Chỉ có mấy tên người làm trong cửa hiệu và thủ quỹ bị giải đến công đường làm chứng, quả nhiên tên nào cũng khai rất khớp với Trương Tiểu Biện. Đồng thời, đám công sai được phái đến Hòe viên đã tìm thấy tòa thành Đũa trong hang động ngầm dưới lòng đất, phát hiện ra tất cả số bạc trộm trong ngân khố ở đó, lại thấy rất nhiều của cải, trang sức trộm từ nhà dân. Tên hòa thượng nọ tuy bị trung một gậy vào đầu hôn mê bất tỉnh nhưng chưa chết, cũng bị bắt giải đến công đường.
            Mã đại nhân thấy vụ án nghiêm trọng, không dám chậm trễ, liền cùng với quân Bát Kỳ đang đồn trú tại Linh Châu đốt đèn thẩm án cả đêm. Tên hòa thượng nọ dẫu bị tra hỏi gắt gao nhưng thà chết không nhận vì hắn biết tội mình quá nặng, nếu cung khai ắt phải chịu cực hình tùng xẻo, thà chịu tra tấn trên công đường đến chết cũng còn nhẹ nhàng hơn.
            Mã đại nhân trước tiên sai người đánh hòa thượng Chuột hai mươi hèo nặng. Thấy lão vẫn ngoan cố, một mực nói rằng mình là hòa thượng đi vân du hóa duyên, Mã đại nhân liền mắng: “ Thằng tặc tử to gan. Những chuyện phóng hỏa giết người toàn là thủ đoạn của bọn sư hổ mang như nhà ngươi. Bây giờ bốn phương đầy đao binh, dân tình lầm than, làm gì có thức ăn mà bố thí cho sư sãi, hơn nữa người xuất gia chỉ ăn chay niệm Phật, vốn trọng sự đạm bạc thanh bần, làm sao có được thể tạng phì nộn như ngươi được? Đúng là ăn thịt người mới như thế. Bọn hung đồ gian xảo như ngươi còn dám khua môi múa mép trước mặt bản quan hay sao? Tội lớn tày trời thế nào mà ngươi tưởng rằng che giấu được hay sao?” hòa thượng Chuột vẫn bao hoa: “ Thiện tai! Thiện tai! Bởi Phật tổ từ bi nên bần tăng càng đói thì càng béo đó thôi.” Mã đại nhân biết lão cắn răng chịu hình, nghĩ bụng: “Để bản quan xem xem ngươi có phải La hán đúc bằng gang thép không?” Đoạn lão liền lệnh cho tả hữu dùng đại hình tra tấn nhưng không được hại đến tính mạng của hòa thượng Chuột.
            Bọn hình quan, trên công đường làm những gì? Đương nhiên chúng có nhiều thủ đoạn để đối phó với lũ ác tặc mà không cần đến đao to búa lớn gì. Chỉ thấy chúng lột sạch quần áo trên người hòa thượng Chuột, bịt mắt lão bằng một miếng vải đen, treo ngược lên trên, sau đó dùng sáp nóng rỏ vào gan bàn chân, cách này được đặt tên là “ Từng bước nảy son”.Gan bàn chân là nơi tập trung nhiều huyệt đạo, cực kỳ mẫn cảm, chỉ cần rỏ năm ba giọt sắp nóng xuống là đỏ tấy lên. Hòa thượng Chuột cho dù là Kim cương La hán cũng chịu không thấu, gào lên thảm thiết không ra tiếng người.
            Quả nhiên, hòa thượng Chuột không chịu nổi cực hình, cuối cùng đành dốc miệng cung khai hết. Thì ra trên thế gian này có một đám giáo đồ tà ma, chuyên cắt sinh thực khí của người chết, phối với dược vật ngũ hành luyện thành đan dược để ướng. Phép đó gọi là Kim Cương thiền. Muốn luyện đến cảnh giới tối cao thì cần phải ăn thịt đủ một trăm sáu mươi thai nhi và trẻ con mới thành . Hòa thượng Chuột chính là một tên trong đám đó.
            Đám người này hành sự hết sức quái dị, thủ đoạn thần bí, hơn nữa thường nuôi các động vật bên mình để sai khiến, to thì có lợn, dê, bò, ngựa; nhỏ thì tới côn trùng, sâu kiến, không loại gì không có. Dân thường không hiểu tường tận, ngoa truyền càng lúc càng kinh khủng, tới mức cho rằng bọn chúng là bọn “Tao Súc”, tức là đám người biết yêu thuật, phục thuốc để bết người sống thành súc sinh rồi bán đi kiếm lời. Kỳ thực, người luyện Kim Cương Thiền chỉ yếu dùng xác chết để luyện bùa thuốc, rồi cho thú vật ăn vào khiến chúng bị nghiện dể chịu sự sai bảo.
            Hồi thiên hạ thái bình, trọng lễ nghĩa, văn hóa, ít khi tìm được xác chết vô thừa nhận, đám nghiệt đồ đó phải lén quật các phần mộ mới. lột da róc thịt xác chết ra để luyện tà pháp. Nay có loạn Việt khấu, giặc cướp ở các nơi nổi dậy như ong, sau mỗi lần chiến sự nổ ra, thi thể vô chủ nằm ngổn ngang khắp nơi, tà phái sắp tuyệt diệt này lại có cơ hội phực hưng.
            Lão hòa thượng này họ Phan nên còn gọi là “Phan hòa thượng”. Phan hòa thượng bản tính ngu độn, không biết chữ, cũng chẳng biết vì sao có tật nghiện xây lầu dựng tháp. Sau khi lão xuất gia, lão giết thầy thiêu chùa, trở thành một nhà sư đi hoang. Trước đây, lão chuyên bắt cóc trẻ con đem bán, thân thể lão béo phì như một con chuột trắng, nên còn có biệt danh là hòa thượng Chuột. Lão này chuyên giả bộ ngây ngô như bọn trẻ con lên ba để dễ gây án ở Linh Châu và các vùng lân cận. Về sau, khi tập Kim Cương Thiền, biết thủ đoạn khống chế chuột, lão liền nấp trong Hòe vên hoang vắng bế quan t u luyện. Lão sai khiến đám chuột lớn trộm bạc trong công khố nên quan binh có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng bạc lại bị chuyển ra qua hang chuột.
            Hòa thượng Chuột chẳng hề coi trọng quan phủ là gì, tuy bị giải đến công đường chịu nhận đại hình tra tấn nhưng thái độ vẫn hết sức ngạo mạn. Lão nói, tuy rằng thất thủ bị bắt nhưng chẳng qua do sơ ý trúng phải quỷ kế, cùng lắm một chết mà thôi, hai mươi năm sau sẽ lại thành một trang hảo hán. Nhưng trong ngoài thành còn có nhiều đồng bọn của lão, bổ khoái của nha môn dẫu có tài thánh cũng không đối phó nổi phép tiên của “Tạo Súc”, sớm muộn bạc trogn ngân khố cũng sẽ bị lấy hết dể dâng lên Tổ sư gia.
            Mã đại nhân nổi giận lôi đình, thương nghị với Đề đốc Đồ Hải rằng: “ Thiên hạ này, những kẻ yêu nhân luyện tà thuật là bọn xấu xa đáng tởm nhất. Từ xưa các vị hiệp khách đã chuyên đi tru diệt lũ này. Sử sách chép rằng chúng nó đã tuyệt tích từ thời Ngũ đại, thế mà tới triều ta ngày nay vẫn còn đám nghiệt đồ dư đảng. Theo ý của Đề đốc đại nhân, chúng ra nên xử trí lũ này thế nào?”
            Đề đốc Đô Hải tuy là đại quan thống lĩnh quân vụ trong vùng , nhưng ngoài bản lĩnh đấu đá chốn quan trường, hắn chẳng có tài cán gì, thực sự là một kẻ ngu si hèn kém. Cả đêm thẩm vấn đã khiến hắn buồn ngủ díp mắt, đang ngủ gật thì bị Mã đại nhân hỏi, liền ngáp một cái, hít hít lọ thuốc xông cho tỉnh, nhỏm nửa mông, hướng về phía Bắc chắp tay nói: “Nước Đại Thanh chúng ta hồng phúc tày trời, đương kim Hoàng thượng càng anh minh thần vũ, sao có thể dung da đám thối tha làm chuyện hung ác này được? Nếu đã bắt được thì cần gì hỏi nhiều, đến sáng cứ theo luật mà xử quyết, tới lúc đó, chúng ta đến xem đổ máu cũng vui.”
            Tuần phủ Mã đại nhân lập tức đón lời: “ Bản quan cũng có ý đó, hòa thượng Chuột này tuy chỉ là một tên trèo tường khoét vách thối tha, không đáng để Hoàng thượng bận tâm nhưng án này thực không nhỏ, pháp luật không thể dung tha. Hơn nữa, lão theo tà giáo, vả lại còn chưa bắt được lũ đồng đảng Tạo Súc, nếu tống vào tử lao lâu ngày chỉ e chúng giở thủ đoạn cởi gông phá ngục chạy trốn, hoặc sẽ tuyệt thực tự tận để tránh phải chịu cực hình. Chi bằng cứ cho nhanh chóng tronh vòng ba ngày, giải ra chợ lăng trì trước bàn dân thiên hạ, giã nát xương cốt để giương cao pháp độ của triều ta.”
            Kỳ án trong Hòe viên thành Linh Châu tạm thời kết thúc ở đây, thường có câu thơ rằng: “ chớ bàn họa phúc hôm nay;Dữ lành sau nữa ai hay thế nào?” Hẵng còn chưa biết bọn Trương Tiểu Biện sẽ bị quan phủ xử trí ra sao, lại cũng chưa rõ vì sao Lâm Trung Lão Quỷ lại bảo họ đi làm những chuyện dị thường như thế, rốt cuộc bên trong còn có những âm mưu kinh người nào khác?
            Thật là: “ Đời loạn nào đâu còn lẽ phải; Trời gieo kiếp nạn dấy tai ương.” Muốn biết chuyện sau thế nào, hãy xem Tặc miêu quyển ba sẽ rõ.
            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

