1. Thay lời tựa
Cuốn sách này viết để tặng:
- Hội bảo vệ súc vật các nước trên thế giới
- Quý vị nuôi chó và sưu tầm chó trên thế giới
- Tòa án Bertrand Russell
- UNICEF
- Các nước viện trợ nhân đạo cho Việt Nam
Tác giả rất trân trọng
Duyên Anh
Thay lời tựa
VIỆT NAM ĐÃ CÓ SOLJENITSYNE
Cách đây hai năm, qua “Một người Nga ở Sài Gòn”, người ta đã so sánh ông với Vercors. Ngày nay với tác phẩm “Đồi Fanta” (Belfond xuất bản) nhà văn Duyên Anh, cân nhắc trên mọi tầm vóc, chẳng mấy chốc sẽ là Soljenitsyne Việt Nam: xen lẫn giả tưởng và thực tế, ông đã miêu tả trại tập trung Cộng sản Việt Nam qua tình bạn giữa Mai bím, tên móc túi khéo xoay xở và Nguyễn Hữu Vũ, mười ba tuổi, bị bắt vì cha là sĩ quan “ngụy”. Điều nguy hiểm nhất cho hai em bé: đồi Fanta. Nơi đây là mồ chôn hàng trăm trẻ em chết vì bị quản giáo sát hại, chết vì kiệt lực, vì “lao động tốt”, vì kiết lỵ, sốt rét ngã nước, dịch tả. Ở một nước gió mùa và thiếu hụt đủ thứ, các em không có được một tấm mộ bia. Thay vào đó là các mảnh giấy nhỏ ghi lại họ tên, có đủ hoặc thiếu sót, thường chỉ thu gọn vào tên gọi và ngày chết, được nhét vào vỏ chai nước ngọt Fanta cắm ngược đầu trên nấm mộ.
Được mệnh danh là “nhà văn của thiếu nhi”, Duyên Anh đã cho xuất bản khoảng năm chục tác phẩm gồm tiểu thuyết, biên khảo, thơ. Trước khi Sài Gòn mất năm 1975, Duyên Anh mô tả sự chán chường và nỗi cô đơn của tuổi trẻ Việt Nam. Và ông vẫn đang tiếp tục công trình này! Thời đó ông chỉ trích Hoa Kỳ và đồng thời chống đối Cộng sản. Cộng sản Việt Nam liệt ông vào “một trong mười tên biệt kích văn nghệ nguy hiểm nhất”. Tác phẩm bị cấm, còn ông bị bắt giam mà không tuyên án với số tù 239D TCT CT XM, chỉ được trả tự do năm 1981 nhờ sự can thiệp của Văn Bút và Ân Xá Quốc Tế.
Ngày 30 tháng 4 năm ngoái, Duyên Anh phải trả một giá đắt về sự dấn thân của ông: trong dịp qua thăm California (Hoa Kỳ), ông bị bốn người Việt vây đánh gục. Ông nằm hôn mê nhiều ngày, rồi được đưa trở về Pháp điều trị trong một nhà thương ở Paris. Dần dà Duyên Anh đã lấy lại được sức khỏe. Ai là kẻ hành hung? Cảnh sát Hoa Kỳ không đưa ra được một kết luận nào cả. Rất có thể đó là những người quốc gia cực hữu thiển cận đã gán cho ông tội làm “ăng ten” cho Hà Nội, bất cần biết đến tư tưởng trong các tác phẩm của ông. Người ta cũng không thể loại trừ đó là sự can thiệp trực tiếp hoặc âm mưu của cơ quan tình báo Việt cộng, vì đối với một chính thể đang muốn tạo ra một bộ mặt có vẻ nhân đạo hơn, Duyên Anh với những tiết lộ, quả thật là một nghệ sỹ nguy hiểm.
Oliver Tood
(“Le Vietnam a trouvé son Soljenitsyne”, Paris Match ngày 9/3/1989)
Chương 1
Đến nửa đêm, người ta bảo chúng tôi xếp thành hàng ngồi giữa sân. Nhiều ngọn súng đen ngòm chúc xuống vừa tầm. Một lệnh ngắn khô khan: “Hễ đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm”, anh bộ đội nói. Cái giọng rít qua kẽ răng của anh nghe nổi da gà, tưởng chừng băng đạn sắp khạc lửa.
Từ chập tối, người ta đã đến các phố vắng, lùng bắt trẻ con vô gia cư. Bọn đánh giày, giữ xe, bọn móc túi, ăn mày, bọn cô nhi viện và cả nghệ sĩ hát dạo vỉa hè đều bị lùa lên xe mô-lô-tô-va đen giam tại nhiều nơi tối tăm của thành phố. Những đứa trẻ con nhà tử tế, nhưng vô phúc, đi bộ trên hè phố vào giờ cao điểm của chiến dịch, cũng bị thộp cổ luôn, phân trần vô ích mà còn bị ăn đòn nữa. Tôi là một trong số những đứa trẻ bất hạnh ấy.
Chúng tôi được dẫn với sân vận động Hoa Lư. Sự ồn ào, hỗn loạn bắt đầu khi chúng tôi từ trên xe nhảy xuống. Ở đây, người ta cho phép chúng tôi đi lại trong phạm vi quy định, có bộ đội kè súng canh giữ. Tha hồ nói chuyện, chửi thề, khóc lóc và lo lắng. “Đụ má, tự do ít xỉn à…” Thằng này đích thị là dân viện mồ côi cứng đầu. Nó không tỏ ve sợ hãi gì cả. “Đụ má, cha mẹ sinh ra, liệng vỉa hè, bà phước ác độc đưa vô viện nuôi nấng, cách mạng giải phóng viện mồ côi bóc lột, dẫn ra ánh sáng cuộc đời chôm chĩa, rồi lại tó. Đụ má, lần này cách mạng đẩy về đâu?” Nó nói bô bô, dáng điệu thật mất dạy. Nó phải lớn hơn tôi vài tuổi. Nói chán, nó nhìn anh bộ đội kè kè khẩu súng hát lí nhí: “Trên nòng súng AK tổ quốc cũng kinh hồn. Trên lưỡi lê bộ đội toàn dân ta đều khóc thét…” Và mấy đứa gần nó cười khoái chí. “Đụ má kỳ quá ta ơi, thời buổi cặc lõ nào tao cũng dính. Đánh giày thì tội con mẹ gì?” Thằng đánh giày khư khư thùng đồ nghề trong tay, trả lời luôn câu hỏi của nó: “Tội ngủ vỉa hè.” Nó hậm hực: “Đụ má, nghèo mới ngủ vỉa hè, bày đặt luật với lệ. Đụ má, có ông tòa nào ngủ vỉa hè chưa? Đụ má luật lệ!” Chửi sướng miệng, thằng đánh giày chuyển sang tích Tế Bần, nơi nó đã sống dở chết dở với bọn giám thị. Cuối cùng thằng đánh giày thở dài: “Tại số hết. Cầm tinh con chó là suốt đời khổ hơn con chó. Đêm nay tao đâu tính ngủ đó mà cứ vác xác tới đó. Ông biết đêm qua nó đã càn rồi. Còn càn dài dài. Mẹ, càn đi, tận số mới hết dân ngủ vỉa hè, xó chợ.” Thằng đánh giày thản nhiên chuyện bắt bớ. Như nó kể, nó bị tù nhiều rồi. Tù nhiều thì hết sợ bị tù. Bất chợt, nó thúc cù chỏ vào cạnh sườn tôi: “Mày tội gì?” Tôi nín thinh. “Bị bắt oan, hả? Mẹ kiếp, oan ơi ông địa cũng nằm ấp vài tháng đấy, con ơi! Đéo có nhà tù nào thương hại mình cả. Oan thì khóc lóc, kêu van coi? Nó sẽ đục phù mỏ.” Nó thúc thêm tôi cái nữa rồi bỏ đi.
