Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nhà Tù - Duyên Anh - hồi ký

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhà Tù - Duyên Anh - hồi ký

    Duyên Anh sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình Bắc việt mất ngày 6 tháng 2 năm 1997 tại Paris, Pháp (nhằm ngày 29 tết). Ông đã xuất bản năm mươi tác phẩm văn chương. Năm 1975, bị coi như "một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của Việt Nam", chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung. Ông được tự do nhờ Amnesty International và Pen Club International can thiệp. Vượt biển sang Pháp, ông viết lại và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư đại học Sorbonne, nhà văn lừng danh coi Duyên Anh là "nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia". Chưa một người Việt Nam nào tạo nổi sự vinh dự cho dân tộc ở tư thế lưu vong như Duyên Anh. Tự tin vào tài năng và sự phấn đấu của chính mình, ông đã bước lên mọi nghịch cảnh, bước qua mọi oan khiên để giành một chỗ đứng trên vũ trụ văn học quốc tế như một tiểu thuyết gia đầy đủ tư cách.




    Duyên Anh (1935 - 1997)



    Nhà Tù
    - Duyên Anh
    - hồi ký

    Nguồn: hungviet.org


    GỌI LÀ
    THAY LỜI TỰA


    Tôi không có ý định viết hồi ký về những năm tù đầy của tôi khi tôi trở lại đời sống bình thường. Con người sinh ra là để chịu đựng mọi hệ lụy. Từ đầu đường oan nghiệt, tôi khởi sự khóc và tôi sẽ gục ngã ở cuối đường oan nghiệt. Từ đấy, theo tôi, là những cái mộ u cao hơn, nhiều chông gai hơn những cái mộ u khác dốc dài sau đó. Vượt qua hay chẳng vượt qua thì rồi cũng chết. Có những cái chết thật vô tích sự và mục rả như có cây tàn tạ. Có những cái chết được phục sinh. Chinh ý nghĩa của sự sống đã phục sinh sự chết. Ý nghĩa ấy nảy mầm trong lòng những cái mộ u cao nhất của sầu đạo và mầm ấy chổi lên mặt đất, chổi lên mãi thành cây nhân sinh xum xuê lá cành xanh mướt, trĩu nặng trái chín vàng mộ bằng sự phấn đấu can đảm của con người vượt qua mộ u. Nhà tù nào cũng chỉ là một xã hội thu hẹp. Nó nhỏ bé nên nó sinh động vô cùng. Nó gần gũi nên nó lột trần muôn mặt. Nó đầy rẫy ti tiện bẩn thỉu. Nó cao thượng và nó thấp hèn. Nó phản phúc đáy tim và nó sắt son đầu lưỡi. Nó đố kỵ ban đêm và nó hòa hoãn ban ngày. Nó anh hùng trong bóng tối và nó khiếp nhược ngoài ánh sáng. Nó tạo dựng ngộ nhận, vu khống, chup mũ và hành hạ lẫn nhau, bởi quan điểm cũ kỷ, bởi lập trường sắt máu, bởi sự ngu xuẩn, bởi máu lãnh tụ và bởi cả một điếu thuốc lào, một cục đường hay một miếng thịt chia chẳng đồng đều! Nhà tù không dạy con người một bài học cao quý nào cả. Con người đã tự học ở sự tủi nhục, ở nơi cay đắng trong nhà tù. Để biết chịu đựng. Để biết coi thường tất cả. Để biết thương xót.

    Không ai thích vào tủ, dù chết trong tù sẽ thành liệt sĩ hoặc ra khỏi tù sẽ thành dũng sĩ. Sát nhân cũng sợ tù. Vĩ nhân cũng sợ tù. Đại đức cũng sợ tù. Linh mục cũng sợ tù. Các nhà cách mạng càng sợ tù hơn. Bởi thế, nguc tù không bao giờ là thành tích vĩ đại để khi thoát khỏi nó, người ta vỗ ngực khoe khoang, người ta quảng cáo nó như một món hàng thương mại, người ta xử dụng nó như một phương tiện bước vào chính trường. Như những người thật thà với chính mình, tôi rất sợ hại tù đầy. Tôi ở lại Việt Nam vì vụng về trong mưu toan chạy trốn. Tôi không bao giờ ở lại để làm chứng nhận lịch sử cả. Công việc phi thường nầy dành cho người khác. Tôi ở lại và tôi bị bắt bỏ tù. Tôi thành ở tù. Khi được thả về, nghĩa là khi biết mình chưa chết, tôi mới dám nghĩ tới những năm tù đầy bất hạnh của tôi là hạnh phúc cho riêng tôi, cho những cuốn tiểu thuyết tôi sẽ viết mai nầy. Tôi xin nhắc lại: Tôi không có ý định viết hồi ký về những năm tù đầy của tôi khi tôi trở lại đời sống bình thường. Nhưng tại sao tôi lại viết?

    Tháng 10 năm 1983, tôi đến Paris như một thuyền nhân buồn bã. Bạn bè tôi, những người đã cứu tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản, hay tin tôi đã có mặt tại Pháp, tới thăm tôi, chia nỗi vui mừng với tôi. Tất cả đều hỏi tôi về đề lao Gia Đình, về Sở Công An, về khám Chí Hòa, về các trại tập trung và những hình phạt mà những tù nhân phải chịu đựng năm nầy qua năm khác, và suốt một kiếp người. Họ hỏi tôi về những người trí thức Việt Nam vì đấu tranh cho nhân quyền mà bị lưu đầy, phát vãng. Họ hỏi tôi về các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những tù nhân tư tưởng của thời đại khốn kiếp của chúng ta. Tôi bỗng thấy tôi có bốn phận viết hồi ký. Hồi ký của tôi sẽ không phải chỉ là bản báo cáo nỗi khổ lê thê và riêng rẽ về số phận văn nghệ sĩ, trí thức. Cũng không phải là những trang ngục sử ca ngợi các vị anh hùng không bao giờ có ở nhà tù cộng sản. Tôi có tham vọng, trong hồi ký của tôi, diễn tả cái thủ thuật gian ác và hèn mọn của chủ nghĩa cộng sản là triệt để khai thác sự yếu đuối của con người, đe dọa, khủng bố để con người khiếp nhược, đánh vào dạ dày con người bằng roi gạo để con người đê tiện và tạo mâu thuẫn để con người thù hằn con người. Những con người, con người tù nhân Việt Nam, đã chết, sắp chết hay sẽ chết vẫn tồn tại với định nghĩa làm người rực rỡ. Trong thống khổ và cô đơn.

    Hồi ký của tôi gồm 2 cuốn. Cuốn thứ nhất mang tên NHÀ TÙ. Cuốn thứ hai mang tên TRẠI TẬP TRUNG. Như đã trình bày, nhà tù là một xã hội thu hẹp, nó gần gũi nên nó tự lột trần muôn mặt. Tôi có gắng ghi chép thật trung thực cái muôn mặt đỏ.

    Montreuil, tháng Giêng, 1984.
    Duyên Anh




    Yêu thương tặng Nguyễn Ngọc Phương,
    nhà tôi, người đã tốn nhiều
    nước mắt nuôi chồng tù

    Duyên Anh
    Last edited by Poupi; 27-04-2011, 06:20 AM.

  • #2
    Phần thứ nhất

    CAY ĐẮNG
    VỠ LÒNG
    (Sở Công An)
    1.

    - Anh là Vũ Mộng Long?

    - Phải.

    - Anh là nhà văn Duyên Anh?

    - Phải.

    - Kể từ giây phút này, chúng tôi bắt anh.

    Người mật vụ của phòng Bảo Vệ Chính Trị thuộc Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh bảo tôi đưa hai tay ra phía trước. Anh ta còng tay tôi lại. Bằng chiếc còng số 8, chế tạo tại USA. Người mật vụ, một sinh viên nằm vùng, nhìn tôi mỉm cười tự mãn. Bỗng anh ta quát tháo:

    - Anh đứng dậy!

    Tôi đứng dậy.

    - Đứng nghiêm.

    Tôi đứng thẳng. Hai tay không duỗi xuống được nên đành phải đặt cả còng lẫn tay trước hạ bộ cho nó nghiêm túc đúng nghĩa.

    - Anh nghe tôi đọc Quyết định.

    Tôi nghe.

    - Việt Nam Dân Chú Cộng Hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc …

    Người mật vụ gấp tờ Quyết định, nôm na gọi là lệnh bắt người, bỏ vào túi và hỏi tôi:

    - Anh hiểu rõ rồi chứ?

    - Hiểu.

    Nhà nước Việt Nam Dân Chú Cộng Hòa và đảng Công Sản đã quyết định bắt tôi với lý do “phần tử nguy hại cho an ninh của tổ quốc.” Lúc ấy là 5 giờ chiều ngày 8 tháng 4 năm 1976. Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang bầm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông Tổ trưởng dân phố của tôi dẫn ông Phường trường và công an phường đến thăm gia đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ở nhà, họ mới đến bắt.

    Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản xiết dính trên tay mình, nhìn vợ mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác, nước mắt chảy ròng ròng. Cùng với mùi tanh tưởi của chủ nghĩa hèn mọn, tôi ngửi được mũi dầu cù là mà vợ tôi không ngừng xoa lên trán, lên mũi, lên cổ để khỏi ngất xỉu trong nghịch cảnh. Lần đầu tiên vợ tôi biết phấn đấu. Lần đầu tiên những sợi dây thần kinh của vợ tôi căng thằng tốt độ. Mật vụ lăng xăng, quan trọng như thể họ sắp đem tôi ra bãi bắn. Tôi thấy yên tâm từ giây phút mật vụ còng tay tôi. Tôi đã đoán đúng số phận của tôi. Tôi không thể trốn qua chiến dịch truy lùng rồi phơi phới vượt biên vì không có bạn tốt là Xuân Thiêm, chủ bút nhật báo Quân Đội Nhân Dân, bộ hạ của tướng Song Hào, che chở, đùm bọc, thương hại! Tôi không thể trốn vì tôi có vợ con và tôi yêu vợ con tôi, không nỡ để vợ con tôi liên lụy. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi hay tin họ đã bắt Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ … Tôi nói với người đọc quyết định bắt tôi:

    - Xin anh đừng làm vợ con tôi hoảng sợ. Tôi đã chuẩn bị vào tù.

    - Anh biết anh sẽ bị bắt?

    - Phải.

    - Ai cung cấp tin tức cho anh?

    - Từ mồng 2, các bạn tôi đã lần lượt bị bắt và tôi đã sửa soạn hành lý ra đi.

    - Đi đâu?

    - Vào tù.

    Người mật vụ nhún vai. Tôi không bao giờ quên cái nhún vai của anh ta, cái nhún vài kiêu ngạo, xấc xược của kẻ theo đóm an tàn, của kẻ nắm vùng trúng mối. Bảy năm sau, có dịp gặp lại người đã còng tay mình, đã mỉm cười tự mãn, đã nhún vai xấc xược, trong một quán cà phê nghèo nàn, anh ta bắt tay tôi, xưng “em” ngot sớt và hỏi tôi định làm gì khi đã mãn hạn tù. Tôi nói tôi đã “sửa soạn hành lý ra đi”. “Đi đâu,” anh ta tò mò. Thản nhiên, tôi đáp: ”Vào tù nữa, đời sống của bọn nhà văn phản động luôn luôn bất ổn ở chế độ ta.” Anh ta không còn nhún vai nữa. Mà thở dài. “Em dạo nầy buôn bán thuốc tây chợ trời như các nhà yêu nước khác, các trí thức yêu nước, sinh viên yêu nước. Thưa anh, anh biết chưa, sinh viên tranh đấu Phạm Hào Quang đang làm nghề mua bán ve chai. Còn giáo sư chống Mỹ cứu nước Trần Tuấn Nhậm thì chết rồi, chết không một nấm mồ.” Tôi đã định nhún vai một cái. Thấy tội nghiệp quá, lại thôi. Nhưng lúc anh ta nhún vai, anh ta không tội nghiệp ai cả. Con sói non vừa độ ngấm thuốc ngu, nó hung hắng chỉ muốn móc một người chân chính. Anh ta ra lịnh cho đồng bọn lúc lạo khắp nhà tôi, khám xét tận tình từng cái ngăn kéo. Giấy tờ, bản thảo, thư từ, ảnh kỷ niệm, nhất nhất đều bị soi kính mật vụ. Anh ta cầm cuốn Lửa Rừng của Vũ Hạnh, lẩm nhẩm câu Kính tặng nhà văn Duyên Anh. Tác giả rất trân trọng. Rồi anh ta xe phăng trang sách mang chữ ký và thủ bút của đồng chí nằm vùng lớn của anh ta. Anh ta xếp nhỏ, nhét vô túi quần.

    Lục lạo, bới tung, quăng bừa bãi, hạch hỏi đến 10 giờ tối, mật vụ tịch thu toàn bộ tác phẩm ấn bản đặc biệt đóng bìa da, gáy mạ chữ vàng của tôi. Tôi thở phào. Vì đồ “tế nhuyễn” của vợ tôi, mật vụ không tìm ra chỗ dấu. Tôi chợt nhớ Nguyễn Du tả cái đám côn quang vào nhà Vương ông. Bọn ăn cướp thời đại nào cũng thế. Bọn ăn cướp có chủ nghĩa hậu thuẫn còn ghê tởm hơn. Cái đám côn quang của chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, buồn thay, rặt một lũ sinh viên, trí thức Sàigòn nằm vùng mà trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, người ta quen gọi chúng là bọn “ăn cơm quốc gia, thờ mà cộng sản.” Chúng tuân lệnh đến bắt tôi, bắt một người cầm bút chẳng quốc gia, chẳng cộng sản, một người “cộng sản không tha, quốc gia không dung” như tôi hằng xác định thái độ từ khi tôi cầm bút. (Xin hiểu quốc gia tôi dùng ở đây là quốc gia giả hiểu từ sau 1-11-1963, thứ quốc gia đốn mạt với những cơ cấu vá víu và những hạng người điều hành tham lam. Bởi các chế độ Saigòn đã làm mang tiếng quốc gia, thiết tưởng những người Việt Nam chân chính đã chiến đấu bảo vệ tổ quốc mấy chục năm ròng rã và đang tiếp tục chiến đấu giải thoát tổ quốc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa cộng sản hãy tạm quên quốc gia. Còn nhân danh quốc gia là còn bị ngộ nhận chiến đấu để phục hồi dĩ vắng, vì không bao giờ phục hồi nổi dĩ vãng, hiểu theo bất cứ lối suy diễn nào.) Trong khi chờ đợi đồng chí chan nước màu lên bát bún riêu chủ nghĩa, tức là làm biên bản khám xét nhà, bắt người, tịch thu đồ đạc, người sinh viên nằm vùng hỏi tôi, giọng đã bớt sắt máu:

    - Anh ăn cơm chưa?

    - Chưa.

    - Anh được phép ăn uống một chút gì đấy.

    Vợ tôi vẫn ngồi xoa dầu cù là và nhìn mật vụ lập biên bản. Con gái tôi pha cho tôi ly sữa đá. Con trai lớn của tôi mua cho tôi khúc bánh mì. Tôi đưa hai tay còng cầm khúc bánh mì. Ăn không vô. Tôi buông khúc bánh xuống sàn nhà. Lai nâng ly sữa uống. Uống không vô. Tôi nhìn thằng con trai đầu lòng của tôi. Nó đã thôi khóc. Mắt nó mở trừng trừng. Tôi nghĩ nó muốn chup cảnh tượng này vào trí óc của nó. Bất chợt, nó vùng chân đạp từng cái ghế ở bàn ăn. Mật vụ giật mình, khó chịu:

    - Tao sao cháu đạp ghế?

    - Ghế của nhà tôi, tôi có quyền đạp.

    Mật vụ lặng thinh. Chẳng lẽ đọc thêm quyết định bắt đứa bé 13 tuổi. Tôi phục thằng con tôi quá. Những đứa trẻ không muốn lớn của tôi, những Dzũng Dakao, Chương Còm, Bồn lừa, Danh ná … đã muốn lớn. Và đã lớn trong kinh qua của lịch sử buồn thiu. Hình như, nhiều người lớn thì lại … con nít đi!

    Đúng 11 giờ, biên bản lập xong. Mật vụ đọc cho vợ tôi nghe. Vợ tôi đọc lại và chỉ bằng lòng ký tên nếu mật vụ trả lại tấm ảnh chụp cả lớp mỗi cuối năm của các con tôi và mấy cuốn Lucky Luke vô tội. Mật vụ nhả ảnh nhưng ôm 2 cuốn Billy the Kid và En remontant le Mississippi theo. Lucky Luke cũng can tội … nhân vật phản động. Như John Wayne, tài tử phản động, vì đóng phim Mũ nồi xanh. Bỗng dưng, vợ tôi nổi máu phản kháng vi Lucky Luke. Lúc ấy, tôi không hiểu và lúc này tôi không thích hỏi lại vợ tôi.

    1 giờ 30, mật vụ mở cửa chiếc xe du lịch Toyota màu trắng đậu sẵn trong sân nhà tôi, dục tôi bước vào. Vợ tôi, vừa ra khỏi cửa là ngất xỉu, khụy ngã. Hai đứa con nhỏ của tôi quỳ xuống ôm lấy mẹ khóc nức nở. Tôi ngoái lại, đưa hai tay dính còng USA vẫy vẫy từ biệt con tôi. Chúng nhìn theo, đầm đìa nước mắt. Thằng con lớn đứng chờ ngoài cổng. Nó ghé sát cửa kính, khích lệ tôi:

    - Bố giữ gìn sức khỏe!

    Tôi dơ cao tay còng, từ giã con tôi. Kể từ đó, tôi xa gia đình. Đường khuya phố vắng, chiếc Toyota chay vun vút. Tôi nghĩ đến nồi cháo chưa kịp bỏ thịt đã cháy khét trên bếp. Tôi nghĩ đến những tiếng nghẹn ngào khi vợ tôi tỉnh dậy. Tôi nghĩ đến ngày mai của các con tôi. Tôi nghĩ tới bãi chiến trường ở gia đình tôi sau thời gian địch rút lui. Chúng để lại gì nhỉ? Trước hết, đôi mắt chim khuyên của con tôi đã biến thành diều hâu dữ tợn. Đó là niềm chua sót vĩnh cửu. Con tôi biết hận thù quá sớm. Anh đừng đặt câu hỏi tại sao cộng sản đàn áp nhà văn nhà thơ bạo thế. Anh đừng đặt bất cứ một câu hỏi nào về chúng tôi, hay, ít nhất, về tôi. Rằng, tại sao, tôi không tư bản, không Thiên Chúa, không làm tay sai cho một thế lực chính trị nào – nói theo danh từ cộng sản, tôi không là đầy tớ Mỹ, không Ngụy – tôi dân tộc thuần túy, tôi Việt Nam thuần túy, tôi con người thuần túy, tôi hoàn toàn độc lập, tự do tư tưởng mà tôi vẫn bị cộng sản còng tay dẫn đi như một tội đồ ghê gớm. Anh chỉ nên xét lại bản thân anh rồi nhìn thật rõ mọi hành động của cộng sản ở khắp nơi trên trái đất. Và anh sẽ may mắn hơn tôi, hơn chúng tôi, hơn dân tộc tôi, nếu anh biết thầm thì hỏi chinh bản thân anh: Bao giờ đến lượt mình bị cộng sản còng tay lại?

    Bây giờ, tôi nghĩ về tôi. Một nhà văn xuất thân là con nhà nghèo, tổ tiên cần cù lao động, không địa chủ bóc lột, không cường hào ác bà nên không phải là kẻ thù của giai cấp vô sản; thất học từ thời thơ ấu, không bị ảnh hưởng văn minh văn hóa tư bản, phong kiến nên không được xếp vào thành phân trí thức; không tôn giáo, đảng phải, nên không phải là kẻ thù của quyền bính; không ca ngợi dục tình nên không bị liệt vào hàng đồi trụy; y viết văn ca ngợi tuổi thơ, quê hương, những người công chính và những điều công chính; y yêu hòa bình và thù ghét chiến tranh; y ca ngợi tình người và mơ ước làm kẻ viết thông điệp cho cảm thông, gần gũi và thương yêu. Chỉ có thế. Y đã bị tịch thu toàn bộ tác phẩm, bị cấm tàng trữ chính tác phẩm của y, bị cấm hành nghề công khai, khí giới của y chỉ là chủ nghĩa; vậy mà đảng cộng sản bách chiến bách thắng phải vận dụng một bầy mật vụ võ trang súng ngắn súng dài, còng tay y lại rồi mới dám đọc quyết định bắt ý bỏ tù thì y rất xứng đáng hãnh diện.

    Nhà văn, anh đã chấp cộng sản không những hai tay mà còn cả hai chân nữa. Họ sợ hãi anh, sợ hãi ảnh hưởng tư tưởng của anh, nên mới phải bắt anh. Họ bắt anh, nhốt anh vào sà lim, còng tay còng chân anh lại rồi mới dám tiêu diệt ảnh hưởng anh trên sách báo, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình của họ. Chưa đủ, anh đã chấp họ hai tay, hai chân mà họ vẫn chưa dám một mình đánh anh. Họ phải kêu gào quần chúng làm hậu thuẫn của họ; bắt quần chúng học tập để thù ghét anh rồi mới đánh anh. Đó là chiêu thức bẩn và hèn của Nhạc Bất Quần cộng sản. Ở Việt Nam, ở Liên Xô và ở bất cứ hang hốc nào có cộng sản. Và, hèn hơn, họ phải giết người hiền lành khác để tạo lý do rất “lô-gích” – xin lỗi, cộng sản Việt Nam cứ mở miệng là lô-gích – mà bắt anh.

    Lý do rất “lô-gích” của họ để bắt chúng tôi là cái mà họ gọi là “vụ án hồ con rùa.”

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, xe tăng cộng sản nghiến lên những con đường RMK mở rộng, trải nhựa láng nhẵn, phẳng phiu. Đá và nhựa không biết đau đớn. Như chính sách của nước Mỹ ở Việt Nam. Như trò chơi chiến tranh của họ. Họ chơi chiến tranh ở nước tôi. Đủ kiểu. Có một kiểu quái đản nhất là kiểu chơi “không được phép chiến thắng.” Người Mỹ lớn không được phép chiến thắng nhưng người Mỹ bé được phép chết – chết khổ đến nỗi mãi hôm nay gia đình của họ vẫn chưa thấy tổ quốc tri ân một lóng xương vì cộng sản dấu kỹ để mua bán, đổi chác – và người Việt Nam được phép hy sinh xương máu, được phép thua cuộc, được phép tù đầy, được phép nhịn đói, được phép nhìn nhận 30-4 là ngày Quốc Hận! Đất nước còm cõi của tôi sao mà nhiều ngày quốc hận thế. Vừa mới quốc hận 20-7, đã có quốc hận 30-4. Lấp sống Bến Hài chán chê (bằng mồm, dĩ nhiên) lại đang hì hục đập xa lộ xuyên Thái Bình Dương để phát lời thể trở về ngồi trên “công viên ghế đá”, ngắm “hàng me già” và gặp lại “người em gái năm xưa”! Đá và nhựa không biết đau đớn. Vì nó không có trái tim. Và chúng tôi biết đau đớn.

    Niềm đau đớn riêng biệt của chúng tôi (có lẽ, là niềm đau đớn chung của tất cả vì nó là biểu tượng không dính dáng gì tới Mỹ, Ngụy, là cái đẹp đẽ của hai mươi năm miền Nam tự do tương đối), là thấy tác phẩm của chúng tôi nằm ngơ ngác trên các vỉa hè Sàigòn thất thủ. Văn học nghệ thuật miền Nam bán xon tập thể, đồng giá, mỏng 10 đồng, dày 30 đồng (tiền chế độ cũ). Văn học nghệ thuật miền Nằm buồn tủi, lẫn lộn với dép râu, dưới ống kính ngạo báng xấc láo của bọn quay phim Hà Nội. Tôi không hiểu tại sao các nhà xuất bản còn cố vơ vét chút tiền còm khi họ đã biết chắc chắn gia sản kếch xù của họ sắp tiêu ma và, thân thế họ sắp lận đận. Lê Xuyên, tác giả Chú Tư Cầu, dạo xem cảnh hoàng hôn chủ nghĩa miền Nam đã phát biểu một cậu chua xót: “Tôi đi xem người ta chôn tôi!” Người ta đã chôn những đứa con tinh thần của chúng tôi, người ta đã nhục mạ chúng tôi. Chưa đủ, Trần Bạch Đằng, “thi sĩ” cộng sản có bút hiệu Hưởng Triều, thét lên điệu ca “phanh thây uống màu quân thù”: Bọn văn nghệ miền Nam không còn đất sống dưới ánh mặt trời nữa! Tiếng thét của nghệ nhân rèn mã tấu Trần Bạch Đằng, có thể, đã làm một số người hoảng sợ. Nên Tố Hữu vội vàng ra lệnh cho Chế Lan Viên vào Sàigòn bằng “bài thơ bố xung” trong buổi họp đầu tiên của Văn Nghệ Giải Phóng tai trụ sở đường Trương Minh Giảng (sau nầy đổi thành Nguyễn văn Trỗi). Buổi họp ấy, người ta mời Bình Nguyên Lộc. Anh đã cáo ốm không đi. Chỉ có Sơn Nam phó hội với tư cách đảng viên cũ bị … mất liên lạc từ lâu và ông nhà văn Kẻ Tà Giáo, giáo sư triết hoc, với tư cách em vợ Trần Bạch Đằng! Chế Lan Viên múa gậy vườn hoang, biểu diễn thêm "Bổ xung bài thơ bổ xung.”

    Nhục mạ và đe dọa và trấn an rồi người ta phát động chiến dịch tận diệt văn hóa phản động, đồi trụy. Lớp lớp xuống đường, giăng khẩu hiệu, hò hét, hùng hổ tiến về các vỉa hè tịch thu sách báo cũ, từ điển cũ, sách giáo khoa cũ …; tiến vào nhà sách, các nhà cho thuê truyện, càn quét “tàn dư của Mỹ Ngụy.” Người ta không đốt đâu. Không có phần thư 1975. Người ta chia nhau đem về Hà Nội. Người ta giữ làm của quý. Người ta xé mỏng, cho mượn. Người ta nhân danh chủ nghĩa ưu việt để ăn cướp văn chương miền Nam một cách dơ dáy. Văn học nghệ thuật Sàigòn đã vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Nó lấn át văn học nghệ thuật khô cằn, văn học nghệ thuật đường một chiều, văn học nghệ thuật rèn mã tàu, nhồi thuốc súng của Hà Nội. Nó làm quên lảng “nhà thơ lớn nhat” Hồ Chí Minh. Nó hạ thấp “nhà thơ lớn nhì” Tố Hữu. Nó phơi phới. Nó là trận mưa mong ước của đại hạn miền Bắc. Nó vùng vẫy. Nó tung hoành. Nó thật sự chiến đấu. Súng đạn đã vất bỏ. Tướng tá đã phi tang tích chiến bào. Chữ nghĩa còn lại. Nhà văn vẫn nghênh ngang. Văn học nghệ thuật Sàigòn xô bồ lắm. Đồng ý. Nhưng nó tác dụng thật mạnh với những kẻ chiếm đóng Sàigòn. Cuốn lịch Tam Tông Miếu vẫn sừng sững. Nghệ thuật bói bài đã là mới lạ, thèm khát. Kể chi đến tư tưởng nhân bản và hành văn bay bổng của văn chương Sàigòn.

    Hà Nội tuyệt đường tiểu thuyết. Tiểu thuyết vẽ một chân trời mơ ước, mở một xã hội không giống xã hội hiện hữu. Và thế hệ phản kháng ở xã hội chủ nghĩa. Là phản động. Là đi tù. Hà Nội đọc tiểu thuyết Saigòn, chìm trong xã hội tiểu thuyết. Mê say. Mơ mộng cái gì khác hơn cái đã mòn teo ba mươi năm. Tiểu thuyết Sàigòn có những nhân vật thần tượng. Không phải Nixon, Brejnev, Hồ Chí Minh. Chỉ là người bình thường. Là Trần Đại. Là Chú Tư Cầu. Là Dzũng Dakao … Vậy mà Đảng đã điên lên. Phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy mở ra. Bên ngoài là máy chém, bom CBU. Bên trong là Phạm Duy, Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Nhất Hạnh. Thằng Vũ mang tội ác. Bồn lừa mang tội ác. Người “đàng ngoài” vô, ngươi “bưng biền” ra, thấy những tên sách triển lãm ở Phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy, tò mò đi tìm kiếm. Rồi đọc. Rồi mê. Và quên Đảng, quên Bác. Quà quý của Sàigòn là sách, truyện phản động mua lén. Đảng ra thông cao tháng 9, 1975, cấm phổ biến, lưu hành, tàng trữ toàn bộ tác phẩm của ngót 50 nhà văn phản động và đồi trụy. Thông báo học tập ở các trường, các cơ quan nhà nước, phường, khóm, phụ nữ, nhi đồng … Thông cáo đọc liên chi hồ điệp trên vô tuyến truyền hình, truyền thanh. Các nhà văn tiếng tăm của Sàigòn biến thành nhân viên CIA hết. Dĩ nhiên, có vài ông thoát cảnh bêu nhục vì đã dày công đức nuôi ông Vũ Hạnh ở trụ sở và ông Thái Bạch ở tòa soạn. Đảng càng chửi bới sách báo phản động, sách báo phản động lại càng sáng giá, lên giá vùng vụt. Sách báo Hà Nội đem vào chả ai thèm đọc, thèm mua. “Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng” không hấp dẫn bằng “cậu Chó”. Đang lại điên nữa. Báo Đảng bắt đầu “đặt vấn đề nghiêm túc” và đòi “có thái độ với bọn nhà văn phản động miền Nam.” Tháng 6, sĩ quan (các nhà văn quân đội, kể luôn) và viên chức chế độ cũ đã đi trình diễn học tập hết. Mặt trận súng đạn hoàn toàn yên lặng. Mặt trận chữ nghĩa khởi sự ồn ào.

    Từ 30-4-1975 đến 2-4-1976, cộng sản dành một thời gian khá dài để tiêu diệt ảnh hưởng của các nhà văn Sàigòn, đồng thời, chờ đợi nơi họ một thái độ mới thích nghi với chế độ mới. Cộng sản đã thất vọng. Những người có tiếng tăm, đa số, không thích khước bỏ vinh quang cũ của họ. Họ im lặng. Chỉ còn bọn cầm bút vớ vẩn, khờ khạo là lăng xăng trong trụ sở Hội Văn Nghệ Giải Phóng để mưu cầu công danh, hi vọng chiếm địa vị của đàn anh đã bị khu trừ khỏi sinh hoạt văn nghệ. Người ta thấy vô số những khuôn mặt “bốn sáu” trên tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng, trên giai phẩm Xuân Tin Sáng với những câu trả lời “phỏng vấn” cộng sản hơn cả cộng sản. Người ta đọc những bài thơ, những truyện ngắn của “nhà văn Sàigòn phản tỉnh”! Có cần thiết phải nêu tên họ ra không nhỉ? Với tôi thì không, mặc dù, trong đám họ, có kẻ vẫn tiêu bạc giả ở Mỹ, ở Pháp, sau khi cộng tác với cộng sản chán chê đến chán chường, họ đã trốn khỏi Sàigòn. Đảng chờ đợi nhà văn, nhà thơ Sàigòn đến. Mà nhà văn, nhà thơ Sàigòn thì cứ lơ lơ láo láo đi giữa đời sống mới, bất chấp mọi sự. Bọn này không sĩ quan, không viên chức chế độ cũ, không đảng phải, không tư sản mại bản, không tình báo nên không thể bắt chúng nó đóng 10 ngàn đồng đi trình diện học tập được. Phải tìm cách bắt chúng nó, phải chụp lên đầu chúng nó một cái tội thật …”lô-gích”, không phải là tội nhà văn. Trần Bạch Đằng thảo kế hoạch.

    Buổi tối 1 tháng 4 năm 1976, cộng sản gài mìn và cho nổ tung con rùa đồng đen dưới chân đài kỷ niệm các nước đồng mình viện trợ Việt Nam ở công trường Duy Tân (trước viện đại học Sàigòn). Tiếng nổ khá lớn. Tôi nghe rõ. Sáng hôm sau, đọc báo Tin Sáng, thấy tường thuật đầy đủ chi tiết vụ “phá hoại” của bọn công an và bộ đội vô sự. Thủ phạm bị bắt ngay tại phạm trường. Không đăng hình tên sát nhân. Chỉ đăng hình người chết để gây xúc động trong quần chúng. 12 tiếng đồng hồ sau vụ nổ, các nhà trí thức Thiên Chúa giáo, Phật giáo, các nhà văn, nhà báo lần lượt bị bắt. Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ, trí thức kéo dài từ 2-4 đến 8-4. Và ngừng lại. Mãi đến 28-4, mới bắt thêm vài người thuộc thành phần phát hành sách báo. Có thêm nhà thơ Thái Thủy và ông bố vợ Mặc Thu. Dư luận trong và ngoài nước rất xôn xao về chiến dịch này. Nhưng không một ai hiểu cái kế hoạch bắt nhà văn của đảng cộng sản quang vinh, bách chiến, bách thắng. Mãi đến giữa năm 1982, nghĩa là 6 năm sau vụ nổ, Huỳnh Bá Thành, tên mật vụ của phòng Bảo Vệ Chính Trị, tên tình báo nằm vùng trong tòa soạn nhật báo Điện Tín của nghị sĩ Hồng Sơn Đông, dưới bút hiệu Ớt vẽ hí hoạ, viết lại Vụ án hộ con rùa (nhà xuất bản Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh 1982) độc giả Sàigòn mới sững sờ, bán tin, bán nghi.

    Trong Vụ án hồ còn rùa, bỏ qua thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức giầy dép của Huỳnh Bá Thành, cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường Công Lý (sau này đối thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống nhau. Đằng Giao là Đỗ Gia. Chi Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lệ Dạ, Thu Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long … Cộng sản đề cao Hoàng Hà Đặng (tên thật là Đặng Hoàng Hà) như một lãnh tụ ghê gớm, ngang cơ với Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình bảo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây, trao mìn vào tay chúng tôi, chờ chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn Mỹ trước 1975, rồi khi tóm được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng “ăn mày,” những thằng “đói thuốc phiện thất thểu” vào tù đền tội, và “xưng em” với nữ công an ngọt xớt! Sẽ có dịp và ở nơi khác, tôi nói nhiều về cuốn Vụ án hồ con rùa. Ở đây, tôi chỉ muốn diễn tả cái lý do bẩn thỉu và hèn mọn của cộng sản đã tạo ra để bắt chúng tôi. Cộng sản không bao giờ đàn áp, bắt bớ các nhà văn, cộng sản luôn luôn quí trọng con người và tài năng con người. Cộng sản chị bắt bọn gài min sát hại lương dân, dù chúng nó là nhà văn! Đó, bạn đã hiểu lòng dạ cộng sản chưa? Rồi đến lượt bạn, với tội bẩn hơn, hiếp dâm chẳng hạn, dẫu bạn đã thực hiện Vietnam, A Television History hay dẫu bạn đã ngồi ghế chánh án xứ tử tên tội đồ chiến tranh đế quốc Mỹ trong cái gọi là tòa án hòa bình cà chớn của bạn.

    Chiếc xe Toyota dẫn tôi đến Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh. Tưởng cũng nên nói sơ quá về cái địa chỉ không cần biết số nhà này. Trước nữa thì tôi không biết, nhưng trước ngày anh em ông Ngô Đình Diệm làm “cách mạng tháng 10” – lại cách mạng tháng 10 – (Đất nước tôi nhiều cách mạng mới lắm quốc hận!) Địa chỉ này chỉ là nơi chốn của công an Bình Xuyên, sào huyệt của trang chúa Bảy Viễn, chuyên viên chứa thổ đồ hồ quốc doanh. Nơi chốn của công an là gì? Là giam cầm, tra tấn, xiềng xích và chết chóc. Nhà cách mạng Ngô Đình Diệm dẹp xong sứ quân thổ phỉ Bình Xuyên, vẫn để nguyên sào huyệt của trang chúa Bảy Viễn, cải danh thành Nha Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành. Quí vị tướng lãnh thoái nghịch làm “cách mạng tháng 11” không thay đổi gì về cái “Nha” nhiều nha dịch, nha lại quái ác này cả. Đến triều đại vẻ vang Nguyễn văn Thiệu, “Nha” vẫn là “Nha” với bom đạn, chiến thuật, chiến lược, người Mỹ cũng còn cố vấn cả cách bắt bớ, thẩm cung những kẻ đối lập ông Thiệu và cộng sản, và viện trợ còng, khóa, nhà giam. Nha Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành trở thành một trụ sở lý tưởng của bá đạo. Cộng sản tiếp thu “Nha”, cải danh xuống hạng “Sở”. Dụng cụ công an để nguyên, không hề vác ra triển lãm tại phòng Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy. Với châm ngôn Mác-xít, Lê-nin-nít, Hồ Chí Minh hít “bắt oan hơn tha lầm’, Sở Công An của thành phố mang tên Bác đã nhốt người vượt chỉ tiêu Mỹ Ngụy. Do đó, các kho chứa đồ phế thải của Sở cũng đươc dọn dẹp để giam người.

    Bạn vừa nghe tôi kể vài nét đan thanh của lịch sử một nhà lao bình dân ở đất nước tôi. Nó tiêu biểu cho thân phận một nước nhỏ, phải không bạn? Tôi muốn gọi nó là một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Các thứ chủ nghĩa đã đến nước tôi. Chả có gì để lại, ngoài nhà tù. Chả có gì để nhớ, ngoài nhà tù. Nỗi đau đớn của thời đại chúng ta là, khi cộng sản đến một nơi nào người Mỹ cuốn gói, thì y rằng, nhà tù mọc thêm và cộng sản chỉ xử dụng công cụ người Mỹ để lại. Ban suy nghĩ gì không? Riêng tôi, tôi nghĩ rằng, vì quê hương tôi có một địa chỉ chung của các chủ nghĩa nên chúng tôi có nô lệ, đói rách, ngu dốt, chiến tranh, chết chóc, thù hận, ngục tù và rồi mất quê hương.

    Tôi đã tới một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Quá nhiều sang nhượng, địa chỉ này mang tên Sở Công An, sau khi đã là Công An Nội Chính. Lần đầu tiên, tôi tới đây. Người ta lái xe vào phía sau căn nhà lớn, dừng lại, mở cửa và bảo tôi xuống. Rồi người ta dẫn tôi đến một phòng nhỏ, ánh sáng mờ mờ. Bảo tôi ngồi trên ghế dài, người ta cho phép tôi hút thuốc lá. Nhiệm vụ của những tên sinh viên nằm vùng chấm dứt. Từ lúc này, tôi chỉ còn gặp những khuôn mặt công an chuyên nghiệp. Một người, giọng miền Bắc thuần túy, mở cổng cho tôi và nói:

    - Họ khóa anh lâu chưa?

    - Hơn 6 tiếng, tôi đáp.

    - Bậy quá. Nhà nước mời các anh đi nghỉ ngơi ít bữa chứ đâu có bắt bớ giam cầm các anh. Hiện tượng, hiện tượng, luôn luôn là hiện tượng. Hiện tượng không bao giờ là bản chất. Chính sách đúng mà thi hành sai. Anh đừng buồn nhé!

    Tôi nín thinh. Người này mỉm cười, nói tiếp:

    - Thú thật, chúng tôi sợ các anh phá bầu cử.

    Chúng tôi phá bầu cử? Tại sao người ta sợ chúng tôi đủ thứ vậy? Người ta đã phát thẻ cử tri cho chúng tôi, không tước đoạt quyền công dân của chúng tôi. Chúng tôi được tham gia bầu cử Quốc Hội Cả Nước. Mấy hôm trước, đọc mục xã luận của tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng, biết chắc chắn rằng, chúng tôi rất thiếu “vinh dự” bỏ phiếu. “Những tên tướng, những tên đại tá ác ôn, buông súng là chúng hết ngóc đầu dậy. Nhưng bọn nhà văn nô dịch phản động, buông bút xuống, ảnh hưởng của chúng vẫn còn nguy hiểm cho nhiều thế hệ. Những tên nhà văn đã phục vụ cho guồng mày chiến tranh bẩn thỉu của Mỹ Ngụy không được phép tới gần các thùng phiếu của chúng ta.” Người ta không thích chúng tôi “tới gần các thùng phiếu.” Người ta cứ tưởng chúng tôi thèm bỏ phiếu lắm. Tôi đã tự khước quyền công dân của tôi từ lâu! Tôi chưa bao giờ biết bỏ phiếu. Tôi không khoái trò bỏ phiếu gian lận ở nước tôi. Điều tôi cảm thấy hãnh diện thêm về nhà văn chúng tôi là, cấm bỏ phiếu, cộng sản vẫn chưa yên tâm, phải bắt chúng tôi nhốt kỹ, họ mới dám tin tưởng bầu cử Quốc Hỏi Cả Nước thành công. Nhà văn Sàigòn nhờ cộng sản mới biết, mình còn sức mạnh phá hoại bầu cử!

    - Anh có nghĩ thế không?

    - Nghĩ gì, thưa anh?

    - Nghĩ rằng các anh sẽ phá bầu cử?

    - Bầu cử ăn nhằm gì tới chúng tôi?

    - Các anh tụ tập ở 104 Công Lý làm Báo Nói! Các anh toàn là chuyên gia các đài Tiếng Nói Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc, đài Sàigòn, đài Đà Lạt. Các anh rỉ tải phản tuyên truyền. Anh Hoàng Anh Tuấn là vua đặt chuyện tiếu lâm nhạo báng Đảng. Còn anh, vừa chế lời ca nhâm nhi vào bài hát cách mạng rồi xúi dục trẻ con hát. Cái nguy hiểm của các anh là ở chỗ đó.

    Tôi lại nin thinh. Và bất đầu ớn. Quả thật, tôi đã chế lời ca nhâm nhi vào các bài hát cách mạng và in trong sách của tôi. Từ 30-4-75, tôi chưa hề chơi trò này. Nhưng thấy dân Sàigòn đặt lời ca mới vào các bài ca của công sản, tôi phục sát đất, tự nhận mình thua xa. Tôi không đủ khả năng của dân gian. Nhưng tôi vẫn bị ám chỉ.

    - Anh có cảm tưởng gi? Người của Đảng hỏi.

    - Cảm tưởng gi, thưa anh?

    - Cảm tưởng chúng tôi mời anh tới đây?

    - Tôi không có cảm tưởng gì cả.

    - Có chữ, phát biểu di!

    Một người bị còng tay dẫn vào tù phải phát biểu cảm tưởng của y về sự người ta bắt y! Nó có về khôi hài. Hơn cả khôi hài. Nó hoàn toàn độc ác. Bạn đã đọc “giờ thứ hai mươi lăm” chưa? Bạn nghĩ thế nào về viên trung úy Mỹ yêu cầu anh nông dân Moritz “keep smiling, keep smiling” trước ống kính máy ảnh. Anh Moritz khó mà cười nổi. Còn tôi, tôi cũng khó mà phát biểu cảm tưởng.

    - Phát biểu đi!

    Tôi chợt nhớ cái tựa đề cuốn truyện tếu của tôi “Cám ơn em đã yêu anh” và tôi phát biểu ngắn, gọn:

    - Cám ơn anh đã bắt tôi!

    Tôi không ngờ lời phát biểu cù nhầy của tôi đã làm hài lòng người của Đảng.

    - Đúng, các anh phải cám ơn chúng tôi. Nếu chúng tôi không bắt các anh (bây giờ, người của Đảng chia động từ bắt) chúng nó sẽ quyến rũ các anh vào rừng. Chiến tranh lại kéo dài, và các anh sẽ bị chết thảm.

    Phần mở đầu từ cái phòng ánh sáng mờ mờ ở Sở Công An chấm dứt. Người của Đảng dẫn tôi đi, giao tôi cho chúa ngục Hai Phận. (Dần dà, bạn sẽ làm quen với Hai Phận, con người cộng sản mà tôi nghĩ còn vĩ đại hơn Hồ Chí Minh. Và chúng tôi đồng ý gọi ông ta là Hai Phận vĩ đại “sống mãi trong sự nghiệp” coi tù.) Hai Phận bắt tôi cởi hết quần áo. Ông ta nắn, rờ, mò mẫm kỹ lưỡng từ quần áo lót của tôi. Các thứ đồ đạt tôi mang theo trong túi quần áo và trong bị đều bị lục tung. Tiền bạc bị giữ lại, cấp cho cái biên nhận cầm chơi. Đồng hồ, nhẫn cưới cũng thế. Trò này, cộng sản gọi là đăng ký! Thẻ căn cước bọc nhựa, bằng lái xe bị tịch thu, và ghim vào hồ sơ. Cái kính viễn thì được phép mang vì tôi đã “gian dối” khái là tôi bị cận thị. Hai Phận ghi chép biên lai giữ đồ vật của tôi mất nửa tiếng. Đồng chí Lê Duẩn cũng không thể viết nhanh hơn. Bắt tôi trần truồng đứng chiêm ngưỡng hình bác Hồ treo trên tường chán chê, Hai Phận vĩ đại cho phép tôi mặc quần áo. Ông ta bắt đầu giáo dục tôi:

    - Kể từ nay, anh đi học, nghe chưa. Mà đi học là phải có thầy. Tôi là thầy anh.

    - Dạ.

    - Những người khác thì anh gọi họ là cán bộ. Riêng tôi, anh phải gọi là ông Trưởng trại.

    - Dạ.

    Hai Phận đích thân cầm xâu chìa khóa. Ông ta dẫn tôi vào phòng tập thể B, mở cửa sắt và tống tôi vô. Im lặng tuyệt đối. Hai Phận khép cửa phòng, cài chốt, ấn khóa. Ông ta mất hút trong hành lang cachot tối mờ.

    Comment


    • #3
      2.

      Nhà văn, nhà thơ trong chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Dương Nghiễm Mậu
      2. Doãn Quốc Sĩ
      3. Trần Dạ Từ
      4. Nhã Ca
      5. Lê Xuyên
      6. Nguyễn Mạnh Côn
      7. Thế Viên
      8. Thái Thủy
      9. Mặc Thử
      10. Vũ Hoàng Chương
      11. Duyên Anh ....

      Nguyễn Sĩ Tế bị bắt trước chiến dịch, bị “tình nghi trong tổ chức phản động”. Hồ Hữu Tường bị bắt năm 1977. Hoàng Hải Thủy bị bắt năm 1977, can tội gửi bài vở ra nước ngoài. Nguyễn Đình Toàn bị bắt năm 1977, can tội âm mưu vượt biên. Nguyễn Thụy Long bị bắt năm 1977, can tội phản động. Một nhà thơ duy nhất được đưa ra tòa kết án 18 năm khổ sai lao động là Tú Kếu “trong tổ chức chống phá cách mạng”.

      Nhà báo bị bắt trong chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Đằng Giao
      2. Chu Thị Thủy và đứa con mới sinh được vài ngày
      3. Hồng Dương
      4. Thanh Thương Hoàng
      5. Văn Kha
      6. Hồ Nam
      7. Đào Xuân Hiệp
      8. Như Phong
      9. Nguyễn Văn Minh
      10. Trịnh Viết Thành
      11. Anh Quân
      12. Xuyên Sơn
      13. Cao Sơn
      14. Đặng Hải Sơn
      15. Đặng Hoàng Hà
      16. Lê Văn Vũ Bắc Tiến
      17. Sao Biển
      18. Nguyễn Văn Mau
      19. Hồ Văn Đồng
      20. Lê Hiền
      21. Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
      22. Tô Ngọc
      23. Uyên Thao
      24. Lý Đại Nguyên
      25. Vương Hữu Đức
      26. Mai Thế Yên
      27. Tô Kiều Phương
      28. Mai Đức Khôi
      29. Lê Trọng Khôi

      Còn vài người nữa tôi không nhớ tên. Nguyễn Tú bị bắt từ đêm 30-4-1975 và đã chết ở khám Chí Hòa vì tê liệt. Trần Việt Sơn cũng bị bắt trước chiến dich 2-4-1976, được thả sau 3 năm tù đầy và đã chết trong khoảng tháng 9-1983.

      Đạo diễn điện ảnh bị bắt trong chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Hoàng Vĩnh Lộc
      2. Hoàng Anh Tuấn
      3. Thân Trọng Kỳ
      4. Minh Đăng Khánh

      Soạn giả cải lương bị bắt trong chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Mộc Linh

      Giám đốc các nhà phát hành bị bắt trong chiến dịch 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Nam Cường
      2. Đồng Nai
      3. Độc Lập
      4. Khai Trí (nhà sách Khai Trí)

      Họa sĩ bị bắt trong chiến dịch từ 2-4 đến 2804-1976:

      1. Nguyễn Hải Chí (Chóe)

      Dich giả bị bắt trong chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:

      1. Nguyễn Hữu Hiệu
      2. Nguyễn Hữu Trọng

      Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ quân đội, nếu là sĩ quan hay công chức cấp trưởng ty trở lên, đi trình diện học tập từ tháng 6-1975. Những người tôi biết:

      1. Thanh Tâm Tuyền
      2. Mai Trung Tĩnh
      3. Dương Hùng Cường
      4. Hà Thượng Nhân
      5. Phan Lạc Phúc
      6. Tô Thùy Yên
      7. Văn Quang
      8. Thảo Trường
      9. Duy Lam
      10. Phan Nhật Nam
      11. Huy Vân
      12. Đặng Trần Huân
      13. Hoàng Ngọc Liên
      14. Diên Nghị
      15. Phan Lạc Giang Đông
      16. Vũ Đức Nghiêm
      17. Vũ Văn Sâm (Thục Vũ)
      18. Đỗ Tiến Đức
      19. Minh Kỳ
      20. Thế Uyên
      21. Vũ Thành An
      22. Dương Kiền
      23. Đinh Tiến Luyện
      24. Nhất Bảng

      Những người đã chết trong ngực tù:

      1. Minh Kỳ
      2. Thục Vũ
      3. Nguyễn Mạnh Côn
      4. Nguyễn Tú
      5. Huy Vân

      Những người đã chết sau khi được tha:

      1. Vũ Hoàng Chương
      2. Hồ Hữu Tường
      3. Hoàng Vĩnh Lộc
      4. Minh Đăng Khánh
      5. Trần Việt Sơn

      Những người được tha rồi bị bắt lại: 1. Hoàng Hải Thủy
      2. Dương Hùng Cường
      3. Doãn Quốc Sĩ
      4. Nguyễn Đình Toàn

      Những người mới bị bắt từ tháng 4-1984:

      1. Nguyễn Hoạt
      2. Phạm Thiên Thư 1

      Những người trình diện từ tháng 6-1975 và bị bắt từ 2-4-1976 chưa hề được thả lần nào và vẫn còn nằm tù:

      1. Trịnh Viết Thành
      2. Trần Dạ Từ
      3. Tô Ngọc
      4. Nguyễn Viết Khánh
      5. Thảo Trường
      6. Duy Lam
      7. Phan Nhật Nam
      8. Hoàng Ngọc Liên
      9. Vũ Đức Nghiêm
      10. Văn Quang 2

      Những người không hề bị bắt:

      1. Thanh Lãng
      2. Phạm Việt Tuyền
      3. Nguyễn Quang Lãm
      4. Vũ Bằng
      5. Tam Lang
      6. Trần Lê Nguyễn
      7. Thượng Sĩ
      8. Toan Ánh
      9. Nguyễn Hiến Lê
      10. Bình Nguyên Lộc
      11. Nguyễn Xuân Hoàng
      12. Nguyễn Mộng Giác, v.v... và v.v...

      Những “cây chống cộng” và những “tiền bối” văn chương, đặc biệt tiền bối Toan Ánh Nguyễn Anh Toán còn được phép ký bút hiệu Lã Vi phóng tin ra ngoại quốc bêu nhục những người nằm tù. Riêng con số những nhà thơ, nhà văn công tác với cộng sản, xin miễn kể ra. Bởi vì, ít nhất, đã có 5 “nhà” vượt biên và xuất ngoại chính thức đang ồn ào chống cộng sản bên Mỹ. Kể rõ tên và các báo quý vị ấy đang cộng tác, sợ rằng quý vị ấy mất khí thế chống cộng.

      Anh hề dễ thương Khả Năng cũng bị … đi học tập. Cộng sản đánh giá thấp nhạc sĩ nên Phạm Đình Chương, Nhật Trường, Y Vân … cứ nhởn nhơ mà vượt biên hay ở lại mà lêu bêu ngoài đời. Năm 1980, sau 5 năm tiêu diệt ảnh hưởng văn học Sàigòn bằng đủ phương tiện truyền thông của Đảng và Nhà Nước, cảm thấy vẫn chưa ổn, vẫn còn sợ hãi, nhà xuất bản Sự Thật (Hà Nội, 1980) bèn tung ra cuốn sách ghê gớm, nhan đề nghe đã rụng tóc gáy: Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam. Biệt kích văn nghệ gồm 10 tên:

      1. Võ Phiến (di tản trước 30-4-1975)
      2. Vũ Khắc Khoan (di tản trước 30-4-1975)
      3. Nhất Hạnh (bị lưu đầy từ lâu)
      4. Nguyễn Mạnh Côn (chết tại Xuyên Mộc, 1979)
      5. Hồ Hữu Tường (sắp chết được thả ra ở trại Z30D, về nhà chết 1980)
      6. Dương Nghiễm Mậu (được thả đầu năm 1977)
      7. Nhã Ca (được thả đầu năm 1977)
      8. Mai Thảo (trốn chiến dịch 2-4-1976, vượt biên 1978)
      9. Doãn Quốc Sĩ (được thả cuối năm 1979)
      10. Duyên Anh (được thả 1981)

      Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng định “xử tử” thêm Phạm Duy, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền nhưng phải vội vàng cất kỹ máy chém vào “nhà truyền thống”. Bởi vì, quần chúng đọc Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam say sưa qua. Đọc xong rồi, kiếm tác phẩm của biệt kích văn nghệ đọc … bổ xung. Đảng bèn khẩn trương thu hồi cuốn “Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam” về đốt. Đồng thời, Đảng thộp cổ mấy chiến sĩ in lậu sách của biệt kích văn nghệ bằng roneo đưa ra tòa, kết án khổ sai chung thân! Kể ra thì Đảng hơi ngu. Có ngu mới trích câu này của Doãn Quốc Sĩ: “Tôi ví tôi như kim cương, răng cộng sản không thể cắn vỡ nó”. Có ngu mới trích câu này của Duyên Anh: “Cầm tay con Thúy êm ái hơn cầm tay bác Hồ”. Vân vân... Những sự ngu dốt của Đảng làm rất nhiều lão thành văn nhân, thi sĩ nổi giận. Quần chúng đặt câu hỏi hiểm hóc: Tại sao tiên chỉ văn học không bị bắt? Ờ nhỉ, có sự tréo cẳng ngỗng. Sĩ quan đi từ mút chỉ, lính học tập có 3 ngày. Dân quèn văn nghệ vào ấp, tiên chỉ và chánh tổng văn nghệ ở nhà. Trong chiến dich 2-4-1976, quý vị thấy sợ hãi toát mồ hôi. Thoát nạn, quý vị ấy thở phào sung sướng. Rồi ròng rã 8 năm, cộng sản không thèm bắt, đã đành, cũng chẳng thèm nhắc nhở quý vị ấy (dù để chửi bới), quý vị ấy thấm nỗi nhục … không bị bắt, quý vị ấy không dám cay cú cộng sản, liền trút những sự cay cú ấy vào những thằng nhà văn bị bỏ tù, bị bêu nhục, bị đói khát, bị lao động khổ sai hộc máu mồm. Quý vị ấy ung dung tự tại, cà phê sáng, rượu chiều và bốc máu chứng nhân lịch sử để ru rú xó nhà, phẩm bình người này người nọ quằn quại trong ngục tù và rất can đảm, rất “uy vũ bất năng khuất” gửi bài ra ngoại quốc không dám ký tên mình để mạ lỵ người này, nói xấu người kia vì đố kỵ, vì mặc cảm thua sút bị cộng sản coi như rác. Tôi không thể điểm mặt quý vì chứng nhân lịch sử này. Rất tiếc, tôi đang ở Pháp. Một cơn bốc nóng, có thể, làm khổ quý vị ấy và e rằng lịch sử mất hết chứng nhân rờ voi, chứng nhân xem chuông.

      Tôi vừa trình bày một danh sách tạm đầy đủ về nhà văn, nhà báo bị đàn áp thẳng thừng trong chiến dịch 2-4-1976. Qua danh sách này, trừ những nhà văn, nhà báo di tản trước 30-4-1975, và trừ những nhà văn ngàn đời không chính kiến, người đọc sẽ có 2 câu hỏi: 1. Tại sao một số khuôn mặt văn nghệ sừng sỏ cỡ tác giả Bão thời đại không hề bị bắt mà còn được leo lên máy bay … vượt biên? 2. Tại sao một số khuôn mặt văn nghệ có giải thưởng đã không bị bắt mà còn được cộng tác với văn nghệ của chế độ mới? Khi ấy, người ta nhân danh cái gì, nhân danh ai để vinh tôn hãy để bêu nhục những người ngụp lặn dưới vực sâu thống khổ, ê chề. “Đoạn trường ai có quá cầu mới hay.” Chưa qua cầu, chưa hay sự đời. Thì đừng nói phét, đừng phán xét những gì nghe người ta kể. Nếu đã qua cầu, sẽ hiểu, sự đời thường đen mà lại trắng, trắng mà lại đen. Đen và trắng đâu phải tại sự đời. Mà tại thói đời. Tôi qua chuyện khác.

      Trình diện học tập và bị bắt bỏ tù khác nhau. Do đó, quy chế giam giữ và đối xử cũng khác nhau. Người trình diện học tập, không bao giờ bị thẩm vấn, không bị nhốt trong phòng 24/24 năm nầy sang năm khác. Họ chỉ làm bạn tự khai tập thể, một lần duy nhất, rồi chờ đợi. Chung quy thì cũng chỉ là tù nhân cả, nhưng tù trình diện dể thở hơn tù bị bắt. Tù trình dện tự ý vào tù nên không bị còng tay tại nhà, bị khám xét và tịch thu món gì. Được quản lý bởi quân đội, những người tù trình diện đã có những tháng năm thoải mái. Thí dụ ở Phước Long. Họ có thể cắm lều ngủ với vợ mỗi lần vợ họ thăm nuôi họ. Vô số những cậu bé, cô bé mang tên Phước Long nhờ sự “nhân đạo” của Đảng! Cái ý chí chiến đấu đã buông xuôi ở những cuộc mây mưa ân huệ đó. Và nó chỉ dừng đúng từ cuối năm 1978, sự quản lý nằm trong tay công an. Người ta vẫn có thể làm tình dầu người ta đau đớn, tủi nhục và bị quản chế. Sự ưu đãi của kẻ thù luôn luôn ru ngủ lòng bất khuất. Người ta không thích bị ngược đãi, dù bị ngược đãi người ta mới thấm thía thân phận tù đay.

      Chúng tôi nằm trong tay công an từ phút đầu. Chúng tôi không có thời giờ chuẩn bị vào tù. Công an ập vào nhà chúng tôi, còng tay chúng tôi lại, khám xét nhà cửa, tịch thu đủ thứ rồi chở chúng tôi, từng người, tống vào nhà giam. Chúng tôi ở chung với trộm cướp, sát nhân ...
      --------------------------------
      1 Không chính xác lắm.
      2 Số các tù nhân tư tưởng bị bắt từ tháng 4-1984 và còn bị giam giữ không được chính xác lắm. Có thể bị bắt đông hơn và còn bị giam giữ đông hơn. Cũng có nhà văn nhà báo bị bắt khoảng 1978 can tội hình sự.

      Comment


      • #4
        3.

        Mỗi người có một cảm giác khi, lần đầu tiên trong đời, bước vào phòng giam của nhà tù. Cảm giác của tôi là sợ hãi. Anh phải nhớ rằng nhà tù và trại cải tạo khác nhau. Nếu tôi đã phục vụ quân đội như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên … tôi sẽ đóng một khoảng tiền ăn 10 ngày cho đơn vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai bà năm đầu, bộ đội quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh được làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một mình. Nỗi cô đơn của tôi không những chất ngất trên đường đời mà còn chất ngất trên đường tù. Và tôi sợ hãi nếu tôi không gặp người quen trong cái phòng giam ở địa chỉ chung của chủ nghĩa, của những thứ chủ nghĩa đã đưa dân tộc tôi phiêu lưu quá xa khỏi tình tự đích thực của mình, từ 100 năm nay.

        May quá, tôi đã gặp văn hữu. Người đầu tiên, Hoàng Anh Tuấn. “Nhà văn nghệ cao nhất nước” của tôi mặc trần xì cái quần đùi xắn cao tít lên thành một kiểu xì-líp … xã hội chủ nghĩa. Phòng giam chật ních gần 80 tù nhân, không khí nồng nặc mùi mồ hôi, mùi hôi nách, mùi nước đái và mùi khói thuốc. Tuy đã khuya và tuy cái quạt hút gió lắp ngược chạy xình xịch sát trần phòng, mồ hôi vẫn cứ chảy râm ran trên ngực phanh áo của Tuấn. Anh ta vỗ vai tôi, mỉm cười:

        - Sao mày đến muộn thế? Anh em đợi mày mỏi cả mắt!

        - Vì hôm nay họ mới hỏi thăm.

        - Lạ nhỉ, mãi hôm nay nó mới vồ mày.

        Bấy giờ, tôi hơi hơi lạ. Sau này, tôi hết lạ. Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kip vô bìa, thì Sàigòn mất, và cơ sở ấn loát Nguyễn Bá Tòng bị tiếp quản liền. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn… lên đường trực chỉ Sở Công An. Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ. Hôm sau, cả Sàigòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra 2 khách là nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, 2 khách công an đã phóng ra vỉa hè. “Nó đến bắt Mai Thảo.” Côn nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo. Công an không bắt được Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo. Như thế, có thể, tôi vuột luôn với Mai Thảo, họ bèn chấm dứt trò chơi và đưa tôi vào ngục.

        - Ừ, lạ thật. Tôi nói.

        Sau Hoàng Anh Tuấn, tôi nhận ra Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí (Chóe), Văn Kha, Đằng Giao, Hồ Nam… Hoàng Anh Tuấn thuyết trình:

        - Quần hào đã tụ tập hết ở Quang Minh Đỉnh! Bên cạnh chúng ta có Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Lê Xuyên. Trước mặt chúng ta có Doãn Quốc Sỉ, Nguyễn Mạnh Côn, Trần Dạ Từ, Thế Viên, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh…

        Hoàng Anh Tuấn lúc nào cũng có thể vui được. Những ngày ở sở Công An, nguồn vui của Tuấn là tranh luận với Thân Trọng Kỳ về điện ảnh. Tuấn chê Thân Trọng Kỳ chẳng hiểu điện ảnh tí gì, dù đã du học bên Mỹ. Tôi sẽ quên Hoàng Anh Tuấn nhiều thứ, kể cả những bài thơ thật bồng bế, những đóa hoa trên 10 ngón tay họ Hoàng, nhưng có 2 thứ tôi khong bao giờ quên Tuấn, 2 thứ quá đơn giản mà rất người. Thứ nhất, Tuấn nhường chỗ trên bục xi măng cho tôi nằm cạnh Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, tình nguyện vác chiếu xuống ngủ sát lối vào cầu tiêu. Luật lệ bất thành văn của bất cứ nhà tù ở bất cứ một chế độ Việt Nam nào là, hễ anh mới bước chân vào một phòng mới, anh đành chịu “tạm trú” ở nơi hẩm hiu nhất. Nơi hẩm hiu nhất của đêm tù đầu tiên của đời tôi là nền căn phòng ẩm ướt gần khít cửa vô nhà xí. Tù nhân, ngót 80 tù nhân, đêm như ngày, sẽ bước qua tôi, bước qua “nhà văn của tuổi trẻ,” bước qua cha đẻ của Trần Đại, James Dean Hùng, Hoàng Guitar, Dzũng Dakao để đi đái, đi ỉa! Hoàng Anh Tuấn không nỡ nhìn tôi nằm co ro khốn khổ. Tôi từ chối. Tuấn nói Tuấn thức suốt đêm, Tuấn chẳng cần ngủ. Thứ hai, Tuấn ngồi xếp bằng tròn “diện bích”, trân trọng lần chuỗi và đọc kinh. Lucifer cầu nguyện Chúa! Tuấn trả lời anh em: “Chúa không đến với tôi ngoài đời. Nhưng tôi biết ông theo tôi vào tủ. Và tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi cảm giác ấm áp vì có ổng trên tôi.”

        - Mấy hôm đầu, bị cơn ghiền hành hạ, ông Nguyên Mạnh Côn rên rỉ khiếp lắm.

        Đằng Giao nói. Vợ của Giao, Chu Thị Thủy – con gái Chu Tử – và đứa con sơ sinh cũng bị bắt. Chủ nghĩa cộng săn thù hằn cả sản phụ lẫn hài nhi! Thế mà người ta vẫn khoe khoang chế độ người ta ưu việt. Và thế giới vẫn bị huyễn hoặc bởi sự ưu việt lợm giọng ấy. Nếu có những vĩ đại lãnh tụ cộng sản tự hào về thành tích tù đầy của mình từ thiếu niên tranh đấu thì con trai út của Đằng Giao, sau này, xứng đáng tự hào hơn. Vì mới sinh ra đời 3 ngày, sinh ra giữa đời hòa bình thống nhất tổ quốc, đã can tội phản động, phải theo bố mẹ vào tù. Và nếu thế giới có bỉ thử chúng ta rằng, tại sao nước anh có nhiều tướng lãnh đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng thế, thì chúng ta còn chỗ dựa vớt vát: Nước tôi còn có vị anh hùng vĩ đại nhất loài người, mới 3 ngày đã nằm tù cộng sản! Một vết son của chế độ hay một dấu ấn dơ bẩn hằn lên chủ nghĩa? Câu trả lời dành cho lương tri của nhân loại.