            Comment


            • #36
              Quyển thứ ba: chó ngao thần

              Hồi thứ nhất:
              Đàm đạo nhân

              Lại nói, tuần phủ Mã đại nhân là người từng trải việc quan, long ôm thao lược, bụng có mưu hay, hơn nữa còn có nhãn quang phi thường, nhìn xa trông rộng, khi gặp việc thì tùy cơ quyết định. Sau khi thẩm vấn xong, lão sợ đêm dài lắm mộng, bèn quyết định phải mau chóng xử trí, bèn hạ lệnh cho thủ hạ đem hào thường Chuột ta cắt đứt gân chân gân tay, dung khóa sắt xuyên qua xương tỳ bà, bắt đeo gong nặng, tống vào tử lao, sai ngục tốt cho ăn uống tử tế, đồng thời hạ lệnh phong tỏa tin tức, dự định trong ba ngày sẽ giải ra chợ lăng trì.
              Đoạn Mã đại nhân sai người đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào hậu đường, cởi dây trói, cho uống rượu áp kinh rồi hỏi han cặn kẽ. Mã đại nhân vốn là người biết dùng người, hiểu rõ rằng trong thiên hạ này, ngắn cũng có sở trường, dài cũng có sở đoản, cái nào cũng có chỗ dùng đến, ngay trong đám giả tiếng gà, ăn trộm chó cũng có lúc trở thành kì tài.
              Khi biết Trương Tiểu Biện hiểu thuật xem tướng mèo thời xưa, Mã đại nhân đột nhiên nhớ ra một chuyện. Linh Châu trước nay có phong tục thờ Miêu tiên gia, nhưng nhiều người không biết được lai lịch của ngài, cho dù có biết thì cũng chỉ là lời đồn đại nơi đầu đường xó chợ, vị tất đã đúng sự thật. tổ tiên của lão lúc chưa phát tích từng làm thảo khấu, kết giao với đạo tặc trong thiên hạ, vì vậy rất rõ căn dơ của câu chuyện này.
              Kỳ thực miêu tiên gia hồi đó không phải là đạo sĩ tiên cơ gì cả, mà chẳng qua chỉ là một tên trộm lành nghề chuyên trèo tường leo vách mà thôi. Vị thần ăn trộm này xuất thân từ một nhà dòng dõi đất Linh Châu, thường dắt theo con mèo khoang bốn tai, chuyên di ăn trộm những nhà giàu có bất nhân chia cho người nghèo, cứu khổ tế bần. Thủ đoạn của người này hết sức cao minh, đa phần đều là diệu thuật thần kì mà người thường khó tưởng tượng nổi, chợt đến chợt đi không để lại dấu vết, đến đám quan quân bổ khoái cũng không làm gì được.
              Vị thần trộm này họ Đàm, ngày thường chỉ xuất hiện dưới bộ dạng đạo sĩ rách rưới đi khắp hang cùng ngõ hẻm bán thuốc đạo, vì vậy người ta gọi là Đàm đạo nhân. ông ta từ nhỏ đã hiểu thuật xem tướng mèo, khi đi trộm vàng cắp bạc ở khắp nơi đều nhờ vào con mèo khoang bốn tai mang theo bên mình. Con mèo này tinh nhanh phi phàm, giỏi trèo tường khoét vách. Các nhà phú hộ ngày xưa đều xây kín cổng cao tường, ngoài bọn gia đinh đi tuần còn nuôi nhiều chó dữ, hễ thấy có tiếng người đánh động là chúng sẽ xổ ra cắn xé. Mặc dù vậy tất cả đều bị Đàm đạo nhân qua mặt.
              Đàm đạo nhân không phải là kẻ độc lai độc vãng. Đồng bọn của ông ta rất đông, vì ông ta là thủ lĩnh của đám trộm cắp thành Linh Châu. Phường trộm thường ẩn hiện trong đêm, mặc y phục dạ hành, đế giày bện rơm cỏ để đi không có tiếng động, trên mawyj che kín, miệng ngậm tăm để tránh cất tiếng nói.
              Sau khi ngầm lẻn đến đúng tòa nhà định gây án, cả bọn phục ở chân tường không nhúc nhích, Đàm đạo nhân tóm gáy con mèo bốn tai, nhắm vào đầu tường rồi ném lên. Con mèo giặc đó nhẹ nhàng linh hoạt vô cùng, vừa chạm vào tường liền thò móng vuốt bám chặt không một tiếng động, sau đó mượn lực, uốn mạnh nảy vọt qua bờ tường cao.
              Con mèo khoang bốn tai vào đến bên trong liền dụ đám chó dữ canh cửa sang một phía, lừa cho chúng ăn thuốc mê,. Lũ chó ăn phải thuốc mê xong, mèo khoang ta liền lên đến cửa sau, dùng móng vuốt rút then cửa để cả bọn vào khoắng vàng bạc, đồ đạc. Đàm đạo nhân nhờ vào ngón nghề đó mà gây ra rất nhiều đại án, chưa lần nào sa cơ.
              Mạc dù vậy ông ta cũng có lúc thất bại. Đó là lần ĐÀm đạo nhân uống rượu cùng thủ lĩnh đảng cướp hồ Động Đình. Khi hai người uống say liền xoay sang đánh cược. tên thủ lĩnh nói rằng, thiên hạ đều hết sức khâm phục Đàm công có kĩ thuật thần diệu, lấy bảo vật như lấy đồ trong túi, nhưng dẫu cho ông có tài bằng trời cũng chưa chắc lấy được một vật. Nghe đồn trong Hoàng cung đại nội có một viên ngọc dạ quang do Phiên quốc tiến cống, to như mật tông, tinh khí sáng ngọt, trong đêm trông rạng rỡ như đèn, chiếu xa ngoài trăm bước. Viên ngọc đó là báu vât cảu hoàng hia, xưa nay vẫn cất giấu ở chỗ Thái hậu, đến Hoàng đế cũng không biết chính xác ở đâu. Nếu đàm đạo nhân có thể giở thủ đoạn lấy được viên minh châu đó cho cả bọn mở rộng tầm mắt, thì đám thảo khấu, trộm cướp trong khắp tứ hải ngũ hồ chúng ta sẽ nhất loạt tôn Đàm công thành "Đạo trung Bắc đẩu"(Bậc Thái sơn Bắc đẩu trong đám trộm cướp)
              Kỳ thực đây cũng chỉ là lời nói vui trong bữa rượu nhưng Đàm đạo nhân vốn tính hiếu thắng, muốn tỏ ra hơn phân đấm đạo tặc ở hồ Động Đình, liền chẳng nói chẳng rằng, một mình ôm con mèo khoang bốn tai đi đền hoàng cung. Thời gian đó vào đúng lễ hội hoa đăng tết Nguyên tiêu, Hoàng thượng đưa Thái hậu xuất cung để thưởng đèn, bách tính chen vai thích cánh, tranh nhau ngắm mặt rồng. Đàm đạo nhân cùng con mèo khoang bốn tai ẩn mình trong đám đông, nhìn kĩ dung mạo của Thái hậu. Song, lúc ấy cấm quân đại nội phong cành nghiêm ngặt, dẫu ông ta to gan tày trời cũng không dám xông vào cướp ngọc, đành rập đầu trước con mèo thần bốn tai, cầu mong nó lẻn vào cung trộm Dạ minh châu để được mở mày mở mặt với đám thảo khấu Động Đình.
              Con mèo khoang bốn tai ấy có trái tim có cửu khiếu, cự kì thông linh, có thể đọc hiểu tâm ý của chủ nhân. Nó chớp đôi mắt mèo rồi lao ra khỏi khách điếm, đi liền mấy ngày trong hoàng cung để thăm dò đường lối, tìm hiểu rõ quy luạt sinh hoạt của Thái hậu. Cũng không rõ làm sao con mèo nghĩ được một quỷ kế, nhân đêm khuya trăng lu gió lớn, nó trộm đâu được quả pháo hoa, ngậm vào moomg. Sau đó, con mèo nhân trời tối lẻn vào hoàng cung, tìm đến cung điện của Thái hậu. Nhìn trộm thấy lão Thái hậu đang ngủ, bọn cung nữ bưng đèn bên ngoài cũng đang gà gật, nó liền rùn mình lọt vào, tiến lại gần ngọn đèn trong cung, châm ngì pháo, rồi trốn vào góc tối, nằm im không nhúc nhích.
              Giữa đêm khuya, trong hoàng cung đột nhiên vàng động tiếng pháo nổ đùng đùng khiến Thái hậu nương nương và đám cung nữ khiếp sợ tới mức hồn bya phách lạc, lăn lê bò toài tìm chỗ ẩn nấp. Tất cả đều không rõ chuyện gì, tưởng có người hành thích hoặc trời giáng tai ương, sấm sét đánh vào cung, liền hoảng hốt hô hoán thị vệ tới cứu giá.
              trong lúc vội vã, lão Thái hậu cũng không quên viên Dạ minh châu, liền sai đám cung nữ dìu đến chiếc giường, lấy ra cái hộp báu trong ngăn bí mật mở ra xem. trong phút chốc cả phòng liền tràn ngập trong ánh sáng rực rỡ. Lão Thái hậu thấy viên Dạ minh châu chưa nhân lúc trời giáng sấm sét mà bay về trời, lúc ấy mới thở phào nhẹ nhõm, trong lòng cũng yên tâm phần nào.
              Chẳng ngờ, con mèo khoang bốn tia nấp sau cột đã nhìn rõ, liền như tên cung lao vọt ra khỏi bóng tối, mở miệng đớp ngay viên Dạ minh châu trên tay Thái hậu rồi lật mình bỏ chạy, đúng là:" Đến, đi như gió giật; Ẩn, hiện tựa như tia chớp". Loáng một cái con mèo đã chạy mất tăm mất tích trong điện chỉ còn trơ ra Thái hậu và đám cung nữ trợn tròn mắt há hốc mồm.
              Con mèo khoang cướp đường trốn được, nhưng không thuộc đường trong hoàng cung lắm, đành cắm đầu cắm cổ trèo tường, vượt điện chạy thẳng theo một hướng. Thị vệ trong cung tuy đông nhưng đang vội hộ giá, truy lùng thích khách, ai biết đâu mà bắt một con mèo hoang?
              Đến lúc này chợt xảy ra một việc. Con mèo khoang bốn tai chạy trốn lung tung, rốt cuộc chạy nhắm đến bên ngoài tẩm cung của Hoàng đế. Thời bấy giờ, các thứ dị thuật rất thịnh hành, trong đám ngự tiền thị vệ hộ giá, có một cao thủ địa nội tinh thông kiếm thuật. Người đó thoáng thấy ở đầu tường cách chỗ mình không xa có một bóng đne vút qua nhanh như gió, hơn nữa lại thấy thoáng một vật lóe sáng, dường như là một con mèo khoang to ngậm viên Dạ kinh châu, ya thấy sự tình kì quái, liền phóng kiếm truy sát.
              Cũng may là mèo thần bốn tai nhanh nhạy cảnh giác, thấy một luồng gió lạnh ập đến, biết chuyện chẳng lành, bèn né tránh rất nhanh, nhưng cũng bị lưỡi kiếm hớt mất một tai và nửa mảng da đầu. Vết thương không nhẹ, máu chảy như suối, nhờ vào thân thể nhanh nhẹn mới có thể chạy trối chết thoát ra.
              Đàm đạo nhân không biết tiếng mèo, không nghe được con mèo khoang 4 tai thuật lại sự tình, về sau nghe ngóng thăm dò chuyện hoàng cung mất trộm mới đoán ra đầu đuôi, không khỏi lấy làm ân hận. Ông ta với mèo khoang bốn tia tình như huynh đệ, nhiều năm nay, người và vật như hình với bóng. Chỉ vì hư danh làm lụy, nhất thời tức khí quyết đoạt báu vật trong hòang cung mà suýt nữa đã hại chết tính mạng của mèo khoang, giờ nghĩ lại, chút hư danh như phù du ấy thiết để làm gì?
              Thế là Đàm đạo nhân không quay về gặp bọn đạo tặc hồ Động Đình nữa, tiện tay đem viên dại minh châu do mèo khoang bốn tai trộm về quăng xuống sông. Để lẩn tránh quan phủ truy nã, ông ta không hành nghề ăn trộm nữa, chỉ đi bán miêu nhi dược trị nan y tạp chứng sống qua ngày. Chẳng bao lêu sau, ông mai danh ẩn tích, lưu lạc giang hồ, vân du tứ hải, khong rõ kết cục ra sao.
              Bách tính Linh Châu cảm công đức lấy của người giàu chia cho người nghèo của Đàm đạo nhân, liền dựng một ngôi từ đường để cúng tế, nhưng sợ quan phủ biết được, không dàm nói thẳng là thờ thần trộm Đàm đạo nhân nên nói tránh là thờ Miêu tiên gia, lâu dần trở thành phong tục cúng bái Miêu Tiên. Đền thờ rất linh nghiệm khiến các giai thoại đơm ra càng lúc càng nhiều, truyền đi truyền lại một hồi thành ra không thể phân biệt thật giả được nữa.
              Mã đại nhân rất hâm mộ sự tích của Đàm đạo nhân, khâm phục thuật lạ có thể sai mèo làm trộm ấy lắm. Thời Ngũ đại có chuyện "dây đỏ trộm hộp" tới nay vẫm được coi là kĩ thuật trộm cắp vô song, nhưng nghĩ lại thì chẳng sánh được với sự thần thông của Đàm đạo nhân, chỉ tiếc rằng, quan phủ thời bấy giờ không ai biết được dị thuật kia để đến nỗi ông ta phải trà trộn trong đám thảo khấu giang hồ, tài ấy mà không dùng vào việc công, đem bản lĩnh đó để dò la tình hình giúp cho quan quân đoạt doanh cướp trại thì có lẽ đã lập nên công trạng xuất chúng rồi.
              Mã đại nhân là người có chí lớn, định bụng nhân loạn Việt khấu tỏ rõ bản lĩnh chân thực của mình hòng được triều đình trọng dụng. Tính lão rất kiên nhẫn, xưa nay thông hiểu việc quân cơ, mấy năm gần đây lậ doanh luyện lính ở Linh Châu giáo chiến với ác liệt với Việt khấu mấy trận, hai bên có thắng có thua nhưng lão dần hiểu ra cái lẽ một cây làm chẳng nên non, vì vậy đã ra sức thu dụng kì nhân dị sĩ khắp nơi, không phân biệt cao thấp sang hèn.
              Hơn nữa sau khi bắt được hòa thượng Chuột trong Hòe viên, Mã đại nhân mới phát hiện ra rằng, trong đại hạt Linh Châu còn có nhiều gian đảng của phái Tạo Súc hoạt động, xem ra bọn chúng đang có mưu đồ bất chính, muốn cướp ngân khố của triều đình. bọn này hành tung bí ẩn, thủ đoạn khác thường, không thể dùng cách thông thường để điều tra được. Chính vì vậy, Mã đại nhân định mua chuộc Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử, một là coi trọng bản lĩnh xem hình đoán vật của họ Trương, hai là thấy hia tên này đầy vẻ lưu manh, không giopongs người nàh quan đi làm việc công, mồm mép lại nhanh nhảu, bụng dạ nhạy bén, phái bọn hắn đi dò là tin tức hoặc bí mật theo dõi thì dễ qua mắt được thiên hạ. Do đó lão mới phá lệ cất nhắc hai tên làm chức đầu mục trong nha môn, đồng thời phái một tên công sai nhanh tay nhanh mắt cho hai tên tùy ý sai bảo, chuyên đi thu thập manh mối đám đồng đảng cảu hòa thường CHuột.
              Trương Tiểu Biện chỉ cần được tha tính mạng thì đã luôn mồm cầu giời khấn Phật rồi. Hắn không thể ngờ mình đã liên lụy vào cái án tày trời này, chẳng những không bị mảy may trách phạt mà còn được cất nhắc làm một chức bổ khoái chuyên bắt bớ trộm cắp. Những chuyện ngày trước thôi cho qua, nhưng xét thời bây giờ, đang lúc thiên hạ đại loạn, giặc cướp hoành hành, nói gì đến vương pháp của nàh quan, đến tổng đốc trọng thần còn bị kẻ cướp chặt đầu, huống chi cái bản lĩnh nhỏ bé của mình? Muốn đứng giữa hia dòng hắc bạch thì quả thực rất là khó, chỉ hơi sơ sảy là đi đời cái mạng nhỏ ngay.
              Mặc dù vậy, thấy Mã đại nhân là người có thủ đoạn tàn độc, Trương Tiểu Biện nào dàm không tuân theo. Hắn ngầm ngầm tính toán, chi bằng cứ ngộ biến tùng quyền, tạm thời nhận lời, sau này có cơ hội sẽ chuồn khỏi thành. Thời này đúng là :" Chiến chinh thiên hạ rối bời; Khác nào hào kiệt đang chơi cuộc cờ". Trong cục thế ấy, việc thắng thua thành bại cướp di không biết boa nhiêu sinh linh vô tội, Trương Tam gia hắn là hạng cùng đinh, chỉ mong tới sự giàu sang chứ chưa từng nghĩ tới việc tham dự sự nghiệp anh hùng gì cả, càng không muốn trở thành quân cờ hay con chó trogn tay quan phủ.
              Mã đại nhân nhìn thấu tâm tư của hắn, biết hia tên tiểu tửu này đều là đám thảo mãng, xuất thân nơi đầu đường xó chợ, phải dùng lời trung nghĩa thuyết phục hoặc hứa hẹn mối hời mới lung lạc được chúng. Lão liền nói:" Trước đây triều đình kén chọn hiền tài vẫn thường coi trọng kẻ xuất thân khoa cử nhất, ngoài ra nhưng người có ngón nghề khác như các ngươi đều không được trọng dụng. Cách làm ngặt nghèo như vậy đã làm mai một không biết bao nhiêu kẻ sĩ có ý lạ mưu hay. tới nay khi Việt khấu làm loạn, chính là lúc triều đình cần người. Các người đều có chút bản lĩnh, hà tất phải cam lòng chìm đắm trong đám bình dân dung tục, rốt cuộc đều nát cùng cỏ cây mà thôi. Thế gian dẫu có cung bắn điêu, kiếm giết rồng nhưng cũng cần phải có người sử dụng mới phát huy tác dụng được. Số mệnh các ngươi coi như có quý nhân phù trợ rồi, bản quan là người biết ngọc trong đá, thấy các ngươi quả nhiên có chút đảm lược, có thể châm chước đề bạt để dùng, vì vậy mới có ý cân nhắc cho các ngươi phen này. Chỉ cần các ngươi tiêu diệt hết đám yêu đồ Tạo Súc thì ta sẽ không tiếc càng bạc khen thưởng"
              Tôn ĐẠi MA Tử vốn thẳng tính, tính những việc mạnh mẽ, tự cho mình là hảo hán. Gã nghe Mã đại nhân nói thế, liền dấy lên lòng hiệp nghĩa, vội quỳ xuống vái:" Lũ nghiệt đồ Tạo Súc ấy lẽ trời chẳng dung, nếu đã là việc nghĩa cử thay trời hành đạo, vì dân trừ bạo thì Tôn Đại Ma Tử tôi xin nghe quan gia sai bảo, nguyện liều chết đánh giặc"
              Trương Tiểu Biện lại nghĩ:" Chưa biết rõ lão đại nhân là người biết ngọc trong đá hay chỉ alf mắt trâu biết cỏ, chẳng biết thế nào lại ngắm vào bản lĩnh xem tướng của trương tam gia ta? Nhưng bây giờ tốt nhất là chớ rượu mời không uống, uống rượu phạt, cứ tìm cách nhận thưởng của quan phủ đã, tới lúc thấy tình hình không ổn, tam gia ta tìm cách thoát thân cũng không muộn."Quyết ý như thế, hắn bèn cùng Tôn Đại Ma Tử nhân chức làm bổ khoái.
              ĐÚng là:" Những toan giết giặc lập công; Mượn tay bắt hổ trói rồng mới nên" Muốn biết sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ
              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

