Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
TRUYỆN KIỀU-NGUYỄN DU
1.
Tôi học chung với Nhân từ năm đệ ngũ. Trước đó, tôi có năm năm học nội trú
trường Pellerin, một trường dòng Lasan ở Huế do các frère giảng dạy. Những
năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào của các frère phụ trách
và gia đình. Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng, tôi chưa bao giờ vượt qua được
Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không muốn ai hơn mình.
Do vậy, tôi chẳng ưa gì thằng Nhân.
Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ trách chuyện giáo dục của
toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba
tôi, quản lý ngành y tế của thành phố. Mấy ông quan chức thường tụ họp nhau
vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê, bàn chuyện thời thế. Sau khi mất
nhiều thì giờ trao đổi chuyện chính trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp đó
thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy,
việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại được đem ra tán dương. Mỗi
lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ mình cũng học giỏi có thua gì
Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc tới. Nhân càng được ngợi khen, tôi càng thêm
ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi.
Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ cười thật
tươi, còn tôi thì mặt nặng như chì.
Nhân đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc xoăn lúc
nào cũng lòa xòa trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như son. Mà kể cũng lạ. Nhà
ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái, chỉ có mình Nhân là đẹp, mấy
đứa còn lại đứa nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần
kinh, hay bỏ nhà đi lang thang, đứa em trai út thì bị bệnh down, lúc nào
cũng ngơ ngác, nước dãi chảy lòng thòng. Vì cảnh nhà như thế nên ông Đốc học
rất kỳ vọng ở Nhân, Nhân là
niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông.
Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn
toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất
mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng,
cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề
xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh
nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm.
Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn
một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên
bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời
giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy
còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì
thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười,
giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận.
Không những học giỏi, Nhân còn đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất cừ. Lại
thêm rất giỏi võ. Không biết hắn học võ từ khi nào mà tay hắn cứng như thép,
cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch thẻ chỉ cần hắn vung tay là
bị bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai
người công kênh nhau, người trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy
ba bước, bay lên đá viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy
đà, tung người thẳng góc với bức tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như
là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi lần Nhân làm trò,
cả bọn học trò chúng tôi trố mắt, há mồm mà nhìn, lắc đầu thán phục. Mọi
người đặt cho hắn cái tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn ốm
yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là con mọt sách. Cho nên dù không
ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải vì võ công thâm hậu quá mà đôi
mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nhìn như dao sắc, như có lửa, như muốn bóp
nát người ta, đầy sát khí. Tôi thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ cười của hắn
thân thiện nhưng đôi mắt thì đầy hăm dọa.
Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn phụ là âm
nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi được rèn luyện năm năm ở trường dòng
Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến không ngờ, đến
thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả
mùa hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả ngày nghe đài Pháp để luyện
giọng và lảm nhảm luôn mồm mấy từ vựng. Có một lần tình cờ tôi thấy trên bìa
sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C'EST
POUVOIR. Có lẽ đó là quan niệm của Nhân.
Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học trò thêm than phục
khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút. Hắn lại
tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các con: gắng học
cho giỏi như anh Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được mọi người trầm trồ khen
ngợi. Bởi thời đó, người giàu có không được trọng nể bằng người học giỏi.
Ngay cả những quan chức cũng rất trân trọng người tài, học trò gỉỏi. Năm học
đó, hắn lãnh phần thưởng lớn lắm, phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đôc học
rất hãnh diện. Mà hãnh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi
có người con như thế.
Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rõ rệt. Mấy đứa nhỏ con, học
kha khá thường ngồi mấy bàn trên, còn mấy bàn cuối lớp mà mấy thầy gọi là
xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi nhiều hơn học và thường
chọc phá mọi người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê. Đó là một thằng sừng sỏ
tuy cũng có tố chất thông minh, học hành cũng không đến nỗi tệ. Hồ Lê người
đen giòn, cao to lừng lững, mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một
vết sẹo dài khiến khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết
tích chiến tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên chẳng ai dám lên
tiếng thắc mắc nữa. Nhà Hồ Lê nằm trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ hắn bán
rau hành ở chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao giờ hắn nhắc
đến cha. Tôi sợ hắn lắm, vì hắn hình như rất ghét tôi, cứ tìm mọi cách để
sinh sự. Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào trán tôi mà gầm gừ: đồ quý
tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng biết sao hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như
cáy nên thường tìm đủ mọi cách để tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm
bầm: Đụ mẹ thằng Lê sẹo, rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa
muộn. Nói thầm thế thôi, chứ thấy bản mặt nó là tôi đã sợ chết khiếp, nổi
gai cả người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại tìm đủ mọi cách để trêu ghẹo
tôi. Lúc thì đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi thì búng tai, giựt tóc
mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké.
Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà thì tôi
bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước mặt tôi, hai chân khuỳnh
khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh
như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định van xin. Đường vắng teo,
chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không chết vì nhục
thì cũng ốm đòn với hắn. Hắn xắn tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay.
Tôi nhắm mắt, tưởng như muốn đái cả quần. Hai chân muốn quỵ xuống, bởi tôi
vốn nhát đòn. Tôi chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn. Bỗng nghe tiếng
hự..hự.. huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau.
Hé mắt nhìn, thấy thằng Lê đang nằm chỏng gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo.Trước
mặt hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo: Tao cấm mày
đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao.
Liệu hồn. Cút…Bọn thằng Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi,
cười: Đừng sợ chúng, cứ sợ mãi thì chúng cứ ức hiếp hoài.
Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê cũng không
dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó cũng còn gầm ghè.
Đến lớp đệ nhị, tôi chọn ban A còn Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi
muốn chuẩn bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nữa
tôi cũng còn háo thắng, muốn học khác lớp với Nhân để được đứng đầu lớp, chứ
học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn đi
chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như hai anh em. Nhân thường dẫn tôi đến
quán nước ở góc sân trường. Chủ quán là chị Đầm. Tôi gọi bằng chị vì chị lớn
hơn chúng tôi vài ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học trò thường gọi là chị
Đầm rô. Chị to lớn như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá nên môi
thâm xì. Tuy vậy, chè đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học trò rất khoái tụ
tập ở quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt
nhìn Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen
này theo suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi trưa trú mưa, tôi
biết lí do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi.
Số là cạnh nhà tôi có một gia đình rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi
nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha Trang. Chủ nhân vốn xuất
than từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ còn nhỏ và
hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn
Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp kiêu sa, đài các. Dáng
thanh mảnh, thướt tha. Cổ cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông,
mặt như Đức mẹ, mắt lúc nào cũng buồn vời vợi. Suốt ngày ngoài giờ học chỉ
thơ thẩn trong vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho
đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ
hay áo cánh đi chơi,cô chỉ chọn độc một màu tím rịm. Cô em Dạ Hương thì trái
ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà hai vú đã tròn to khêu gợi. Tóc cắt
ngắn, da rám hồng. Suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắm biển và đánh quần vợt.
Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe Honda chạy vù vù. Đọc toàn báo
Tây, hát toàn nhạc Pháp. Tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng
trường Lycée Blaise Pascal
Vì ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đình tôi rất thân với nhà đó.
Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau. Nhân thích Dạ
Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy.
Chuyện dễ ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại bảo với Nhân là chuyện
này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc: cố nghe, cố
nghe.
Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan:
- Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan.
Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên
- Ai vậy? Quen hay lạ?
- Dạ Lan biết người này mà.
- Nhưng mà ai mới được chứ.
Tôi cười bảo:
- Anh Nhân, bạn thân của tôi
- Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không?
Tội gật. Dạ Lan cười:
- Tưởng ai.
Sau này, khi hai người đã gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng đã để
ý đến Nhân lâu rồi. Thì trai tài gái sắc, đến với nhau là lẽ
đương nhiên của cuộc đời. Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đình
cũng thoáng biết nhưng chẳng có ý kiến gì. Mà thật ra còn đòi hỏi chi, vừa
môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm.