        - Nguyễn Sĩ Tế nằm cachot. Nhã Cả nằm cachot. Lần lượt tới bọn mình. Linh mục Hoàng Quýnh về nước Chúa tháng trước, ở cachot. Linh mục Trần Hữu Thanh bị tê liệt, mới rời phòng nầy hôm kia. Cứ bình tĩnh.

        Như Phòng nói:

        - Tớ sẽ khước từ mọi khai báo. Tớ không vợ con nên có quyền cù nhầy. Các cậu đừng noi gương tớ. Chỉ đàn anh Trung Quốc mới cứu nổi chúng mình.

        Quân sư Phải Gió, nhà tiên đoán thời cuộc chơi bạo hơn Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Lúc ấy, tôi cho rằng Như Phong nói phét. Sau này, Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, tôi mới phục tài Như Phong.

        - Tớ lạ nhất trường hợp thằng Chóe.

        Chóe, hỗn danh của Nguyễn Hải Chí, giai cấp nông dân và có thể xếp vào hàng ngũ bần cố nông. Sinh quán ở Long Xuyên. Cha bỏ đi phiêu lưu từ nhỏ. Sống với mẹ. Ngày ngày đóng vai “cowboy” bên kinh rạch và hát bài tủ “Ai bảo chăn trâu là khổ”! Chiến tranh dẫn Chí lên Sàigòn, đăng lính, đeo lon hạ sĩ, phục vụ tại Tống Tham Mưu. Hạ sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp nghìn lần Cao Văn Viên. Khi đại tướng tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lịnh nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng giam của Cục An Ninh quân đội. Trước ngày tổng thống anh minh Nguyễn Văn Thiệu tự vặn ốc đinh bù loong khỏi cặp đùi rời ghế rồng chừng 3 tháng, đám cầy cáo Hoàng Đức Nhã, Đặng Văn Quang đã bắt một số ký giả chống “độc diễn” năm xưa và thường xuyên diễu cợt Thiệu. Một cái chảo to tướng chụp lên đầu Sức Mấy, Chóe: Cộng sản. Chóe bị bắt cùng lúc với vài tên ký giả nằm vùng. Vì Chóe gốc quân đội nên Chóe về nằm ấp Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dịp này, Tổng Nha Cảnh Sát cũng bắt Mặc Thử, Vũ Bằng không phải lý do chính trị mà do nhà tỷ phú Phạm Quang Khai gài bẫy!

        Chiều 30-4-1975, các thư cục lớn nhỏ trong cái Cục An Ninh chuồn đâu mất tích. Một mình Chóe mở cửa nhà giam đi về nhà thơ thới hân hoan. Rồi Chóe về chỗ nhật báo Tin Sáng của bọn thời cơ chủ nghĩa Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Bình, Hồ Ngọc Nhuận, ký biệt hiệu Ta. Rồi Chóe được mời làm thư ký toà soạn cho tuần báo Lao Động Mới của công đoàn thành phố, dưới trướng đồng chí Nguyễn Hộ, ăn lương biên chế cán bộ. Và rồi, công an bảo vệ chính trị đem còng tới tận nhà Chóe đưa Chóe vào nhà lao. Người ta đã phẩm bình Chóe rằng tại sao Chóe cộng tác với chế độ mới và đả kích chế độ cũ. Người ta không chịu tìm hiểu cuộc đời Chóe. Chế độ cũ cho tài năng số 1 về hí họa của đất nước cái gì? Một cái lon hạ sĩ và những tháng tù đầy! Cộng sản rất gian ác nhưng đã không ngu. Nó nhìn rõ tài năng hiếm có của Chóe. Nó biết Barry Hilton đã in tập hi hóa của Chóe. Hilton bị áp lực của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nên không đem phát hành tập hí họa. (Vì trong tập hí họa nầy, Chóe lố bịch Nixon va Kissinger rất điêu luyện và rất độc địa. Barry Hilton là công chức của Bộ Ngoại Giao. Người ta đặt 2 điều kiện. Một: Rời khỏi ngành ngoại giao thì phát hành tập hí họa của Chóe. Hai: Ở lại ngành ngoại giao thi hủy tập hí họa đi. Hilton chọn điều kiện thứ 2.) Do đó, thế giới chưa biết tài năng của Chóe. Nếu tập hí họa của Chóe được phát hành, thế giới đã ồn ào can thiệp cho Chóe, khỏi cần đợi mãi đến cuối năm 1983, người ta mới đi hỏi vung vít khắp nơi về lý lịch một họa sĩ trứ danh tên là Nguyễn Hải Chí. Nó biết hoàn cảnh sống hiện tại của Chóe. Nó biết giai cấp xã hội của Chóe. Nó biết mức độ và ảnh hưởng chống đối trước đây của Chóe. Và nó xử dụng Chóe. Nó xử dụng Chóe để thu hút những tài năng khác còn cay cú, ngờ vực nó. Nó cần Chóe một giai đoạn nào đó thôi. Chóe chưa có kinh nghiệm cộng sản, Chóe còn trẻ, Chóe vừa mang thương tích chế độ cũ. Chóe bèn trả thù 3 tháng năm tù oan ức ở Cục An Ninh quân đội bằng cách giao du với cộng sản. Rồi Chóe lại bị cộng sản bắt giam. Lần này lâu quá, đã 9 năm rồi đấy. 9 năm tức là 108 tháng! Người ta cứ thích phẩm bình và phẩm bình. Chưa thấy ai đem tiền bạc nuôi Chóe và bảo Chóe đừng công tác với cộng sản. Và, hình như, vẫn chưa thấy ai gởi quà về trại Gia Trung tặng Chóe, ngoài vợ con của Chóe 1. Nhưng người ta đã thấy, trên các tạp chí màu sắc lòe loẹt, vài anh đại tá hạng bét, học đòi mang tâm sự Mã Chiếm Sơn, dâng hoa tặng gái hoa hậu, cười toe toét. Và nhận những tràng pháo tay. Khi ấy, Phan Nhật Nam quạnh hiu ở Thanh Hóa, Văn Quang rã rượi ở Sơn La, Tô Thùy Yên mệt mỏi ở Hàm Tân, Thảo Trường phờ phạc ở Vĩnh Phú.. Đó là sự lạ lùng của Như Phong.

        - Hôm qua có chuyện vui lắm, Đằng Giao nói, nếu ông vô cùng lượt tôi, cuộc chơi sẽ vui hơn.

        Anh em bị bắt từ 2-4, trừ Nguyễn Hữu Hiệu và Dương Nghiễm Mậu trầm lặng, thường tụ tập gần cửa sắt chấn song đan khit nhìn thẳng sang khu cachot, cũng là lối dẫn tù mới vào 2 phòng A, B, xem đến lượt thằng nhà văn, nhà thơ nào … nhập Cõi. Hồ Nam đến trước tôi một hôm. Khi Hồ Nam thấp thoáng, Đằng Giao kể, trong phòng đã chuẩn bị đón chàng. Đạo diễn hò hét: Thằng Trưởng phòng Thu ngồi xếp bằng tròn trên bục, lẹ đi. Mặt mày phải thật cô hồn. Mày không cần hỏi han gì cả. Cứ ngậm miệng. Hai đứa khác quạt, 2 đứa khác đấm bóp cho nó. Cấm cười. Tất cả nghiêm trang, sợ hãi. Thủ Trưởng phòng to xác, can tội dắt tàn quân vô bưng biền tìm đơn vị cũ. Hồ Nam lọt cõi B. Anh em mừng quá. Chàng ký giả biết cả những điều mình không biết lơ lơ láo láo. Chàng thấy 4 nhà văn, nhà báo gồ ghề đang phục vụ Trưởng phòng thì chàng bèn hình tượng vua tù và tù con so của chế độ cũ. Chàng rét. Chàng đứng trơ trơ. Đạo diễn ra hiệu. Một tên nhà văn phục dịch Trưởng phòng hất đầu: “Chào Trưởng phòng đi, Hồ Nam.” Hồ Nam quýu lưỡi: “Xin chào ông Trưởng phòng”. Trưởng phòng nín khe. “ Mày có thuốc là không?” Hồ Nam móc bị hành lý ra 2 gói Bastos de Luxe, trịnh trọng để lên bục. Anh em nhào tới, xé ra, mời nhau hút. Và cười rộ. Hồ Nam cười theo. Hú vía!

        Sau Đằng Giao là Dương Nghiễm Mậu kể những giây phút công an ập vào nhà mình. Mậu thở dài: “Tôi chỉ tiếc mấy tập bản thảo viết từ tháng 5, 1975. Họ tịch thu hết”. Tôi hỏi: “Cậu viết về cái gi?” Mậu đáp: “Về sự hấp hối của Sàigòn trọn ngày 30-4 mà tôi nhìn rõ, nghe rõ”. Mai Thảo, có lần nói với tôi, trước chiến dịch 2-4-1976: “Cần 20 thằng nhà văn cự phách mới có nổi đại tác phẩm Sàigòn, ngày dài nhất”. Mai Thảo nói đúng. Tôi nghĩ Mậu đã viết và Mai Thảo đã nghĩ tới, chắc chắn, nhiều anh em khác đã viết, đã nghĩ tới. Nhưng bao giờ thế giới mới được đọc Sàigòn, ngày dài nhất, ngày dài nhất cho kẻ chiến thắng lẫn người chiến bại, cho cả đồng mình phản phúc lẫn thế giới toa rập, cho cả thủ đoạn hân hoan mất Sàigòn của Mỹ lẫn âm mưu dơ bẩn không muốn mất Sàigòn của Liên Xô, Trung Quốc… Sàigòn, ngày dài nhất của nhà văn Việt Nam, của những tâm hồn đích thực Việt Nam, không phải của bọn nhà báo Mỹ đê tiện vừa ngửa tay lãnh tiền CIA vừa ngửa tay lãnh tiền KGB. Thế giới, nhất là thế giới thứ 3, và đặc biệt các nước đang diễn trò quân ta giết quân mình bằng ý thức hệ cộng sản, tư bản, bằng bom đạn Mỹ, hỏa tiễn Nga cần học tập kinh nghiệm Sàigòn, ngày dài nhất, ngày dài nhất của hậu quả 20 năm khốn khổ nhất của lịch sử chiến tranh nhân loại. Và sau ngày dài nhất ấy là năm tháng dài nhất của đói rách, ngu dốt, hận thù, trại tập trung, nhà tù. Và vẫn chiến tranh!

        Hình như thế giới vẫn bị mê hoặc trong sương mù chiến tranh ý thức hệ. Thực ra trò chơi của ý thức hệ đã chấm dứt. Ngày nay không còn ý thức hệ vô sản chơi nhau với ý thức hệ tư bản và các ý thức hệ khác nữa. Chủ nghĩa của Marx, Angel đã bị phôi pha từ sự “sáng tạo” của Lenine, từ sự thoát lý của Tito, từ sự tách rời của Mao Trạch Đông. Bây giờ, chỉ còn là sự tranh chấp quyền lực, tranh chấp ảnh hưởng giữa 2 thế lực mạnh nhất, dã man nhất, đê tiện nhất, xảo quyệt nhất. Hai thế lúc ấy, tạm dùng chữ nghĩa của Hồ Hữu Tường, là văn minh chính ủy và văn minh cơ khí. (Nếu Hồ Hữu Tưởng còn sống và đang có mặt ở Mỹ, ở Âu, ông sẽ sửa văn minh cơ khi thành văn minh bấm nút.) Ngày nay, không một thế lực nào dám mở miệng nói về chính nghĩa, về lý tưởng nữa. Hay mở mắt hướng về việt Nam! Hãy nhìn rõ cái lý tưởng giải phóng dân tộc bị trị của công sản! Hay hỏi xem 10 năm ròng rã kháng chiến chống thực dân Pháp được cái gì và mất những gì? Được cái lớn nhất và vĩ đại nhất là sự nghiệp “cứu nước” của ông Hồ Chí Minh, là tên tuổi danh vọng của ông Võ Nguyên Giáp, là nền độc lập cưa đôi xử sở, là tiếng thơm “dân tộc anh hùng” viễn vông, là … Hồ Chí Minh muôn năm! Cái mất lớn nhất, vĩ đại nhất là 1 triệu 500 ngàn dân Việt Nam chết ghê rợn bằng 1 triệu 500 ngàn cách giết, kiểu giết, lối giết của cháu yêu của ông Hồ trong mùa liên hoan máu Cải Cách Ruộng Đất năm 1956 và kế tiếp là mùa liên hoan máu sửa sai, thêm 500 ngàn cháu yêu của ông Hồ “tình nguyện” chết bằng 500 ngàn mẫu chết khiếp đảm nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nhân dân. Chưa kể một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam và hàng chục ngàn trí thức tinh hóa của đất nước vùi xác ở chiến trường và rừng già thủ tiêu ròng rã 10 năm kháng chiến đánh bóng cho Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản. Hãy mở mắt hướng về Mã Lai, một nước vô danh tiểu tốt, một nước đói kém văn hóa, văn hiến, một nước hiếm hoi anh hùng! Mã Lại gần Việt Nam lắm, cũng nô lệ 100 năm đấy, cũng Nhật đến đuổi Anh, cùng cộng sản nhi nhô. Thế mà, chẳng cần 10 năm kháng chiến, chẳng cần tiêu thổ kháng chiến, chẳng cần quy định giai cấp, chẳng cần đấu tố, chẳng tốn một giọt máu nào, Mã Lai vẫn độc lập. Độc lập trong hòa bình và đoàn tụ. Độc lập theo kiểu độc lập nước nhỏ. Đừng đòi hỏi độc lập toàn vẹn cho bất cứ một nước nhỏ nào trên thế giới, ở thời đại của chúng ta. Mày độc lập chính trị thì tao áp đặt nô lệ kinh tế lên đầu xứ sở máy. Dân tộc mày cứ chống tao đi, không sao, tao nắm cổ bọn thống trị thôi. Mày ái quốc cách mấy cũng khó thoát khỏi lưới thép thực dân mới, thoát khỏi móng vuốt đô la! Đó, nhìn rõ chưa? Chính nghĩa và lý tưởng cộng sản đã rực rỡ trên một nửa bản đồ hình chữ S. Chưa hết đâu, lý tưởng giải phóng còn tiến xa, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến sâu vào tội ác thêm hai mươi năm nữa.

        Hai mươi năm sáng danh “chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng” ở Việt Nam, ở toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, được cái gì và mất những gì? Nói về cái mất trước. Hàng mấy thế hệ thanh niên, cả 2 miền Nam Bắc, chết thê thảm, chết văng chân lên trời, chết cắm đầu xuống đất bởi bom Mỹ, hỏa tiễn Nga. Dọc Trường Sơn, trên đường mòn Hồ Chí Minh, xương khô và xương khô, lóng tay và đầu lâu ngỗn ngang như đất cục, như củi mục! Không đếm xuể mồ mả của dân lành vô tội được hóa kiếp bởi bom napal, bom bi, bom B52 tư bản, đạn đại bác, hỏa tiễn vô sản. “Vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì Đảng cộng sản, quân đội ta tiến lên!” Quân đội ta chết nhiều quá. Những sư đoàn lừng lẫy Điện Biên Phủ năm xưa chỉ còn cái tên, người đã bị nướng hết. Thôn quê miền Bắc hết sạch thanh niên trên 17 tuổi. Đảng vay tuổi – ôi chủ nghĩa cộng sản! – thiếu niên. Vì lý tưởng, nhãi ranh 15 tuổi nhập ngũ. Vì lý tưởng, không, vì hết lính hứng bom Mỹ cho lý tưởng, nhi đồng 15 tuổi bị võ trang bằng thù hận, bằng mồi thơm dũng sĩ, bằng AK và một tuần tập bắn rồi bị tung vào chiến trường. Và thành liệt sĩ. Và thành thương phê binh. Số ít sống sót thành chiến sĩ anh hùng quanh năm ăn cơm gạo hẩm trộn khoai sắn với rau muống già luộc chấm nước muối. Cả chục ngàn dân bị chôn sống ở Huế mùa Tổng Công Kích Mậu Thân. Rồi buồn vì lính vô sản chết nhiều mà chôn sống dân lập thành tích quá ít, lại thua đau, mất luôn chủ tịch vĩ đại Hồ Chí Minh. Trước khi nhắm mắt để vào hòm kính, Hồ Chí Minh muôn năm đã phát điên. Lăng của chủ tich là một sự cười đùa trên nỗi khổ của nhân dân. Chỗ nằm của xác chết giá trị bằng lương thực nuôi cả dân miền Bắc một năm! Có thể hai, ba năm. Tiến nhanh, tiến mạnh, lý tưởng giải phóng tự thiêu quân mình và nướng dân mình ở Bình Long, ở Quảng Trị, ở Quy Nhơn, ở Kontum. Cái lý tưởng giết người của chủ nghĩa cộng sản đã mê hoặc bọn lãnh tụ Việt Nam. Họ chấp nhận mọi lạc hậu về khoa học, kỹ thuật, họ thản nhiên bắt dân đói khổ, ngu dốt, họ khích lệ tuổi trẻ nhảy xuống vực thẳm chiến tranh mù mịt, lao vào họng súng tư bản, đứng giữa trời hứng bom đế quốc để thỏa mãn sự ưu việt của chủ nghĩa và óc sáng tạo của lãnh tụ. Họ đã chiến thắng đế quốc Mỹ ở Việt Nam, sau 20 năm gặm khoai đánh giặc. Nhưng được gì? Một quê hương hòa bình thống nhất, tan nát, rã rượi, chia lìa. Một mảnh đất đầy dẫy nhà tù, trại tập trung. Một vùng trời ngút ngàn thù hận anh em. Người Việt Nam trả thù người Việt Nam. Chẳng còn vấn đề thực dân, đế quốc nữa. Bây giờ là nanh vuốt Việt Nam khống chế Việt Nam. Và chủ nghĩa, và lý tưởng giải phóng đứng chót vót đỉnh cao thành công. Và người ta bảo đó là độc lập, tự do tìm thấy sau hai mươi năm chiến đấu gian khổ!

        Hãy mở mắt hướng về Mã Lai! Dân tộc ấy hòa bình trong chiến tranh triền miên của Việt Nam. Dân tộc ấy không được vinh dự thường xuyên đặt tít hàng đầu trên báo Mỹ, báo Pháp, báo Nhật, báo Đức… Về tỷ tỷ tấn bom rơi. Về triệu triệu người chết. Về Huế Mậu Thân. Về Mỹ Lai thảm sát. Không, dân tộc ấy bình thường. Do đó, đất nước Mã Lại thiếu một hố bom B52 nhưng thừa nhiều thành phố mới xây dựng, thừa lúa gạo, thừa cao su, thừa thiếc, thừa dầu hỏa. Và, hiện nay, Mã Lai, cái nước vớ vẩn ấy lại đóng vai trò quyết định số phận cả vùng Đông Nam Á, quyết định luôn cả số phận dân tộc anh hùng 20 năm chống Mỹ cứu nước! Nhìn rõ để thức tỉnh. Để nhận chân giá trị của lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản.

        Cái lý tưởng giải phóng dân tộc bị trị đã vậy còn cái lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ cho các nước chậm tiến của người quân tử Hoa Kỳ ra sao? Người quân tử Hoa Kỳ, bằng kinh nghiệm Việt Nam, ngày nay chúng ta có thể gọi là ngụy quân tử mà không sợ mình thiên kiến. Người Mỹ đến với các nước chậm tiến như một tên trọc phú đến với dân nghèo. Họ ồn ào thi ân, bố đức vì họ đã ngắm trước được những thứ họ sẽ thu về. Bọn lái buôn nào cũng tính toán kỹ lưỡng. Trong tác phẩm Một người Nga ở Saigon, tôi đã nói về người Mỹ ở Việt Nam. Và tôi khẳng định rõ rệt: Chính sách của nước Mỹ cư xử với dân tộc tôi không phải là dân tộc Mỹ. Tôi chống chính sách của chính phủ Mỹ, không chống dân tộc Mỹ. Bởi vì, suy nghĩ cho cùng, cái sự đầu tắt mặt tối, nợ đầm nợ đìa, đến chết vẫn chưa trả hết nợ cho nhà cửa, cho xe cộ, cho đủ mọi tiện nghi; đến chết vẫn chưa hiểu hạnh phúc đơn sơ, hạnh phúc thung dung của người phương Động của dân chúng Mỹ cũng là do thứ chính sách nó lệ hóa con người phóng ra từ một thứ chủ nghĩa đê tiện, thứ văn minh bấm nút. Tôi nói tiếp về lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ và sự có mặt của người Mỹ, chính sách Mỹ ở nước tôi. Trước hết, lý tưởng ấy được khai phóng một cách trịch thượng, xấc láo và đốn mạt. Nó khỏi sự bằng 2 bàn tay thân hữu. Rồi không thân hữu nữa. Vì nó không muốn kết bạn với nước nhỏ. Nó có đầy tớ. Nó rút bàn tay biểu tượng trên nên cờ sao sọc khỏi bàn tay nước nhỏ. Để nắm cổ nước nhỏ! Muốn nắm cổ nước nhỏ mà thao túng, nó phải tiêu diệt thần tượng của nước nhỏ, nó phải gạt loài người công chính mà đem mồi phú quý nhữ lũ cầy cao tay sai. Và nó đã chơi trò bẩn y hệt Nhạc Bất Quần cộng sản. Nếu cộng sản phát động quần chúng để chôn sống các giai cập đối nghịch thì người Mỹ cũng xúi bẩy các phong trào quần chúng vùng dậy bắn bỏ lãnh tụ của họ, kẻ đối nghịch với quyền lợi Mỹ. Cộng sản trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của nhân dân. Người Mỹ trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của các phong trào đối lập muốn có tự do, dân chủ thật sự! Về thủ thuật giết người ái quốc nước nhỏ, chỉ khoái xử dụng đầy tớ ngoan ngoãn, cộng sản và tư bản giống nhau. Tư bản tệ hơn cộng sản ở điểm, đã tình nguyện làm đầy tớ cho nó mà nó vẫn không bênh vực tận tình. Hà Nội và Sàigòn là sự so sánh chính xác nhất.

        Không hề thấy báo chí Liên Xô phê bình cuộc chiến đấu chống Mỹ của Hà Nội. Nghệ thuật tuyên truyền của Liên Xô đã kích thích cả ông già sắp chết, con nít còn hôi mùi sữa ủng hộ nước bạn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đến Simonov, nhà thơ kích thước của Liên Xô, còn chi một bài thơ ca ngợi sự hứng bom Mỹ của Hà Nội và lên án Mỹ kịch liệt. Ngoài Liên Xô, trước 30-4-1975, không hề thấy bảo chí Đông Âu nói xấu người anh em cộng sản Việt Nam. Không hề thấy một lời ngắn nào của các nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa công kích Hà Nội. Fidel Castro, người hùng của Mỹ Châu La Tinh, đã ca ngợi Hồ Chí Minh và cuộc chiến đấu ăn cướp của Hà Nội hết lời. Fidel Castro đã đánh bóng Hà Nội, đã huyễn hoặc các nước Nam Mỹ và Phi Châu. Chỉ Fidel Castro mới dám tạc tượng Nguyễn Văn Trỗi và xuất bản sách viết về anh hùng Nguyễn Văn Trỗi! Vân vân … Ngoài mặt, cộng sản nó cưu mang nhau lắm, nó “hữu nghị” thắm thiết lắm. Trong lòng nó, dĩ nhiên, bẩn thỉu, bẩn thỉu như lòng đàn anh nước lớn tư bản. Thế giới cộng sản nó chơi với nhau, thế đấy. Còn thế giới tự do chơi với nhau ra sao? Thế giới tự do luôn luôn ngoác cái miệng vinh tôn “Sàigòn là tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”, “Nam Việt Nam là thành trì bảo về tự do thể giới” nhưng cũng luôn luôn uốn lưỡi bôi nhọ Sàigòn đủ cách, đủ kiểu, mặc dù, đại diện của cái thế giới nhỏ mọn, bất công ấy đã làm giàu trong chiến tranh tủi nhục 20 năm của Sàigòn. Nhật Bản là con kên kên dơ dáy và vô liêm sỉ nhất. Nó tiêu biểu cho tinh thần giả đạo đức của thế giới tự do. Nó phơi bày nguyên vẹn tâm hồn lái buôn tư bản gian dối. Xoá bỏ cái thế giới tự do mù lòa đi, chỉ nói về ông chủ Mỹ thôi. Và hãy nói cái bề ngoài của ngụy quân tử Mỹ. Này, anh thế giới thứ 3, anh nước nhỏ chậm tiến, anh nên sưu tầm những câu thuộc loại “xú ngôn” phọt ra từ những cái miệng gang thép của quý vị nghị sĩ, dân biểu bọ cú về Saigon để suy gẫm. Nhiều lắm. Tôi xin đan cử một vị tiêu biểu cho tinh hoa của dân tộc Hoa Kỳ thôi. Vị này, ngài Fullright (Nếu tôi viết đúng càng tốt, viết sai cũng tốt luôn vì tôi có thể dịch rất bồi: Fullright là nghị sĩ của lẽ phải đầy nồi chân, là nghị sĩ công chính tràn trề, là nghị sĩ lụt lội lẽ phải, là nghị sĩ đầy quyền, vân vân …) đã nằm ngủ ở Hoa Thịnh Đốn, trong chiêm bao, ngài ú ớ: “Sàigòn là một ổ điểm!”. Anh thấy vị nghị sĩ tinh hoa của văn mình 200 năm Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ này có mặt dầy, vô giáo dục không? Kẻ thù của Mỹ là Liên Xô. Kẻ thù hung hãn nhất thời đó là Việt Cộng mà không dám sủa: “Washington là một ổ lưu manh!” Những đồng minh Mỹ đã xất xược ví thủ đô “nước bạn”, thủ đô của văn hóa, của văn học nghệ thuật, của mọi cơ cấu quốc gia, của anh hùng dân tộc Việt Nam là “ổ điếm” thì, quả thật, miệng ông ta và công ty có gang có thép. Nghị sĩ Mỹ chơi nước nhỏ kỹ lắm. Báo chí Mỹ chơi nước nhỏ kỹ hơn. Tôi không nói tất cả báo chí Mỹ. Điều này hồ đồ. Tôi chỉ nói cái số báo Mỹ đã chơi nước nhỏ mà Sàigòn là nạn nhân thê thảm của họ. Anh hãy đến thư viện nước Mỹ, bất cứ một thư viện lớn của tiểu bằng nào, lục lại các báo đã xuất bản năm 1954, trước ngày chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh mà đọc. Anh đừng quên đọc chuyện Mỹ du của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà báo chí Mỹ đã thắp hào quang rực rỡ chung quanh thân thế và sự nghiệp vị lãnh tụ anh minh của Nam Việt Nam. Đọc kỹ, anh nhé, chuỗi ngày dẹp sứ quân, chuỗi ngày xây dựng ấp chiến lược. Đủ rồi, anh lại tìm đọc, vẫn những tờ báo đã ca ngợi chí sĩ Diệm, bởi nhờ ông quyết liệt, xả láng, xuất bản năm 1963, trước ngày ông bị tay sai của Mỹ bắn chết trong xe bọc sắt của Mỹ. Họ đã khạc đờm xuống vỉa hè rồi họ hạ mình cúi liếm những bãi đờm họ đã khạc! Chữ nghĩa có 2 tiếng phản tỉnh vừa dễ yêu vừa ghê tởm. Những kẻ trót “bốc thơm” người khác, trót đánh bóng, mạ kền người khác vì những quyền lợi nào đó, khi cảm thấy mình hố hay khi cảm thấy quyền lợi mới beo bở hơn thì “thối” hóa “thơm” vá “thơm” hóa “thối”. Ngụ ngôn Tây phương đã có chuyện Cái lưỡi. Khổng Tử cũng đã luận về hạng người này. Và ở nước Mỹ, một vị tổng thống (tôi quên tên) đã nói thẳng vào mặt họ, đại ý: Bảo chỉ có thể bẩn thỉu, vô liêm sỉ, nhưng vẫn cần thiết có báo chí và tự do báo chí. Dĩ nhiên, tổng thống Mỹ luận về báo chí Mỹ. Vậy thì họ có quyền tự do khạc đờm rồi liếm lại đờm đã khạc trong 2 nghĩa bốc thơm, bốc thối. Chẳng sao, phản tỉnh là động từ tuyệt diệu để vỗ về lương tâm. Cũng còn để bán rẻ lương tâm nữa.

        Cái số báo chí đã nhục mạ quân đội của Sàigòn: “Chết bị xe cán nhiều hơn là chết bị Việt Cộng giết”, chắc chắn, chưa hề đọc “Nghĩa vụ luận” nghề nghiệp. Họ không ưa ông tướng Phan Trọng Chinh, họ bênh cố vấn của họ bị ông Chinh khinh thường thì họ cứ “bốc thối” ông Chinh, việc gì họ phải hèn hạ xuyên tạc lính của Sư đoàn 25? Nước tôi có một số nhỏ thông tín viên chuyên bán tin mật cho các báo Mỹ, các hãng thông tấn ngoại quốc. Những thằng này chỉ cần tiền nhảy đầm, đánh bạc mà moi móc tin bẩn của các nhà lãnh đạo Sàigòn và vợ con họ để cung cấp cho báo Mỹ. Và báo Mỹ đã không phê bình cá nhân các nhà lãnh đạo, mà nó cứ ra rả miệt thị chế độ Sàigòn. Báo chí Mỹ là lũ cán bộ tuyên truyền cấp xã của cộng sản Hà Nội. Đại khái vài nét đan thanh của cái gọi là khai phóng tự do, dân chủ của ngụy quân tử Hoa Kỳ. Dân tộc ta được những gì, mất những gì từ chính sách tân biên cương của trọc phú Mỹ. Trước hết, về cái được. Ngôn ngữ của chúng ta giàu có thêm nhờ những danh từ “ôkê sa lem, năm bờ oăn, chích cun đai, pho ren, yét nô, ốp lai mít, xăn ốp bít” vân vân… Sĩ giới thì phong phú bằng các thầy thông ngôn, các cô bán bar xuất thân từ những English courses. Chúng ta có cả một chuồng tiến sĩ các kiểu tốt nghiệp ở Mỹ. Nông dân của chúng ta được nghĩ làm ruộng vì phi công Mỹ cần chỗ dội bom. Chúng ta được ăn gạo Mỹ hột tròn, gạo Thái Lan. Rừng đồi của chúng ta được thay mầu vì thuốc khai hoang của Mỹ. Phụ nữ của chúng ta được công khai làm điếm. Bọn lưu manh được làm giàu bằng chiến tranh. Tuổi trẻ của chúng ta được chết hết ở chiến trường. Chúng ta được ăn nhiều đạn đại bác và các bà tướng được ăn cắp vỏ đạn đồng bán cho lái buôn nước ngoài kiếm đô la gửi ngân hàng Thụy Sĩ. Các thành phố lớn của chúng ta được mở sì-nách-ba, sòng bạc, nhà thổ. Chúng ta được bán hàng Mỹ lậu ở chợ trời. Kinh tế của chúng ta được ngưng sản xuất. Xã hội của chúng ta được xuống dốc. Văn hóa của chúng ta được để tóc dài. Chính trị của chúng ta được thao túng bởi lũ vai u thịt bắp. Quốc hội của chúng ta được buôn bán lich cởi truồng. Và, vĩ đại nhất từ lập quốc, chúng ta được suy tôn thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ! Tóm lại, chúng ta được quá nhiều đến nỗi không thể kể hết.

        Nhưng chúng ta cũng mất vô tả. Một nỗi mất dài dài, dài bằng lịch sử 200 năm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là nỗi mất nước. Về nỗi mất này, chúng ta đành chịu vì chúng ta khờ khạo, chúng ta không nhìn rõ cái gian manh của chính nghĩa 20 năm chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ. Và chúng ta không nhìn rõ lịch sử của chúng ta. Chúng ta cũng chẳng tiên đoán nổi những khúc rẽ oan nghiệt của lịch sử thế giới trong tương lai. Đừng bao giờ tự đặt chúng ta ở vào hoàn cảnh của Nam Triều Tiên hay Tây Đức. Nếu vị thế địa dư của chúng ta như ở Tây Đức thì dù lãnh đạo của chúng ta có ngu dốt, tham nhũng hơn nữa, Sàigòn vẫn cứ tồn tại. Và nếu Tây Đức hoán chuyển vị thế cho chúng ta, Tây Đức cũng sẽ bị dẹp đúng chu kỳ 20 năm. Sự có mặt của người Mỹ ở Việt Nam cùng với cuộc chiến mà người ta tưởng là “sa lầy” nhằm 3 mục đích rõ rệt: Một: Tạo dựng mâu thuẫn để chia rẽ Liên Xô và Trung Quốc. Hai: Thử vũ khí, đo vũ khí và thao dượt quân đội. Ba: Ngăn Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á. Mục đích thứ nhất thành công. Liên Xô và Trung Quốc đã biến thành cựu thù, thế lực của cộng sản giảm đi, ảnh hưởng của Cẩm Linh yếu dần, người Mỹ mở cửa vào Bắc Kính bằng xương máu lính Mỹ và lính Việt Nam cả 2 miền. Mục đích thứ 2 thành công. Ngay từ khi đắc cử tổng thống, ông Kennedy đã hứa với ông Hồ Chí Minh là “không xóa bỏ chế độ Hà Nội”. Vụ tàu Maddox dưới triều đại ông Johnson chỉ là cái cớ để không quân Mỹ học tập tránh né Sam-3, Sam-6 của Liên Xô. Hà Nội rêu rao Mỹ muốn xâm lược miền Bắc cũng chỉ nhằm khích động quân dân của mình và làm sáng “chính nghĩa” đánh Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam. Ông tướng Vĩnh Lộc, khi bị “biếm” về trường Cao Đẳng Quốc Phòng, có lần, dở trang báo Pháp chụp nguyên vẹn thành phố cảng Hải Phòng và buồn bã nói với tôi: “Ông xem, không tập dài dài, bao nhiêu phi vụ, bao nhiêu tấn bom mà Hải Phòng co sứt sát gì đâu. Họ đổ bom xuống núi!” Không lực Mỹ chỉ muốn đùa với lực lượng phòng không của công sản Hà Nội. Các kiểu máy bay oanh kích của họ đã vùng vẫy trên vùng trời miền Bắc. Chưa hề thấy một tên đảng viên cấp huyện nào chết vì bom Mỹ. Mà chỉ thấy dân vô tội chết oan, nhà cửa cháy rụi, mồ mà tổ tiên chúng ta bị khai quật. Vụ B52 “ta pi” bom xuống khu phố Khâm Thiên cũng không nhằm giải quyết chiến tranh. Đó là đòn của kẻ mạnh bắt kẻ yếu ngoan ngoãn, vì đã đến lúc … triệt buộc trong ván domino. Hà Nội cứ nói phét “Mỹ cút”. Mỹ cứ yên lặng để Hà Nói nói phét. Thế giới ghét Mỹ cứ hoan hô sự nói phét của Hà Nội. Tình báo Mỹ đã điều nghiên kỹ lưỡng. Khả năng chịu đựng B52 của Hà Nói không quá 12 ngày. Mỹ “ta pi” bom đúng 12 ngày thôi. Hà Nội vào bàn hội nghị nghiêm chỉnh. Nếu Mỹ đội bom thêm 1 ngày nữa, chỉ cần một ngày nữa thôi, Hà Nội đã đầu hàng, dân chúng miền Bắc đã hả hê và lịch sử Việt Nam đã khác hẳn. Nhưng sức mấy Mỹ thích Hà Nội tan rã. Bắc tiến là khẩu hiệu hò hét cho sướng miệng. Mỹ nuôi dưỡng chiến tranh Việt Nam, nuôi dưỡng cộng sản Việt Nam. Để dùng cộng sản Việt Nam làm “tiền đồn” ngăn Trung Quốc bành trướng thế lực khắp vùng Đông Nam Á.

        Mỹ nghiên cứu lịch sử Việt Nam tường tận. Những trang sử quật khởi làm nên bởi Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ cho Mỹ một bài học: Chỉ có dân tộc Việt Nam mới đủ khả năng bịt lối nam tiến của anh khổng lồ Trung Hoa. Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện không hề bị Trung Quốc đô hộ là nhờ cái nút Việt Nam đóng thật chặt. Nhật Bản muốn vùng vẫy ở Đông Nam Á cũng đã phải dùng Việt Nam làm bàn đạp. Mỹ đã hòa hoãn với Trung Quốc nhưng vẫn sợ Trung Quốc bành trướng. Đã đánh nhau với Hà Nói rồi, biết người biết mình rồi, Mỹ bỏ rơi Sàigòn và khoán cho Hà Nói làm phú-lít canh giữ không cho Trung Quốc xuống phía Nam. Lịch sử sang trang dễ dàng sau 20 năm âm mưu đê tiện. Mỹ giả vờ thua đau để gây phẫn nộ cho dân chúng, để chuẩn bị một khí thế dìều hâu y hệt vụ Trân Châu Cảng. Và ngân sách quốc gia dưới triều đại Jimmy Carter lên vọt. Và B-1 thay thế B52. Và bom sạch. Và vân vân … Và mới nhất Liban thê thảm. Mà không ai chửi chiến tranh dơ bẩn nữa! Mỹ xúi Việt Nam giải phóng Kampuchia. Tại sao? Vì sợ Kampuchia lọt vào tay bọn lãnh tụ tay chân của Bắc Kinh. Để Pol Pot va Iang Sary thủ tiêu hết bè lũ thân Liên Xô, để Pol Pot va Iang Sary dấn sâu vào tội ác và để hai tên đồ tể quá khích này phát động chiến tranh khắp biên giới Việt Miên, tràn qua lãnh thổ Việt Nam, khí thế đằng đằng, yêu sách hỗn xược, Mỹ mới bật đèn xanh cho Việt Nam. Và Việt Nam giải phóng Kampuchia cái rụp, ngon ơ, dưới cặp mắt sững sờ rồi nổi giận của Đặng Tiểu Binh. Không chiếm Kampuchia để Trung Quốc ép Việt Nam rồi thao túng Đông Nam Á à? Đâu được. Đạo diễn Mỹ lại trổ thêm thủ thuật. Liên Hiệp Quốc làm nổi trò gì cứu dân tộc Kampuchia? Những ông thông dịch Việt-Miên của đài phát thanh Hà Nội đã biến thành những lãnh tụ vĩ đại của nước cộng hòa nhân dân Khmer. Ván đã đóng thuyền. Đã đóng thuyền cho cuộc chơi của chính sách toàn cầu của Mỹ. Nhà đạo diễn xúi Trung Quốc “cho Việt Nam một bài hoc”. Đặng Tiểu Binh đánh qua rồi rút lẹ, sợ để lâu sẽ có thêm một Thoát Hoan, một Tôn Sĩ Nghị! Cộng sản Việt Nam đã là một cái xác chết. Đấm đá xác chết chỉ tổ mỏi tay thôi. Cái xác chết được dựng lên bởi đạo diễn Mỹ. Muốn xác chết gục xuống, chỉ cần biết thọc nách đạo diễn Mỹ. Buồn thay, người ta, những người muốn tiêu diệt cộng sản Việt Nam, vẫn ngây thơ ôm chân Mỹ, trông cậy Mỹ sẽ có lần đưa mình về giải thoát xứ sở. Ông Ford đã dõng dạc tuyên bố: “Lịch sử đã sang trang”. Người Mỹ đã hết sứ mạng “khai phóng tự do, dân chủ” ở Việt Nam rồi! Lật lại lịch sử để hồi tưởng, để học tập chứ không để … “encore une fois”! Chắc chắn, người Mỹ chỉ làm lịch sử Mỹ. Làm lại lịch sử Việt Nam phải là người Việt Nam, phải là tâm hồn Việt Nam đích thực.

        Tóm tắt: Không còn chiến tranh ý thức hệ nữa. Quá độ của thứ chiến tranh này là sự chia vùng ảnh hưởng của hai thế lực bất lương, bất nhân. Ngày kia, chúng sẽ diệt lẫn nhau. Và nhân loai mơ ước cả 2 thế lực sẽ bị dìm sâu dưới đại hồng thủy. Để con người xứng đáng làm người. Nhưng mỗi con người, trước đó, cần truy nã thân phận mình, cần phải nhớ rằng, làm đấy tớ cho cộng sản thì khổ, lắm đấy tớ cho tư bản thì nhục. Nỗi khổ và nỗi nhục nhìn rõ ở Việt Nam, từ Sàigòn, ngày dài nhất.

        Đêm đầu tiên trong cuộc đời tù đầy của tôi là đêm đầu tiên ở Một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Tôi đã nằm trên bục xi măng, cố nhắm mắt mà không sao ngủ nổi. Tự nhiên, tôi nhớ miếng bìa đỏ ghi họ và tên của một người quen ghim vào tấm các-tông lớn treo trên tường văn phòng Hai Phận. Họ và tên của những người khác ghi trên bìa xanh. Tại sao họ và tên người quen tôi, người dính líu với tôi những vấn đề mới nhất lại bìa đỏ? Tôi nằm không yên. Tôi ngồi dậy, ra cửa hút thuốc lá với Hoàng Anh Tuấn. Và tôi bắt đầu nghĩ đến sự tra tấn. Tôi sợ …
        --------------------------------
        1 Đã được trả tự do khoảng 1986 - Chú thích của nhà xuất bản.

        Comment


        • #5
          4.

          Không phải tôi thích ở lại làm chứng nhân lịch sử. Tôi đã thành khẩn nói lên điều này trong lời tựa của hồi kỳ Nhà tù. Trung tuần tháng 4 năm 1975,...Hoàng Hải Thủy báo tin cho tôi biết là người Mỹ sẽ di tản toàn bộ khỏi Sàigòn và muốn đưa một số nhà văn, chủ bút, chủ nhiệm rời Việt nam để tránh sự trả thù cộng sản. Bấy giờ, Hoàng Hải Thủy làm phụ tá chủ bút tạp chí Cảm Thông của Phòng Thông Tin Mỹ trực thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Như những nhà văn khác, tôi đã đến Usis đường Lê Quý Đôn ghi tên. Tôi đã gặp Phạm Kim Vinh, Đỗ Quý Toàn, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Viết Khánh, Doãn Quốc Sĩ … ở một nơi mà nếu không có 30-4-75 thì tôi không bao giờ thèm đặt chân tới. Giữa tôi và Usis có một mối thù. Mối thù nhẹ: Hồi nó còn là Juspao chễm chệ tại đường Nguyễn Huệ, Mark Crooker, viên chức Mỹ loại xịa, đọc nhật báo Sống, thấy tôi không mấy thiện cảm với chánh sách Mỹ ở Việt Nam, đã làm quen với tôi. Anh ta khuyên tôi nên Mỹ du ba tháng dưới sự bảo trợ của chính phủ Mỹ. Tôi nói tiếng Mỹ tôi nghèo lắm. Anh ta bảo không cần. Anh ta "tét" tôi vớ vẩn rồi đem hồ sơ đến tận báo Sống chỉ dẫn cách điền vào những ô cần thiết. Nửa tháng sau, Mark Crooker tìm tôi, buồn bã: “Tôi rất ân hận. Mọi chuyện đã kể như xong, bất ngờ boss của tôi đổi ý. Một nhân viên Việt Nam báo cáo với ông ấy rằng Duyên Anh chống Mỹ quá khích. Ông ấy sợ trách nhiệm.” Tôi cười: “Thế càng tốt, sợ đi Mỹ về, tôi chửi bọn quan lại Mỹ ở Việt Nam kỹ hơn vì Mỹ ở Mỹ khác Mỹ ở Sàigòn”. Mark Crooker cười theo. Chúng tôi trở thành bạn. Crooker nói tiếng Việt rất giỏi và khoái tiếu lâm Việt Nam. Hôm anh hết nhiệm kỳ, anh có mời tôi dự tiệc từ giã Việt Nam. Tôi không đi. Mối thù nặng: Lũ cầy cáo ở Usis đã xúi chủ Mỹ áp lực với Bộ Thông Tin cấm tôi viết phóng sự Tiền Mẽo Sến Việt trên báo Sống. Đinh Trình Chính cấm luôn cả bút hiệu Thương Sinh của tôi. Thế mà tôi lại phải vát mặt đến Usis ghi tên vô danh sách … di tản. Rốt cuộc, Alan Carter, sứ thần và giám đốc Usis đã bỏ rơi chúng tôi, mặc dù, trong bài diễn vẫn rửa tay chạy tội, Ford đã hứa bằng mọi cách phải di tản những nhà văn, chủ bút, chủ nhiệm càng sớm càng tốt.

          Một người duy nhất, trước khi bỏ con chạy thục mạng, còn gọi dây nói cảnh giác tôi: “Tìm đường khác mà cút, đừng tin bọn Mỹ, chúng nó chó đẻ lắm”. Người ấy là Phạm Duy. Tôi thực sự yêu Phạm Duy từ phút báo tử đó. “Bon Mỹ chó đẻ lắm!” Tôi bỗng nhớ người Mỹ Robert Jones với cái danh thiếp in bằng Hán Viết câu “tứ hải giai huynh đệ” đã thuộc cả tiểu sử tôi, đã hứa cho tôi biết tin tức để tôi chuẩn bị đảo tẩu và đã cút mất khỏi căn nhà số 35 đường Duy Tân. Alan Carter cũng là thứ người Mỹ đó. Ông ta cam kết với Nguyễn Viết Khánh. Rằng, danh sách nhà văn, chủ bút, chủ nhiệm được bảo vệ bí mật. Thế mà nó lại nằm trong tay người công an chấp pháp bí danh Hai Nghiêm! Nói người Mỹ ở Việt Nam chó đẻ thì hơi quá đáng. Nói họ vô tư cách, có lẽ, chính xác hơn. Còn chính sách chạy làng của Mỹ cần viết một pho xú thư cho nhân loại nghiền ngẫm. Người Pháp năm 1954 và người Mỹ năm 1975 là hai hình ảnh phải so sánh. Người Pháp thực sự bại trận ở Việt Nam, một phần họ thiếu cái khôn ngoan của người Anh, một phần tại họ bị người Mỹ phản phúc. Vài phi vụ B26 là giải quyết xong Điện Biên phủ, là lịch sử đổi khác. Người Mỹ từ chối. Người Mỹ buộc tay người Pháp lại như, trước khi cuốn gói, họ đã từ chối viện trợ cho Sàigòn, họ đã cúp bom đạn, chiến cụ. Pháo binh của chúng ta hứng hàng ngàn quả đại bác mà chỉ phản pháo vài chục quả! Tuy bại trận đau đớn, nhuc nhã và đang nghèo rớt mùng tôi, người Pháp vẫn đóng góp tích cực vào công cuộc di cư năm 1954. Những chuyện bay Hà Nội – Sàigòn đều đặn, tốt đẹp và lịch sự. Dĩ nhiên, bên cạnh tàu Mỹ, tàu Pháp đã biến thành con nhà nghèo, tiều tụy. Người Pháp ở Việt Nam hơn 100 năm rồi. Dân tộc Việt Nam cũng đã chán họ, nhất là trong nghịch cảnh chiến bại, xác xơ. Dẫu người Pháp luôn luôn chứng tỏ họ thuộc về một dân tộc văn minh, hào quang văn hóa của họ ngất trời; luôn luôn chứng tỏ là những con người có liêm sỉ, có trách nhiệm – trách nhiệm của người thua trận – người Việt Nam vẫn muốn xa họ để xích gần người Mỹ. Lý do thật giản dị và chua xót: Người Mỹ giàu. Và trên tàu Mỹ, những người di cư được chiêu đãi quá sức tưởng tượng. Tha hồ ăn và tự do đái ỉa! Thủy thủ Mỹ vui vẻ quét dọn.

          Đã biến mất cái cử chỉ hào hoa của công từ Mỹ những ngày trước 30-4-1975. Người Mỹ hù “biển máu”, tạo ra "pa-ních" để trốn trách nhiệm. Đừng ngây thơ tưởng ông đại sứ Martin không biết gì đến nỗi phút chót thủy quân lục chiến Mỹ phải bảo vệ sự cuốn gói của ông ta. Ở phi trường Tân Sơn Nhất, hiện thực nhất là ở Tòa Đại Sứ Mỹ, lính thủy đánh bộ, tay trần, áo giáp, kè kè M-16 gắn lưỡi lê đã giáng những báng súng tàn bạo và đạp những cú thô bỉ xuống, vào thân thể những người Việt Nam sợ hãi “biển máu” cần trốn tránh. Vết ô nhục hẳn lên lương tri của dân tộc Hoa Kỳ ở cái tòa nhà vĩ đại và khốn kiếp mang tên Tòa Đại Sứ Mỹ. Nó cứ ở phi trường Tân Sơn Nhất đi. Không sao. Và chúng ta, có thể, chỉ trách cứ bọn lính bay mất dạy, vô giáo dục. Và, vì thân hữu ngầm với cộng sản, chính phủ Mỹ, có thể, dùng chữ của Việt Cộng để thanh minh rằng, đó chỉ là hiện tượng, không bao giờ là bản chất của cái dân tộc tạp nham có những vĩ nhân như Washington, Lincoln và … Al Capone! Những người Mỹ giáng báng súng xuống người Việt Nam đồng minh ở ngay Tòa Đại Sứ Mỹ những ngày kinh hoàng nhất thì, quả thật, dân tộc Mỹ đã ỉa lên cái chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ của họ cho các nước nhỏ bé trên thế giới. Vô số tướng lãnh, nghị sĩ, dân biểu đã leo tường vào sân Toà Đại Sứ Mỹ buổi chiều 29-4-1975, đã bị cư xử như súc vật. Và, hiện nay, vẫn ôm lấy chân Mỹ mà hít hà, mà mơ ngày về giải phóng vinh quang! Lý tưởng truyền bà tự do, dân chủ của Mỹ đấy. Trách nhiệm của họ đấy! Người Mỹ chỉ đáng xách dép cho người Pháp. Mãi đến 29-4-1975, người Việt Nam mới có dịp so sánh văn hóa Mỹ và văn hóa Pháp ở di tản 1975 và di cư 1954.

          Một số người ngây thơ, trong đó có tôi, cứ đinh ninh rằng, người Mỹ sẽ là Noé của hồng thủy Việt Nam. Họ sẽ dành vài con tàu để cho những người Việt Nam lương thiện trở về giải thoát quê hương mình. Tất cả đã lầm. Công lao di tản của Mỹ ở Tân Sơn Nhất, ở Tòa Đại Sứ Mỹ chỉ nhằm phục vụ me Mỹ, bọn tướng tá đào ngũ trước lịnh đầu hàng, bọn làm giàu trong chiến tranh, bọn thư lại tham nhũng, bọn nghị sĩ, dân biểu hèn mọn và bọn gian manh. Những người lương thiện phải tìm phương tiện riêng, phải vượt biên và phải ở lại chịu cảnh ngục tù. Và rồi, một ông dân biểu thuộc tiểu bang California đã nao núng thẫn thờ: “Rác rưởi trôi giạt đến từ bên kia Thái Bình Dương!” Và rồi, mới nhất, tiêu biểu nhất, báo chí Mỹ “nghi" người hùng Nguyễn Cao Kỳ là trùm Mafia … mít! Cái cơ hội ngàn năm một thuở để loại bỏ lũ vô lại chính trường của dân tộc Việt Nam đã mất. Chúng ta lại thấy bọn vô lại hiện nguyên hình. Ở Mỹ. Để chờ được làm đầy tớ Mỹ. Và những người lương thiện, vì liêm sỉ, đành im hơi lặng tiếng trong cái thế tân xuân thu … phục quốc!

          Bị bỏ rơi, 99% văn nghệ sĩ chống cộng ở lại. Họ đã là những nhà văn trực diện chống cộng sản; can đảm chống bất công, áp bức, bóc lột, chà đạp nhân quyền của bọn thống trị Sàigòn; hiên ngang chống chính sách nước lớn trịch thượng của Mỹ, bị nằm lại chờ đợi sự trừng phạt của cộng sản.

          Bây giờ trở về nỗi sợ hãi của tôi. Một buổi tối đầu tháng 11 năm 1975, tôi đang ngồi trên vỉa hè trước cổng nhà mình, gặm bánh mi rất thảm não thì ông Đinh Xuân Cầu tới. Một thanh niên chở ông ta bằng Honda. Thanh niên thả ông Cấu xuống rồi lái xe sang bên kia đường chờ đợi. Ông ta hỏi:

          - Tôi có chuyện muốn nói với ông, được không?

          - Được. Ông cứ nói đi.

          - Chuyện khá dài, nếu ông đồng ý, hai hôm nữa tôi cho người đến đón ông.

          - Chuyện gì?

          - Xuất ngoại.

          Vượt biên. Tôi đang cần vượt biên. Nghe chuyện vượt biên, mắt tôi sáng lên.

          - Đồng ý.

          - Vậy tôi về. Người của tôi sẽ đến đón ông ngày mốt, buổi chiều. Họ sẽ nói “ông Hoàng mời ông”. Ông nhớ nhé, ông Hoàng.

          - Tôi nhớ.

          Ông Đinh Xuân Cầu băng sang bên kia đường. Honda cõng ông ta mất hút. Tôi quen ông Cầu hồi tôi còn ở cư xá Chú Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Ông ta cùng chung một cư xá với tôi. Trước đó, tôi chỉ biết ông Đinh Xuân Cầu là tác giả cuốn Bên kia Bến Hải, cuốn sách tố cáo tội ác cộng sản thủ tiêu các chiến sĩ quốc gia đầu tiên ở miền Nam, sau vụ di cư 1954. Tôi biết thêm ông Cầu là chủ tịch Hội Nạn Nhân Công Sản và tác giả kịch sản Đôi Kính. Có lần, anh Hoàng Văn Đức bảo tôi: “Đinh Xuân Cầu là người chống cộng cuối cùng của Đại Việt”. Tôi đã viết câu nầy trên nhật báo Sống. Buổi chiều, tôi không nhớ rõ ngày tháng, ông Cầu qua nhà tôi, cho tôi mượn cuốn sách của ông viết bằng tiếng Anh do Rank Corporation, New York xuất bản khổ lớn, in roneo. Bấy giờ tôi bận viết, cũng chẳng đủ tiếng Anh để đọc, chỉ lật qua trang đầu và biết đó là một tác phẩm chiến lược. Hai hôm sau, ông Cầu sang đòi lại. Bẵng đi mấy năm, tôi mới gặp lại ông, quá vội vàng và đầy bí mật. Người của ông Cầu rất đúng hẹn. Anh ta chở tôi xuống Xóm Mới, Gò Vấp. Lần đầu tiên tôi đến Xóm Mới, nơi cung cấp “quần chúng” biểu tình hoan hô, đả đảo và đón rước quốc khách cho các chế độ Sàigòn. Căn nhà ông Đinh Xuân Cầu, bí danh Hoàng, tạm ngụ là một căn nhà lá hiu quạnh. Sau tuần trà, ông Cầu vào chuyện:

          - Tôi đã viết xong cuốn Chiến tranh chống chiến tranh nhân dân của cộng sản và phác họa một chủ thuyết mới. Tôi muốn ông đọc và san nhuận văn chương giùm tôi.

          - Bằng tiếng Việt?

          - Vâng, bằng tiếng Việt.

          - Được.

          - Tôi muốn mời ông tham gia tổ chức chống cộng của chúng tôi.

          - Của các ông?

          - Vâng, có linh mục Trần Hữu Thanh, anh Nguyễn Tiến Hỷ, nhiều người khác. Tôi đang đợi một nhân vật để giới thiệu ông.

          - Ai đó?

          - Trương Mộng Hoàng.

          - Bao giờ ông ta tới?

          - Cuối tuần. Ông ta đi Mỹ 2 tuần trước, đã hẹn với tôi về cuối tuần này.

          - Ở Mỹ về?

          - Vâng.

          - Xin lỗi ông tí nhé, ông Cầu. Ông có mắc bệnh … mộng du không?

          - Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh. Có lẽ, phải bắt đầu bằng một tóm tắt quãng đời dỉ vãng của tôi…

          Đinh Xuân Cầu người Việt, dân tộc Thổ. Từ bé, ông học ở trường Albert Sarraut vì là con địa chủ. Đậu tú tài toàn phần, ông không lên đại học mà mon men vào con đường chính trị. Ông là đàn em của Nguyễn Văn Hướng tự Mười Hướng, Xứ Ủy Đại Việt miền Nam, sau này là Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống, triều đại Nguyễn Văn Thiệu, và đồng chí của Phan Văn Trâm. Hai mươi bốn tuổi, tràn ngập lý tưởng và ngây thơ như đàn anh Nguyên Văn Hướng, ông Cầu không thích người Pháp chi phối cuộc chiến đấu chống cộng sản. Ông bất mãn ngụy quyền thời ấy và muốn đi tìm những người Việt Nam chân chính chống cộng sản, đồng thời, chống luôn cả Pháp và ngụy quyền Bảo Đại. Ba ông Hướng, Trâm, Cầu gặp Hoàng Đạo (không phải Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Long). Thảo luận, họp bàn hợp lý, Hoàng Đạo dẫn Xứ Ủy Đại Việt miền Nam hoạt động ở Hà Nội và Trâm, Cầu ra ngoài bưng tìm những người Việt Nam chân chính chống cộng cứu nước (Thời Nguyễn Hữu Trí làm Thủ Hiến Bắc Phần, Đại Việt miền Nam ra Bắc thao túng chính trường, Nguyễn Ngọc Tân tự Phạm Thái, tự Bấy Bốp đã đặt văn phòng của mình ở căn nhà Hồ Chí Minh ngồi viết Tuyên Ngôn Độc Lập, phố Hàng Quạt, Hà Nội). Ra ngoài bưng, Hoàng Đạo hạ lịnh trói chặt 3 vị đảng viên Đại Việt. Y nói thẳng y là gián điệp cộng sản. Người đứng tuổi hẳn còn nhớ cái gọi là “Vụ án Hoàng Đạo”. Ba ông Đại Việt bị đưa vào Thanh Hoá, nhốt tại Trai Lý Bá Sơ. Ông Cầu phải gánh nước đái tưới rau hàng ngày. Trại giam của ông có một nữ cai ngục, người Hà Nội, lạc đường vào kháng chiến và công tác giữa rừng già. Công tử Đinh Xuân cầu cao ráo, đẹp trai, trí thức. Nữ cai ngục đem lòng yêu thương. Chúa ngục Lý Bá Sơ ghen tức, đề nghị đổi Đinh Xuân Cầu ra một trai giam miền Bắc, gần sông Đà. Hai ông Nguyễn Văn Hướng và Phan Văn Trâm ở lại Lý Ba Sơ và sau này được thả ra tại đây. Đinh Xuân Cầu đã lợi dụng một đêm mưa bão, trốn trại bằng một chiếc bè nứa mùa nước lũ. Nước cuốn ông ta đi. Sau những hãi hùng tưởng đã chết, bè của ông dạt vào một đồn lính Pháp. Ông khai báo sự thực với Trưởng đồn. Ngày ông được cứu sống đúng là ngày báo chí loan tin Malenkov thanh trừng Béria và tay chân của trùm mật vụ Liên Xô. Nếu tôi nhớ đúng thì vào năm 1953. Ông Cầu được giải về Phòng Nhì ở Hà Nội. Ông được trả tự do nhanh chóng. Vũ Ngọc Các, chủ nhiệm nhật báo Dân Chủ đã định làm lớn vụ Đinh Xuân Cầu. Nhưng các đồng chí già sợ Đinh Xuân Cầu nổi hơn mình đã ngăn cản Vũ Ngọc Các, đã nói xấu người chiến sĩ quốc gia ấy và vụ vượt ngục của Đinh Xuân Cầu chìm lắng.

          Hiệp định Paris chia đôi đất nước. Đinh Xuân Cầu vào Sàigòn, cho xuất bản cuốn Bên kia Bến Hải. Rồi ông làm chủ tịch Hội Nạn Nhân Cộng Sản. Rồi ông bị chế độ Ngô Đình Diệm bắt nhốt. Rồi ông tung vốn liếng đi đào vàng ở Đà Lạt vì tin chắc Nhật Bản đã chôn dấu vàng ở vùng này. Vàng chưa thấy, vốn sắp cạn thì Đỗ Cao Trí gây khó khăn. Rồi ông viết kịch. Rồi ông mưu sinh bằng cách đi làm thuê cho Mỹ. Toà Đại Sứ Mỹ mướn cho ông một phòng ở khách sạn Majestic. Công việc của ông là mỗi sáng gọi dây nói cho Bộ Chiêu Hồi xem có anh hồi chánh viên nào về từ R không. Những hồi chánh viên R, thật hay giả, đều không chịu khai báo chút xíu tài liệu nào về cục R.

          - Tôi sắp chán việc này thì một hôm Bộ Chiêu Hồi đẩy một thằng ở R về sang tôi. Tôi biết tụi cộng sản kín miệng lắm. Tụi Mỹ không cho cảnh sát đặc biệt khai thác hồi chánh viên, sợ cảnh sát tra tấn. Tôi, thay vì hỏi, đưa thằng này đi ăn chơi dài dài. Tiền của Mỹ mà. Tự nhiên tôi gặp may.

          - Rồi sao?

          - Tụi Mỹ bắt tôi đưa tài liệu đã khai thác cho chúng nó. Tôi không đưa.

          - Rồi sao?

          - Một thằng đại tá già đến dọa nạt tôi rồi hỏi lý do tại sao tôi cố giữ tài liệu. Tôi trả lời tôi có mối đại thù với cộng sản, tôi muốn đích thân tiêu diệt cục R. Nó vỗ vai tôi: Mày già rồi, Cầu ạ, mày chống CIA không lợi cho sự nghiệp chính trị của mày đâu. Tao khuyên mày nộp cho tui nó. Tôi bằng lòng nộp. Trước khi nộp, tôi đưa cho con bồ của tôi làm ở Hải Quân photocopie thêm 2 tập. Tôi đem giao Nguyễn Tiến Hỷ một tập, nhờ đem gấp trao tận tay Nguyễn Văn Thiệu, một tập tôi giữ. CIA biết. Nó đuổi sở tôi. Sau nầy cục R bị tan nát, Phạm Hùng chạy bán sống bán chết và Bộ Tư Lệnh của R đặt mãi ở Vinh.

          Đinh Xuân Cầu tan mộng chính trị vì đã bị ghi trong số đen của CIA. Ông ta lấy cô vợ bé trẻ măng, xinh đẹp, người Long An, cháu của một kép cải lương già, bố vợ Hữu Phước. Rồi ông ta làm nghề thầu khoán.

          - Tôi có những dịch vụ với Tòa Đại Sứ Mỹ. Chính ở Tòa Đại Sứ, tôi gặp Trương Mộng Hoàng. Tên thật của ông ta là Trương Phiên, mục sư, người Quảng Ngãi. Thoạt đầu, tôi ghét Trương Phiên lắm, tôi không thể tưởng tượng mục sư mà đi thầu khoán. Trương Phiên giao dịch mật thiết với văn phòng chính trị của Tòa Đại Sứ. Sau 30-4, ông ta đi tìm tôi.

          - Để làm gì?

          - Làm lại. Ông ta bảo nếu Linh mục Trần Hữu Thanh và một số chính khách không chết nhát thì lịch sử có thể thay đổi. Lịch sử có thể thay đổi bằng một cú chơi bạo cuối cùng. Những người chống cộng quyết liệt đã vận động xong một sự hợp tác với một tiểu đoàn nhảy dù. Tiểu đoàn Dù sẽ bao vây Toà Đại Sứ Mỹ, sẽ nhắm trực thăng mà hạ. Trực thăng không đáp xuống được để cứu ông Đại Sứ thì thủy quân lục chiến phải đổ bộ vào cứu. Chúng ta lợi dụng cơ hội này hô hào chiến đấu tiếp tục vì Mỹ can thiệp thì quân đội sẽ lên tỉnh thần. Kế hoạch định vào sáng 30-4. Bất ngờ, sáng 30-4, Dương Văn Minh ban lịnh giới nghiêm. Quý vị đầu não của kế hoạch nản lòng, nằm nhà thở dài. Thế là lịch sử sang trang!

          - Bây giờ làm lại cách nào?

          - Lập Nội Các ngay tại Sàigòn và lưu vong ngày sau khi họp báo. Đại diện các thông tấn xã và bảo chí quốc tế còn ở Sàigòn khá đông.

          - Mời lối nào?

          - Đã có người lo liệu.

          - Lưu vong cách nào?

          - Tôi đợi ông Trương Mộng Hoàng về nước vì câu hỏi của ông.

          - Ông Cầu ạ, ông đã ngây thơ tin Hoàng Đạo, đã ngây thơ đi tìm vàng, ông lại ngây thơ tin Trương Phiên.

          - Tôi tin Trương Phiên vì tôi biết đích xác Trương Phiên là gián điệp. Với một gián điệp, sự đi lại giữa Mỹ và Việt Nam không khó đâu. Biển mênh mông và phương tiện của gián điệp vô kể.

          - Kể như ông đúng. Nhưng tại sao ông tin tôi? Ông không nghĩ rằng tôi có thể bị bắt lúc nầy ư? Ông không nghĩ rằng tôi đi tố cáo ông là tôi lập công chuộc tội à?

          - Tác phẩm của ông không cho phép ông tố cáo ai cả.

          - Cám ơn ông.

          - Xưa có một lần người bạn của tôi tưởng ra chấp chánh, tôi đã nghĩ đến ông và định tiến cử ông giúp anh ta công việc tuyên truyền, mặc dù tôi biết ông ghê tởm chính trị. Tôi đã đọc cuốn Ảo vọng tuổi trẻ của ông.

          - Và nay?

          - Đích thân tôi mời ông làm Bộ trưởng Thanh Niên và Tuyên Truyền, ông nghĩ sao?

          - Tôi nghĩ rằng ông nên mời người khác.

          - Ai?

          - Thiếu gì nhà văn lỗi lạc hơn tôi.