              Comment


              • #37
                Hồi thứ 2:
                Một nghìn ba trăm đao

                Lại nói, Tuần phủ đại nhân cắt đặt Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử làm bổ khoái bắt cướp trong thành Linh Châu, rồi ngoài mặt lại tỏ vẻ thương xót Tiểu Phượng cô khổ, cho cô ả lưu lại trong phủ, tạm thời làm a hoàn hầu hạ Mã phu nhân, kì thực muốn giữ người làm con tin, đề phòng hia người bọn Trương Tiểu Biện tìm cách chuồn êm.
                Trương Tiểu Biện thông minh giảo hoạt, làm sao chẳng nhìn ra dụng ý đó? Trong lòng hắc thầm rửa Mã đại nhân trông thì cỏ vẻ từ bi, kì thực mưu mẹo sâu xa, toan dùng cướp trị cướp, ơợi dụng thuật xem tướng loài vật diệt trừ tà pháp Tạo Súc. Ả Tiểu Phượng ấy thì đáng giá mấy đồng cân chứ? Đợi đến khi Tam gia ta đánh được quả lớn phát tài, sẽ sớm chọn thời cơ cuỗm tiền cao chạy sa bay.
                Tôn Đại Ma Tử lại nghĩ khác, cho rằng Mã đại nhân biết kẻ hảo hán, có ý đề cử trọng dụng họ, liền khuyên Trương Tiểu Biện rằng:" Mỗ thường nhủ thế này, huynh đệ chúng ta là loại người nào chứ? từ lúc sinh ra, cũng chỉ ăn cơm hẩm cháo hiu qua ngày, dẫu cho có vàng bạc trong tay cũng không biết tiêu, phát tài rồi lại cứ thấy không thoải mái cho lắm. Huống chi đống bạc giấu trong thành Đũa ở Hòe viên nhiều quá, chúng ta bỗng dưng vớ được một món tiền to như thế, chỉ e lẽ trời không dung. Đấy, quả nhiên ngay sau đó xảy ra chuyện,kinh động đến cả quan phủ, rước vạ vào người. Có điều, dù rằng mộng pú quý đã tan tành nhưng may mà trong họa có phúc, được Mã đại nhân coi trọng, ban cho làm bổ khoái nha môn. Chúng ta nhất địh phải tận tâm tận lực, không được vọng tưởng làm chuyện trái lẽ nữa"
                Trương Tiểu Biện vốn chẳng thèm để ý đến mấy cái lí lẽ của Tôn ĐẠi MA Tử. Tục ngữ nói rất hay rằng:" Cửa nhà quan, mởn hướng Nam;giàu lý, nghèo tiền chớ vào quàng", lại có câu:"Chèo đò, mở quán, kéo xe; thồ hàng, nha dịch chuyên ghè dân đen". bọn công sai ở nha môm có "tam ban tứ khoái", là sư tổ trong việc sách nhiễu nhân dân. bổ khoái chính là một trong " Tam ban tứ khoái ấy, làm cái nghề này tuy cũng nhận được chút tiền hối lộ, nhưng đến khi chết làm gì còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ liệt tông nữa, vui vẻ gì ma xăng cái đi làm cơ chứ? Nhưng trước mắt đao binh khói lửa đang dấy lên tứ phía ngoài thành, muốn trốn cũng không trốn xa được, Trương tiểu Biện đành ưng thuận làm bổ khoái bắt cướp, tạm thời như thế mấy hôm rồi tính sau.
                Kể thì dài dòng chứ hớp mắt đã tới ngày mở pháp trường hành hình Phan hòa thượng. Mới tảng sáng, theo lệ cũ đối với tử tù sắp ra thụ hình, bọn ngục tốt trong lao vào chăm sóc cho Phan hòa thượng, lau rửa trên dưới cho sạch sẽ, tô ít phấn sáp lên hia bên ám, bày ra bốn bát thức ăn lớn những gà, vịt, cá, lợn, lại chuẩn bị một vò rượu, khuyên lão ăn uống cho no lê để còn lên đường.
                Khi bị hạ ngục, hòa thượng Chuột dã bị cắt đứt gân. tuy đã thành phế nhân, lão vẫn toan tính phá lao vượt ngục đòa thoát chứ không ngờ rằng phải ra pháp trường nhanh đến thế. Lão cũng biết rằng hôm nay bất luận thế nào cũng không thoát khỏi cựu hình đau khổ, đành mặc hết mọi thứ khác, ăn một bữa cơm tử tù cuối cùng cho đã bụng.
                Sau đó, liền có đám quan sai đến đón tù, đưa Phan hòa thượng ra khỏi nơi biệt giam, tống lên một cái xe cũi, rồi một đoàn hơn hia tẳm lính dõng áp giải diễu phố thị chúng.ĐÁm binh lính này mặt mày nghiêm nghị, sát khí đằng đằng, ai nấy thảy đều giương cung tuốt kiếm. trong tiếng thanh la phèng phèng mở đướng ầm ĩ, chúng chầm chậm đẩy xái xe tù đến giữa ngã tư giao nhau giữa hai trục dường chính trong thành.
                Rất nhiều bách tính trong thành Linh Châu đã nghe phong thanh chuyện quan phủ bắt được tên cường đạo trộm ngân khố, chẳng những vậy, tên giặc này còn bắt cóc trẻ con ăn thịt nữa. Lũ trẻ mất tích mấy năm nay, cso quá bán đều bị hắn hầm lên ăn thịt, thực là đáng băm vằm thành muôn mảnh.
                Toàn bộ người trong thành đều nghiến răng căm hờn, chỉ hận không thể ăn thịt, lột da tên ác tặc này. Thấy bảo, chính ngọ hôm nay quan phủ sẽ lôi hắn ra xử cực hình, ai nấy đều rủ nhau tới xem. Nguwoif tới xme thực sự quá đông, kín đặc như tường thành, nhốn nháo cả một biển người. Đến trên máy các căn lầu xung quanh cũng chật cứng những người là người, ai cũng muốn xem quan phủ sẽ xử trị tên ác tặc chuyên ăn thịt người ra sao.
                Đối diện với pháp trường, có một lầu cao, hai tầng, góc nhìn khá rộng được bố trí là đài giám trảm. Quan đề đốc tiết chế quân vụ, giữ binh trấn thủ công khố Linh Châu Đồ Hải và Tổng lĩnh quân đoàn Luyện Mã đại nhân cùng ngồi giám trảm. Để đề phòng bọn xấu tới cướp pháp trường hoặc lũ Việt khấu nhân lúc rối loạn ngầm lẻn vào, quan phủ đã phái quân phong tỏa các cổng thành, lại điều thêm mấy doanh lính dõng tinh nhuệ, cầm hỏa khí ngầm phục ở xung quanh pháp trường chờ lệnh. Đúng là:" Phía dưới giương cung chờ mãnh hổ; Men sông giăng lưới bắt giao long"
                Thời bấy giờ, khi hành hình phạm nhân, pháp trường để dặt ở đầu đường hoặc xó chợ, có ý để dân chúng tới xem cho xem cho biết phép nước uy nghiêm, không được khinh nhờn mà phạm tội. Nhưng thực tế thường khác hẳn mong muốn, việc hành hình nạn nhân lại trở thành một trò náo nhiệt, tai nghe mất thấy đúng là sôi động sôi nổi hơn hẳn diễn kịch xem trò. Vào những giai đoạn trấn áp khỏi nghĩa của nông dân, quan phủ thường sử dụng các hình phạt tàn khốc hơn nhiều so với lúc bình thường, vì vậy mỗi khi pháp trường được dựng lên, dân tình đi xem nô nức như trảy hội đầu xuân. Có kẻ nhàn dỗi vô sự còn không quản vất vả đầu hôm mờ sáng, đến từ sớm để chếm chỗ gần xem cho rõ, nào có mấy ai thực sự để ý đến hình luật và vương pháp triều đình?
                Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử làm công sai, được phái đến bục hành hình ở pháp trường để giám sát việc áp giải hòa thường CHuột. Bọn lính dõng vây quanh cái bục thành ba vòng trong, ba vòng ngoài nhưng dân chúng bốn phía đông quá, mặc cho chúng tha hồ đánh chửi, người ta vẫn chen lấn lên phía trước để xem cho rõ. Lúc ấy, dân tình chen vai thích cánh, chật cứng tới mức một giọt nước cũng không lọt, những người bị đè lấn thì kêu cha kêu mẹ, quang cảnh lòng đường trở thành một dám hỗn loạn.
                Hai hôm trước, Trương Tiểu Biện đã tìm lại được con mèo đen bỏ trốn đang lẩn trong bầy mèo hoang ở Miêu tiên từ. hôm nay, hắn cứ tưởng nhân việc công mà được vòa xem một công cuộc náo nhiệt, không ngờ bị chèn ép ở cạnh xe tù cùng với Tôn Đại Ma Tử, đến nhúc nhích cũng không xong. Con mèo đen cũng bị chen lấn tới mức không còn chỗ dung thân, đành phải trèo lên ngồi trên mũ Trương Tiểu Biện xem trò.
                Thấy MÃ đại nhân và bọn quan viên đều nghiêm trang trên lầu, Trương Tiểu Biện tự nhiên cảm thấy rất bất bình. Nếu không nhờ Tam gia ta giở thủ đoạn ra thì quan phủ làm sao bắt được lão hòa thường này về chứ? Bây giờ công lao bị người ta cướp mất, dân chúng toàn thành có ai biết đến Tam gia ta đâu. Hắn lại nghĩ, đã là anh hùng thì không cần hỏi đến xuất xứ. CÁi chức bổ khoái không phẩm không cấp, nhỏ bé chẳng bằng vỏ đỗ hạt dưa, nhỏ như con kiến, có gì mà ghê gớm? Nếu Trương Tam gia ta có ngày thăng quan phát tài thì phải làm đến Thượng Thư, tổng đốc mới không uổng một phen gia nhập quan trường thế này.
                Đang nghĩ ngợi lung tung, Trương Tiểu Biện chợt thấy đám người bốn phía rầm rì huyên náo như chợ, hết đợt này đến đợt khác, không hiểu ra làm sao. Hăn voioij nhìn về phía có tiếng reo hò, thì ra là ĐAo phủ Lưu ngũ gia của thành Linh Châu đang đem theo bốn thủ hạ đến. từ ông tổ sáu đời của vị Lưu ngũ gia này trờ xuống đều làm đao phủ của nha môn, truyền đến đời ông ta thì tài nghệ rất phi phàm, có thể nói là một đao phủ có tiếng của bộ Hình. Vốn trước đây, ông ta làm cống sai trong kinh thành, hai năm trước đã xin cáo lão hồi hương nên được điều về nguyên quán ở Linh Châu.
                Tên đạo tặc này đã dùng yêu thuật dể trộm bạc trong ngân khố, lại còn sai chuột bắt con cháu nhà người ta làm thịt, đúng là một vụ đại án kinh thiên động địa. Chính vì vậy, trong cuộc hành hình hòa thượng Chuột hôm nay, quan phủ đã mời vị Lưu ngũ gia đã rửa tay gác kiếm này xuất thủ. Nghe nói, Lưu ngũ gia được chân truyền nên tài nghệ rất sức điêu luyện, cho dù là chặt đầu hay moi tim mổ bụng, ông ta đã động dao hành hình thì như nước chảy mây trôi.
                Chỉ có những can phạm gây tội ác tày trời hoặc những tử tù có thân phận đặc biệt thì bộ Hình mới mời đến Lưu ngũ gia lão nhân xuống tay hành pháp, thế nên ngay cả hồi lão ở trong Kinh thành cũng hiếm lắm mới được trông thấy lão. Hôm nay, rốt cuộc cũng được xem lão thi triển ngón nghề trước mặt phụ lão ở quê hương nên đám khán giả cứ làm ầm cả lên. Trong con mắt người dân Linh Châu, Lưu Ngũ gia cứ như một tay kép hát đã nức tiếng khắp nơi vậy, từ lúc lão sải bước lên hình đài, mỗi cử động, mỗi bước chân của lão đều khiến cho đám đông dưới đài reo vang lên từng tràng vang dội.
                Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử đã từng nghe đến tiếng tăm hiển hách của bị đao phủ Bộ Hình Lưu Ngũ gia này, liền vội vã nhón gót, nghểnh cổ lên xem. Chỉ thấy Lưu Ngũ gia tuổi chừng hơn sáu mươi, thân hình to cao, mắt báo tròn xoe, râu hùm hàm én, tuy râu tóc đã bạc quá nửa nhưng tinh thần cẫn quắc thước, trán bóng láng như bôi mỡ, mặc một cái áo ngắn, dưới thắt một cái quần quây bằng lụa trắng tinh, ánh mắt toát lên sát khí, trông hết sức oai phong, đúng là một vị Tu là Ma quân giữa chốn nhân gian này.
                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                Comment