Tôi muốn chạy theo thằng đánh giày sành sỏi hỏi nó xem, có khi nào oan được tha về ngay không. Nhưng tôi gớm nó. Tôi gớm tất cả những đứa đang cùng cảnh ngộ với tôi. Chúng nó đều dữ dằn, thô lỗ và đểu cáng. Thằng đánh giày sẽ chẳng giúp tôi điều gì, biết đâu, tôi còn khổ sở vì dại dột nói rõ nỗi oan uổng của tôi. Nó sẽ đi bêu rếu tôi hoặc hành hạ tôi nhục nhã, đau đớn. Tôi đã được đọc những truyện viết về bọn đánh giày, bọn móc túi vỉa hè, bọn cô nhi trốn viện và hình phạt trừng trị chúng nó ở trại Tế Bần. Chúng nó thật tàn bạo và đáng kiếp. Vả nữa, mới đây, mẹ tôi dặn tôi thật kỹ rằng, gặp người lạ không được nói rõ về gia đình mình. “Thời buổi này hở miệng là chết”, mẹ tôi bảo thế. Tôi ghi lời mẹ, chưa dám khai nỗi oan với bộ đội, ngu gì khai với bọn đá cá lăn dưa.
Bọn nhãi ranh vỉa hè vẫn oai oái nguyền rủa số phận và những người bắt bớ chúng. Bộ đội canh giữ mặc xác chúng muốn làm gì thì làm, đừng trốn chạy thôi. “Đụ má, ăn mày là phải ngủ vỉa hè, thời nào cũng thế và thời nào cũng bị lùa về ấp. Cách mạng đéo khá tí tỉ tì ti nào!” Thằng ăn mày lên tiếng. “Nếu ngon, cấp nhà cho ăn mày, bọn này sẽ hoan hô cách mạng!” Thằng móc túi phụ họa “Sẽ móc túi Mỹ cứu nước bằng thích!” Chúng nó bạo miệng rồi, không sợ sệt gì nữa. Bây giờ, chúng túm năm tụm ba, hát những bài do chúng đặt lời nhảm nhí thay hẳn lời ca cách mạng hoặc kể tiếu lâm về sinh hoạt của bộ đội miền Bắc ở Sài Gòn. “Ai sinh cái khám Chí Hòa, để cho ông phải vào ra mấy lần” thằng nghệ sĩ hát dạo rống lớn. Cả lũ vỗ tay. Mấy đứa bị bắt oan khóc chưa hết nước mắt, vẫn gục mặt trên đầu gối sụt sùi, nức nở. Tôi nóng lòng chờ đêm tàn nhanh, hy vọng sáng mai người ta sẽ hỏi kỹ lý lịch và tôi được về. Nhưng đêm dài vô tận. Nhiều chuyến mô-tô-lô-va xúc thêm nhãi ranh tới đỗ bãi Hoa Lư. Đến nửa đêm, người ta bảo chúng tôi xếp thành hàng ngồi giữa sân thì sự ồn ào, hỗn loạn tắt ngóm. Ngay cả thằng tỏ vẻ không sợ hãi đã sợ hãi.
Trời sắp mưa, gió thổi mạnh. Cành lá kêu xào xạc. Sấm nổ vang. Chớp lòe dễ sợ. Tôi có thể nhìn rõ đám phạm nhân qua những tia chớp xẹt nhanh. Tôi không nhìn rõ tôi mà nhìn rõ nỗi buồn thê lương trên khuôn mặt mẹ tôi nếu mẹ tôi đang chờ tôi ngoài cửa. Tôi là Nguyễn Hữu Vũ, sinh năm 1962, học lớp 7 trường Taberd, Nguyễn Du Sài Gòn. Tôi có hai đứa em gái, em bé nhất bốn tuổi, chị nó hơn nó năm tuổi. Cha tôi làm nghề dạy học. Ông bị động viên vào trường Bộ binh Thủ Đức. Hồi cha tôi ra trường, chưa có lệnh giáo chức được biệt phái về Bộ Giáo dục, lại không có tiền chạy chỗ ngồi yên thân, nên cha tôi đã trở thành một sĩ quan tác chiến. Mẹ tôi buôn bán lặt vặt để thêm tiền nuôi nấng mấy anh em tôi.
Cuối tháng 4 năm 1975, đơn vị của cha tôi bị tan rã. Ông chạy về nhà như một kẻ chiến bại hèn hạ nhất. Nghĩa là ông chỉ còn mặc một chiếc quần xà lỏn! Cha tôi núp kín trong nhà, sợ hãi đến nỗi mẹ tôi phải khó chịu. Ông thường ngồi ủ rũ, đau đớn tưởng như những giọt nước mắt rơi xuống vết thương đang rướm máu trên thân thể mình. 30 tháng 4, cả nhà tôi khóc. 1 tháng 5, người ta bắt chúng tôi lau khô nước mắt, ra đường hoan hô cách mạng, trong khi cha tôi vẫn ngồi ôm vết thương tươi rói của một đời người. 14 tháng 6 năm 1975, cha tôi đi trình diện học tập cải tạo mười ngày. Rõ ràng lệnh nói mười ngày, cha tôi không về. Cũng chẳng ai đi trình diện được về! Mẹ tôi bị một số các bà vợ, bà mẹ sĩ quan rủ rê bồng bế hai em tôi tới nơi cha tôi ghi tên trình diện hỏi thăm tin tức. Mẹ tôi đi từ buổi trưa, đến tối vẫn chẳng thấy trở lại. Tôi nghe nói những người biểu tình đòi chồng, con trình diện học tập bị đàn áp, bị bắn thẳng họng súng, chết vô khối. Tôi sốt ruột, khóa cửa, băng đi kiếm mẹ và em. Và tôi bị bắt trong chiến dịch Phố sạch phố.