          - Rất tiếc, họ không hiểu tâm lý tuổi trẻ, họ không được tuổi trẻ ái mộ bằng ông. Và, họ thiếu lửa.

          - Ông Cầu, thế này nhé, làm Bộ Trưởng ở cái giai đoạn này thì không ngu tức là điên. Tôi không ngu, không điên, nhưng ưa bốc đồng. Rất tiếc chưa đến cơn bốc đồng của tôi. Vậy tôi sẽ đọc cuốn sách của ông trước, rồi trả lời ông mọi việc sau.

          Tôi đem bản thảo cuốn Chiến tranh chống chiến tranh nhân dân của công sản của Đinh Xuân Cầu về đọc. Tôi rất đồng ý với nhà văn Erkine Caldwell: “Có hai hạng người: Hạng viết và hạng đọc”. Tôi đã viết, tôi không đọc nữa. Tôi đành chịu tối tăm, ngu dốt vậy. Bù đắp, những gì tôi viết hoàn toàn của tôi tự suy nghĩ riêng tư, tôi chẳng ảnh hưởng ai hết. Về tư tưởng cũng như về văn thể. Ở mấy trang tựa, ông Đinh Xuân Cầu nói lên những lời thành khẩn tạ lỗi đồng bào vì ông đã không chịu hoàn thành cuốn sách cách đây 10 năm. Ông can đảm nhận ông đã đóng góp trách nhiệm đánh mất Sàigòn. Theo ông, cuộc chiến đấu tiêu diệt cộng sản chưa chấm dứt, ngay tại quốc nội, cả miền Bắc lẫn miền Nam. Do đó, những suy tư của ông, những kinh nghiệm của ông vẫn còn cần thiết. Trong một chương nói về lịch sử chiến tranh nhân dân, ông Cầu đề cập tới Mao Trach Động và Tôn Tử Binh Pháp. Ông Cầu cho rằng, nhờ thất bại về nằm ở Diên An mà Mao Trạch Đông mới thấu triệt Tôn Vũ và sáng tạo chiến tranh nhân dân. Ông quả quyết Mao Trạch Đông là người duy nhất nắm linh hồn của binh pháp Tôn Vũ. Một chương khác, ông bàn về nghệ thuật tận diệt chi bộ xã của cộng sản. Vẫn theo ông, then chốt của chiến tranh nhân dân nằm ở các chi bộ xã. Tận diệt chi bộ xã là băng hoại chủ lực quân của cộng sản cả chiến thuật lẫn chiến lược. Tóm lại, cuốn sách của ông rất hữu ích cho bất cứ dân tộc nào tương tự hoàn cảnh Việt Nam. El Salvador chẳng hạn. Cuốn sách của ông Cầu lên án nặng nề những kẻ thi hành “Kế Hoạch Phượng Hoàng”. Bọn cán bộ Phượng Hoàng đã tàn sát nông dân vô tội, đã hãm hiếp, cướp bóc và dồn thanh niên nông thôn lên núi, vô rừng theo cộng sản. Rất nhiều vấn đề thuộc phạm vi chiến lược trong cuốn sách … cuối mùa của Đinh Xuân Cầu. Tôi đọc, tôi phục và tôi bùi ngùi. Một chút tội nghiệp ông Cầu. Chẳng thà nó cuối mùa, chứ nó đầu mùa, bọn tướng lãnh ngu dốt cũng đâu có đọc, dù họ lãnh đạo đất nước. Người hùng Nguyễn Cao Kỳ chỉ mê “cô gái Đồ Long”, say mê đọc trên máy bay cả những khi kinh lý thăm dân cho biết sự tình. Người hùng Nguyễn Văn Thiệu thì mê “Căn nhà ngoại ô!” Nhà văn hóa Đỗ Văn Rỡ biết mỗi môn hát bộ. Vân vân …

          Mấy hôm sau, ông Cầu lại cho người tìm tôi. Lần này, ở một căn nhà khác tại Xóm Mới, tôi gặp ba vị linh mục 1 mà tôi biết tiếng và tiếng tăm của họ không làm dơ áo thánh. Ba vị linh mục nói với tôi về sự cần thiết của một đoàn kết chí tình, thành khẩn, cấp bách giữa Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành … Rõ ràng, ông Đinh Xuân Cầu muốn dùng đòn của nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Ba mươi năm trước, cộng sản có liên tôn chống Pháp. Ba mươi năm sau, chúng ta có liên tôn chống cộng. Lần lượt, tôi gặp các nhà sư thuộc hệ phái Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Rồi các vị mục sư và các chức sắc Hòa Hảo, Cao Đài. Những hào mục ở Xóm Mới đã làm tôi cảm động. Họ yêu cầu tôi ra “giúp nước”! Ra giúp nước, với tôi, sao mà bẽ bàng thế! Bình sinh tôi lười biếng, lêu lổng, học hành ngô chẳng ra ngô, khoai chẳng ra khoai. Lớn lên, làm kẻ phiêu lãng, lê đế giày mòn trên vỉa hè đời. Rồi biến thành thằng kiêu sĩ ngu đần, coi mọi việc trọng đại của thế gian là trò đùa, coi tất cả lũ trí thức khoa bảng, lũ chính khách cơ hội, lũ lãnh đạo vai u thịt bắp là lũ … thập nguyên! Bây giờ, người ta bảo tôi “ra giúp nước”, hỏi chi tôi chẳng bẽ bàng.

          Tôi trả ông Cầu tập bản thảo của ông với lời đề nghị:

          - Không có gì phải san nhuận cả. Ông nên sắp xếp những sự kiện thành hệ thống mạch lạc là ổn rồi. Cũng cần cô động lại vì có nhiều dẫn chứng nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

          Ông Cấu buồn bã hỏi tôi:

          - Còn đề nghị của tôi?

          Tôi đáp:

          - Ông muốn tôi viết gì, tôi sẵn sàng viết cho ông. Để tạ lòng tri kỷ. Còn cái chức Bộ Trưởng, xin ông tìm người khác.

          - Chức ấy không hấp dẫn ông lúc này?

          - Không hấp dẫn tôi bất cứ lúc nào. Là nghệ sĩ, tôi chỉ biết mơ mộng, không biết điều hành công việc.

          - Ông bỏ qua sự mơ mộng giải thoát dân tộc?

          - Tôi tự cảm thấy bất tài. Và nữa, tôi nhát lắm, tôi không chịu nổi đòn tra tấn. Tôi mà bị bắt, tôi sẽ khai hết và hỏng việc lớn của các ông.

          - Không có chuyện bị bắt.

          - Tôi đề phòng.

          - Ông đã cương quyết từ chối, tôi không thể ép ông. Tuy nhiên, tôi muốn ông bớt chút thì giờ gặp Trương Phiên.

          - Cuối tuần hẹn hò của ông ấy đã qua rồi.

          - Tôi tin Trương Phiên phải về.

          Cuối cùng tôi gặp Trương Phiên ở căn gác sép của nghệ sĩ cải lương già, bố vợ kép hát Hữu Phước. Chủ nhà hoàn toàn không biết chúng tôi mưu đồ chuyện gì. Ông ta chỉ nghĩ chúng tôi là bạn ông Cầu, cháu rể của ông ta thôi. Căn gác sép ở hẽm nhỏ đường Trần Quý Cáp là nơi hội họp thường xuyên của tôi, Hà Tường Cát (CPS cũ), Trần Văn Lợi … sau này. Trương Phiên trên 50 tuổi, dáng người mảnh khảnh, trông hao hao khuôn mặt Nhượng Tống chụp ảnh. Ông ta nói về Việt Nam trễ vì còn ghé Tân Gia Ba gặp Lý Quang Diệu để nhờ Ly Quang Diệu giới thiệu với Thái Ngũ ở Chợ Lớn tài trợ. Ông ta thuật chuyện gặp gỡ tổng thống Ford, ăn uống với Kissinger, họp bàn với các nghị sĩ Mỹ làm tôi tưởng tôi đang nghe chuyện Phong Thần! Máu hài hước trong tôi nổi dậy. Nhưng Trương Phiên nghiêm túc. Ông ta luận về cục diện thế giới ngày mai và cái thế tất bại của cộng sản Việt Nam. Ông ta nhìn tôi:

          - Trước khi sang Mỹ, ông Cầu đã ngỏ ý với tôi muốn mời ông. Tôi đã cho bên ấy biết. Bạn thích ông, kẻ thù nể ông.

          Tôi nghe không sướng tai chút nào cả. Tại sao? Vì cái hiện tại bi đát của tôi kéo tôi lại, không cho tôi leo lên tàu bay thật hay tàu bay … giấy. Mỗi ngày, vợ tôi cằn nhằn tôi hàng chục lần bởi cái tội không tích cực di tản. Người ta hỏng đường bay, đi tìm đường thủy. Tất cả đều thoát. Tôi hỏng đường bay là về … uống rượu. Tôi càng không ham lời khen của Trương Phiên bởi lời khen ấy sẽ đưa tôi vào sự “chết rũ trong tù”. Ở tù sợ lắm. Chưa nói bị tra tấn.

          - Người Mỹ muốn xóa đi để làm lại tất cả, Trương Phiên nói. Đây là cơ hội bằng vàng của dân tộc ta. Miền Bắc quằn quại dưới gót thống trị của cộng sản ròng rã 20 năm, oán hận cộng sản ngút ngàn. Miền Nam thì đã hiểu rõ tim đen cộng sản. Những khuôn mặt nằm vùng đã xuất hiện đầy đủ. Bọn tướng lãnh lãnh đạo đã chạy trốn. Bọn làm giàu trong chiến tranh, bọn tài phiệt thao túng kinh tế, bọn tư sản mại bản Chợ Lớn đã bị cộng sản tiêu diệt giúp chúng ta. Để lâu cộng sản moc rễ đâm chồi, diệt rất khó. Lực lượng vũ trang tinh nhuệ của chúng ta còn nguyên. Nguyễn Cao Kỳ cũng muốn về… Ông nghĩ sao, ông Duyên Anh?

          - Tôi nghĩ là chuyện của các ông.

          - Bất cứ ai giải thoát dân tộc lúc này đều là Chúa Giê Su.

          - Tôi chỉ muốn làm nghệ sĩ.

          - Ông Cầu sẽ bàn thêm với ông.

          Trương Phiên về. Ông Đinh Xuân Cầu cho tôi biết Trương Phiên sẽ làm Chủ tịch Hội Đồng Bão Quốc, một thứ Bộ Chính Trị chi phối toàn bộ cơ cấu quốc gia sau này. Còn ông Cầu là Thủ Tướng của Chính Phủ Lâm Thời Đệ Tam Cộng Hòa. Ông Cầu được bên ấy chỉ định thành lập Nội Các. Ông ta đã mời kỹ sư Nguyễn Thiện Ngọ, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, linh mục Trần Hữu thanh, chính khách Nguyễn Tiến Hỷ … và những người nầy nhập cuộc. Nên kể thêm Hà Tường Cát và một số người trẻ từng du học bên Mỹ, Đức. Hậu thuẫn của Bão Quốc là liên tôn chống cộng.

          - Ông có tin Trương Phiên không? Cầu hỏi tôi.

          - Không. Tôi đã xa lạ ông ta, càng xa lạ ông ta. Tôi trả lời.

          - Tôi tin Trương Phiên là người của Mỹ.

          - Tôi không tin cả Mỹ.

          - Phải có Mỹ, ông ạ!

          - Mỹ đã phản phúc.

          - Theo tôi, mưu đại sự thì nên gạt bỏ những tiểu tiết. Việc của ta xong, ta dở mặt như Fidel Castro, không để Mỹ chi phối cũng như không để cộng sản chi phối.

          - Tôi đã nói với ông rồi. Tôi chỉ có thể giúp ông về những dịch vụ viết lách. Để tạ lòng tri kỷ. Sau này, ông thành công, tôi xin được tặng ông Chính sách thanh niên và tuyên truyền do tôi soạn thảo. Nếu phải lưu vong, tôi xin ông một chỗ và xin được coi như người bạn trẻ, như người “ký giả nhà nước”.

          - Tôi biết ông băn khoăn chuyện gia đình.

          - Vâng

          - Chúng tôi sẽ đưa gia đình ông đi ngay sau khi nội các ra mắt báo chí. p>- Và tôi vẫn đóng vai “ký giá nhà nước”?

          - Tùy ông thôi. Có ông giúp, tôi đã cảm động lắm rồi.

          Chưa phải là... Bộ Trưởng Thanh Niên và Tuyên Truyền của chính phủ đệ tam dân chủ cộng hòa, chỉ mới là bạn của ông Cầu thôi, tôi đã được tham dự những phiên họp bí mật. Tự nhiên tôi quên mắt tôi đang là ai, đang ở đâu và tôi tưởng mình như một hiệp sĩ trong một hội kín dưới thời nô lệ Pháp. Ông Cầu nhờ tôi viết một cái tuyên ngôn cho Bảo Quốc và một bài kêu gọi quần chúng chuẩn bị nổi dậy. Tôi đã viết cái tuyên ngôn đầu tay trong cuộc đời viết lách của tôi tại căn nhà của Đặng Xuân Côn ở số 215D/17 Chi Lăng, Phú Nhuận, Gia Định. Tôi cảm thấy chữ nghĩa của tôi thật xứng đáng trong cái tuyên ngôn duy nhất đó. Còn bài kêu gọi quần chúng chuẩn bị nổi dậy thì tôi đã kêu gọi chính tôi, tôi để hết lòng tôi vào đó nên nó đầy lửa. Và tôi bỗng cảm thấy ông Đinh Xuân Cầu là người hiểu biết giá trị và tác dụng của văn chương trong chiến đấu. Nếu ông Ngô Đình Diệm suy nghĩ thêm về các nhà văn, ông sẽ là người hoàn toàn nhất. Luôn luôn, các nhà lãnh đạo Sàigòn quên mất cái thế độc lập của nhà văn, cái thế mà quần chúng bị trị ngưỡng mộ và tin cậy. Ròng rã 20 năm, từ 1954 đến 1975, nhà văn chưa hề lên tiếng chính thức chống hay không chống chế độ Sàigòn. Họ chỉ phản kháng trong tiểu thuyết. Cái vụ xuống đường đi ăn mày bệ rạc, vô ý thức của đám ký giả bất tài vô tướng và mấy anh văn sĩ Pen Club là sự lên tiếng ngu xuẩn chỉ nhằm bôi bẩn chế độ. Nhà báo đi ăn mày vì thất nghiệp, vì bị loại khỏi nghề, vì thiếu tài năng, vì không còn cho viết. Nhưng nhà văn, lại là nhà văn danh tiếng, tại sao họ không cho chữ nghĩa lên tiếng? Mà phải đi ăn mày? Ăn mày tức là cần bố thí. Ai bố thí? Rốt cuộc họ đi ăn mày tình thương của chế độ. Trò chơi dân chủ quá lỡ làng! Một người mà báo Mỹ ca ngợi là “lãnh tụ tương lai” của Đông Nam Á là Hoàng Đức Nhã, tôi thấy cũng chỉ là một tên ngu dân trong chức vụ Tổng Trường Dân Vận. Trong nhiệm kỳ thông tin, tuyên truyền của ông ta, báo chí và quần chúng xa xả chửi bới sự độc diễn của chủ ông ta. Có một dịp may rửa nhục cho vị tổng thống anh mình mà ông ta không biết. Là cái điện văn chúc mừng “tổng thống tái đắc cử”. Điện văn ấy ghi tên một văn hào thế giới lỗi lạc: C. V. Gheorghiu, tác giả Giờ thứ hai mươi lăm, Niềm may mắn thứ hai, Kẻ ăn mày phép lạ … đã dịch sang Việt ngữ và làm say mê độc giả Việt Nam. Điện văn ấy được đăng khiêm tốn trên cả báo nhà nước. Một người làm tuyên truyền giỏi thì đã túm lấy cơ hội quý báu nầy, in hình và tiểu sử Gheorghiu, nhà văn chống cả cộng sản lẫn tư bản, mời Gheorghiu qua Việt Nam diễn thuyết, phỏng vấn. Và một câu ngắn khen tổng thống, chắc chắn, tổng thống nở mày, nở mặt. Tổng thống sướng rên, tổng thống thấy giá trị một câu ngắn của nhà vẫn lỗi lạc hơn cả gần hai nhiệm kỳ được cầy cáo suy tôn. Một dịp nữa để đánh vào mặt Hà Nội và báo chị Mỹ thân Hà Nội là dịp nhà văn "best seller" của Mỹ, James Jones, tác giả Thói đời, Như thác đổ, Trận chiến trên đồi voi sang thăm Việt Nam. Ông đã ra Huế, điều tra vụ Mậu Thân và tuyên bố: “Vụ tàn sát tập thể ở Huế là vụ có ý của cộng sản Hà Nội”. Lời tuyên bố của nhà văn James Jones, của tác giả “Tant qu'il y aura des hommes” mà khán giả đã xem muốn nát cuốn phim nhựa cùng với “Comme un torrent” … cũng chỉ được đăng khiêm tốn trên báo nhà nước. Và Tổng trưởng Dân Vận không biết vì ngủ hay vì bận đưa ca sĩ đi phá thai mà chẳng chịu cho nổ, chẳng chịu mời James Jones đi khắp nước diễn thuyết lên án cộng sản khát máu với chứng cớ Huế, Mậu Thân rõ ràng. Tổng thống Mỹ nói không ai nghe. James Jones nói cả thế giới tin. Tiếc thay! Càng tiếc thêm, những Mặt trận, những Hội đoàn chống cộng hải ngoại vẫn không hấp dẫn nổi nhà văn danh tiếng. Bởi vậy, cũng đừng ai đặt ra trách nhiệm này nọ cho nhà văn và bắt nhà văn phải có trách nhiệm này nọ. Nhà văn chỉ có trách nhiệm với những người đọc họ. Nói đúng nhất là dùng lời của Grabiel Marquez, tác giả Trăm năm hiu quạnh, giải Nobel văn chương 1982: “Bổn phận của nhà văn là viết cho hay”. Nhà văn tự cho mình ôm hàng tấn trách nhiệm mà viết không hay thì cũng vất đi. Tôi đã viết cái tuyên ngôn thật hay. Thật hay vì mới chỉ có tôi, ông Cầu, ông Phiên biết! Ông Cầu chưa kịp xử dụng những gì tôi viết cho ông thì tên ông đã ghim trên miếng bìa đỏ.
          --------------------------------
          1 Về vụ Đinh Xuân Cầu, trừ những người đã bị bắt, bị thẩm vấn và đã lãnh án bất thành văn, tôi mới dám nêu rõ tên tuổi.

          Comment


          • #6
            5.

            Qua một đêm thao thức, sáng hôm sau, người ta mở cửa gọi tôi ra làm việc. Tôi phải khai sơ yếu lý lịch với một người công an hồ sơ. Họ và tên, năm sinh, nơi sinh, nơi cư ngụ, nghề nghiệp … của tôi được viết vào năm miếng bìa năm màu. Người công an cho tôi luôn một cái tội, khỏi cần ra tòa án: Phản động! Tên phản động bị mắng trận phủ đầu vì ngồi trước mặt cách mạng thiếu ngay ngắn. Rồi người ta đuổi tôi ra khỏi phòng hồ sơ. Người ta bắt tôi lăn đủ 10 đầu ngón tay lên 5 miếng lý lịch. Người ta chụp tôi 12 kiểu hình đứng, ngồi, nghiên, thẳng, cười, nghiêm… Thiếu một kiểu khóc. Có lẽ họ kiêng số 13! Buổi chiều, tôi làm việc với một người công an miền Nam. Ông ta trên 50 tuổi, tóc hoa râm, đeo kiếng cận thị. Ông ta kéo ghế mời tôi ngồi, niềm nở:

            - Anh cứ thoải mái, không việc gì phải sợ hãi. Tội trạng của các anh đã rõ rệt, khỏi cần điều tra. Các anh ở đây, qua bầu cử cả nước rồi về.

            Lời ông phù hợp với lời người công an dẫn tôi nộp cho Hai Phận tối hôm qua. Họ sơ chúng tôi phá bầu cử! Tôi hơi yên lòng. Người công an già này cũng ghi sơ yếu lý lịch của tôi và yêu cầu tôi tóm tắt quá trình hoạt động văn chương, báo chí từ khi tôi cầm bút.

            - Những gì không cần khai, anh cứ quên đi. Tôi không bắt buộc.

            Dĩ nhiên, có nhiều điều tôi không khai, nhất là, vụ viết tuyên ngôn cho ông Đinh Xuân Cầu. Qua 2 tiếng làm việc, người công an đọc lại cho tôi nghe những lời khai của tôi mà ông ta ghi trên giấy bằng bút bic. Tôi rất ngạc nhiên thấy ông ta ghi rất tóm tắt và nhẹ nhàng hơn cả lời tôi khai. Ông ta, thay vì gọi tôi là nhà văn phản động, đã gọi là nhà văn chế độ cũ. Tôi ký tên vào lời khai. Ông ta cũng ký tên. Rồi ông ta nhìn tôi:

            - Rất tiếc tôi chưa hề đọc tác phẩm nào của anh và tôi cũng không biết nói chuyện thơ văn để mạn đàm với anh. Anh có gì muốn hỏi tôi không?

            - Có.

            - Anh cứ hỏi tự nhiên và tự do. Tôi không ghi chép, hết giờ làm việc với anh rồi.

            - Tôi đã rất lo lắng trước khi bước vào phòng của anh. Buổi sáng tôi bị nạt nộ. Buổi chiều tôi sợ bị tra tấn. Anh đã không nạt nộ, không tra tấn mà còn tử tế với tôi. Do đó, tôi muốn lợi dụng thêm lòng tốt của anh để xin anh một ân huệ.

            - Anh muốn tôi giúp điều gì?

            - Cho tôi viết vài dòng và gởi về cho vợ con tôi.

            - Được.

            Người công an đưa tôi một miếng giấy và cái phong bì.

            - Anh mặc sức viết. Viết cho đủ đi, tôi rảnh rỗi.

            - Cám ơn anh.

            Tôi viết những giòng sau đây cho vợ tôi:

            Phương,
            Anh hiện ở Sở Công An thành phố tức là Nha Cảnh Sát Đô Thành cũ, đường Trần Hưng Đạo. Anh không bị tra tấn. Em yên tâm. Đừng lo lắng sợ hãi. Cố giữ sức khỏe nuôi con. Các bạn đều ở đây.
            Anh,
            Long

            Tôi đưa miếng giấy cho người công an.

            - Viết ngắn thế thôi à?

            - Vâng, đủ ý rồi.

            - Anh bỏ vô phòng bì dán lại đi. Tôi không đọc, không muốn đọc. Tôi sẽ đem đến tận nhà anh. Viết địa chỉ và tên vợ anh trên phòng bị cho rõ.

            Thật sự, tôi không hiểu rõ người công an miền Nam này. Ông ta đóng kịch với tôi chăng? Tôi cũng không mấy tin rằng bức thư ngắn sẽ đến tay vợ tôi. Người công an miền Nam đứng tuổi bỏ bức thư của tôi vào cái cặp da – ông ta không đeo xà cột – rồi nói:

            - Tôi sẽ không gặp anh nữa. Anh cho tôi khuyên anh một điều: Có nhiều vị anh hùng không chết ở chiến trường mà bị chết nhục ở cái lỗ chân trâu. Anh chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu. Điều nữa: Anh sẽ phải làm tự khai nhiều lần. Vậy khi viết phải sáng suốt mà nhớ những gì mình đã viết.

            - Cám ơn anh. Anh có thể cho tôi biết tên anh không?

            - Không. Anh cứ hiểu tôi là người Sàigòn, theo cách mạng từ 1945, ngày xưa tôi học ở Chasseloup Laubat. Anh chớ nói điều khuyên của tôi với người khác. Trong tù, tuyệt đối không tin ai. Thôi, anh về phòng nghỉ ngơi. Yên chí, tối nay vợ anh sẽ biết tin anh.

            Người công an miền Nam đưa tôi về tận cửa phòng. Ông ta cho tôi gói thuốc Nông Nghiệp. Từ đấy, không bao giờ tôi gặp ông ta. Tôi đã gặp rất nhiều người kháng chiến Nam bộ tập kết ở đề lao Gia Định, ở Chí Hòa thuộc đủ mọi ngành thương nghiệp, kinh tế, công an, bộ đội… nhưng không gặp người công an đã khuyên tôi những điều mà ngay khi chia tay ông ta, tôi không được phép nghi ngờ ông ta. Hẳn nhiên, với người khác, đó là chuyện khó tin. Và, hẳn nhiên, với người khác, chuyện này không nên viết bằng sự thật. Sau những tháng năm quằn quại trong tù, tôi học được điều này: Tôi muốn tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản và không muốn tiêu diệt con người. Chủ nghĩa sẽ bị tiêu diệt nhưng con người cần tồn tại. Con người chỉ là công cụ thù hận của chủ nghĩa. Và, nếu phải tiêu diệt con người thì tiêu diệt con người lãnh tụ cộng sản là đủ. Giết thêm là thừa. Là bít lối về của những người đã trót lỡ theo cộng sản rồi cầm đành hay những người bị cưỡng bức theo cộng sản không đường thoát.

            Trong phòng B, tôi quý nhất Dương Nghiễm Mậu. Và tôi chỉ muốn tâm sự với tác giả Địa ngục có thật. Có lần, ngoài đời, Mẫu nói với tôi:

            - Nhiều người ghét ông vì ông là Thương Sinh. Nhưng người ta cứ sợ Thương Sinh và nhờ vả Thương Sinh đánh kẻ thù giùm người ta. Và ông mang tiếng. Tôi không nhờ ông, không sợ ông, không ghét ông, không bình phẩm sau lưng ông. Việc của ông, ông cứ làm. Việc của tôi, tôi cứ làm. Chúng ta có niềm tương kính, thế là đủ.

            Tôi kể riêng với Mẫu buổi làm việc với người công an miền Nam. Mẫu nói:

            - Người miền Nam ghét giáo điều. Trước hay sau thôi, họ sẽ lần lượt ly khai cộng sản hoặc bị cộng sản thanh trừng.

            - Ông có tin sau bầu cử mình về không?

            - Không. Tôi chuẩn bị nằm tù 12 năm. Chúng ta sẽ còn đi nhiều nhà tù khác nhau.

            - Ông có tin cộng sản sẽ xử dụng tài năng của chúng ta không?

            - Không.

            - Ông đúng. Có một người tự hào mình hiểu cộng sản nhất nước đã quả quyết cộng sản sẽ dùng lại mình.

            - Tôi biết người ấy rồi.

            - Ông ta xúi tôi viết thêm vài chương người thầy giáo giảng giải về lao động trong Ngựa chứng trong sân trường và thử gửi ra nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội xem sao. Ông ta tin cuốn sách này sạch, chắc chắn, Hà Nội xuất bản.

            - Bậy quá.

            - Trước những ngày bị bắt, ông ta và Mặc Thu lấy làm mừng rỡ về bài diễn văn đọc trong ngày khai giảng niên học 75-76 của Lê Duẩn. Ông ta bảo chuyên trên hồng rồi, cộng sản Việt Nam thay đổi rồi và ông ta chờ đợi sự thay đổi này từ 20 năm.

            - Không tưởng. Sự không tưởng đưa ông ta tự sai lầm này đến sai lầm khác. Đã một lần ông ta nằng nặc ghi đầy đủ câu “giải thưởng văn chương toàn quốc do đích tay tổng thống trao tặng” để cực tả sự vinh quang của ông trong triều đại nhà Ngô. Lại một lần ông ta nằng nặc đòi tặng bản thảo bìa da gáy mạ vàng cho Nguyễn tổng thống. Nhiều người càng già càng tối tăm. Ông ta sợ vắng mặt buổi họp mặt vớ vẩn, phải sai con đem thư tay cho Thế Nguyên “ sẵn sàng đặt dưới sự chi phối của các anh bất cứ lúc nào các anh cần” và xin hội kiến với Lưu Hữu Phước bị khước từ. Cái đau là ông ta cứ nhận ông ta tạo ra thế hệ đàn em văn nghệ miền Nam! Ông ta sẽ còn sai lầm nhiều nữa.

            Tôi bị bỏ rơi một tuần lễ. Trong tuần lễ mệt mỏi đó, Hai Phận vĩ đại vào phòng, ngồi vắt vẻo trên cái ghế đẩu, “giáo dục” chúng tôi. Thầy Hai Phận vĩ đại phát cho chúng tôi mỗi người một miếng giấy học trò gấp tư, bắt chúng tôi viết thư về động viên gia đình tích cực tham gia bầu cử. Chúa ngục đọc một câu kiểu mẫu, bảo cứ viết nguyên con. Và chúng tôi, nhà văn, nhà báo, nhà thơ, nhà đạo diễn điện ảnh lừng danh của Sàigòn đã phải ngoan ngoãn viết theo sự đạo diễn tư tưởng của Hai Phận! Nếu không, thư sẽ bị xé bỏ và gia đình mù mịt tin tức. Cũng trong tuần lễ mệt mỏi nầy, vợ tôi đã gởi vào cho tôi cái mền, cái mùng và ít thuốc cảm cúm, tiêu chảy. Bức thư tôi nhờ người công an chuyển đã tới tận tay vợ tôi. Hoàng Anh Tuấn được gọi ra làm việc. Đằng Giao được gọi ra làm việc. Hoàng Anh Tuấn làm việc sáng, chiều liên tục. Công an chấp pháp quay Tuấn như quay con mòng. Tuần về phờ phạc. Anh nói nhỏ với vài người chúng tôi.

            - Có một thằng nguy hiểm lắm. Đôi mắt nó liến láu. Tao đang bị nghe đập bàn thì nó vào. Nó bảo tao quên hết mọi chuyện đi, cùng nó ôn kỷ niệm làm thơ ở Paris ngày xưa. Chúng mày biết nó là ai không?

            - Không.

            - Huỳnh Bá Thanh, bút hiệu Ớt, bí danh Ba Trung, họa sĩ nằm vùng ở nhật báo Điện Tín của nghị sĩ Hồng Sơn Đông.

            - Nó à?

            - Nó đấy, trung úy công an cộng sản. Nó kịch cọc giỏi lắm, gặp nó thì coi chừng.

            Hoàng Anh Tuấn nói buổi tối hôm trước thì sáng hôm sau tôi được gọi ra. Chú công an ngây thơ, 17 tuổi, tên Hồng (người Nam, chắc là con em cách mạng mới được tuyển vào nghề coi ngục, thường cho thuốc là tù nhân) dẫn tôi đến phòng chấp pháp. Tôi gặp đúng nhân vật mà Hoàng Anh Tuấn miêu tả: Họa sĩ Ớt, kẻ đã vẽ hàng trăm bức hí họa thô bỉ nhục mạ “ngụy quân, ngụy quyền”. Nó vẽ chúng ta là chó mèo, chồn cáo. Nó cắt đuôi giúp chúng ta để chúng ta làm người! Dĩ nhiên, Ớt biếm họa trên Sàigòn Giải Phóng. Phụ họa với Ớt là thằng Cung Văn, nằm vùng ở Điện Tín và Việt Nam Thống Tấn Xã, tên thật Nguyễn Văn Hồng, chửi rủa chúng ta tàn tệ trong mục thơ trào phúng của nó. Ba Trung kéo ghế mời tôi rất lịch sự. Trên bàn của nó đã có sẵn một bình trà, 2 cái ly và gói Président. Nó rót nước mời tôi. Tôi thò tay vào túi lấy hai viên Aspro uống vì tôi bị cảm. Ba Trung dằng vội ra.

            - Thuốc gì đấy anh Duyên Anh?

            - Aspro.

            - Tôi sợ anh dùng thuốc khác. Đừng tuyệt vọng anh Duyên Anh!

            Khi biết chắc là Aspro, Ba Trung để tôi uống. Nó bóc gói Président, hỏi tôi:

            - Anh hút thuốc này hay Pall Mall?

            - Tôi quen hút Bastos, bây giờ là Nông Nghiệp.

            - Để tôi nhờ người mua Nông Nghiệp. Anh dùng cà phê đen hay sữa?

            - Đen

            - Anh ngồi ở trong phòng, đừng bước ra cửa, sợ phiền phức. Tôi sẽ trở lại.

            Mười lăm phút sau, Ba Trung trở lại. Nó bưng hai ly cà phê. Và móc ở cái túi da của nó ra một gói Nông Nghiệp. Ba Trung và tôi uống cà phê, hút thuốc.

            - Tôi mời anh ra hôm nay chưa phải để làm việc mà để mạn đàm trong tình thân mật giữa con người và con người. Anh đừng có ỷ sợ hãi chúng tôi như sợ hãi cảnh sát đặc biệt của Thiệu. Tôi lấy danh dự bảo đảm với anh rằng không một người nào trong các anh bị đánh đập, tra tấn và thủ tiêu, mặc dù, người của chúng tôi đã bị đánh đập, tra tấn và thủ tiêu.

            - Cám ơn.

            - Anh Duyên Anh! Anh có công nhận ở tù khổ không?

            - Vâng, ở tù khổ.

            - Chắc chắn là tù khổ. Vậy mà có người bảo ở tù không khổ. Người đó là anh Hoàng Anh Tuấn. Anh xem thư anh Tuấn nhờ tôi gửi cho chị ấy.

            Ba Trung cho tôi coi thư của Tuấn. Tôi chỉ liếc đọc câu Ba Trung gạch đỏ dưới hàng: Em đừng lo, anh ở trong này ăn uống cũng sướng lắm. Ba Trung gấp bức thư lại:

            - Hoặc anh Tuấn kiêu ngạo, hoặc anh Tuấn mỉa mai, hoặc anh Tuấn tuyên truyền. Cả ba đều không thật lòng anh Tuấn và tôi đã không chuyển thư. Tôi muốn thành khẩn. Anh nghĩ sao?

            - Nghĩ gì?

            - Về bức thư của anh Tuấn.

            - Tôi nghĩ anh Tuấn rất thật. Với một người không lệ thuộc miếng ăn ngon, chỗ nằm êm ấm như anh Tuấn thì ở tù sướng.

            - Anh khéo bào chữa cho bạn anh.

            - Tôi nói sự thật. Anh Tuấn đã nhường chỗ ngủ tốt cho tôi.

            Ba Trung xoay qua chuyện khác.

            - Các anh đã nghĩ đài BBC cứu các anh, phải không?

            Tôi cười gượng:

            - Đài ấy nhằm gì với tôi!

            - Không ai cứu nổi các anh, ngoài các anh. Đừng tưởng đầu hàng giai cấp là nhục. Đảng cũng không bắt anh phải phục vụ Đảng. Đảng muốn anh đem tài năng của anh phục vụ đất nước, quê hương. Tài năng là vốn quý của con người, của tổ quốc.

            - Nhưng nó cũng là những hệ lụy, những tai họa…

            - Tai họa là do anh. Chúng tôi bắt các anh là bảo vệ các anh. Chúng tôi biết bọn phản động sắp quyến rũ các anh vào rừng chống lại chúng tôi. Chiến tranh lại kéo dài và các anh lại chết vô ich…

            Đột nhiên Ba Trung hỏi:

            - À anh Duyên Anh, anh còn nhớ người con gái năm xưa không?

            Tôi sững sờ giây lát.

            - Người con gái nào? Tôi quen cả trăm người con gái.

            - Người con gái đã tặng anh mẫu bánh mì.

            - Tôi nhớ rồi.

            Người con gái ấy trong truyện Nhà tôi, ở ngay chương thứ nhất.

            - Thuở ấy anh khốn khổ quá nhỉ?

            - Phải.

            - Bây giờ anh cũng khốn khổ.

            - Đúng thế.

            - Và Đảng cũng đem tặng anh mẫu bánh mì.

            Ba Trung mở túi lôi ra ổ bánh mì Garden (Givral cũ) trịnh trọng trao vào tay tôi. Tôi cầm lấy, ăn một cách ngon lành. Ba Trung diễn kịch giỏi nhưng người soạn kịch vụng về. Năm xưa, năm tôi mới lưu lạc miền Nam, có lần đói quá, tôi đạp xe lên nhà thờ Tin Lành, đường Trần Hưng Đạo, xin tiền vị mục sư ăn cơm dĩa. Vị mục sư từ chối và bảo tôi hãy về tin Chúa. Tôi thất vọng, đạp xe về ngôi chùa ở đường Vườn Chuối xin cơm. Bị mấy cậu sư lườm nguýt đóng cổng vì tưởng tôi diễu. Lại đạp về Ông Tạ, vô nhà thờ thì đã quá trưa, giáo đường im bóng. Tôi chán nản về Lăng Cha Cả, gặp em điếm tặng khúc bánh mì, ly cà phê đá và gói Ruby. Bây giờ, Đảng bỏ tôi vào tù rồi Đảng tặng bánh mì Garden. Đảng tứ ví Đảng với điếm. Điếm vì tình người đích thực. Đảng hoàn toàn giả dối.

            - Anh có hay đến nhà thằng Trần Dạ Từ chơi không?

            Ba Trung cay cú Trần Dạ Từ ra mặt. Nó, từ đầu đến cuối, gọi Trần Dạ Từ là thằng với nó.

            - Thỉnh thoảng.

            - Anh có biết nhà nó có bao nhiêu cửa số không?

            - Tôi không để ý.

            - Mỗi cửa số nhà nó là một kiểu, anh hiểu tại sao không?

            - Không.

            - Vì nó là con nuôi một anh thầu khoán. Trần Dạ Từ là … vua con nuôi! Con nuôi Cao Văn Luận, con nuôi Thích Trí Thủ 1 … Anh thấy chứ, Huế còn nguyên, còn nguyên kỷ niệm của Nhã Ca và Nguyên Sa, mất mát gì đâu mà chúng nó kêu réo là đổ nát, chết chóc.

            Tôi đã gặm quá nửa ổ bánh mì. Rồi tôi liệng phần còn thừa vào sọt rác gần đó. Nhâm nhi ly cà phê, tôi nghe Ba Trung “mạn đàm” hết chuyện nọ xọ sang chuyện kia một cách cố ý.

            - Anh Duyên Anh ạ, anh nên suy nghĩ để phục vụ quê hương. Tôi nhấn manh phục vụ quê hương chứ không phục vụ Đảng. Người viết truyện hấp dẫn tuổi thơ như anh không có ở Việt Nam nữa. Đảng biết anh có tài. Chỉ cần anh đừng kiêu ngạo!

            Tôi kiêu ngạo? Tôi không hiểu tôi đã kiêu ngạo ở chỗ nào mà Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh chụp cái mũ kiêu ngạo lên người tôi. Có lẽ, tôi đã kiêu ngạo mà tôi không biết. Nói tôi kiêu ngạo chưa đúng. Nói tôi không chịu nổi những cảnh chướng tai gai mắt mới đúng. Tôi thường lên tiếng. Và lên tiếng thẳng thắn đến cay độc. Ở bất cứ không gian thời gian nào. Nếu tôi đã tròn như hòn bi, chắc chắn tôi đã yên thân.

            - Anh phấn đấu hết kiêu ngạo, mọi việc sẽ tốt đẹp.

            “Mọi việc sẽ tốt đẹp”. Ba Trung đã thừa hành lệnh của thượng cấp gợi ý tôi “đầu hàng giai cấp” và “hết kiêu ngạo” là tôi được thả và được tiếp tục nghề nghiệp của tôi. Tôi nhớ, trong một bức thư, người bạn niên thiếu của tôi ở Hà Nội năm 1954, nắm giữ một chức vụ then chốt ngành xuất bản, viết cho tôi: “Cậu nên mở quán bán nước trà ở hè phố mà mưu sinh, nếu đến nỗi thế. Cậu không thể xoay cái rụp 360 độ được, vì cậu sẽ bị chính chúng tôi khinh bỉ, dù cậu có được việc. Hãy nhìn những Hồ Dzếnh, Hoàng Công Khanh, Nguyễn Minh Lang đã ở lại 1954, đã viết và đã chìm vào quên lãng với đầy miệt thị của tất cả. Vả nữa, bọn nhà văn cách mạng và giải phóng sẽ chẳng chịu để cậu thao túng văn chương đâu. Hàng thân vốn lơ láo, Long ạ”!

            - Anh cần phấn đấu mọi mặt. Đảng biết anh ra ánh sáng không lóe mắt. Bọn Lý Chánh Trung từ bóng tối ra, dễ chóng mặt. Rồi chúng nó sẽ chóng mặt. Bọn ấy có tài cán gì đâu.

            - Tôi sẽ phấn đấu để bớt kiêu ngạo.

            Tôi nhận bừa mình đã kiêu ngạo. Ba Trung cười thật ranh mãnh. Bọn nằm vùng chúng nó cáo hơn bốn nằm rừng.

            - Anh cần gửi thư về cho chị không?

            Suýt nữa tôi buột miệng nói tôi đã gửi rồi. Ba Trung không phải người miền Nam. Nó trôi dạt từ đâu đó vào Nha Trang rồi nằm vùng ở Sàigòn. Nó đóng chốt tại Điện Tín, nó biết tường tận sinh hoạt của chúng tôi. Bọn nằm vùng rất nguy hiểm vì chúng ta khinh bỉ cuộc sống hèn mọn của chúng nó. Chúng ta hào sảng, thích đối diện, đương đầu. Bọn nằm vùng thì như bầy dán, sợ ánh sáng và chỉ dám mò ra kiếm ăn ban đêm. Chúng nó, với những hành tung cổ quái, khó ai đoán nổi. Xuất hiện và hành động ngu xuẩn thì có Vũ Hạnh, Nguyễn Trọng Văn với bầy múa rối trường đại học Văn Khoa. Lầm lũi và đau khổ thì có Thái Bạch. Tưởng như là thái độ của người Thiên Chúa cấp tiến thì có Thế Nguyên. Làm ra vẻ lái báo hám danh thì có Nguyễn Văn Lương, hỗn danh Lương thịt chó. Vân vân … Cộng sản Hà Nội chủ quan và kiêu ngạo đần độn nên mới trao sứ mang thao túng văn học nghệ thuật cho thứ Vũ Hạnh, Thái Bạch, Thế Nguyên. Cả 3 đứa đều vừa sáng tác vừa phê bình. Người ta đã nhìn rõ tư tưởng Mác xít của Vũ Hạnh trong những cuốn sách của nó. Nhưng, phần vì sách của nó bán ế, phần vì nhân vật vô sản của nó đều là những người nghèo bệ rac, xấu xa nên người ta để mặc nó bôi bẩn chủ nghĩa vô sản của nó. Sau này, có dịp đọc cuốn Người mẹ cầm súng, tôi mới hiểu nhân vật vô sản phải là nhân vật của biểu tượng ưu việt của chủ nghĩa. Chị Hậu, chẳng hạn. Khi còn bé, bị bán ở đợ suốt đời cho một gia đình địa chủ. Sáu tuổi, Người mẹ cầm súng đã biết leo lên cây dừa, tụt quần, đái xuống mặt địa chủ cường hào ác bà để đấu tranh giai cấp! Và tôi thấy người ta không thèm đả động gì tới Vũ Hạnh là bởi tác dụng văn chương của nó không có. Nó không lôi cuốn được độc giả. Nếu Vũ Hạnh đừng động tới Lê Xuyên, Chu Tử, nó là thằng vô danh trong quảng đại quần chúng đọc sách báo. Kế hoạch của công sản là tìm đủ mọi cách triệt hạ những người có uy tín ở Saigon. Mục tiêu trước mặt: Văn nghệ sĩ nổi tiếng. Cái mà nó huyễn hoặc quần chúng, nó tạo hậu thuẫn cho nó, nó vỗ về cái đạo đức dân tộc cho nó là nó nghiêm khắc phê bình sự dâm đãng trong tác phẩm Lê Xuyên, Chu Tử. Người quốc gia, bất cứ ai, đều được phép công kích nhà văn miền Nam, trừ cộng sản. Cộng sản không được phép công khai miệt thị nhà văn quốc gia ngay tại Sàigòn trên những nhà báo có giấy phép của nhà cầm quyền chống cộng. Và chúng tôi đã tỏ thái độ với bọn nằm vùng, với cả bọn tiếp tay với bọn nằm vùng là cái Bộ Thông Tin. Vũ Hạnh bị bắt (thời Ngô Đình Diệm, nó đã bị bắt). Anh em văn nghệ … viễn mơ, thứ văn nghệ phòng trà tửu điếm, thứ văn nghệ sợ hãi cái nhãn hiệu “nhà văn chống cộng” 2, đã âm thầm phản đối chúng tôi vụ hạ gục Vũ Hạnh. Trên nhật báo Sống, Chu Tử đánh Vũ Hạnh để bảo vệ mình. Tôi đánh Vũ Hạnh để bênh vực Lê Xuyên. Dạo ấy, tôi còn là thứ ngựa non háo đá. Đến khi nhà văn hóa Thanh Lãng bảo lãnh Vũ Hạnh, cam kết với ông Nguyễn Văn Thiệu rằng Vũ Hạnh không hề là cộng sản thì tôi … ân hận. Và khi tôi cho thực hiện loạt bài phỏng vấn một số nhà văn “Họ đã viết truyện ngắn như thế nào?” tôi đã phỏng vấn Vũ Hạnh, đã có lời lẽ rất tử tế. Đó chỉ là thái độ trung thực, là phản ứng của lương tâm và còn là mời gọi tìm về. Cần lưu ý bạn rằng Vũ Hạnh chưa hề công kích tôi. Vũ Hạnh đã viết cho tôi bức thư thật cảm động. Nó bảo: “tôi chờ đợi thái độ nghệ sĩ của anh từ lâu” 3. Dẫu là sai – buồn thay lại đúng – bọn nằm vùng đã hết nhí nhố khoảng thời gian khá lâu. Phải đợi đến lúc Nguyễn Trọng Văn và lũ phu nhà đòn ở Đaị Học Văn Khoa Sàigòn hô hoán “Phạm Duy đã chết rồi”, bọn chúng mới toan tính vùng dậy. Phạm Duy phổ thơ Apollinaire “Mùa thu chết” có âm mưu chính trị gì đâu, vậy mà Châu Kỳ vội vàng rống lên “Mùa thu chưa chết”, mùa thu cộng sản cướp chính quyền chưa chết! Người văn nghệ quốc gia lại phản ứng. Viên Linh và Chóe nhập cuộc trên Khởi Hành. Tôi viết bài “Phạm Duy, ai giết nổi anh?” trên Tuổi Ngọc. Cùng với đám ma Phạm Duy, trên tạp chí Trình Bày của Thế Nguyên, nhà công giáo cấp tiến, tác giả “Hồi chuông tắt lửa”, khai quật Sáng Tạo, Thế kỷ hai mươi, Văn Nghệ, dẫn chứng cái quá trình chống cộng rồi viễn mơ tuỳ thuộc vào chính sách của Mỹ ở Việt Nam, tùy thuộc vào sự chi tiền của các chế độ rồi kết luận Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu … là “bọn tiêu bạc giả”. Rõ rệt, bọn văn nghệ nằm vùng không đạt nổi mục đích thao túng văn nghệ thì chúng nó bôi bẩn những người làm văn nghệ có thái độ dứt khoát với cộng sản. Song hành màn toan tính hạ bệ uy tín Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, tạp chí Đất Nước của Nguyễn Văn Trung nham nhở nhận họ hàng “Việt cộng, người anh em của tôi!” Bọn nằm vùng thủ đoạn tua tủa. Thất bại vụ Vũ Hạnh đụng độ nhật báo Sống, chúng nó không dám gây sự với những nhà văn viết cho nhiều nhật báo. Thí dụ, chúng nó đã quên tôi. Cuối năm 1974, bọn văn nghệ nhóc nắm được tạp chí Phổ Thông, chúng nó đã hội thảo đề tài “Tại sao không ai dám đụng tới Duyên Anh?”, có nghĩa là chúng nó sắp mần thịt tôi vì biết tôi chỉ còn Tuổi Ngọc và Tuổi Ngọc khó chơi bạo. Chúng nó chưa kịp lập công với Đảng thì Đảng đã vô Sàigòn và Đảng bỏ tù tôi và tài năng nằm vùng của chúng nó vất vào thùng rác lề đường. Bọn nằm vùng hèn mọn và dơ dáy. Nó sẽ không tha báo cáo người công an miền Nam đã chuyển thư tay giùm tôi. Nó sẽ nâng quan điểm và đánh giá đồng chí của nó là “làm mất phẩm chất cách mạng”, là “tư tình với kẻ thù của Đảng và nhân dân”. Vân vân …

            Tôi vội giả vờ hỏi:

            - Được hả, anh?

            Ba Trung nhìn tôi, rất đểu:

            - Với anh thì được.

            Nó đưa cho tôi tờ giấy và cây bic. Tôi viết vài giòng thăm vợ con và báo tin tôi vẫn khỏe mạnh.

            - Bây giờ anh về phòng. Tôi cần nói với anh rằng anh có thể lừa gạt được tôi nhưng anh không thể lừa gạt nổi cách mạng.

            Tôi nghĩ đến thân phận của tôi mà ngao ngán. Tôi đã chống cộng sản, đã hô hào “chống cộng sản đến chiều”, đã vì chống cộng mà chống luôn tất cả những bất công, thối nát của những kẻ đòi độc quyền chống cộng sản, chống thêm cái chánh sách trịch thượng nuôi dưỡng lãnh đạo ngu xuẩn bản xứ và đánh bóng chính nghĩa chống cộng sản của người Mỹ. Tôi đã “chống cộng sản tự nguyện” và luôn luôn bị chụp bủa trong cái màng lưới ngộ nhận vô tình và cố ý. Và, bây giờ, một thằng nằm vùng hạng bét cảnh cáo tôi đừng hòng lừa gạt nó. Tôi muốn trả lời nó để đón nhân hậu quả phẫn nộ của nó. Chợt nhớ đến lời tâm tình của người công an miền Nam: Chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu, tôi im lặng. Về phòng, tôi nằm dài trên bục xi măng, hồn vướng những ý nghĩ não nề. Tôi gọi Trần Tế Xương và thì thầm với ông tú Vị Xuyên rằng: Ngài ơi, ngài đã làm thơ cho con, vì con đấy, ngài ạ! Và tôi khe khẽ ngâm:

            Một việc văn chương thôi đã hỏng
            Trăm năm thân thế có ra gì

            Có ra gì, còn ra gì cái thân thế của tôi, của chúng tôi? Tôi muốn nói với Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, Như Phong, Nguyễn Mạnh Côn, Nhã Ca, Mặc Thu, Trần Dạ Từ, Thái Thủy, Lê Xuyên, Hoàng Anh Tuấn ở lại và bị bắt. Tôi cũng muốn nói với Thảo Trường, Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh, Văn Quang, Tô Thùy Yên, Đặng Trần Huân, những nhà văn, nhà thơ quân đội ở lại và bị trình diện học tập cải tạo. Ở Sàigòn, trước năm 1975 có bao nhiêu nhà văn, nhà thơ? Vậy mà cộng sản đã sàng sẩy, đãi lọc để chỉ bắt, chỉ còng tay hơn mười người. Hơn mười người đang có mặt tại một địa chị chung của xã hội chủ nghĩa, đang cởi trần, mặc quần xà lỏn, và mồ hôi nhễ nhãi khắp mình mẩy, đầm đìa trên khuôn mặt buồn bã. Mỗi người một tâm sự. Mấy ông ký giả còn thêm nhiều thắc mắc, như ông Đào Xuân Hiệp, thông tín viên tòa án, đã giải nghệ và đã làm “tà loọc” cho chủ nhà hàng Đồng Khánh, Lê Lai, không hiểu tại sao mình bị bắt. Như ông Văn Minh, chủ nhiệm tuần báo Con Ong, nửa chữ không biết viết, không hiểu tại sao mình bị bắt. Như Chóe đã làm tới chức thư ký tuần báo Lao Động Mới, không hiểu tại sao mình bị bắt…

            Hôm sau, Ba Trung gọi tôi ra. Vẫn ly cà phê đen, bình trà và gói Nông Nghiệp trên bàn. Nó mở đầu câu chuyện tình cảm.

            - Chiều qua, tôi đến nhà anh. Tôi biết chị ấy có nhà, nhưng chị ấy sai bà cụ ra nói chị ấy vắng nhà. Tôi hẹn buổi tối trở lại và trao thư của anh tận tay chị ấy.

            Ba Trung thở dài:

            - Chị ấy không tin thiện ý của chúng tôi.

            Tôi nói:

            - Nhà tôi bị khủng hoảng tinh thần.

            Nó cười:

            - Tuy nhiên, vẫn có lẽ giải sao ở sân nhà anh. Có thể giải được các sao nhưng không tài nào giải được sao vàng. Buổi tối tôi tới, gặp chị ấy, đưa thư của anh. Tôi hỏi chị ấy muốn trả lời anh thì tôi ngồi đợi chị ấy viết. Và chị ấy nói không cần thiết nữa.

            - Cám ơn anh.

            - Hôm nay anh làm tự khai.

            Ba Trung lôi ngăn kéo ra một tập giấy pelure fort do Cogido sản xuất. Nó không quên đặt lên tập giấy 2 cây Bic.

            - Tôi viết gì?

            - Trước hết là “Sơ yếu lý lich” rồi quá trình đời anh, từ 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thời gian từ 1954 đến 1963, anh không được quên một chi tiết nào. Đoạn anh theo đảng Duy Dân, anh nhớ viết đầy đủ. Mỗi tờ báo anh cộng tác, mỗi cuốn sách ánh sáng tác, anh phải nói rõ cảm hứng nào anh cộng tác, anh sáng tác. Anh tóm tắt từng cuốn sách.

            - Như thế dài lắm.

            - Chúng ta có nhiều thì giờ. Anh ngồi một mình ở đây viết cho yên lặng. Cần gì thì anh báo cáo cán bộ trực. Tôi có việc với anh Anh Quân.

            Ba Trung bỏ đi. Tôi đốt điếu thuốc lá mới. “Chúng ta có nhiều thời giờ”. Dương Nghiễm Mẫu đã dọn sẵn 12 năm lưu đầy. Có lẽ, Mẫu đúng và người công an miền Nam sai. Tôi chưa quên vụ Nhân Văn giai phẩm. Mới chỉ là những ẩn ức được giải tỏa theo chính sách “sửa sai” của Đảng, theo mỹ từ “trăm hoa đua nở” của Nhà Nước mà Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan cùng đi lao động cải tạo vài năm rồi bị đuổi khỏi Hội Nhà Văn, bị giải nghệ viết lách, mặc dù, Trần Dần là người có công to với cách mạng, được Hồ Chí Minh đánh giá cao tác phẩm Người người, lớp lớp. Và những Hoàng Cầm, Văn Cao bị đẩy vào trong đói rách, lãng quên. Và những Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân bị kiểm điểm tơi tả. Và Nguyễn Hữu Đang, Thụy An là hai người cuối cùng của Nhân Văn giai phẩm được bước ra khỏi trại cải tạo sau 20 năm đầy đọa (1956 – 1976). Vậy thì, chúng tôi, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Như Phong, những nhà vẫn chống cộng rõ nét nhất, tích cực nhất, chắc chắn, phải nằm tù ít nhất, cũng phải bằng Nguyễn Hữu Đang. Nhật báo Giải Phóng (một thứ Nhân Dân miền Nam do cục R chủ trương) đã nêu đích danh chúng tôi, gọi chúng tôi là tay sai của CIA gài lại và kết tội chúng tôi “kéo dài chiến tranh”. Nhật báo ấy mỉa mai Doãn Quốc Sĩ: “Nó tự ví nó là viên kim cương và nó xấc láo bảo rằng cộng sản không thể cắn vỡ nó nổi”! Nhật báo ấy cay cú Dương Nghiễm Mậu: “Nó dám so sánh nơi chúng ta giải phóng dân tộc là địa ngục có thật, nhân dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta là những kẻ sống đã chết”! Nhật báo ấy nguyền rủa tôi: “Ở chỗ nào nó cũng có thể tìm cách nhục mạ lãnh tụ của chúng ta và chúng ta. Nó dám hỗn láo, mất dạy so sánh tay của Bác không gây cảm xúc bằng tay Con Thúy. Và trong cuốn Gấu Rừng, nó cho con nít đánh nhau với khỉ thì nó nói hạ được vài chiến sĩ vô sản chính thống”!"

            Người công an miền Nam đã “lạc đường vào lịch sử”, lạc đường vào kháng chiến, lạc đường tập kết; đã bị phản bội, đã mệt nhoài và đã cam đành trong một guồng mày khốn kiếp, bằng tình cảm của người dân đồng bằng sông Cửu Long, không thích kéo dài thù hận, muốn hòa giải dân tộc thật tình nhưng ông ta nhỏ bé, ông ta làm gì nổi! Cái 10 ngày học tập của “ngụy quân, ngụy quyền” đã thành cái vô hạn kỳ của Đảng. Thì cái sau bầu cử cả nước, chúng tôi sẽ về, đúng với ý nghĩ của người công an miền Nam cũng phải thành cái vô hạn kỳ. Dù sao, tôi vẫn phải ghi nhớ chân lý “Chớ dại chết vì cái lỗ chân trâu” và lời khuyên cần thiết: "Anh sẽ phải làm tự khai nhiều lần. Vậy khi viết phải sáng suốt mà nhớ những gì mình đã viết”.

            Tôi đặt bút viết Tự khai… Không, tôi viết những lời buộc tội tôi. Ở chế độ cộng sản, con người không biết mình có tội gì mà vẫn phải tự nhận mình có tội bằng bút tích. Và đó là … tự khai! Một ngày nào đó, khi cờ búa liềm ngạo nghễ bay trên tòa Bạch Ốc, thì ngay cả đồng chí Gus Hall cũng phải làm tự khai, nói chi các mợ Jane Fonda, Elizabeth Hopkins, những anh chị trong tòa án Bertrand Russell và các chú thực hiện Vietnam, a television history. Đừng bao giờ tưởng chống chiến tranh là có công với cộng sản. Cộng sản chỉ thích phản chiến khi họ đã xâm lăng toàn cầu. Hòa bình của chó sói khác hòa bình của người công chính. Người cộng sản chủ chiến, không chủ hòa. Họ ra vẻ hòa bình là vì họ còn yếu. Cộng sản thực sự mạnh về kinh tế, nhân loại sẽ biến thành biển máu. Anh cần nhớ tâm niệm của người Mác xit là tiêu diệt đế quốc tư bản để nắm quyền lực độc tôn của đế quốc cộng sản. Có lẽ, chỉ khi anh phải làm tự khai nhận tội phản chiến, anh mới hiểu lòng dạ cộng sản. Khi ấy, anh chẳng còn dịp than thở với ai, sám hối với ai nữa. Khi ấy đã là đại nạn hồng thủy Liên Xô, tàn bạo, phũ phàng hơn đại nạn hồng thủy. Và hiện thực. Và khi ấy, trước giờ phút rã rượi gục chết trên một trang tự khai nào đó nhận cái vô tội làm cái có tội, anh sẽ chợt hiểu tại sao người Việt Nam bỏ quê hương, xứ sở lưu vong sang nước anh bằng những chiếc thuyền gỗ nhỏ bé lênh đênh trên đại dương để chịu đựng mọi bỏ rơi, hắt hủi, xua đuổi của anh. Anh sẽ thấm thía những phán xét về người tị nạn cộng sản là đê tiện, ích kỷ, hẹp hòi. Nhưng, rốt cuộc, anh vẫn chết trong cô đơn và ngu xuẩn truyền thống. Cái chết của anh lãng nhách. Anh không được phục sinh. Vì anh đã không được để lại cho đời sống kế tiếp một ý nghĩa nào về sự sống hay kinh nghiệm sống của con người. Nếu anh sợ hãi chết dần chết mòn trong cô đơn, nếu anh thèm khát phục sinh, anh nên nhìn rõ cộng sản và khơi dậy từ trái tim anh niềm trắc ẩn đối với nạn nhân cộng sản anh sẽ được cứu rỗi. Tôi nhắc anh: Đã 12 giờ thiếu 15 phút!

            “Sơ yếu lý lịch” của tôi dưới 2 chữ “tự khai” to tướng:

            Họ và tên: Vũ Mộng Long.

            Bút hiệu: Duyên Anh.

            Sinh năm: 19-8-1935.

            Sinh quán: Thái Bình (Bắc Việt Nam)

            Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 225 Bis Công Lý, Sàigòn 3.

            Quốc tịch Việt Nam.

            Dân tộc: Kinh.

            Nghề nghiệp: Nhà văn.

            Bị bắt ngày: 8-4-1976.

            Can tội: Nhà văn chế độ cũ.

            Nếu được viết thêm “người bắt”, tôi sẽ viết “người Việt Nam”. Tôi không muốn nói xa xôi, tôi muốn nói thật gần gũi thôi. Từ 30 năm nay (1945-1975), từ ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945, ở quê hương yêu dấu của tôi, chỉ thấy người Việt Nam bắt bớ người Việt Nam, bỏ tù người Việt Nam, tra tấn người Việt Nam, đày đọa người Việt Nam, trả thù người Việt Nam. Cộng sản giải phóng chúng tôi, nó không bắt chúng tôi. Tư bản khai phóng tự do, dân chủ cho chúng tôi, nó không bắt chúng tôi. Liên Xô và Mỹ không bắt chúng tôi. Chủ nghĩa của chúng nó bắt chúng tôi. Chúng tôi dại dột quá, nhân danh chủ nghĩa vô sản, chủ nghĩa tư bản và bằng vũ khí của vô sản, tư bản, chúng tôi đâm chém, tàn sát lẫn nhau ròng rã 30 năm. Chúng tôi thủ tiêu nhau, thù hận nhau ròng rã 30 năm. Bằng nhà tù, giây kẽm gai, xiềng xích, còng khóa tư bản và vô sản, chúng tôi nhốt nhau, trói buộc nhau ròng rã 30 năm. Bằng công cụ tra tấn và phương pháp tra tấn tư bản, vô sản, chúng tôi hành hạ nhau. Bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi, chúng tôi làm sáng danh chủ nghĩa. Và, hãy cứ hiểu là chiến tranh ý thức hệ hay chiến tranh bẩn thỉu đi, thì sau hòa bình của thứ chiến tranh ấy, sau cuộc phiêu lưu man rợ dẫn dắt bởi Liên Xô và Mỹ, chúng tôi còn lại gì? Chúng tôi còn nguyên vẹn nhà tù, còng khóa nhãn hiệu USA, chúng tôi có thêm trại tập trung, phương pháp tẩy não nhãn hiệu USSR. Trước 1975, Việt Nam Cộng Hoà bắt nhốt Việt Cộng vì chủ nghĩa … tự do, dân chủ. Sau 1975, Việt Cộng bắt nhốt Việt Nam Cộng Hoà vì chủ nghĩa… giải phóng nô lệ. Bạn rõ chưa? Chủ nghĩa đến, chủ nghĩa đi, chủ nghĩa ở lại. Nó đến, nó đi hay nó ở lại, thì người bản xứ vẫn chết thảm, vẫn tù ngục, vẫn xa rời tình tự dân tộc mình. Để ngu dốt, đói khổ vì chủ nghĩa. Mà chủ nghĩa cứ công khai bắt tay hữu nghị, toa rập đầy đọa những nước nhỏ có sự hiện diện của chúng nó. Tình trạng não nề này đã “hiện thực xã hội xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam, ở Nicaragua, ở Mozambique. Sẽ ở El Salvador, ở cùng khắp các xứ sở gọi là thế giới thứ ba chậm tiến! Bạn hãy lo thân phận bạn và số phận dân tộc của bạn đi là vừa. Tôi nhắc bạn: Theo cộng sản thì khổ, theo tư bản thì nhục. Chia đôi đất nước, một nửa theo cộng sản, một nửa theo tư bản thì có kinh nghiệm Việt Nam. Vậy phải làm sao? Đó là suy tư của bạn, tài năng của bạn. Một nhà văn nước nhỏ như tôi không đủ tư cách đề nghị một giải pháp. Trước hết, tôi không phải là nhà tư tưởng chính trị. Sau hết, tôi rất ít học.

            Tôi đọc lại cái “sơ yếu lý lich” của tôi. Nghề nghiệp: Nhà văn. Can tôi: Nhà văn chế độ cũ. Không chỉ riêng nhà văn, nhà thơ, nhà báo chế độ cũ bị chế độ mới còng tay tống vào ngục tù đầu. Còn có nhà soạn kịch và đạo diễn điện ảnh. Vào tù hết. Vì anh thuộc sản phẩm của chế độ cũ. Vào tù hết vì anh đã có ảnh hưởng trong quần chúng. Chị Jane Fonda sẽ vào tù vì chị được xếp vào hàng văn nghệ đồi trụy! Các anh nhà báo Mỹ sẽ vào tù vì các anh cộng tác với … tư bản. Ở chế độ cũ, dĩ nhiên, nếu cộng sản nuốt gọn nước Mỹ, người đi trình diễn học tập cái tạo đầu tiên sẽ là ngài Edward Kennedy. Cháu nội vĩ nhân Al Capone sẽ là chủ tịch cả nước Hoa Kỳ. Đồng chí Gus Hall thoát tù thì cũng đến làm … chủ nhiệm trường mù! Tương lai rực rỡ cho anh đấy, kẻ theo voi ăn bã mía ạ!

            Ba Trung trở lại. Nó đọc bản tự khai của tôi, cười mỉa:

            - Anh xúc động à?

            Tôi đáp:

            - Không phải xúc động mà là chưa quen tự khai. Chẳng còn gì tẻ nhạt hơn viết về mình một cách trung thực.

            - Rồi anh sẽ quen.

            - Vâng, nhưng khó.

            - Khó cũng phải quen. Cả buổi anh viết xong có cái “sơ yếu lý lịch”. Anh tự hào viết nhanh nhất nước cơ mà.

            - Khi tôi thích viết.

            - Bây giờ anh không thích?

            - Anh muốn tôi thành khẩn hay gian dối?

            - Thành khẩn.

            - Phải, tôi không thích.

            - Chúng tôi thừa hiểu các anh không thích. Xin các anh đừng bắt chúng tôi phải làm các anh thích.