                • #38
                  Cái quần quây của Lưu Ngũ gia cũng không phải là vật tầm thường mà là vật ngự ban của Tiên hoàng. Bọn đao phủ bình thường từu trước tới nay đều để trần cánh tya hoặc một cái áo có miếng đáp trước ngực, buộc một cái tạp dề đen như bọn dồ tể. Nhưng Lưu Ngũ gia có tài nghệ điêu luyện, cho dù là chặt đầu lăng trì hay lột da moi tim, trân người và trên đao xưa nay không bao giờ vấy máu. Thanh đao là bảo đao tổ truyền, trên người lại mặc đồ do Hàng thượng ban, lối phục trang như vậy đã tự nói lên tài nghệ hơn người của lão, khiến cho chúng nhân đều thấy kinh sợ.
                  Lại nhìn đến bốn đồ đệ của Lưu ngũ gia, thật chẳng khác tứ đại Kim cương đầu thai giáng trần, cao thấp ngang nhau như cùng được gọt ra vậy, trông rất tề chỉnh. Cả bọn đều là những đại hán sức dài vai rộng, như hùm như hổ, bím tóc lớn, bóng mượt được vắt tròn qua đầu, cái áo có miếng đáp ngực viền đỏ nền xám được phanh ra một nửa, lộ ra phần ngực bụng xồm xoàm đầu lông đen.
                  Trên mặt cả bọn sư đồ năm người đều đằng đằng sát khí, ánh mắt lướt tới đâu, soi vào ai cũng khiến người ta phải toát mồ hôi lạnh. Thật đúng là :" Kẻ bé gan thì kinh muốn chết; Người bằng đá cũng toát mồ hôi". Đám người vây xung quanh xem đều cảm thấy may mắn" May mà kẻ ở trên pháp trường hôm nay không phải là mình"
                  Lưu Ngũ gia dẫn bốn đồ đệ lên bục gỗ, chắp tay hành lễ với quan giám trảm trên lầu, sau đó khom người xá các phụ lão hương thân. lão cũng muốn khoe khoang đôi chút, đem đồ đạc sắp ra trước mặt thiên hạ. Tuàn là những thứ như Quỷ đầu đao để chém ngang lưng, Oan trường kiếm để moi tim, ngoài ra còn có những thứ hình đao, pháp đao như Đới câu, Đới thích... đều là những loại khí giới mà bách tính tầm thường không biết đến tên gọi. Thứ nào thứ ấy đều sáng lấp loáng, la liệt không dưới một trăm món, từng ánh sáng lạnh chớp lên dưới ánh mặt trời.
                  Lúc đó, hình quan đã xác thực xong nhân thân cảu tội phạm rồi tuyên đọc tội trạng, chiểu theo luật xử Phan hòa thượng tội lăng trì. yêu mà phỉ đồ như tên này, nếu không dùng cực hình băm vằm thành muôn mảnh thì không làm dịu cơn phẫn nộ của nhân dân, vì vậy lần này mời đao phủ của bộ Hình là Lưu Ngũ gia tới xẻo đủ một nghìn ba trăm đao. Đúng giờ ngọ ba khắc, sau ba tiếng pháp làm hiệu thì bắt đầu động pháp đao hành hình.
                  Người dân xung qaunh lập tức ầm ĩ cả lên, một là căm phận tên Phan hào thượng cực độ, hai là nghe nói xử phạt xẻo một nghìn ba trăm đao, đây là đại hình trước nay chưa từng có ở địa phương này nên ai cũng muốn xem Lưu Ngũ gia thi triển món nghề hành hình ra sao. Chỉ nghe đám người phía dưới bàn luận rất sôi nổi, có người bảo:" Cuối cùng cũng có một cuộc này, chúng ta chờ xem ra sao. Hình phạt tùng xẻo bình thường bất quá cũng chỉ một trăm hai mươi đao, bay giờ yêu cầu xẻo đủ một nghìn ba trăm đao thì phạm nhân mới được chết, những kẻ tài nghệ bình thường không làm được đâu. Trên đời này trừ Lưu Ngũ gia, thử hỏi còn ai có bản lĩnh đó nữa?"
                  Lại có người hiểu biết hơn một hút, nghe thấy thế liền lắc đầu:" Cái đó không hẳn! Lăng trì là hình phạt tàn khốc nhất của bản triều, bình thường thì cũng khó có dịp được trông thấy, nhưng bây giờ đang khi dẹp loạn Việt khấu, hễ bắt được phản tặc là quan phủ đều dùng hình phạt này xử trí cả. Chính vì vậy mấy năm nay chúng ta đều thấy cảnh người sống bị xẻo da lóc thịt cũng nhiều rồi còn gì. Nhưng ông có phát hiện thấy không, những đứa càng khỏe mạnh bình thường thì càng cắt được nhiều đao, cứ như thế cứ khoang hai trăm đao mới chịu chừa ra bộ xuong máu thịt bầy nhầy. Còn những đứa to béo mập mạp, chẳng biết cắt vào đâu, xẻo một cái là ra một đống mỡ rồi, giống như thằng hòa thượng này ấy, to tai béo mặt, xẻo được hia trăm, ba trăm đao là giỏi lắm rồi, muốn lóc đủ một nghìn ba trăm đao không phải là dễ đâu. Chỉ e thanh danh một đời của Lưu Ngũ gia, tới lúc già lại bị phế bỏ ở pháp trường Linh Châu này mất thôi"
                  Trương Tiểu Biện bị chen lấn trước bục, nghe mấy người bàn tán không thôi, thấy bọn họ đã không hiểu biết gì àm còn ba hoa, hắn cất giọng mỉa mai:" Một ngìn ba trăm đao thì kể làm gì? Bản triều nagyf nay đến đại hình ba bốn nghìn đao còn có nữa là. Đao phủ bộ Hình ở Bắc Kinh ai nấy đầu có tuyệt kĩ tổ truyền cả, người ngoài làm sao biết được. tam gia ta hồi ở Bắc Kinh đã từng tận măt stroong thấy đám đao phủ bộ hình luyện tập trân các laoif gia súc như bò, ngựa, lạc đà, càng luyện về sau càng áp dụng lên các loài nhỏ hơn, nhưng số đao không được giảm. Luyện tới mức thi triển được trên gà, vịt, ngan, ngỗng, chuột, thỏ mới có thể xuất sư"
                  Mọi người làn đầu nghe thấy chuyện đó, không biết hắn nói thật hay đùa,c so mấy kẻ ngu ngơ còn ra sức tán thưởng, không ngờ vịc ông sai trẻ tuổi anfy lại từng trải đến thế, có người thì cho rằng chuyện của Trương Tiểu Biện toành thứ vớ vẩn. Bọn súc sinh lắm thịt nhiều da làm sao có thể so sánh với phậm nhân được? Hơn nữa, dẫu cho đám đao phủ bộ Hình có tài nghệ bằng trời cũng làm sao cắt được mấy nghìn đao trên thân con chuột? Lăng trì hoàn toàn không phải băm thịt, mà đao phủ phải cắt đủ một nghìn ba trăm đao, mỗi miếng cắt da phải có cả da cả thịt, hơn nữa tới khi cắt đao cuối cùng, phạm nhân cũng chưa được đứt hơi mà chết, bằng không đao phủ sẽ phải chịu tội thay cho phạm nhân, thiếu bao nhiêu đao thì sẽ phải gánh bù vào bấy nhiêu.
                  Mọi người bàn tán sôi nổi mãi không thôi. Bỗng nghe một tiếng pháo hiệu đùng đoàng, biết là giờ ngọ ba khắc sắp tới. Đúng là :" Diêm vương hạ chỉ câu hồn; Võ Thường hai quỷ lên luôn bắt về. Muốn biết Lưu đao phủ tùng xẻo hòa thượng Chuột một nghìn ba trăm đao như thế nào xem hồi sau sẽ rõ
                  .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                  Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                  Comment