Chúng tôi hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan còn có Dạ
Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ biển. Dạ Hương
sôi nổi, nhí nhảnh còn Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng tôi đi dạo
trên bờ biển, trời vừa tối, chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo
khẽ: Mình tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ như thế này thì anh chị ấy tâm
tình làm sao được.
Dạ Hương kéo tôi chạy vào hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió
xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngã vào người tôi, ôm
cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai bầu
ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi thấy mình căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi
xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng vì nụ hôn đầu đời. Tôi chẳng
biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và thả lỏng đôi tay. Bỗng
dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn
công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hãi, dù phần dưới cơ thể của tôi đã đông
cứng lại rồi. Tôi bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy
theo tôi hét lớn: Anh có phải là đàn ông không?. Tôi ngồi xuống giữa bãi cát
và tự hỏi, mình có phải là đàn ông không? Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và
tôi cũng có ý không muốn gặp nàng. Tôi vẫn tự nhủ mình tệ quá.
Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đình rất
vui. Hôm lãnh thưởng ở trường, đôi mắt của ông Đốc học ba Nhân ánh lên niềm
tự hào, sung sướng và mãn nguyện. Còn đôi mắt của Dạ Lan thì tràn đầy hạnh
phúc.
Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một người
Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi. Người này tên Lý Hạnh, chuyên nghề
phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm, thường nói chuyện với nhau cả
buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú Lý Hạnh đang nói chuyện với
nhau thì tình cờ tôi nghe được cả hai bàn về Nhân. Ông Lý Hạnh bảo:
- Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung
quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải phạm tội sát nhân,
hậu vận xấu lắm. Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông
Lý Hạnh im lặng một lát rồi gật gù:
- Cũng tạm.
Ba tôi nhíu mày:
- Cụ thể là sao?
- Ông Đốc cũng đã nghiên cứu lý số. Số nói sao thì nghe vậy. Còn cụ
thể thì chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu.
- Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng thiên
- Dạ, cũng có thể.
Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng
quên. Tuy thế lâu lâu nhìn ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê
ghê. Cũng cuối năm ấy, Dạ Hương bỏ nhà đi. Có tin đồn đã kết hôn với một sĩ
quan Mỹ ở Sài Gòn. Tôi cứ tự hỏi là mình có lỗi gì trong tai ương này không?
Tết năm Mậu Thân, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng nhất, rất
nhiều người chết trong những ngày xuân. Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn
công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học thưa thớt hẳn, đứa đi
lính, đứa đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đã
lên núi, gia nhập quân giải phóng. Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại
đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu Bình. Tôi lại thua Nhân….
Vào Sài gòn làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi
danh học Văn khoa, còn Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ Phú Thọ, học cho
vui để quên thì giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nhì kỳ thi tuyển vào
Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương Việt Nam thì có giấy
lên đường.
Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du học, hai gia đình tiễn ra phi
trường. Ba Nhân ôm vai Nhân:
- Gia đình và giòng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được như ước
nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm hi vọng lớn lao. Dạ Lan mặc áo
dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc
mãi mà chẳng nói gì.
Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ:
- Cố lên nhé!
Hôm qua tôi và ba đã nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối nếp nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú gì chuyện du học. Tôi sợ cô đơn ở xứ người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi như con
chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng định được phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang theo niềm hi vọng của cả gia đình. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có gì níu lại. Rời Việt Nam, tôi vẫn chưa có mối tình nào vắt vai, không có cô gái nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc vì còn có tình yêu để đợi chờ.
Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều
chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra với chúng tôi, và cả hai
đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng lúc thành đạt
trở về trong niềm hoan hỉ của mọi người.
Nhân bỗng bảo tôi:
- Cậu chơi piano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không?
- Để làm gì, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này?
- Thì cứ nói đi
- Theo mình biết thì hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở
Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ý định gì
vậy?
Nhân lim dim mắt, cười cười, nhìn ra bầu trời trong xanh:
- Khi nào thành đạt, làm ra tiền, mình sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn như
vậy.