            Ba Trung doạ tôi. Một người nhà văn trẻ bị bọn Xuân Diệu, Chế Lan Viên chèn ép không cho nổi tiếng, không thể có sách xuất bản, vào Sàigòn tìm gặp tôi và nói riêng với tôi: Khi công sản muốn giết anh, anh cúi đầu lạy nó, nó vẫn giết. Khi nó không thể giết anh, anh ngẩng mặt lên, nó cũng không dám giết. Khi ấy, nó ném anh vào trại tập trung để bọn cai tù giết anh, rình rập giết anh bằng tội trốn trại vượt ngục, bằng tội vi phạm kỷ luật bị bỏ đói chết dần mòn. Vậy anh nhớ, đừng ngẩng mặt với bọn chăn trâu cắt cỏ. Với bọn cai tù ranh con, anh nên ngoan ngoãn, nên tỏ ra biết điều, nên nhịn miếng ăn ngon biếu nó. Tôi muốn ngẩng mặt. Nhưng, nghĩ lại, Ba Trung không xứng đáng để tôi ngẩng mặt. Tôi không thích chết trong cái lỗ chân trâu.

            - Anh bảo chúng ta có nhiều thì giờ.

            - Đúng.

            - Tôi sẽ nhàn nhã viết

            - Đồng ý. Miễn là anh thích.

            - Tôi phải thích. Tù nhân phải làm theo ý thích của người giam nhốt nó.

            - Thành thật, tôi không muốn anh nhận anh là tù nhân.

            - Tôi là gì, thưa anh?

            - Anh là nạn nhân của chế độ cũ, là nạn nhân của chính anh.

            - Còn anh?

            - Tôi là cán bộ của cách mạng!

            Thêm nỗi đau đớn nữa của thời đại tôi: Tù nhân không được nhận mình là tù nhân và cai ngục chỉ là cán bộ cách mạng. Tôi về phòng. Buổi chiều, tôi lại ra viết tự khai. Sáng sau, chiều sau. Mãi mãi. Tự khai, tự khai. Tôi đã mô tả cái thủ thuật truy nã linh hồn nầy tường tận và cay đắng trong truyện dài Sỏi đã ngậm ngùi.
            --------------------------------
            1 Trong Vụ án Hồ Con Rùa, vợ chồng Trần Dạ Từ còn bị Ba Trung miệt thị kỹ hơn.
            2 Hồ Nam đã công khai viết và miệt thị Nguyễn Mạnh Côn là "nhà văn tố cộng" trên nhật báo Quyết Tiến của Hồ Văn Đồng.
            3 Vũ Hạnh, bây giờ thật tội nghiệp. Bạn sẽ đọc loạt bài "Thân phận Vũ Hạnh và những người nằm vùng". Và bạn sẽ thấm thía nếu bạn đang nằm vùng cho cộng sản ở ngoại quốc.

            Comment


            • #7
              6.

              Tôi được vợ con tiếp tế thực phẩm, thuốc men, tiền bạc vào mỗi thứ năm hàng tuần như tất cả mọi tù nhân khác. Tôi ở phòng B, nhà tù sở Công An đã qua hai tuần lễ. Đầu tuần lễ thứ ba, người ta cho phép chúng tôi cắt tóc, cạo râu. May mắn, tôi gặp Nguyễn Văn Sao làm giò chả ở Gò Vấp, cung cấp hàng cho toàn khu Chợ Cũ, Sàigòn. Anh ta vượt biên từ Bắc vô Nam năm 1956, được các linh muc Gò Vấp giúp đỡ và cưới vợ cho anh ta. Sau 30-4-75, Sao là Chủ tịch ủy ban nhân dân ấp, có súng lục và nhiều quyền hành. Anh đã đào nhiệm, theo ông Đinh Xuân Cầu và bị bắt cùng ông Đinh Xuân Cầu trên đường vào nhà Thái Ngũ lần thứ hai. Ngày Sao và Cầu bị bắt, tôi biết nhưng không biết nơi giam nhốt họ. Khi tôi thấy tên ông Cầu ghim trên miếng bìa đỏ, tôi cũng chỉ đoán ông nằm ở Sở Công An. Tôi để Sao giò vẽ bản đồ Phú Quốc bằng cái tông-đơ cùn nhay tóc trên đầu, sau gáy tôi mà nói chuyện riêng.

              - Ông Cầu đâu?

              - Phòng A. Ông vững dạ, không ai khai gì về ông cả.

              - Bảo đảm?

              - 100 phần 100

              - Nói với ông Cầu là ông ấy ngây thơ lắm, ông ấy bị thằng mục sự chó đẻ Trương Phiên giảng tin độc rồi. Nó nói phét, hoàn toàn nói phét.

              Sau ngày Giáng Sinh năm 1975, tại nhà tôi, số 225 bis Công Lý Sàigòn 3, có một cuộc họp tay tư. Đinh Xuân Cầu, Trương Phiên, bà Th. và tôi. Linh mục Trần Hữu Thanh, theo lời Trương Phiên (tôi chưa hề gặp gỡ linh mục Trần Hữu Thanh trước kia và sau này), cứ đòi mời vợ ông chủ báo quá cố V. S. Phan Mỹ Trúc tham gia nội các. Trương Phiên từ chối. Ông Phiên đã mời bà Th., tiến sĩ, tốt nghiệp tại Mỹ. Bà Th. đồng ý nhập cuộc. Lý do Trương Phiên chê bà Trúc vì bà này có tiệm sách Giải Phóng ở Thị Nghè. Cuộc họp chớp nhoáng. Tôi được giao nhiệm vụ đi mời bà Khánh Trang, cựu bí thư của bà Ngô Đình Nhu hay bà Nguyễn Văn T., chị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Nội các Đinh Xuân Cầu có sự tham gia của ông cựu Giám đốc VTX, thứ trưởng Bộ Thành Niên và Tuyên Truyền. Ghế Bộ trưởng còn để trống. Trương Phiên bảo mọi người tự ý chụp một kiểu ảnh, lấy chợ sách Lê Lợi làm phông, nhớ tìm quán bán lịch 1976 để ngoại quốc có chứng cớ cụ thế là nội các thành lập ngay Sàigòn rồi mới lưu vong. Tôi đến nhà bà Khánh Trang, đường Hồng Thập Tự, Sàigòn. Gặp một lô nón cối, giép râu, nói năng trỏ trẻ, không dám nói chuyện thật với bà Khánh Trang nữa. Lại ghé về đường Pasteur, vào kiếm bà Nguyễn Văn T.

              - Chuyện đứng đắn hay chuyện phong thần hả, Duyên Anh?

              - Chuyện đứng đắn.

              - Duyên Anh có tham gia không?

              - Có

              - Làm gì?

              - Báo.

              Bà T. cáo lỗi vì bận tiếp thân chủ của bác sĩ Nguyễn văn T.. Một cách tiễn khách khéo léo. Chuyện gom góp một số người có uy tín để chiến đấu chống cộng sản sau 30-4-75 đã trở thành chuyện … phong thần. Nghĩ mà buồn bã và xót xa cho thân phận trí thức. Và tội nghiệp ông Đinh Xuân Cầu. Người ta đã và đang vượt biên trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền gỗ đó, có chi là phong thần? Tôi bỗng nổi máu – sự nổi máu biến tôi thành tên biệt kích cuối cùng ra khỏi tù – Trước hết tôi đi tìm Bùi Duy Tâm. Ông Khoa trưởng đại học Y Khoa Minh Đức của tôi đã bị nhúm vô trại cải tạo Long Giao 3 tháng. Như Nguyễn Tuấn Anh, Bùi Duy Tâm về sum họp gia đình trước Giáng Sinh. Tôi nói với Tâm sự nhập cuộc của tôi. Anh không có ý kiến gì cả, chỉ vỗ vai tôi một cách thân tình:

              - Ai dám chọi nhau với cộng sản lúc này đều can đảm hơn người. Chỉ lúc này mới chứng tỏ được rằng chống cộng sản để không ăn cái giải gì ngoài lý tưởng đích thực của mình. Chức tước là thứ hình thức cần có ở một giai đoạn nào đó. Anh đừng câu nệ. Rồi ai cấm anh nhả nó ra. Tôi chưa biết cuộc phiêu lưu đưa anh về đầu, vào đâu, nhưng anh hãy yên tâm, còn ở Sàigòn ngày nào, tôi lo sức khỏe cho chị và các cháu giùm anh.

              Từ giã Bùi Duy Tâm, tôi tạt sang Nguyễn Tuấn Anh. Cũng nói với Tuấn Anh như nói với Tâm. Anh giữ tôi lại khá lâu. Cuối cùng, anh tiễn tôi về với câu dặn dò cần thiết:

              - Duyên Anh thận trọng nhé, tôi nghe nói nhiều người bị bắt rồi đấy!

              Đời tôi có nhiều lần ngông và lắm lần dại. Mười chín tuổi, tôi đã xách khăn gói tới nằm ở hành lang Tòa Thị Chính Hà Nội, đợi người Pháp đến đón sang phi trường Gia Lâm, bay vào Sàigòn, tứ cố vô thân. Hai mươi tuổi, tôi theo đảng Duy Dân lên Ban mê Thutc, lập chiến khu chống Mỹ, Diệm, Pháp, Bảo Đại và cộng sản. Và cả Vatican nữa! Tôi học tập Tru trị lục của Lý Đông A, ngâm thơ chính khí Lý Đông A, nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội Lý Đông A. Rồi tôi tẩu hỏa nhập ma biến thành một ông nhóc quốc gia cực đoan rẻ tiền và lạc hậu. Rẻ tiền và lạc hậu vì không ai hiểu nổi tâm hồn Lý Đông A. Đàn anh của tôi cũng bị tẩu hỏa nhập ma. Khi tôi thấy có những bốn hệ phái Duy Dân ở Sàigòn, tôi cảm thấy mình bị lừa gạt niềm tin. Và tôi đã diễn tả trong Ảo vọng tuổi trẻ. Nhưng tôi nhờ Duy Dân mà biết Hòa Hảo, vào núi sống với Bảy Đởm, làm Cao Ba Quát cho giặc cỏ Lê Duy Mật một thời gian. Hai mươi nhăm tuổi, nhờ vài cái truyện ngắn, tôi được miễn bằng cử nhân, với sự tiến dẫn của ông Nguyễn Bích Liên, người ta nhận tôi làm Biên tập viên và người ta đẩy tôi lên hàng chủ bút! Hai mươi tám tuổi, tôi chửi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, bỏ nghề công chức ra làm báo. Bắt đầu làm báo là tôi viết bài quan trọng cho trang nhất. Từ đó là ngông nghênh và ngông cuồng. Vì từ đó tôi biết rõ trí thức khoa bảng và các thần tượng chính trị, thần tượng văn học nghệ thuật. Ba mươi lăm tuổi, tôi nhận ra tôi ngông nghênh láo lếu. Tôi bắt đầu làm lại bằng Tuổi Ngọc. Tôi cố nhịn nhục cuộc đời để dứt bỏ cái ngông nghênh ngu dại của mình. Bốn mươi tuổi, đúng cuối năm 1975, tôi lại ngông. Lần này không biết định nghĩa chữ ngông ra sao vì lần này tôi bị tước đoạt hết, kể cả quyền con người. Tôi nhận lời làm Bộ trưởng Thanh Niên và Tuyên Truyền cho nội các Đinh Xuân Cầu.

              Ông Cầu không phải người đầu tiên mời tôi tham gia chiến đấu. Trước ông ta, khoảng tháng 8-1975, một người gọi dây nói cho tôi (bấy giờ, điện thoại nhà tôi chưa bi cắt) bảo rằng có người bạn cũ, đồng hương, muốn gặp tôi. Câu chuyện trong điện thoại:

              - Tùy anh lựa chọn địa điểm và giờ giấc.

              - Anh phải cho tôi biết tên người muốn gặp tôi.

              - Để anh ngạc nhiên. Anh yên tâm, hoàn toàn thiện ý.

              - Còn anh?

              - Tôi hay đánh phé với anh ở nhà Trần Dạ Từ. Mấy năm trước, tôi là chánh sự vụ sở chương trình của Đài Sàigòn.

              - Chiều mai, nhà hàng Kim Hoa, 5 giờ.

              - Anh đến một mình nhé!

              - Tôi đã không đến một mình. Đặng Xuân Côn đến với tôi. Côn đến nhà hàng Kim Hoa, đường Lê Lợi, từ 4 giờ 30. Tôi dễ dàng nhận diện người bạn tây-đầm-bồi-xì. Họ đợi tôi ở chiếc bàn góc phòng. Người bạn cũ, đồng hương của tôi rất … xa lạ với tôi. Chúng tôi chưa hề quen nhau, gặp nhau. Anh ta tự giới thiệu.

              - Tôi là em vợ của Đào Quang Huy, dân Thái Bình.

              Ông Đào Quang Huy, tiến sĩ luật khoa, luật sư Tòa Thượng Thẩm Sàigòn, thầy cũ của tôi, người bị tôi tặng hỗn danh Huy Cà Chua vì cái mũi to và lúc nào cũng đỏ. Tôi không thích ông Huy từ ngày ông ta làm cố vấn cho Bộ trưởng Thông Tin Linh Quang Viên và ra ứng cử dân biểu đứng dưới tên Trần Thế Minh “tâu tắng”.

              - Anh gặp tôi có chuyện gì?

              - Việc chung. Nhưng anh mời anh Côn sang dùng chung bữa với chúng ta.

              - Xin lỗi, tôi đề phòng.

              Đặng Xuân Côn không biết người biết rõ mình. Chúng tôi đi vào chuyện trước khi ăn uống. Tôi học tập Võ Tòng đối xử với Thi Ân.

              - Tôi ở rừng về Sàigòn mua thuốc. Tôi trốn trình diện. Chúng tôi muốn mời anh nhập cuộc chơi mới.

              - “Chúng tôi”?

              - Đàn anh và thầy của tôi, các ông đại tá. Họ đã họp, đã chọn lựa và, cuối cùng, quyết định chọn anh vì ảnh hưởng sâu rộng của anh đối với tuổi trẻ. Tôi được chỉ định về Sàigòn mời anh, nhờ tôi là dân Thái Bình, em vợ anh Đào Quang Huy và chơi thân với anh Chánh sở. 1

              - Tại sao chỉ mời tôi?

              - Muốn các anh không cộng tác với địch.

              - Phần đông nhà văn của chúng ta nghèo, anh biết chứ?

              - Các ông ấy sẽ lo vấn đề mưu sinh, sẽ có tiền trao tận tay từng anh em.

              - Đó là vấn đề tiên quyết. Còn tôi, tôi vào rừng?

              - Anh hoạt động ở ngay Sàigòn, khi lâm nguy mới rút vào rừng.

              - Cái thân tôi kể như tàn tạ rồi, chẳng sợ ai gài bẫy mình nữa. Cộng sản muốn bắt tôi lúc nào là bắt nên tôi không nghi ngờ gì anh cả. Có điều, muốn tôi nhập cuộc, phải đưa vợ con tôi ra khỏi Việt Nam. Khi tôi biết vợ con tôi an toàn ở ngoại quốc, các anh bảo tôi làm gì tôi cũng làm.

              - Anh cam kết?

              - Phải, tôi cam kết.

              - Tôi sẽ về cho các ông ấy biết điều kiện của anh và sẽ gặp anh tại nhà anh. Tôi sẽ lái chiếc Cortina số ED, đậu bên kia đường. Thời gian chờ đợi, cần liên lạc gì, anh liền lạc với anh Chánh sở. Anh ấy bán xăng lẻ dưới gốc cây đường Trần Quý Cáp, lưu động dọc đường nầy. Đó là một trong những địa điểm của chúng tôi.

              - Tôi nhớ.

              - Anh Duyên Anh, chẳng cần dấu diếm anh làm gì, nếu hôm nay anh không nhận lời mới của chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt anh đưa vào rừng.

              Tôi giật mình. Rồi nhìn chung quanh. Có đến năm người nhìn tôi, cười thân mật.

              - Sự hợp lý của anh là điều kiện anh nêu ra. Ta cứ coi đây là buổi sơ ngộ.

              Ngày hôm sau, tôi đảo dọc đường Trần Quý Cáp tìm người bán xì-phé. Anh ta cho tôi biết em vợ Đào Quang Huy là sĩ quan tình báo và những người có mặt hôm qua đều là biệt kích. Người anh em đã tin tôi, tôi đặt hết niềm tin vào họ. Hai tuần sau, vào một buổi sáng trời mưa, người anh em bấm chuông cổng nhà tôi. Tôi nhìn sang bên kia đường có chiếc Cortina ED đậu. Người anh em che ô đến, dáng điệu bình thản. Tôi biết, bên ngoài còn nhiều anh em khác.

              - Các ông ấy đồng ý. Anh cho chị và các cháu chuẩn bị sẵn sàng. Như là đi du lịch, thật giản dị. Sẽ có một em gái trạc 16 tuổi, mặc quần áo hướng đạo đến báo tin và hẹn giờ giấc, địa điểm. Chị và các cháu sẽ đi bằng thuyền nên anh phải lo thuốc chống say sóng. Chuyến này, chị và các cháu đi với một nhân vật quan trọng của chúng tôi. Nếu lỡ, chuyến sau, chị đi với những người vượt biên. Sau khi chị và các cháu an toàn ở Mỹ, chúng tôi sẽ thảo luận kế hoạch đối kháng kẻ thù. Anh cần hỏi gì thêm?

              - Nhà tôi được mang theo tiền bạc chứ?

              - Được. Theo tôi, vàng bạc, hột xoàn nên để lại. Đi tay không là an toàn nhất.

              - Tôi sẽ nghe lời anh.

              - Tôi về, ngồi lâu không tiện vì anh có thể bị chúng nó theo dõi.

              Người anh em thật chí tình. Ba hôm sau, buổi chiều, một em bé gái, mặc quần áo hướng đạo, đến bấm chuông. Vợ tôi đang lên cơn sốt nặng lúc đó. Tôi dẫn em bé vào phòng. Em bé chứng kiến vợ tôi đang vật vã trên giường. Tôi nhờ em nói giùm là chuyến nầy vợ con tôi không thể đi. Em bé trở lại buổi tối, bảo tôi yên tâm đợi chuyến sau và phải đợi lâu. Mãi đến khi ông Đinh Xuân Cầu tìm tôi, em bé gái vẫn không trở lại trong thao thức chờ đợi của tôi. Tôi đã mất một cơ hội. Chẳng phải tại tôi. Định mệnh đã an bài như thế, đã an bài nỗi thống khổ mà vợ con tôi cam đành chịu đựng cùng với tôi gần trọn một thập niên. Người anh em tuyệt tích. Tuyệt tích luôn người bạn xì-phé bên đường Trần Quý Cáp. Tạm biệt anh em, chúng ta sẽ gặp lại hình ảnh kỷ niệm tuyệt vời ở phòng 6 khu C1, đề lao Gia Định với Thanh Thương Hoàng Nguyễn Thanh Chiểu, chủ tịch Nghiệp Đoàn Báo Chí Việt Nam.

              Ông Đinh Xuân Cầu mừng rỡ khi tôi quyết định dấn thân. Tôi muốn giúp ông ta, đi mời nhiều nhân sĩ, trí thức nhưng tất cả đều cho chuyện lập nội các, họp báo quốc tế rồi lưu vong là chuyện phong thần. Miếng đỉnh chung không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy con đường dẫn vào nhà tù, vào sự chết thảm, chết vô danh, chết không một nấm mồ; danh vọng không nhìn thấy chỉ nhận thấy cái án tích phản động tập trung cải tạo, sự mỉa mai của bọn thiếu can đảm nhưng đầy ác ý, sự phiền trách của vợ con, nên cái hợp thời và khôn ngoan nhất là tìm cách vượt biên hay ngồi yên hưởng nốt của cải còn lại. Tôi không muốn nhận tôi là người can đảm. Tôi không thích danh vọng chính trị vì tất cả danh vọng của Bộ trưởng, Thủ tướng, Tổng thống Việt Nam không lừng lẫy và vĩnh cửu bằng danh vọng của một nhà văn nổi tiếng. Tôi đã nổi tiếng, ở Việt Nam, chẳng thèm nhờ chức tước Bộ trưởng mà nổi tiếng. Nhận làm Bộ trưởng, lúc này, không ngu thì ngông. Tôi ngông. Thế thôi. Và tôi nghĩ tôi đủ khả năng làm đến nơi đến chốn nhiệm vụ người ta giao phó cho tôi. Điều oái oăm trong số phận của tôi là, người ta chỉ giao phó nhiệm vụ cho tôi, tin tưởng tài năng của tôi vào thời gian bóng xế, vào không gian quạnh hiu của nền chống cộng, vào thời buổi chẳng ai còn một đồng bạc nào cho nhau, chẳng lạc quyên ở đâu nửa cắc để uống nước mía mà làm … Bộ trưởng!

              - Ông Cầu, khi ra ngoại quốc, ông tìm người khác thay thế tôi nhé!

              - Ông phải làm việc tới khi thành công.

              - Tôi không biết làm chính trị. Tôi nói trước kẻo ông sẽ trách tôi, sang nước ngoài, tôi làm cu li mưu sinh. Bấy giờ, mọi việc dễ dàng, ông kiếm Bộ trưởng không khó. Tôi nhắc lại: Tôi chỉ tin ông, không tin Trương Phiên. Và tôi cũng không tin Trương Phiên đem vợ con tôi ra khỏi Việt Nam.

              - Thế tại sao ông nhận lời?

              - Vì ông tin tấm lòng trong sách của tôi, tin tài năng của tôi. Cũng vì tôi tuyệt vọng, tôi muốn tìm từ trong nỗi tuyệt vọng một niềm hy vọng mới. Tôi đã là con số zéro, tự làm thành con số 9. Hôm nay, tôi lại trở về con số zéro. Tôi không tiếc rẻ sự mất mát. Sự khó khăn của tôi hiện tại chỉ là trách nhiệm của tôi đối với vợ con tôi. Nếu tôi độc thân hay nếu vợ con tôi đã di tản, tôi chấp hết.

              - Tôi xin được phép chia xẻ một phần trách nhiệm với ông.

              - Cám ơn ông. Tôi sẽ chọn lựa một người làm việc chung với tôi.

              - Ông toàn quyền.

              Tôi rủ Mai Thảo lên Kim Hoa ăn sáng, nói cho anh ta biết tôi đã tham gia một tổ chức chống cộng sản. Tôi cũng trình bày cái nội các lưu vong và mục đích của nó. Tôi mời Mai Thảo vào cuộc chơi. Anh ta bằng lòng. Rất khiêm tốn, tôi nói:

              - Tôi biết ông không câu nệ chức này, chức nọ. Hãy coi tôi làm chủ nhiệm và ông làm chủ bút hoặc ông làm phụ tá.

              Mai Thảo cười:

              - Xong rồi.

              - Ông vì vợ con tôi mà đừng nói chuyện này với ai.

              - Tôi hứa.

              Mai Thảo hứa và Mai Thảo nuốt lời hứa. Anh ta đem chuyện chống cộng sản cô đơn và lãng mạn của tôi (và của anh nữa vì anh ta đã nhận lời) kể vung vít. Chắc chắn, với sự mỉa mai của anh ta và với những nụ cười khinh mạn của những người nghe anh ta kể. Ít nhất đã 3 người nghe Mai Thảo kế. Doãn Quốc Sĩ, khi nằm chung đề lao số 3 khu C1 đề lao Gia Định, đã thuật lại với tôi. Hoàng Hải Thủy, khi tôi trở về cuối năm 1981, đã thuật lại với tôi và trách móc: “Tại sao mày rủ thằng Mai Thảo mà không rủ tao?” Bà Nguyễn Đình Vượng tâm sự với vợ tôi rằng: “Ông Mai Thảo dặn tôi đừng tin Duyên Anh”, cứ làm như thể tôi sẽ … quyên vàng của bà ta để kháng chiến! Mai Thảo không hề biết chính tôi phải ủng hộ tổ chức của tôi một lạng vàng. Và trong cái lạng vàng chia cắt ra mua xăng nhớt, có mấy chục dúi vào tay Mai Thảo ở nhà hàng Kim Hoa. Nhớ kỹ đi, Mai Thảo. Nhớ thêm có một lần tôi chở Mai Thảo bằng chiếc R-8 xuống làng Báo Chí kiếm Nguyễn Đình Toàn, ăn nhậu ở nhà Toàn, kéo nhau lên Phan Đình Phùng, hút thuốc phiện trên Quang Minh Đỉnh. Lần đó, Mai Thảo khuyến cáo tôi: “Đừng nói gì với Nguyễn Đình Toàn, miệng nó hở lắm”. Trong số nhà văn Việt Nam, tôi có nhiều kỷ niệm với Mai Thảo. Tôi không hề dính dáng tới Sáng Tạo hay Nghệ Thuật của anh ta. Tôi chơi với Mai Thảo khi tôi đã có Hoa Thiên Lý, Thằng Vũ, Mây Mùa Thu. Kỷ niệm khởi sự, Mai Thảo không biết, không muốn biết. Lúc ấy, anh ta nằm ở Grall để … tị nạn tình yêu sau khi bị Lê Quỳnh sửa một trận kỹ lưỡng, rạch trán Mai Thảo vì Mai Thảo dan díu với Thái Thanh. Năm giờ sáng, Anh Ngọc mò lên toà soạn nhật báo Sống, yêu cầu chúng tôi loại bỏ cái tin “từ thành đến tỉnh”, thứ tin xe cán, chó chết, “Mai Thảo bị đánh ghen”, nằn nì chúng tôi và xin các báo bạn đừng đăng tin này, đừng tạo ra xì-căng-đan ầm ỹ. Chúng tôi đã “bao kín”. Tôi quen và thân Mai Thảo từ đó. Được nghe một chuyện tình lớn của anh ta, được nghe tâm sự ủ ê của lãng tử độc thân, tôi mến Mai Thảo. Anh ta trầm lặng, anh ta đứng đắn. Nhưng, cuối cùng, anh ta đã dẫm lên lòng quý mến của tôi dành riêng cho anh ta. Có lẽ, anh ta tưởng tài năng của anh ta quần chúng thiên hạ, bất khả xâm phạm chăng? Có lẽ, anh ta tưởng tôi sẽ chết rủ trong ngục tù, chẳng còn dịp gặp anh ta nữa chăng? Tôi đã hiện diện. Tôi còn sung sức. Mai Thảo thì tàn tạ, cằn cỗi rồi. Tôi không hề có ý “tính sổ” với anh. Chỉ nhắc nhở anh một sai lầm đi ra ngoài cái thiên chức của một nhà văn tự nhận mình là “chef de file” khi anh rỉ tai với Nguyễn Tuấn Anh: “Duyên Anh bậy lắm, trong tù, nửa đêm nó bảo anh em đun nước pha cà phê uống, rồi nó uống một mình!” Làm gì có chuyện ấy, làm như có chuyện xích lô chạy ở Pleiku như anh viết trong tiểu thuyết của anh. Anh chưa có một ngày trong tù cộng sản nên anh không biết rằng, ngay cả cả phê cũng bị cấm đem vào nhà tù nói chi lửa bếp. Ở đề lao Gia Định, đến tháng 8-1976, cà phê và trà bị cấm tiếp tế. Trước đó, cà phê được phép và chỉ pha bằng nước nóng của trại phát buổi sáng và buổi trưa. Tù nhân nào hâm đồ, đun nước, bằng bao túi ni lông trong xà lim, bị phát hiện, sẽ bị còng chân nhốt ở cachot, sẽ bị cấm viết thư, nhận thư và thăm nuôi. Ở Chí Hòa, kỷ luật khe khắt hơn. Bị gọi ra đánh sưng mày mặt. Ở các trại tập trung, nếu lén lút gởi mua được cà phê, tù nhân pha ngoài bãi lao động hoặc chủ nhật tự do nấu nướng trong bếp của trại. Tôi thấy Thế Phong xếp anh vào loại nhà văn viễn mơ không sai. Anh ham ngồi xích lô, nên anh cho nhân vật của anh ngồi xích lô trên đường dốc Pleiku. Anh ghét tôi, ghét kẻ luôn luôn yêu mến anh, ghét kẻ thường xuyên thù tạc anh champagne và vin, ghét kẻ luôn luôn bênh vực anh, ghét kẻ luôn luôn dùng uy thế của mình với các nhà xuất bản để bán tác phẩm dùm anh khi anh đã hoàng hôn xế bóng và anh cho tôi “pha cà phê trong ngục thất nửa đêm” và nhiều chuyện bịa đặt nham nhở khác. Anh Mai Thảo, với anh thì tôi chỉ cần nói sự thật. Và anh đừng quên không phải là tôi không có tài tưởng tượng, thêu dệt.

              Đầu tháng giêng năm 1976, ông Đinh Xuân Cầu phát một tín hiệu mới: Một nửa nội các ra đi, một nửa ở lại hoạt động ngay tại Sàigòn. Tôi đến căn nhà của người thợ may, anh ruột của Trần Văn Lợi, khu chợ An Đông, nằm trên gác cùng với ông Cầu. Bây giờ, tổ chức có thêm Đặng Xuân Côn, đặt địa điểm liên lạc với Trương Phiên tại trụ sở Mai Hà công ty, đường Lê Lợi. Sáng 2-1-76, Đặng Xuân Côn tới An Đông để tiễn chân tôi. Buổi trưa, Trương Phiên xuất hiện. Ông ta nói tình hình bất ổn trong chiến khu. Nguyễn Cao Kỳ đã về nước, khống chế lực lượng của Bùi Thế Lân và bắt giam Lân. Kỳ muốn nắm nội các! Trương Phiên phàn nàn linh mục Trần Hữu Thanh không dứt khoát đi hay ở. Chuyến đi phải hoãn. Tôi ngỡ ngàng một chút và ngờ vực nhiều chút. Khởi sự, nội các họp báo quốc tế, cầm chân các thông tin viên bốn tiếng, rút vào bưng, xuất ngoại. Rồi một nửa nội các ra đi không kèn không trống. Rồi tình hình chiến khu bất ổn. Và, sau hết, Trương Phiên bảo tôi:

              - Anh đừng về nhà nữa. Công an của phòng chính trị bảo vệ đã bao vây nhà anh.

              Trương Phiện dặn dò chúng tôi cách khai báo, nếu rủi ro bị bắt. Phiên quả quyết người của tổ chức nằm ở hàng ngũ công an chấp pháp Sở Công An, không sợ hãi gì cả, anh em sẽ giải thoát. Tôi thực sự lưu vong ở … Sàigòn. Người ta tìm một căn nhà ở Tăng Bạt Hổ, đưa ông Cầu và tôi đến tá túc. Chủ nhà là một kỹ sư nông nghiệp hồi hưu, người miền Nam. Ông cụ biết mưu đồ của chúng tôi và tỏ ra quý mến chúng tôi. Cụ bà càng tha thiết, quyến luyến. Các cụ có 2 người con trai, một du học bên Pháp, ở lại, lấy vợ Pháp; một phi công trực thăng, đã hy sinh tại mặt trận Pleiku. Trần văn Lợi giới thiệu tôi đến đây. Ba người con gái của cụ, một cô là hotesse de l’air đường bay quốc ngoại, đã lấy chồng; hai cô đang còn là sinh viên và là độc giả của tôi. Rất lãng mạng, dù trong nghịch cảnh, hai cô mường tượng nhân vật Dũng cách mạng của Nhất Linh là tôi. Và tôi, tôi cũng thấy ở một cô, dáng dấp của Loan. Nếu sự “bôn ba" của chúng tôi chỉ là một trò chơi của gián điệp Mỹ Trương Phiên thì đau đớn quá. Trò chơi này đã xấc xược bước lên niềm tin của nhiều người bằng gót giày thô bỉ của nó. Tôi đã nghĩ, sau này, nếu tôi còn sống và được viết không gây nguy hai chi đến gia đình ân nhân của tôi, căn nhà số chẵn đường Tăng Bạt Hổ phải là một truyện dài tình nghĩa. Nó phải được ghi rõ số nhà cùng tên tuổi thật của những người cư ngụ trong đó.

              Trương Phiên lại đến Tăng Bạt Hổ. Ông ta đưa cho tôi chút tiền. Khi Trương Phiên về, tôi và Đinh Xuân Cầu thảo luận trong nỗi bực tức của tôi.

              - Tôi không tin những gì Trương Phiên nói.

              - Tôi tin.

              - Tôi cũng không tin nó vừa đi Mỹ về.

              - Tôi tin.

              - Ông tin là quyền của ông, tôi muốn tìm hiểu sự thật với chứng cớ cụ thể.

              - Tôi có chúng cớ cụ thể.

              - Hai tuần nữa, không rời khỏi Việt Nam, tôi về nhà tôi. Tôi không muốn bị bịp.

              Tôi bàn với Đinh Xuân Cầu cái kế hạ sách của tôi bắt trói Trương Phiên lại, sai Sao Giò tra tấn y, Trương Phiên sẽ phải khai sự thật. Ông Cầu cười. Tôi cười. Chúng tôi cười rũ rượi, cười ngây ngất. Đinh Xuân Cầu, rốt cuộc, chỉ là một nghệ sĩ, ngây thơ và mơ mộng. Ông ta đã vẽ ra cảnh đất nước toàn thiện, toàn mỹ khi quyền bính về tay người quốc gia chân chính.

              - Nếu Trương Phiên bị bắt, tôi bảo đảm, chỉ vài tháng sau nó được tự do.

              - Tại sao?

              - Vì nó là gián điệp.

              - Còn ông?

              - Tôi chết mục trong tù.

              - Còn tôi?

              - Thôi, đừng nói chuyện này nữa, ông Duyên Anh.

              Ông Cầu rời Tăng Bạt Hổ đi đâu, tôi không biết. Tôi ở lại đây một tuần lễ. Khi tình yêu của tôi với cô con gái út của ông cựu kỹ sư vừa chớm nở thì Sao Giò chở tôi đến căn nhà của ông trùm xóm đạo, đường Tô Hiến Thành, Hòa Hưng. Người ta đã tổ chức cầu nguyện cho chúng tôi. Người ta đã cung phụng cho chúng tôi những gì người ta có. Người ta tin tưởng chúng tôi. Chắc chắn, tôi phải tìm cách giết Trương Phiên, nếu trò chơi của nó làm mất niềm tin của nhiều người. Ông Cầu, Sao Giò và tôi tá túc tại Tô Hiến Thành hai ngày. Chúng tôi di chuyển xuống ngã tư Bảy Hiền. Các chức sắc Xóm Mới thay phiên nhau đến thăm chúng tôi. Tôi áp lực với ông Cầu phải bắt Trương Phiên nói sự thật. Ông Cầu đi gặp Trương Phiên.

              - Tôi đem các con tôi ra thề với ông rằng, chính mắt tôi, đã coi những dias mà Trương Phiên chụp đứng cạnh Lý Quang Diệu. Trương Phiên nói, để chứng minh sự thật, y sẽ đưa Ngô Quang Trưởng về Sàigòn gặp chúng ta.

              - Tôi vẫn chưa tin.

              - Vì ông tỏ vẻ không tin nên Trương Phiên có ý đề phòng ông.

              Tôi nổi giận:

              - Nó đề phòng tôi, tôi sợ gì nó!

              Ông Cầu trấn an:

              - Ông đừng hiểu đề phòng theo nghĩa xấu. Ngày mai, tôi hẹn Trương Phiên ở nhà em tôi, Đinh Xuân Thọ, đường Nguyễn Hoàng.

              Chúng tôi đợi Trương Phiên. Ông ta đã tới. Trương Phiên trả lại tôi một lạng vàng. (Tổ chức mượn tôi 2 lạng). Ông ta đưa tôi coi một tờ báo bí mật in roneo của Phục Quốc. Rồi ông ta nói:

              - Nếu các ông nóng lòng ra đi, tổ chức sẽ chỉ lo các ông tới Thái Lan thôi. Tương lai chính trị của các ông sẽ mất mát nhiều, vì các ông khó trở về Việt Nam.

              Tôi nói:

              - Tôi không cần tương lai chính trị, không cần ra đi. Tôi chỉ cần biết ông kéo dài trò chơi này bao lâu và trò chơi của ông nhằm mục đích gì?

              Trương Phiên nghiêm nghị:

              - Trước hết, tôi không phải là cộng sản. Thế thì hành động của chúng ta không phải là trò chơi.

              Tôi đập bàn:

              - Vậy các ông hành động đi, tôi bỏ cuộc.

              Tôi về nhà tôi. Tôi không thấy một dấu hiệu nào của sự bao vây, theo rõi tôi. Sao Giò vẫn liên lạc tôi qua Đặng Xuân Côn. Tôi biết ông Cầu đã gặp Thái Ngũ ở Chợ Lớn và đã nhận được tài trợ của Thái Ngũ. Ông Cầu hẹn tôi ở Bảy Hiền. Tôi giới thiệu Hoàng Ngoc Thân với ông Cầu. Ông ta cho chúng tôi hay mọi diễn tiến tốt đẹp. Cuối tháng 1-1976, ông Cầu và Sao Giò bị bắt trên đường vào nhà Thái Ngũ. Chính Trương Phiên lên Nam Hà công ty báo tin này cho Đặng Xuân Côn. Trương Phiên hẹn gặp tôi ở nhà Đặng Xuân Côn. Ông ta đã thất hẹn. Sau Đinh Xuân Cầu, linh mục Trần Hữu Thanh bị bắt. Rồi Trần Thiện Ngọ, Hà Tường Cát … Tôi bắt đầu lo lắng. Ăn tết xong, tôi vẫn chưa bị bắt. Đặng Xuân Côn thường xuyên liên lạc với Trương Phiên. Ông ta nói với tôi rằng không muốn gặp tôi vì tôi nóng tính. Côn có vẻ tin Trương Phiên, ít nhất, tin rằng người của tổ chức nằm ở Sở Công An, do đó, tôi không bị bắt. Tôi cứ thắc mắc tại sao Trương Phiên, kẻ chủ chốt, vẫn khơi khơi ngoài đời?

              Nguyễn Văn Sao, từ Sao Giò, chuyển lời của tôi cho ông Đinh Xuân Cầu khi anh ta về phòng. Buổi chiều, anh ta ra hành nghề hớt tóc tù, Sao xin phép cán bộ tặng tôi khúc bánh mì chả quế. Tôi hiểu ý, moi ổ bánh mì, lôi mẫu thư của Cầu: “Ông bi quan quá, mục sư vẫn là mục sư. Tôi tin.” Tôi không tin mà yên tâm ông Cầu đã quên tôi trong “tự khai”. Ba Trung cũng chẳng đề cập gì đến “Nội các Đinh Xuân Cầu” khi mạn đàm với tôi. Nó không gọi tôi ra viết tự khai nữa. Bản tự khai của tôi chưa hết quá trình từ 10 tuổi đến khi tôi di cư vào Sàigòn. Ba Trung bỏ rơi tôi. Nó gọi Đằng Giao. Nó gọi Nguyễn Viết Khánh. Nó gọi Thanh Thương Hoàng. Thời gian này, phòng B tiếp nhận một nhân vật của sách vở Sàigòn: Ông Nguyễn Văn Trường, chủ nhân nhà sách Khai Trí, chủ nhiệm tuần báo Thiếu Nhi. Ông Trường vào với tin sốt dẻo: Các giám đốc của các nhà phát hành Nam Cường, Đồng Nai, Việt Nam đã bị bắt hết. Nguyễn Hữu Hiệu phát biểu một câu chính xác: “Ở chế độ mới, những ai dính líu vào chữ nghĩa mà không bị bắt là một điều ô nhục!” Rất nhiều kẻ không những đã không bị bắt mà còn rạch miệng theo thời kết án những người bị bắt. Thí dụ tên Hồ Thành Đức, chồng của Bé Ký, đã đăng đàn nhục mạ vợ chồng Trần Dạ Từ. Thí dụ con gái tên cộng sản nằm vùng, đã đứng trong phòng triển lãm tội ác Mỹ Ngụy, nhìn sách của Nhã Ca trình bầy mà cười sung sướng. Vân vân … Tôi ái ngại nhất trường hợp Đằng Giao. Cả đời cậu Trần Duy Cát chưa hề vẽ một bức tranh chống cộng sản. Đằng Giao bị bắt chỉ vì là con rể của Chu Tử. Trước 30-4-75, Chu Tử đã yếu lắm rồi, sắp chết rồi. Tay Chu Tử run. Môi Chu Tử thường xuyên mấp máy. Chu Tử theo đứa con trai đầu lòng xuống tàu. Việt cộng bắn tàu. Tất cả sống nhăn hoặc bị thương, trừ Chu Tử bị chết và bị quăng xác giữa biển khơi. Đằng Giao, Chu Thị Thủy ở lại, biến 104 Công Lý thành quán cà phê, bún chả, bánh mì… Bạn bè tá túc 104 Công Lý có Ninh Chữ be be chửi cộng sản, có Nguyễn Hữu Đống, tự Đống hói, giép râu túi vải thời thượng khó hiểu. Anh em văn nghệ tới Đằng Giao ăn uống giúp đỡ bạn đều bị ghi tên vào số đen. Ai ghi? Đằng Giao biết và Đằng Giao chẳng thể tuyết hận được vì kẻ ấy đang có mặt ở Paris, cũng sinh hoạt hội đoàn sôi nổi! Người ta bắt Đằng Giao, bắt vợ Đằng Giao, bắt con mới sinh ra được 3 ngày của Đằng Giao vì 104 Công Lý là nơi tụ tập phản động. Không, vì không bắt nổi Chu Tử, cộng sản giận cá chém thớt. Và đó là đạo đức cách mạng, là khoan hồng chủ nghĩa, là phẩm cách cộng sản! Người ta còn nói thêm, đó là cái “bách chiến bách thắng”, cái “ưu việt” của chủ nghĩa", cái nôi của loài người. Cộng sản là những người trả thù vặt vãnh, là những người nuôi thù hận cả nghìn đời. Hãy nghe một bài hát của họ:

              Ta là người nông dân
              Mặc áo lính
              Chiến đấu vì giai cấp bị áp bức từ bốn nghìn năm…

              Từ bốn nghìn năm cũ, con người đã là đối tượng thù hận của cộng sản. Tất cả đều là kẻ thù của cộng sản khi họ đến. Phải đợi 100 năm sau, khi cộng sản “trồng người” thành công cụ bịt tai, che mắt và chỉ biết tiến lên tuyến đầu mà chết thảm, bấy giờ, họ mới hết nội thù. Nhưng vẫn còn ngoại thù.

              …Sống tập đoàn cùng thế giới công khai
              Và kiến thiết xã hội ngày mai
              Lúc đế quốc đang sắp tan rã dần.
              Ta tiền phong tiến tới
              Sức chiến đấu đi xuống miền Đông Nam
              Lúc đế quốc đã tàn …

              Bạn ơi, lúc đế quốc tàn là đời bạn cũng tàn, là con cháu bạn phải hứng đau khổ giùm bạn. Lúc ấy là da đen, da đỏ biến thành công cụ của thù hận trừng phạt da trắng. Và người cộng sản thì làm linh mục, mục sư, giảng phúc ấm về đạo đức, khoan hồng, phẩm cách, ưu việt, hạnh phúc, tự do, dân chủ, hòa hợp… Đừng nghĩ rằng nước Mỹ không thể bị thôn tính bởi cộng sản. Vũ khí tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ của cộng sản là lòng ích kỷ, sự trịch thượng và tinh thần thân cộng làm dáng tiến bộ của người Mỹ. Cộng sản luôn luôn tự hào mình giỏi sáng tạo nỗi khổ. Họ sẽ có dịp sáng tạo nỗi khổ trên khắp nước Mỹ. Một trong những nỗi khổ mà người Mỹ ớn hơn bị mọi da đỏ lột da đầu là xuống hầm phân cải tạo, dùng tay bốc cứt, với hàng tỉ con ròi bỏ lên thân thể, chui vào lỗ mũi, lỗ tai. Wait and see, American!

              Cuối tuần lễ thứ ba xảy ra một chuyện toát mồ hôi lạnh. Vào lúc 11 giờ đêm, chúng tôi đang nằm yên, bỗng nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ. Người cai ngục đã chứng tỏ một nghệ thuật siêu đẳng về sự gây ra tiếng động hăm doạ chết chóc. Chúng tôi vụt ngồi dậy. Cai ngục kéo cánh của sắt thật chậm chạp, cố tình tạo âm thanh “két két” nổi da gà. Hắn vào phòng, cầm tờ giấy, soi dưới ánh đèn vàng:

              - Năm người có tên sau đây chuẩn bị đồ cá nhân. Khẩn trương!

              Chúng tôi hồi hộp. Tim đập thình thịch. Khoảnh khắc sợ hãi đó, mỗi người trong chúng tôi đều chỉ nghĩ tới sự bất hạnh khốn cùng. Có thể chúng tôi bị bắn. Có thể chúng tôi bị thủ tiêu. Có thể chúng tôi bị lưu đày. Ai là năm người? Ai cũng mong đừng là mình, dám là mình. Cảm giác này không bao giờ có ở những anh bên ngoài nhà tù giải thích về lòng can đảm và phán xét sự khiếp nhược. Những anh ưa giải thích lòng can đảm trong bình yên sẽ xón đái, vải cứt ra quần ngay, sẽ ngất xỉu khi nghe gọi tên mình. Không chừng, quýu quá, mấy anh phán xét rẻ tiền sẽ móc lỗ đít, đưa lên ngửi, rồi nếm và hy vọng đó là phép lạ cứu mình! May quá, chúng tôi không có ai xón đái, tuy rất sợ hãi.

              - Nghe tôi đọc tên, đáp có, xách hành lý ra khỏi phòng ngay.

              Cai ngục hắng giọng:

              - Hoàng Anh Tuấn!

              - Có.

              Hoàng Anh Tuấn chụp vội cái điều cày và bước ra hành lang.

              - Trần Duy Cát!

              - Có.

              - Nguyễn Hải Chí!

              - Có

              Cửa phòng khép lại, khóa kỹ. Những người lọt sổ thở phào. Một tiếng đồng hồ sau, khi mồ hôi lạnh của tôi vừa kịp khô thì chìa khóa lại tra vào ổ rất điệu nghệ.

              - Ba người có tên sau đây …

              Rồi tiếp tục. Đến 4 giờ sáng. Cuối cùng, phòng B còn lại Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Hồng Dương và tôi là văn nghệ sĩ. Chúng tôi có tin lành sáng hôm sau. Chú công an Hồng nói, đêm qua chuyển tội phạm sang đề lao Gia Định. Năm chúng tôi bị chấp pháp bỏ rơi. Nguyễn Hữu Hiệu nói:

              - Nó sẽ phân tán mỏng chúng ta. Gom toàn bộ nhà văn một phòng, tin tôi đi, chúng ta sẽ lập thuyết, sẽ có thuyết mới ra đời.

              Tôi cần nói thêm, chúng tôi sống chung với Trịnh Quới Tài, nhân viên của Phòng Nhì cũ, tiếp tục nghề nghiệp qua các chế độ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu. Ông ta bị bắt từ 1-5-75. Chức tước của ông ta: trung tá phủ đặc ủy Tình Báo Trung Ương. Ông Trịnh Quới Tài làm tự khai ngày nầy qua ngày khác. Thiếu thuốc phiện, trí nhớ của ông ta sụt giảm. Sở Công An biết điều này, mỗi ngày cho ông ta “làm việc” một lần. Ông được hút thuốc phiện và khai báo đủ thứ chuyện. Một nhà báo liếc đọc trên tờ khai của ông ta có tên Thanh Thương Hoàng, Tô Ngọc, Trịnh Viết Thành… Tất cả ký giả nhận tiền của Trung Ương Tình Báo đều bị Trịnh Quới Tài … tự khai. Tuy không liên hệ gì với Trung Ương Tình Báo, Mậu, Hiệu và tôi rất ngán ông Tài. Chúng tôi chỉ sợ làm mất lòng ông ta. Ông Tài thích kể kỷ niệm xuống Long Xuyên, vây bắt bố vợ tôi, ông Nguyễn Ngọc Đề, người “chống luật người cày có ruộng không biết mệt mỏi”.

              Cùng với những người bị bắt về đủ thứ tội, cụ già và con nít, chúng tôi ở Sở Công An đã qua bầu cử. Chúa ngục Hai Phận hân hoan bao tin:

              - Bầu cử quốc hội cả nước thành công vĩ đại.

              Y trơ trẽn nói:

              - Gia đình các anh rất cảm động khi đọc thư các anh. Vợ con các anh khen các anh đã vào tù mà còn nhắc nhở bổn phận bầu cử!

              Hai Phận bắt chúng tôi viết đúng boong câu mồi của chế độ rồi y khen chúng tôi! Trong một nghìn nỗi bất hạnh con người phải chiu đựng, nỗi bất hạnh chảy nước mắt nhiều nhất là vào nhà tù cộng sản để có ông thầy Hai Phận, biểu tượng thê thảm của chủ nghĩa ưu việt. Cộng sản kiêu ngạo một cách ngu xuẩn. Họ mắc cái bệnh thích làm thầy mọi người. Họ khoái được giáo dục con người. Cứ mở miệng là họ đòi … giáo dục. Họ đã giao nhiệm vụ giáo dục chúng tôi cho Hai Phận dốt nát. Mỗi sáng thứ bẩy, y ngồi chễm chệ trên ghế đẩu, giảng dạy văn hóa Mác xít như Hồ Chí Minh giảng dạy cách giết người. Chúng tôi phải nghe. Không dám cười.

              - Hôm nay, tôi dạy các anh về bệnh ghẻ. Các anh có biết tại sao miền Nam ghẻ mà miền Bắc không ghẻ không?

              Im lặng, Hai Phận cười:

              - Cần một anh trả lời và hỏi. Học, hỏi, hiểu, hành. Học mà không hỏi thì hiểu gì mà hành!

              Trưởng phòng bèn lễ độ:

              - Thưa ông Trưởng trại, chúng tôi không hiểu tại sao?

              Hai Phận gật gù:

              - Thế mới phải học. Học, học, học nữa, học mãi. Miền Nam ghẻ vì dân miền Nam mặc quần áo ni-nông. Quần áo ni-nông bí lắm, mồ hôi nhễ nhãi gây ngứa, gãi lung tung rồi nhiễm trùng là sinh ghẻ. Còn miền Bắc mặc quần áo vải, thấm mồ hôi không có ngứa. Đấy, bệnh ghẻ là do ni-nông! Hay chưa? Vỗ tay đi!

              Chúng tôi vỗ tay. Hai Phận quả thật vĩ đại hơn Hồ Chí Minh. Y có cả một triệu bài học. Bài học thứ 2 y dạy chúng tôi là … kinh tế:

              - Kinh tế miền Nam là kinh tế phồn vinh giả tạo. Cho các anh biết tất cả của cải miền Nam gộp lại cũng chỉ xây nổi một nửa Lăng Bác thôi. Mấy cái máy lạnh, tủ lạnh, xe hơi, honda, ti vi của miền Nam thấm tháp gì! Miền Nam có mỏ dầu hỏa chưa? Miền Bắc đã có, ở huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đó. Cần quái gì phải giàn khoan, cứ cắm ống nứa xuống đất là dầu phụt lên, muốn xăng có xăng, khí đốt có khí đốt.

              Kết luận của bài học kinh tế, Hai Phận hỏi:

              - Các anh có muốn ăn thịt lợn quay không?

              Trưởng phòng đáp:

              - Muốn.

              Hai Phận nói:

              - Muốn thì chung tiền lại, chiều nay cán bộ đi mua về cho mà ăn.

              Hôm nay, chúng tôi nhiệt liệt vỗ tay hoan hộ Hai Phận. Thế giới gọi các nhà tù cộng sản là trại học tập cải tạo. Thế giới dùng chữ nghĩa của cộng sản một cách khơi khơi. Và nếu đúng ý muốn của cộng sản và thế giới tự do, tôi, một tù nhân lương tâm, đã học tập được ở trại cải tao Sở Công An hai bài học phi thường: Bệnh ghẻ do mặc quần áo ni-nông và không cần giàn khoan, cắm ông nứa xuống mỏ, dầu phụt lên, phân loại xăng, khí đốt, khỏi cần lọc!
              --------------------------------
              1 Tôi quên mất tên của ông chánh sở chương trình và em vợ Đào Quang Huy.

              Comment


              • #8
                7.

                Để tôi đếm lại cho chính xác những nhà văn, nhà thơ bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976.

                Doãn Quốc Sĩ
                Dương Nghiễm Mậu
                Lê Xuyên
                Nguyễn Mạnh Côn
                Mặc Thu
                Nhã Ca
                Trần Dạ Từ
                Thái Thủy
                Hoàng Anh Tuấn
                Thế Viên
                Duyên Anh
                Vũ Hoàng Chương

                Chỉ có từng ấy người bị còng tay dẫn vào tù, bị nhốt chung với ăn trộm, ăn cắp, vượt biên, tư sản mại bản và đảng phái trốn trình diện. Chỉ từng ấy người bị công an chấp pháp quần thảo tơi tả và bị Hai Phận vĩ đại dạy học ở Sở Công An. Trong số những người ấy, tội nghiệp nhất Thế Viên. Anh ta chẳng có tội tình gì cả. Anh ta làm nghề dạy học và làm thơ ca ngợi tình yêu. Từ Nha Trang, anh ta mò vô Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm trưa nhà Sĩ. Đừng níu bạn lại uống cà phê, nghe nhạc thì bạn thoát6 năm tù lãng nhách. Vì Sĩ hiếu khách quá, Thế Viên đã gặp lại học trò cũ của mình đến bắt Sĩ và lũ học trò đốn mạt đó đã sẵn còng, còng luôn thầy mình. Cách mạng 1945, học trò của nhà văn Lan Khai bỏ thầy vào cái bao tải, buộc đá, liệng thầy xuống sông. Cách mạng 1975, học trò của thi sĩ Thế Viên còng tay thầy đẩy vào tù! Vẫn thứ cách mạng tồi tệ đó. Nó đã anh dũng sát hại một nhà thơ tài hoa của dân tộc là Vũ Hoàng Chương. Ôi! Vũ Hoàng Chương, người thi sĩ gió thổi mạnh là bay theo gió, người thi sĩ mình hạt vóc mai, mà cả Đảng Cộng Sản Việt Nam cộng với “chủ nghĩa bách chiến bách thắng” mới giết nổi khi đã còng tay đưa vào tù thì thi ca của họ Vũ phải vinh tồn bằng trăng sao vạn kỷ. Và chủ nghĩa cộng sản phải dùng danh từ gì để cực tả lòng khinh bỉ? Hai tiếng chó đẻ, có lẽ, đắc ý nhất. Tôi nghĩ những người cộng sản sẽ không phản đối. Bởi vì, tự bản chất họ đã bộc lộ niềm khao khát làm người. Hãy nghe họ mơ ước.

                Nếu là chim, tôi sẽ là loại bồ câu trắng.
                Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương.
                Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm.
                Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.

                Họ chưa là người. Họ đang mong làm người. Bảo họ là chó đẻ, có khi họ rất hồ hởi, phấn khởi! Nhưng đừng nói thật với Hai Phận vĩ đại. Những ngày tạm ngụ tại địa chỉ của chủ nghĩa, các bạn sang đề lao Gia Định gần hết, chúng tôi buồn lắm. Cửa sắt là chỗ ngồi “rửa mắt” của Dương Nghiễm Mậu và tôi. Tôi đã gặp Nguyễn Sĩ Tế mặc quần xà lỏn, cởi trần, ngồi hớt tóc. Anh ta gầy ốm, hom hem. Nằm cachot riết, nước da anh xanh tái. Tên tập truyện Chờ sáng đã vận vào người anh. Anh nằm trong cachot tối tăm như cuộc đời tối tăm mà chờ sáng. Nguyễn Sĩ Tế bị bắt trước tháng 4-1976. Bị bắt cùng ngày, cùng vụ với anh còn có Đặng Lê Kim, giám thị trường Trường Sơn, quản lý tạp chí Hiện Đại của Nguyên Sa. Anh Nguyễn Sĩ Tế dính líu vào một tổ chức chống cộng sản sau 30-4-1975. Không biết anh có mời ông “nhà văn” nọ tham gia tổ chức của anh không mà, vì ông ta là thầy giảng dạy triết học ở trường của anh, em vợ Hưởng Triều Trần Bạch Đằng, được Trần Bạch Đằng cho “nằm vùng” báo Tin Sáng của bọn Ngô Công Đức, đi Bắc về Nam như … đảng viên, nên người ta nghi ngờ ông “nhà văn” nọ đã gài bẫy anh. Y hệt trường hợp luật sư nằm vùng Đỗ Hữu Cảnh đã gài bẫy đưa bạn cũ của mình là Dương Đức Dũng, Đoàn Kế Tường cùng cô Phan Vô Kỵ vào tủ. Ít nhất, Đỗ Hữu Cảnh, bí danh Ba Sơn, đã chỉ điểm cộng sản bắt gần một ngàn sinh viên, học sinh phản động. Anh Tế rất phờ phạc, buồn bã. Anh thấy chúng tôi, lắc đầu chán nản. Chúng tôi gặp Nhã Ca đi tắm, cười toe toét.

                Tôi tưởng Ba Trung quên hẳn tôi. Không dè nó lại gọi tôi ra.

                - Hôm nay anh gặp lãnh đạo của tôi, đồng chí Giám đốc.

                Ông Mai Chí Thọ, con cháu ngài Tổng Đốc Nam Định Phan Đình Hòe, em ruột ông Lê Đức Thọ, gặp tôi! Chỗ ông ta ngồi là chỗ của Trang Sĩ Tấn ngày xưa. Chức Giám đốc Sở Công An của Mai Chí Thọ là chức nổi, ông ta nắm toàn bộ lực lượng vũ trang miền Nam. Ông ta niềm nở mời tôi ngồi, sai cán vụ bưng nước, mang thuốc lá Thăng Long chiêu đãi tôi. Ông ta thân mật khiến tôi sửng sờ.

                - Thế nào, Duyên Anh?

                - Bình thường, thưa ông Giám Đốc.

                - Giam giữ anh em nhà văn là khuyết điểm của anh em chúng tôi nhưng bắt buộc phải làm vậy. Duyên Anh có buồn không?

                - Thưa ông, tôi không được phép buồn.

                - Đừng khách khí, Duyên Anh. Tôi đọc Duyên Anh nhiều. Mây mùa thu tình tự dân tộc lắm. Luật hè phố rất hay. Tại sao không viết như thế mãi mãi?

                - Vì độc giả của tôi cần thay đổi. Và tôi cũng cần thay đổi.

                - Đáng tiếc. Trước đây, Duyên Anh định viết 10 cuốn truyện căn cứ vào “10 điều tâm niệm của học sinh tiểu học”, bây giờ, liệu có cảm hứng viết 5 cuốn truyện nhi đồng, căn cứ vào “5 điều dạy học sinh” của Hồ chủ tịch không?

                - Tôi sợ viết văn rồi.

                - Tại sao?

                - Viết văn đã gây ra tại họa cho tôi.

                - Đáng tiếc. Duyên Anh muốn làm gì?

                - Thưa ông, tôi thật chưa biết sẽ nên làm gì.

                - Anh em trong phòng ra sao?

                - Bình thường cả.

                Mai Chí Thọ thăm hỏi anh em tôi ngoài Bắc và vợ con tôi trong Nam. Câu chuyện kéo dài gần một tiếng. Và chỉ có thế. Ông ta tỏ ra hết sức lịch sử và kẻ cả. Ông ta hơn tôi tuổi tác, kinh nghiệm chiến đấu và kiến thức chính trị. Ông ta thua tôi nghệ thuật viết văn. Cái mà ông ta đang hơn tôi rõ rệt là ông ta có quyền giam nhốt tôi. Chưa chắc ông ta đã có quyền tha tôi. Về phòng, tôi kể cho Dương Nghiễm Mậu nghe.

                - Thằng ấy cáo già thật, Mẫu nói. Nếu nó gọi tôi, tôi cũng không thể trả lời khéo hơn ông. Mình cứ tùy cơ ứng biến. Ông mà nhận lời viết, nó sẽ khinh ông. Cộng sản gộc, nó cao ngạo lắm. Mình ở vào cái thế hết lạy nó được rồi. Tôi và ông thống nhất điểm này: Mình sẽ nhận hết tội với Đảng và cách mạng, không nhận tội với nhân dân. Với nhân dân, chúng ta vô tội. Nhân dân đâu có kết tội chúng ta. Và nữa, chúng ta chống Đảng, chống cách mạng, không chống nhân dân. Chúng nó bị thực dân bắt cũng nhận tội hết. Sự tồn tại là cần thiết, tiểu tiết bỏ đi. Tồn tại để viết, nhẫn nhục để viết. Chết ngu là bất trí.

                - Nó chiếu cố mình thì hơi phiền.

                - Phiền gì? Nó hiểu ông có ảnh hưởng sâu rộng với tuổi trẻ hơn nhiều anh em khác. Nó sẽ làm ông điêu đứng về mọi mặt. Có vinh quang nào không phải trả giá bằng xương máu? Tôi xin ông một điều.

                - Chi?

                - Ông bớt nóng tính đi. Bữa nọ tôi thấy ông chửi thằng tư sản mại bản Chợ Lớn thật đúng vì quyền lợi tập thể. Ông còn tiếp tục vì quyền lợi tập thể, ông sẽ hố. Tôi nhắc để ông nhớ châm ngôn tù mà ông đã từng viết “Bạn tù, tình nhà thổ. Trong tù thấy chuyện bất bình thì câm”. Ông ưa bầy tỏ chính kiến quá. Cái chính của ông sẽ bị cái at át giọng. Về tư tưởng bất đồng, người ta có thể giết nhau, huống chị nói xấu lẫn nhau.

                - Cám ơn ông.

                Dương Nghiễm Mậu ít tuổi hơn tôi, ít học ở nhà trường như tôi, nhưng Mậu điềm đạm hơn tôi. Một nhà văn thuần túy thì chỉ có người thích và người không thích. Một nhà văn đi làm nhật báo ồn ào, đụng chạm tứ tung, thì nhiều người yêu và lắm kẻ ghét. Dương Nghiễm Mậu hạnh phúc hơn tôi. Vì không ai ghét Mậu cả. Vì Mậu đã không làm nhật báo ồn ào. Ở đời, có những điều mình muốn mà chẳng được, có những điều mình chẳng muốn mà bị muốn, bị cuốn hút vào quỹ đạo mong muốn của người khác. Tôi đã không muốn làm báo, viết báo. Thuở còn ngồi tiểu học, thầy giáo cho bài luận: “Lớn lên anh làm gì?”, tôi đã khước từ chọn lựa nghề nghiệp vì tôi lười, tôi dốt, tôi không thể làm bài luận hóc búa ấy. Lớn lên, theo Duy Dân, được biết phái xuống Long Xuyên dạy học bất đắc dĩ, tôi bỗng yêu nghề dạy học. Sự yếu mến nồng nàn này tôi đã diễn tả trong Ngựa chứng trong sân trường. Rất tiếc, tôi còn quá trẻ và cần mảnh bằng tú tài. Tôi trở về Sàigòn học thi tú tài. Định mệnh xui tôi đến cái lớp chuyện dạy Việt văn của giáo sư Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, sau này là biên tập viên ở những báo tôi làm chủ bút. Tôi đứng ngoài, nghe Lữ Hồ nói phét câu giờ dễ sợ. Lữ Hồ hơn tôi vài tuổi. Anh có thêm tài vẽ. Anh vừa vẽ vừa giảng văn chương. Tôi nghĩ không nên có anh chàng nầy làm thầy mình. Và tôi bỏ mộng thi tú tài, bỏ mộng làm thầy giáo. Nếu tôi có tú tài, tôi sẽ vào trường Bộ Binh Thủ Đức, chẳng hiểu đời mình sẽ là cái gì! Loay hoay ít lâu, tôi viết truyện ngắn. Nhờ truyện ngắn, tôi thành anh công chức. Nhờ đảo chính 1-11-1963, tôi thành anh nhà báo và thành người sửa bài, viết giùm giáo sư văn chương Lữ Hồ. Giáo sư viết yếu quá. Tôi tưởng tôi sẽ chỉ viết những truyện hiền hòa như Hoa thiên lý, dễ thương như Thằng Vũ, nồng nhiệt như Bồn Lừa, êm đềm như Mây mùa thu. Ai ngờ tôi lại phải viết Điệu ru nước mắt, Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang, Trần Thị Diễm Châu. Và, theo đà cuốn hút của thời đại, của những đòi hỏi của chủ nhiệm nhật báo, tôi biến thành cha đẻ của loại phóng sự chính trị nham nhở, sống sượng. Cuộc mưu sinh của tôi thật khó khăn. Tôi phải tự lắp sừng nhọn vào đầu tôi mà húc, mà tranh đấu với cuộc sống vốn chẳng tử tế gì. Sách của tôi xuất bản, không ai thèm nhắc tới. Thỉnh thoảng cũng có người phê bình thì cũng khen chê kiểu “bình thường hiện thân”. Bọn sa-đích phê bình văn nghệ rẻ tiền – chữ của Nguyên Sa – không dám đụng đến tôi. Vì tôi có sừng nhọn Thương Sinh của nhiều nhật báo. Châm ngôn của tôi hồi đó: “Thằng nào cắn ông một miếng, ông cắn lại đủ 26 miếng nhân với 4!” Khi sách của tôi bán chạy nhất nước, tôi làm nhà xuất bản, tôi là con “cưng” của các nhà phát hành, tôi khá giả, bọn sa-đích văn nghệ quên làm tính nhân, quên luôn 50 tác phẩm bán chạy ròng rã 10 năm, tác phẩm tôi thức đêm viết, hút cả tấn khói vào phổi mà viết, dài tay ra mà viết. Tính vất đi, mỗi cuốn tôi hưởng lợi nhuận 500,000 đồng quốc gia, tôi đã có 25 triệu đồng rồi. 25 triệu nhỏ quá. 25 triệu tính bằng 1 tỉ chữ, càng nhỏ hơn. Tại sao chúng nó không dám thị phi những thằng thầu đổ rác, những thằng tham nhũng, những thằng thầu khoán chiến tranh? Mà lại chỉa mũi dùi bẩn đâm lén một thằng viết văn khá hơn chúng nó. Tôi phải tự võ trang sừng nhọn, vì thế. Sa-đích văn nghệ chơi tôi đủ kiểu. Chúng nó thấy các trường trung học trần thuyết sách của tôi, các trường đại học nghiên cứu sách của tôi, chúng nó điên lên, xếp tôi vào loại những nhà văn “không có gì để phê bình”. Sa-đích văn nghệ tự bào chữa cho chúng nó: “Sách của các ông bán ế vì độc giả ngu, không đủ kiến thức thưởng ngoạn!” Quý vị nhà văn tự cho mình lớn, tự cho mình là hàng đầu, đã giả vờ quên tôi, mặc dù, quý vị ấy chán tôi lắm, tại tôi đã “đánh đu văn chương”, tôi đã “thao túng văn nghệ” và đẩy quý vị ấy vào bóng tối. Tôi cần thiết có nhiều bút hiệu để viết báo. Để viết văn. Để quảng cáo tôi. Để bảo vệ tôi. Người như Cao thế Dung và Nguyên Sa thật hiếm. Lúc ấy, Cao Thế Dung viết: “Thằng Vũ là giải lụa đào trong văn học Việt Nam. Chỉ cần một Thằng Vũ thôi, Duyên Anh đã xứng đáng là nhà văn hàng đầu của văn học hiện đại”. Nguyên Sa viết: “Thằng Vũ là vàng mười của văn chương Việt Nam”. Trước khi sa cơ còn được đọc những lời tuyên dương lên mấy chém, tưởng cũng nên bằng lòng. Tôi giải thích tại sao lại có Thương Sinh: Vì cuộc sống nhiều sa-đích văn nghệ. Tôi trả lời bạn hữu tôi, sẽ còn Thương Sinh nữa không: Còn chứ, vì sa-đích văn nghệ vẫn rình rập tôi, sa-đích mà Nguyên Sa đặt tên mới là Thiện Mông Cổ. Tôi bằng lòng hơn khi biết mình đã có nhiều đồ chơi lạ mà sa-đích văn nghệ thì cứ đếm nút khoen và đẩy lon sữa bò! Tôi bằng lòng hơn nữa, khi thấy hàng tỉ chữ cộng sản dùng để chửi bới nhà văn, nhà thơ lừng lẫy Sàigòn, đã chẳng có chữ nào họ bố thí cho sa-đích văn nghệ. Cuối cùng, tôi rút một kinh nghiệm: Ở nước tôi, càng nổi tiếng bao nhiêu, càng tai họa bấy nhiêu, bất cứ lãnh vực nào. Riêng lãnh vực báo chí, văn nghệ là tồi tệ nhất.