                  • #39
                    Hồi thứ ba:
                    Lăng trì

                    Xưa nay oan đền nợ trả, giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, đều là cái lẽ nhân quả, có nói cả năm cũng không hết, ngay cả chuyện phải chịu đau khổ khi thụ án chịu hình cũng từ đó mà ra, muốn thoát cũng không được. Lại nói, khi một phát pháo hiệu nổ lên, thấy sắp đến giờ Ngọ ba khắc, Lưu ngũ gia liền bảo bốn đồ đệ trợ thủ bắt Phan hòa thượng trong xe tù ra, trói trên bục gỗ hành hình ở pháp trường. Giữa hình đài có một cái giá gỗ hình chữ Kim, các vòng sắt cột trụ còn loang lổ những dấu máu thâm đen, vết tích của các cuộc hành hình trước đây.
                    ĐÁm đao phủ chẳng nói chẳng rằng, trói chặt Phan hòa thương lại rồi lột sạch quần áo tù trên người gã, sau đó cắp hình trụ và pháp đao đứng một phía chờ nghe lệnh. Lúc ấy, tiếng pháo thứ hai vang lên, người xem xung quanh pháp trường đều biết rằng chỉ vài trong phút chốc nữa thôi, tên ác tặc sẽ bị xẻ phanh thành muôn mảnh, ai nấy chăm chú theo dõi, tiếng ràm rì lập tức lắng xuống.
                    Lưu Ngũ gia thỉnh quan giám trảm khoanh khuyên chiếu theo lệ cũ, vái chào rồi nói:" Hôm nay Lưu Ngũ đưa Phan gia lên đường, chúng ta trước không thù sau không oán, đao phủ theo luật chấp pháp hành hình cũng là do lệnh trên sai khiến, thoái thác không được. Nếu chúng tôi có chỗ nào không chu toàn, cũng mong Phan gia lượng thứ cho"
                    Phan hòa thượng đã rơi vào tình cảnh này, mọi ý niệm đều đã tiêu tan, nhưng trước ánh mắt soi mói của mọi người, lão vẫn muốn tỏ ra mình hảo hán cứng cỏi. Khóe miệng lão nhếch nhếch từng chặp, lộ ra một nụ cười quái đản, nói:" Nghe đại danh Lưu Ngũ gia của bộ Hình từ lâu, không ngờ lại chết dưới đao của lão, âu cũng là số kiếp của bần tăng. Trước khi thụ hình, bần tăng không có cần xin gì, chỉ mong lão xuống tay nhanh ngọn một chút, để ra chết cho được sung sướng. Sau khi xuống tới suối vàng, ta sẽ khong quên tụng kinh cầu phúc cho lão..."
                    Lưu Ngũ gia không buồn chớp mắt, lạnh lùng nói:" Xưa nay Thánh hiền lập kỉ cương, nay có triều đình đặt phép nước. Phan gia đã gây tội lớn tày trời, gánh nợ máu hớn trăm sinh mạng, rốt cuộc bị oan hồn ám ảnh, quan phủ tróc nã nên phải chịu cực hình lăng trì. Hôm nay, một nghìn ba trăm đao này không được thiếu một đao. Ta khuyên thế này, ở dương gian phải chịu khổ băm vằm một chút, tới Âm phủ mới có thể sớm siêu thoát. Bây giờ nhân tiếng sáo thứ ba chưa nổ, còn điều gì dặn dò thì cứ nói ra.
                    Phan hòa thượng nghĩ đến nỗi khổ bị tùng xẻo một nghìn ba trăm đao, bất giác kinh hồn vỡ mật, bao nhiêu oán độc trong lòng trỗi dậy, im lặng một lúc mới nói:" Bản tăng tính vốn từ bi, thích nô đàu với trẻ, từ khi tu luyện Kim Cương thiền tới nay, đã ăn hơn một trăm hai mươi thai nhi, đồng tử, chính là một nghĩa cử tốt đẹp để siêu thoát cho chúng sang thế giới Tây Thiền cực lạc. ta sắp sửa luyện thành chính đạo, đạt tới pháp thân xuất thần nhập hóa, nào ngờ bị bọn tiểu tặc phá hỏng pháp tướng, khiến ta rơi vòa tay quan phủ chịu một trận tra tấn rút gân khóa xương. hôm nay chúng lại giở thủ đoạn tàn độc để bản tăng phải chịu nỗi khổ bị xẻo thịt muôn mảnh..."
                    Phan hòa thượng càng lúc càng cay độc, há miệng nhe răng nói:" Ta cề âm phủ cũng sẽ hóa thàn ma quỷ tìm từng tên trong cá ngươi để đòi mạng trả thù. Lưu Ngũ gia ngươi chẳng qua cũng là loại chó diều cầm đao cho bọn quan lại. Con bà nhà ngươi, ngươi và thằng cẩu quan Mã THiên Tích đa hại bao nhiêu tính mạng hảo hán rồi? Các ngươi sẽ không được chết yên thân đâu, ông nội các ngươi sớm muộn gì cũng từ cõi âm về đòi mạng các ngươi"
                    Lưu Ngũ gia đã hành hình vô số tội nhân. Lũ phạm nhân thụ hình hoặc van xin cầu cứu quan phủ hoặc là mắng chửi không dứt lời, lại có kẻ im lìm không nói. thậm chí còn có tên đến mức đái ỉa ngay trên pháp trường. Lão vốn đã khá quen với những chuyện như thế này, chẳng bao giờ buồn để tâm, liền mặc cho đối phương chửi mắng thỏa mồm, không nói gì thêm với Phan hòa thượng nữa.
                    Người dân xem xung quanh đâ phần đều lấy làm tức giận, hôm nay thật không còn vương pháp nữa rồi. Lão hòa thượng Chuột này tội ác tày trời, thối tha đến thế àm khi bị xử quyết còn dám cuồng ngôn, tội thực đáng muôn đao giết chết. Lại có nhiều gia đình bị mất con cái thì hận hắn đến tận xương tủy, nhao nhao lượn đất đá ném vào pháp trường. Quan phủ phải chỉ huy lính dõng đến giữ nguyên cục diện, đề phòng loạn dân đến làm cản trở cuộc hành hình.
                    Lúc ấy, có rất nhiều khổ chủ nhao nhao chen đến phía trước, lên đút lót cho toán công sai đứng cạnh pháp trường, hòng mua được những mảnh thịt của Phan hòa thượng sau khi hành hình. Không phải ai cũng là người nhà của những đứa trẻ bị Phan hòa thượng bắt cóc, mà còn có nhiều người nhà bệnh nhân. Xưa nay, dân gian thường bảo, một khi pháp trường có án tử hình, máu thịt của phạm nhân đều có thể làm thuốc chữa bách bệnh. Chính vì vậy, bọn công sai đều nhân cơ hội này ăn của đút, chỉ có điều không dám mua bán ngang nhiên mà thôi.
                    Đang lúc ồn áo hỗn loạn, bỗng nghe phát pháo hiệu thứ ba nổi lên, Lữu Ngũ gia thấy đã đến giờ ngọ ba khắc liền lập tức động thủ hành hình. Đầu tiên bọn trở thủ lấy ra một tấm lưới đen ngòm, xổ tung ra rồi quấn vào tay trái của Phan hòa thượng. Tấm lưới đen này không phải là lưới đánh cá thông thường mà đó là vật các đao phủ triều trước truyền lại, được bện từ tóc người và tơ tằm, chuyên dùng để đong đếm lượng thịt phải xẻo khi tử tù bị xử lăng trì với số đao quá nhiều. Chỉ thấy đường viền đen trên lưới ấn vào da thịt liền để lại vết hằn bằng một đồng tiền lớn
                    Ngón nghề vốn đã thuần thục, Lưu Ngũ gia hô lên một tiếng:" Xem pháp đao đây" liền thò tay vào bao da, lôi ra hia ngọn khoái đao tựa như đao Bạt phong. hai ngọn pháp đao này, một dài một ngắn, đều có tên gọi. Ngọn dài hơn một thước gọi là "Xích thanh:; ngọn ngắn hơn một tấc, gọi là "Thốn thanh", vốn được lưu truyền từ đời Bắc tống đến nay.Nghe nói, hồi đó chúng đã được dùng để xẻo thịt thủ lĩnh Phương Lạp của bọn giặc cướp vùng Giang Nam, lưỡi dao đúng là sắc lẹm, lạnh lẽo kinh người, thổi sợi lông qua cũng đứt. Số hảo hán bị lăng trì bởi ngọn đao này quả thực không đếm xuể. Dẫu là kẻ trung thần nghĩa sĩ ngậm oan nốt hờn hay loạn thần tặc tử đầy tội ác, hễ bị trói ra pháp trường, nhìn thấy hai ngọn khoái đao này đều không khỏi ớn lạnh, hồn bay phách lạc.
                    Lưu Ngũ gia hai tay cầm hai ngọn khoái đao, mồm niệm chú Ác sát. Lời chú vừa cất, lưỡi đao hạ xuống, chiếu theo vết hắn lúc nãy mà cắt từng đao một. Lão Phan hòa thượng này ăn rất nhiều trẻ con, toàn thân béo phì, da dẻ trơn mịn, không chịu nổi bị cắt xé lên đau đớn, the thé gào lên thảm thiết. Lưu Ngũ gia không thèm để ý, cứ lưỡi ngắn cắt thì lưỡi dài móc, lội ra từng miếng thịt như lá liễu, hia ngọn khoái đao vung lên hết sức thuần thục. Chỉ thấy lão xuất thủ như gió cuốn, bóng đao cứ nháy động liên hồi, trong phút chốc đã lóc hết một lượt thân hình to béo của Phan hòa thượng.
                    Bốn tên đồ đệ của lão đứng cạnh, lần lượt đếm từng đao. Trên đỉnh đài của pháp trường, máu thịt dầm dề, dân chúng trong thành Linh Châu, phần đông mới lần đầu thấy dao phủ bộ Hình dùng đao, không ai tưởng tượng được cách dùng đao nào nhanh như thế và phương pháp xẻo thịt nào gọn ghẽ như thế, qua thực khiến người ta không thể ngờ được, cả đám đều trợn mắt há mồm ngây ra xme như tượng gỗ. Bầu không gian giữa lòng đường lớn chỉ nghe tiếng đao phủ xéo thịt và tiếng ắc tặc gào thảm thiết, còn đâu cả ngã tư đều im phăng phắc. Một số người non gan, khiếp sợ tới mức vãi dái ra quần.
                    Làm đao phủ đương nhiên phải kiếm cơm bằng việc giết người. Lưu Ngũ gia quả nhiên tài nghệ cao cường. Từ năm 17 tuổi xuất sư thành tài, lão đã bắt đầu cầm đao hành hình ở pháp trường. Trong 40 năm hành nghề, số tử tù được lão tống tiễn không phải một vạn thì cũng tám nghìn, đúng là giết người như ngóe, kinh nghiệm hành hình hết sức phong phú.
                    .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                    Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                    Comment


                    • #40
                      Lần xẻo thịt hòa thượng Chuột này không như bình thường, bắt buộc phải cát cho trong một nghìn ba trăm đao, vì vậy Lưu Ngũ gia biết rằng, xuống đao phải vừa nhanh vừa chuẩn, lát cắt phải ngọn ngàng sạch sẽ, nếu không phạm nhân sẽ chết trước khi cắt đủ, hơn nữa lại còn không được cắt vào mạch máu của phạm nhân. Tên này rất to béo, mạch máu và các đường kinh lạc hết sức khó tìm, khác hẳn người thường, vì vậy lão phải tập trung hết tinh thần, vận hết sức lực toàn thân mà động thủ.
                      Phan hòa thượng cũng hết sức hung tợn, thịt trên người bị lóc đi từng miếng từng miếng khiến hắn vừa gào thét thảm thiết, vừa chủi mắng không ngớt, thốt ra toàn những lời nguyền rủa cực kì độc địa. Nhưng lời nói của hắn càng lúc càng yếu, tới khi cắt được tới hơn 1200 thì Phan hòa thượng đã không còn ra hình người nữa, lưỡi, mũi, tai đều bị cắt bỏ, toàn thân chỉ còn chừa lại hai cầu mắt là còn đang chuyển động, cứ đảo lộn liên tục nhìn chằm chằm vào ngọn đao trong tay của Lưu Ngũ gia.
                      Thật đúng là, ra tay như núi lở, hạ đao quỷ cũng kinh. Sau tẳm đao đầu được gọi là “lóc vẩy cá”, xẻo đi một lớp bên ngoài toàn thân trên dưới, 400 đao tiếp được gọi là “khoét thịt trong”, 300 đao cuối cũng có tên riêng, gọi là “Gỡ hồn phách”. Lần lượt đến đến đao thứ 1299, Phan hòa thượng đã bị lóc tới trơ ra bộ xương, chú Ác sát của Lưu Ngũ gia cũng đã niệm hết, lão đột nhiên dùng tay, thu hai ngọn đao không nhuốn chút máu lại, đổi lấy một con doa tai trâu nhọn có đính vòng sắt, rồi mời quan giám hình đến nghiệm hình.
                      Lúc đó da mí mắt của Phan hòa thượng cũng đã bị xẻo, tròng mắt không động đậy, ánh mắt đã xám như tro, không biết đã chết hay chưa. Vị quan giám hình bưng một cái gáo, vốc ra một nắm lớn muối hột trắng tinh rồi vẩy vào Phan hòa thượng. Phan hòa thượng bị xót, tròng mắt đột nhiên đảo dữ, chứng tỏ alox vẫn chưa chết hẳn.
                      Lưu Ngũ gia lập tức vung tay hạ đao. Con đao tia trâu phóng xuống, vừa chẵn số 1300 đao. Người xem bốn phía pháp trường đều ồ lên reo hò, khen ngợi ngón nghề của Lưu Ngũ gia, đến Mã đại nhân và Đề đốc Đồ Hải giám trảm trên lầu cũng ơhair ngầm giơ một ngón tay cái, tấm tắc khen ngợi.
                      Trên người Lưu Ngũ gia quả nhiên không vấy chút máu, hơi thở vẫn nhịp nhàng, vẻ mặt vẫn tự nhiên. Trong tiếng hô vang như sấm động, lão chắp tay vái một lượt rồi đi xuống võ đài. Mọi người đều vòng tay chúc mừng, tựa như muôn sao chầu nguyệt. Các nhà phú hộ giàu có liên tục mang rượu thịt tới khao, mong mượn lấy sát khí trên người vị cao thủ đem về nhà đuổi tà trấn quỷ.
                      Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi MA Tử đúng bên cạnh xem mà chạnh lòng, cảm thấy Lưu Ngũ gia được uy phong như thế hoàn toàn dựa vào tai nghệ và bản lĩnh cao cường, huynh đệ bọn hắn biết bao giwof mới có dịp được diễu võ dương oai trước mặt chúng nhân như thế?Lúc đó, bốn đồ đệ của Lưu Ngũ gia, mỗi người một chân một tay xẻ thịt, lọc xương trên bộ tàn cốt của Phan hòa thượng. Lục phủ ngũ tạng bị lôi hết ra, vắt lên trên đầu mấy cọc gỗ chôn trên hình đài, còn lại đầu lâu, xương xẩu thì giã vụn thành mảnh nhỏ.
                      Có mấy người lần đầu đi xem hành hình, không rõ duyên cớ, liền hỏi Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử:" Xin thỉnh giáo hai vị quan sai, sao đã tùng xẻo ác tặc xong còn phải giã nát xương cốt? Thế nghĩa là sao?"
                      Trương Tiểu Biện liền thừacơ ba hoa rằng:" Lăng trì là cực hình tàn khốc nhất, nếu chẳng phải để trừng phạt kẻ đại gian đại ác thì không bao giờ khinh suất đem ra dùng. Phạm nhân chẳng những bị cắt xẻo nghìn đao mà đến cả xương cốt cũng không được đem đi niệm, phải giã nát rồi đem thiêu, vung vãi tro xương đi. Thực không dám giấu, tên ác tặc này chính là tay Trương tam gia ta đã xả thân bắt sống được. chư vị không biết hắn lợi hại đến thế nào đâu! Hòa thượng này có yêu thuật, nếu không đem băm vằm thi thể rồi hủy đi thì biết đâu hắn còn có thể giở ra yêu pháp gì nữa, hoặc giả sẽ hoàn hồn để hại người cũng nên..."
                      Đúng lúc đang nói, đột nhiên mặt đất nổi lên một trận gió âm, bốn phía cát bay mù mịt, vừa mới rồi mặt trời còn đang chiếu sáng mà chớp mắt đã biến thành một bầu không gian kìn kịt mây đen. Bách tính thành Linh Châu như trông thấy đại họa, ai nấy đều sợ thất sắc, kêu cha kêu mẹ tranh nhau chạy trốn, đúng là:" Trời mờ đất mịt không tia sáng; Quỷ khóc thần kêu kín lối mây"
                      Rốt cuộc trong trận gió âm có ác quỷ nào xuất hiện, xem hồi sau sẽ rõ.
                      .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                      Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                      Comment