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
TRUYỆN KIỀU-NGUYỄN DU
1.
Tôi học chung với Nhân từ năm đệ ngũ. Trước đó, tôi có năm năm học nội trú
trường Pellerin, một trường dòng Lasan ở Huế do các frère giảng dạy. Những
năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào của các frère phụ trách
và gia đình. Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng, tôi chưa bao giờ vượt qua được
Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không muốn ai hơn mình.
Do vậy, tôi chẳng ưa gì thằng Nhân.
Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ trách chuyện giáo dục của
toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba
tôi, quản lý ngành y tế của thành phố. Mấy ông quan chức thường tụ họp nhau
vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê, bàn chuyện thời thế. Sau khi mất
nhiều thì giờ trao đổi chuyện chính trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp đó
thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy,
việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại được đem ra tán dương. Mỗi
lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ mình cũng học giỏi có thua gì
Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc tới. Nhân càng được ngợi khen, tôi càng thêm
ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi.
Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ cười thật
tươi, còn tôi thì mặt nặng như chì.
Nhân đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc xoăn lúc
nào cũng lòa xòa trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như son. Mà kể cũng lạ. Nhà
ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái, chỉ có mình Nhân là đẹp, mấy
đứa còn lại đứa nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần
kinh, hay bỏ nhà đi lang thang, đứa em trai út thì bị bệnh down, lúc nào
cũng ngơ ngác, nước dãi chảy lòng thòng. Vì cảnh nhà như thế nên ông Đốc học
rất kỳ vọng ở Nhân, Nhân là
niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông.
Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn
toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất
mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng,
cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề
xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh
nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm.
Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn
một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên
bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời
giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy
còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì
thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười,
giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận.
Không những học giỏi, Nhân còn đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất cừ. Lại
thêm rất giỏi võ. Không biết hắn học võ từ khi nào mà tay hắn cứng như thép,
cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch thẻ chỉ cần hắn vung tay là
bị bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai
người công kênh nhau, người trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy
ba bước, bay lên đá viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy
đà, tung người thẳng góc với bức tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như
là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi lần Nhân làm trò,
cả bọn học trò chúng tôi trố mắt, há mồm mà nhìn, lắc đầu thán phục. Mọi
người đặt cho hắn cái tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn ốm
yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là con mọt sách. Cho nên dù không
ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải vì võ công thâm hậu quá mà đôi
mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nhìn như dao sắc, như có lửa, như muốn bóp
nát người ta, đầy sát khí. Tôi thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ cười của hắn
thân thiện nhưng đôi mắt thì đầy hăm dọa.
Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn phụ là âm
nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi được rèn luyện năm năm ở trường dòng
Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến không ngờ, đến
thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả
mùa hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả ngày nghe đài Pháp để luyện
giọng và lảm nhảm luôn mồm mấy từ vựng. Có một lần tình cờ tôi thấy trên bìa
sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C'EST
POUVOIR. Có lẽ đó là quan niệm của Nhân.
Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học trò thêm than phục
khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút. Hắn lại
tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các con: gắng học
cho giỏi như anh Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được mọi người trầm trồ khen
ngợi. Bởi thời đó, người giàu có không được trọng nể bằng người học giỏi.
Ngay cả những quan chức cũng rất trân trọng người tài, học trò gỉỏi. Năm học
đó, hắn lãnh phần thưởng lớn lắm, phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đôc học
rất hãnh diện. Mà hãnh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi
có người con như thế.
Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rõ rệt. Mấy đứa nhỏ con, học
kha khá thường ngồi mấy bàn trên, còn mấy bàn cuối lớp mà mấy thầy gọi là
xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi nhiều hơn học và thường
chọc phá mọi người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê. Đó là một thằng sừng sỏ
tuy cũng có tố chất thông minh, học hành cũng không đến nỗi tệ. Hồ Lê người
đen giòn, cao to lừng lững, mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một
vết sẹo dài khiến khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết
tích chiến tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên chẳng ai dám lên
tiếng thắc mắc nữa. Nhà Hồ Lê nằm trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ hắn bán
rau hành ở chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao giờ hắn nhắc
đến cha. Tôi sợ hắn lắm, vì hắn hình như rất ghét tôi, cứ tìm mọi cách để
sinh sự. Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào trán tôi mà gầm gừ: đồ quý
tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng biết sao hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như
cáy nên thường tìm đủ mọi cách để tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm
bầm: Đụ mẹ thằng Lê sẹo, rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa
muộn. Nói thầm thế thôi, chứ thấy bản mặt nó là tôi đã sợ chết khiếp, nổi
gai cả người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại tìm đủ mọi cách để trêu ghẹo
tôi. Lúc thì đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi thì búng tai, giựt tóc
mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké.
Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà thì tôi
bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước mặt tôi, hai chân khuỳnh
khuỳnh, cái mặt kênh kênh. Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh
như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định van xin. Đường vắng teo,
chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không chết vì nhục
thì cũng ốm đòn với hắn. Hắn xắn tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay.
Tôi nhắm mắt, tưởng như muốn đái cả quần. Hai chân muốn quỵ xuống, bởi tôi
vốn nhát đòn. Tôi chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn. Bỗng nghe tiếng
hự..hự.. huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau.
Hé mắt nhìn, thấy thằng Lê đang nằm chỏng gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo.Trước
mặt hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo: Tao cấm mày
đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao.
Liệu hồn. Cút…Bọn thằng Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi,
cười: Đừng sợ chúng, cứ sợ mãi thì chúng cứ ức hiếp hoài.
Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê cũng không
dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó cũng còn gầm ghè.
Đến lớp đệ nhị, tôi chọn ban A còn Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi
muốn chuẩn bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nữa
tôi cũng còn háo thắng, muốn học khác lớp với Nhân để được đứng đầu lớp, chứ
học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn đi
chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như hai anh em. Nhân thường dẫn tôi đến
quán nước ở góc sân trường. Chủ quán là chị Đầm. Tôi gọi bằng chị vì chị lớn
hơn chúng tôi vài ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học trò thường gọi là chị
Đầm rô. Chị to lớn như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá nên môi
thâm xì. Tuy vậy, chè đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học trò rất khoái tụ
tập ở quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt
nhìn Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen
này theo suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi trưa trú mưa, tôi
biết lí do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi.
Số là cạnh nhà tôi có một gia đình rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi
nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha Trang. Chủ nhân vốn xuất
than từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ còn nhỏ và
hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn
Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp kiêu sa, đài các. Dáng
thanh mảnh, thướt tha. Cổ cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông,
mặt như Đức mẹ, mắt lúc nào cũng buồn vời vợi. Suốt ngày ngoài giờ học chỉ
thơ thẩn trong vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho
đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ
hay áo cánh đi chơi,cô chỉ chọn độc một màu tím rịm. Cô em Dạ Hương thì trái
ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà hai vú đã tròn to khêu gợi. Tóc cắt
ngắn, da rám hồng. Suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắm biển và đánh quần vợt.
Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe Honda chạy vù vù. Đọc toàn báo
Tây, hát toàn nhạc Pháp. Tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng
trường Lycée Blaise Pascal
Vì ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đình tôi rất thân với nhà đó.
Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau. Nhân thích Dạ
Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy.
Chuyện dễ ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại bảo với Nhân là chuyện
này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc: cố nghe, cố
nghe.
Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan:
- Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan.
Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên
- Ai vậy? Quen hay lạ?
- Dạ Lan biết người này mà.
- Nhưng mà ai mới được chứ.
Tôi cười bảo:
- Anh Nhân, bạn thân của tôi
- Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không?
Tội gật. Dạ Lan cười:
- Tưởng ai.
Sau này, khi hai người đã gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng đã để
ý đến Nhân lâu rồi. Thì trai tài gái sắc, đến với nhau là lẽ
đương nhiên của cuộc đời. Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đình
cũng thoáng biết nhưng chẳng có ý kiến gì. Mà thật ra còn đòi hỏi chi, vừa
môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm.