- Nhớ kỹ, rời hàng sẽ bị bắn vỡ sọ. Đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm. Muốn đi đâu phải báo cáo.
Người bộ đội lại rít qua kẽ răng. Anh ta mím môi:
- Mà không đi đâu cả. Đái ỉa tại chỗ!
Khi hàng ngũ ổn định, trời đổ mưa. Những người bộ đội chạy hết lên khán đài sân vận động. Chúng tôi ngồi chịu trận mưa xối xả. Chớp là thứ đèn pin giúp bộ đội dễ kiểm soát chúng tôi. Thỉnh thoảng, họ còn quét đèn bấm xem chúng tôi có dở trò gì không. Nhưng mưa mỗi lúc một quyết liệt, ánh sáng đèn pin dễ chi xuyên qua màn mưa dày đặc, mù mịt. “Đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm.” Chúng tôi ngó nhau, trông chừng. “Thằng nào lớn nhất bọn?” Người bộ đội ngồi trên khán đài hét dữ dội: “Thằng nào lớn nhất phải báo cáo từng phút xem có đứa nào trốn không.” Thằng đánh giày gào lên: “Em báo cáo được không, anh bộ đội?” Nó tự ý đứng lên. “Được, mày tự giác thế tốt.” Thằng đánh giày nói đủ cho đồng bọn nghe: “Đụ má, báo cáo cứ báo cáo, dzọt cứ dzọt nghe, tụi bay!” Nó kích động: “Mưa vầy, tụi nó có nhìn rõ cái con cặc!” Nó vẽ đường: “Bò khỏi hàng rồi chuồn về phía tường Hồng Thập Tự, táp vô trường Văn Khoa ngủ khò, mai tính.” Thằng đánh giày bi bô: “Báo cáo anh bộ đội, không đứa nào dám trốn.” Im lặng. Mưa còn hứa hẹn dữ dội hơn. Mỗi đợt thằng đánh giày báo cáo là mỗi đợt mười thằng rời hàng. Chúng nó ra đi dễ dàng quá. Tôi cũng muốn trốn nhưng lại chần chừ vì nghĩ rằng, sáng mai, hỏi rõ lý lịch, họ sẽ thả tôi. Thằng đánh giày dặn dò: “Tao trốn một lát thì tụi bây hô hoán ầm ỹ, nghe. Không tụi nó xử tụi bây đó.” Trận mưa đã giúp ngót năm chục dân vỉa hè về với vỉa hè! Đến lượt thằng đánh giày hành động. Nó báo cáo thật rõ ràng. Rồi một mình nó chạy, không quên thùng đồ nghề. “Báo cáo bộ đội, chúng nó trốn hết rồi!” Lúc ấy, thằng đánh giày chưa kịp tới bức tường và bộ đội bắn chỉ thiên hàng loạt đạn và nhào xuống gió mưa tầm tã.
- Thằng nào vừa báo cáo đó?
Người bộ đội hỏi bằng giọng giận dữ. Một thằng nhãi đứng lên. Dù trời mưa như trút nước, tôi vẫn có thể thấy thằng nhãi đứng nghiêm.
- Mày báo cáo hả?
- Dạ.
- Những thằng nào trốn?
- Em không rõ, em chỉ biết thằng báo cáo nó trốn.
- Mày báo cáo mà?
- Lúc nãy thằng kia xí phần.
- Mày đứng yên không được nhúc nhích.
Người bộ đội đi chung quanh đám phạm nhân, trong khi, đồng ngũ của anh đang lao vào cuộc truy nã đám trốn chạy. Ngồi dưới tôi, một thằng rủa thằng vừa báo cáo: “Đù má, ham báo cáo quá, ông chưa kịp chẩu!” Thằng khác lầu bầu: “Mẹ kiếp, ăn cái giải rút gì mà nó vội hô hoán. Đứng nghiêm nghe con. Rồi nó sẽ cho mày ăn báng súng.” Một băng đạn nổ ròn rã. Những ánh đèn bấm quét qua quét lại bức tường thấp phía đường Hồng Thập Tự. Chúng tôi nín thở. Chỉ còn nghe tiếng mưa rầm rầm. Và, riêng tôi, tôi nghe rõ từng nhịp tim đập nhanh rồi đập loạn. Một lát, nhưng tôi tưởng đã quá lâu, những người bộ đội truy nã đám chạy trốn trở lại. Trời ngớt mưa. Bây giờ tôi nhìn rõ quang cảnh. Thằng đánh giày bị lôi xềnh xệch trên sân cỏ như một con chó. May nhờ mưa nên nó cũng đỡ đau. Nó rên rỉ, lạy van. Vô ích thôi. Người ta dựng nó dậy rồi buông ra. Và nó gục rũ y hệt thân chuối bị chém ngang. Người ta đá nó, đạp nó. Nó gắng sức nói một câu cuối cùng: “Em bị thương rồi, em trúng đạn rồi!” Mặc xác nó, người ta giáng xuống thân thể nó những cú đòn trả thù nó cái tội bắt người ta đội mưa đi tóm cổ nó về. Khi đạp đá đã hả hê, người ta hầm hầm nhìn chúng tôi. Tôi không còn nghe thằng đánh giày rên rỉ nữa. Hình như nó đã chết. Lúc này trời tạnh hẳn.
- Đứa nào ngồi cạnh thằng khốn kiếp kia?
Người bộ đội rít qua kẽ răng câu hỏi, tay anh ta chỉ chỗ xác thằng đánh giày nằm một đống.
- Em.
Em là thằng báo cáo có đứa chạy trốn. Tôi ngồi cách nó khá xa mà vẫn thấy nó run lẩy bẩy, đứng không vững.
- Mày, hả?
- Dạ, em.
- Mày giúp đồng bọn trốn.
- Em báo cáo đàng hoàng.
- Nó chạy gần thoát mày mới báo cáo.