                      • #41
                        Hồi thứ 4:
                        Chó ngao thần

                        Đang nói đến đoạn sau khi Phan hòa thượng bị áp giải ra pháp trường chịu đại hình lột da tróc thịt băm vằm thành muôn mảnh, đám đao phủ lột hết lục phủ ngũ tạng của gã ra, vắt lên từng cái cột, tưởng sắp châm lửa đốt, bỗng giữa từng không nổi lên một trận gió âm, trong khoảng khắc mặt trời khuất bong, cả thành Linh Châu cát chạy đá bay, đất trời mờ mịt.
                        Ai nấy nháo nhác cả lên, mọi người ở phía Nam con phố đều tranh nhau trú vào các cửa hàng cửa hiệu ở ven đường. Con đường xuyên qua giữa chợ lập tức hiện ra nhưng ba mặt còn lại của ngã tư thì người dân vẫn tụ tập như rừng, không ai bỏ chạy cả.
                        Trước đây Trương Tiểu Biện thỉnh thoảng mới vào thành Linh Châu, chưa từng chứng kiến cảnh hành quyết tù nhân bao giờ. Hắn cứ tưởng sau khi nguwofi ta giã nát xương cốt châm lửa đốt là xong việc, nào ngờ thấy người ở phía Nam phố hốt hoảng giạt ra, ai nấy nem nép im hơi, ngướng mắt nhìn như đang chờ điều gì đó. Trương Tiểu Biện đoán biết, cuộc lăng trì hôm nay còn chưa kết thúc, đằng sau còn có một phen náo nhiệt nữa. Hắn không kìm được sự tò mò liền lại gần một gã công sai già hỏi han đầu đuôi.
                        Lão công sai nọ biết Trương Tiểu Biện là người được đích than Tuần phủ đại nhân đề bạt, sang định bụng kết giao, liền hạ giọng nói khẽ:” Trương bổ khoái không biết đấy thôi, mỗi khi thành Linh Châu chúng ta dựng pháp trường hành quyết, lúc cuối cùng thì không giống các vùng khác là thiêu hóa xác chết của phạm nhân, mà chỉ giã nát xương cốt, còn nội tạng và máu thịt thì xưa nay vẫn để cho bọn chó đói ở ngoài thành vào ăn. Ngài xem, khắp thành mây mù che khuất, nhất định là con chó Ngao thần ở Vạn Thi phần, Loạn Tăng lĩnh đang vào thành rồi, chỉ có kẻ nào không thiết sống mới dám gây ồn ào thôi”
                        Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử nghe thấy thế thì ngẩn người ra, đồng thanh nói:” Thì ra là thế, chả trách đám đao phủ vắt tim gan phèo phổi lên trên mấy cái cột, hóa ra để đãi bọn chó ngoài thành!”
                        Lời tác giả: Xưa nay người chết đều được yên nghỉ dưới lòng đất, gỗ làm quan tài càng dày thì người chết càng được yên ổn, bằng không chuột bọ đục khoét, mưa nước thấm vòa thì sẽ khổ không để đâu cho hết. Đen dủi nhất là những người chết mới được chôn xong xuôi đã bị bọn chó ban đêm bạt nấm, húc vỡ quan tài rồi sâu xé ăn thịt.
                        Rất nhiều người nghèo không thể mua được quan tài, có được manh chiếu cói bó thây là tốt lắm rồi, những nhà kha khá một chút cũng chỉ có thể mua loại quan tài “chó húc” ba phân gỗ bách. Trong thời loạn, thiên tai địch họa liên mien, đại bộ phận dân chúng đều không có gì để ăn, bọn chó lang thang hang cùng ngõ hẻm lại càng nhiều. mỗi lần đánh trận xong, những con chó đói lại lao ra bãi chiến trường bới ăn thịt sĩ tốt ngà ngựa nghẽo tử thương, con nào con nấy béo núc và hung dữ dị thường. Chúng thường kết thành bầy, ẩn hiện trong những ngõ bãi hoang vu. Người dân nghèo chết vùi qua loa trong những cỗ quan tài mỏng đều bị bọn chó đói đào mộ ăn sạch, tình cảnh thê thảm không sao kể siết.
                        Vùng xung quanh Linh Châu nổ ra chiến sự liên mien, mỗi phen kịch liệt, xác người chết đầu một nơi mình một nẻo, ngổn ngang khắp lối. Thánh hiền thời xưa từng nói:” Thu niệm tử thi vô chủ, vùi vào đất, là hành vi của người có lòng nhân”. Nhưng nhân tình thế thái bây giờ đâu còn được như xưa, ai mà chịu đi nhặt xác chôn thây? Huống hồ, người chết quá nhiều càng không thể đem chôn kịp.
                        Chỉ khi nào quan phủ ra tay ban ít tiền khao thưởng, người dân quanh vùng mới chịu đi thu nhặt xác chết đem vứt vào Vạn Thi phần. Cách sổng Nam thành Linh Châu vài dặm có một vùng núi hoang vu mênh mông. Nghe nói thời Xuân Thu- Chiến Quốc, nơi đây là một sơn cốc đúc kiếm, nhưng thời ấy đã quá xa xôi, tên vùng đất cổ không sao tra ra được nữa, cũng chẳng thấy lưu lại cổ vật hay di tích gì. Trong núi có một khe sâu, trước thời chiến loạn, đây là nơi người ta quăng thi thể bọn tù phạm bị chết trong ngục, lâu dần liền được gọi là Vạn Thi phần.
                        Mấy năm gần đây, số lượng người chết nhiều tới mức không còn chỗ chôn, quan phủ bèn chỉ địn Vạn Thi phần thành nơi chuyên chôn các thi thể vô thauwf nhận. Bất luận là chết vì thiên tai ôn dịch hay chết dưới đầu thương mũi kiếm, hễ là xác vô thừa nhận thì bất kể lai lịch ra sao cũng quăng vào hang hốc ở Vạn Thi phần. Cho tới giờ, không ai đếm xuể số tử thi ở đó, chie biết rằng, cả một vùng hang sâu núi thẳm toàn cỏ dại um tùm, xương phơi lởm chởm, cầy acso ẩn hiện, cô hồn yir tê, xưa nay không ai dám lảng vảng lại gần.
                        Bầy chó hoang hung tợn quanh vùng coi Vạn thi phần là kho lương thực của chúng. Hàng trăm hàng nghìn con chó hoang kéo bè kết đảng, tranh cướp các tử thi trong hang dẫn đến các cuộc tương tàn nội bộ, đống loại cắn xé lẫn nhau, một sống một chết. Những con bị cắn chết lập tức bị đồng bọn ăn sạch, trơ ra một đống xương trắng. Chính vì vậy, bầy chó hoang trong núi lúc nào cũng chỉ trên dưới vài trăm con, chưa trở thành đại họa cho người dân sống xung quanh.
                        Cho tới một năm nọ, không biết từ đâu, một con chó lớn lần đến. Nó cao to như con lừa, tiếng sủa như bò rống, thần uy lẫm liệt, mang phong thái của kẻ cầm đầu. Con chó đó hung ác vô cùng, thường cầm đầu bầy chó hoàng trong Vạn Thi phần, xông bừa vào làng để quật mộ. từ những xác chết trong quan tài cho đến gia súc trong thôn làng, thậm chí cả người sống đi lạc một mình, chúng cũng đều tấn công ăn thịt, them vào đó số lượng của chúng mỗi lúc một tăng, dần dần trở thành mói tai họa cho địa phương.
                        Người dân thiếu hiểu biết đều nói, con chó này hết sức thần dị, không phải vật tầm thường ở nhân gian, chắc hản là Hạo Thiên Khuyển của Nhị Lang chân quân ở đền Quán Khẩu giáng trần, thế nên đều gọi nó là Thần ngai, không ai dám xúc phạm. Cũng không rõ quan Án sát sứ tiền nhiệm trăn trở kiểu gì nghĩ ra một cách gọi là “ Lấy giặc cướp đổi dân lương thiện”. tựa như quan viên đã đạt tới một thỏa thuận với bầy chó hoang, để đánh đổi việc chúng sẽ không tàn sát những người dân thường vô tội, cứ hễ trong thành hành quyết tù phạm, sau khi xử trị xong thì không cho phép người nhà liệm xác mà vứt trên mặt đất cho bầy chó ở vạn Thi phần vào xâu xé, uống máu gặm xương tùy thích.
                        Từ đó trở đi, chỉ cần thành Linh Châu dựng pháp trường thì con Thần Ngao linh cảm thấy ngay. Từ tận chốn thâm sơn cùng cốc cách đó mấy dặm, nó đã đánh hơi thấy mùi máu tanh cảu cuộc hành hình, liền dẫn đầu bầy chó hoang, gào rú xông vào thành. Lại nghe đâu, bọn chó hoang ăn nhiều thịt người sẽ có cô hồn oán quye bám theo, đi tới đâu thì chỗ ấy dậy lên từng đợt gió âm.
                        .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                        Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                        Comment