Chúng tôi hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan còn có Dạ
Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ biển. Dạ Hương
sôi nổi, nhí nhảnh còn Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng tôi đi dạo
trên bờ biển, trời vừa tối, chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo
khẽ: Mình tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ như thế này thì anh chị ấy tâm
tình làm sao được.
Dạ Hương kéo tôi chạy vào hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió
xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngã vào người tôi, ôm
cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai bầu
ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi thấy mình căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi
xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng vì nụ hôn đầu đời. Tôi chẳng
biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và thả lỏng đôi tay. Bỗng
dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn
công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hãi, dù phần dưới cơ thể của tôi đã đông
cứng lại rồi. Tôi bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy
theo tôi hét lớn: Anh có phải là đàn ông không?. Tôi ngồi xuống giữa bãi cát
và tự hỏi, mình có phải là đàn ông không? Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và
tôi cũng có ý không muốn gặp nàng. Tôi vẫn tự nhủ mình tệ quá.
Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đình rất
vui. Hôm lãnh thưởng ở trường, đôi mắt của ông Đốc học ba Nhân ánh lên niềm
tự hào, sung sướng và mãn nguyện. Còn đôi mắt của Dạ Lan thì tràn đầy hạnh
phúc.
Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một người
Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi. Người này tên Lý Hạnh, chuyên nghề
phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm, thường nói chuyện với nhau cả
buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú Lý Hạnh đang nói chuyện với
nhau thì tình cờ tôi nghe được cả hai bàn về Nhân. Ông Lý Hạnh bảo:
- Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung
quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải phạm tội sát nhân,
hậu vận xấu lắm. Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông
Lý Hạnh im lặng một lát rồi gật gù:
- Cũng tạm.
Ba tôi nhíu mày:
- Cụ thể là sao?
- Ông Đốc cũng đã nghiên cứu lý số. Số nói sao thì nghe vậy. Còn cụ
thể thì chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu.
- Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng thiên
- Dạ, cũng có thể.
Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng
quên. Tuy thế lâu lâu nhìn ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê
ghê. Cũng cuối năm ấy, Dạ Hương bỏ nhà đi. Có tin đồn đã kết hôn với một sĩ
quan Mỹ ở Sài Gòn. Tôi cứ tự hỏi là mình có lỗi gì trong tai ương này không?
Tết năm Mậu Thân, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng nhất, rất
nhiều người chết trong những ngày xuân. Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn
công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học thưa thớt hẳn, đứa đi
lính, đứa đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đã
lên núi, gia nhập quân giải phóng. Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại
đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu Bình. Tôi lại thua Nhân….
Vào Sài gòn làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi
danh học Văn khoa, còn Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ Phú Thọ, học cho
vui để quên thì giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nhì kỳ thi tuyển vào
Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương Việt Nam thì có giấy
lên đường.
Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du học, hai gia đình tiễn ra phi
trường. Ba Nhân ôm vai Nhân:
- Gia đình và giòng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được như ước
nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm hi vọng lớn lao. Dạ Lan mặc áo
dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc
mãi mà chẳng nói gì.
Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ:
- Cố lên nhé!
Hôm qua tôi và ba đã nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối nếp nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú gì chuyện du học. Tôi sợ cô đơn ở xứ người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi như con
chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng định được phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang theo niềm hi vọng của cả gia đình. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có gì níu lại. Rời Việt Nam, tôi vẫn chưa có mối tình nào vắt vai, không có cô gái nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc vì còn có tình yêu để đợi chờ.
Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều
chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra với chúng tôi, và cả hai
đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng lúc thành đạt
trở về trong niềm hoan hỉ của mọi người.
Nhân bỗng bảo tôi:
- Cậu chơi piano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không?
- Để làm gì, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này?
- Thì cứ nói đi
- Theo mình biết thì hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở
Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ý định gì
vậy?
Nhân lim dim mắt, cười cười, nhìn ra bầu trời trong xanh:
- Khi nào thành đạt, làm ra tiền, mình sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn như
vậy.
Comment