                Và tôi đã tiếc không chịu ẩn dật như Dương Nghiễm Mậu, không vô vi như Dương Nghiễm Mậu, Ôi! Định mệnh đã an bài! Cái triết lý mất vợ của ông Tý Con thật tuyệt diệu. Nguyễn Mạnh Côn, hai tháng trước khi bị bắt, tâm sự với tôi hết sức tỉnh táo:

                - Tôi rất tiếc trường hợp câu.

                - Anh tiếc cái gì?

                - Khi không cậu chống chính quyền rồi cậu chống cộng sản.

                - Anh hối hận đã chống cộng sản à?

                - Tôi chỉ nói cậu thôi.

                - Tôi đâu có ân hận.

                - Nếu cậu không chống chính quyền, chống cộng sản, chỉ riêng những sách viết về tuổi thơ, cậu là nhà văn của dân tộc, hoàn toàn thuộc về dân tộc. Cậu tin tôi đi, cộng sản không ngu đâu, nó sẽ dùng cậu viết về tuổi thơ.

                - Tuổi thơ của Bác?

                - Cậu cứ đùa cợt hoài.

                Trên vỉa hè Tự Do, ở một quán cà phê lề đường, Cao Dao gặp Mai Thảo và tôi. Anh nói:

                - Nghề nghiệp của các cậu chấm dứt rồi. Họ có cho viết, anh nào ham viết sẽ nhục với chữ nghĩa. Bởi các cậu không viết theo kiểu của họ nói. Họ không có tiểu thuyết. Trừ Duyên Anh, nếu Duyên Anh viết thuần túy về tuổi thơ loại Thằng Vũ, Bồn lừa.

                Tôi có thể nói Hà Nội thèm một người việt truyện trẻ con như tôi mà không sợ lộng ngôn. Ba mươi năm xã hội chủ nghĩa ưu việt, tính đến tận hôm nay, nhà xuất bản Kim Đồng, với sự hỗ trợ của Đảng và Nhà Nước, đã cung cấp rất nhiều sách cho thiếu niên, nhi đồng nhưng chỉ là loại sách mỏng và không làm say mê độc giả tuổi nhỏ. Những người viết tung ra hàng nghìn mẫu dũng sĩ tẻ nhạt, không một cá tính riêng biệt mà chỉ có … đảng tính (Đảng tính là yếu tố cần thiết trong văn học Mác xít). Do đó, độc giả tuổi nhỏ không thấy một chút gì về họ. Họ không tìm ra họ trong xã hội truyện của nhà Kim Đồng. Đừng tưởng những người viết cho Kim Đồng hay các nhà xuất bản sách thiếu nhi khác không được tự do viết. Họ không thể viết được truyện tuổi nhỏ. Chẳng tin, cứ bảo Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ thử viết truyện Dzũng Dakao thôi, xem nó ra sao. Viết truyện tuổi thơ rất khó. Đẩy nhân vật tuổi thơ vào vũ trụ tiểu thuyết với thời tiết, sân chơi, trò chơi, ngôn ngữ của tuổi thơ càng khó. Bởi vậy, cả nước Mỹ chỉ có Mark Twain với Tom Sawyer bất hủ. Trước 1945, chúng ta có ba nhà văn viết truyện tuổi thơ: Tô Hoài, Nguyễn Đức Quỳnh và Lê Văn Trương. Tô Hoài đã làm say mê thiếu niên thời đó với những truyện loài vật và sâu bọ. Từ O Chuột đến Chuột thành phố, Dế mèn, Dế mèn phiêu lưu ký, Tráng sĩ bọ ngựa, Tô Hoài vẫn chỉ là người biết nhân cách hoá loài vật, sâu bọ một cách tài tình, duyên dáng, vẫn chỉ là người viết cho tuổi thơ. Đúng nghĩa: những truyện kể trên viết cho độc giả tuổi nhỏ giải trí. Nguyễn Đức Quỳnh là nhà văn đầu tiên ở Việt nam muốn đưa tuổi thơ vào tiểu thuyết như những nhân vật đầy đủ yếu tố nhân vật tiểu thuyết. Những Thằng Kình, Thằng Cu So của ông chưa thật sự sống đúng với tuổi thơ của nó vì ngôn ngữ và sự suy nghĩ của chúng nó còn đầy dáng dấp người lớn. Cái khó của người viết về tuổi thơ là thiếu một vùng ánh sáng soi rõ lối về của quá khứ mình và không thể sống lại tuổi thơ của mình như nhân vật đang vùng vẫy trong tiểu thuyết của chính mình. Lê Văn Trương với Anh em thằng Việt, Thằng Việt nghỉ hè thì nặng nề triết lý người hùng, tuy đã hấp dẫn và cảm động. Những người viết truyện tuổi thơ đều quên rằng độc giả tuổi nhỏ của họ thích sang trang, sang trang và khoái đối thoại. Chi tiết rườm rà, ý nghĩ triền miên làm họ chán nản vì họ phải đậu lâu một chỗ, trong khi, như con chim mới ra ràng, họ thèm chuyền nhảy liên miên. Nhưng Thằng Kìnhvà Anh em thằng Việt, với riêng tôi, đã là cảm hứng tuyệt vời để có Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy, Thằng Khoa, Thằng Vọng … Sau đó, chúng ta có Nhật Tiến. Những truyện về trẻ em mồ côi, Chim hót trong lòng, chẳng hạn, rất hay nhưng rất sầu thảm. Mà tuổi thơ cần thiết sân trường, sân cỏ, bóng nắng, tiếng cười hơn là khung cảnh cô nhi viện buồn bã. Chúng ta còn thêm Lê Tất Điều thổi cảm xúc vào đồ vật khá tinh tế và đầy nghệ thuật. Và chỉ có thế, về những người viết truyện cho tuổi thơ. Tôi rất tự hào về nhà xuất bản Tuổi Ngọc của tôi, với vốn liêng của cá nhân tôi, với khả năng làm việc của riêng tôi, không có Nhà Nước, không có Đảng tung tiền “trồng người”, chỉ có Bộ Văn Hóa Giáo Dục với các ngài Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, ngoài hát bội ca cải lương thì chẳng còn biết văn học nghệ thuật là cái gì, ngoài cái Trung tâm Học Liệu chỉ biết ấn loát sách dịch của Sartre, của Daudet thì chẳng còn biết in thứ gì thêm, mà tôi đã một mình một ngựa, vừa chống bọn sa-đích văn nghệ, vừa chống bọn “phối hợp nghệ thuật”, vừa chịu sự lạnh nhạt của các nhà văn tư tưởng, triết học, siêu hình, cô đơn, hiểm hóc, khều mặt trời “Tôi có thể đến giòng sông, bà ta có thể đến giòng sông; chưa chắc tôi đã đến giòng sông, chưa chắc bà ta đã đến giòng sông, bởi vì, chưa chắc đã có giòng sông!” để hạ gục bảng hiệu Kim Đồng và 30 năm hoạt động của nó. Cộng sản Việt Nam có Hồ Chí Minh vĩ đại, có chiến thắng Điện Biên Phủ, có đại thắng mùa xuân, nhưng đã không có nổi một Bồn Lừa.

                Nguyễn Thanh Trịnh, giải thưởng văn học nghệ thuật về bộ môn kịch, tác giả Ví dụ ta yêu nhau, mà tôi viết tựa, sau nầy hợp tác với tuần báo Tuổi Trẻ, cơ quan ngôn luận của Thành Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đã gặp tôi khi tôi rời trại tập trung. Trịnh có bút hiệu mới: Đoàn Thạch Biền. Dù hợp tác với Tuổi Trẻ, Trịnh vẫn quý mến tôi như thuở tôi “lăng xê’ Nguyễn Thanh Trịnh trên Tuổi Ngọc. Trịnh cho tôi biết, nhà xuất bản Tuổi Trẻ đã thuê Hoàng Ngọc Tuấn viết một truyện tương tự Bồn Lừa. Tuấn đẻ ra nhân vật Hoàng keo, bắt bóng dính hơn Chương còm. Cuốn sách đã xuất bản và chìm trong sự rửng rưng của độc giả cũ và mới. Trịnh còn cho biết, trong phiên họp kiểm điểm cuối năm 1981 của Tuổi Trẻ, đồng chí Bí thư Thành Đoàn thanh niên đã nêu một thắc mắc:

                - Tại sao giải phóng đã sáu năm rồi, ảnh hưởng văn nghệ của bọn nhà văn cũ đã bị tận diệt rồi, chúng ta đầy đủ cơ hội thuận lợi, mà vẫn chưa tạo nổi một người viết làm say mê tuổi trẻ, tuổi thơ như thằng Duyên Anh?

                Một câu tương tự, chính mắt tôi được nhìn người nói và nghe ông ta trên ti vi, hồi tôi ở Z30D và ở đội vệ sinh chuyên nghề xúc phân ở bệnh xá. Người nói là ông Thứ trưởng Bộ Văn Hóa:

                - Tôi không hiểu tại sao, ngót sáu năm hết bóng quân thù rồi, mà ở Sàigòn và các tinh phía Nam, các thầy cô vẫn để hoc sinh viết lưu bút, lưu niệm cuối năm bằng thứ văn chương lãng mạn, tiêu cực, ảnh hưởng nặng nề văn nghệ đồi trụy Mỹ Ngụy? Không riêng gì học sinh cấp ba và đại học, chính một số các thầy cô vẫn còn say mê đọc tiểu thuyết của bọn nhà văn phản động như Duyên Anh, Mai Thảo, Nhã Ca …

                Nhiều anh em được nghe, hôm ấy, đã lo sợ giùm tôi. Nhiều anh em tuyên dương:

                - Duyên Anh, sáu năm bốc cứt mà vẫn còn thơm!

                Tôi hiểu vì đâu Nguyễn Mạnh Côn “rất tiếc” trường hợp của tôi, vì đâu Ba Trung nhận lệnh lãnh đạo của nó gợi ý cho tôi “Đảng không bắt anh phải phục vụ Đảng, Đảng muốn anh đem tài năng của anh phục vụ quê hương, đất nước”. Vì đâu Mai Chí Thọ “đáng tiếc” là tôi đã không chỉ viết Mây mùa thu, Luật hè phố. Tự tôi, tôi cũng đáng tiếc cho tôi. Đáng tiếc tôi đã bước vào nghề văn chương một cách bất đắc dĩ. Đáng tiếc cái đáng tiếc của Nguyễn Mạnh Côn và Mai Chí Thọ. Ở quê nhà, tôi đã không viết truyện về tuổi thơ (sở trường của tôi, mọi thứ khác là sở đoản, là những thứ tôi thua kém tất cả) cho độc giả tuổi nhỏ của tôi đọc mà say mê, mà tung tăng theo nhân vật của tôi trong không gian hoa ngàn cỏ nội. Tôi đã tưởng, chút tài năng cuối mùa của tôi còn được phục vụ độc giả tuổi nhỏ của tôi ở quê người. Và tôi đã đánh đu với sự chết, xuống thuyền gỗ vượt biên. Tôi thấy gì bên kia dốc mơ? Toàn bộ tác phẩm của tôi bị ăn cướp. Bọn xuất bản gian manh "đồng bào"của tôi đã kiếm cả triệu đô la bằng 15 năm thao thức suy tư, bằng 6 năm quằn quại tù ngục của tôi mà không trả tôi cắc nào, không hỏi tôi nửa lời. Tôi thấy gì nữa? Tác phẩm của tôi, bày bên cạnh nước mắm, rau cỏ ở các tiệm chạp phô! Tôi thấy gì nữa? Văn hữu của tôi phải làm các nghề vớ vấn để mưu sinh. Và, đau đớn nhất, tôi chẳng còn độc giả nhỏ để chăm chút văn chương bồng bế cho họ nữa. Họ đã quên hết tiếng và chữ Việt Nam rồi! Tôi sẽ viết thẳng John, thằng Bob hay thằng Mít ngọng? Ai đọc tôi? Tôi là một nhà văn tội đồ ở quê nhà, một nhà văn cùng đồ ở quê người. Một nhà văn bị cấm viết thì đáng kiêu hãnh. Một nhà văn không bị cấm viết mà không viết được vì không ai đọc cả thì đau đớn khôn cùng. Bởi thế, những nhà văn lừng lẫy của chúng ta đã không có gì đáng kể sau mười năm xa xứ. Bởi thế, những nhà thơ nồng nàn của chúng ta không có gì đáng kể sau mười năm xa xứ. Và nhân danh “bảo tồn văn hóa”, nền văn hóa Việt Nam được tha thiết bảo tồn ở hải ngoại chỉ còn ông Kim Dung và bà Quỳnh Dao, người Trung Hoa! Và những thứ tiểu thuyết nhảm nhí mà chính chúng ta đã muốn khu trừ khi chúng ta chưa mất Sàigòn. Và lại ‘tiền chiến” với thơ Xuân Diệu, kẻ hàng ngày chửi rủa chúng ta, kẻ to tiếng miệt thi “ngụy quân, ngụy quyền” xấc láo. Tôi lại hiểu tại sao Boris Pasternak phải van lạy Khroutchev để xin khỏi bị trục xuất, tại sao Soljenitsyne chỉ rời nước Nga khi bị đuổi đi. Tôi đã quên lời linh mục dòng Tên ở Đắc Lộ, người Basques, an ủi tôi và khích lệ tôi sau 30-4-75: “ Hãy can đảm như những nhà văn Xô Viết!” Tôi hoàn toàn thiếu can đảm, không dám ở lại Việt Nam. Vì tôi thương vợ con tôi lưu lạc xứ người. Vì tôi sợ bị bắt nữa.

                Mỗi hoàng hôn của một thời đại đều có những nghịch cảnh não nùng cho những người làm văn chương. Đã thấy một Tản Đà coi bói và “nhận viết quảng cáo vui buồn trong xã hội” mưu sinh. Lại thấy Lê Xuyên đạp xe cà-là-dỉ đi bỏ bánh mì ngọt rẻ tiền khắp vỉa hè Sàigòn. Nguyễn Thụy Long bán phụ tùng xe đạp. Dương Nghiễm Mậu mài tranh. Trần Lê Nguyễn, Đỗ Tấn bán báo. Nhã Ca bán cà phê. Hoàng Hải Thủy làm hoa vải. Trần Tuấn Kiệt viết thư thuê ở Bưu Điện! Ở Sàigòn đấy. Những người khác đang làm gì bên Mỹ, tôi không biết. Riêng tôi, ở Paris, định xin chân gác dan ban đêm, bằng hữu thương quá cho một chân đánh máy chữ. Mắt đã mờ vì tù và già, đánh máy chữ hết nổi, bằng hữu bảo nằm nhà viết truyện. Tôi đã vừa hết một năm ăn lương thất nghiệp của nước Pháp. Sự giúp đỡ của bằng hữu không đủ chi dùng. Bèn vẽ thêm nghề viết quảng cáo cho nhà sản xuất băng nhạc kiếm rượu, soạn nhạc kiếm gạo, diễn thuyết kiếm vé du lịch, vân vân và vân vân …

                Hình như tôi mộng du quá tường nhà tù. Tôi trở lại với Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Hồng Dương và một người bạn mới gia nhập làng xuất bản là ông Đặng Hải Sơn. A, tôi có thêm ông Khai Trí. Tại sao ông Khai Trí mà cũng bị bắt? Giản dị lắm, vì ông ta giàu. Với cộng sản, giàu lương thiện hay giàu bất lương đều chung một tội: Tư sản. Xuất thân, ông Khai Trí rất nghèo. Phong trào di cư 1954 và sự mở mang giáo dục, sau đó, đã đưa nghề bán sách của ông phát đạt. Ông xây nhà cao lớn. Ông xuất bản tự điển, sách giáo khoa và đủ mặt sách. Ông có 9 kho sách vĩ đại. Mỗi kho là một ngân hàng, vốn lời vô tả. Khác với những người bán sách, xuất bản, ông Khai Trí theo chủ nghĩa snobisme, tỏ ra thích sưu tầm sách báo cũ. Ông đã từng lặn lội xuống lục tỉnh mua sách báo cũ nếu có người gởi thư đòi bán. Tầng thứ ba của tòa nhà Khai Trí, đại lộ Lê Lợi, là thư viên Khai Trí đầy đủ Nam Phong, Tri Tân, Đông Dương tạp chí, Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy… từ số ra mắt đến số đình bản. Sách thì vô kể. Ông có cả sách ấn loát giấy bán của “phường” nầy, “phường” nọ … Tóm lại, thư viện của ông chỉ thua lượng, chứ không thua phẩm Thư Viện Quốc Gia. Nhưng ông chỉ ngắm sách cho sướng mắt, riêng ông, không cho ai đến mượn đọc cả. Ông cũng ít thiện cảm với nhà văn và tỏ ra hep hòi chi tác quyền. Thường thì ông mua bản thảo vì cảm tình, vì tội nghiệp, rồi không xuất bản. Vào tù, mất hết cả, ông mới hối hận cung cách sống chỉ biết đếm bạc của ông. Sự tình đưa ông Khai Tri vào nhà tù và mất nốt nhà sách Khai trí chỉ tại cái thư viện riêng và chủ nghĩa snobisme. Thứ trưởng Văn Hóa Lâm Thời Miền Nam Thanh Nghị thèm rinh thư viện Khai Trí. Giám đốc Sở Thông Tin Văn Hoá cũng thèm. Nhiều đứa thèm. Không đứa nào dám ăn mảnh. Rốt cuộc, chúng nó chụp mũ “tư sản mại bản” lên đầu người bán sách cần kiệm. Và đám côn quang văn hóa đã xông vào thư viện Khai Trí, lượm mỗi đứa một mớ đem về làm … tư hữu. Quân vô sản thèm tư hữu. Chúng nó đã ỉa lên chủ nghĩa của chúng. Chúng đã, với riêng ông Khai Tri, làm tan nát công trình sưu tầm sách báo ròng rã 40 năm của ông. Khai Trí vào tù mang theo bịnh trị và vỏn vẹn 10 đồng bạc. Tôi không hiểu kinh nghiệm Khai Trí có làm sáng tâm hồn những người đang kèn cựa, tàn sát đồng hương ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc để làm giàu? Cuộc đời thật phù ảo. Hữu đấy rồi vô đấy. Sắc đấy rồi không đấy. Hạnh phúc và niềm vui cá nhân xem chừng mỏng manh quá. Cái tiểu ngã phải nhập vào cái đại ngã thì mới hạnh phúc vĩnh cửu. Khi tôi thấm cái triết ly sống đẹp đẽ đó, tôi đã thành kẻ lưu đầy, lo tiền nhà, tiền gạo, tiền điện, tiền gaz, tiền vé metro chưa xong, nói chi đến sự đóng góp hoặc chia xẻ hạnh phúc của mình cho mọi người.

                - Tôi chỉ còn tiếc cái thư viện của tôi, ông Khai Trí nói.

                - Tiếc làm gì, ông Khai Trí, tôi nói.

                - Làm sao có lại nó?

                - Ồ, người ta làm ra sách, sách đâu có làm ra người. Quý hồ ông còn sống để lập thư viện.

                - Tôi sẽ lập thư viện công cộng.

                - Nếu như thư viện của ông đã là thư viện công cộng, ông không mất nó, không bao giờ mất nó.

                - Tôi hiểu ý ông rồi, ông Duyên Anh ạ!

                - Tôi cũng mới hiểu cái ý của tôi, từ khi vào tủ. Mỗi chúng ta cần nhiều suy nghĩ. Điều duy nhất để tôi yêu ông, tâm sự với ông hôm nay là, sau 30-4-75, tôi thấy ông đi trên vỉa hè Saigon, mua tất cả các tạp chí Văn đóng bộ, tuần báo Tuổi Ngọc đóng bộ, tạp chí Bách Khoa đóng bộ… Khi chữ nghĩa của 20 năm văn học nghệ thuật Sàigòn bị dẫm nát bằng dép râu hỗn xược, còn một người biết đau đớn đi nhặt nhạnh, nâng niu, cất dấu, dù không đọc, hỏi sao tôi không xúc động.

                - Trước đây, ông ghét tôi?

                - Ông cũng chẳng yêu gì tôi.

                - Chúng ta không hiểu nhau.

                - Có thể.

                - Tại sao ông ghét tôi?

                - Vì ông giàu. Tôi ghét hết bọn nhà giàu. Tôi cho bọn giàu là bọn bất lương, ích kỷ.

                - Nay tôi nghèo rồi.

                - Ông nghèo, tôi có giúp nổi ông đâu. Ông giàu tôi có xin được ông đâu.

                - Tại sao ngày xưa ông không năng đến tôi?

                - Tôi đã nói.

                - Vì ông không đến tôi, ông kiêu ngạo nên tôi không ưa ông.

                - Ông chẳng yêu ai cả.

                - Bây giờ tôi yêu mọi người.

                - Vẫn còn sớm.

                - Tôi kết nghĩa anh em với ông được chứ?

                - Được. Nhà tù kết nghĩa!

                Tôi và Khai Trí thành anh em. Và tôi gọi ông là anh, xưng em. Tự nhiên, Khai Trí hỏi tôi:

                - Theo chú, một người làm tuyên truyền giỏi phải như thế nào?

                Hồi tôi làm Biên tập viên của Tổng Nha Thanh Niên, biệt phái ra làm báo Chiến Đấu, người ta bắt tôi nghiên cứu các phong trào thanh niên phát xit, cộng sản, Do Thái, vệ binh đỏ, thanh niên cứu quốc và những bài nói chuyện với thanh niên cộng hòa của ông Ngô Đình Nhu. Nhân đó, tôi phải nghiên cứu nghệ thuật tuyên truyền phát xít, cộng sản. Cộng thêm những điều tôi nhớ ở Cổ Học Tinh Hoa, Đông Chu Liệt Quốc và những “sáng tạo” của riêng tôi, tôi thao thao nói với chủ nhà sách Khai Trí. Câu kết luận, tôi mượn ý của ông Quản Trọng:

                - Sáng chính nghĩa ở nước mình chưa đủ, phải chế chính nghĩa ra bốn phương. Người biết làm tuyên truyền còn làm được đạo diễn, đạo diễn từ tổng thống đến các bộ trưởng. Nữa, phải biết viết và biết thưởng ngoạn cái hay của người viết; phải biết nói trước quần chúng mà không cần mang kính đọc bài!

                Chợt nhớ “nỗi sợ” của mình, tôi hỏi:

                - Anh muốn biết làm gì?

                Khai Trí đưa tay vỗ trán:

                - Anh em họ muốn biết. Tiếc là hỏng hết rồi! Giả biết sớm hơn 1.

                Tôi không tin Khai Trí dám dính líu đến một tổ chức nào. Có thể, trước năm 1975, Khai Trí được thăm dò bởi một người bạn nào muốn tham chính chăng? Nhưng, tôi nhớ không sai, một tháng sau 30-4-75, tôi nhận được một cú điện thoại. Người gọi cho tôi là giáo sư toán nổi tiếng, người miền Nam:

                - Tạm chia buồn với ông. Hiện tại, ông không thể viết gì được, nhưng ông có nghĩ đến kinh nghiệm viết của ông dạy cho các bạn trẻ miền Nam không?

                - Tại sao chỉ bạn trẻ miền Nam?

                - Vì chỉ họ mới cần ông. Vì ông đã là người miền Nam, vợ con ông người miền Nam.

                - Người miền Nam thiếu gì?

                - Họ không hấp dẫn tuổi trẻ thành phố bằng ông. Họ không biết mở phong trào.

                Thú thật, lúc ấy, tôi cần đề phòng. Mỗi ngày, người ta gọi dây nói mỉa mai hỏi tôi “Còn chống Cộng nữa không?”. Đến nỗi tôi muốn cắt dây điện thoại.

                - Tôi mệt mỏi rồi. Tôi không thể làm gì được.

                - Sẽ liên lạc với ông sau.

                Tôi không hiểu người miền Nam này sẽ làm gì. Chỉ biết, buổi chiều 30-4-75, nón tai béo (giải phóng miền Nam) va nón cối (bộ đội miền Bắc) tranh nhau lượm súng đạn trên đường phố Sàigòn, mạnh ai nấy gom … chiến lợi phẩm. Và, ít ngày sau, một thông cáo ra lịnh cho bất cứ ai giữ vũ khí của “ngụy quân’ phải đem ra nộp, dù là quân giải phóng. Chưa có gì ổn định cả, cho đến nay, ở miền Nam. Hà Nội đã gài người của họ xuống tận cấp huyện. Rồi sẽ cấp xã. Bài hát “giải phóng miền Nam” đã bị cấm. Ngày kỷ niệm thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị xóa. Cả bài “Tiến về Sàigòn ta quét sạch giặc thù” cũng bị tiêu diệt luôn! Nhưng những người lính nón tai bèo lượm vũ khí Mỹ, đem đi đâu, họ đang ở đâu, thì vẫn còn là niềm bí ẩn. Rõ rệt nhất, ở các trại tập trung phía Nam, không hề tìm ra một công an cai ngục nào người miền Nam cả.

                Chúng tôi có tin mừng: Trịnh Quới Tài chuyển trại. Một số can phạm hình sự chuyển trại. Thay vào là những can phạm phản động, trẻ có, già có, vị thành niên có. Sở Công An có một phòng nhốt đàn bà, con gái. Phòng quá hẹp nên mỗi ngày đều có chuyển tù nhân. Phòng A, cạnh chúng tôi, Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Lê Xuyên đã đổi chỗ. Đinh Xuân Cầu và Nguyễn Văn Sao đi luôn. Nhã Ca rời bỏ cachot cùng Nguyễn Mạnh Côn. Còn một Nguyễn Sĩ Tế, bút hiệu Người Sông Thương, côi cút ở khu cachot heo hút, ghê rợn. Chúng tôi đã hết cảm giác khi nghe chìa khóa tra vào ổ ban đêm. Cũng chẳng còn buồn cười khi nghe Hai Phận vĩ đại giáo dục. Đây là bài học thứ ba của Hai Phận, chuyên viên cai tù từ năm 17 đến năm 50 tuổi. Y đếm niên đảng của y bằng những năm quằn quại, rã rượi của tù nhân.

                - Hôm nay, tôi dạy các anh một bài học, về bước tiến bộ mới của cách mạng. Cuộc kiểm kê dân số sau bầu cử thành công vĩ đại, cho ta một sự so sánh vẻ vang: Dân tộc ta bằng dân tộc Pháp!

                Ngừng lại một giây, Hai Phận nói:

                - Dân số nước ta bằng dân Pháp rồi. Hơn 50 triệu đấy nhé!

                Hai Phận rất tốt bụng. Ý muốn chúng tôi cười cho đỡ buồn. Tiếc rằng y chọc cười khiếp đảm quá nên chúng tôi tê dại cảm giác. Câu “mặt trơ trán bóng” phải dùng cho cộng sản mới đúng. Lãnh tụ mặt trơ một kiểu, cán bộ trán bóng một lối. Cái dũng sĩ, anh hùng; cái vĩ đại, vẻ vang của cộng sản là họ chẳng cần biết họ ngu hay không ngu. Họ cứ bắt dân chúng phải nghe, phải tin những gì họ nói. Và họ bảo đó là giáo dục của Đảng. Trên đời này, từ cổ chí kim, chỉ có những người cộng sản, mà Hai Phận là biểu tượng, là dấu ấn của thời đại, mới dám giáo dục sư tổ của y bằng những bài học buồn mửa. Nỗi nhục của con người khi bị thống tri bởi con vật là thế.

                Bẵng vài bữa, Ba Trung lại gọi tôi.

                - Đồng chí lãnh đạo của tôi rất có cảm tình với anh.

                Tôi nhả khói thuốc:

                - Ông ấy lịch sự lắm.

                - Theo ý tôi, anh nên viết lại.

                Chắc chắn, ông Mai Chí Thọ đã chỉ thị cho Ba Trung truy nã tư tưởng của tôi.

                - Tôi đã thưa với ông giám đốc, tôi sợ viết văn rồi.

                - Không viết văn, ra ngoài làm gì?

                - Buôn bán lằng nhằng.

                - Chế độ này rất ghét trung gian tiêu thụ. Anh đã biết, tất cả là quốc doanh mậu dịch.

                - Thì về quê vợ làm ruộng.

                - Ai cho anh ruộng? Ông già vợ của anh đâu còn là điền chủ nữa.

                - Về vùng kinh tế mới.

                - Nói thật đi, anh Duyên Anh, ra ngoài anh sẽ vượt biên, sẽ viết nguyền rủa chúng tôi.

                Ba Trung không muốn tôi chột dạ vì câu nói trúng tim đen của nó. Nó rót thêm nước trà vào ly của tôi.

                - Chuyện này anh cần biết.

                - Tôi nghe.

                - Nó thuộc về dĩ vãng. Từ năm 1972, Đảng đã muốn anh suy nghĩ lại. Miền Bắc đánh giá cao cuốn Mây mùa thu của anh, trong khi Bộ Thông Tin ngụy quyền kiểm duyệt và tịch thu. Anh có nghe ông Nguyễn Ngọc Lan diễn thuyết ở đại học Văn Khoa không?

                Tôi không đi, nhưng tôi được đọc bài tường thuật. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Hồi ấy, chưa có cởi áo dòng lấy vợ, hồi ấy, cùng với linh mục Chân Tín và tạp chí Đối Diện, là đối tượng thù nghịch của tôi vì lập trường hòa bình thiên vị; sau này, cảm nhận nỗi cô đơn của 2 người, hiểu chính xác rằng Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín không bao giờ là cộng sản, cám ơn đã chăm sóc, bênh vực, giúp đỡ vợ con tôi rời Việt Nam trong khi tôi còn trong tù, nên tôi đã trở thành bạn thân của hai người) tỏ thái độ khó chịu về những bài tôi đả kích ông ký bút hiệu Thương Sinh, tuy nhiên, vẫn nồng nhiệt ca ngợi Mây mùa thu là tác phẩm thể hiện tình nghĩa dân tộc, tình thương yêu Nam Bắc . Cuốn sách tôi bị Bộ Thông Tin kiểm duyệt một trang tôi viết về tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện vào Nam, đáp theo "Tiếng súng Nam Bộ" vì sự nghiệp đánh đuổi thực dân Pháp năm 1946. Nhà xuất bản không chịu bôi bỏ trang ấy và Bộ Thông Tin đi tịch thu.

                - Không.

                - Ông Lan khen anh tận tình. Miền Bắc khen anh tận tình. Nếu không bị Mỹ dội bom trở lại, Hà Nội sẽ diễn vở Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan và phát một giải thưởng văn học cho Mây mùa thu. Anh có thể tiếp tục viết như Mây mùa thu chứ?

                - Tôi cùn rồi.

                - Thành khẩn một chút, anh Duyên Anh! Sau hòa bình có hàng nghìn đề tài cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè cảm động rất hợp với lối viết của anh.

                - Nhà văn Bắc thiếu gì?

                - Tôi nói thẳng với anh: Theo báo cáo của Vũ Hạnh và Nguyễn Mai 2, lãnh đạo của tôi muốn xử dụng anh làm nam châm cuốn hút người khác và chinh phục độc giả cũ của anh.

                - Lãnh đạo của anh đánh giá tôi cao quá. Tôi là bông hoa đã tàn rồi.

                - Anh về phòng suy nghĩ hai ngày.

                Tôi không thể suy nghĩ, cũng không thể nói với Dương Nghiễm Mậu vì Mậu sẽ bảo tùy tôi lựa chọn. Mai Thảo đã tâm sự với tôi: “Tôi có một ông thầy, ông ta nói với tôi rằng, con người sống đến 50 tuổi là quá đủ. Tôi năm nay 50, tôi thấy tôi đã sống quá đủ, không còn gì để tiếc nữa. Nhưng tôi sẽ không để chúng nó bắt, trừ khi dí súng vào gáy, dao chĩa sát bụng”. Tôi kém Mai Thảo 9 tuổi. Cuộc đời tôi, có lẽ trầy trụa, nhọc nhằn hơn Mai Thảo. Vậy cũng kể là đã 50 tuổi. Tôi không cần suy nghĩ. Và sự không cần suy nghĩ của tôi thật đúng dù tôi phải trải dài nỗi đau đớn của mình ngót sáu năm tù ngục, lưu đày. Thật đúng vì, khi trở về, tôi nhìn rõ Thái Bạch bệ rạc nằm ở sòng hút thuốc phiện, xin xỏ từng điếu. Nó đã bị đá ra khỏi sinh hoạt văn nghệ. Cái hiệu sách Giải Phóng của nó ở đường Gia Long đã biến thành trụ sở công an phường. Quần áo nó lếch thếch, hôi hám. Cái chất nhễ nhãi vênh vang trên khuôn mặt đắc thời của nó giữa tháng 5-1975 đã khô rom. Nó bắt đầu chửi cộng sản chỉ để bấu một điếu thuốc phiện rẻ rề. Thế Nguyên thì tuyệt tích. Vũ Hạnh phải làm xà phòng lậu, bị công an phường gây khó dễ. Sơn Nam, quần ống thấp, ống cao, lang thang hè phố. Em rể Trần Bạch Đằng nằm ấp Chí Hòa một ngày, vợ nhận hết tội “áp-phe” xuất cảnh, nằm thế chồng ba tháng, nhà cửa bị khám xét, đồ tế nhuyễn bị tịch thu. Lệ Hằng hết mon men tới Hội Nhà Văn sau vở kịch chửi vượt biên, rồi vượt biên bị bắt. Từ Kế Tường mất chức chủ nhiệm nhà Văn Hoá quận 4. Nguyễn Thanh Trịnh, Ngụy Ngữ, Hoàng Ngọc Tuấn, một năm chỉ được đăng hai truyện ngắn. Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận mất Tin Sáng, mất luôn tổ hợp tranh sơn mài, đi buôn bán tre và sẽ bị bắt. Vân vân … Suy nghĩ chi nữa. Biết chắc làm anh hèn cũng chẳng xong, thì tội gì không làm anh bình thường. Với tôi, cái bình đã vỡ. Và ngậm ngùi nhớ Nguyễn Du.

                Bây giờ bình đã vỡ rồi,
                Lấy thân mà trả nợ đời cho xong…
                --------------------------------
                1 Năm 1982, tôi gặp Khai Trí, anh ta đã thật sự mất trí vì mất hết tài sản, con cái lưu lạc. Anh ta như Thạch Sùng, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, tội nghiệp lắm.
                2 Nguyễn Mai từng làm thầy cò cho tuần báo Người và Tuổi Ngọc của tôi.

                Comment


                • #9
                  8.

                  - Anh đã suy nghĩ kỹ chưa?

                  - Rồi.

                  - Anh suy nghĩ cái gì?

                  - Sự viết lại.

                  - Không, tôi muốn, trước hết, anh suy nghĩ về gia đình anh, cha mẹ anh, ông bà anh, giai cấp anh, ấu thơ anh, niên thiếu anh. Ông nội anh là nhà nho nghèo nàn, khí tiết. Cha anh là một tiểu thương lận đận. Ấu thơ anh ảm đạm. Niên thiếu ánh khốn khổ. Anh, đáng lẽ, phải là vô sản. Tại sao anh phản bội giai cấp của anh? Tại sao anh chống cộng sản? Ngụy quyền cho anh gì? Nó thường xuyên đe dọa anh, ghét bỏ anh, bắt anh đi lính. Anh trốn chui trốn lủi. Anh tưởng nó tạo cơ hội để anh mua villa, tậu xe hơi à? Không, anh đã lao động khó nhọc bằng tài và sức của anh. Anh còn xứng đáng hưởng ngàn lần hơn nữa cơ.

                  Chẳng còn gì đau đớn, nhục nhã hơn bị một thằng mình khinh bỉ nó mà đành ngồi im nghe nó “lên lớp” mình. Tất cả đều cam đành như tôi. Hãy nói cho tôi biết vị anh hùng nào dám cãi lại, dám to tiếng với công an chấp pháp ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định, ở khám Chí Hòa hay ở bất cứ trại tập trung nào! Sự can đảm, tinh thần bất khuất chỉ tìm thấy ở các buổi diễn thuyết của các ngục sĩ khi đã thực sự thoát khỏi móng vuốt của kẻ thù. Và cũng chỉ tìm thấy trong đòi hỏi của những anh không hề bị tù, không hề biết 90 ngày “tự khai” liên tiếp ra sao! Có nhiều kẻ đã bỏ qua cái tuổi “tri thiên mệnh”, tóc bạc phơ, răng rụng hết rồi mà vẫn khoái huyễn hoặc người khác bằng sự gian dối với chính mình. Tôi muốn thí dụ một ông trung tá đã giải ngũ từ lâu. Tôi sẽ không nêu tên ông ta để ông ta yên tâm nhắm mắt mà đi về với đất … Mỹ. Cộng sản không hề bắt sĩ quan giải ngũ đi trình diện học tập (Mãi đến khi Trung Quốc đánh phá miền Bắc, họ mới đến tận nhà còng sĩ quan giải ngũ vào tù). Vị trung tá nọ sợ quýnh lên, khăn gói đi trình diện, nghĩ rằng “đi sớm về sớm”. Cộng sản đưa vị ấy đi hơi xa và hơi lâu. Khi về, thoát nanh vuốt kẻ thù, vị ấy làm thơ ví mình như anh hùng, vì sự “đi sớm về sớm” như mối thù nặng nghìn cân. Và dọa nạt lung tung. Và làm phán quan xét tội những người mà vì ấy không hề ở chung với họ ngày nào. Vị ấy quên sờ gáy để nhớ bức chân dung Hồ Chí Minh và lời tự khai thành khẩn: “Đây là họa phẩm đắc ý nhất trong sự nghiệp của tôi”! Nhớ chưa, phán quan. Hay phải nhắc bức chân dung vẽ ở trại nào?

                  - Anh đã suy nghĩ bản chất giai cấp của anh chưa?

                  - Tôi ít nghĩ tới tôi.

                  - Anh không phải trí thức chứ?

                  - Đúng thế.

                  - Anh không phải địa chủ chứ?

                  - Đúng.

                  - Anh không phải tư sản chứ?

                  - Đúng.

                  - Anh không phải cường hào ác bá chứ?

                  - Đúng.

                  - Anh chưa nợ máu với nhân dân chứ?

                  - Chưa hề.

                  - Vậy anh tự quyết định thành phần giai cấp của anh đi.

                  - Tôi là tiểu tư sản.

                  - Sai rồi. Anh là vô sản. Anh là người vô sản đã quên bản chất của mình, rồi phản bội giai cấp mình. Anh nên tỉnh ngộ trở về với giai cấp.

                  - Muộn rồi, anh ạ.

                  - Tại sao muộn?

                  - Vì tôi luôn luôn nhận tôi là con người phi giai cấp. Con người lương thiện là đủ, cần gì khoác ao giai cấp cho nó?

                  - Anh hơn Nguyễn Mạnh Tường và Trần Văn Giàu không?

                  - Tôi không dám ví với ai cả.

                  - Đầu hàng giai cấp mới khó. Trở về giai cấp của mình thật dễ.

                  - Với tôi tất cả đều khó. Tôi mệt mỏi rồi, tôi chán nản rồi. Tôi không thiết gì nữa.

                  - Anh mệt thật à?

                  - Phải, tôi mệt!

                  - Vậy anh về nghỉ, hôm khác chúng ta làm việc.

                  Ba Trung nhận chỉ thị của ông Mai Chí Thọ, quay tôi như quay chong chóng. Nó bảo tôi suy nghĩ một chuyện, rồi nó xoáy vào tâm thần bấn loạn của tôi một chuyện khác. Nó bắt tôi nhận thuộc thành phần giai cấp vô sản để làm gì chứ? Quả thật, tôi cũng chẳng hiểu tôi thuộc thành phần nào, giai cấp nào trong xã hội loài người. Giai cấp là cái con mẹ gì? Đứa khốn nạn nào trên trái đất này đặt ra thành phần giai cấp? Thượng Đế sinh ra con người có bảo nó mày thuộc giai cấp nào đâu. Con người tự gây khó khăn cho con người. Không, chủ nghĩa ép buộc con người phải nhận rõ thành phần, giai cấp của mình. Đề thù hận thành phần, giai cấp khác. Điều khác lạ, đối với tôi, là người cộng sản không bắt tôi nhận bất cứ một tội gì khác, ở cái địa chỉ chung của chủ nghĩa nầy, ngoài giai cấp tôi. Họ bắt tôi truy nã thân phận tôi. Tôi đã truy nã. Không, nhất định, không bao giờ tôi là vô sản hay tư sản, trí thức hay công nhân. Tôi là một người bình đẳng với mọi người trên trái đất, đúng ý Thượng Đế. Nếu Thượng Đế – Thượng Đế là tôi trong ý nghĩ tôi sắp nói – phán: “Duyên Anh, mày thuộc giai cấp vô sản đấy!”, tôi sẽ bằng lòng khoác nhãn hiệu vô sản lên con người tôi. Ngoài ra, đừng ai nên qui định thành phần, giai cấp con người. Bởi vì, nó sẽ tương tự chủ trại chăn nuôi phân loại súc vật: Bò gầy, bò mập, bò nhiều sữa, bò ít sữa, bò đắt tiền, bò rẻ tiền, bò giống nọ, bò giống kia … Chủ nghĩa đâu phải chủ chăn nuôi. Có lẽ, chủ nghĩa cộng sản đã là chủ chăn nuôi từ lâu mà loài người chưa biết chăng. Chủ nghĩa đê tiện đó đã đánh dấu giai cấp bằng thù hận, như chủ trại chăn nuôi đã đánh dấu súc vật bằng sắt nung đỏ. Tôi không hiểu nổi cộng sản, không ai đoán nổi mưu đồ của cộng sản. Trò chơi của họ biến đổi khôn lường. Nhưng có một kiểu chơi của họ tôi đã hiểu và chỉ hiểu bằng kinh nghiệm rạc rài. Đó là cung cách đối xử, ngôn ngữ đối thoại của lãnh tụ. Đại lãnh tụ của họ, Phật hơn cả Phật, Chúa hơn cả Chúa. Nghiên cứu những danh ngôn Hồ Chí Minh sẽ thấy. Còn họ, luôn luôn cao thượng, lịch sự. Mỗi ông Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương là mỗi thi sĩ hiếu hỉ. Họ không làm mất lòng anh khi anh được gặp họ, dù anh là … nhà văn, nhà thơ, nhà báo phản động. Những gì anh muốn – dĩ nhiên đừng muốn tự do ra khỏi nhà tù – họ giải quyết liền, hiệu quả tức khắc. Anh đừng quên, sau khi chia tay anh, ho phủi tay bằng chỉ thị cấp thừa hành. Và họ sẽ sẵn sàng phê bình nghiêm khắc kẻ thừa hành chỉ thị của họ trước mặt anh. Cộng sản có một câu rửa tội tuyệt diệu: Hiện tượng chứ không phải bản chất. Hiện tượng bắt buộc khác bản chất. Bản chất của chủ nghĩa – của chế độ – tốt đẹp, lý tưởng. Hiện tượng của cán bộ – của đảng viên – sai lầm. Bản chất của Đảng quang vinh, rực rỡ. Đảng họp bàn, quyết định thủ tiêu trên 1 triệu 500 ngàn dân, mùa Cải Cách Ruộng Đất năm 1956. Lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn vĩ đại. Chỉ có hiện tượng Trường Chinh sai lầm, tạm mất chức Tổng Bí Thư, để Đảng … sửa sai. Vậy đối tượng chiến đấu của anh là ai? Là mấy cậu công an vênh váo, là mấy chú bộ đội khờ khạo, là mấy anh cán bộ ngớ ngẩn? Không, phải là lãnh tụ và thủ thuật của họ. Từ 30 năm nay, chúng ta chỉ nói cộng sản gian ác và cộng sản ngọng nghịu, ngu đần. Chúng ta quên không chứng mình cái gì, đứa nào biến con người thành ngọng nghịu, ngu đần. Để chúng ta chạy bán sống, bán chết. Bây giờ chúng ta vẫn tiếp tục mỉa mai những nạn nhân của chủ nghĩa, của lãnh tụ. Chúng ta dồn nạn nhân của chủ nghĩa, của những kẻ bị bóc lột tàn bạo nhất – của những kẻ chưa kịp sống, chưa biết mùi vị ái tình, của những kẻ tưởng hy sinh cho tổ quốc mà hóa ra đã hy sinh cho sự sống lâu của lãnh tụ. Mấy thế hệ bộ đội, công an chết rồi. Trường Chinh, Lê Duẩn, Tố Hữu, Phạm Văn Đồng, và toàn bộ gánh hát già nua Cộng Sản Việt Nam cứ sống nhe răng giả, cứ diện tuồng tích cũ mèm, cứ phì nộn tươi thịt thấm da, hồng môi, sáng mắt. Trong khi bộ đội gian khổ chiến trường Kampuchia, ăn rau muống nhiều quá, môi thâm sì, hốc hác, thảm hại. Anh muốn tiêu diệt chủ nghĩa và lãnh tụ hay muốn tiêu diệt con người? Tiêu diệt con người thì anh không có khả năng đâu, anh chỉ hò hét, lạc quyên, tranh giành. Anh sẽ là hiện tượng. Mà tiêu diệt chủ nghĩa, lãnh tụ thì anh phải cần con người. Anh phải vận dụng khả năng của anh nói cho con người thấm thía. Rằng, con người là công cụ thù hận của chủ nghĩa và lãnh tụ, con người ăn cỏ khô thành sữa để lãnh tụ vắt mà uống. Kế thượng sách để tiêu diệt cộng sản Việt Nam – tôi muốn nói với đồng bào của tôi thôi – là biết hoán chuyển vị thế của hiện tượng và bản chất, là biết phơi bày chính xác thủ thuật và tâm địa của lãnh tụ, là biết lôi ra cái đốn mạt của chủ nghĩa, là biết tạo thế cho âm binh vây hãm phù thủy, là biết gây chia rẽ tan nát trong những “giai cấp cộng sản” – ít nhất, cộng sản Việt Nam có đến chín giai cấp hưởng thụ khác nhau và giai cấp đông nhất, hy sinh kỹ nhất, không được hưởng thụ là giai cấp bộ đội, chưa kể giai cấp giải phóng quân bị đào thải tức tưởi. Kế hạ sách là đem quân ít của mình đánh quân đông của kẻ thù. Còn thứ kế đem quân tưởng tượng đánh cộng sản và hô hoán những chiến công chiêm bao thì miễn bàn. Bởi đó là kế mưu sinh ô nhục như kẻ làm băng nhạc giả, in sách lậu của bọn gian manh.

                  Không để tôi nghĩ lâu, sáng hôm sau, Ba Trung gọi tôi ra. Vẫn gói Nông Nghiệp và ly cà phê đen trên bàn. Bên ngoài, mưa xối xả, hất cả vào chỗ tôi ngồi. Ba Trung không đóng cửa. Nguyên tắc làm việc của công an không đóng kín cửa phòng khi đối diện can phạm tay không bị còng. Nó sợ can phạm, bất chợt, hạ nó, áp đảo để vượt ngục.

                  - Anh Duyên Anh, người ta bảo anh khôn lắm.

                  - Người ta hay các anh?

                  - Bạn anh. Có những điều tôi kể ra sẽ làm anh sửng sốt. Bây giờ là phút nói thật, bởi vì, bây giờ, anh đã nằm gọn trong lưới cách mạng. Mọi người trong các anh, từ Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Mai Thảo … đều có hai cán bộ văn hóa của chúng tôi, ở cục R, nghiên cứu. Chúng tôi nghiên cứu các anh ở nội thành, ở R, ở Hà Nội. Anh có bao nhiêu bút hiệu, chúng tôi nắm hết. Kể cả những bút hiệu anh ký ở mục Nhìn xuống cuộc đời trên báo Tuổi Ngọc. Chúng tôi nghiên cứu bút pháp của các anh, diễn biến tư tưởng của các anh; chúng tôi theo dõi sinh hoạt của các anh, liên hệ giữa các anh. Tại sao chúng tôi dành nhiều công sức cho các anh thế? Vì chúng tôi sợ các anh, muốn có các anh. Vì các anh nguy hiểm, vì các anh bị ngụy quyền bạc đãi. Nghĩ thử coi, anh Duyên Anh, trong các anh, đã có ai được ngụy quyền dịch tác phẩm phổ biến ra nước ngoài? Ai trong các anh đi họp Văn Bút Quốc Tế được Nguyên Văn Thiệu trả tiền vé máy bay và tiền tiêu vặt? Cái ngu xuẩn của ngụy quyền là nó không biết kết hợp các anh thành một chiến tuyến văn hóa. Nếu nó kết hợp được, và các anh đừng chia rẽ nhóm, chửi bới lẫn nhau, chiến tranh còn kéo dài bất phân thắng bại và, có thể, chỗ anh đang nằm là chỗ của tôi. Nguyễn Khánh tuyên dương các anh làm chúng tôi hoảng hốt. Nó là thằng duy nhất biết sức mạnh của mỗi ngòi bút là một sư đoàn. Nó mới nói ngòi bút của nhà báo, chưa đề cập đến sức mạnh của nhà văn, của những người làm tư tưởng cuốn hút nhân dân.

                  Ba Trung dẫn tôi vào ngơ ngác mới. Lãnh đạo của nó đã dạy bảo nó huyễn hoặc tôi. Tôi sửng sốt thiệt tình. Tôi đâu dám tưởng tượng cộng sản đánh giá chúng tôi ghê gớm thế. Từ khởi sự cuộc đời văn chương, tôi đã nghĩ mình viết văn mua vui cho độc giả để mưu sinh. Hoàn toàn tôi không có tham vọng gì vào văn chương. Tôi thấy Nguyễn Du vĩ đại đã khép Truyện Kiều bằng hai câu bình dị và khiêm tốn:

                  Lời quê góp nhặt dông dài
                  Mua vui cũng được một vài trống canh

                  Tiền bối vĩ đại không hề “phi lộ” đao to búa lớn. Rằng, ta, Tố Như, làm văn chương vì mục đích này nọ. Hậu bối ễnh ương xem chừng khoái làm con bò văn học nghệ thuật. Đâu ngờ, cái sự mưu sinh bằng chữ nghĩa của mình lại được cả cộng sản lẫn quốc gia rình rập kỹ vậy. Cộng sản thì tôi đã biết ở Sở Công An. Quốc gia thì vừa biết khi sang Paris và gặp anh Phương Linh Châu. Ở Sàigòn, tôi chưa được quen anh Châu. Anh ta làm việc cho Trung Ương Tình Báo và đặc biệt theo rõi tôi. Anh cho biết, trong thân tình và việc đã qua rồi, anh quán triệt cá tính của tôi, từ cách ngồi viết ở tòa soạn đến cách ngồi uống cà phê ở vỉa hè, giờ giấc sinh hoạt, liên hệ bạn bè… Người được anh chị thỉ theo dõi tôi là chủ bút tuần báo Tuổi Ngọc. Tôi giật mình. Giật mình hơn, Trung Ương Tình Báo định bắt tôi và gài tôi vào cái thế phải làm việc cho họ với tư cách chủ bút một tờ báo của họ. Nhờ một sĩ quan già lục hồ sơ của tôi, đoán tử vi và nói chưa đến lúc bắt tôi, nên tôi thoát. Ông Thiệu trị nước có thầy bói bên cạnh! Trung Ương Tình Báo cũng có thầy tử vi! Anh kể rất nhiều kỷ niệm theo rõi tôi. Tóm tắt, quốc gia rình rập tôi mà tôi không hay. Hôm nay, nhờ cộng sản, nhờ quốc gia tiết lộ, tôi bỗng thấy nhà văn chúng tôi phi thường quá. Ôi, cuộc mưu sinh của tôi sao mà lận đận, sao lắm kẻ rình mò, hãm hại thế! Vẫn chẳng có gì đáng để tôi kiêu hãnh. Ta vẫn phải đi trên sầu đạo dằng dặc hệ lụy. Cái gì ta để lại ở cuối sầu đạo mới đáng để ta kiêu hãnh. Và ta chỉ bằng lòng chịu phán xét, lúc ấy.

                  - Thế giới biết nhiều về nhà văn, nhà thơ của chúng tôi hơn biết các anh. Tác phẩm của nhà văn, nhà thơ chúng tôi đã dịch mười thứ tiếng. Còn các anh, chạy vạy xuất bản đã khó, thu tiền về còn nhục. Đã nhà văn nào của các anh diễn thuyết ở Hoa Thịnh Đốn, Đông Kinh, Ba Lê? Nhà văn của chúng tôi xách va li đi khắp thế giới. Các anh đều làm lợi cho ngụy quyền, cho Mỹ mà cả Mỹ lẫn ngụy quyền đều bạc đãi các anh. Đàn áp các anh. Bỏ rơi các anh. Anh nghĩ sao?

                  - Tôi nghĩ chính nhờ bị bạc đãi, bị đàn áp, bị bỏ rơi mà chúng tôi đã trở thành chúng tôi.

                  - Thành tội phạm?

                  - Vâng, tội phạm của chiến thắng của các anh.

                  - Kỳ-Thiệu về, giả sử thế, chúng nó có cứu các anh chăng?

                  - Không. Chúng sẽ giết tôi hoặc nhốt tôi mãi mãi.

                  - Anh đã làm lợi cho chúng nó?

                  - Tôi ích kỷ để nói với các anh rằng tôi chỉ làm lợi cho tôi, cho vợ con tôi. Nếu anh thích, và như nhận xét của anh, tôi làm lợi cho quê hương.

                  - Anh sẽ làm lợi cho quê hương chứ chưa làm lợi cho quê hương. Anh quyết định đi. Tôi nhắc lại, người ta bảo anh khôn lắm. Dễ hiểu thôi, anh là mẫu người thân lập thân, anh phải khôn anh mới là Duyên Anh. Anh đã dự định bán tuần báo Người để lách thoát cái thế tranh chấp của Thiệu-Kỳ-Minh, thoát sự trả thù của Đặng Văn Quang, Hoàng Đức Nhã. Anh làm Tuổi Ngọc để thoát ký quỹ mười triệu đồng. Anh hô hoán những “đêm của lính” để được động viên tại chỗ. Anh lợi dụng Trần Hữu Thanh để viết hịch tham nhũng, chửi Thiệu qua miệng người khác. Anh lợi dụng diễn đàn Quốc Hội để viết diễn văn cho nghị sĩ, dân biểu đối lập phát biểu tư tưởng đối kháng của anh, trong khi, anh giả vờ làm báo con nít. Anh đã khôn, anh nên khôn thêm một lần cuối.

                  Cộng sản nó đi guốc trong bụng tôi. Nó biết tôi ngàn lần hơn tôi biết nó. Và tôi thua nó là hợp lý.

                  - Sự khôn của tôi đã là tai họa. Tôi không muốn khôn nữa.

                  - Anh lại khôn rồi đấy. Đừng khôn với cách mạng. Tôi hỏi anh, bị chúng tôi bắt, anh biết chắc Thiệu-Kỳ sẽ nhốt mãi mãi hoặc giết ngay, nếu chúng “giải phóng dân tộc”, anh tin ai cứu anh? Quốc tế à? Với quốc tế, anh vô danh tiểu tốt. Quốc tế đâu đã đọc sách của các anh mà can thiệp cho các anh. Anh chỉ có một hy vọng cuối cùng. Chúng tôi tha anh. Muốn được tha, là người khôn, anh tự hiểu anh nên làm gì.

                  Ba Trung nâng tôi lên, rồi đap tôi ngã chúi. Nó không bắt tôi nhận tôi là vô sản nữa. Hôm nay, nó “mạn đàm” với tôi về sự khôn của tôi và sự nắm linh hồn tôi của cộng sản và kích thích tự ái của tôi và nói rõ ẩn ức của tôi với chế độ cũ. Tôi không ngần ngại gì mà không nói những ẩn ức của tôi với chế độ cũ, từ sau 1-11-1963. Trước hết, tôi bất bình cái thái độ du côn của Nguyễn Cao Kỳ. Ông ta là thứ thủ tướng bất xứng về mọi phương diện. Vì bài phiếm luận của tôi đăng trên nhật báo Tin Báo, đụng chạm tới Đô trưởng Văn Văn Của (Đô trưởng say rượu, bắn súng loạn cào cào, quân cảnh Mỹ còng tay nộp cho Ty Cảnh Sát quận 1, Sàigòn), ông ta họp báo bỏ túi, gọi tôi là côn đồ, đòi đánh nhau tay đôi nếu là Văn Văn Của và đóng cửa Tin Báo. Gọi tôi là côn đồ tức là đồng hóa tôi với “Việt Cộng ác ôn côn đồ”. Tôi chưa bỏ theo Việt Cộng đấy. Tôi ngậm trái thù, trả đũa liên tiếp Nguyễn Cao Kỳ và tay chân. Hôm nay vẫn chưa nguôi hận. Đáng lẽ, không bao giờ có tuần báo Con Ong, tuần báo Người, nếu Đinh Trình Chính, đầy tớ của Kỳ, cho tôi xuất bản tuần báo Búp Bê. Chính ghét tôi, chấp nhận truyện tranh nhảm nhí “charlot Nguyễn Thọ” và chỉ “lưu tình” khi ông sắp mất chức Tổng trưởng Thông Tin. Tôi làm báo nhi đồng trong hoàn cảnh khó khăn. Và Búp Bê đình bản sau năm số. Trở về nhật báo, tôi hung hăng, tôi tàn bạo, tôi sa lầy, tôi đầy ngất ân oán giang hồ. Từ đó là Thương Sinh dẫm lên tất cả. Kỳ và Chính đã không để tôi làm Duyên Anh viết truyện mơ mộng. Chúng nó dồn tôi vào con đường bất mãn, tôi đi hết sai lầm này đến sai lầm khác, và tôi bị chụp bủa bởi cái lưới ngộ nhận oan nghiệt. Tôi rất muốn làm công việc nhỏ mọn có ý nghĩa cho đời sống. Và tôi chỉ gặp bọn quyền bính bỏ lửa vào tay mình. Một lần nữa, tôi xuất bản tuần báo Tuổi Ngoc khổ lớn, tôi cố giã từ nhật báo, tuần báo nham nhở. Bấy giờ là triều đại của Thiệu và Tổng trưởng Giáo dục Lê Minh Liên. Ông Châu Kim Nhân giới thiệu tôi với Liên. Tôi trình bày sự cần thiết phải có một tờ báo cho thiếu niên trong cái sa mạc sách báo tuổi trẻ. Ông Liên đồng ý. Ông hứa yểm trợ Tuổi Ngọc mỗi kỳ 500 số cho tới khi nó vững. Tôi mừng quá, hí hửng tính 500 số x 20 đồng bằng 10,000 đồng x 4 kỳ bằng 40,000 đồng, vừa đủ tiền bìa và công in offset cho 4 số báo. Chừng báo ra mắt, tôi gọi dây nói cho văn phòng của ông Liên. Tôi được viên bí thư trả lời:

                  - Ông Tổng trường chỉ thị rằng mỗi kỳ báo, ông cho tùy phái đem lên Bộ 10 số báo, và Bộ sẽ trả bằng mandat mỗi tam cá nguyệt!

                  Tôi định chửi cha cái bộ … vô giáo dục đó một câu. Lại thôi, bèn đáp:

                  - Báo tôi nghèo không có tùy phái và không bán cho Bộ nữa. Ông thưa với ngài Tổng trưởng giùm, nếu ngài ấy rảnh, ghé tòa soạn, tôi cho 500 số, về đọc, rồi bán ký tính giá đồng nát.

                  Bực quá, tôi viết Ngựa chứng trong sân trường để mở mắt bọn ngu xuẩn ở Bộ Giáo Dục, viết tiếp Bò sữa gặm có cháy, dạy lũ Thiệu cách huấn luyện nhi đồng. Đổng lý của Tổng trưởng Thông Tin Trương Bửu Điện mời tôi đến Bộ … thông cảm. Bò sữa chuyển vào phủ tổng thống. Sáu tháng không trả lời cho hay không cho xuất bản. Nhà Nguyễn Đình Vượng đã in xong xuôi, chỉ còn chờ giấy phép. Cuối cùng, vì thương cụ Vượng, tôi phải “xin được tự ý xóa bỏ hai chương phê bình tổng thống” để Bò sữa gặm cỏ cháy nhởn nhơ gặm cỏ cháy. Tôi đã khốn đốn vì cuốn sách này khi làm việc với công an cộng sản.

                  - Thế nào, anh Duyên Anh?

                  - Anh muốn thế nào?

                  - Muốn anh tiếp tục nghề viết của anh. Trước hết, anh phải kiểm điểm toàn bộ sai lầm của anh trong vòng 15 năm, kiểm điểm toàn bộ quá trình viết lách của anh.

                  - Tôi sẽ viết trong tự khai.

                  - Không, anh sẽ viết trên báo Đảng, viết ở nhà anh.

                  - Tôi viết trong tù cũng được chứ.

                  - Anh viết trong tù, nhân dân sẽ nói công an cưỡng ép anh viết. Anh viết ở nhà anh, nhân dân tin anh thành khẩn.

                  Một phút thôi, một sợi tóc như Thạch Lam viết, sau những dồn nén không tài nào nhịn nổi, tôi nhìn thẳng vào đối mắt liến láu của Ba Trung:

                  - Anh không đủ tư cách tha tôi. Anh cũng không đủ tư cách cưỡng ép tôi viết.

                  - Đảng thừa tư cách.

                  - Anh không phải là Đảng.

                  - Ai là Đảng?

                  - Tố Hữu.

                  - Tố Hữu không phải công an.

                  - Vậy công an biết gì về văn chương mà luận bàn.

                  Ba Trung đập bàn. Nó đứng dậy, đôi mắt ánh lên thù hận. Tôi tưởng nó sắp đấm vỡ mặt tôi. Nó lại ngồi xuống:

                  - Anh mệt rồi. Hôm nay làm việc hơi căng.

                  Tôi lặng thinh. Nó đưa tay bóp trán:

                  - Anh về phòng nghĩ. Cầm gói thuốc về hút.

                  - Cám ơn. Tôi không hút thuốc nữa.

                  - Tại sao?

                  - Vì ở tù có nhiều thứ cần phải nhịn.