- …
- Giúp đồng bọn trốn tội nặng hơn bỏ trốn. Mày còn thêm tội gạt cách mạng, mày là thằng phản động cộng lưu manh.
- Em lạy các anh.
- Bước khỏi hàng.
- Em lạy…
- Nghe rõ không?
- Dạ rõ.
Nó bước khỏi hàng. Nó bước thật chậm. Đột nhiên, nó xoay người ù té chạy. Đợi nó chạy vừa tầm đạn, người ta rê một băng. Nó khụy ngã. Đến lượt những thằng khác ngồi cạnh thằng đánh giày đứng dậy, ra khỏi hàng. Những thằng này hết dám chạy sảng.
- Còn đứa nào biết chuyện chạy trốn mà không báo cáo thì tự giác ra khỏi hàng đi.
Không đứa nào dám tự giác. Người bộ đội rít qua kẽ răng:
- Cách mạng biết hết, biết hết. Tự giác sẽ được khoan hồng, ngoan cố sẽ bị trừng trị đích đáng. Tao đợi hai phút, không chịu tự giác, tao sẽ lôi cổ ra bắn vỡ sọ.
Thêm một thằng tự giác. Rồi thằng nữa. Người bộ đội gật gù tự mãn:
- Có thế chứ. Đừng đứa nào âm mưu che giấu tội lỗi với cách mạng.
Tất cả, tự giác và không tự giác đều bị hạch hỏi, chửi rủa và ăn no nê báng súng. Chúng nó la như bọng, khóc như ri. Cuộc ăn đòn sẽ kéo dài nếu xe mô-lô-tô-va không từ ngoài cổng vào sân. Đám khốn nạn được tha về hàng. Bây giờ, chẳng đứa nào dám hé răng nói nhảm. Lần đầu tiên tôi được gặp cảnh này và chứng kiến tận mắt. Tôi thấy những gì mà nhà văn mô tả về nghịch cảnh của đám trẻ khốn nạn, bơ vơ trong cuộc đời còn thiếu sót rất nhiều. Chúng tôi bị ngắt thành từng khúc, mỗi khúc, chừng năm mươi đứa lên một xe mô-lô-tô-va. Người ta chèn ép chúng tôi cứng ngắc. Mình sẽ đi về đâu nữa? Tôi chưa biết. Nhưng tôi mơ hồ biết rằng khó lòng được tha vào sáng mai. Tự nhiên, nước mắt tôi ứa ra.
Người ta lùa bắt tôi, tung tôi lên xe, chở đi, chẳng cần hỏi tên tuổi, địa chỉ. Hình như, người ta đã chỉ có ý nghĩ duy nhất: Địa chỉ của chúng tôi là vỉa hè. Lại một lệnh ngắn hãi hùng: “Nhảy xe sẽ bị bắn vỡ sọ. Cấm nói khi xe chạy.” Xe chưa chạy chúng tôi đã câm họng, chúng tôi sợ quá rồi. Tôi đếm rõ năm chiếc mô-lô-tô-va cùng rời sân Hoa Lư một lượt. Hai cái xác chết bỏ lại. Người ta sẽ đào đất vùi tại chỗ hoặc mang đi nơi khác chôn. Chuyện này giản dị thôi. Giản dị như hàng ngàn chuyện giản dị tôi đã thấy trong suốt sáu năm tù đày vô duyên cớ của tôi mà tôi sẽ kể sau này. Cách mạng, tôi đã hiểu, không thích nghi thức, cái gì cũng dễ dàng, kể cả sự bắt bớ, đánh đập giam cầm, giết chết và chôn vùi. Xe chở chúng tôi lòng vòng thành phố nửa đêm về sáng.
Đường vắng hoe. Nhà nhà đóng cửa kín mít. Sinh hoạt Sài Gòn đã khác lạ. Chúng tôi, quần áo còn sũng nước nhưng không cảm thấy lạnh vì ngồi sát nhau. Tôi thèm gặp một phép lạ là có ai quen đi dưới đường, lúc này, để tôi nhắn họ báo cáo cho mẹ tôi biết tôi bị bắt rồi. Dẫu biết sẽ bị ăn một báng súng, tôi cũng cứ sẽ gọi nhắn. Không có phép lạ đâu. Phép lạ chỉ có trong cổ tích.
Bốn chiếc mô-lô-tô-va chạy trước đã rẽ sang đường khác. Xe của chúng tôi quẹo đường Hiền Vương, tới ngã sáu Lê Văn Duyệt thì quẹo trái luôn vô đường Hòa Hưng. Một thằng vỉa hè thứ thiệt ghé sát tai tôi: “Chí rồi, Chí rồi.” Tôi ngơ ngác, nó giải thích: “Mình vào ấp Chí Hòa rồi.” Xe đậu trước cổng khám Chí Hòa. Nó hoan hỉ đập nhẹ vai tôi: “Ở Chí Hòa mau về lắm, tao đã ngơi vài lần. Ở Tế Bần là bỏ mẹ cả lũ.” Tôi hỏi: “Mau về là mấy tháng?” Nó đáp gọn: “Tháng”, và nó vui vẻ: “Kể như trăm ngày, tiếng Tàu là bách nhật nghe mày. Chết xong, ăn bách nhật mau thấy mồ!” Nó vội im vì đang xảy chuyện đôi co ở cổng khám giữa người nhận tù và người giao tù.
- Chúng tôi không nhận thêm. Các đồng chí đem giam nơi khác.
- Gửi đâu?
- Thiếu gì nơi lao cải!
- Chỉ thị của chúng tôi là đem đến đây một xe, bốn xe khác gửi nơi khác. Đồng chí cần xem chỉ thị của Ủy ban Quân quản thành phố không?
- Không cần.
- Đồng chí chống quyết định, hả?
- Tôi không chống nhưng đây chật rồi.
- Nhét thêm đi.
- Đồng chí đợi vài phút.
- Này, đồng chí hiểu dùm là chúng tôi thức suốt đêm với lũ tiểu yêu đấy.
- Cũng đợi lệnh của thủ trưởng chúng tôi đã.
Vậy là chúng tôi cũng đợi. Đã có chút kinh nghiệm, chúng tôi ngồi im, không cục cựa. Thằng cạnh tôi lâm râm khấn vái: “Vái trời nó nhận mình. Tao ớn Tế Bần rồi, đòn Tế Bần ác lắm.”
Tôi thì thầm: “Mày biết lao cải là gì không?” Nó hích khẽ tôi: “Là nhà lao cải thiện của cách mạng, sẽ sướng cho mày coi. Hễ sướng lần này tao xin ở tù muôn năm.” Phía cổng khám lại ồn ào:
- Thủ trưởng nói chỉ nhận hai mươi đứa thôi. Ở đây không có tiêu chuẩn con nít.