                        • #42
                          Chính vì vậy, hầu hết nhwungx người hiểu rõ được lệ ấy vừa thấy giữ tầng không có quỷ khí ngút trời là biết cửa Nam đã mở để Thần Ngao tiến vào, họ liền vội vã nhường đường, nấp vào một bên quan sát. Quả nhiên, không bao lâu sau, trên con đường phái Nam một bầy chó đói khoảng mấy chục con lao đến, xúm xít xung quanh một con chó lớn, dữ tợn tột cùng.
                          Trương Tiểu Biện tuy mới lần đầu trông thấy con thần ngao những hắn đã khá thông hiểu bí quyết “ xem mèo đáon chó:, vừa nhìn thấy đã biết nó không bình thường. Sách Khuyên rkinh, phần “vạn vật thông tải” đã căn cứ vào hình dạng lớn nhỏ của loài chó mà phân thành ba loại lớn; to nhất gọi là “ngao”, cỡ bình thường gọi là “khuyển”, loại có thân hình bé mới gọi là “cẩu”. Mặc dù từ xưa đã có sự phân biệt rõ rang nhưng tới giờ người ta vẫn hay lẫn lộn giữa “khuyển” và “cẩu”.
                          Con chó dữ mà người dân vẫn gọi là Thần Ngao ấy to chẳng kém gì con lừa kéo cối say, trên mình có những đốm đỏ như vết máu, lúc nó chạy nhảy thì chẳng khác gì có một khối mây lửa bao bọc xung quanh, chỉ riêng điểm này thôi cũng có thể đoán được, nó không phải là chó ngao thực thụ mà chỉ là một con “khuyển” có thân hình to gần bằng con “ngao” mà thôi. Đây chính là chó của người Thát( Mông Cổ) từ thảo nguyên Mạc Bắc đến đây, gọi là “Thát tử khuyển”. Loại chó này có thể bắt sư tử, giết hổ dữ, truy sát chó sói, tính tình hết sức hung tợn, không rõ làm cách nào vùng Giang Nam lại có con vật thần dị này.
                          Trương Tiểu Biện không nghĩ tiếp nữa, hóng theo mọi người xem cảnh náo nhiệt. Chỉ thấy bầy chó sặc mùi xú uế ấy chẳng coi thiên hạ xung quanh vào đâu, cứ thế rùng rùng lao vào hình đài trong pháp trường. Cả bầy sói đói thấy máu tanh đầy bục lập tức dãi dớt chảy lòng thong quanh mõm, con nào con nấy thè cái lưới đỏ máu thở hồng hộc rồi đều nằm phục trước hình đài, vẫy đuôi, chẳng con nào dám qua mặt thủ lĩnh nhao lên gặm xương của hòa thượng Chuột.
                          Con Ngao thần tuy thân thể to lớn nhưng hết sức nhanh nhẹn linh mẫn. Nó gầm lên một tiếng, lao vọt lên không như mọc thêm cánh, nhảy phóc lên bục cách đó mấy chục bước chân, rồi ngoạm một miếng thịt phơi trên cột gỗ, nhồm nhoàm nuốt vào bụng,cúi xuống liếm máu me. Tên tử tù béo mập bị tùng xẻo xong xuôi, trên bục gỗ be bét mỡ và máu tươi. Cái lưỡi con Thần ngao dễ phải dài cả thước, cứ thè một cái là liếm sạch một mảng lớn, soàn soạt trong miệng, tỏ vẻ rất sung sướng khiến cho bầy chó hoang ở dưới thòm thèm khong chịu nổi.
                          Đến lúc con Thần Ngao liếm đã đời, nó mới ngẩng đầu tru lên mấy tiếng như bò rống, rung chuyển cả trời đất. Ngay lập tức bầy chó đói dưới bục cũng cất tiếng tru theo như người ta tung hô khi tiếp nhận thánh chỉ. Chỉ chwof có thế, con thì bò trên đất liếm máu, con thì gầm ghè giằng nhau miếng thịt. Đàn chó đói ăn uống cao hứng, con nào con nấy nhe răng kêu gừ gừ, ánh amwts dữ tợn.
                          Bách tính và dám lính dõng đứng xem xung quanh đều cảm thấy kinh sợ nhưng không ai tỏ ra thương xót. Trong thời địa suy đồi này, lòng người không yên, càng có gió tanh mưa máu, họ càng thấy thú vị, thậm chí nhiều người còn lấy việc người khác gặp họa làm điều mừng. Chí có những người còn giữ được lương tri mới ngầm than thở:” Chẳng biết triều đình đã làm việc trái elx gì mà khiến người đời phải chịu tội tàn khốc đến thế? Xem ra thiên hạ đại loạn khó mà yên được, trước sau gì cũng có tai họa giáng xuống”
                          Không quá thời gian uống cạn một chén trà, máu thịt trên pháp trường, thậm chí cả xương cốt bị đao phủ giã nhỏ, cũng đều bị bầy chó hoang gặm liếm sạch sẽ, ngay cả cặn bã cũng không còn chút gì. Đàn chó vẫn quanh quẩn không rời, gườm gườm nhìn đám quân dân bốn phía.
                          Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử đều đờ ra nhìn, chợt nghe lão công sai đứng cạnh kinh hãi bảo:”KHông xong rồi, bầy chó chưa ăn no, có lẽ phải…”lời nói chưa dút, chợt thấy con Thần Ngao trên pháp trường nhảy vọt lên, chồm đến vồ ngã Lưu Ngũ gia đang đứng lẫn trong đám người. Mọi người chưa kịp hiểu ra chuyện gì, con chó ác đã moi hết tim gan phèo phổi của lão. Bọn chó từ phía sau lao ra như tên bắn, trong tiếng tru gào điên cuồng, chúng vồ vào đám người đứng xem àm cắn xé.
                          Quân dân Linh Châu như ong vỡ tổ, ai nấy tìm đường chạy thục mạng, nhưng người này chen lấn người kia chẳng còn chỗ nào mà cướp đường. Chỉ thấy tứ phía máu thịt tơi bời, trong khoảng khắc đã có hơn trăm người phơi xác tại chỗ, số người bị thương do chen lấn, giẫm đạp thì không kể siết.
                          Mã đại nhân và Đề Đốc Đồ Hải ở trên lầu nhìn rõ mồn một. Ten Đồ Hỉa trông thấy thảm trạng máu thịt tơi bời như vậy, sợ run lên, vội ôm đầu chui xuống gầm bàn. Tuần ohur Mã đại nhân cũng là kẻ vững dạ, thâm tấm vón đã muốn phá bỏ lệ cũ từ lâu nhưng chưa tìm được dịp thuận tiện, nay thấy đã ương mầm thành đại họa, muốn hối hận cũng đã muộn, vội võ ấn quát lớn:” Phản rồi! Phản rồi! tả hữu đâu nghe lệnh ta! Hễ gặp chó hoang trong thành là giết hết”
                          Con Thần Ngao vừa cắn chết Lưu Ngũ gia trên pháp trường nuốt mấy miếng thịt tươi, thần trí càng thêm điên loạn dữ tợn. Dường như nó biết trên lầu góc phố có quan lại bản địa, liền tung mình đạp vào quân dân đang chen chúc, khom người cúi đầu lấy đà rồi vận hết sức tung mình lên không. Con ác khuyển quả là nhanh nhẹn tuyệt luân, chẳng khác nào hùm hổ mọc cánh, đến mấy trượng tường bao cũng có thể nhảy qua chứ sá gì hai tầng lầu. Từ trên không nó trợn cặp mắt đăm đăm nhìn Mã đại nhân rồi lao vào vồ.
                          Mã Thiên Tích thất kinh, vạn phần không tưởng tượng nổi con chó lại hành thích mệnh quan triều định, trong cơn kinh hãi không khỏi hoảng hồn thất sắc. May mà lão đẫ đề phòng từ trước, mấy chục tên thân binh tùy tùng giắt hỏa khí trên người liền lập tức giơ sung ra bắn. Cứ tưởng làn đạn như mưa ấy đến thần tiên cũng khó thoát, ai nấy đều chắc ngẩm sẽ bắn chết con Thần Ngao tại chỗ, nào ngờ con chó ấy nhanh nhẹn không gì bằng. Thấy hảo khí lợi hại, đang lơ lửng giữa không trung, nó liền dung sức hông bụng uốn mình một cái, đột nhiên vọt lên trên mấy trượng nữa, đạp vào ngói tầng hai làm ngói đổ xuống rào rào. Không dừng lại ở đó bao lâu, nó đạp mái vượt tường chạy thoát. KHói thuốc súng chưa kịp tan thì đã không thấy nó đâu nữa.
                          Thật đúng là:” Một khí cá trạch thoát câu; Mất tăm mất tích biết đầu mà tìm” muốn biết sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ
                          Hồi thứ năm: Tai mèo nhỏ
                          Lại nói về bầy chó hoang lớn ở Vạn Thi phần tràn vào thành làm náo loạn pháp trường Linh Châu, cắn xé sát hại quân dân, thương vong vô số, cuối cùng toàn bộ bầy chó đều bị lính dõng giết chết. Sau cơn hỗn loạn, ngã tư đường đầy những xác người, xác chó. Đáng thương thay tòa thành nổi tiếng phú quý phồn hoa, hôm nay biến thành mộ trường địa ngục quỷ khóc ma gào.
                          .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                          Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                          Comment


                          • #43
                            Tuần phủ Mã đại nhân từ trên lầu trông rõ cảnh tượng, nổi giận lôi đình, sai binh lính khóa chặt cổng thành, lại phái lính dõng truy sát con Thần Ngao khắp hang cùng ngõ hẻm. Nhưng một lúc sau có người tới phi báo, đã phát hiện thấy con ác khuyển vượt qua tường thành chạy thoát vào núi hoang.
                            Mã đại nhân vội triệu tập quan viên tới thương nghị rồi nói:” Con nghiệp súc hung tợn thật đáng khiếp thay. Hơn nữa, ta xem nó dường như đã có sự chuẩn bị từ trước, ý đồ hành thích mệnh quan của triều đình, chắc hẳn đã bị yêu thuật cảu bọn tạo súc khống chế. KHông sớm trừ diệt ắt hẳn sẽ trở thành đại họa về sau”
                            Theo lệ của đời Thanh, quan lại đồng cấp thì văn quản võ, Mã quản Hán, nhưng Đề đốc Đồ hải hoàn toàn không cso thự quyền ở Linh Châu, chẳng qua chỉ đứng bù vào lấp chỗ trống. trên thực tế, triều đình cũng chỉ phái lão xuống làm giám quân, mà kẻ này cũng rất u tối chẳng có năng lực gì. Vừa mời rồi lão thấy con Thần Ngao cắn chết Lưu Ngũ gia trong nháy mắt, lại dữ tợn nhảy lên lầu định hành hung, rồi tránh khỏi làn đạn súng đạn, vọt lên amis lầu tẩu thoát, không mảy may tổn thương, thực đúng là”chó trời”. Tinh thần Đồ Hải dã hoàn toàn bán loạn, chỉ còn cách thoái thác, giao mọi sự cho Mà đại nhân tòan quyền xử lí.
                            Mã Thiên Tích vốn chẳng hy vọng gì vị Đề đốc giá áo túi cơm này đưa ra được cao kiến gì, liền lệnh cho mọi người hiến kế. Có kẻ trợ tá nói:” bọn chó hoang ngoài thành này đều kết bầy đi lang thang, ban ngày không có nơi ở cố định, chỉ có ban đêm mới quần tụ trong sơn cốc. Chi bằng phái một vị tướng quân kiêu dũng thiện chiến, ban đêm dẫn theo người ngựa, mang nhiều hỏa khí tiến vào Vạn Thi phần rồi tiêu diệt chúng tận gốc”
                            Lại có kẻ khác bàn rằng:” Chó hoang tuy đông nhưng không đáng lo. Phéo dung quân có câu: bắt giặc nên bắt tướng. Trước tiên cần tìm cách trừ khử con chó dữu đầu đàn mới được. Nhưng con chó này được người ta gọi là Thần Ngao, tuyệt nhiên không hề giống bọn cho hoang bình thường. nó chẳng những mặt xanh nanh nhọn, dữ tợn vô cùng mà còn hết sức nhanh nhẹn, nhảy phắt cái đã vọt lên được mặt thành, nếu không phải là yêu quái trong” tây du kí” thì cũng là linh thú trong “Phong thần bảng”
                            giáng trần. Dù chúng ta phái nhiều dũng sĩ nhưng chưa chắc đã là đối thủ của nó”
                            Mã đại nhân gật đầu nói:” Nói cũng có lí! Vậy theo người nên làm thế nào mới được? Nếu đã có mưu hay thì cứ thẳng thắn trình bày để chia sẻ bớt lo âu cho bản quan”
                            Gã trợ tá đó thường cho mình là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng từ khi về dưới trường Mã đại nhân thì vẫn chưa hiến được mẹo mực gì. Hôm nay thấy cơ hội đã đến, gã liền dâng lời rằng:” Tiểu nhân từng nghe một số người Tây Dương nói, ở nước Anh Di phương tây cũng có nhiều chó dữ hoành hành, vì vậy đất đó có một tục là những kẻ thân sĩ khi ra khỏi cửa sẽ cầm theo một cái gậy, gọi là Văn Minh côn, chuyên dung để đuổi chó. Chó hoang trên phố hễ trông thấy gậy này là chạy xa, không dám lại gần, vì loài chó bẩn sinh đã sợ gậy gộc, đó là bản tính trời phú cho tạo vật này”.
                            Mọi người đứng bên thấy thế đều bảo:” Anh Di đúng là một nước man dợ ở vùng biển hoang, chưa từng được chịu ơn khai hóa. Đừng trông chúng có tầu chắc pháo mạnh mà lầm, riêng cái việc đám thân sĩ khi ra đường phải cầm gậy đánh chó là đã không bằng nước Đại Thanh ta rồi. Cái thứ Văn Minh côn đó xưa nay chỉ dành cho bọn ăn mày khất thực thôi. Có điều, bản tính bọn chó đúng là sợ gậy gộc. Cho dù chó dữ mấy chăng nữa, cứ thấy gậy gộc là chờn mấy phần. Có lẽ nên cấp cho quân dân Linh Châu nhiều đoản con để đề phòng bọn chó dữ hại tính mạng”
                            Cả đám nhao nhoa hiến kế, nhưng nói đi nói lại chẳng có kế nào dung được. Đương lcus vô kế khả thi, chợt cso một thám tử vào bảo, đại quân Việt khấu chia làm mấy lộ đánh thành. Lần này chúng kéo quân bất ngờ và bí mật, đến khi phát hiện thì mũi tên tiên phong chỉ còn cách thành không đén ba mươi dặm. mã đại nhân vội vàng hỏi số lượng quân giặc, thám tử bèn bẩm báo:” Chỉ thấy quân giặc ào ạt đến đầy non chật núi, đao thương như rừng, giáp binh như mưa, không thể đếm được”
                            Tạm thời không kể tiếp việc Việt khấu đột ngột phát bịnh đánh thành và thành Linh Châu đã điều binh khiển tướng để phòng ngự ra sao, chỉ nói đến chuyện Trương Tiểu Biện bị đám dân chúng bỏ chạy tháo thân trên pháp trường xô đẩy, không tự chủ được cũng phải chạy theo. Chẳng biết Tôn Đại Ma Tử và con mèo đen bên cạnh chốn đi đâu nữa. hắn một mình chạy vào một lối ngõ hẹp, chẳng biết Đông Tây Nam Bắc thế nào,chỉ mừng thầm vì không bị bọn chó dữu cắn chết trong đám hỗn loạn. Thấy xung quanh không có ai, hắn liền ngồi xuống bậu cửa trước một ngôi nhà dân, thở hổn hển.
                            Trương Tiểu Biện nghĩ bụng, cứ tưởng trong thành sẽ được yên ổn một chút, nào ngờ lại hỗn loạn đến thế. Bầy chó hoang đột nhiên phát cuồng, cắn chết bao nhiêu dân chúng, đầy phố toàn xác người chết thảm nằm ngồn ngang, cho bằng mau chóng tìm Tôn Đại Ma Tử rồi rồi khỏi nơi thị phi này, chạy đến tận Kinh Thành mà tìm đường phát tài. Trong lòng đương toan tnhs, chợt nghe phía đầu đường có tiếng mèo kêu, hắn ngoảnh lại nhìn thì hóa ra là con Nguyệt ảnh ô đòng kim tuyến miêu. Trương Tiểu Biện đến gần con mèo rồi nói:” Con mèo tham lam này vừa chốn đi đâu chơi để Tam gia nhà ngươi phải mất công đi tìm, hay là ngươi theo ta đến Kinh thành một chuyến cho mở mang…”
                            Hắn chưa nói dứt lời bỗng thấy bím tóc phía sau bị người khác nắm chặt khiến hắn đau tới mức phải thốt lên, chửi:” Không còn vương pháp hả?Con bà đứa nào ăn gan hùm mật gấu dám giật bím tóc của Trương tam gia ta chứ?”
                            Chỉ nghe phía sau có một tràng cười khô như xẻ gỗ vang lên:”Hà hà, bây giờ đã là Trương bổ khoái rồi, có còn nhớ cố nhân nữa không?” Trương Tiểu Biện nghe thấy biết ngay người đó chính là Lâm Trung LÃo Quỷ, liền vội đổi giọng nói:” Tiểu nhân làm sao lại dmas queend dại ân đại đức của lão tiên sinh”
                            Trương Tiểu Biện thấy mũ tóc được tảh ra liền chỉnh đốn mũ áo, quay lại thi lễ. Chỉ thấy Lâm Trung Lão Quỷ nọ vẫn mặc trường bào rộng thùng thình, màu vải cũ kĩ rách rưới, cũng không rõ là trnag phục của triều đại nào nữa, trên mặt thì vẫn bịt kín bằng một cái khăn chỉ chừa ra 2 con mắt khô khốc, chẳng giống người đang sống chút nào. Lão mở miệng hỏi:” Trương bổ khoái. Món đại phú quý mà lão phu mach bảo ngươi nay đã lấy được chưa?”
                            .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                            Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                            Comment