                  Nó thông mình lắm, hiểu ý câu nói của tôi. Nó mỉm cười rồi đưa tôi về phòng. Tôi không biết Ba Trung đã làm việc với Hoàng Anh Tuấn ra sao. Nó có gợi ý cho Tuấn kiểm điểm quả trình viết lách và hứa hẹn gì không. Tuấn đã chuyển trại, tôi mất dịp rút kinh nghiệm để đối phó với Ba Trung. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu chưa hề bị gọi ra. Luôn luôn, tôi cô đơn. Tôi nhớ, cuối năm 1950, sau khi quy định thành phần giai cấp, loại bỏ toàn bộ trí thức và đảng phái ra khỏi kháng chiến, cộng sản tổ chức một khóa chỉnh huấn cho văn nghệ sĩ. Những Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Tuân … sau khóa hoc, đã ỉa lên tác phẩm cũ của mình những bài tự kiểm gớm ghiếc. Thơ thơ, Gửi hưởng cho gió chỉ còn là hai đống phân trong nhãn quan vô sản. Thế Lữ tha hồ mà chửi Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn. Nguyễn Tuân coi Tàn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua là sản phẩm của bồi tiêm thuốc phiện (tạp chí Văn Nghệ, liên tiếp 3 số, đầu 1951). Vẫn trò chơi bắt nghệ sĩ phóng uế lên sự nghiệp mình, Trịnh Công Sơn đã tự kiểm để được làm ở Sở Thông Tin Văn Hóa thành phố. Loại bài tự kiểm của Trịnh Công Sơn đã làm ngao ngán tuổi trẻ ngưỡng mộ nhạc của Sơn. Từ đó, Sơn say mèm. Bố già Á Nam Trần Tuấn Khải tự kiểm trên tờ Văn Nghệ Giải Phóng mới nản chứ! Người nản nhất, xấu hổ nhất là Trần Việt Hoài. Anh đã uất ức làm bốn câu thơ trước khi chết:

                  Đầy tớ Mỹ ngã gục
                  Bồi Tàu, Nga reo vui
                  Riêng cháu con nòi Việt
                  Ôi, xiết bao ngậm ngùi

                  Tôi đã thấy nghệ sĩ tự kiểm thuở chưa làm văn chương. Tôi vừa thấy nghệ sĩ tự kiểm khi đã làm văn chương. Tốt nhất, tôi nên tự khai trong tù. Dương Nghiễm Mậu hoàn toàn đúng. Chúng tôi không có tội với nhân dân. Chúng tôi cứ nhận phứa phựa có tội với chế độ. Lẽ phải ở bất cứ không gian, thời gian nào, đều nằm gọn trong tay kẻ mạnh. Điều đó đã thành chân lý muôn thuở. Để tự vệ, để tồn tại, tổ tiên ta đã có di chúc “Tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Buổi chiều, Ba Trung gọi tôi ra. Lần này, ở phòng của nó còn thêm một người mà Ba Trung giới thiệu là nhà văn cách mạng. Nó không nói bút hiệu nhà văn đó và tôi cũng chẳng buồn hỏi. Một lần, Trần Kim Thanh, nhà văn Hà Nội, đã nói với tôi: “Ở miền Bắc của chúng tôi có công an văn nghệ”. Nhà văn vừa gật đầu chào tôi, chắc chắn là nhà công an văn nghệ, thứ lính kín của văn học nghệ thuật.

                  - Buổi sáng căng quá, chiều nay chúng ta nói chuyện văn chương, Ba Trung giáo đầu.

                  Nhà công an văn nghệ hỏi tôi:

                  - Anh hiểu thế nào là một nghệ sĩ?

                  Tôi nói:

                  - Anh muốn có một định nghĩa chính xác về hai tiếng nghệ sĩ?

                  Nhà công an văn nghệ đáp:

                  - Phải.

                  - Anh có phải công an không?

                  - Tại sao anh hỏi thế?

                  - Tôi có hai lối trả lời. Một lối cho công an và một lối cho nghệ sĩ.

                  - Tôi là nhà văn.

                  - Hân hạnh cho tôi lắm lắm. Anh có đọc thơ cũ, thơ mà Xuân Diệu phủ nhận không?

                  - Không.

                  - Vậy tôi đọc cho anh nghe Xuân Diệu định nghĩa nghệ sĩ và tôi rất chịu.

                  Và tôi anh dũng đọc thơ đồi trụy, thơ vàng cho cộng sản nghe.

                  Tôi là con chim
                  Tới từ núi lạ
                  Ngứa cổ hót chơi
                  Khi ánh sáng vào reo um khom lá
                  Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh tươi
                  Chim ngắm suối đậu trên cành bịn rịn
                  Hót tự nhiên nào biết bởi sao ca
                  Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín
                  Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa
                  Cứ hót mãi thế mà chim vỡ cổ
                  Héo tim non cho quá độ tài tình
                  Cả ánh sáng bảo lần giây màu đỏ
                  Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh
                  Tôi rả rích chẳng qua trời bắt vậy
                  Chiếc thuyền lòng nước chảy phải trôi mau
                  Gió đã nổi cho nên buồm phải dậy
                  Hồn vu vơ lời ấy bởi mây đào…

                  Đoạn kết, tôi nhìn Ba Trung, đọc một cách say sưa:

                  Tôi là con chim
                  Tới từ núi lạ
                  Ngứa cổ hót chơi
                  Hãy nghe lấy còn như sao rỉ rả
                  Nói làm chi tôi không biết trả lời!

                  Ba Trung cười:

                  - Con chim Xuân Diệu vô tội vì nó lãng mạn. Con chim Duyên Anh khác xa.

                  Nhà văn nghệ công an đưa sang vấn đề khác:

                  - Tôi thấy văn nghệ Sàigòn không chuyên nghiệp.

                  Nó vừa mới bảo tôi định nghĩa người nghệ sĩ, chẳng tỏ thái độ đúng hay sai, đã vội vàng chuyển mục.

                  - Ý anh muốn nói văn nghệ Sàigòn không tốt nghiệp ở một trường chuyên nghiệp nào ra, phải không? Tôi hỏi.

                  - Đúng.

                  - Tôi công nhận đúng, song chỉ đúng với nghệ sĩ trình diễn, đa số, họ đã không ở trường ca nhạc, kịch nghệ nào ra cả. Nhưng, theo tôi, nghệ sĩ Sàigòn thì chuyên nghiệp đúng nghĩa. Tất nhiên, nghệ sĩ Hà Nội không thể có cái đúng nghĩa ấy.

                  - Tôi cần được giải thích.

                  - Câu giải thích thật đơn sơ: Các anh không ôm một nỗi cô đơn nào cả.

                  - Các anh ôm nỗi cô đơn? Các anh cô đơn bằng hưởng thụ.

                  - Anh còn muốn nghe nữa không?

                  - Còn chứ.

                  - Đừng mỉa mai vội. Tôi tin anh là nhà văn, dù anh có phục vụ ở ngành công an.

                  - Xin lỗi.

                  - Anh đừng xin lỗi tôi, vì sự xin lỗi của anh càng tăng thêm vẻ mỉa mai.

                  Ba Trung giả vờ có việc đột xuất, rời khỏi phòng. Người nhà văn công an, dân miền Bắc chính cống, hình như, nhiều quyền hành hơn Ba Trung nằm vùng. Nó dục tôi:

                  - Ta tiếp tục.

                  - Tôi xin phép được hỏi anh và anh trả lời chính xác, thành khẩn, rồi từ những câu vấn đáp sẽ có kết luận chuyên và không chuyên.

                  - Đồng ý.

                  - Có bao giờ anh thấy, ở rạp hát nào đó, tại Hà Nộihay bất cứ tỉnh huyện nào ở miền Bắc, dù mưa hay nắng, dù bão to hãy yên lặng, khi đến giờ bắt buộc phải kéo màn mà chỉ có vài khán giả không?

                  - Không, không bao giờ. Nhà hát của chúng tôi luôn luôn đông nghịt, bất kể giông bão.

                  - Có bao giờ anh thấy, ở vỉa hè Hà Nội, tác phẩm và tên tác giả nằm ngổn ngang không?

                  - Không, không bao giờ. Chúng tôi có mấy trăm ngàn xã, mỗi xã một thư viện. Tác phẩm của nhà văn của chúng tôi được xuất bản, ít nhất, cả 100 ngàn cuốn, chưa đáp ứng yêu cầu.

                  - Chúng tôi khác các anh, khác ghê gớm. Ở Sàigòn, sân khấu cải lương vẫn phải kéo màn đêm mưa đột xuất dù khán giả vài chục người. Nghệ sĩ vẫn đông đủ. Tuồng tích không bị cắt xén. Giọng ca ngọt bùi hơn, tiếng đàn tha thiết hơn trong nỗi hoang vắng ấy. Ở những phòng trà, gặp đêm giông tố, khách thưởng ngoạn vỏn vẹn một người thôi, ca sĩ của chúng tôi vẫn trình diễn, và đã diễn tả hết cái cô đơn của con người trong quạnh hiu, trống trải. Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật là mỗi cuộc phiêu lưu. Nó đi từ nhà xuất bản đến nhà phát hành. Nó được xếp vào chỗ quan trọng của hàng sách hay bị xuống vỉa hè thì nó vẫn có linh hồn. Tóm lại, chúng tôi thường xuyên trực diện nỗi cô đơn, uống từng giọt cô đơn trong đời sống. Còn các anh, các anh được người ta lùa khán giả cho kín rạp để ca múa, các anh được người ta chỉ thị vỗ tay hoan hô, các anh được người ta khuân sách về xã ấp mà ra lệnh độc giả … học tập. Các anh không có nỗi cô đơn. Các anh chỉ là nghệ công hay nghệ nhân. Các anh chưa từng là nghệ sĩ. Như tôi mới là nghệ sĩ. Vì trọn đời tôi, tôi lạc lõng trong sương mù cô đơn; trọn đời tôi, tôi bị truy nã, săn đuổi; trọn đời tôi, tôi bị đố kỵ, ghen ghét; trọn đời tôi, tôi bị ngộ nhận, phản phúc. Bằng những cái đó, tôi trở nên chuyên nghiệp, tôi tồn tại và tôi có những cái mà người khác không có. Không có so sánh trong tác phẩm nghệ thuật, không có chối bỏ trong tác phẩm nghệ thuật. Anh có cái mà người khác không có, mà tôi không thể có vì anh không phải là người khác, không phải là tôi, không thích đồng hoa, đồng dạng, đồng hành. Tôi xin nhắc lại: Những gì đã được quần chúng công nhận thì không thể chối bỏ. Sự chối bỏ chỉ có tính cách nhất thời và gian dối. Nhiều chế độ đã bị xóa bỏ, tác phẩm nghệ thuật và nghệ sĩ vẫn tồn tại. Đã không thể chối bỏ được tác phẩm nghệ thuật thì cũng không thể bắt nghệ sĩ chối bỏ nghệ thuật của nó bằng bá đạo.

                  - Anh kiêu ngạo qua, anh Duyên Anh ạ! Mỗi nhà văn nổi tiếng ở Saigon là một cái rốn của vũ trụ. Đã Vũ Khắc Khoan kiêu ngạo, Mai Thảo kiêu ngạo, Nguyễn Mạnh Côn kiêu ngạo… lại cả đến Dương Hùng Cường, Hoàng Hải Thủy cũng kiêu ngạo.

                  - Theo tôi, kiêu ngạo là tự do, dân chủ là nhận đường phấn đấu. Anh phải là cái gì mới được quyền kiêu ngạo chứ? Và kiêu ngạo của nghệ sĩ vô tội. Nó khiến anh khó chịu nhưng nó không bỏ tù được anh, không bắt anh nhịn đói, không cưỡng ép anh tự khai…

                  - Anh ám chỉ tôi?

                  - Anh là nhà văn mà…

                  - Phải, tôi là nhà văn.

                  - Tôi đang biểu dương anh. Tại sao anh không thích tôi kiêu ngạo? Anh nên nghiên cứu kỹ lưỡng về trường hợp tôi. Trong một xã hội phân hóa toàn diện, băng hoại từ gốc rễ, một mình tôi cô đơn với mớ kiến thức còm cõi, đòi làm lại cuộc đời xum họp, bình yên, yêu thương và chia xẻ; một mình tôi viết 50 cuốn sách, làm 200 số báo đẹp, tôi rất xứng danh kiêu ngạo. Sự lao động chân chính của tôi hơn các anh. Đã ai trong các anh viết nhiều bằng tôi?

                  - Anh có thể khắc phục sự kiêu ngạo được không?

                  - Anh bảo tôi kiêu ngạo thì tôi kiêu ngạo. Anh đừng có định kiến gì về tôi, anh sẽ thấy tôi chả kiêu ngạo tí nào. Độc giả tuổi nhỏ của tôi có bảo tôi kiêu ngạo đâu. Chỉ những kẻ tự ti mặc cảm mới bảo tôi kiêu ngạo, chỉ những đứa thù ghét tôi mới bảo tôi kiêu ngạo.

                  - Tôi khuyên anh nên truy nã bản thân hiện tại của anh, anh nên tự hỏi anh nên ở đâu, nói chuyện với ai. Câu trả lời của anh cho chính anh sẽ giúp anh toàn diện.

                  - Cảm ơn anh. Tôi trả lời luôn: Tôi là nhà văn độc lập bị khép tội phản động, đang ở tù và làm việc với … nhà văn chiến thắng. Tôi không dám chết anh hùng vì tôi sợ làm anh hùng, nhưng tôi tình nguyện chết dần chết mòn theo cung cách chết bình thường của những tù nhân bình thường.

                  Tôi nhìn nhà văn công an:

                  - Anh còn gì hỏi thêm tôi nữa không?

                  Nhà văn công an móc thêm gói thuốc đen Tam Đảo, bốc ra, mời tôi:

                  - Anh nhớ Hà Nội chứ?

                  Tôi nhả khói thuốc:

                  - Nhớ.

                  - Hà Nội vẫn y nguyên như thời niên thiếu của anh. Căn nhà số 13 đường Ngô Thời Nhiệm chưa bị bom Mỹ san bằng. Chỉ có con ngõ Lệnh Cư ở Khâm Thiên đã bị B52 xoá bỏ dấu tích kỷ niệm của anh và căn nhà số 42 Cửa Bắc của “bác nhà” bị sập đổ. Bác gái chết vì bom Mỹ năm 1969, anh biết chứ?

                  - Bố tôi đã kể.

                  - Anh còn yêu Hà Nội không?

                  - Tại sao không? Hà Nội hay Sàigòn đều là thành phố của quê hương chúng ta.

                  - Anh muốn về Hà Nội?

                  - Dĩ nhiên, tôi để lại Hà Nội muôn vàn kỷ niệm.

                  - Bạn cũ của anh còn nguyên vẹn. Anh Nguyễn Thịnh giữ chức vụ quan trọng trong ngành xuất bản âm nhạc. Anh Đàm Việt Minh ở trong hội nghiên cứu văn học. Anh Lê Huy Luyến dạy ở đại học. Anh còn người em út tên là Vũ Hổ.

                  - Vâng, nó bị bắt vì trốn lính và đang nằm ở Lào Kay.

                  - Bác trai cho anh biết?

                  - Vâng.

                  - Vũ Hổ là thứ Trần Đại của Hà Nội. Anh đã viết truyện du đãng về em anh đấy.

                  - Vinh dự quá.

                  - Tôi đến thăm anh với tư cách đồng nghiệp. Tôi thành thật nói với anh điều này để anh suy nghĩ: Nhạc sĩ Hoàng Dương, tác giả bài Hướng về Hà Nội, đã mang giày của giặc, về với cách mạng, vẫn được trọng dụng. Hiện nay, anh Hoàng Dương dạy nghệ thuật ở Viện Kịch Nghệ Âm Nhạc Hà Nội.

                  - Cám ơn anh.

                  - Điều này nữa: Anh không thể kiên trì bằng người cộng sản. Với cộng sản, nhiều người muốn chết mà cứ bị sống khi họ đã bị đánh dấu.

                  - Cám ơn anh. Tôi duy tâm và tôi tin sống chết có số.

                  Người nhà văn công an cho tôi một túi thuốc là Sông Cầu và gói kẹo Hà Nội. Tôi nhận một gói tượng trưng và vài cái kẹo mềm. Ba Trung trở về đúng lúc. Người nhà văn công an bắt tay tôi, tạm biệt. Tôi về phòng, ân hận vì mình quá … kiêu ngạo, không thèm hỏi bút hiệu của nhà văn công an. Ít ra, nó đã đọc tôi, đọc kỹ Trường cũ và Ngày xưa còn bé của tôi. Nó biết nhiều về gia đình tôi, bạn bè tôi, kỷ niệm Hà Nội của tôi. Nó chịu khó nghe tôi mà không đập bàn, dù tôi là can phạm. Tôi không nghĩ tất cả đảng viên trung cấp đều mất hết lương tâm. Người cộng sản đáng tội nghiệp. Họ bị chính đồng chí của họ rình rập, soi mói. Sự ám ảnh bị rình rập trở thành thói quen, thành lý tưởng nên họ đi rình rập lẫn nhau. Lãnh tụ cộng sản muốn có một phút sống thực với lòng mình mà cũng không được. Còn những đảng viên nhỏ, những viên chức đối tượng đảng viên thì phải đeo hai cuộc đời khốn khổ trên một cuộc đời hệ lụy. Cuộc đời khốn khổ thứ nhất là cuộc đời với tiếng nói giả dối, xu phụ, phét lác. Cuộc đời khốn khổ thứ hai là cuộc đời với tiếng nói thành khẩn chỉ dám nói thầm với mình và đầy mặc cảm không ai thèm tin mình. Xuân Thiều, nhà văn quân đội miền Bắc, người Vinh, đảng viên trung kiên của đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh đã dặn chúng tôi nên giữ kín những vụ liên hệ ăn uống, chơi bời với anh ta. Người đảng viên ấy mở miệng nói một câu xót xa: “Ngoài Marxisme, tôi còn thờ chủ nghĩa Marimite và bảo vệ nó tới cùng.” Lý tưởng nào rồi cũng ở cái nồi cơm, niêu cá!” Nếu xưa có kẻ si tình than thở: "Than ôi, chí lớn trong thiên hạ không đầy đôi mắt mỹ nhân” thì nay, những đảng viên cộng sản trung cấp và trung kiên than thở: “Than ôi, lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa Mác-Lê không đầy cái nồi cơm”! Xin có lời chia buồn muộn màng với Marx, với Engels dưới lòng đất; với Lenine, với Hồ Chí Minh trong hòm kính đìu hiu.

                  “Với cộng sản, nhiều người muốn chết mà cứ bị sống khi họ đã bị đánh dấu.” Tôi không biết nên tin câu này như lời dọa nạt sinh tử hay lời căn dặn chân tình. Thôi, đành tin Trời Đất khi đã hết dám tin ai. “Trong tù, tuyệt đối không tin ai”. Người công an già miền Nam bắt tôi luôn luôn nhớ thế. Tôi vốn ham ngạo báng cả thần thánh lẫn ma quỷ. Trên đường mưu sinh, ở đoạn nào đó, người ta chỉ gặp may mắn và may mắn, người ta bỗng quên số phận mà chỉ tin vào tài năng. Đến lúc tuột dốc, người ta chợt tỉnh ngộ và người ta ngây thơ bấu víu lấy cái thiêng liêng vô hình để hy vọng. Buổi sáng ngày 8-4-1976, tôi đi tìm thấy bói Kim ở đường Chị Lăng, Phú Nhuận một lần nữa. Ông thầy bói mù gieo quẻ dịch. Đồng tiền bắn ra khỏi đĩa. Gieo lại. Bấm. Đoán.

                  - Trốn đi!

                  - Cụ đã bảo mệnh vững?

                  - Mệnh vẫn vững nhưng hôm nay nhằm ngày rất xấu của Mậu Dần tức là vợ ông. Trốn đi chừng ba tháng sẽ thoát tù tội.

                  - Nếu không trốn?

                  - Sẽ bị bắt trong ngày hôm nay!

                  - Rồi sao?

                  - Cũng sẽ về thôi. Vài năm đấy.

                  - Mấy năm?

                  - Không thể rõ. Đừng lo chết trong tù, bảo đảm mệnh vững. Ông Mạnh Côn mới nguy.

                  - Chắc chắn mệnh vững?

                  - Chắc chắn. Bị bắt thì đừng quên Thường Tung: “Mềm còn, cứng mất”!

                  - Cám ơn cụ.

                  Buổi chiều 8-4-1976, đánh đu với số mệnh và cũng chẳng vất vợ con cho ai, tôi nằm nhà. Và bị bắt. Đúng quẻ Dịch của thầy bói Kim. Đã tin cụ Kim, tôi càng tin mệnh mình vững. Mà nó không vững thì cũng đành như tên một cuốn sách của Dương Nghiễm Mậu: Cũng đành. Tôi lại thở than với Nguyễn Du:

                  Cũng đành nhắm mắt đưa chân
                  Thử xem con tạo xoay vần ra sao
                  .

                  Comment


                  • #10

                    9.

                    Không phải là Ba Trung nữa. Cũng không phải là phòng làm việc của Ba Trung. Tôi đang “đương đầu” với người công an chấp pháp khác. Y nói tiếng Nghệ Tĩnh nặng nề. Trên bàn của y không có cà phê, không có thuốc lá. Những ngày “trăng mật” của tôi và công an chấp pháp, hình như, chấm dứt. Tôi đã đụng độ 4 chấp pháp tại Sở Công An Thành Phố. Người thứ nhất, biểu tượng của miền Nam, chẳng bao giờ muốn bị nhuộm đỏ linh hồn, đã chỉ điểm cho tôi biết chỗ nào là bom, mìn, chông, bẫy trên tử đạo và triết lý sống đời tù cộng sản. Người thứ hai, biểu tượng của nằm vùng láu cá, muốn chứng tỏ mình cao thượng. Người thứ ba, biểu tượng của nền văn nghệ công an. Và người thứ tư. Để xem, y là biểu tượng cái gì.

                    - Anh làm tự khai.

                    - Tôi đã làm.

                    - Tôi bảo anh làm tự khai với tôi.

                    - Khai gì nữa? Tôi đang khai dang dở thì người ta ngừng lại mạn đàm. Tôi muốn coi bản tự khai dang dở để khai tiếp.

                    - Tôi là chấp pháp mới của anh, mọi việc bắt đầu lại.

                    - Nhưng khai gi?

                    - Quá trình, cuộc đời anh từ mười tuổi đến ngày bị bắt. Anh nhập bằng cái sơ yêu lý lịch của anh.

                    Y đem cho tôi 10 tờ giấy khổ giấy in roneo và cây Bic:

                    - Trang nào xóa bỏ, anh không được phép xé, phải nộp đủ mười tờ. Anh nhớ chưa?

                    - Tôi nhớ.

                    - Yêu cầu của tôi là mỗi ngày anh viết 20 trang: sáng 10, chiều 10.

                    - Tôi không phải là máy viết.

                    - Ngày xưa, một ngày anh viết cho mấy nhật báo? Anh tự hào viết nhanh nhất nước mà.

                    - Viết nhanh vì không cần suy nghĩ.

                    - Tự khai không cần suy nghĩ.

                    - Không suy nghĩ là thiếu thành khẩn.

                    Tôi hiểu ngay thủ đoạn của tên chấp pháp này. Y muốn tôi viết nhanh là y đã giăng bẫy. “Chúng ta có nhiều thời giờ”. Tôi nhớ Ba Trung. Và tôi không cần phí lời nữa. Tôi cầm bút, viết “phăng-tê-di” hai chữ Tự khai. Trong hàng chục chữ ghép sau chữ tự như tự do, tự hào, tự lực, tự lập, tự cường, tự chủ, tự vấn … tôi thấy có tự sát là bi đát nhất mà vẫn kém não nùng hơn tự thú, tự kiểm, tự khai. Tự khai – tự thú – tự kiểm. Nhà thơ Paul Éluard đã viết tự do trên lá, trên hoa, trên bảng đen, trong trái tim … Tôi viết tự khai trên cái gì, trong cái gì? Nhà văn chúng ta không bị công sản bắt về các tội hình sự; chúng ta không hề là công cụ của chế độ, của thế lực nào; chúng ta không đảng phải đối nghịch ý thức hệ, tư tưởng; chúng ta đã là những con người của lương tâm. Và thế, hơn cả mọi thứ … giai cấp tù, nhà văn là tù nhân của lương tâm (prisonnier de conscience). Cộng sản bỏ tù cả lương tâm. Họ không có lương tâm, chủ nghĩa của họ không có lương tâm. Họ đã giết chết thi sĩ của tình yêu, của lương tri con người là Vũ Hoàng Chương. Họ đã đầy thi sĩ làm thơ tả giọt nước mắt của người yêu là Thế Viên. Họ đã còng chân xích tay người viết cổ tích là Doãn Quốc Sĩ. Họ đã bắt cả lương tâm phải tự khai để truy nã niềm bí ẩn của lương tâm. Đó là cộng sản. Còn những kẻ không hề bị tự khai, nhưng luôn luôn tự nhận mình ấm áp lương tâm, cũng học đòi phán xét tù nhân của lương tâm. Trên cái gì, trong cái gì, tôi đã viết tự khai? Trên cay đắng phận người và trong cô đơn cõi đời. Trên cái gì, trong cái gì, tôi cần nói, sắp nói, sẽ nói với bọn học đòi phán xét tù nhân của lương tâm? Hãy để câu trả lời đó.

                    Như Tử Trường Tư Mã Thiên ôm nỗi đau dao hoạn hèn mọn. Ôi, 2000 năm cũ, lương tâm kẻ sĩ Tư Mã Thiên lên tiếng – Tiếng nói duy nhất của thời đại – vì nỗi oan khiên của Lý Lăng, của con người. Lương tâm vằng vặc trăng sao ấy đã chịu nhục hình. Bằng hữu Tử Trường đâu, chiến hữu Tử Trường đâu, tri kỷ Tử Trường đâu? Họ đứng trước mặt Tử Trường. Xanh mặt vì sợ bạo quyền, không dám bênh Tử Trường. Run rẩy vì sợ bổng lộc, không dám cứu Tử Trường. Trơ mắt ếch nhìn kẻ sĩ thọ hình nhục nhã. Rồi phán xét mỉa mai: Tại sao chẳng can đảm chết đi, tại sao cam đành bị thiến. Cũng may, Tư Mã Thiên không bị tù, không bị tập trung lao cải. Chứ không sẽ: Thằng Tư Mã Thiên làm ăng-ten, bán bè bạn, quỳ gối bò đi lãnh khẩu phần, xí gạt anh em nửa đêm dậy nấu nước pha cà phê rồi uống một mình, bị chọc thủng một mắt rồi! Vân vân và vân vân … Tư Mã Thiên cô độc, đem tâm sự nói với người xưa. Và cái tồn tại, cái để lại ở cuối đường hệ lụy, cái làm phục sinh sự chết là Sử Ký Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên vĩnh cửu, lúc nào cũng gần gủi con người. Bằng tác phẩm. Bọn phán quan đâu rồi nhỉ? Chúng nó chết rửa xác, chẳng còn ai thèm nhớ, thèm biết chúng nó sau khi chúng nó “phản tỉnh” và đã thực hiện những số báo tưởng niệm, tưởng mộ, đã quyên tiền bỏ túi và tuyên bố giúp vợ con kẻ sĩ tù nhân của lương tâm. 2000 ngàn năm cũ mà ngỡ gần nhau gang tấc. Tự tình khúc của Cao Ba Nhạ có làm xúc động lũ sâu bọ triều đình nhà Nguyễn đâu. Đã hiểu thế thì cũng chẳng cần Tân tự tình khúc mai này. Có lẽ, Ru khúc, Sầu khúc, Tình khúc đẹp hơn. Và, trong khi, ngậm trái đắng để làm gì hơn Sử Ký của Tư Mã Thiên, hãy ngâm thơ Nguyễn Bá Trác: "Chỉ ta ta biết, lòng ta ta hay”. Hoặc cùng bằng hữu ở Paris, đêm đêm, vật ngã vài chai hồng tửu, nghe Quỳnh Dao thở nhẹ:

                    Thôi, đành ru ta với ta
                    bằng xót xa< br />đêm già,
                    ngục đá
                    Rượu mềm môi nuối tiếc kiêu sa phôi pha
                    Ở dĩ vãng hiện về rét mướt phồn hoa…

                    Rồi đọc thơ Nguyễn Bính:

                    Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
                    Ta với nhà ngươi cả tiếng cười

                    Sau cái sơ yếu lý lịch, tôi ngừng lại. Tên chấp pháp – cứ như võ hiệp Kim Dung, chấp pháp, trưởng lão chấp pháp, mã đầu chấp pháp – ngồi hút thuốc, nhìn tôi viết. Y không mời tôi một điếu. Đúng là bản chất vắt chày ra nước của quê hương Hồ Chủ Tịch vĩ đại! Hay y cố tình thay đổi cung cách đối xử?

                    - Tôi nghĩ viết lâu rồi, không thể viết đúng yêu cầu của anh được.

                    - Phải khắc phục mọi khó khăn.

                    - Tôi không biết khắc phục.

                    - Thì tuân hành mệnh lệnh. Anh đọc nội quy chưa?

                    - Tôi đã đọc.

                    Nội quy trại giam, Điều 1: “Can phạm phải triệt để tuân hành chỉ thị và mệnh lệnh của chiến sĩ và cán bộ trong trại giam”.

                    - Vậy tuân hành đi.

                    Tôi tuân hành. Tôi cho chữ bò chậm chạp trên trang giấy. Tôi viết như học trò viết “Ecriture”. Tôi bỏ hàng thừa. Tôi để lề rộng. Đến giờ cơm trưa, chỉ mới được hai trang.

                    - Viết xong 10 trang thì anh về dùng cơm.

                    Y ngồi ì. Tôi ngồi ì. Không phải tôi không viết nổi mà là tôi chán viết. Chắc chắn, tôi tìm cách đổi chấp pháp. Với chúng tôi và với tất cả can phạm phản động hiện hành (những người chống cộng sau 30-4-1975), hễ chấp pháp làm việc không nổi hoặc không đủ khả năng làm việc với can phạm, Phòng Chấp Pháp thay thế công an chấp pháp khác. Can phạm có quyền nói thẳng với chấp pháp: “Tôi không thể làm việc với anh”. Chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng không hề đánh đập, tra tấn nhà văn, nhà báo khi họ bị bắt về bất cứ tội gì. Nhiều can phạm phản động hiện hành bị tra tấn bằng các kiểu còng, khóa ở đề lao Gia Định, bị đánh ở Cục Quân Báo (Tổng Nha Cảnh Sắt cũ) và trại Tô Hiến Thành. Những nhà văn bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976 không hề bị đánh thẩm vấn ở Sở Công An, đề lao Gia Định, không hề bị chửi rủa tàn tệ. Đập bàn, quát tháo là căng nhất. Đưa vào cachot là biện pháp cuối cùng. Nắm được cái thế khỏi sợ ăn đòn, tôi bèn viết hoa lá cành về thời tiểu học. Ba Trung đã ra lệnh cho tôi: “Anh bỏ bớt râu ria thời thơ ấu”. Tôi quên Ba Trung, râu ria với tên chấp pháp Nghệ Tĩnh. Đoạn đời lớp ba ở huyện Phụ Dực, bị ỉa đùn trong lớp, tôi miêu tả kỹ lưỡng. Ông đói, mày cũng đói. Máy thèm ăn chứ ông không thèm ăn. Cơm tù hấp dẫn gì! Đúng năm trang chữ ruồi bò, y bảo tôi:

                    - Nghỉ, chiều viết tiếp.

                    - Chưa đủ 10 trang.

                    - Tôi bảo nghỉ!

                    - Tôi sợ buổi chiều không đủ 20 trang.

                    - Tôi bảo nghỉ. Đó là mệnh lệnh!

                    Bao tử của y chỉ thị y ban mệnh lệnh. Ăn cơm tập thể mà trễ bữa thì chỉ còn vét đĩa. Đã có ý đồ, tôi năn nỉ y:

                    - Tôi đang hăng say viết.

                    - Nghỉ!

                    Y dằng bút khỏi tay tôi. Rồi y kêu quản giáo dẫn tôi về phòng. Buổi chiều, y theo quản giáo đến tận phòng đón tôi ra làm việc. Cũng như buổi sáng, y ngồi hút thuốc, không thèm mời tôi. Tiếp tục quãng đời thơ ấu, tôi sang trang thứ sáu. Vẫn cung cách lề rộng, hàng thưa, chữ ruồi bò, tôi viết tự khai, viết những gì mà Ba Trung bắt tôi viết. Người chấp pháp miền Nam đã dặn dò tôi: “Anh sẽ phải làm tự khai nhiều lần. Vậy, khi viết phải sáng suốt mà nhớ những gì mình đã viết”. Tôi rất sáng suốt, lúc này, lúc mà tôi viết những gì tôi đã viết theo lệnh của Ba Trung. Được thêm hai trang, chấp pháp xứ Nghệ ra lệnh nghỉ. Y nhìn tôi, cười ruồi, gật gù:

                    - Anh thèm hút một điếu thuốc không?

                    Tôi có thói quen hễ viết là phải hút thuốc lá. Và hút liên miên. Ở nhà tù cộng sản, khi công an gọi ra làm việc, tù nhân không được phép mang theo thuốc lá và không được phép hút nếu công an không cho phép. Gã chấp pháp xứ Nghệ đã nghiên cứu kỹ lưỡng thói quen của tôi, y bắt tôi thèm hút để ban phát một ân huệ này, y sẽ đánh giá chúng tôi như những tên hèn mọn. Tôi chưa kịp trả lời, y nói tiếp:

                    - Anh Nguyễn Mạnh Côn rất chân thật. Anh ta thèm hút thuốc phiện, chúng tôi đem bàn đèn vào cho anh ta hút.

                    Tôi lặng thinh. Gã công an xứ Nghệ đã móc gói thuốc lá khỏi túi, đặt giữa bàn với hộp diêm Thống Nhất.

                    - Anh Côn viết tự khai thành khẩn lắm. Có đoạn anh ta chạy tội là đã không huấn luyện Hoàng Anh Tuấn, Nhã Ca và anh chống cộng sản. Các nhà văn trẻ của Sàigòn đã phản bội Nguyễn Mạnh Côn, phản thầy, chống cộng sản.

                    Tôi bắt đầu khó chịu.

                    - Anh Côn khai hết những điều không lấy gì làm đẹp đẽ về bản thân anh và nhiều người khác.

                    Tôi chợt nhớ thủ đoạn gây mâu thuẫn của công sản mà tôi đã đọc trong cuốn sách nào. Sự khó chịu sơ khởi dành cho anh Côn bỗng tiêu tan ngay. Người ta đã chọn anh Nguyễn Mạnh Côn là người quen tôi nhất để tạo niềm thù hận giữa tôi và anh Côn. Và tôi sẽ không ngần ngại trả đũa anh Côn. Và người ta sẽ nắm vững những gì anh Côn muốn dấu diếm. Đem bàn đèn vào nhà tù cho tù nhân hút thuốc phiện là điều không tưởng. Và nữa, chưa từng bao giờ anh Côn huấn luyện chúng tôi viết văn và chống cộng sản. Gã công an xứ Nghệ dừng ở đó. Y nhắc lại câu hỏi:

                    - Anh thèm hút một điếu thuốc không?

                    - Không. Tôi đáp.

                    - Hút đi, tôi chiêu đãi anh.

                    Y cầm gói thuốc lên:

                    - Tại sao anh khước từ?

                    Tôi mỉm cười:

                    - Vì tôi không thèm.

                    - Tại sao anh không thèm?

                    - Tôi đang được Đảng giáo dục. Thưa anh, bài học tập đầu tiên của tôi là khắc phuc mọi thèm muốn.

                    - Tốt.

                    Y bỏ gói thuốc vào túi.

                    - Chúng ta mạn đàm thân mật nhé?

                    Tôi nói:

                    - Tùy ý anh.

                    Y tỏ vẻ bực tức một cách rất … chân tình:

                    - Tại sao tùy ý tôi?

                    Tôi cũng tỏ ra rất chân tình:

                    - Anh Ba Trung khẳng định chúng tôi đang ở tù. Ở tù thì không được phép tùy ý mình.

                    Y cười:

                    - Anh ở tù với Đảng, với Cách Mạng, không ở tù vì tôi, với tôi. Đồng chí Ba Trung hơi lệch lạc tư tưởng. Bỏ cái hiện tại ở tù của anh đi, anh Duyên Anh. Ta nói chuyện khác.

                    Y chuyển đòn:

                    - Tôi đã đọc anh, đọc thật kỹ. Anh kiêu ngạo lắm. Viết phóng sự nguyền rủa cộng sản và bêu rếu lãnh tụ của chúng tôi, anh bảo anh viết bằng chân. Viết tiểu thuyết nham nhở, anh bảo anh viết bằng tay trái. Viết truyện trẻ con, anh bảo anh viết bằng tay phải. Viết tự khai, anh viết bằng gì?

                    Gã công an chấp pháp xứ Nghệ dồn tôi vào thế bí. Tôi trả lời thế nào? Nếu hôm nay, ngồi ở quán Đào Viên số 82 Rue Beaudricourt quận 13, Paris của người đẹp Lan Phương, bất cứ một thằng cộng sản nào hỏi câu tương tự, tôi sẽ đầy đủ can đảm và dũng cảm trả lời: “Tôi viết tự khai bằng củ cà-rốt của tôi”! Nhưng tháng 5 năm 1976, tôi nằm bẹp trong xà lim của Sở Công An Nội Chính, sự cao ngao của tôi mềm xìu. Tôi đã hèn mọn, tầm thường. Và tôi buồn bã nói:

                    - Anh hiểu tôi khó trả lời, hỏi mà chi?

                    - Hỏi để biết mà đánh giá tự khai của anh.

                    Gã chấp pháp xứ Nghệ xua tay:

                    - Thôi, anh đừng trả lời câu hỏi ấy nữa. Tôi trấn áp anh, tôi nhận khuyết điểm.

                    Nhìn tôi. Cái vẽ hãm tài trên khuôn mặt buổi sáng của y biến mất. Như thể, y đã lột mặt. Giọng nói của y, tuy trọ trẹ, mà đầy tình cảm:

                    - Anh Duyên Anh ạ, tôi vẫn còn ấm ức truyện dài mang tính cách tự thuật Trái chín rấm của anh.

                    Tôi chột dạ. Thằng này đọc tôi kỹ quá.

                    - Tôi cho sau Con sáo của em tôi, Cái diều, Nắng chiều quê nội, Đại dương trong lòng con ốc nhỏ là những kế tiếp xem TRÁI CHÍN RẤM có ngọt ngon bằng trái chín cây. Tại sao anh không viết thêm?

                    - Vì nó không thể chín.

                    - Nói thật đi, vì anh lấy vợ địa chủ và anh quên giai cấp của anh. Tôi biết, thằng Hữu sẽ đưa con Mai, em gái nó, vào đời khi bố mẹ nó chết. Anh em nó sẽ ê chề trong đời sống tư sản mà ông chú Nghiêm của nó là biểu tượng khốn kiếp. Cuối cùng, sẽ giống thằng Vọng, Hữu sẽ đi tìm cách mạng. Anh sẽ hơn mọi nhà văn cách mạng nếu dòng văn chương của anh không bị cắt đứt bởi giai cấp cố hữu của anh. Bản chất của anh là vô sản. Chưa muộn gì đối với anh. Anh có thể trở về sông Trà Lý. Xa dòng sông tình nghĩa ấy, anh phiêu lưu quá đà. Anh viết truyện Chiến tranh mèo chuột rồi đổi thành Rồi hết chiến tranh, anh phản bội giai cấp đích thực của anh, anh gọi giai cấp vô sản là chuột, mỉa mai cách mạng vô sản là thiếu chính nghĩa và tạo chính nghĩa cho bù nhìn mèo và thực dân phú ông. Anh nghĩ Đảng không quan tâm vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ bắt cái bộ Dân Vận của ngụy quyền cấm anh viết phóng sự Tiền Mẽo, Sến Việt và ký Thương Sinh trên nhật báo Sống à? Anh bơ vơ, anh lạc lõng, anh tự nhận “Cộng sản không tha, quốc gia không dung”. Cộng sản nào không tha anh? Cộng sản dung anh. Anh về suy nghĩ đi …

                    Gã chấp pháp xứ Nghệ dẫn tôi về phòng. Y đã chơi tôi một đòn cân não, khiến tôi thao thức không ngủ suốt đêm. Y biết tôi nhiều mà tôi hoàn toàn không biết y. Cũng như những người đã chống cộng, đang chống cộng ầm ỹ chẳng hề biết tí ti gì về Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mãi mãi, người ta đánh giá cộng sản qua mấy chú bộ đội khờ khạo, nói ngọng. Con đường tù, con đường hệ lụy, xem chừng, còn hứa hẹn thật dài. Dương Nghiễm Mẫu đã dọn sẵn 12 năm. Tác giả Cũng đành không thích đếm những ngày tù, tháng tù. Tôi yêu Dương Nghiễm Mậu. Và tôi nói Dương Nghiễm Mẫu là nhà văn tôi yêu nhất. Cộng sản biết tôi nhiều hơn tôi biết tôi.

                    Ít độc giả thân mến nào của tôi nhắc tới truyện dài TRÁI CHÍN RẤM mà Con sáo của em tôi là chương nhất. Truyện dài này mang nhiều dáng dấp tự truyện. Tôi chỉ muốn diễn tả lòng hy sinh cao quý của người anh dành cho em gái. Hữu sẽ đưa em vào đời. Nó quên cả xuân đời của nó. Nó chịu đựng mọi đau đớn, moi nghịch cảnh. Khi tận mắt chứng kiến hạnh phúc của em, Hữu mới nghĩ đến mình. Thì nó đã héo hắt. Đã cuối thu. Sở dĩ tôi bỏ rơi TRÁI CHÍN RẤM vì không thể kéo dài một điệu buồn bã mấy trăm trang sách. Gã chấp pháp xứ Nghệ đã đổ vạ vợ tôi làm tôi quên giai cấp vô sản. Tôi đã chống đối sự quy định giai cấp cho con người. Nhưng tôi không hiểu tại sao cộng sản cứ muốn tôi xác nhận tôi thuộc gia cấp vô sản. Cộng sản bảo dung tôi và cộng sản bắt tôi, giam nhốt tôi nhục nhã. Và họ bảo tôi về suy nghĩ.

                    Không bao giờ tôi còn được gặp người chấp pháp xứ Nghệ nữa. Y lại bỏ rơi tôi. Cho đến một buổi chiều cuối tháng 6 năm 1976, cai ngục mở của với tờ danh sách can phạm đánh máy.

                    - Những người có tên sau đây…

                    Phòng B của tôi, lần lượt Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Hồng Dương, Đặng Hải Sơn và tôi, hành trang tù, rời khỏi phòng. Chúng tôi xếp hàng đôi với nhiều can phạm khác của các phòng. Ngồi xuống theo mệnh lệnh, chúng tôi chờ đợi. Chưa hiểu thân phận mình sẽ trôi dạt tới cái địa chỉ khốn kiếp nào của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, vừa mới thành công vĩ đại bầu cử quốc hội cả nước. Tôi, thật sự, mất hết từ đêm 8-4-1976. Tôi còn gì bây giờ nhỉ? Còn chứ, tôi an ủi tôi: Ta còn nhà tù!

                    - Mình đi đâu, Mậu?

                    - Có lẽ về đề lao Gia Định hoặc sang Chí Hòa. Đi đâu thì cũng là đi tù, ông ạ!

                    Bốn giờ, chúng tôi nghe cai ngục đọc danh sách lần chót. Rồi đứng dậy, hai người một cái còng nhãn hiệu USA, cộng sản còng tay chúng tôi, đẩy chúng tôi lên xe bít bùng. Tôi nhớ, năm 20 tuổi, xem một cuốn phim nhan đề “Ma vie commence en Malaisie”. Cuốn phim mô tả thân phận một phụ nữ Anh trong lửa đạn và sự chiếm đóng của Nhật ở Mã Lai. Người ta thường bắt đầu cuộc sống đích thực bằng nỗi khổ đích thực. Dường như, chỉ bằng nỗi khổ mà con người kinh quá, nó mới khám phá nổi những bí ẩn của đời sống và biết bắt đầu cuộc sống của mình tự đoạn nào. Một hôm, tôi gặp Bùi Duy Tâm ở ngã tư Phan Đình Phùng – Trương Minh Giảng, Sàigòn. Anh ta vừa từ trại cải tạo ra. Anh ta nói với tôi: “Bây giờ, chúng ta nhìn rõ cả trái đất. Song tới phút này thì cũng đáng kể là tới.” Định mệnh đưa tôi đi xa hơn cái tới đáng kể của bạn tôi. Tôi bị còng tay dẫn vào Sở Công An. Ngót hai tháng trời nằm đây, tôi đã tra vấn tôi không ngừng. Tôi được thảnh thơi nhìn lại 15 năm viết tiểu thuyết của tôi. Chữ nghĩa của tôi đã không làm tôi xấu hổ. Chỉ có niềm ân hận là tôi chưa xuất bản bộ truyện 1200 trang Vẻ buồn tỉnh lỵ. Cuốn cuối cùng của bộ truyện vẽ cảnh đời đau đớn, ngơ ngác 1954, y hệt cảnh đời bi đát, não nề 1975. Toàn bộ của nó là lịch sử 10 năm (1944 – 1954) dưới mắt và trong ý nghĩa tuổi thơ trôi nổi theo vận mệnh dân tộc. Cách mạng và chiến tranh. Hòa bình và thù hận. Mỗi đổ vỡ đều có thể xây dựng lại, trừ nỗi băng hoại tình người. Tôi rất tiếc đã mất cơ hội trở thành nhà văn tiên tri. “Nếu cần thì ta làm lại tất cả”. Từ tra vấn trong cô đơn, tôi chợt thấy tâm hồn tôi có một chuyển mùa kỳ lạ. Và tôi bỗng thèm sống, khao khát sống. Tôi muốn bắt đầu cuộc sống của tôi ở Một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Cuộc phiêu lưu đi tìm ý nghĩa cho đời sống của tôi còn dài, vô hạn định. Nỗi thống khổ đầu tay của tôi là một thử thách nhẹ so với nỗi thống khổ của các văn hào thế giới. Nỗi thống khổ mà các nhà văn lừng lẫy của nhân loại đã trực diện, đã đương đầu, đã kiên nhẫn chịu đựng, đã phấn đấu im lặng ví như trái núi. Nỗi thống khổ tôi đang ngậm chỉ là cái móng tay. Cái móng tay chớ vội ồn ào khi trái núi nín thinh, bình thản liếm máu trên vết thương của mình mà cống hiến cho đời sống những ý nghĩa tuyệt với về tình yêu và hạnh phúc.

                    Trước đây, tuyệt nhiên tôi không có tham vọng văn chương. Hoặc nếu người ta bắt tôi phải công nhận tôi có tham vọng văn chương thì tham vọng văn chương ấy là thứ tham vọng giới hạn bằng vong đai biên giới quốc gia. Lúc này, lúc tay tôi đang đeo còng chế tạo tại USA, tham vọng văn chương của tôi cuồn cuộn, sóng gió, bão táp. Tôi thèm trả lời người cộng sản một câu nói đầy miệt thị “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh”! Phải, thế giới chưa hề biết chúng tôi như những nhà văn rực rỡ nhân bản. Thế giới chỉ biết chúng tôi, chỉ nghĩ về chúng tôi như Nguyễn Ngọc Nghĩa ăn cắp tượng Chàm, như Phạm Văn Đổng mở sòng bạc, chứa thổ đổ hồ, như Hoàng Đức Nhã ngu si, nham nhở, như Nguyễn Văn Thiệu hèn mọn, như Đặng Văn Quang đốn mạt và bầy chồn cáo tham nhũng, lũ tướng lãnh đào ngũ trước lệnh đầu hàng, như bọn y sĩ ăn cắp… Thế giới, đáng lẽ, phải biết Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Hải Chí, Cung Tiến, Phạm Duy, Thanh Tâm Tuyền, Võ Hồng, Doãn Quốc Sĩ, Hoàng Anh Tuấn, Phạm Thiên Thư… Nhưng, với thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ say mê “Cô Gái Đồ Long”, với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu say mê “Căn nhà ngoại ô”, với Bộ trưởng Ngô Khắc Tỉnh mê hái hoa và vì mê gái chạy trốn không kịp, thế giới, hôm nay, vẫn tưởng miền Năm không có nhà văn lỗi lạc như miền Bắc. Miền Nam chỉ biết làm chiến tranh, làm giàu, không biết làm văn học nghệ thuật đúng nghĩa!

                    Tôi đã leo lên xe. Chúng tôi đã leo lên xe. Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy. Tấm vải bố trùm kín mít. Xe nổ máy. Rồi lăn bánh. Giã từ Sở Công An, giã từ một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Tôi đi tới một địa chỉ khác. Giã từ và cám ơn những cay đắng, nghẹn ngào vỡ lòng. Cám ơn nó đã cho tôi bắt đầu cuộc sống và tham vọng văn chương.

                    4-1985

                    Comment


                    • #11
                      Phần thứ hai

                      THỐNG KHỔ
                      NHẬP MÔN
                      (Đề Lao Gia Định)
                      10.

                      Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy đổ chúng tôi xuống một địa chỉ mới. Địa chỉ mới, với tôi. Với dân tộc tôi thì nó đã quen thuộc đến cũ mèm. Số 4 đường Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, là địa chỉ mới ấy. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, không ai cần biết số 4 đường Chi Lăng, tỉnh Gia Định. Những kẻ biết nó đều bất hạnh. Vì nó khoác cái nhãn hiệu hãi hùng: Đề lao Gia Định. Cũ hơn cả Nha Cảnh Sát Đô Thành, đề lao Gia Định do thực dân Pháp xây dựng. Nó nằm giữa Tòa án Gia Định và Tòa Tỉnh trưởng Gia Định. Nhà tù luôn luôn sát khít tòa án. Hình phạt và công lý gắn bó nhau. Ông Ngô Đình Diệm làm cách mạng nhân vị, ông ta chỉ xoá tên… phế đế Bảo Đại. Đề lao Gia Định vẫn còn nguyên. Và cách mang nhân vị của ông ta dùng đề lao Gia Định giam nhốt những người đối lập chế độ nhân vị. Cơ chừng nhân và vị đã nặng mùi, từ đó. Trong sự nghiệp khai phóng tự do, dân chủ của Hoa Kỳ, người Mỹ ít quan tâm tới đề lao Gia Định. Bằng tinh hoa kiến trúc Hiệp Chủng Quốc, họ đã tặng Việt Nam Cộng Hòa hai nhà tù thật hiện đại, thật tư bản. Để nhốt và khai thác Việt Nam cộng sản. Ở Tô Hiến Thành. Đôi mắt chú Sam đã nhắm tít khi ngang qua đề lao Gia Định. Do đó, đề lao không được hưởng văn minh và tự do Hoa Kỳ. Nó bệ rạc cả nội dung lẫn hình thức. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cách mạng vô sản tiếp quản đề lao. Rồi, vì Chi Lăng đổi tên Phan Đăng Lưu, dân chúng tự ý đổi tên đề lao Gia Định thành nhà tù Phan Đăng Lưu, mặc dù, nhà nước cộng sản ghi rõ trên văn thư là Trại T-20. Vị anh hùng giai cấp Phan Đăng Lưu đã được phục sinh như một cai ngục vĩ đại của một nhà tù mà cổng treo tấm bảng nền vàng chữ đỏ: Không có gì quý hơn độc lập tự do! Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh chỉ sáng nghĩa và sáng giá khi con người vào tù bởi độc lập, tự do. Và con người phải chui qua cái cổng, chui dưới tấm bảng nền vàng chữ đỏ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Dân tộc Việt Nam đã loay hoay với độc lập, tự do ngót nửa thế kỷ. Chúng ta loay hoay giành độc lập, tự do giữa chúng ta. Rốt cuộc, mãi mãi, chúng ta ngậm ngùi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người Việt Nam đã nhân danh cái của thiên hạ mà tàn sát nhau. Chưa ai chịu truy nã phận mình. Chúng ta điên rồ trong trò chơi của ý thức hệ. Và tàn cuộc, chúng ta hành hạ lẫn nhau. Chưa đủ, chúng ta thù hận nhau, chém giết nhau. Khi ấy, cánh đồng mầu mỡ quê hương, cỏ dại nhiều hơn lúa.

                      Bạn biết chợ Bà Chiểu chứ? Đằng sau Lăng Ông ấy mà! Bên đây đường, cổng đề lao. Bên kia, hông chợ. Biên giới của tự do và tù đầy ngắn ngủn. Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy qua cổng chính. Cổng khép kín ngay. Xe ngừng lại. Tấm vải bố kéo lên. Chúng tôi, hai người chung một chiếc còng tay, nhảy xuống đất. Người ta mở cổng và lùa chúng tôi vào sân trong kín đáo. Buổi chiều hôm ấy không có nắng. Trời âm u. Chúng tôi ngồi trong sân thứ hai. Chúng tôi đi đứng tự do ở cái sân nhỏ, chung quanh tường cao giăng giây kẽm gai ngọn đỉnh. Một bạn tù vỗ vai tôi:

                      - Duyên Anh.

                      Tôi nhận không ra.

                      - Thế Viên đây mà.

                      Thế Viên, trời ơi, tác giả thi phẩm ướt tình Người yêu tôi khóc, giáo sư văn chương của trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho! Năm nào, anh đã giới thiệu tôi với cử tọa buổi diễn thuyết của tôi ở trường Gioan 23, Định Tường. Sau đó, chúng tôi sang Cồn Phụng, thăm ông Đạo Dừa. Thế Viên có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt thật thi sĩ. Anh chưa từng chống cộng sản. Một nhà giáo tận tâm, một thi sĩ lãng mạn, suốt đời ca ngợi tình yêu, tại sao anh vào tù?

                      - Hệ lụy, anh Duyên Anh à!

                      Thế Viên đã về Nhà Trang, dạy ở đó cho đến đại nạn hồng kỳ. Là giáo chức, không một ngày quân trường, anh chỉ bị học tập tại nhiệm sở của anh vài tuần và tiếp tục nghề nghiệp theo giáo trình, giáo án của chế độ mới. Tháng 4-1976, anh vô Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm trưa với Sĩ. Đáng lẽ, Thế Viên về sớm là thoát nạn. Định mệnh của anh nằm trong sự quyến luyến của Doãn Quốc Sĩ. Sĩ đã lưu bạn hiền uống cà phê, kéo dài những phút hàn huyên. Tác giả Dòng sông định mệnh đâu biết người ta đã bủa lưới vây bắt anh. Công an ập vào căn nhà trong căn hẽm dài đuờng Thành Thái. Người ta còng tay Doãn Quốc Sĩ. Người ta đọc lệnh bắt anh. Tác giả Đoàn người hóa khỉ đã tận mắt nhìn người hóa khỉ. Thế Viên dính lưới một cách oan uổng. Không hề có lệnh bắt anh. Anh không được Trần Bạch Đằng chiếu cố. Trần Bạch Đằng vẫn chưa cho anh “một chỗ đất sống dưới ánh mắt trời”. Những tên công an nằm vùng, gã sinh viên đại học Vạn Hạnh, học trò cũ của Thế Viên, đã đích thân còng tay thầy của nó và đưa thầy nó vào cuộc phiêu lưu ê chề, nhục nhã. Nó gặp thầy, không nghiên mình như Carnot, mà bắt thầy nó đứng nghiêm. Và nó bảo thấy nó can tội thi sĩ phản động!

                      Tên sinh viên đại học nằm vùng này không phải là tên cộng sản mầm non học thói Đặng Trần Thường thứ nhất và duy nhất. Trước nó cả ba chục năm, nhà văn Lan Khai, tác giả Cái hột mận, Ai lên phố cát, đã bị học trò bỏ vào rọ tre, đeo đá nặng và thả xuống sống chết sặc sụa. Thế Viên may mắn hơn Lan Khai, Khái Hưng. Anh không bị đếm tung từng chết trầm. Anh chỉ bị học trò bắt đi… học tập. Người cộng sản sẽ trả lời thế nào về tình nghĩa, về đạo đức, về phẩm cách qua sự việc bắt nhốt Thế Viên? Bản chất của công sản là phản bội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thủ tiêu bao nhiều bằng hữu, bao nhiêu đồng chí sáng giá hơn mình? Chúng ta chưa có bằng chứng cụ thể. Bằng chứng cụ thể là thi sĩ Thế Viên được học trò cộng sản đền ơn bằng còng, xích và ngục tù. Những anh cộng sản làm dáng ở Paris, ở Bonn, ở Amsterdam, ở Londres, ở Washington, có gợn chút ưu tư? Sự mỉa mai không dành cho những anh tập sự phản bội, tập sự dẫm nát tình nghĩa. Mà, hơi buồn, lại phải dành ưu tiên cho ông nhà văn Kẻ Tà Giáo. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo là con rể ông Trương Gia Kỳ Sanh, là em rể tên cộng sản khát máu Trần Bạch Đằng. Cả nước đều rõ. Trần Bạch Đằng tuyên bố: “Bọn văn nghệ Sàigòn không có đất sống dưới ánh mắt trời”. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo tham dự phiên họp đầu tiên của Hội Văn Nghệ Giải Phóng. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo được Trần Bạch Đằng cài đi nằm vùng ở Tin Sáng của bọn Ngô Công Đức, đi Bắc về Nam. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo sang Mỹ dẫn lời Bertol Bretch: “Buồn cho thời đại, nói chuyện với cỏ cây cũng là một tội lỗi”. Nhiều người biết. Nhiều báo đăng. Chúng ta khó chịu cái thái độ bất lương trí thức của ông nhà văn với. Người nên nói lời của Bertol Bretch chỉ là Vũ Hoàng Chương, là Thế Viên. Những kẻ nhởn nhơ công tác theo chị thỉ của Trần Bạch Đằng, một giai đoạn nào đó, trong khi, các thi sĩ “nói chuyện với cỏ cây” chết rũ trong tù là những kẻ không được tha thứ. Song, người “quốc gia” vốn rộng lượng. Và những kẻ đã cộng tác với kẻ thù của họ, vẫn ngông nghênh, vẫn mục hạ vô nhân, tưởng thiên hạ mù và câm hết, ong óng một giọng bịp bợm rẻ tiền: “Tôi không nuôi một ảo tưởng nào. Và điều mong ước dĩ nhiên của tôi là tiếp tục dùng ngòi bút để phục vụ người Việt đang định cư ở hải ngoại”. Nuôi ảo tưởng nào cho một giai đoạn nào? Nước Mỹ không có Trần Bạch Đằng, sẽ có ai? Đó là ưu tư của người “quốc gia”, nếu họ còn chống cộng và còn tham vọng giải thoát quê hương. César nói: “Kẻ thù có thể tha thứ, kẻ phản bội phải ném vào chuồng cọp”. Những kẻ phản bội, những tên ở lại, đã xách súng lùa anh em đi họp chào mừng cộng sản, đã viết báo cộng sản, đã làm việc với công sản và đã vượt biên bằng thuyền và bằng máy bay sang Mỹ, sang Pháp. Bằng chứng rành rành, đọc tên đứa nào, đứa nấy cúi mặt câm nín. Thì vẫn công khai múa mép và múa bút. Thì vẫn được hoan nghênh như chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ. Và nạn nhân của chúng nó thì bị vùi dập tơi bời, bị dồn vào cuối đường cô đơn, tuyệt vọng. Người “quốc gia” còn một hạng, mà dưới mắt và trong ý nghĩ đốn mạt của nó, ai cũng là cộng sản, nếu đã nằm tù cộng sản và nếu trốn khỏi đất nước muộn màng. Cái hạng chống cộng bằng sách vở này, chưa một phút nhìn giép râu dẫm trên đường phố Sàigòn, chưa một giây nếm nổi chua xót của tổ quốc, quá khích đến tội nghiệp. Có lẽ, sự cường điệu quốc gia chỉ nhằm khoả lấp một co cẳng chạy dài, vất lại một quá khứ bần tiện.

                      - Gia đình tôi chưa biết tôi ở tù. Thế Viên buồn bã nói.

                      - Họ đã cho viết thư mà. Tôi nói.

                      - Tôi đã viết hai lần. Không thấy gia đình trả lời, không có ai gửi quần áo, thuốc men, tiền bạc.

                      - Anh còn tiền không?

                      - Còn. Tôi đăng ký mấy chục.

                      Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ngồi yên lặng. Tôi nhìn sang phía Thế Viên, thi sĩ của tình yêu. Người yêu của anh, những người yêu của anh còn khóc? Tại sao người ta không bắt chủ nhiệm nhật báo Xây dựng, nhật báo Tự Do chống cộng khét lẹt? Tại sao người ta không bắt Thanh Lãng? Câu trả lời có phần lợi cho sự “ân trả oán đền” của cộng sản. Linh muc Nguyễn Quang Lãm đã lôi Thái Bạch ra khỏi Tổng nha Cảnh Sát quốc gia và bảo đảm hành vi “nằm vùng “ của nó. Linh mục Thanh Lãng đã xin ông Nguyễn Văn Thiệu thả Vũ Hạnh và cho nó một chỗ ngồi ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam. Ban chấp hành Văn Bút bình yên. Thế Viên không chống ai thì lận đận. Chắc chắn, anh đã không thích May cờ giống thi sĩ Tướng Lĩnh, không thích Ngày mai giống thi sĩ Hoàng Trúc Ly gửi đăng Sàigòn giải phóng vội vàng. Anh cũng không thích giống văn sĩ Lan Đình, tuyết hận Nguyễn Mạnh Côn chê Từ hôm khởi chiến của mình, bị loại ra giải văn học tổng thống bằng loạt bài Thâm cung bí sử trên Tin Sáng. Anh ngồi chồm hổm, thi sĩ của chúng ta. Nông dân Moritz của Giờ thứ hai mươi lăm chỉ vì trời mưa, chỉ vì vợ đẹp mà lưu lạc mấy chục nhà tù phát xít, đồng minh. Thi sĩ Thế Viên chỉ vì ly cà phê hàn huyên, chỉ vì Người yêu tôi khóc mà đã lưu lạc hai nhà tù cách mạng. Tôi đi tù không oan uổng. Sự hèn mọn của công sản ở đó, và từ đó, loài người có thể phán xét công lý cộng sản.

                      Chúng tôi bị phân thành ba nhóm. Ba tên công an chức sắc của đề lao Gia Định xuất hiện. Họ ngó chúng tôi như lái buôn nô lệ chọn người. Cười nói một lúc, họ thỏa thuận, mỗi tên nhận một nhóm. Nhóm của tôi vào sau cùng. Chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hữu Hiệu và tôi, được đưa vào khu C-1. Dương Nghiễm Mậu, Đặng Hải Sơn, Thế Viên đến khu khác. Đề lao Gia Định, thời Pháp đô hộ có mỗi khu A. Khu A cũ kỹ, ẩm thấp, nhưng đầy đủ “tiện nghi”. Người Pháp lập một thư viện nhỏ, tràn ngập tiểu thuyết trinh thám, gián điệp. Sang thời cách mạng nhân vị, ông Ngô Đình Diệm trùng tu khu A và cất thêm khu B mái phẳng xi-măng cốt sắt. Qua cách mạng vô sản thống nhất cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây liền một mạch hai khu C-1, C-2. C-1 và C-2 mỗi khu có 7 phòng và 12 cachots. Cachot hay biệt giam đối diện phòng giam tập thể. Biệt giam khu A có phòng nhốt bốn, năm tù nhân, còng tay, xích chân dính chùm 1. Trưởng khu C-1, bí danh Sáu Cầu, người Quảng Ngãi. Ông ta bảo chúng tôi đứng xếp hàng. Một công an quản giáo dở sổ ghi tên tù nhân mới nhập trại. Sau này, tôi biết tên hắn là Hùng, dân Củ Chi “thành đồng cách mạng”. Tù nhân tặng hắn biệt danh Hùng kẽm gai.

                      Hồng Dương rất thông minh. Anh ta kéo tôi đứng cuối cùng hàng. Để có thể biết anh em ai vào phòng nào. Nguyễn Hữu Hiệu vô phòng 3 C-1. Hồng Dương đã xong thủ tục. Tôi là kẻ cuối cùng. Khám xét hành lý của tôi hồi lâu, gã quản giáo cật vấn lý lịch:

                      - Họ và tên?

                      - Vũ Mộng Long.

                      - Bí danh?

                      - Không có.

                      - Nghề gì?

                      - Viết văn.

                      - Viết tiểu thuyết ba xu hả?

                      - Phải

                      - Bút hiệu?

                      - Duyên Anh.

                      - A, Duyên Anh viết Điệu ru nước mắt.

                      Sau khi ghi lý lịch của tôi vào sổ tù, sổ đoạn trường, gã quản giáo hỏi tôi:

                      - Tại sao anh viết Điệu ru nước mắt?

                      Tôi đáp:

                      - Tôi sẽ trả lời với cán bố chấp pháp.

                      Có nghĩa rằng, cai ngục, anh không có quyền thẩm vấn tôi. Gã quản giáo cay cú. Hắn cũng là tên nằm vùng. Tôi hiểu hắn đã đánh dấu tôi. Đó là điều dại dột, là sự lãng quên lời dặn “Chớ dại chết ở cái lỗ chân trâu”.

                      - Anh đã viết Kẻ bị xóa tên trong sổ bụi đời?

                      - Phải.

                      - Bao giờ anh viết Kẻ được xóa tên trong sổ tù?

                      Hắn không cho tôi trả lời, vẫy tay xua tôi ra chỗ Hồng Dương. Một tên cai ngục dẫn tôi đến phòng cuối dãy. Chúng tôi vào phòng 6 C-1. Ở đây, tôi gặp lại các anh em của tôi: Thanh Thương Hoàng, Chóe, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn.

                      Như tất cả các phòng giam tập thể của C-1 và C-2, 6 C-1 của tôi thấp lè tè, lợp tôn. Nó dài tám thước, rộng bốn thước. Hồ nước, cầu tiêu ở trong đó luôn. Người ta xây bục xi măng cao khỏi nền đất hai gang tay làm bục ngủ. Có một miếng trống, thấp gần cửa để chia cơm nước. Trần phòng là những thanh xà mười tròn, chồng lên nhau thành hình vuông, đầu người chui không lọt. Chẳng hề có cửa sổ, cửa gió. Chúng tôi tiếp dưỡng khí qua ô nhỏ vừa bằng cuốn sách bỏ túi trổ giữa cửa sắt. Trưởng phòng và Trật tự viên dùng dây đo lại toàn phòng để chia chỗ nằm đồng đều cho tù nhân. Khi phòng đã chật, thêm tù nhân mới là một sự vất vả. Chia chỗ thường dẫn đến gây gỗ, mỗi tù nhân bị bớt một chút xíu chiều rộng. Cuộc chia chỗ kéo dài nửa tiếng, tôi được đúng hai gang tay chiều rộng. Bằng hai gang đo này, tôi chỉ có thể nằm nghiêng hay nằm ngửa, đặt đôi tay lên bụng, không nhúc nhíc. Hành lý của tù nhân được treo lên những thanh sắt trần sát tường. Tù nhân có, ít nhất, một cái bị cói và một cái giỏ plastic. Bị đựng kẹo, bánh, đường, bột, mì vụn, thuốc lá, thuốc cảm sốt và quần áo. Giỏ đựng chén, muỗng, nước mắm, thức ăn mặn. Tất cả bằng nhựa. Mọi đồ kim khí bị nghiêm cấm. 6 C-1 thêm Hồng Dươngng và tôi, là 52 người. 52 người chiếm một diện tích 32 thước vuông tính cả cầu tiêu, hồ nước, sàn tắm, chỗ chia cơm nước.