- Giam chúng nó chung với bọn lớn.
- Không được.
- Được.
- Không được.
- Các đồng chí cửa quyền vừa vừa chứ. Giải quyết vấn đề một cách lề mề, cố tình gây khó khăn. Địt mẹ, vượt Trường Sơn vào đây không phải để xin chúa ngục đâu nhé!
- Đồng chí thận trọng ngôn ngữ.
- Anh dọa hả?
- Yêu cầu đồng chí ăn nói có văn hóa.
- Bây giờ nhận không?
- Chỉ nhận hai mươi đứa.
Sau một hồi cãi vã, chửi bới, lên cò súng rốp rốp, những người bắt chúng tôi đành thua cuộc. Họ túm chúng tôi đẩy xuống xe. Tôi “được” giam ở Chí Hòa. Thằng ngồi cạnh tôi hên quá, nó cũng “được” đến nơi nó mơ ước, đủ để tôi nghe: “Mày nắm tay tao khi xếp hàng đôi, tao và mày sẽ chung phòng.” Tôi làm theo lời nó dặn. Người ta dẫn chúng tôi qua cổng nhỏ của khám Chí Hòa. Tôi nhớ rõ, đó là sáng sớm tinh sương ngày 4 tháng 7 năm 1975. Chúng tôi không bị làm thủ tục gì cả. Ở đây cũng như ở vỉa hè, người ta bắt chúng tôi người ta chẳng thèm biết lý lịch của chúng tôi. Thứ lý lịch bẩn thỉu của đám ranh con vỉa hè không xứng đáng ghi trên giấy trắng, mực đen, mực xanh, mực tím hay mực đỏ. Chính vì vậy mà tôi, thằng bé mười ba tuổi, không thuộc thành phần công dân vỉa hè đã trở thành công dân vỉa hè thực thụ và bị lưu đày như một tội nhân khổ sai khốn nạn. Sợi xích của định mệnh phũ phàng nào đã ràng buộc tôi với thằng vỉa hè qua cái bắt tay, nắm chặt gắn bó. “Nhớ nhé, mày đừng rời tao. Mày là tù con so, cần được tao hướng dẫn.” Nó dặn dò tôi khi chúng tôi bước trên lớp đá răm lạo xạo.
Phải đi bộ thật lâu, chúng tôi mới qua vòng ngoài khám Chí Hòa. Và khi hồi kẻng tù báo thức ngày mới, chúng tôi mới vào hẳn cái lò bát quái, leo lên hành lang lầu thứ nhất. Người ta lại bảo chúng tôi ngồi ngay ngắn, cấm rời hàng nói chuyện. Tôi hơi yên tâm vì ở đây người ta không ra lệnh qua kẽ răng. Đấy, người ta bắt chúng tôi. Thật giản dị. Hai thằng bị đánh, bị bắn chết. Mấy chục thằng bỏ trốn. Không cần báo cáo, ghi chép mất công. Phải chi, đêm qua, tôi can đảm một chút, một chút thôi, theo thằng cô nhi to con, chạy trốn chuyến đầu thì sáng nay, tôi đang nằm ở nhà đắp chăn kín mít để khỏi hình dung cái cảnh thằng đánh giày bị vùi dập trong mưa gió.
Đến sáu giờ, người ta kiểm số tù các phòng xong xuôi, người ta mới tính tới số phận của hai mươi “tiểu yêu”. Người ta ngắt từng sáu đứa, dẫn đi, mở cửa sắt nặng cả tấn, đẩy chúng nó vào phòng, rồi khóa lại. Ba lần ngắt mất mười tám đứa, còn tôi và “người bạn”, hai đứa được ở chung một phòng. “Mày thấy tài tính toán của tao chưa?” nó khoe và tự giới thiệu: “Tên tao là Mai, chuyên mạo bím, kéo đổng. Mày cứ kêu tao là Mai bím. Tao chuyên móc túi, giật đồng hồ!” Tôi gớm thằng Mai bím, tôi là con nhà có giáo dục nên tôi chúa ghét bọn móc túi, ăn cắp.
Những người chung phòng nhìn hai đứa chúng tôi muốn lòi con ngươi. Họ thấy quần áo chúng tôi chưa kịp khô và vào tù tay không thì ngạc nhiên và ái ngại lắm. Họ chỉ nhìn chúng tôi, chẳng hỏi han gì nên chúng tôi ngậm miệng. Ông Trưởng phòng dắt hai đứa tôi đến nhận chỗ nằm. Mai bím lăn ra ngủ ngon lành. Còn tôi, tôi ngó hết người này đến người khác, nước mắt ứa ra. Cái lưới định mệnh đã thực sự chụp xuống đời tôi. Tôi như con cá nhỏ dính vào lưới cách mạng. Cuộc đời có nhiều khúc rẽ thật tàn nhẫn mà người ta không thể ngờ, có lần, mình bị đẩy vô. Hãy hình tưởng một thằng bé đang sống êm đềm với cha mẹ, anh em nó dưới mái gia đình ấm cúng. Hãy hình tưởng cái gia đình ấm cúng ấy bị cuốn xoáy trong bão tố cách mạng. Người chồng tình nguyện lưu đày, người vợ bồng bế con nhỏ đi đòi chồng mình, bị bắn chết cùng con sõng xoài trên vũng máu. Hãy hình tưởng đứa con lớn lao mình trong đêm tối đi tìm mẹ, tìm em và bị lùa bắt như một phạm nhân đê tiện. Hãy hình tưởng và sẽ thấy tôi trên khúc rẽ đổi đời với cái lưới cách mạng bủa kín âm u.