                            • #44
                              Trương Tiểu Biện vốn đang rầu rĩ về chuyện món kim ngân châu báu mà lão già này mach bảo, tuy bảo là có nhưng đó là tiền trong ngân khố của quan phủ hại hắn ngon ngọt chưa thấy, đã thấy bồ hòn, phải liên liên lụy khổ sở một phen. Song thấy khí sắc cảu Lâm Trung Lão Quỷ, ba phần chẳng giống người, bảy phần tựa như quỷ, hắn đời nào dám xúc phạm, đành ngậm bồ hòn làm ngọt, làm ra vẻ đau khổ kể lại một lượt những chuyện vừa xảy ra, cuối cùng mới nói:” Lão tiên sinh mach bảo tuy đúng nhưng chẳng biết làm sao mà số của tiểu nhân không phát tài, vất vả một phen hóa ra công cốc, bạc vào tay còn chưa ấm đã bị đám công sai cướp ngay trên phố rồi”
                              Lâm Trung Lão Quỷ bảo:” Có hai người cùng nhà ngươi chạy nạn ở làng Kim Quan, một là Thảo đầu Thái tuế, có thể trợ giúp cho ngươi, kẻ còn lại chính là Táng môn Bạch hổ Tinh quân. Ngươi đem con nha đầu đó đi cùng thì làm sao có thể mở mặt được? Xem ra, số mệnh của ngươi không được phát ở chỗ này, nên mới xui khiến cho sao dữ chiếu mạng. Nhưng ngươi chớ có phiền não? Bình sinh lão phu đã gặp nhiều người rồi, nhưng những người có số phận, mệnh tưởng tốt đẹp trong thiên hạ chỉ e không ai hơn nổi họ Trương nhà ngươi đâu. Sau này, số kiếp của ngươi sẽ có nhiều biến chuyển.
                              Trương Tiểu Biện vừa nghe rằng sua này có thể mở mày mở mặt liền lập tức vui mừng ra mặt. Tục ngữ có câu rất hay rằng:” Rượu làm đỏ mặt, tiền làm mờ mắt”. lúc ấy, chẳng cần biết lời của lâm Trung LÃo Quỷ thực hư ra sao, rốt cuộc lão có mưu đồ gì, hắn vội khom người cúi xuống lạy, khẩn cầu cao nhân đoán xem vận mệnh của hắn như thế nào.
                              Lâm Trung Lão Quỷ chẳng nói chẳng rằng đỡ Trương Tiểu Biện dậy, lôi xềnh xệch vào trong Miêu tiên từ trong ngõ Miêu nhi, đến một ngơi yên tĩnh không có bong người lão mới hỏi:”Trương Tam gia, ngươi nói cho lão phu nghe xem, chỉ hướng bình sinh của ngươi như thế nào?’
                              Trương Tiểu Biện xấu hổ nói tuột ra:” Ngoài tiền bạc ra không còn mong ước gì khác”, đoạn mặt dày mặt dạn tiếp lời nói:” Lão nhân gia chớ coi thường tiểu nhân là một kẻ vô lại rong chơi đầu đường xó chợ, bất học vô thuật, chẳng có tài cán bằng người ta, không giống một trang hào kiệt chọc trời khuấy nước. Tiểu nhân trong bụng cũng có chí lớn,cũng thường…thường muốn làm nên sự nghiệp anh hung lừng lẫy”
                              Lâm Trung Lão Quỷ cười lạnh rồi hỏi tiếp:’Ngươi thử nói xem, thế nào là anh hung hào kiệt?” Trương Tiểu Biện trả lời:” từ xưa tới any, phàm là kẻ anh hùng hào kiệt, đương nhiên không chịu ăn đời ở kiếp với ruộng nương cuốc thuổng, lại càng không thể làm trâu làm ngựa cho người khác được. Hành động cần phải khẳng khái trượng nghĩa, không bao gờ lấy tiền tài làm mục đích, khi chu du bốn bể thì vung tiền như rác, khi kết giao với bạn bè thì một lòng một nghĩa khinh tài, lập chí lớn, làm việc lớn, khiến tiếng thơm lưu truyền rộng rãi, như thế mới đúng là một anh hùng hào kiệt”. Kỳ thực, ý tứ của hắn hết sức rõ ràng, ấy là muốn làm được đại sự, trước hết phải có được tiền người, có câu rằng:” MẠnh vì gạo, bạo vì tiền” là như vậy.
                              Lâm Trung Lão Quỷ gật đầu nói:”Ờ… Quả nhiên là anh hùng không có dạ phàm phu, tuy lời của ngươi có chút ba hoa quá đáng, hơi không hợp với thiên đạo nhưng cũng chính là chỗ không câu nệ trong chí của kẻ hào kiệt. tuy nhiên, ngươi đã làm lỡ món bạc trong Hòe viên, mấy năm tới cung tài vận trong mệnh của nhà ngươi không tốt. Muốn được đại phú quý thì đúng là khó như đi lên trời…”
                              Trương Tiểu Biện nghe thế thì lấy làm sợ hãi, vội nói:” Tiểu tử cũng chẳng thèm khát có được ngón tay điểm đá háo vàng của Lã Thuần Dương tổ dư, càng không dám hy vọng có được vận may lấy được Tụ Bảo cầu, chỉ cần được giàu sang sung túc, tiền như núi, vàng đầy chum. Nếu được thỏa mã ý nguyện thì ngày ngày sẽ xin thắp hương cũng bái Miêu tiên”
                              Lâm Trung Lão Quỷ nói:”Có được núi tiền hầm vàng thì đã là phú gia địch quốc rồi còn gì, bản thân nhà ngươi chưa chắc đạt được như thế. Có điều, tuy giờ đây cung tài vận nhà ngươi có phần sút kém, nhưng vừa hay lại có tướng tính chiếu mệnh, ứng vào điềm vô tận hanh thông. Nếu nhà ngươi chiu theo lời lão phu mà hành sự thì nội trong vòng một năm,nhất định sẽ trở thành võ quan thống lĩnh quân đội. tới lúc đó, lão phu sẽ tiếp tục mach bảo cho nhà ngươi con đường lên cao bay xa, cũng vô cùng oai phong phú quý”
                              Trương Tiểu Biện nghe thấy thế, tự dưng cương cốt toàn thân trên dười đều nhẹ nhõm đi mấy phần, đến nằm mơ hắn cũng chưa bao giờ nghĩ mình tốt số như vậy, vụ này quá nửa là do mộ tổ kết phát rồi đây, Đời này cứ có quyền là có tiền, nếu đúng là làm được đại tướng thống lĩnh, rạng rỡ tổ tong, khôi phục dòng dõi nàh họ trương thì còn gì phải nói nữa. Khong cầu làm được đến quan to như Tổng Binh, Đề đốc, chỉ cần làm một tướng quân đã oia lắm rồi. hắn liền vội thỉnh giáo Lam Trung LÃo Quỷ xem nên hành động ra sao.
                              Lâm Trung Lão Quỷ bảo:” Điềm thiên hạ thái bình thì khí đất từ Bắc xuống Nam. Tới nay loạn từ phương nam sinh ra tức là chủ về việc đất nước loạn lạc, đúng là thời cơ tốt để lập công kiến nghiệp. Cư như vận mệnh của nhà ngươi, chẳng những làm tới võ quan tam, tứ phẩm, mà ngay đến Thượng thư, Tông đốc cũng chẳng khó. Bây giờ, ở chốn thâm sơn cùng cốc ở phía Nam thành có một con Thần Ngao Mạc BẮc tụ tập bầy chó hoang lớn gây hại cho dân. Quan binh trong thành tuy đông nhưng mà khó bắt giết được nó, trên dưới toàn thanh Linh Châu ắt ăn không ngon, ngủ không yên. Họ Trương nhà ngươi muốn thăng quan tiến chức phải đoạt ngay lấy công đầu mới được”.
                              Trương Tiểu iện há hốc mồm. Hôm nay, chính mắt hắn thấy sự hung tợn bất phàm của con Thần Ngao, đến đao pủ Lưu Ngũ gia của bộ Hình ghê gớm nư vậy cũng bị nó phanh thây mổ bụng ngay tại trận. Huống hồ, con thú này chạy nhảy như bay, nguy hiểm khôn lường. Tạm chưa nói đến súng ống sáo thương, ngay cả đặt bẫy, hạ độc thì nó cũng phát hiện được ngay. Quan binh khắp thành còn chẳng làm gì nổi nó, Trương Tam gia nhà hắn lấy đâu ra phép thuật gì? Mấy hôm trước tuy đã dùng con mèo đen phá được tà pháp của hòa tượng Chuột. Nhưng ấy cũng chỉ là may mắn gặp phải hai loài tương khắc với nhau, nhưng xưa nay, có bao giờ nghe chuyện mèo hàng phục được chó đâu.
                              Lầm Trung Lão Quỷ chẳng thèm để ý đến Trương Tiểu Biện, lấy từ trong lòng ra một gói đồ, bên trong bọc toàn cá muối, thịt muối. Lão xé nhỏ ra rồi tiện tay vung ra nền đất. Bầy mèo hoang trong ngõ Miêu nhi đánh hơi thấy mùi tanh hôi liền từ bốn phương tám hướng nhao lại.
                              Trương Tiểu Biện không biết trong bụng Lâm Trung LÃo Quỷ đang tính toán điều gì, cũng không dám hỏi nhiều, đành ngồi chồm hỗm trong một góc trố mắt nhìn. Sauk hi cho bầy mèo hoang ăn no nê, Lâm Trung Lão Quỷ mới bảo Trương Tiểu Biện rằng:” Cần mượn mấy món đồ của tổ sư gia bọn chúng để dùng nên phải đãi đằng chúng một chút, nếu không chúng sẽ không ưng chịu đâu!”
                              .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                              Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                              Comment


                              • #45
                                Trương Tiểu Biện càng tháy kì quái hơn. Nghe đồn Miêu tiên gia vốn là một đại bản lĩnh tày trời, nổi tiếng lừng lẫy trong thành Linh Châu, về sau ông ta ăn trộm Dạ minh châu trong hoàng cung, lo rằng bị quan phủ truy nã,nên mới mai danh ẩn tích, quy ẩn giang hồ. Trong miếu này làm sao lại có vật tùy thân của ông ta?
                                Lâm Trung Lão Quỹ gỡ mấy viên gạch xanh phía dứơi bệ thờ, lôi ra một cái hòm gỗ trông khá cổ kính, hình dáng màu sắc đều đã cũ mèm, chắc hẳn đã chôn dấu rất nhiều năm rồi. Mở hòm ra, bên trong chỉ có một bộ quần áo dài hành của bọn trộm cắp. Lão trông thấy mấy món đồ đó liền cất một tràng cười lạnh âm trầm, rồi nói với Trương iểu Biện:” Đây là trang phục mà Miêu tiên gia đã mặc hồi trước, tên là “Hắc Thiền”, nhẹ như long hồng, đồng thời có thể tránh được đao thương, vào lửa không cháy, xuống nước không chìm, là một bảo vật hiếm thấy trên đời. Nhưng quý hiếm hơn là cặp tai mèo con để tận đáy hòm kia. Có được cả bộ này, đêm này ngươi chỉ cần làm thế này, thế này…Muốn bắt giết được con Thần Ngao MẠn Bắc hung dữ thì cũng dễ như trở bàn tay, lấy đồ vật trong túi vậy”
                                Thật là:” Lập mưu bắt thỏ cung trăng; Những toan đoạt quạ ở ngang lưng trời”. Muốn biết chuyện sau thế nào xem hồi sau sẽ rõ
                                .......Thiện căn ở tại lòng ta......
                                Chữ tâm kia mới băng ba chữ tài

                                Comment

                                Working...
                                X