                      Xong thủ tục nhập phòng và sau bữa cơm chiều vội vã, tôi có dịp tìm hiểu phòng 6 C-1. Trưởng phòng, thiếu tá cảnh sát đặc biệt Lâm Văn Thế, ngoài 50 tuổi, điềm đạm, nhẫn nhục. Ông Thế thuộc thế hệ kháng chiến Nam Bộ. Năm 1954, thay vì xuống Cà Mau ra Bắc tập kết, ông ta đã ngược lên Sa Huỳnh. Nửa đường, ông ta bỏ về. Rồi ông cộng tác với cảnh sát quốc gia, tự học thi đậu tú tài, tự học Anh ngữ. Trong tù, ông ta học chữ Nho bằng phấn viết trên bục xi măng với ông hiệu trưởng trường Tàu. Phấn bị cấm, ông nhúng ngón tay vào ca nước mà học. Ông Thế bị bắt ngay đêm 30-4-75 tại nhà. Trật tự viên, Dzũng quan tài, một du đãng trẻ, lừng danh sau vụ cướp súng của bộ đội, bắn nhau với công an, bị bắn què cẳng và bị đánh gãy răng. Thư ký phòng là nghị viên hàng tỉnh Nguyễn Tấn Lợi. Đó là ba chức sắc của phòng 6 C-1. Ngoài ra, phòng 6 tập hợp đủ thành phần: Tư sản mại bản Chợ Lớn, phản động trẻ tuổi, đầu trộm đuôi cướp, án phạt của chế độ cũ về những thành tích bất hảo. Và nhà văn, nhà báo, nhà vẽ, nhà đạo diễn! Cái xã hội tù ô hợp nầy chửi thề văng tục suốt ngày, kèn cựa nhau từng tí. Nó khác xa với sĩ quan trình diện học tập hay công chức cao cấp trình diện học tập. Trình độ văn hóa và tâm tính hoàn toàn chênh lệch nên đối nghịch nhau liên miên. Tôi được nhiều độc giả du đãng và phản động trẻ săn sóc. Và đó là những hệ lụy suốt thời gian tôi trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định.

                      Năm chúng tôi, Thanh Thương Hoàng, Chóe, Hồng Dương, Thân Trong Kỳ và tôi, xúm quanh nhau hút thuốc lá, chuyện trò.

                      - Chúng mày là chuyến xe vét đấy. Bên Sở chỉ còn một Nguyễn Sĩ Tế vẫn nằm cachot. Thanh Thương Hoàng nói.

                      Tác giả Cánh chim mỏi đưa tay gãi háng:

                      - Tao bị ghẻ nặng rồi.

                      Anh tiếp:

                      - Đêm sang đây thật hãi hùng. Chúng tao cứ tưởng nó đem đi thủ tiêu.

                      Làm sao tôi quên đêm ấy. Bản lề phòng giam kèn kẹt ghê rợn. Nó nhiễm đầy Đảng tính nên kỹ thuật dọa nạt của nó tuyệt vời. Một kẻ bất cần đời như Hoàng Anh Tuấn mà nghe đọc tên mình thì rối loạn, chụp vội mỗi cái điếu cày ra đi, quên cả hành lý. Con người rất con người là phải biết sợ bỏ rọ ngâm sông. Thiếu nỗi sợ đó, con người vô tri giác. Và phê bình nỗi sợ đó, phán xét nỗi sợ đó, dành cho các phán quan Nói Phét ở những nơi bày tỏ sư dũng cảm không bị đánh thuế. Tôi đã thấy các vị phán quan bệnh hoạn này trên đất nước của Lincoln. Hình như, tất cả đều ngậm miệng, đều khom lưng trước quyền uy ảo tưởng Hoàng Cơ Minh. Chủ nghĩa tôi mọi thường tỏ ra thiếu hào sảng với đồng nghiệp oan khiên và đồng bào oan khổ. Một giây Hoàng Anh Tuấn thôi, sẽ không còn nhớ chụp cái điều cày ra đi. Mà sẽ đứng nghệt mặt, xón đái ra quần. Vậy thì, chưa kinh quá khốn cùng, nên câm họng, chớ nên luận anh hùng hay chụp mũ bừa bãi. Không hề kiếm nổi một anh hùng tù ngục trong ngục tù cộng sản đâu. Chỉ có những kẻ bất trí, những kẻ thiếu chí lớn, ngông nghênh với đám cai tù chăn trâu cắt cỏ, tự hạ thấp mình cùng lũ công an nói ngọng. Để chết dại ở lỗ chân trâu. Thảng hoặc, những anh hùng tù ngục được vinh tôn bởi một tù nhân vô loại “xuống bếp ăn vụng thit, ăn cắp cơm cháy, ăn tránh phần cơm heo”, tưởng đã chẳng hiển hách, còn bị nhục thêm. Không có gì xấu hổ để bị bắt hay tình nguyện vẽ tranh Hồ Chí Minh trong tù cả. Biết nhẫn nhục “vẽ chân dung Hồ Chí Minh cũng như vác củi, cuốc đất”. Sự bảo trọng thân xác kiểu “cũng như” đã phô bày sự tồn tại lãng nhách trong một pho hồi ký thuật viết lách còn phải học tập lâu ngày. Lãnh tụ cộng sản không chấp nê những tiểu tiết trong nhà tù. Không có thằng lãnh tụ cộng sản nào làm anh hùng trong nhà tù cả. La fin justifie les moyens. Chúng nó hèn hạ để tồn tại, để trở thành "cha già dân tộc", để trở thành Tổng bí thư và Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Trong Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh không ngần ngại tự khai:

                      Ở đời trăm sự đều cay đắng
                      Cay đắng đâu bằng mất tự do
                      Mỗi lời mỗi việc không tự chủ
                      Để chúng dắt đi tựa trâu bò.

                      “Cha già dân tộc”, chủ tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống mãi” đã mất thế tự chủ, đã biến thành trâu bò cho cai ngục dắt dẫn, sai bảo. Thế giới đã quên cái hèn của Hồ Chí Minh, chỉ còn nhớ cái vĩ đại của một người đọc Tuyên Ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chúng ta đã không khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của lãnh tụ cộng sản. Chúng ta chỉ khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của chúng ta. Không hiểu nổi tâm sự và chí lớn của đại bàng, bằng thù vặc cá nhân, bằng đố kỵ hẹp hòi, bằng kết tội và phán xét thiếu suy diễn và a dua, những con chim sẽ mãi mê lép nhép. Rốt cuộc, cái tư tưởng anh hùng tù ngục nằm gọn trong tiếng ăn: “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh”. Và nó chỉ có thế. Nó không thoát nổi thứ địa ngục tồi tệ với mấy trăm trang sách vô tích sự, viết lấy được, mà kiên nhẫn doc, người ta dễ dãi cách mấy cũng khó tìm nỗi hạt bụi thông minh, vết chấm tài hoa.

                      - Nhưng mà hên. Chóe nói.

                      - Hên sao? Tôi hỏi.

                      - Vừa sang tới đây, nó lùa chúng tao vào hội trường. Anh em đủ mặt. Thiếu anh Tế và bọn mày. Đang đêm, Mai Chí Thọ đến.

                      Thanh Thương Hoàng ngừng lại, kéo một hơi thuốc lá. Chậm rãi, Chiểu 2 tiếp:

                      - Nó thăm hỏi chúng tao. Tình cảm ra phết. Bố Côn đứng phắt dậy, đại diện anh em xin xỏ. Anh em buồn quá. Bố ấy đói thuốc đâm ra ngớ ngẩn. Thằng Trịnh Viết Thành nổi đóa. Tao phải nói bố Côn không đại diện ai cả, bố ấy đại diện cho riêng bố ấy thôi.

                      - Rồi sao?

                      - Mai Chí Thọ cười.

                      - Rồi sao?

                      - Chúng tao yêu cầu gặp vợ con. Mai Chí Thọ ô-kê. Thằng nầy thủ đoạn vô song. Nó bảo anh em ghi địa chỉ để nó sai người đi báo gấp. Và sáng hôm sau, chúng tao gặp vợ con, tiếp tế ê hề … Chúng mày sẽ được gặp vợ con.

                      - Sang đây làm việc gì chưa?

                      - Chưa. Nó quên rồi.

                      Anh em đủ mặt. Thế là, ngoài nhà văn, nhà báo quân đội đi trình diện học tập theo diện sĩ quan, đám văn nghệ sĩ và ký giả bị bắt trong chiến dịch 2-4-76 đã bị lùa hết về đề lao Gia Định, trừ Nguyễn Sĩ Tế vẫn cô đơn ở cachot Sở Công An.

                      - Phòng 5C-1 có Doãn Quốc Sĩ, Sao Biển, Hoàng Vĩnh Lộc, Vương Hữu Đức, Minh Đăng Khánh. Anh em khác trụ trì khu A, khu B, Chiểu nói. Được gần gũi nhau cũng đỡ buồn.

                      Khi kẻng tù báo ngủ Chiểu nói riêng với tôi:

                      - Ngày về xa lắm đấy, Duyên Anh ạ! Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên.

                      Tôi về chỗ của tôi. Không ai được phép giăng mùng. Dzũng quan tài muốn chia máu đồng đều cho muỗi. Vì 52 tù nhân nhồi nhét vào diện tích 32 thước vuông nên Trật tự viên Dzũng quan tài đặt lệ:

                      - Cấm nằm co kiểu xếp thìa.

                      - Cấm nắm kiểu chân nầy gác lên đầu gối chân kia.

                      - Sắp lớp kiểu cá mòi hộp, đầu anh này là chân anh kia nằm cạnh.

                      - Cấm tiểu tiện ban đêm.

                      Chúng tôi tuân lệnh. Anh mập nằm nghiêng, anh gầy nằm ngửa. Tất cả nằm thẳng không nhúc nhích. Tôi nằm cạnh Nguyễn Tấn Lợi và Chóe, hai tên cùng to xác. Tuy kẻng tù đã điểm nhưng ngọn đèn nê-ông không tắt. Nó sẽ sáng đến lúc điểm danh sớm hôm sau. Đêm đầu, lạ nhà tù, tôi khó nhắm mắt. Nhớ câu thơ của Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên” mà Thanh Thương Hoàng vừa khuyên vừa khuyến cáo, tôi suy nghĩ mãi. Có lẽ, mọi chuyện buồn nhỏ nhặt hết, kể cả chuyện buồn ở tù. Những ngày còn nằm bên Sở Công An, tôi đã ao ước chuyển trại. Tôi muốn biết khoảng 20 nhà tù trong thời gian ba năm. Tôi thiếu cái thung dung của Dương Nghiễm Mậu. Mậu tính mười hai năm. Tôi chỉ dám tính một cái mốc. Cộng sản đặt mỗi mốc tù ba năm. Nếu tôi độc thân như Mai Thảo, Như Phong, mọi việc quá dễ dàng. Tôi có người vợ yếu đuối, đau ốm quanh năm và ba đứa con còn nhỏ dại. Nằm tù, mà cứ lo chuyện xảy ra ngoài đời thì mau héo hắt lắm. Tôi vào tù, chắc chắn, bằng hữu đã sợ vạ lây mà xa tránh. Nghĩ ngợi lung tung, rồi ý nghĩ lại trở về nồi cháo thịt chiều 8-4-76. Tôi thèm gặp vợ con tôi để hỏi nồi cháo thịt có bị cháy đen. Nồi cháo hay thân phận tôi? Chóe đang ngáy pho pho. Lợi đã co một chân và gác chân kia lên đầu gối chân co. Mồ hôi của hai tên phì lũ chảy sang chỗ tôi khiến lưng tôi nhơm nhớp. Tôi nhổm dậy, dựa lưng vào tường, kiếm thuốc lá hút và quan sát năm mươi mốt ổ bánh mì trong lò. Có mỗi ô cửa gió, dưỡng khí ít, thán khí nhiều, mà con người vẫn sống, vẫn ăn, vẫn ngủ. Tiếng ngáy, tiếng gải ghẻ soàn soạt, tiếng mớ tạo thành một hợp âm. Thỉnh thoảng, cái chân gác lên đầu gối của anh này rơi bịch xuống ngực anh kia, hay chân anh kia đạp trúng đầu anh nọ, thì những tràng chửi thề văng ra. Nhưng tù nhân cứ ngủ. Mùi vị đề lao mới ghê. Mồ hôi chua, hôi nách, mũ ghẻ và mùi cầu tiêu, quyện lấy mùi thuốc lá, thuốc lào, nước mắm, mắm ruốc … Cơ hồ, tôi thoáng thấy mùi đau khổ.

                      Thả hồn theo khói thuốc, tôi về gõ cổng nhà tôi. Im lặng. Bên ngoài cũng đã là một ngục tù. Và vợ con tôi đang thoi thóp trong ngục tù bao la đó…
                      --------------------------------
                      1 Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả. Nam Á Paris xuất bản 1985.
                      2 ên thật của Thanh Thương Hoàng là Nguyễn Thanh Chiểu.

                      Comment


                      • #12

                        11.

                        Quá khuya, sương trải thật nhiều. Những giọt sương, đọng trên lá cây bên sân Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, rơi xuống mái tôn nhà tù như những giọt buồn ray rứt. Khu C-1 xây dài theo bức tường biên giới đề lao và tòa tỉnh – đã trở thành Trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh. Nếu tính phòng 7 C-1 là đầu, thì đầu khu C-1 sát khít vỉa hè đường Phan Đăng Lưu. Tôi nhớ thuở Bùi Thế Cầu làm Tỉnh trưởng Gia Định, hay ghé đây thăm bạn … tổng đốc Gia Định Thành. Và tôi không quên những cây vú sữa chung quanh sân. Bây giờ, những giọt sương, đọng trên lá vú sữa, não nề rơi xuống mái tôn nhà tù. Và tôi ngồi giữa cái hoang vu của kiếp người, nghe điệu sáo thấm vào hồn mình. Nguyễn Vĩ đã diễn tả.

                        Sương rơi
                        … Lạnh lùng
                        Hiu hắt
                        Thấm vào
                        Em ơi
                        Trong lòng
                        Hạt sương
                        Thành một
                        Vết thương
                        Rồi hạt
                        Sương trong
                        Tan tác
                        Trong lòng
                        Tả tơi
                        Em ơi
                        Từng giọt
                        Thánh thót
                        Từng giọt
                        Điêu tàn
                        Trên nấm
                        Mồ hoang …

                        Những giọt sương của Nguyễn Vĩ đã rơi vào năm 1935, năm tôi “mang tiếng khóc ban đầu mà ra” đời. Vẫn là hạt sương của 40 năm trước, 40 năm sau nó tuyệt tích âm điệu thánh thót. Nó không còn là vết thương của một người nữa. Nó đã ngậm oan khiên của lịch sử giống nòi. Nó đã rơi xuống xác hai triệu người Việt Nam chết đói, một triệu rưỡi người Việt Nam chết Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu triệu người Việt Nam chết thủ tiêu – bom đạn chiến tranh. Hôm nay, nó rơi xuống roi gạo mác xít, rơi xuống thuyền gỗ lênh đênh vượt biển, rơi xuống các trại tị nạn ô nhục, rơi xuống nhà tù, trại tập trung. Giọt sương theo nỗi đổi đời, đã thành giọt nước mắt. “Nếu cột đèn biết đi, nó sẽ đi tìm tự do”. Thuyền nhân nào đó đã trả lời phóng viên một đài phát thanh ngoại quốc thế. Sự ví von thật hay. Cột đèn không biết đi. Con người biết đi. Nhưng con người đã dừng lại sau chuyến đi dài. Người Việt Nam không thích nhớ những gì đáng nhớ, phải nhớ; không thích quên những gì cần quên, nên quên. Cái truyền thống hẩm hiu nhất của dân tộc ta là nhớ thù vặt và ham trả thù vặt. Triều đại này lật đổ triều đại kia, tiêu hủy mọi công trình xây dựng tốt đẹp, kể luôn công trình kiến trúc. Cao Miên còn hãnh diện có Đế Thiện Đế Thích, chúng ta còn gì? Phải cám ơn ông thực dân Pháp một tí. Nhờ ông chiếm đất nước tôi nên chúng tôi còn chút xíu lăng tẩm, thành quách triều đại Nguyễn Phúc Ánh. Ông sang muộn, những kẻ phục Lê lật đổ Nguyễn sẽ san bằng những lăng tẩm, bia mộ, đền đài ở Huế! Nhưng mà những kẻ nhớ thù vặt, trả thù vặt tận tình nhất vẫn là cộng sản Việt Nam. Mắt mờ thù hận, óc ủng thù hận, cộng sản Việt Nam đã dẫm nát báu vật và giam nhốt tài năng của dân tộc. Còn chúng ta, chúng ta bảo vệ báu vật và tài năng ra sao? Chúng ta hất hủi, hờ hững, kèn cựa. Và với triết lý thoát là tới, chúng ta đã quên những oan khiên mà giọt sương vẫn ngậm, vẫn rơi đều đặn xuống thân phận Việt Nam. Dân tộc đang kiên nhẫn bước trên sầu đạo để chiến đấu, để tìm ý nghĩa rạng ngời cho lịch sử. Quê hương đang cựa quậy. Chúng ta dừng lại, dầu chúng ta khác hẳn cột đèn. À, chúng ta cũng đi chứ! Chúng ta đi giật lùi. Đã nhiều dâu biển trong kẻ thù của chúng ta. Chưa có dấu hiệu sắp dâu biển trong cung cách chiến đấu để chiến thắng kẻ thù của chúng ta. Mọi lãnh vực, chúng ta đứng. Rồi nằm. Và nhai lại. Khi đó, những giọt sương đã “đổi đời” và không ngừng rơi xuống những xót xa, nghẹn ngào bắt thức tỉnh, suy tư.

                        Sự suy tư của tôi gần gũi nhất. Là cái “nội các” của ông Đinh Xuân Cầu. Trực giác của tôi cho tôi biết mục sư Trương Phiên đã bịp chúng tôi. Tôi chợt nẩy sự ngờ vực từ hôm Trương Phiên dọa tôi rằng công an mật đã bao vây nhà tôi. Hắn muốn cắt đứt đường về của tôi. Rồi hắn bảo tôi cho tổ chức mượn mấy lạng vàng. Tôi viết thư về nhà. Con gái tôi trả lời thay vợ tôi. Tôi đọc thư, lòng dạ tan nát. Con tôi viết: “Mẹ bị mù rồi hay sao ấy, bố ạ! Mẹ chẳng còn nhìn rõ cái gì”. Có lần, vợ tôi đã không đọc rõ chữ và tôi phải cầu cứu Bùi Duy Tâm. Tôi tin ngay. “Nhà cạn tiền rồi, bố về lo cho các con”. Tôi chưa về, vì nghĩ vợ con tôi chưa biết công an mật lởn vởn trước nhà tôi. Trương Phiên chở em vợ hắn đến An Đông lấy vàng. Hắn đã thất vọng. Hắn vẫn quả quyết ông tướng Ngô Quang Trưởng còn ở trong “bưng”. Đặng Xuân Côn đề nghị: “Chỉ cần đưa ông Trưởng về Sàigòn, dẫn ông tướng này gặp vài người là thừa vàng chiến đấu”. Trương Phiên nồng nhiệt hứa hẹn thực hiện kế hoạch Đặng Xuân Côn. Những chuyến “ra đi” của “nội các” cứ bị hoãn lại. Lần thì Nguyễn Cao Kỳ bay về bưng bắt Bùi Thế Lân, gây áp lực với Hội Đồng Bảo Quốc. Lần thì địch “báo động đỏ”, giăng lưới các cửa biển. Vân vân . Trương Phiên có tài nói và diễn xuất. Mục sư mà. Hắn phô bày chí lớn của hắn bằng bí danh Trương Mộng Hoàng. Họ Trương ôm giấc mộng trở thành hoàng đế! Hắn nói, ngay cả tôi nghe, cứ tưởng hắn dốc tâm can vì nước. Có nhiều lúc, kẻ khôn ngoan bỗng ngu xuẩn một cách tội nghiệp. May cho tôi, khi qua nhà số chẵn đường Tăng Bạt Hổ, nhân xem ti vi, tôi đã ngỡ ngàng. Báo chí Mỹ thân Cộng đã chụp đầy mặt tướng lãnh lưu vong tặng Việt cộng. Ông thì đang rót rượu, ông thì đang lau bàn… Việt cộng thuyết minh thêm. Mỗi chân dung tướng lãnh hiện rõ trên màn ảnh nhỏ. Có ông Kỳ, ông Trưởng … Tôi quyết định trở về sau vài tuần lưu lạc ở Hòa Hưng, Bảy Hiền. Thoạt tiên, tôi đến nhà bà Nguyễn Đình Vượng, địa chỉ tạp chí Văn. Tôi nhờ bà liên lạc với vợ tôi. Vợ tôi lên đón tôi chập tối. Sáng tỉnh mơ hôm sau, tôi đến Phú Nhuận. Tôi lại về nhà. Rồi tôi ở nhà luôn. Rồi tôi đi về lung tung. Chẳng thấy bóng dáng công an nào. Ông Đinh Xuân Cầu và Sao giò bị bắt trong tháng 1-1976. Tôi bình yên. Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thiện Ngọ … bình yên. Chúng tôi vẫn gặp nhau ở một tiệm thợ may trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật. Trương Phiên tuyệt tích.

                        Tôi không đánh giá Trương Phiên như một công an cộng sản lùa chúng tôi vào lưới. Thấp hơn, tôi đánh giá hắn như một tên lợi dụng tinh thần chống cộng của mọi người. Hắn khôn khéo đạo diễn, thảy cái bè chuối xuống nước đúng lúc. Sau 30-4-75, rất nhiều tên làm tiền và làm tình bằng những thủ thuật phục quốc và rất nhiều người mất vàng, mất trinh, rồi vào tù. Hoàng hôn của miền Nam nó thảm thiết vậy đó. Tôi sẽ viết ở những trang sắp tới. Ông Đinh Xuân Cầu nghĩ rằng Trương Phiên là gián điệp Mỹ. Năm 19 tuổi, lòng chứa chan mộng ước, tôi theo Duy Dân lên rừng Ban Mê Thuột làm cách mạng. Trở lại Sàigòn thất học, bơ vơ, tôi thù hận chính trị, cách mạng. Và tôi đã diễn tả sự khinh miệt lãnh tụ trong tiểu thuyết Ảo vọng tuổi trẻ. Năm 1975, lòng chứa chan uất ức, tôi đi chống cộng sản. Và tôi cũng trở về, chán nản, bơ vơ. Rốt cuộc thì tôi vào tù, mất toi một lạng vàng cho sự nghiệp chống cộng đến chiều. Ít ra, tôi đã trung thành với khẩu hiệu Chống cộng đến chiều đầy hệ lụy mà tôi đã viết từ thuở tôi cầm bút chống cộng. Nhưng sự bẽ bàng chống cộng tàn mùa của tôi, một mình tôi chịu. Và tiếp tục nói dối cả với vợ con tôi, với Đặng Xuân Côn: “Tôi đã vào chiến khu, đã gặp Ngô Quang Trưởng, đã gặp Mỹ với khí giới tối tân!” Ở tù, tôi quen bao nhiêu con người chống công tâm huyết, trẻ có, già có. Họ cũng bị bịp như tôi. Bạn đã hiểu tại sao tôi khinh bỉ những tên lái buôn chống cộng, những công ty đấu thầu chống cộng. Tôi chưa cháy niềm tin chống cộng. Tôi vẫn chống cộng. Vì dân tộc, chắc chắn, là viễn vông. Vì những con người đã dấu diếm tôi, đã săn sóc tôi, đã kỳ vọng nơi tôi, ở các căn nhà hẽm phố Trần Quý Cáp, phố An Đông, phố Tăng Bạt Hổ, phố Tô Hiến Thành, Bảy Hiền, Xóm Mới. Chính xác, tôi chống cộng với tuổi trẻ, với các bạn Pháp và Việt của tôi. Tôi không chống cộng với lãnh tụ ghẻ lở, với cây mục vô tích sự, với lái buôn, cai thầu. Và tôi tin vào sự quật khởi của dân tộc tôi, không tin vào các thế lực ngoại bang.

                        Kẻng tù báo thức làm sự suy tư của tôi ngừng lại. Tù nhân bắt đầu ồn ào. Hãy tưởng tượng đống sơ mít, nhặng bu đầy, bị đụng khẽ. Tù nhân đã vo ve như thế từ lúc kẻng báo thức đến lúc kẻng báo ngủ. Sự tranh chỗ tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt náo nhiệt vô cùng. Không có nhường nhịn ở nhà tù. Luật đời và luật tù giống hệt nhau. Thằng nào manh, thằng ấy chủ động. Những thằng mạnh, cộng sản biết dùng người lắm, là những thằng cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, du đãng được sử dụng vào các chức Trưởng phòng và Trật tự viên. Những thằng này, bất cứ hoàn cảnh nào, đều biết cách đàn áp anh em để thủ lợi. Dưới chế độ cộng sản, các vua tù bị thoái vị. Trưởng phòng mất quyền bóc lột, hà hiếp tù nhân. Ở đề lao Gia Định, cộng sản ban phát cho Trưởng phòng ân huệ ra ngoài khiêng đồ tiếp tế của thân nhân tù nhân, mỗi tuần lễ. Ra khiêng đồ sẽ được gặp vợ con trong năm phút. Để bảo vệ quyền lợi khốn kiếp này, Trưởng phòng đã ghi những câu nói mỉa mai của tù nhân, báo cáo Trưởng khu hay Cán bộ giáo dục. Tùy theo mức “phản động” nặng hay nhẹ, tù nhân sẽ bị viết tự kiểm, sẽ bị cấm viết thư, sẽ bị cấm nhận quà tiếp tế, sẽ bị nằm cachot. Không phải Trưởng phòng nào cũng đê tiện. Cộng sản chọn người xứng đáng cho công việc xứng đáng. Khi nó đã chọn, đừng hòng từ chối. Từ chối là chồng đối chế độ. Chống đối chế đó ở nhà tù là mút chỉ ăn cơm hẩm. Đừng hòng tình nguyện. Tình nguyện là có ý đồ. Có ý đồ là bị điều tra. Ở bất cứ nhà tù nào, dưới bất cứ một chế độ nào, trên bất cứ một quốc gia nào, bạn đừng đòi hỏi tự do. Bạn chỉ được đòi ân huệ và chớ dại dột yêu sách. Yêu sách, bạn sẽ được nâng quan điểm lên bất mãn. Mỗi nhà tù một quy chế. Cái hợp lý ở đề lao Gia Định sẽ là cái vô lý ở khám Chí Hòa. Chính sách nhà tù cộng sản thả nổi. Ở đề lao Gia Định, bạn có quyền tuyệt thực. Sang khám Chí Hòa, bạn tuyệt thực thì bụng bạn đói mà thân bạn no đòn. Những kẻ chỉ loanh quanh các trại cải tạo không nên lạm bàn về nhà tù. Trại cải tạo là động. Nhà tù là tỉnh. Trại cải tạo là ánh sáng. Nhà tù là bóng tối. Ở trại cải tạo, cộng sản gọi bạn là trại viên. Nhà tù, cộng sản gọi bạn là can phạm. Ở trại cải tạo, bạn sống chung với các chiến hữu. Ở nhà tù, bán sống chung ô hợp với đủ mọi thành phần xã hội. Ân huệ của Trưởng phòng là ra ngoài khiêng đồ, gặp vợ con, hít no dưỡng khí, tắm nắng thỏa thuê, tuy còng lưng, mỏi tay. Ân huệ của Trật tự viện là đi đổ rác, phơi quần áo, tha hồ liếc nhìn các phòng, các cachots và gặp gỡ "anh em” ở đống rác, ở chỗ phơi quần áo. Ấy, ân huệ nhỏ mọn thế thôi, mà cộng sản dư khả năng tạo ra mọi ngờ vực, mọi phôi pha tình người. Trưởng phòng Lâm Văn Thế không thuộc loại đê tiện. Ít nhất, ông ta cũng là sĩ quan. Dzũng quan tài không tệ, nhưng đám mafia 6 C-1 cậy thế nó để tác yêu, tác quái ở hồ nước.

                        Không một tù nhân nào được tắm bằng nước chứa trong hồ. Nước này chỉ dùng xối cầu tiêu, rửa chén, rửa mặt, đánh răng và rửa … đít. Tù nhân bị cấm sử dụng giấy vệ sinh. Mafia 6C-1 bất chấp luật lệ. Nửa đêm, chúng thay phiên nhau tắm để ngủ ngon. Mỗi ngày, vòi nước lùa qua ô cửa gió 2 lần. Nước đầy hồ, tù nhân mới được tắm. Tù nhân trần truồng đứng xếp hàng. Mafia cầm vòi nước. Tôi đếm thử những cái tích tắc, tính ra mỗi tù nhân hưởng 10 giây đồng hồ tắm gội. Bị mafia ăn cắp một giây. 520 giây tắm cho 52 tù nhân đa số bị ghẻ lở! Không thể sát xà phòng. Ngôn ngữ tục tĩu nhất đã phóng ra ở sân tắm vào giờ nước vào. Những ngày Sáu Cầu làm Trưởng khu, không có điểm danh. Trưởng phòng đếm tù, rồi báo cáo cán bộ là xong. Những ngày này, tù nhận được nhận cà phê và trà. Mỗi ông tù có một cái vợt vải nhỏ. Màn tắm táp sáng nay đã xong. Tù nhân ngồi chờ nước sôi và nghe nhạc cách mạng oang oang từ cái ô-pạc-lơ gắn trên nóc phòng 7C-1. Tôi thích nhất bài Tình em biển nhớ của Nguyễn Đức Toàn. Có lẽ, tôi thích nhất hai câu đầu. Ở cái lúc chui rúc trong chuồng gà kỹ nghệ, sự nghiệp tiêu tan, thân thể lênh đênh, vợ đau con dại mà thưởng thức giọng hát Đỗ Dậu nỉ non: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay, đất nước thanh bình, lòng ta mê say… thì dẫu là Khổng Tử, vẫn cần thiết chửi thầm. Thân phận tù cộng sản nó cay đắng khôn cùng. Nó không bị xét xử. Nó không có án. Nó không biết ngày về. Ba cái không chưa đủ làm điên, còn sáng, trưa, tôi nghe hát chưa có hôm nào đẹp như hôm nay!

                        Nhưng mà nước sôi đã tới. Cai ngục mở cửa. Trật tự viên xách xô nhựa ra. Tù nhân tín cẩn gánh nước từ bếp khu A sang, múc đầy xô. Trật tự viên xách vào. Chỗ chia cơm nước lại sinh động. 52 cái ca nhựa bầy sẵn. Tù nhân đứng hết dậy. 104 con mắt nhìn Trật tự viên chia nước sôi. Ăn thua từng giọt. Cãi nhau vì mì đã bỏ sẵn vô ca mà không ưu tiên chia nước trước. Phân bì ca nhỏ sao nước bằng mức ca lớn. Vân vân … Nước chia xong, tù nhân đem về chỗ của mình. Anh không có cà phê thì đổi nửa phần nước cho anh có cà phê lấy chút đường và... cái bã. Những anh ăn chung thì vừa ngâm mì vụn vừa pha cà phê. Mì ăn dứt, ta nhâm nhi cà phê, hút thuốc rê, thuốc lá, thuốc lào. Các anh máu mì, máu cà phê, thì pha bột Bích Chi, bột đậu xanh… Cách mạng kể ra tốt chán. Tù nhân điểm tâm bằng sự… nhịn ăn uống của vợ con mình! Chấm dứt điểm tâm là màn rửa ca, rửa muỗng. Bụng đã có tí sinh tố, tù nhân thay phiên nhau đi cầu. Và đây mới là hoạt cảnh. Anh tù lên giàn bắn. Anh ta chơi ra-phan. Những anh tù khác vừa nghe đạn nổ, vừa ngửi thuốc súng. Hàng tràng chửi thề tới tấp. “Xối nước đi”! Ngôn ngữ cách mạng phong phú. “Xối khẩn trương. Xối tối đa. Xối thoải mái. Xối nhanh. Xối mạnh. Xối vững chắc”! Anh tù cứ thản nhiên … rặn. Hòa bình rồi. Thống nhất tổ quốc rồi. Đi đâu mà vội. “Khẩn trương cho người khác tiếp quản cầu tiêu chứ”? 52 tù nhân xếp hàng đi cầu. Thì đâu vào đó cả. Cách mạng không sai lầm. Đảng ta luôn luôn sáng suốt. “Khắc phục ỉa đi!” “Khắc phục cái củ cà-rốt, đi cầu chứ đi sang Liên Xô sao?” “Mẹ anh, nhân dân làm chủ cái cầu hay anh làm chủ? Đầu óc tư hữu lạc hậu!”

                        Cuối cùng, mọi việc đều tốt. Tù nhân chơi cờ tướng, chơi đô-mi-nô. Khích bác nhau một chặp, chơi văng bậy và suýt chơi chân tay. Ông Thế say sưa học chữ Tàu. Ông hiểu trưởng Tàu say sưa học tiếng Việt. Các ông Tàu Chợ Lớn bị xử ức. Cộng sản nó bảo: “Anh ở nước tôi mấy đời rồi, anh không hoc nổi tiếng nước tôi, học viết chữ nước tôi, chúng tôi không làm việc với anh qua thông ngôn. Học đi, chừng biết viết Tự khai hãy nghĩ chuyện về sum họp gia đình.” Các ông Tàu thộn mặt. Và tự giác mình đã láo lếu mấy đời. Tù nhân chia từng nhóm. Nhóm ngồi hút thuốc tâm sự. Nhóm ngồi gãi ghẻ. Nhóm ngồi nặn trứng cá, nhổ tóc sâu. Chuyện tù sao mà nhiều thế! Nói hoài nói hủy. Thuốc rê đốt um khói. Thuốc lào rít liên hồi. Ở 6C-1, tôi yêu nhất hai chú bé phản động mà tôi quên tên. Hai chú bé dưới 18 tuổi, không tranh giành cơm nước, không chửi thề nói bậy. Hai chú bé nằm dưới sàn chia cơm và bắt được hai con dế chui vô phòng. Thế là hai chú bé đá dế, cười nói hồn nhiên. Tôi biết chắc hai chú bé không hề nuôi một tham vọng nào khi đi làm phản động. Không thích cộng sản, các chủ bé chống cộng sản. Đi chiến đấu hồn nhiên, vào tù hồn nhiên, đau khổ hồn nhiên và chiến thắng vẫn hồn nhiên. Đất nước cần những tâm hồn chiến đấu không thèm toan tính ấy. Hai chú bé con nhà nghèo, không một ai tiếp tế. Chỉ sống bằng cơm tù, ai cho gì cũng từ chối. Cuộc chiến đấu của tôi còn vì những chú bé như hai chú bé này. Tôi bị lừa gạt niềm tin hai lần. Lần thứ nhất, tôi 20 tuổi. Lần thứ hai, tôi 40 tuổi. Tôi không muốn những chú bé Việt Nam bị lừa gạt niềm tin chiến đấu. 20 tuổi, tôi viết:

                        Tổ quốc mình đó em
                        Anh đi làm lịch sử
                        Với bọn cò mồi hèn
                        Thấy thiên đường đổ vỡ
                        Anh còn gì đâu em
                        Anh còn gì cho em

                        Từ niềm tin đầu đời bị lừa gạt, tôi chở sự phẫn nộ vào cuộc sống. Và rồi tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi trở thành kẻ quá khích của điều thiện, một thứ cuồng sỉ khó ai dung dưỡng nối. Kẻ quá khích của điều thiện chỉ đem về cho nó những thù ghét cay đắng, những ngộ nhận nghiệt ngã, những săn đuổi không thương xót. Không phải bất cứ ai cũng có thể giải tỏa nỗi ẩn ức của mình bằng chữ nghĩa. Tôi nghĩ tới những tác động phá phách của tuổi trẻ mất niềm tin và cả những bất động nữa. Cả hai điều thiệt thòi cho quê hương. Bọn buôn bán tuổi trẻ đã không hề nghĩ đến sự thiệt thòi ấy. Chúng nó chỉ biết làm lợi cho chúng nó. Và tôi lên tiếng. Tiếng nói của tôi chìm vào hư vô bởi những khỏa lấp của quyền lực và tài lực. Thêm nữa là sự rút đầu xuống cát của đà điểu văn nghệ. Chẳng ai ngu si đi tìm những oan khiên cho mình. Ai cũng biết khôn ngoan sống chiều lòng người, vừa lòng người, đẹp lòng người, khen luôn những cái không đáng khen của người, suốt đời ngậm miệng không chê người… Cái triết lý sống bần tiện này không nên có ở những người cầm bút trong thời đại hôm nay. Anh đừng nói anh chuyên viết và bình luận văn học, không dính dáng chính trị. Chúng ta đang sống ở kỷ nguyên mà con người khó thoát khỏi quỹ đạo chính trị. Anh không làm chính trị, anh cũng không có thái độ chính trị nữa sao? Vậy sự từ bỏ Việt Nam sang Mỹ của anh là thái độ gì? Kỷ nguyên nghệ thuật vị nghệ thuật đã chấm dứt và nó rất lạc hậu đối với hiện cảnh và thảm cảnh Việt Nam. Người cộng sản chỉ mong anh không có thái độ chính trị, chỉ mong anh bàn về ăn mặc, uống trà, để khen anh. Họ đã khen anh. Và rồi họ sẽ nuốt anh. Như họ đã nuốt anh em của anh, dẫu có người chưa hề có thái độ chính trị. Thế Viên chẳng hạn. Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Anh khôn lõi. Tôi dại dột. Nếu các hào kiệt Nhân văn giai phẩm đã khôn lõi, chắc chắn, đã không có dấy động tuyệt vời của chữ nghĩa. Anh khôn lõi, anh được tôn sùng. Tôi dại dột, tôi bị ghét bỏ. Nhưng tôi hãnh diện về sự dại dột của tôi. Và tôi ngạo nghễ khinh thường thơ văn không chính kiến của anh hôm nay là:

                        Thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
                        Thơ văn cột rỗng
                        Lớp son mầu mè tỉa tót công phu
                        Thứ thơ văn tửu hậu trà dư
                        Thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
                        Thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
                        Thơ văn nằm khi bạo lực diễn hành
                        Thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói nhăn răng
                        Thơ văn nhẫy nhụa môi son vênh vang trưng diện

                        Tôi viết văn, làm thơ chẳng hề đeo tham vọng đi vào văn học sử hay bất tử. Với tôi, đó là chuyện hề kệch cỡm. Trước năm 1975, rất nhiều lần, tôi thành thật nói tôi viết văn để mưu sinh. Không biết làm nghề gì cả, tôi làm nghề viết văn. Và tôi đã sống bằng nghề viết văn, hoàn toàn sống bằng nghề viết văn. Không có thiên chức hay sứ mạng gì trong văn chương của tôi cả. Chưa từng ngửa tay nhận tiền của cơ quan ngoại quốc nào để vừa viết văn vừa ăn vừa lo nộp sách. Cũng chưa từng ngửa tay nhận tiền của Mạnh Thường Quân nào. Tôi bán chữ nghĩa của tôi thẳng cho nhà xuất bản. Tôi là công nhân chữ nghĩa, nếu anh muốn gọi thế. Tôi bắt đầu có tham vọng văn chương từ hôm Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung, tác giả Vụ án hồ con rùa, đại diện đảng Cộng sản Việt Nam, nói với tôi một câu đầy miệt thị: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh.” Rồi trải qua ba nhà tù, hai trại tập trung ròng rã 6 năm. Rồi nhìn lại một Sàigòn bán máu đỏ mua gạo đen, nhìn lại một sản phụ không sữa nuôi con bị vắt vú ba lần mới được mua sữa bò giá chính thức, nhìn lại cảnh chó và người mưu sinh chung ở đống rác, nhìn lại vô số … Rồi tôi vượt biển và nhìn đồng bào tôi bị ngược đãi tại quán trọ trước cổng thiên đường. Tôi càng thấy tôi nên có tham vọng văn chương. Tham vọng văn chương của tôi sẽ không bao giờ đi vào văn học sử. Tôi nghĩ chúng ta cần có tổ quốc đã. Thiếu tổ quốc, hình như, không có lịch sử và mọi chuyện đều vá víu tạm bợ. Vậy thì tham vọng văn chương của tôi, bây giờ, là ngày mai của tổ quốc tôi. Muốn có ngày mai của tổ quốc, tôi phải chiến đấu. Văn chương của tôi là văn chương chiến đấu, là tư tưởng dấy động, là chữ nghĩa lên đường; không thể là văn chương chết, là tư tưởng ngồi, là chữ nghĩa nằm. Văn chương ấy phải làm thế giới xúc động mà cảm thông nỗi khổ của dân tộc tôi. Tôi đã sung sướng thực hiện được một bước trong ngàn bước tham vọng văn chương của tôi, dẫu tôi cô đơn, âm thầm làm một mình, dẫu tôi bị móng vuốt của đố kỵ hèn mọn cào cấu chảy máu, dẫu tôi bị bạo lực cộng sản bức tử. Nói tóm lại, tôi thích được gọi là người viết văn có chính kiến và chấp nhận mọi thiệt thòi, vật chất và tinh thần, cho kẻ ham bày tỏ chính kiến rõ rệt, dứt khoát. Tôi đọc ở Remarque câu này: “Khi thế giới còn những bọn hung tàn vô nhận đạo mà mình biết mình đủ khả năng chống đối, lại không dám chống đối, là mang tội ác.” Tội ác trên cả tội lỗi, ghê gớm lắm. Tôi sợ mang tội ác nên tôi tiếp tục chống đối, sau thêm một phen bị lừa gạt niềm tin ở tuổi 40. Tôi đã chiến đấu ngoài đời và trong văn chương. Ở hoàn cảnh tôi năm 1975, anh không dám phản động đâu. Chưa ai lãng mạn hơn tôi. Với tôi, tất cả đều trực diện chiến đấu, không phục kích, chiến đấu công khai. Cuộc chiến đấu của tôi rất trẻ nên tôi cần dẹp bỏ bọn lái buôn lý tưởng của tuổi trẻ.

                        Tôi ngồi suy nghĩ vẩn vơ một chặp thì đến giờ phát thuốc. Mọi sinh hoạt ngừng hẳn. Tù nhân chen nhau ở chỗ chia cơm nước. Vì cửa phòng mở rộng, ai cũng thèm đứng gần cửa để hít dưỡng khí. Y tá tù bê một khay thuốc.

                        - Ai bệnh cảm cúm?

                        Tù nhân bị cảm cúm dơ tay. Mỗi người cầm sẵn một ca nước. Y tá múc thuốc bột bằng muỗng cà phê từ cái hủ thủy tinh. Thuốc cảm giống màu xi măng nên tù nhân đặt tên nó là thuốc xi măng. Tù nhân uống thuốc trước mặt y tá.

                        - Ai cảm sốt?

                        Tù nhân cảm sốt dơ tay. Thuốc cảm sốt y hệt thuốc cảm cúm. Nghĩa là thuốc xi măng ở cùng cái hủ.

                        - Ai đau bao tử?

                        Đau bao tử được uống xi rô màu hồng.

                        - Ai đau tim?

                        Bệnh tim tương tự bệnh bao tử, nên trị bằng … xi-rô màu hồng luôn.

                        - Ai tiêu chảy? Ai ghẻ mủ? Ai kiết lỵ?

                        Ba bệnh nầy chung một triệu chứng. Và bệnh nhân uống Xuyên Tâm Liên, món thuốc trị bá bệnh, trị cả ung thư nữa. Tù nhân đau bao tử và đau tim… giả vờ đông hơn cả tù nhân đau thật sự. Vì xi-rô có đường. Tù nhân cần chất đường, thêm chất đường cho đỡ hại cơ thể! Cách mạng nắm vững vấn đề. Do đó, đau tim và đau bao tử chỉ được phát một muỗng cà phê xi-rô hồng. Các thứ bệnh “điều trị” xong, y tá phát thuốc tư. Thuốc tư là thuốc của thân nhân gởi vào nhà tù cho tù nhân. Thuốc phải đăng ký ở Phòng Y Tế của đề lao. Muốn xử dụng hôm nay, tù nhân phải thông báo y tá từ hôm qua. Y tá ghi vào sổ. Tù nhân đăng ký thuốc tư có số riêng. Trừ thuốc bổ, các thứ thuốc bệnh phải uống trước mặt y tá. Khi tù nhân bị bệnh đột xuất, thí dụ trúng gió, ngộp thở, bất kể ngày đêm, trưởng phòng ghé miệng sát cửa gió, nói lớn: “Báo cáo cán bộ, phòng … có người bệnh nặng.” Bác sĩ nhà tù sẽ đến cấp cứu. Bệnh nguy kịch, tù nhận được chở qua bệnh viện Nguyễn Văn Học.

                        Màn phát thuốc chấm dứt. Cửa phòng khép lại, khóa kỹ. Y tá sang 7C-1. Thời khoá biểu đề lao được áp dụng trúng phóc. Đến giờ cơm trưa. Cơm trưa đề lao ăn lúc mười giờ. Cửa phòng mở. Trật tự viên và hai “trực sinh” ra khiêng cơm và thức ăn vào. Tù nhân thay phiên nhau, hàng ngày, hai người chịu trách nhiệm quét phòng, lau sàn phòng, bục ngủ, chà rửa sàn nước, cầu tiêu, khiêng cơm. Cơm nước chia xong, phải lau sàn và rửa thùng đựng cơm, thùng đựng thức ăn sạch sẽ. Một ngày làm công việc này gọi là trực nhật, và người làm gọi là trực sinh! Theo luật nhà tù xã hội chủ nghĩa, phòng giam tập thể chia thành nhiều tổ, mỗi tổ 10 tù nhân lãnh đạo bởi Tổ trưởng và Tổ phó. Vậy một phòng giam có Trưởng phòng (chủ tịch nhà nước), Phó phòng (phó chủ tịch nhà nước), Trật tự viên (Tổng Bí thư), Thư ký (ban bí thư trung ương đảng), các Tổ trưởng, Tổ phó (uỷ viên trung ương đảng). Mỗi tối thứ sáu họp phòng, kiểm điểm … thành tích tù. Biên bản ghi một câu đúng chỉ tiêu đặt ra: “Các can phạm triệt để tin tưởng vào sự khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà Nước, quyết tâm học tập cải tạo tốt để sớm được về sum họp gia đình. Trước khi bế mạc, các can phẩm hồ hởi, phấn khởi liên hoan văn nghệ bằng hợp ca bản Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Biên bản này được đọc lớn cho cả phòng nghe. Mọi người nhất trí.” Trực sinh do Tổ trưởng chỉ định từng cấp thuộc tổ mình. Trưởng phòng, trật tự viên, thư ký được miễn trực nhật.

                        104 cái ca nhựa được bày thứ tự thẳng hàng. Trật tự viên phân phối cơm và thức ăn. Cơm gạo hẩm, đầy cả cỏ ngọn. Thức ăn bữa thì hai miếng đậu kho, bữa thì su su kho, bữa thì cá ngừ hay cá đuối kho, bữa thì canh rau muống già, canh bí rợ. Kho và nấu canh bằng muối. Đậu kho tuyệt tích từ tháng 8-1976. Muốn ăn miếng thịt cà ri hay thịt khô, phải đợi mấy ngày lễ lớn. Thường xuyên là cá biển ươn kho. Ươn phát thối thì cà-ri cá. Cá biển lừng danh đến nỗi tù nhân đặt cho những tên mỹ miều như: Trần Thị Lệ Đuối, Lệ Ngừ… Cuối cùng, các loại cá biển nhà tù mang chung tên của một ca khúc cách mạng: Đàn Ta-Lư. Bởi vì, tù nhân bị ghẻ mà ăn cá ngừ, cá đuối thì gãi bằng thích. Khi gãi ghẻ, tù nhân bảo gẩy đàn Ta-Lư! Tính tính tính tính tang tính tình … Đàn em reo vang, đàn Ta-Lư. Vừa gãi ghẻ, vừa nghe danh ca hạng nhất Hà Nội là em Tường vi hát Đàn Ta-Lư, sẽ giật giật tuyệt cú mèo. Chia cơm ồn ào gấp bội chia nước sôi. Đôi khi, đấm đá xảy ra giữa các ông tù trộm cướp với các ông tù mafia. Trưởng phòng giả vờ đui điếc. Báo cáo cán bộ, đêm nó nấu bao ni-lông, nó đổ vào mắt là mù.

                        Bữa cơm trưa vừa dứt là kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi im lặng. Bây giờ, phòng giam mới là cái lò nướng bánh mì đúng nghĩa. Nắng hừng hực trên mái tôn. Sức nóng hầm da thịt. Tù nhân mình trần, quần xà lỏn nằm nghiêng, nằm ngửa trên bục xi-măng. Mồ hôi tuôn xối xả. Nguyễn Hải Chí thấm ướt cái khăn tắm đặt lên ngực cho mát mà ngủ. Chừng thức giấc, cái khăn khô rom. Mồ hôi không ra ở ngực, nó ra ở lưng. Vài tù nhân quên Nội qui, cởi truồng nằm ngửa tênh hênh, ngáy pho pho. Thân phận con người như những con heo cạo lông phơi bày trên sạp bán thịt. Không hiểu tại sao tù túng thế, khổ cực thế mà tính dục vẫn chưa bị diệt. Kìa tù nhân cởi truồng nằm ngửa, khẩu đại bác đang dựng đứng. Và trong giấc mơ hoa ở lò nướng bánh, hắn đã bắn máy bay, đạn phọt lên! Hắn cựa quậy. Rồi hắn vội lấy khăn che dấu khẩu đại bác. Tôi ngồi dựa lưng vào tường quan sát. Chẳng biết một mai sống sót về, tôi có đủ khá năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phong giam ở đề lao Gia Định? Tôi viết về những cuốn sách dính dáng tới nhà tù. Tôi tưởng tượng. Tôi viết mò. Tôi gian dối với độc giả. Tôi vừa tìm ra cái lý do văn học của chúng ta thiếu tác phẩm lớn, tác phẩm tầm vóc quốc tế, dù quê hương chúng ta đầy dẫy đề tài kích thước, để cống hiến cho các nhà vẫn thống lĩnh đỉnh núi trong suốt ba thập niên cách mạng, thù hận, chiến tranh, giải phóng, chia lìa, đổ vỡ, lưu đày, đói khổ, ngục tù… Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Bắc đã bị cưỡng bức sa đọa hóa tư tưởng. Họ đã bị hoàn toàn tê liệt sự rung động và sáng tạo. Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Nam thì ít sống, sợ sống, lười sống. Hãy đọc Sống chỉ một lần xem Mai Thảo sống ra sao. Sống loanh quanh thành phố, lang thang phòng trà, tửu điếm, hộp đêm. Sau một kinh qua vỡ núi lấp sông của dân tộc, Mai Thảo cứ nhởn nhơ sống theo phong cách đó và thản nhiên tái bản Sống chỉ một lần. Những tài năng đoạt giải nhất, giải nhì khác? Chưa có biến chuyển khác lạ. Vẫn nhai lại. Tôi xác định thêm một lần nữa: Tôi chỉ là người viết tiểu thuyết mưu sinh tầm thường, không đáng kể. Tôi kỳ vọng những tác phẩm lớn ở những nhà văn lỗi lạc của chúng ta. Không có, vì họ sợ sống. Thế Phong đã đưa ra một đề nghị lạ lùng: “Muốn có tác phẩm lớn, phải nhờ bọn thống trị lôi các nhà văn ra bùng binh Chợ Bến Thành, quất roi xuống thân phận họ, họ sẽ viết.” Có vẻ sa-đích. Mà đúng. Nhà văn của chúng ta thiếu phẫn nộ bởi lánh xa mọi phẫn nộ của dân tộc. Có kẻ đã thể nghiệm sự phẫn nộ, sự thống khổ của quê hương đấy. Kẻ ấy giương danh nhà văn chân chính, chê tư tưởng thiên hạ “Cao hơn giép râu cộng sản”, viết pho sách ngót nghét nghìn trang để chỉ phô diễn sự “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh phần cơm heo”. Chẳng nên làm nổi danh kẻ này bằng cách nêu tên ông ta và tên “tác phẩm để đời” của ông ta. Tôi vừa vỡ lòng cay đắng, đang nhập môn thống khổ, nhưng tài còm của tôi vẫn khó hứa hẹn diễn tả nổi một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thật sự mà nói, muốn có tác phẩm văn học lớn, chúng ta phải chờ đợi các nhà văn trẻ thế hệ sau 1975.

                        Kẻng báo thức lại khua. Tù nhân lại ồn ào. Vòi nước đã chuyển qua ô cửa gió. Như buổi sáng, nước đầy hồ rồi thì mỗi tù nhân có 10 giây tắm, gội không sát xà phòng. Cuộc tắm hà tiện nước của cách mạng chấm dứt khi vòi nước kéo mạnh ra. Người ta đã nhìn đồng hồ mà ban ân huệ tắm. Y tá xuất hiện với hai chai thuốc ghẻ xanh và vàng. Xanh là Bleu de méthylène. Vàng là gì, tôi không rõ. Vàng, nếu tôi đúng, là môn thuốc ghẻ cổ lỗ sĩ chế bằng diêm sinh và lưu hoàng, mùi hôi khó tả và xức ghẻ thì xót điếng người. Y tá rót thuốc xanh và vàng vô hai cái lọ thủy tinh mà Trật tự viên có bổn phận bảo quản. (Nhà tù sợ tù nhân tự sát hoặc sát hại nhau bằng mảnh thủy tinh). Thêm một hoạt cảnh đề lao. Ghẻ mủ, ghẻ nước, hắc lào đều bôi thuốc xanh, thuốc vàng. Hai tù nhân bôi thuốc cho nhau. Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè “của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân nầy cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Thuốc vừa bồi xong, tù nhân nọ vội lấy quạt quạt lia lịa. Vì thuốc xót vô cùng. Tù nhân bị bôi thuốc dẩy nẩy. Kẻ nhảy tăng tăng, kẻ quạt lia chia. Một vũ điệu ngoạn mục của đề lao Gia Định. Chừng hết xót, tù nhân đã được bạn bôi thuốc sẽ bôi thuốc trả nợ bạn. Và quạt. Bục tù biến thành sân khấu nhảy múa. Mà người biên soạn vũ điệu ghẻ là cách mạng, là Đảng quang vinh! Có tù nhân ghẻ tứ tung bèn sơn thuốc xanh khắp mình mẩy và được phong làm chim xanh, mang tên Mỹ: Mr. Blue Bird. Ông Thế kể đã có tù nhân chết vì … ghẻ, tháng trước, tại 6C-1. Tù nhân tên Tuấn, trung úy cảnh sát đặc biệt. Anh ta vốn mắc bệnh phong tình. Vô đề lao, anh bị ghẻ mủ. Anh ta tuyệt vọng, khước từ uống và bôi thuốc của vợ gửi vào. Anh ta khước từ tắm luôn. Ghẻ ăn chung quanh mắt anh. Nhà tù mời vợ anh vô thuyết phục anh. Anh vẫn khước từ. Người ta đưa anh vô bệnh viện Nguyễn Văn Học. Anh chết. Bởi anh tình nguyện chết.

                        Hoạt cảnh ghẻ hạ màn. Cơm chiều đến. Cơm chiều giống cơm sáng. Chia chác, ăn uống, rửa ca muỗng xong, tù nhân chơi đô-mi-nô, cờ tướng, chuyện trò, hút thuốc, nhớ vợ con, mong đợi thả về và chờ kẻng báo ngủ. Thế đó, trừ những hôm thăm nuôi, mua hàng, họp cuối tuần, sinh hoạt ở các phòng giam đề lao Gia Định giống hệt nhau. Một ngày như mọi ngày. Cô đơn trong thống khổ. Rã rượi trong tủi nhục.

                        Comment


                        • #13
                          12.

                          Bạn biết người y tá tù là ai không? Đoàn văn Toại, tác giả Goulag Vietnamien láo lếu đấy. Cái xó xỉnh đề lao Gia Định này là biểu tượng của nền ngục tù ô nhục của công sản ư? Đoàn Văn Toại chỉ quanh quẩn ở đề lao Gia Định. Anh ta bị bắt trước tôi vài tháng. Khi tôi đến đề lao, Đoàn Văn toại được ban phát ân huệ giúp việc Phòng Y Tế. Trưởng phòng Y Tế, bác sĩ Quang, y sĩ trung úy Thủy Quân Lục Chiến … nằm vùng. Sau 30-4-1975, anh ta mang quân hàm trung úy công an. Có lẽ, Quang là bí danh của anh ta. Đoàn văn Toại nghiền, tán thuốc dân tộc và phát thuộc các phòng tập thể C-1. Anh ta chưa được bén mảng ở cửa cachot. Toại hưởng quy chế ăn uống, tắm giặt thoải mái trên Phòng Y Tế. Mỗi tuần, Toại ra cổng trại, nhận thuốc của thân nhân tù nhân đăng ký. Bề ngoài nhận xét, Đoàn Văn Toại có vẻ là một cán bộ bị kỷ luật hơn một tù nhân chính trị. Lý do nào anh ta được cộng sản tin cẩn, tôi không hiểu. Toại biết thân, biết phận, không bàng nhàng với anh em. Một cách vô tư mà nhận xét, dưới mắt tôi, Đoàn văn Toai chỉ khúm núm cầu an. Anh ta chưa hề hại ai. Mà cũng chẳng ai có thể hại ai ở trong tù. Những kẻ xử dụng ngôn từ đao to búa lớn “Bước lên xác anh em, bán xác anh em” là những kẻ gian dối. Nó đã chứng tỏ kiến thức nhà tù cộng sản quá thấp. Cộng sản không bao giờ tin cả những tên họ xử dụng làm tai mắt cho họ. Hễ tên “ăng-ten” báo cáo một tù nhân nào, ít nhất, hai tù nhân khác bị gọi ra làm việc trước. Và câu hỏi như vậy: “Anh thấy anh X có khả năng làm việc đó, nói điều đó không?” Nếu hai tù nhân “chứng nhân” trả lời “không”, tù nhân bị báo cáo bình yên, và tên “ăng-ten” viết tự kiểm. Tôi đã trải qua ba nhà tù lớn nhất và hãi hùng nhất của miền Nam, tôi chưa thấy một tù nhân nào bị chết vì bị “ăng-ten” báo cáo. Tôi cũng chưa thấy một tù nhân nào được thả sớm nhờ làm “ăng -ten”. Chuyện “ăng-ten” là chuyện nhỏ nhặt đấy. Bạn còn nhớ Vũ Thành An, tác giả Những bài ca không tên chứ? Tất cả viên chức cao cấp “ngụy quyền” ở Lòng Thành đều rõ. Vũ Thành An đã sáng tác ca khúc có đoạn:

                          … Nay mới rõ, đế quốc Mỹ là quân xâm lược
                          Nay mới rõ, lũ ngụy quyền là lũ tay sai
                          Bao nhiêu năm mình cúc cung phục vụ miệt mài …

                          Nhờ ca khúc … nín thở qua câu này, Vũ Thành An ho lao đỡ phải vác cuốc, ngồi nhà làm Thông Tin Văn Hóa tù. Rốt cuộc, anh ta vẫn bị đày ra Bắc và trở về bệnh hoạn tiều tụy. Người ta có nỡ kết án Vũ Thành An làm “ăng-ten”, Vũ Thành An “bán xác anh em” không? Vẫn ở trại cải tạo Long Thành, bác sĩ N. Ng. T. (hiện đang định cư ở Mỹ) phục vụ tại bệnh xá tù, đã tình nguyện vác cả tủ lạnh, ti vi đem vào dâng Trưởng trại Ba Tô để hưởng nhàn, để tích trữ thuốc và để Chánh án Đào Minh Lượng mất nửa lá phổi, để Vũ Thành An ói máu thì sao không ai nói? Chưa đủ đê tiện, bác sĩ T. còn dụ đưa Ba Tô về Sàigòn chơi, cho Ba Tô ăn uống no say, để được ngủ với vợ. Và bầy trò khám các nữ tù trại Long Thành để bọn cai tù … coi xi nê thỏa thích 1. Sao không nghe ai nói nhỉ? Tôi sẽ bênh vực đến cùng, nếu ai bảo Đoàn Văn Toại làm “ăng-ten”. Toại, ban ngày, ở ngoài phè phỡn, ban đêm, vào phòng 7C-1. Phòng 7C-1 có phóng viên lùn Văn Chi, dũng sĩ quốc gia đã đánh hai Pháp kiều thân Cộng treo cờ Giải Phóng ở trung tâm Sàigòn trước 1975. Sau năm 1975, Văn Chi bán phở và tham gia tổ chức phản động. Anh ta đã “chào mừng” tôi bằng trái xoài nhờ Đoàn Văn Toại chuyển. Phòng 7C-1 có tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tàu dầu, tư sản mại bản. Ông Khai có 50 chiếc tàu chuyên chở dầu chiến lược. Ông không tin thủy thủ đoàn Việt Nam, chuẩn bị một chiếc tàu với thủy thủ đoàn Đại Hàn. Chổi cùn, dế rách ở biệt thự nguy nga số lẻ đường Công Lý, đối diện trường Régina Mundi, được khuân hết xuống tàu. Vợ con ông đã đi từ khuya. Ngày 29-4-1975, ông khệnh khạng xuống tàu. Thủy thủ đoàn Đại Hàn ớn cộng sản đã chuồn rồi. Ông tỷ phú đứng khóc. Ông muốn điên. Ông lú lẫn. Ông không kiếm người khác. Ông sợ tàu… chìm. Và ông … vào tù y hệt tinh thần luân lý giáo khoa thư: “Ba quan đắt quá, thà chết còn hơn”. Phòng 7C-1 có cụ Cao Văn Diên, phản động già và cụ Trần Văn Liễu, phản động gân. Nhân vật Cao Văn Diên hiện diện trong Goulag Vietnamien của Đoàn Văn Toại như một ông già bị bắt oan và chết tại đề lao Gia Định. Sẽ đề cập sau.

                          Nhờ thảnh thơi ban ngày ngoài phòng giam, Đoàn văn Toại đã thoát dịch ghẻ 1976 kéo dài từ tháng 4-1976 đến tháng 10-1976. Cuối năm 1976, Toại bị tống vào phòng vì sự liên hệ lèm nhèm nào đó. Chức vụ y tá C-1 rơi vào tay Lý Sen, chủ nhà băng Đông Nam Á, tư sản mại bản Chợ Lớn. Đoàn Văn Toai bắt đầu bất mãn. Vợ anh ta, quốc tịch Pháp, con gái nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, đã ẵm con sang Tây. Toại ở chung phòng với Đặng Giao bên khu A. “Ngày nào thành công, tôi sẽ sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống!” Đoàn Văn Toại tâm sự với Đặng Giao và Đặng Giao kể lại ngày chúng tôi tái ngộ ở Chí Hòa. Rồi Toại được thả, được leo lên máy bay Air France, đoàn tụ gia đình. Tôi vượt biển sang Pháp, biết Đoàn Văn Toại đã kể chuyện đề lao cho Minh Đức Hoài Trinh và Minh Đức Hoài Trinh thông dịch cho một ký giả Tây. Và Goulag Vietnamien xuất bản. Tôi lại biết Toại đã vận động định cư ở Mỹ và theo Trương Như Tảng. Tảng theo Hoàng Văn Hoan, chỉ chống tập đoàn Lê Duẩn – Trường Chinh, chứ không chống cộng sản Việt Nam. Họ đã xác định lập trường. Hồ Chí Minh vẫn là xác chết được tôn thờ. Cậu Đoàn Văn Toại từng bầy tỏ chí khí “Sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống”. Bây giờ, cậu Đoàn Văn Toại “phản tỉnh”, “thức tỉnh”, cậu hò hét “Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. Giữa Toại và tôi đã có biên giới.

                          Mùa thu 1985, Đoàn Văn Toại, qua Paris, với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, mời tôi ăn tối. Với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, tôi nhận lời. Chúng tôi hẹn nhau ở quán Đào Viên quận 13. Đoàn Văn Toại tặng tôi cuốn Goulag Vietnamien. Tôi nói:

                          - Tôi đã đọc. Sách của cậu đáng liệng vào thùng rác. Vì có những ba điều bố láo. Một: Ở đề lao Gia Định, giấy và bút bị nghiêm cấm. Công an kiểm tra hành lý tù thường xuyên, cậu đào đâu ra giấy bút mà lập kiến nghị? Rồi tù nhân bị nhốt kỹ 24 trên 24, cậu liên lạc với ai mà xin được hàng trăm chữ ký? Hai: Cụ Cao Văn Diên phản động nặng, cụ bị đầy lên Pleiku và chết tại Gia Trung, cậu bảo cụ ấy chết ở đề lao. Cậu được tha, cụ Diên vẫn còn nằm ở đề lao. Cụ Diên rời đề lao sau 2-9-1977. Ba: Cậu quả quyết tôi chết rồi. Còn rất nhiều bố láo. Ba điều thôi đã đủ liệng sách “Chứng nhân” của cậu vào thùng rác. Tôi sẽ chửi nhà xuất bản Laffort cái tội rủa tôi chết.

                          Đoàn văn Toại cười cầu tài:

                          - Tôi kể đại ông ơi!

                          Tôi nhìn thẳng mặt anh ta:

                          - Điều nầy ngoài cuốn sách. Cậu là thằng bất nhân. Đã cho tôi chết, cậu còn bảo tôi làm “ăng-ten”

                          Toại chối:

                          - Tôi thề với ông, tôi không hề bêu nhục ông. Đứa nào nói với ông vậy?