Chương 2
Vậy là tôi ở phòng mười khu FG lầu 2. Đã quá bảy ngày, vẫn chưa có cán bộ quản giáo nào hỏi han gì tôi cả. Mai bím, hầu như đã quen hết mọi người trong phòng. Nó nói với tôi: “Chí Hòa cách mạng khác hẳn Chí Hòa ngụy.” Theo nó, Chí Hòa ngụy, mỗi phòng đều có một vua tù ác ôn. Hai khu FG và BC hãi hùng nhất. Các vua tù mặc sức sai phái, bóc lột, đánh đập dân tù, thậm chí còn bắt dân tù làm các việc kinh tởm, không ai dám tưởng tượng. Chí Hòa cách mạng lật đổ chế độ vua tù tự phong, cán bộ quản giáo chỉ định một người lo việc cho mọi người. Đó là trưởng phòng. Giúp trưởng phòng có phó phòng, trật tự viên, thư ký. Phòng chia thành nhiều tổ, mỗi tổ có tổ trưởng, tổ phó. Cơm nước đã có tổ trực chia đủ, khỏi sợ cướp phần. Trưởng phòng hiền lành tử tế. Nhiệm vụ của ông ta là duy trì nội quy nhà tù và báo cáo với cán bộ những vụ ăn cắp, đánh lộn trong phòng. “Điểm khác này tao đếch khoái,” Mai bím nói, “là bị nhốt suốt ngày đêm. Xưa đâu vậy mày, điểm danh buổi sáng xong, cửa phòng mở toang hoang, tụi tao đi tứ tán, qua cả các khu khác buôn bán, kiếm ăn, tối mới về phòng.” Nó thở dài, hoài cổ: “Có vua tù mà có tự do. Mất vua tù lại mất luôn tự to. Mẹ, hồi trước muốn tắm xuống hồ tắm líp ba ga, đánh vô lây tíu tít. Giờ bày trò xách nước lên lầu, tuần tắm hai lần, sân banh thì cuốc cha nó lên trồng rau muống. Phòng thì nhốt như xe buýt dồn khứa. Mẹ, ngày tiêu chuẩn bốn ca nước, rửa đít, đít đéo sạch, lấy nước đâu rửa mặt, rửa chén đũa…” Cái giọng của Mai bím tuôn xối xả. Với nó chỉ khi nào họng súng dí vào ót, nó mới câm miệng. Nhưng mà nó đã nói đúng. Nhiều người thích nó và nhiều người ghét nó. Những người thích Mai bím khai thác nó triệt để về sự nghiệp ở tù và thân thế vỉa hè của nó ngày xưa. Mai bím còn cao hứng biểu diễn nghệ thuật móc túi của nó nữa. Người ta đã trả công nó bằng điếu thuốc rê, thuốc lào, cục đường, miếng thịt. Những người ghét Mai bím đuổi nó đi chỗ khác, khi nó lân la tới gạ gẫm kể chuyện Tế Bần, cướp giật đồng hồ. Tôi nằm ì chỗ của mình. Chán nằm lại ngồi, không đi đâu cũng không thích nói chuyện với ai. Chú nằm cạnh tôi, thấy tôi hay khóc lại tỏ vẻ không ưa Mai bím, đã hỏi tôi:
- Tên cháu là gì?
- Thưa chú cháu tên Vũ, Nguyễn Hữu Vũ.
- Cháu là bạn thằng kia à?
- Không.
- Cháu phạm tội gì?
- Cháu không biết.
Tôi kể lể gia đình tôi và sự việc khiến tôi bị bắt chung với đám nhãi vỉa hè. Chú ấy chép miệng:
- Chúng nó bắt bừa bãi, cháu bị oan.
Chú xích gần tôi:
- Cháu gọi chú là chú Tường, Võ Thế Tường, cháu Vũ nhé!
Lần đầu tiên có người gọi tên tôi bằng giọng thân mật, âu yếm. Tôi bỗng nhớ cha tôi. Và nước mắt tôi lại ứa ra. Chú Tường xoa đầu tôi:
- Đừng khóc, Vũ. Mỗi người vào tù đều có số cả.
- Bố cháu có số không?
- Có.
- Cả nước có số luôn?
- Đó gọi là vận mệnh của đất nước, hàng triệu đứa trẻ chết oan uổng và khổ sở như cháu, nhưng riêng cháu, Vũ ạ, cháu hãy tin chú đi, cháu sẽ nên người, sẽ có lại tất cả những gì cháu tưởng là đã mất.
- Cháu sẽ gặp lại bố cháu?
- Nhất định.
- Và mẹ và em cháu?
- Chứ sao.
Nếu thế, tôi không còn gì để lo lắng. Mẹ tôi, em tôi vẫn còn sống. Dễ mẹ tôi chịu đứng yên cho người ta ria đạn. Phải, dễ chi mẹ tôi và em tôi có thể chết thảm. Có nhiều viên đạn đã tránh người lương thiện.
- Thưa chú.
- Cháu muốn hỏi chú điều chi?
- Bên ngoài chú làm nghề gì?
- Chú viết báo, làm thơ.
- Tại sao họ bắt chú?
- Chú chống họ, chống tới cùng. Họ ghép chú tội phản động.
- Bao giờ họ mới thả chú?
- Chú là tù nhân không bị kết án, cháu ạ. Hai tháng hay hai mươi năm, chưa biết được.
- Còn cháu?
- Chừng nào họ cho cháu làm lý lịch, họ sẽ tha cháu.
- Chừng nào, chú Tường?
- Đợi đi, Vũ.
Sau lần chuyện trò đó, chú Tường chăm sóc tôi như thể tôi là cháu ruột chú ấy. Chú cho tôi cái bát nhựa, cái muỗng nhựa, tôi hết bị ăn bốc và đựng cơm bằng miếng ni-lông dày. Ở Chí Hòa, phạm nhân không được giữ bất cứ đồ đạc gì bằng kim khí. Tất cả bằng nhựa. Giấy bút cũng bị cấm chỉ, kể luôn giấy vệ sinh. Chai lọ thủy tinh phải nộp từ lúc xét tư trang cá nhân trước khi bước vào phòng. Có chú Tường gần gũi, tôi bớt sợ hãi. Và tôi dám tin rằng, ngày tôi được tha, tôi sẽ gặp cha mẹ và hai em. “Nhưng cháu phải thân mật với thằng Mai bím. Chú sợ, trước khi về, cháu và nó còn đi với nhau. Nó có thể hại cháu đấy. Ở tù Cộng sản không sợ cai tù mà sợ nhất những người bị tù như mình. Hễ chạm tới quyền lợi hay hễ nó ghét mình, nó sẽ đổ cức lên đầu mình, đặt đủ thứ chuyện xấu xa về mình rồi rỉ tai khắp nơi nó đến. Tốt nhất, cháu đừng làm mất lòng ai. Cứ luôn luôn khờ khạo, dốt nát là yên thân.” Chú Tường dạy tôi bài học vỡ lòng ở tù. Chú hút thuốc rê liên miên. Điếu thuốc chú quấn to như ngón tay cái, chú nhả khói y hệt ống khói tàu hỏa. Chú Tường rất khoái ngâm thơ. Bài thơ chú hay ngâm là bài “Nhớ rừng”. Giọng chú bi thương chả khác gì lời than của con hổ trong vườn bách thú. “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi…” Chú Tường rống lên rồi im bặt. Tưởng chừng chú sắp vươn chân lên đạp đổ bức tường xi măng cốt sắt. Không, chú vẫn ngồi im, đôi mắt chớp mau.