                          Tôi chậm rãi:

                          - Bạn cậu, Vũ Ngọc Yên, tạp chí Độc Lập bên Đức.

                          Đoàn Văn Toai câm họng. Tôi cười xòa và bốc anh ta chín từng mây. Toại khoái chí chửi Trương Như Tảng cù lần, Hoàng Văn Hoan đần độn, Nguyễn Công Hoan ngu dốt, Tô Văn cố đấm ăn xôi… Anh ta nói về đài phát thanh sẽ lập ở Tân Gia Ba, gợi ý mời tôi bằng cách than thở thiếu nhân tài. Nội tình của phe nhóm anh ta, anh ta kể vanh vách. Tôi nghĩ thầm: Mẹ kiếp, mày nhóc tì, tuổi ít hơn ông, ngu hơn bò mà cứ đòi đi mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc ông à? Ông vừa trổ đòn nhà báo, mày đã tự khai vung xích chó. Hết chai rượu đỏ, tôi nói:

                          - Thôi nhé, chut tình đồng tù đề lao đến đây chấm dứt. Cậu đi đường cậu, tôi đi đường tôi. Mai này tôi đánh, cậu rán mà đỡ. Tôi thích sòng phẳng.

                          Chúng tôi chia tay. Ít tháng sau, Toại gửi cho tôi một bức thứ từ Liễu Châu. Anh ta ba hoa: “Đã thăm mộ các liệt sĩ quốc gia, sẽ không còn sai lầm như họ”. Tôi suýt chửi thề. Đó, người y tá tù đề lao Gia Định khu C-1, nhà cách mạng lưu vong Đoàn Văn Toại, với đầy đủ tài năng và tư cách, người đang chu du thế giới bằng tiền Tàu, tranh đấu cho giấc mộng Tôn Sĩ Nghị cùng đám Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng. Và tôi, tôi ngồi trên lầu 8 của cái immeuble bên bờ sông Seine, thành phố có thị trưởng Jacques Laloe, là đảng viện cộng sản, có tổng hành định của Georges Marchais, Tổng bí thư Đảng cộng sản Tây, viết sách mưu sinh. Bởi nghèo, nên bị cư trú tại Ivry Sur Seine. Bởi chống cộng, nên bị Jacques Laloe lờ tít mọi trợ cấp xã hội, y tế. Không sao, tôi đã chống cộng, tôi đang chống cộng, tôi còn chống cộng đến tối. Tôi anh dũng thấy mẹ, tôi chống cộng trong lòng địch!

                          Trở lại đề lao Gia Định, nơi tôi đang học môn Thống Khổ Nhập Môn. Tôi ở 6C-1 đã 2 tuần, đã quen với sinh hoạt phóng này. Tôi không còn gớm ghiếc nhìn đống mài ghẻ mà trực sinh quét gom buổi sáng. Bạn thử tưởng tượng mài ghẻ mủ và mủ ghẻ dính nhớp nhúa trên bục nằm, mỗi sáng. Người ta phát cho chúng tôi miếng bố tời, vừa để chùi chân bước lên cầu tiêu vừa để lau bục nằm. Ở đề lao, dép cất kỹ trong bị, chỉ mang khi bị gọi lên phòng chấp pháp làm việc. Làm việc, danh từ cộng sản, có nghĩa là làm việc với công an, có nghĩa là viết tự khai và chịu đựng những cuộc thẩm vấn điên đầu. Người cộng sản chơi chữ rất xảo quyệt. Một ông Ba Tàu đã phát biểu ý kiến ở phòng B, Sở Công An: “Lù má ló, pắt pỏ tù lại pảo li học tập. Lấy cung lại pảo làm việc. Nhà tù lại pảo trường học. Cai ngục lại pảo quản giáo, cán pộ!” Chữ nghĩa của cộng sản đã huyễn hoặc thế giới. Cho đến hôm nay, báo chí người và cả báo chí mình vẫn viết nhà tù, trại tập trung khổ sai lao động là Trại học tập cải tạo! Ở khắp nơi tôi đi làm chứng nhân, người ta đều hỏi tôi: “Ông được học tập ra sao?” Và tôi đã trả lời: “Tôi chẳng được dạy dỗ gì cả. Người cộng sản có một mục đích rõ rệt. Họ làm chúng tôi sợ hãi, bắt chúng tôi khổ cực và bỏ chúng tôi đói. Càng kéo dài sự sợ hãi, khổ cực và đói, chúng tôi càng sa sút tinh thần. Khi biết chúng tôi tàn lụi ý chí phấn đấu, đó là lúc họ thả chúng tôi về. Và họ đã đạt kết quả. Đa số, chúng tôi về mất trí, thành phế nhân. Có nhiều người đã được xuất ngoại chính thức theo chương trình ODP, sang Mỹ, sang Tây … vẫn chưa hết ngẩn ngơ, ngơ ngác. Chúng tôi học tập sợ hãi, khổ cực và đói. Bất cứ tù nhân nào vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói, thì sẽ tự học ở đó những ý nghĩa rạng ngời của cuộc sống, của lý tưởng chiến đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.” Tôi không dám nói thêm: "Nhưng không dám vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói thì sẽ ăn vụng thịt dưới bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cơm heo và tự đòng hóa mình với súc vật". Vậy thì, làm việc là danh từ hãi hùng của tù nhân. Bạn sẽ mệt lữ cò bơ với làm việc. Làm việc ở đề lao Gia Định, là bị truy nã dĩ vãng, hiện tại; ở Chí Hòa là bị đánh học máu mồm; ở các trại tập trung là vào nhà lô, ăn đòn nhừ tử.

                          Tôi chưa bị ghẻ. Hồng Dương đã bắt đầu. Nhờ không biết ăn mắm ruốc và cá biển, một vài mụn ghẻ nước của tôi chịu thuốc xanh ngay. Tôi dùng mũi kim băng khều mụn, nặn đến máu chảy ra rồi thấm khô, chấm thuốc. Là mụn ghẻ mọc mài. Mỗi tù nhân đề lao đều có một cái kim băng và phải dấu kỹ. Khi bị ngứa, ngày cũng như đêm, tôi lấy bàn chải đánh răng chà lên chỗ ngứa. Nếu gãi bằng móng tay, gãi cho đã, da sẽ bị xước. Và chỉ cần da xước một tí là ghẻ mủ cấp kỳ. Ghẻ nhà tù “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn xã hội chủ nghĩa. Hàng chục thứ bệnh truyền nhiễm ở phòng giam tập thể, nhưng tù nhân không được chích thuốc ngừa. Sự khôn ngoan chống ghẻ của tôi bắt tôi phải đánh răng bằng cái bàn chải tôi đã gãi khắp thân thể. Không có sự khôn ngoan nào không bị trả giá. Sự khôn lớn của con người bị trả giá đắt nhất. Phòng 6C-1, ngoài mấy tên trộm cắp vô lại, mấy tên Mafia cơm nước, mấy “chuyện buồn nhỏ nhặt”, không đáng chi phải để phòng. Tôi yêu nhóm anh em trẻ phản động Hóc Môn, Bà Điểm. Người của Mười tám thôn vườn trầu đã được hai kép hát Út Trà Ôn và Thành Được diễn tả điêu luyện và rung động trong Người ven đô như những chiến sĩ “Chống Mỹ cứu nước” phi thường lại cũng chống cộng cứu nước phi thường. Nếu tôi đã ngờ vực Trương Phiên, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và tin tưởng tinh thần chống cộng của nông dân trẻ miền Nam. Bắt đầu, ở phòng 6C-1, tôi suy nghĩ về cuộc tân cách mạng Tây Sơn 2. Tôi đã nói chuyện nhiều với nhóm anh em Mười tám thôn vườn trầu. 6C-1 có một người tên Nga, tâm sự na ná Moritz của Gheorghiu. Anh ta nuôi heo cho một chủ trại ở Thủ Đức. Vợ anh ta đã chết. Anh ta làm gà trống chăm sóc đứa con gái 8 tuổi. Chủ trại bị bắt. Anh Nga bị bắt theo. Người ta chụp lên đầu anh cái mũ phản động … nuôi heo để dễ ăn cướp bầy heo. Anh Nga xin đem con gái vào tủ. Người ta từ chối. Cả ngày, anh ta ngồi xổm trên thành hồ nước hết khóc lại thở dài. Này bạn chống cộng sản và bạn thân cộng sản, có bao giờ bạn thấy một người vô sản ngồi khóc nhớ con trong nhà tù cách mạng vô sản về tội nuôi heo? Chẳng bao giờ bạn thấy cả. Vì bạn không bao giờ ở tù cộng sản. Vậy bạn nên suy nghĩ về cái gọi là bản chất và hiện tượng cộng sản, xuyên qua thân phận người vô sản cùng khốn tên Nga. Chừng suy nghĩ đắn đo, chín muồi, bạn sẽ có thái độ chính trị quyết liệt, dù chống cộng hay thân cộng. Tôi vốn khinh bỉ mọi sự làm dáng chính trị. Nó không thấm khô nước mắt của anh Nga nuôi heo, nó không lau sạch mủ ghẻ trên bục xi măng nhà tù.

                          Tôi chưa kể chuyện người bạn tuổi nhỏ của tôi, nhà văn Từ Kế Tường, cũng bị bắt, bị đưa về đề lao Gia Định và đã tạm trú ở 7 C-1. Từ Kế Tường trốn quân dịch. Giám đốc Nha Quân Pháp của Bộ Quốc Phòng ký cho cậu ta đầy đủ giấy tờ hợp lệ như một sĩ quan. Từ Kế Tường lãnh lương và đóng thêm tiền mồ hôi nước mắt, nộp cho cai thầu lính kiểng. Cậu ta mặc quân phục, mang phù hiệu quân pháp, đeo lon thiếu úy công khai. Sau hai năm, lên trung úy. Từ Kế Tường dại dột diện quân phục về ngõ nhà mình. Khi các sĩ quan đi trình diện học tập hết, không thấy Từ Kế Tường ra đi, mấy đứa ác độc gần nhà cậu ta tố cáo cậu ta trốn học tập cải tạo. Từ Kế Tường bị bắt. Nằm đề lao chưa kịp ghẻ, nhờ ông bố tập kết bảo lãnh nên hồ sơ… lính kiểng được cứu xét lẹ. Từ Kế Tường về đời xã hội chủ nghĩa, làm tới chức Chủ nhiệm Nhà Văn Hoá quận 4. Báo Tuổi Ngọc phá kỷ lục vào tù. Chủ nhiệm Duyên Anh, chủ bút Đinh Tiến Luyện, thư ký tòa soạn Từ Kế Tường. Cuối năm 1981, được tin tôi ra trại, Từ Kế Tường, Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện đến thăm tôi. Luyện đã phiêu lưu các trại tập trung Suối Máu, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân và làm nghề buôn bán hạt giống, nước mắm. Trịnh làm công nhân xưởng dệt quốc doanh, cộng tác với báo Tuổi trẻ. Pham Đình Thống bán thuốc tây chợ trời. Chúng tôi vẫn dành cho nhau nguyên vẹn tình cảm nhưng tư tưởng đã tạm ngăn cách. Và đó là nỗi buồn của chúng tôi. Pham Đình Thống khấm khá nhờ những kinh nghiệm và thủ đoạn chợ trời. Trước ngày tôi bỏ Sàigòn, Thống mở hiệu bán thuốc với công ty bằng hữu ở đường Đồng Khánh. Chẳng biết hiệu thuộc của Thống còn tồn tại? Từ Kế Tường đã bị loại khỏi sinh hoạt văn nghệ. Nguyễn Thanh Trịnh mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn ca ngợi lao động sản xuất. Đinh Tiến Luyện vượt biên hoài không nổi, đành kết hôn với một nữ thuyền nhân hụt và yên phận chọn Tam Hiệp, Biên Hòa. Luyện đã có con gái đầu lòng. Cuộc đời đã đổi thay hết.

                          Một thứ không hề thay đổi. Là cung cách chiến đấu chống cộng sản. Một thứ dừng lại. Là tư tưởng văn chương của các tiên chỉ, lý trưởng văn nghệ. Một thứ trở về. Là lối kiếm tiền chụp giật để chóng giàu. Một thứ tiến bộ. Là tinh thần ăn cắp, ăn quỵt, chụp mũ.

                          Đầu tuần lễ thứ ba, sau khi điểm tâm, chúng tôi được lệnh chuyển trại cả phòng. Lệnh khẩn trương. Tù nhân hạ bị, giỏ, tháo gỡ hết giây, gom góp mọi đồ “tế nhuyễn”, đem ra xếp thứ tự thành một hàng dài ngoài hành lang. Tất cả sợ hãi và băn khoăn. Ngày mai thăm nuôi, chuyển trại đột xuất, chưa kịp báo tin, vợ con khuân quà cáp tới sẽ mất công khuân về và sẽ lo lắng không hiểu chồng, cha mình ở đâu. Như ở bên Sở, tù nhân được nhận quà của gia đình mỗi tuần một lần. Ngày này, danh từ cộng sản gọi là ngày thăm gặp. Thực ra, không có thăm, cũng chẳng có gặp. Thân nhân bỏ quà cáp (thịt khô, mì vụn, mắm ruốc, nước mắm, kẹo bánh, cà phê, thuốc lá, thuốc bệnh, thuốc rê, thuốc lào, giấy quấn, diêm quẹt, trái cây… và 10 đồng) vào bị cói hay túi vải, túi phân bón, kèm tấm giấy ghi các món quà. Công an kiểm soát các món ở sân ngoài, rồi ký tên xác nhận lên tấm giấy “danh sách quà cáp”. Món nào cấm, công an gạch xóa. Được nhận quà, thân nhân tin là tù nhân không bị kỷ luật, bèn về ngay. Những người được Sở cho phép gặp tù nhân thì ngồi chờ trong phòng khách. Các Trưởng phòng khiêng những túi quà vào một căn nhà khám xét quà cáp của khu mình. Đề lao Gia Định có ba khu, mỗi khu một ngày nhận quà. Ở căn nhà khám xét, công an chiếu cố quà cáp kỹ lưỡng. Món nào dính dáng tới nước mắm, bị đổ ra cái thau nhựa. Đũa, muổng, dĩa khoắng, quậy, gắp, rỉa xem có thư gửi lén. Rồi lại dồn vô túi ni-lông. Thịt kho ướp mắm ruốc, cá kho là vì cái thau nhựa bới tung mắm ruốc, cá kho bới tung thịt.. Đường, cà phê… bị nắn bóp. Bánh chưng bị cắt làm tư. Quà tù nghe chừng cũng đau đớn. Dưới mắt công an cộng sản, cái gì của tù nhân phản động đều … phản cách mạng cả. Thuốc lá bị xé bao, dẫu là thuốc lá cách mạng, dồn vào túi ni lông. Dồn cả 200 điếu. Vẫn thuốc lá ấy, nhà tù mua giùm tù nhân thì để nguyên trong bao! Khám xét … nát quà cáp, rồi vất bừa vô bị, vô giỏ. Lúc ấy, trưởng phòng khiêng về cửa phòng theo tên tù nhân và số phòng. Cai ngục mở cửa. Tù nhân dở đồ ra sắp xếp. Chuối là dập nát. Xoài là dập nát. Bún chả tanh mùi cá. Phở xào nặng hương vị mắm tôm. Mì vụn vương đầy thuốc rê. Thăm gặp, dùng chữ của công sản, là một thủ đoạn. Đừng tưởng cộng sản ban phát ân huệ. Thăm gặp nhằm những mục đích:

                          * Chính sách cải tạo của Đảng và Nhà Nước nhân đạo.

                          * Đỡ tốn thức ăn và thuốc men.

                          * Tù nhân dinh dưỡng bằng thực phẩm của gia đình mình sẽ khỏe mạnh để ở tù lâu.

                          * Cho tù nhân hưởng phè phỡn thành thói quen. Sẽ dọa cúp thăm gặp làm áp lực tình cảm và vật chất.

                          Bởi vậy, ngoài thăm gặp hàng tuần, còn cho mua hàng hóa hàng tuần. Tù nhân sợ chuyển trai, phần lớn, vì sợ mất liên lạc gia đình, ít ra, nửa tháng. Đến trại mới được gửi quà.

                          Sau khi tù nhân ra ngoài hết, cửa phòng khóa chặt. Mỗi tù nhân đứng cạnh hành lý của mình. Cai ngục điểm số. Chúng tôi, từng người đọc tên và số thứ tự xếp hàng.

                          - Số 1, Vũ Mông Long.

                          - Số 2, Nguyễn Thanh Chiểu.



                          - Số 52, Lâm Văn Thế.

                          Điểm số xong, cai ngục nói:

                          - Các anh nhớ số của mình.

                          Cửa phòng lại mở. Chúng tôi nhận lệnh trở vào. Cai ngục gọi:

                          - Số 1.

                          Tôi hô “có” và đi ra. Cai ngục bắt tôi đứng nghiêm, dơ hai tay lên. Hắn rờ nắn thân thể tôi khám xét túi quần, túi áo tôi. Những tên vệ binh đeo súng ngắn, đứng canh chừng. Khám người xong, cai ngục bảo tôi đổ từng đồ “tế nhuyễn” ở túi, bị, giỏ ra. Hắn kiểm soát từng món, cật vấn đủ điều. Thư vợ tôi gửi, cai ngục tịch thu. Ảnh vợ con tôi, hắn giữ lại “nghiên cứu”. Hành lý của tôi bừa bãi trên nền xi măng của hành lang khu C. Cai ngục hạ lệnh “Khẩn trương”. Tôi quơ vội nhét vào giỏ, bị. Nước mắm lẫn với quần áo. Tôi được đem hành lý vào phòng. Tù nhân thứ hai, Nguyễn Thanh Chiểu, bị gọi ra. Cứ vậy, tới tù nhân số 52. Một buổi tổng kiểm tra phòng. Cai ngục nói dối chuyển trại để tù nhân có cất dấu cái gì trong phòng cũng sẽ phải thu quén bỏ hết vào bị. Thêm một thủ thuật. Thủ thuật biến ảo. Nó không thành qui luật chết. Nên tù nhân mắc bẫy dài dài. Lần sau chuyển trại thật sự, tù nhân tưởng tổng kiểm tra, công kênh nhau dấu những thứ cần dấu trên những xà gỗ trần phòng. Thế là vất lại những gì đã dấu. Nửa tháng, có khi một tuần, tù nhân, tiếc rẻ món này bị tịch thu, mừng húm món kia thoát nạn. Là đầu óc bớt căng thẳng, sự nổi loạn ở phòng giam được bảo đảm. Tôi đã nhìn rõ tôi qua hình ảnh Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí và tất cả tù nhân đề lao ngoài ánh sáng. Mặt chúng tôi trắng bệch, ngơ ngác. Mới đứng tại hành lang khám tư trang của tù nhân đã thấy mình hèn mọn. Mọi sự hung hăng biến đâu mất. Tôi chợt nhớ bài thơ L’albatros của Beaudelaire. Con hải âu đã rơi xuống sàn tàu. Tôi chợt nhớ bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Con hổ đã nằm trong chuồng. Tôi chợt nhớ thiên hồi ký ngắn của Nguyễn Mạnh Côn, nhắc lại kỷ niệm ở tù Việt Minh với nhà văn Trọng Lang 3. Anh Nguyễn Mạnh Côn, viết rất thật, rất người rằng, vì thương con, Trọng Lang đã lạy cộng sản để nó đừng giết mình. Trọng Lang đã phản ứng bằng cách miệt thị Nguyễn Mạnh Côn nói láo. Tôi vừa tìm ra sự thật. Chưa có ai lạy cai ngục cả. Nhưng tất cả đều lễ phép khi bị cai ngục cật vấn, xét hành lý. Tôi lại chợt nhớ lời khuyên của Thanh Thương Hoàng bằng thơ Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”.

                          Chúng tôi ăn cơm trưa muộn. Vì bận bịu sắp xếp và treo hành lý tù. Buổi trưa, không ngủ, tôi mò sang chỗ ông Lâm Văn Thế đánh cờ tướng. Đánh cờ để tâm sự. Chúng tôi nói thật nhỏ.

                          - Ông Thế, ông nghĩ bao lâu họ thả chúng ta?

                          - Chịu. Không ai đoán nổi. Mọi suy nghĩ về cộng sản của người quốc gia đều sai hết. Ông sẽ đi lao cải, sẽ về, tùy vào sự ổn định tình hình sớm hay muộn.

                          - Còn ông?

                          - Tôi sẽ ở đây với các ông Thái Đen, Nguyễn Thiện Giai, Như Phong chờ phép lạ. Hai nơi đến và đi của chúng tôi: Sở và Đề Lao. Người ta không cho chúng tôi ra ánh sáng đâu.

                          - Tại sao?

                          - Chúng tôi là tự điển!

                          Tự điển, ông Lâm Văn Thế, thiếu tá cảnh sát đặc biệt giải thích:

                          - Tôi đặc trách một cụm tình báo. Rất nhiều cộng tác viên tình báo không có tên. Họ lãnh lương bằng hàng trăm mật danh ổi, xoài, mít… Tôi cũng không thể biết mặt họ toàn thể. Một số nào quan trọng thôi. Cơ quan của tôi, kẻ đã di tản, người trốn trình diện. Và tôi bị bắt ngay đêm 30-4. Tình báo đánh giá đúng mức tình báo. Họ dùng tôi làm tự điển.

                          - Họ tra … ông?

                          - Phải. Bắt được nhân viên của tôi trốn trình diện hay một người họ ngờ vực là cộng tác viên của tôi, trước hết, họ khai thác người bị bắt. Nếu người bị bắt chối, họ bảo người bị bắt làm tự khai danh dự, chấp nhận mọi hậu quả nếu gian dối. Rồi họ gọi tôi ra. Họ nêu tên tuổi người bị bắt, hỏi tôi có quen biết không. Tôi nói không quen, họ dẫn tôi về phòng. Rồi họ lại gọi tôi ra, cho tôi gặp mặt người mà tôi nói không quen biết. Họ quan sát mặt chúng tôi, cử chỉ của chúng tôi để tìm ra sự thật.

                          - Nếu ông trả lời ông quen biết?

                          - Thì người chối không hề quen biết tôi can tội gian dối. Và anh ta đích thị là công tác viên tình báo.

                          - Có trường hợp ngược?

                          - Có chứ. Tôi đâu biết người bị bắt khai làm việc với tôi, tôi nói không quen. Họ dí vào mặt tôi tờ tự khai và dẫn người bị bắt ra gặp tôi.

                          - Rồi sao?

                          - Tôi bắt buộc phải làm tự điển trung thực.

                          Ông Thế buồn bã:

                          - Với công ăn ở bất cứ chế độ nào ông có thể dấu diếm được tư tưởng trong đầu óc ông mà không thể dấu diếm được các sự việc đã xảy ra. Ngoài tôi, còn các cuốn tự điển khác mà tôi không biết. Có lẽ, họ cũng bị bắt sớm như tôi. Cá nhân tôi, tôi cũng chẳng rõ ai chạy thoát, ai kẹt lại, ai trình diện, ai bị bắt, ai còn lẩn trốn. Họ sợ tình báo, họ cần quét sạch tình báo, từ lính đen sĩ quan, từ gác cổng đến bưng nước văn phòng.

                          Tôi hỏi:

                          - Như Phong dính dáng tình báo?

                          Ông Thế đáp:

                          - Ông ấy là tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng.

                          Tôi đã thấy Trịnh Quốc Tài tự tra … tự điển bên Sở Công An. Và tôi đã thấy ông ta tra bạn tôi, Thanh Thương Hoàng.

                          - Họ cũng tra tự điển tôi về các nhà văn, nhà báo. Cơ quan của tôi không phụ trách “hồ sơ” văn nghệ sĩ.

                          Chúng tôi ngừng cuộc cờ. Tôi trở lại chỗ của tôi, ngồi dựa lưng vào tường suy nghĩ. Có hai đối tượng cộng sản đang truy lùng: Tình báo và đảng phải. Cộng sản thù hận các đảng Đại Việt, Duy Dân, Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là mối thù “truyền kiếp”. Rất nhiều đảng viên của ba đảng này không trình diện và tiếp tục chống đối cộng sản. Cụ thể hóa sự sợ hãi và lòng thù hận của cộng sản là Mai Chí Thọ đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân, vây bắt trọn vẹn đàn ông (thanh niên, phụ lão) của hai làng Sống Vinh (Bà Rịa), hai làng do Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập trong kế hoạch khẩn hoang lập ấp của Phan Quang Đán. Họ sợ hãi những nhân vật chìm, những con bài chưa lật tẩy. Thứ đã lật tẩy, đã om sòm tên tuổi cỡ Vũ Hồng Khanh, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, Phạm Huy Cơ, đi hay ở, chẳng có gì quan trọng. Vũ Hồng Khanh, kẻ ngang vai vế với Hồ Chí Minh (Ở bối cảnh lịch sử 1946, còn trên cơ là khác), đã lẽo đẽo đi trình diện, đã trả lời câu hỏi “Tai sao ông chống cộng?” của tên thiếu tá quân đội nhân dân như vầy: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Câu trả lời bất hủ nầy phẩm định giá trị chiến đấu của đại lãnh tụ quốc gia. Ông Vũ Hồng Khanh đã già lắm, đáng lẽ, ông đã khước từ trình diện và chỉ chấp thuận trả lời Phạm Văn Đồng, Trương Chinh. Ông đã sợ … chết già. Ông ta ham sống như bọn lãnh tụ già bất tài vô tướng ham sống vậy. Câu trả lời bằng tiếng nói đích thực của Vũ Hồng Khanh đã được truyền thanh khắp nước, ròng rã hàng tháng. Biểu tượng quốc gia bị bêu nhục. Ông giáo Giản 4 đã tiêu diệt các đảng phải quốc gia nhỏ để Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông chiếm đa số ghế trong Quốc Hội bịp 1946. Ông giáo Giản suýt thủ tiêu Nguyễn Mạnh Côn (Việt Nam Phục Quốc Đảng), nếu Nguyễn Tường Tam không kịp can thiệp 5. Nhà lãnh tủ đa sát này đã đứng giữa hoàng hôn giăng giối: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Tú (ký giả nhật báo Chính luận, tên thật Nguyễn Ngọc Tú, nhân vật quan trọng của Đại Việt quan lai, từng chấp chính giữ ghế Tổng Giám đốc Nha Thanh Niên thời Tổng Trưởng Nguyễn Văn Kiểu) bị bắt ngay đêm 30-4-75 mà Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng, Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng vẫn đạp xe mini suốt tháng 5-1975, Tự điển người! Ghê gớm thay thủ đoạn cộng sản. Tôi bắt đầu lo ngại cho Thanh Thương Hoàng.

                          Anh ta đã thức giấc đúng lúc nước sôi buổi chiều vào. Thanh Thương Hoàng pha cà phê mời tôi uống.

                          - Vụ ấy, mày không nhận là may. Anh em bảo mày OK.

                          Tôi ngẩn tò te.

                          - Vụ nào?

                          Thanh Thương Hoàng cười ruồi:

                          - Vụ anh em đưa vợ con mày đi.

                          Tôi nhớ rồi.

                          - Bị bắt hết. Bị Mai Chí Thọ cài người gài bẫy bắt hết.

                          - Có chuyến đi?

                          - Có. Chuyến đi dính lưới toàn bộ.

                          - Có chiến khu?

                          - Có. Một nhóm sĩ quan, một nhóm lính. Đang nằm trong tay Quân Báo bên Tô Hiến Thành.

                          - Sao mày biết?

                          - Tao không dám ta-pi. Tao từ chối. Một người quen thoát lưới chuyến đi, nhờ hối lộ tên công an Phước Tỉnh hai lạng vàng, cho tao rõ. Mấy hôm sau, người ấy báo cáo thêm cả tổ chức bị sa lưới.

                          - Không phải là tao không nhận. Vợ tao đau nặng hôm đó.

                          - Vận may. Đàn bà con nít không nên vào tủ. Họ phải ở ngoài tiếp tế cho bọn mình.

                          Thanh Thương Hoàng thở dài:

                          - Bốn phương mù mịt cả. Tổ chức nào cũng dính lưới. Có tổ chức cài người vào Phường, khi bị công an bảo vệ chính trị bắt, Phường trưởng không tin người bị bắt là phản động. Trước hôm mày vô 6C-1, thằng Chín bị đổi phòng. Nó được cài vào huyện đội công an Thủ Đức. Nó chửi Mỹ tổ chức chống cộng rồi xúi cộng sản bắt!

                          Tôi bỗng nhớ Trương Phiên. Người Mỹ âm mưu gì nữa? Tôi hoàn toàn mù tịt. Vỗ vai Thanh Thương Hoàng, tôi hỏi:

                          - Mày thận trọng nhé! Tao thấy thằng Trịnh Quốc Tài viết báo cáo có tên mày, Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc. Mày dính dáng Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình báo hả?

                          Thanh Thương Hoàng giật mình:

                          - Không, không…

                          Tô Ngọc phục vụ cảnh sát đặc biệt để trốn lính như Y Vân. Trịnh Viết Thành làm báo Quật Cường của Trung ương Tình báo với Anh Quân. Còn Thanh Thương Hoàng chỉ tai tiếng vụ Làng Báo Chí. Anh ta có dính liếu với Trung ương Tình báo hay không, tôi không biết. Nhưng khi tôi nhắc nhở anh ta có tên trong báo cáo của Trịnh Quốc Tài, anh ta rầu rĩ vô cùng. Sáng hôm sau, cai ngục đến 6C-1 trước giờ phát nước sôi. Tên hắn là Sáu, dân Sàigòn, vì bị lé nên tù nhân tặng hắn biệt danh Sáu lé.

                          - Nguyễn Thanh Chiểu.

                          - Có

                          - Mặc quần áo ra làm việc.

                          Thanh Thương Hoàng vội vàng mặc bộ bà ba vải mỏng, mầu gụ. Anh ta cầm đôi giép Nhựt bước tới cửa phòng. Tù nhân ra làm việc, bất kể làm gì, đều phải ăn mặc tươm tất, đi giép. Đầu tóc có thể rối bù. Râu ria có thể rậm rạp. Quần áo không thể thiếu nghiêm chỉnh. Ở đề lao, hàng tháng, tù nhân được cắt tóc, cạo râu một lần. Tù cắt tóc cho tù. Cai ngục đứng giám sát. Cuối khu C-1, người ta dựng cột lợp tôn làm cái chái. Do đó, phòng 7C-1 thiếu ánh sáng. Tù nhân khu C-1 ra cắt tóc ở cái chái nầy. Buổi sáng một phòng. Buổi chiều một phòng. Ba thợ cắt tóc tù làm việc khẩn trương. Cai ngục mở cửa. Ba tù nhân ra một lượt. Cửa khép chặt, ấn khóa. Không có khăn quàng. Không có dao cạo. Không có kéo. Không có gương. Tông-đơ Trung quốc lưỡi thưa, thứ tông đơ cắt lông ngựa liếm tóc tù nhân. Giáo điều cắt tóc của cách mạng vô sản:

                          - Cắt dài là thiếu nếp sống văn hóa mới.

                          - Cắt trọc là chống đối.

                          Bởi thế, tông-đơ đẩy lưng chừng. Đẩy xong những đường tóc, tông-đơ đẩy râu ria. Tông-đơ chấm bát luôn. Năm phút một cái đầu. Cằm bị chảy máu, mép bị chảy máu, ráng chịu. Tông-đơ nhai tóc, đừng kêu ca. Ba anh này vào, ba anh kia ra. Anh nọ soi gương bằng cách nhìn đầu anh kia. Thấy mình giống quái vật. Cắt tóc xong thì bước vô phòng tắm, dùng khăn khô phủi tóc cho nhau, đợi sáng mai hãy tắm (nếu cắt tóc chiều). Ngủ một đêm với tóc vụn dính mồ hôi có sao. Ngứa thì gãi chung với gãi ghẻ cho tiến bộ, đuổi kịp nếp sống văn hóa mới.

                          Đầu tóc, râu ria Thanh Thương Hoàng khiếp lắm. Rõ là thằng tù! Sáu lé mở cửa. Hắn khóa lại. Tù nhân đi trước, cai ngục đi sau, đề phòng đánh lén. Cách mạng luôn luôn cảnh giác cao. Sau bữa ăn sáng, Thanh Thương Hoàng trở về. Anh ta mệt mỏi, bỏ cơm. Kẻng tù báo thức giấc trưa, anh ta ra làm việc. Cứ vậy, sự làm việc của Thanh Thương Hoàng kéo dài cả tuần. Trong khi ấy, Chóe, Hồng Dương, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn và tôi chưa bị gọi ra. Một buổi tối, chúng tôi ngồi bên nhau hút thuốc lá, chuyện gẫu. Thanh Thương Hoàng nói :

                          - Tao đã kết thúc tự khai.

                          Anh ta kể:

                          - Tao viết một câu rất hòa giải dân tộc.

                          Thanh Thương Hoàng đọc:

                          - “Chúng tôi sẵn sàng bắt tay với các anh xây dựng lại đất nước”.

                          Hồng Dương dẫy nẩy:

                          - Hỏng rồi.

                          Thanh Thương Hoàng vốn phục Hồng Dương thông minh, đọc nhiều. Anh ta hỏi.

                          - Hỏng sao?

                          Tôi nhanh miệng đáp:

                          - Mày bỏ tù nó, mày viết thế là mày cao thượng, quốc gia cao thượng. Nó bỏ tù mày, mày nói thế là mày xấc. Nó sẽ hành mày. Nó ví chúng ta là thú vật. Mày hiểu chưa? Nó đòi cắt đuôi chúng ta để chúng ta làm người. Sức mấy nó chìa tay cho mày bắt. Xấc thì hay đấy nhưng thiếu lô-gích. Thằng nào chấp pháp mày?

                          - Hai Nghiêm.

                          - Dân gì?

                          - Quảng Bình.

                          - Nó đọc chưa?

                          - Rồi.

                          - Phát biểu?

                          - Tốt.

                          Hồng Dương lắc đầu. Hôm sau, Thanh Thương Hoàng lại lên làm việc. Lúc về, anh ta uể oải:

                          - Chúng mày đúng. Nó bảo tay tao chưa sạch tội ác. Tao chuẩn bị vào cachot. Nó bảo vậy.

                          Thanh Thương Hoàng sửa soạn hành lý. Ngay buổi chiều, anh ta rời phòng 6C-1 vào cachot số 4 của khu C. Thanh Thương Hoàng nằm cachot một tuần thì bị đưa trở lại Sở Công An. Từ đó, tôi mất tin anh. Tháng 9 năm 1981, về đời, tôi biết anh bị lưu đày lên Pleiku cùng chuyến đi với Doãn Quốc Sĩ. Gặp Sĩ, anh nói tác giả Cánh chim mỏi rã rượi lắm. Anh ta rụng hết răng, tê liệt. Người vợ thứ nhất của Thanh Thương Hoàng là con gái của Lê Khải Trạch đã không còn ở với anh từ lâu. Mọi sự nuôi anh trong tù do người vợ thứ hai. Người nầy tiếp tế anh đầy đủ. Nhưng chị ấy đã vượt biên. Người vợ thứ nhất lo việc tiếp tế. Chị ta nghèo, thiếu phương tiện thăm chồng xa xôi. Thanh Thương Hoàng trở thành “con bà phước” ở rừng núi Gia Trung 6. Anh ta hào sảng lắm, ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định. Trên Pleiku có ai hào sảng với anh? Tất cả đã là tù nhân. Tất cả đều là bạn tù. Bạn tù trong danh ngôn nghiệt ngã “Bạn tù, tình nhà thổ”. Khi nỗi khổ kéo dài mòn mỏi, khi sự phú quý đi giật lùi, con người đâm ra bần tiện, chỉ còn biết nghĩ đến mình. Mọi thù hận lẫn nhau phát xuất từ đó. Anh em nguyền rủa lẫn nhau, nói xấu lẫn nhau. Ra khỏi tù, anh em không quên thù hận, vẫn nguyền rủa nhau, nói xấu nhau, gặp nhau không thèm nhìn mặt. Đó là mục đích trong những mục đích của học tập cải tạo tư tưởng!
                          --------------------------------
                          1 Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả, Nam Á Paris xuất bản 1985.
                          2 Trong bộ tiểu thuyết Hồn Say Phấn Lạ, tôi khai triển tư tưởng cách mạng Tây Sơn.
                          3 Đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, tôi quên số và tháng, năm phát hành.
                          4 Vũ Hồng Khanh, xuất thân là giáo làng.
                          5 Đọc Hồi Ký Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí Bách Khoa.
                          6 Nghe nói anh đã được tha vào năm 1986.

                          Comment


                          • #14
                            13.

                            Cùng buổi chiều Thanh Thương Hoàng vào cachot, Hồ Văn Đông, Trịnh Viết Thành, Như Phong, Doãn Quốc Sĩ cũng túi bị vào cachot. Chủ nhiệm nhật báo Quyết tiến trụ trì cachot số 6. Chủ bút nhật báo Quật Cường trụ trì cachot số 3. Tác giả Sầu mây chiếm cachot số 11. Tác giả Khói Sóng 1, cuốn tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng, cắm dùi ở cachot số C-2. Những cachots còn lại của C-1 dành cho quý vị đại đức Ấn Quang. Thượng tọa Thích Quảng Độ trụ trì cachot số 7. Được đúng tuần lễ, kể từ hôm Thanh Thương Hoàng giã từ 6C-1, ba chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hải Chí, Duyên Anh, nhận lệnh rời phòng. Người công an chấp pháp nói: “Các anh cần đổi nước”. Chúng tôi đã tưởng đi xa. Cuối cùng thì Nguyễn Hải Chí sang khu A; Hồng Dương và tôi vào 1C-1, cái phòng bẩn cả nội dung lần hình thức. Thời gian này, cửa nhà giam đã trổ rộng một nửa gần chấn song và ống nước đã vô phòng. 1C-1 hưởng dưỡng khí và ánh sáng 24/24 đầu tiên. Trưởng phòng 1C-1 tên là Nguyễn Hữu Trí. Hắn vốn làm tài xế tắc xi sau khi giải ngũ. Ở quân đội, hắn đeo lon thượng sĩ. Hồng Dương miệt thị hắn là Trá xế. Trí cấu kết với Viên và Quang. Về sau ba đứa tách rời. Cả ba cùng vượt biên đường bộ, bị bắt ngay tại bến xe đò Pleiku. Phó phòng tên Đảm, quen biết chúng tôi bên Sở Công An. Đa số tù nhân bên 1C-1 là những người tuổi trẻ, đủ thành phần, vượt biên đường bộ, từ Pleiku, Bạn Mê Thuột chuyển về.

                            Chế độ nhà tù ở Pleiku, Ban Mê Thuộc hết sức tồi tệ. Tù nhân bị tịch thu hết, chỉ còn bộ quần áo dính thân thể. Họ không được tắm gội cả tháng nên ghẻ lỡ kềnh càng, chấy rận lổn ngổn. Ở mấy nhà tù cao nguyên, nhóm tù nhân này đã hục hặc nhau, chia bè kết đảng. Và bộ ba Trí-Viên-Quang bị bọn trẻ thù ghét. Trở về đề lao Gia Định, Nguyễn Hữu Trí vẫn làm trưởng phòng. Giữa hắn và phó phòng Đảm không ưa nhau. Thêm thư ký Miên coi thường hắn nên hắn bám chặt cai ngục. Hắn chỉ sợ mất chức trưởng phòng. 1C-1 ngoài Nguyễn Hữu Trí nham hiểm, còn có “nghệ sĩ” Ngô Văn Sự. Tên này bị gù, có tài về trang trí. Sử nói phét thánh trời. Hắn tự nhận hắn là Chóe, quen thân với Nhã Ca, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ… Bất ngờ chúng tôi vào 1C-1, Ngô Văn Sử bị anh em lột mặt nạ. Đó là sự bất hạnh của hai chúng tôi. Sử được ra ngoài sơn cửa các phòng tù. Hắn cấu kết với Trí. Hồng Dương và tôi là hai đối tượng báo cáo của hai đứa. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tôi không quan tâm hai thằng vô lại này mà rất quan tâm chấy rận vượt biên xâm lăng tôi.

                            Tôi bắt đầu ghẻ nhiều ở 1C-1. Chúng tôi vẫn chưa được gặp vợ con. Đúng lúc ghẻ hành hạ tôi, vợ tôi viết thư báo tin buồn: “Ông ngoại đã chết. Em mặt áo tang đến xin gặp bố, người ta từ chối”. Thật sự, tôi muốn quên chuyện gia đình. Nhưng muốn quên thật khó. Mà nhớ thì lòng dạ như bị xát muối. Nhìn khuôn mặt hốc hác của Trịnh Viết Thành dán chặt vào ô cửa gió cachot số 3, Hồng Dương bảo tôi:

                            - Sắp đến lượt mình.

                            Tôi không sợ cachot. Tôi thèm nằm cachot. Rất giản dị, ở cachot, tôi chẳng cần đề phòng ai. Cachot đề lao Gia Định lý tưởng lắm, nếu không bị còng tay chéo chân để ngủ ngồi. Nhờ ghẻ nặng, tôi loay hoay với ghẻ cả ngày. Khởi sự là ghẻ nước. Ghẻ mọc từng cụm trên mu bàn chân. Vừa khều nặn xong vài mụn, vài mụn khác đã mọc quanh. Chuyện khó tin mà có thật. Cả 1C-1 ghẻ. Ngót 50 tù nhân ngồi nặn ghẻ mủ, ghẻ nước. Tất cả bị nấm tấn công “hạ bộ”. Đàn Ta-Lư gẩy liên miên. Cơ thể tôi thiếu sinh tố.. Da khô và mỏng. Chất nhờn trên mặt da không bài tiết nữa. Ở 6C-1, tôi nặn hết nước, nặn ra máu, thấm khô rồi bôi thuốc xanh, mụn ghẻ chịu ngay. Ở 1C-1, nặn hết nước, bôi thuốc, nước cứ đùn ra. Nước đùn rạ, ghẻ mọc thêm. Ghẻ mọc cả trên mụn ghẻ mới khỏi. Ghẻ tấn công ngược. Bắt đầu ở chân, rồi lên đùi, háng, mông. Ghẻ nước lỡ toét bị nhiễm trùng thành ghẻ mủ. 1C-1 có mấy “dũng sĩ” ghẻ. Hai cẳng ghẻ cơ hồ cơm cháy đắp lên. Nước vàng ri rỉ cả ngày. Bục xi-măng nhớp nhúa. Manh chiếu khô cứng máu mủ, nước vàng. Mùi vị tanh tưởi nồng nặc. Tôi đã ăn, ngủ, hít thở cùng mùi vị tanh tưởi mủ ghẻ ấy. Khi ghẻ mủ mọc khắp cẳng, đùi và đầy mông, tôi mất ngủ. Nằm nghiêng hằng đêm, tôi thao thức. Các bạn trẻ của tôi nhờ dễ ngủ mà bớt ngứa, bớt đau. Nhức ghẻ mủ, ngứa nấm ăn “hạ bộ”, hai cái thái cực quái đản nầy tưởng xa mà gần, tưởng mơ hồ mà hiện thực. Tôi vốn khổ từ niên thiếu. Những nỗi khổ tôi đem vào đời, những nỗi khổ tôi làm cuộc đời tôi, tôi ngỡ đã ghê gớm lắm. Vất đi tại đề lao Gia Định. Vất hết đi. Tôi nằm nghiêng trên hai gang chiếu của phòng 1C-1, ngửi mùi tanh mủ ghẻ, nuốt đắng cay, nghiến răng chịu nhức nhối. Để nhập môn thống khổ.

                            Sau khi đi học tập viết tự khai và sau khi viết tự khai tại phòng, người ta tách Hồng Dương khỏi tôi. Hồng Dương từ giã tôi. Từ đó tới nay, tôi chưa gặp lại. Tôi không tin tên Nguyễn Hữu Trí báo cáo Hồng Dương. Thời gian chuẩn bị thẩm vấn, người ta cách ly chúng tôi. Để tránh trao đổi ý kiến. Hồng Dương đi, 1C-1 có thay đổi. Anh em vượt biên được gia đình tiếp tế. Xà phòng tắm gội. Quần áo cũ loại bỏ. Phòng bớt tanh và chấy rận bớt dần. Viên đi. Quang đi. Đảm đi. Nguyễn Hữu Trí hòa hoãn với thư ký Nguyễn Hữu Miên và mọi người. Vợ hắn không nuôi hắn. Hắn chợt hiểu cai ngục không cho hắn mì vụn và uống cà phê. Hắn bám anh em. Ngô Văn Sự chuyển trại. Mọi việc bình thường. Tôi bình yên nằm nghiêng nghe mủ mưng trên cơ thể. Lãng mạn một chút, tôi bảo thống khổ mưng giữa nỗi đời cơ cực của tôi.

                            Tháng 7, 1976, đề lao Gia Định tiếp nhận hàng ngàn tù nhân phản động bình dân. Gọi là phản động bình dân để phân loại. Ngày 30-4-75, các nhà tù thành phố được giải phóng hết. Nhưng 1-5, nhà tù mở cửa đón khách mới. Lâm Văn Thế là khách khai trương. Từ tháng 6-1975 đến tháng 5-1976, đề lao tiếp nhận tù nhân phản động trí thức. Thời điểm rực rỡ này là thời điểm của sinh viên, học sinh, luật sư, giáo sư chống phá cách mạng. Bây giờ là thời điểm của nông dân, công nhân, phu nhà đòn, lơ xe đò, du đãng… Những nhà nghiên cứu Mác xít sẽ nhức đầu về hiện tượng phản động bình dân. Ngoài tù nhân phản động bình dân, tháng 7-1976, đề lao cũng tiếp nhận hàng ngàn tù nhân vượt biên bị bắt. Người ta sắp xây thêm các khu D, E… 1C-1 phải chứa 60 tù nhân! Tôi đã phiêu bạt khá nhiều phòng giam của đề lao Gia Định. Và tôi có một nhận xét: Tỷ lệ đại đức thượng tọa vượt biên 1%, linh mục 99%; tỷ lệ đại đức thượng tọa phản động 99%, linh mục 1%. Những người vượt biên thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Vượt biên đường biển thì bị chặn bắt ngay tại Phú Lâm. Vượt biên đường bộ thì bị chặn bắt ngay khi vừa bước xuống các bến xe đò Pleiku, Ban Mê Thuột. Hài hước của vượt biên đường bộ có ông giáo sư họ Mai là biểu tượng. Ông này mang theo ba đôi giày deluxe, hai bộ complet, chục cái cà-vạt, chuẩn bị họp báo ở Vọng Các. Bi thảm thì có cậu cháu anh thợ hàn xì lạc rừng mây ba ngày, đói quá, bẻ trộm bắp, bị mọi cộng bắt trói đem giao nộp Việt cộng. Đúng lúc 1C-1 đông nghẹt, tôi được gọi ra làm việc. Người ta dẫn tôi sang phòng chấp pháp khu B. Tôi cặm cụi đi, không nhìn ngang nhìn dọc. Công an chấp pháp ngồi đối diện tôi. Hắn ta cao lớn, mặt rỗ hoa mè, mặc áo sơ-mi mầu trứng sáo. Chỉ cái ghế trước bàn giấy, hắn bảo tôi ngồi.

                            - Tôi xin anh một ân huệ?

                            - Gì?

                            - Tôi bị ghẻ mủ đầy mông, anh cho tôi ngồi nghiêng.

                            - Không. Anh phải ngồi ngay ngắn. Vì anh làm việc với đại diện của Đảng (Hắn dân Bắc kỳ, giọng nói miền biển Tiền Hải)

                            - Hiểu chưa?

                            - Tôi hiểu.

                            Tôi đã đụng độ ba thằng việt cộng đằng đằng thù hận. Thằng thứ nhất bên Sở Công An, phòng lý lịch. Nó quát tháo khi thấy tôi ngồi gác chân. Nó bắt tôi ngồi nghiêm túc và mang tội thiếu… văn hóa. Thằng thứ hai ở đề lao. Nó đến cửa 6C-1 ghi lý lịch tôi. Nó mắng tôi nói láo vì tôi khai tôi là nhà văn chế độ cũ. Nó muốn tôi khai tôi là tay sai chế độ cũ. Thằng thứ ba đang đứng trước mặt tôi. Hắn nhìn tôi, hất hàm:

                            - Khi các anh bắt cộng sản, các anh đối xử thế nào?

                            Tôi chưa ngồi, tôi vẫn đứng.

                            - Chúng tôi không bắt ai. Chúng tôi không có quyền bắt ai. Chúng tôi không thích bắt ai.

                            Tôi nói thêm:

                            - Nhà văn không phải là nhà cầm quyền.

                            Phản ứng của tên chấp pháp Bác Kỳ là nụ cười nửa miệng.

                            - Anh không phải là ngụy quyền?

                            Tôi đáp:

                            - Phải.

                            Hắn dập điếu thuốc lá:

                            - Nhưng anh là tay sai của ngụy quyền, các anh là tay sai của ngụy quyền, bọn nhà văn Sàigòn là tay sai của ngụy quyền.

                            Tôi nói:

                            - Đó là ý nghĩ của anh.

                            Hắn gằn giọng;

                            - Của nhân dân. Các anh nhận tiền của Mỹ, của Ngụy chống phá cách mạng, tạo ra chiến tranh tâm lý. Anh muốn tôi kể tên những thằng chống cộng ăn lương Mỹ Ngụy không?

                            - Anh đừng kể.

                            - Anh xấu hổ à?

                            - Tôi đã biết. Chính chúng tôi đã công kích chúng nó công khai.

                            Chúng nó. Chỉ có vài thằng thôi! Đứa lấy tiền của Juspao, của Usis qua trung gian Lý Trung Dũng. Đứa lấy tiền của Ngô Đỉnh Diệm qua trung gian Bùi Kiến Tín. Đứa lấy tiền của Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Đứa lấy tiền của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Đứa lấy tiền của Asian Foundation… Toàn những khuôn mặt khoa bảng và văn nghệ hàng đầu cả. Hai ba đứa làm tôi mọi cho đài phát thanh chiến lược Mỹ. Những thằng nhà văn “for rent” này đã chuồn hết. Chúng tôi ở lại chịu nhục. Chịu nhục với công sản chưa đủ, còn bị chúng nó bêu nhục trên đất Mỹ. Tôi đã cố dằn phẫn nộ để im lặng về thái độ bần tiện của chúng nó khi chúng nó toa rập nhận chìm tôi xuống bùn nhơ. Rõ rệt, chúng nó đã “bắt nạt tôi những ngày đầu lưu vong của tôi".

                            - Anh công kích?

                            - Người khác.

                            - Ai?

                            - Anh có đọc một bài báo của Nguyên Sa không?

                            Hắn bảo tôi:

                            - Anh ngồi xuống.

                            Tôi hỏi:

                            - Ngồi nghiêng?

                            Hắn lắc đầu:

                            - Ngồi ngay ngắn, ngồi nghiêm túc.

                            Tôi ngồi ngay ngắn. Nỗi đau khác đã làm bớt nỗi đau ghẻ mủ. Tôi biết sức nặng của phần trên thân thể đã bắt những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra. Tên công an chấp pháp biết rõ hơn. Hắn thích vậy. Hắn muốn nhìn tôi đau đớn. Bao thuốc chìa ra, hắn mời:

                            - Anh hút thuốc.

                            Tôi rút một điều thuốc Vàm Cỏ. Hắn quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.

                            - Tôi gọi anh ra để mạn đàm.

                            Hắn nhả khói thuốc.

                            - Mạn đàm cũng là làm việc đấy.

                            Cuộc mạn đàm bắt đầu.

                            - Anh xa nhà mấy tháng rồi, anh Duyên Anh, thần tượng của tuổi trẻ?

                            Giọng mỉa mai, hắn bĩu môi nói hai tiếng “thần tượng”. Mạn đàm với hắn là vấn nạn, đối với tôi, với chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ bị bỏ tù.

                            - Tôi không là thần tượng của ai cả. Tôi đã viết điều này. Làm thần tượng có hai điều khổ. Một, trở thành nô lệ của những kẻ phong tước vị cho mình. Hai, sẽ bị đạp đổ.

                            - Anh đã được coi là thần tượng?

                            - Tôi thành thật khước từ.

                            - Tại sao?

                            - Tôi thích tự do làm theo ý của tôi. Thần tượng, tôi phải làm theo ý của người khác. Khác ý họ, tôi bị đạp đổ nhục nhã. Nhưng thần tượng là cái gì? Theo tôi, thần tượng là đất nung, gỗ đẻo.

                            - Anh ám chỉ ai?

                            - Tôi nói tôi.

                            - Mà anh mà là thần tượng à?

                            - Anh vừa bảo tôi là thần tượng.

                            - Anh tin tôi thành thật ư?

                            - Cách mạng không bao giờ gian dối.

                            Hắn nhìn thẳng mặt tôi, đôi mắt hắn long xồng xộc:

                            - Lũ các anh là thần tượng móc méo, xỏ xiên. Tôi hỏi anh xa nhà mấy tháng rồi?

                            Hắn chuyển đoạn cau có. Tôi chậm rãi đáp:

                            - Tôi vào tù từ 8-4.

                            - Ai bảo anh vào tù?

                            - Cán bộ Ba Trung bên Sở.

                            - Anh đi học tập cải tạo tư tưởng.

                            - Tôi xa nhà.

                            - Anh xa nhà đi hoc.

                            - Vâng, tôi xa nhà đi học được bốn tháng rồi.

                            - Thấy thế nào?

                            - Nhớ vợ, thương con.

                            - Có vậy thôi?

                            - Phải, có vậy.

                            - Không thấm thía à?

                            - Không.

                            - Thế là chưa tiến bộ, chưa có chuyển biến tư tưởng. Anh cần học tập lâu hơn.

                            - Tùy anh.

                            - Tùy ở chính bản thân anh đấy.

                            Thằng rỗ mặt hoa nầy coi bộ đã nhận chỉ thị áp đảo tinh thần tôi. Tất cả những nhà văn, nhà thơ làm việc, bị mạn đàm đều bị làm khán giả xem kịch sĩ công an thủ các vai Ác và Thiên. Hễ hôm nào bị Ác át giong, ngày mai sẽ được Thiện vuốt ve. Ác bít lối, Thiện mở đường. Thiện thỏa mãn yêu sách chưa được thực hiện, Ác đã xoá bỏ ngay tức thì. Thằng mặt rỗ hoa mè mặc áo sơ mi mầu trứng sáo, tháng 6 năm 1977, gặp Doãn Quốc Sĩ ở 3C-1, kể lại cuộc mạn đàm, anh Sĩ nhận ra “cố nhân” liền. Anh Sĩ nói: “Nó đã dọa chặt tôi ra làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Chính nó tống tôi vào cachot.”

                            - Anh Duyên Anh.

                            - Tôi nghe.

                            - Đồng chí Ba Trung bảo anh vào tù là đúng.

                            - Tôi không xa nhà đi học?

                            - Anh nằm tù.

                            - Anh vừa nói …

                            - Bây giờ là chân ly, anh nằm tù. Anh nằm tù suy nghĩ tội ác. Các anh nằm tù suy nghĩ tội ác.

                            Bổng hắn hất hàm:

                            - Thằng Doãn Quốc Sĩ thế nào?

                            Tôi thừa hiểu, khi chúng nó nói chuyện với nhau, khi chúng nó nói với anh em của tôi, chúng nó cũng gọi tôi là thằng Duyên Anh, như lãnh tụ của chúng nó mở miệng là thằng Diệm, thằng Nhu…

                            - Đó là thằng được nhiều người kính trọng.

                            - Thằng Doãn Quốc Sĩ được nhiều người kính trọng? Nó ví Hồ Chủ Tịch là chồn tinh chín đuôi. Vũ Hạnh báo cáo thằng Sĩ thường nhục mạ Bác. Sàigòn có ba thằng đáng tội chém. Thằng Doãn Quốc Sĩ viết cổ tích lăng mạ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thằng Chóe vẽ cờ tổ quốc cắm lên cán chổi. Còn anh, anh ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh. May cho các anh, Biệt đôi bận việc khác, chứ không, các anh đã ăn đạn như thằng Chu Tử.

                            Chu Tử viết Ao thả vịt của nhật báo Sống, chê “Hồ chủ tịt làm thơ như cục kít”. Tôi xin phép được nói rõ về trường hợp Chu Tử và sau đó, một vài trường hợp ngộ nhận quốc gia sát hai quốc gia. Thuở báo Sống chống đối sự thừa thắng xông lên của các ông sư chính trị, nhóm Phật giáo quá khích đã đốt tòa soạn Sống, đốt luôn chiếc xe Vespa mới toanh của nhân viên trị sự tên là Vũ Hải Vân. Chu Tử nổi giận. Nhật báo Sống đánh sư chính trị, sư thành phố thả giàn. Chu Tử bị mưu sát. Chúng tôi quả quyết thủ phạm là thượng tọa Thích Thiên Minh. Báo chí Sàigòn tỏ thái độ với Phật tử ồn ào xuống đường và lãnh tụ của họ. Tự nhiên, nhà cầm quyền hưởng lợi. Chẳng cần thuê mà báo chí xúm nhau “mần thit” những kẻ chống đối mình. Rồi thượng tọa Thích Thiên Minh bị mưu sát. Phật giáo Ấn Quang đổ riết tội cho nhà nước. Nhà nước, nhà chùa, nhà báo chơi nhau lung tung beng. Nhà báo bảo nhà chùa … dàn cảnh. Đến khi chết giữa biển và chết trên quê hương, Chu Tử vẫn tưởng Thích Thiên Minh bắn mình và Thích Thiện Minh vẫn tường nhà nước hại nhà chùa. Tôi, nhờ nhà tù, tai nghe rõ cộng sản xác nhận họ bắn Chu Tử. Họ gây xáo trộn tình hình Sàigòn. Từ đó, tôi nhận diện thủ phạm ám sát Nguyễn Văn Bông và Trần Văn Văn. Tôi vốn không ưa ông Kỳ và không hưởng bổng lộc gì của ông Loan, nhưng tôi muốn đóng góp một chút sự thật vào sự thật của lịch sử. Trong cuốn Một người tên là Trần Văn Bá, tôi viết ông Nguyễn Cao Kỳ và ông Nguyễn Ngọc Loan không hề ám hại nhà chính khách đối lập Trần Văn Văn. Thủ phạm vẫn chỉ là việt cộng, tác giả các vụ Chu Tử, Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn,… Phản ứng của bà Trần Văn Văn là, căn cứ vào một tờ báo lưu vong xuất bản tại Úc Đại Lợi, ký tên một tác giả không ai biết, vẫn khẳng định Kỳ, Loan giết chồng bà. Những ngộ nhận tại hai điển hình vừa kể, cần phải chấm dứt. Còn ngộ nhận là còn chơi trò chơi tạo mâu thuẫn của cộng sản.

                            - Tại sao anh dám ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh?

                            - Tôi không biết trả lời.

                            Trả lời thế nào? Trả lời hôm nay, khi ngồi viết hồi ký ở Ivry Sur Seine rằng, tôi ví cờ tổ quốc của anh với xì-líp đàn bà có kinh vì tôi ghê tởm cờ tổ quốc anh. Tôi không ham nói phét, dẫu nói phét không bị đánh thuế và dẫu có thể được coi như ngục sĩ anh hùng. Cuộc đời đã thừa thãi những anh Rambo, chẳng nên thêm tôi. Ở cuốn Đàn bà, người đàn ông bị vợ từ chối không cho làm tình, gã hỏi “Hôm nay em kéo cờ cộng sản hả?”. Tôi dám ví cờ đỏ sao vàng với xì-líp đàn bà có kinh? Cộng sản chụp mũ tôi. Họ ví chứ tôi không ví.

                            - Anh chỉ biết viết?

                            - Tôi không biết trả lời.

                            - Anh không trả lời?

                            - Anh hiểu tôi khó trả lời mà.

                            - Anh cần suy nghĩ.

                            - Phải.

                            Hắn tống tôi vào cachot khu B, khóa chặt cửa gió, không cho tôi về 1C-1 thu dọn hành lý, không phát chiếu, không còng tay. Cuộc mạn đàm kết thúc như vậy. Tôi có dịp biết cachot. Và tôi bằng lòng ở cachot. Cachot là phòng lý tưởng của khách sạn quốc doanh đề lao. Đang nằm nghiêng trên hai gang chiếu ở cái phòng tập thể nhung nhúc tù nhân, nồng nặc mùi mồ hôi, hôi nách, ghẻ mủ, được nằm thoải mái một bục xi-măng láng coóng, yên tĩnh, cầu tiêu, vòi nước riêng, tôi cảm giác mình được cách mạng đãi ngộ. Đối diện dãy cachot nhốt tôi là các phòng tập thể khu B dành riêng cho nữ tù nhân. Tôi không nhìn thấy ai cả. Thú thật, lúc ấy tôi quên sợ hãi. Càng ở tù lâu, hai chữ cũng đành càng lớn và cảm giác sợ hãi nhỏ dần. Ngồi mạn đàm với đại diện của đảng cộng sản quang vinh, những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra, ướt nhẫy đít quần. Bây giờ, quần bám chặt vào mụn ghẻ tạo thành mảng mài lớn, khô cứng. Tôi không dám gỡ ra, sỡ máu sẽ chảy và lại thành mảng mài lớn. Với riêng nỗi khổ ghẻ mủ, tôi đã muốn ngồi lên mặt những đứa bịa đặt chuyện bêu nhục tôi ở tù bằng cái đũng quần cứng khô máu mủ. Nhưng mà tôi đã ngồi lên mặt chủ nghĩa cộng sản. Như thế hách hơn.

                            Người ta không cho tôi ăn cơm trưa, không cho cả nước sôi. Tôi ghé miệng vào vòi nước, vặn rô-bi-nê uống nước phông tên. Rồi tôi nằm duỗi chân, dang chân thoải mái mà ngủ. Cơn mưa lớn đã ru tôi ngủ ngon. Khi tôi thức giấc, mưa đã tạnh và ngọn đèn vàng trong cachot đã bật. Mụ cai ngục lùn, mắt lé mở khóa. Tên công an chấp pháp mặt rỗ huê đợi tôi bước ra. Hắn hỏi tôi:

                            - Anh suy nghĩ chưa?

                            Tôi nói:

                            - Đói quá, tôi không suy nghĩ được.

                            Hắn nín thinh dẫn tôi về khu C-1, giao tôi cho cai ngục. Tôi trở lại 1C-1 ồn ào và tiếc rẻ cachot khu B. Sáng sớm hôm sau, trước cả giờ báo thức, cai ngục gọi tôi ra làm việc. Tên công an rỗ hoa dẫn tôi ra khu A, tống tôi vào cachot. Nhờ ví cờ cộng sản với xì-líp đàn bà có kinh, tôi biết thêm cachot khu A, khu sát khít trường Hồ Ngọc Cẩn. Hôm nay tôi bị còng tay chéo sau lưng. Vẫn bị cúp bữa cơm trưa, cúp nước sôi. Chập tối, tên công an rỗ hoa lại dẫn tôi về khu C-1. Một tuần liền, sáng sớm tinh mơ tôi vào cachot, chập tối tôi ra cachot với vài kiểu còng tay, còng chân. Bố tôi, tháng 9-1975, đi lẻn vào Sàigòn, dạy tôi kinh nghiệm ngục tù: “Ăn ít, dù gia đình tiếp tế đầy đủ. Tập thắt dạ dày, vì, sẽ bị nhịn vài ngày”. Nhờ kinh nghiệm của bố, được … học tập ăn một bữa suốt tuần, tôi đã tồn tại.

                            Trò chơi của tên công an chấp pháp rỗ hoa đến đó là chấm dứt. Hắn không cho tôi ngủ đêm ở cachot. Hắn cũng quên hỏi tôi “Suy nghĩ chưa”. Tôi bị bỏ rơi ba ngày liền. Lúc này, Doãn Quốc Sĩ đã từ cachot 12 chuyển về cachot số 1 đối diện phòng tập thể của tôi. Trịnh Viết Thành, Hồ Văn Đông bị sang Sở Công An. Chuyến đi này có thêm Nguyễn Mạnh Côn. Bên cachot C-2, Như Phong vẫn khước từ viết tự khai. Bệnh ghẻ mủ của tôi không thuyên giảm. Có mòi tăng triển. Ghẻ báo động … đỏ. Mỗi tuần, vào buổi trưa nắng, đề lao cho tù nhân ra phơi nắng 10 phút. Phòng này vào, phòng kia ra. Tù nhân ngồi nguyên chỗ của mình. Các cửa gió của cachot đóng kín, đề phòng liên lạc bằng dấu hiệu. Mười phút nắng chỉ làm ghẻ buồn cười. Hôm tắm nắng, đồ đạc treo lên hết. Trực sinh rửa phòng và y tế xịt thuốc trừ chấy rận. Tôi khám phá ra sự thiếu máu. Ở ngoài nắng bước vô, mắt tôi mờ đi mấy phút. Tôi ôm mặt đứng. Cứ ngỡ mình đã bị lòa. Tôi thèm nói chuyện mắt với Doãn Quốc Sĩ. Anh ta không hề dán mặt vào ô gió cachot như những tù nhân khác. Sáng sớm, Sĩ chạy tại chỗ. Rồi thiền và ngủ. Vợ tôi vẫn tiếp tế đều đặn. Qua ba ngày không thấy tên công an chấp pháp rỗ hoa gọi ra, tôi ngỡ đã yên thân. Tôi nhầm. Cai ngục lại réo tên cúng cơm của tôi.

                            - Vũ Mộng Long.

                            - Có.

                            - Mặc quần áo ra làm việc.

                            Chú thích:
                            1 Viết tiểu thuyết, Như Phong ký Lý Thắng. Trường thiên tiểu thuyết Khói Sóng đăng dang dở trên nhật báo Tự Do trước 1963.

                            Comment

                            Working...
                            X