Nghe chú dạy bảo, tôi đỡ khó chịu hơn với thằng Mai bím. Ít ra, Mai bím cũng dễ thương hơn những kẻ đã bắt tôi. Nó chẳng thèm hiểu thì đúng hơn. Mai bím thường bẻ đôi cục đường nó chĩa được cho tôi. Nó khuyên tôi nên hút thuốc lào. “Nằm ấp, phi thuốc lào bất thành tù,” nó nói thế. Nó hút thuốc lào khủng khiếp. Thường, nó chỉ sấy lại điếu thuốc mà người ta đã rít. Khi nào, nhất là sáng sớm, chĩa điếu thuốc nguyên, nó kéo một hơi dài, đẫy đà, vừa buông điếu đã lăn đùng trên sàn phòng, dẫy dụa rất buồn cười. “Phê sướng lắm, mắt lim rim, tim đập mạnh, mày ơi!” Nó dụ dỗ và quảng cáo thuốc lào: “Hút điếu thuốc lào nâng cao sĩ khí! Một điếu thuốc lào bằng bao thuốc lá.” Mai bím xứng đáng tước danh công dân vỉa hè hạng nhất. Nó và tôi hay đứng gần tường, qua chấn song sắt, mỗi thanh to bằng một cánh tay tôi, nhìn cái lò bát quái. Những lúc này, Mai lại có dịp múa may những điều hiểu biết của nó về khám Chí Hòa.
- Mày đếm coi Vũ, đúng tám cạnh chưa?
- Đúng.
- Bát giác mờ lỵ. Bái quái xêm xêm. Người ta biểu Nhật nó vẽ kiểu cho Tây xây cất đấy, mày ạ! Đó, đó, cái sa-tô-đô chính giữa sân giống hệt lưỡi kiếm của thằng hiệp sĩ mù cắm xuống, cái chuôi thì dựng đứng. Tụi nó rước thầy bên Tây Tạng sang ếm dân mình. Cứ phá mẹ cái sa-tô-đô và nhổ phăng lưỡi kiếm là dân mình hết cảnh tù tội. Đủ má, cách mạng đéo chịu phá nên tao với mày lại nằm tù. Kỳ ghê, hén?
- Chí Hòa có mấy khu?
- Bốn, AH, BC, ED, FG. Mỗi khu hai cạnh. Mày nhìn kỹ con đường hầm giữa khu ED đi tới sa-tô-đô, trông như con voi xếp hàng dọc. Ban đêm họ bật đèn, ớn thấy mẹ. Còn cái con đường từ lầu 2 ráp gianh AH – BC là sân khấu ngoài trời. Hồi trước, mỗi chúa nhật, Hùng Cường, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Ngọc Giàu, Mai Lệ Huyền… vô biểu diễn, cả làng tù ra hành lang thưởng thức, vỗ tay rầm trời. Đủ má, giờ nó cấm cả ra hành lang.
- Bếp ở đâu?
- Bếp phía ngoài mình đâu thấy. Bếp kia chỉ nấu nước sôi đổ vô hồ cung cấp cho toàn khám. Còn nhiều chỗ, mà vô phúc thiếu âm đức bị điệu tới chỉ có nước hui nhị tì.
- Những chỗ nào?
- Phòng kỷ luật, tối om, thối, khai khú. Khu FG nổi tiếng phòng kỷ luật gớm nhất khám. Trên lầu 3 cơ, chứ góc cầu thang là đồ bỏ.
- Nghe nói có ma vú dài?
- Bố láo. Trước ngày giải phóng tao nằm ở phòng 2 khu BC, cách mạng vào mở cửa cho tao ra ngon lành. Mày tin chứ?
- Không.
- Thây kệ mày. Lạy tao tao mới ra. Ra nhằm hôm mít tinh, biểu tình đông nghịt, ông nạo được ba cái bím, kéo một hơn bốn đổng ba cửa sổ mười hai cột đèn, oắt-tơ-púp đánh bốc thi hơi…
Đó, những điều hiểu biết của Mai bím. Nó mà kể chuyện bán đồng hồ cho bộ đội miền Bắc vô tiệm uống cà phê thì khối người bị bắt ngay từ hôm 30 tháng 4 phải bò ra cười. Đôi khi, Mai bím đã bịa đặt thêm, nhưng nó vẫn ăn đường, uống sữa bột và hút thuốc đều đều. Chưa bao giờ tôi thấy Mai bím buồn bã. Một hôm, tự nhiên, nó gác chân lên đùi tôi, thủ thỉ:
- Này Vũ, tao khoái mày thật tình, mà tao hơi buồn là mày không khoái tao.
- Ai bảo mày thế?
- Tao biết, Vũ ạ! Tao còn biết mày không thuộc loại vỉa hè như tao.
- Rồi sao?
- Rồi tao vẫn khoái mày. Ba mày là sĩ quan ngụy hả?
- Ừ.
- Cứ khai nghề buôn bán cho tiện. Nó ghi vô phích sĩ quan ngụy là mày tàn đời. Đủ má, tao nghe tụi này thù sĩ quan mình thấu xương. Tao thương mày, dặn mày vậy đó.
- Cảm ơn Mai bím.
- Ông hiểu thân phận ông, ra đời sức mấy dám chơi với mày.
- Đừng nói thế, mày. Mà sao bữa nọ mày không trốn?
- Trốn đâu? Trốn lên trời mới thoát, dân vỉa hè trốn đêm nay, đêm mai bị tó lại. Ước gì… mà thôi.
Mai bím nín thinh, cậy răng nó, nó cũng không chịu nói. Tôi chẳng hiểu Mai bím ước gì. Nhưng từ hôm đó, tôi hết ý nghĩ khinh thường Mai bím. À, Mai bím hết ham múa may những điều mà nó cho là kinh nghiệm nhà tù với tôi. Nó có vẻ sợ sệt chú Tường, sợ sệt và kính trọng. Mai bím chưa hề chĩa chú Tường điếu thuốc nào. Nếu nó xin, chú Tường sẽ cho nó. Chú Tường thương tôi thì khỏi nói, song chú không mời tôi hút thuốc. “Ở tù phải tập nhiều thứ, Vũ ạ! Phải tập để không thèm khát thứ gì. Tập nhịn đói được càng tốt. Cháu nên ăn ít cho dạ dày quen làm việc ít,” chú dạy tôi thế, “lỡ mai cháu chưa về, cháu còn đi tới nhiều nhà tù trên đất nước Việt Nam, cháu đừng buồn, đừng tuyệt vọng. Không bao giờ có tuyệt vọng, cháu nhớ kỹ, Vũ nhé! Hãy can đảm đi tới cùng, đi không giống người phiêu lưu, mạo hiểm, mà đi như đi tìm ý nghĩa cuộc sống cao cả, bát ngát.” Như vậy, tôi còn bị đi tới nhiều nhà tù khác nữa. Chí Hòa chưa phải là nơi dừng chân đợi về của tù nhân bất đắc dĩ.
Hai tuần lễ đã trôi qua, người ta vẫn không thèm đoái hoài đến tôi. Ông trưởng phòng tử tế ghi tên tuổi, địa chỉ của tôi vào danh sách phòng nhưng cũng vô vọng. Bất ngờ, vào một buổi chiều, người cán bộ quản giáo ghé phòng, phát một tờ giấy lớn cho ông thư ký làm danh sách mới. Tôi mừng quýnh. Có danh sách nộp cán bộ quản giáo là được cán bộ chấp pháp hỏi cung. Và sẽ được trả tự do. Tôi nghĩ ngay đến con đường dẫn tôi về nhà. Tôi đi bộ hay đi xe xích lô? Đi bộ thì vừa đi vừa chạy. Đi xe xích lô thì phải nói rõ đến nhà xin tiền của mẹ mới trả. Mẹ tôi sẽ ôm tôi khóc nức nở. Tôi sẽ khóc nức nở. Các em tôi sẽ ôm chân tôi, khóc nức nở. Hạnh phúc, bấy giờ, sẽ là nước mắt. Chỉ là nước mắt. Tôi không dám nghĩ gì hơn. Ông thư ký gọi từng người tại chỗ ông khai lý lịch. Xong xuôi, ông chờ nộp cho cán bộ. Sáng hôm sau, cán bộ xuất hiện ngoài song sắt hỏi tội trạng từng người rồi tự ghi vô danh sách, vì chiều qua, cán bộ quên mục tội trạng.
- Phan Quán Khả.
- Tư sản.
- Nguyễn Văn Thiệu.
- Ăn cướp.
- Bùi Kiên Bản.
- Tư sản.
- Nguyễn Cao Kiều.
- Ăn cắp.
- Võ Thế Toàn.
- Phản động, chống Cộng sản.
- Lê Văn Mai.
- Móc túi.
- Nguyễn Ngọc Linh.
- Trộm xe đạp.
- Cao Văn Vinh.
- Giết người.
- Đỗ Tùng.
- In lậu sách, lưu manh.
- Nguyễn Hiệu.
- Sư giả vờ, bịp bợm.
Cả phòng lần lượt khai tội trạng khi cán bộ gọi tên. Đủ các thứ tội. Tư sản mại bản, phản động gặp gỡ sát nhân, trộm cướp, lưu manh.
- Nguyễn Hữu Vũ.
- Không rõ tội.
Cán bộ nhìn tôi trừng trừng khiến tôi sợ hãi. Anh ta gật gật cái đầu, dáng điệu vừa chế riễu vừa răn đe.
- Không rõ tội là vô tội, hả?
- Dạ.
- Bị bắt ở đâu?
- Ngoài đường.
- Tội cướp giật, hiểu chưa? Cách mạng chẳng lầm lẫn bao giờ. Cách mạng sáng rực như mặt trời, mặt trăng.
- Thưa cán bộ…
- Cách mạng sáng suốt không bắt lầm. Mày can tội cướp giật.
Anh ta không cho tôi phân trần hay hỏi tôi thêm điều gì. Chắc chắn, anh ta ghi tội cướp giật vào hồ sơ của tôi. Và tiếp tục gọi:
- Bùi Diễm.
- Lừa gạt.
- Dương Đức Dũng.
- Chống phá cách mạng.
Cán bộ qua phòng khác. Hy vọng của tôi tiêu tan. Tôi lủi thủi về chỗ, nằm khóc rưng rức. Chú Tường dỗ dành tôi: “Ngoan nào, Vũ. Đừng khóc. Cháu phải can đảm thì mới mong về gặp được bố mẹ và em.” Tôi khóc nhiều hơn. Nước mắt của tôi tưởng không tài nào hết. Cách mạng sáng suốt vô cùng. Cách mạng quy tôi cái tội cướp giật, tội mà, sống trọn đời mình tôi cũng không vi phạm. Chú Tường mới nói về số phận, về định mệnh. Định mệnh gì khắc nghiệt vậy? Chỉ chớp nhoáng, định mệnh dẫn thằng học trò ngoan ngỗn vào lao tù với tội cướp giật vu khống. Tôi khóc, tôi nghĩ miên man rồi tôi ngủ một giấc. Tỉnh dậy, tôi thấy chú Tường vẫn ngồi cạnh tôi. Chú không đốt thuốc rê mà khâu cái túi đựng phân bón hóa học. Dù bị cấm đoán, bị xét phòng liên tiếp, tù nhân vẫn có thể tạo được kim khâu vá bằng dây điện nhặt lén khi xuống sân tắm giặt, người ta lượm cả đá lên làm búa, lon sữa bò làm dao và ngói làm phấn học chữ Tàu… Chú Tường đã biết tôi thức.
- Vũ ạ!
- Cháu nghe chú đây, chú Tường ơi!
- Chú mơ hồ cảm giác là chú cháu mình sắp xa nhau. Hoặc chú đi, hoặc cháu đi.
- Ai ai cũng đều buồn, chú ạ!
- Rốt cuộc, vẫn phải xa nhau. Ở tù không có gì đáng hứa hẹn cả, mà chẳng ai dám hứa hẹn với ai. Chú đã may tặng cháu hai cái quần đùi, một bộ đồ cũ sửa lại và cái túi cho cháu đựng.
Chú xé tấm đắp mỏng của chú, cắt quần cho tôi bằng nắp hộp sữa bò mài sắc.
- Tù lớn, tù bé đều cần có hành lý. Chú còn vài đồng và ít viên át-pi-rin, ít viên trụ sinh mạnh, chú tặng cháu luôn, đề phòng đi xa cần dùng.
- Chú thương cháu quá.
- Không đâu, chú thương đời chú đấy. Rồi chú sẽ kể chuyện đời chú cho cháu nghe. Tối nay hoặc lát nữa chú kể. Ta phải làm nhanh vì nó kêu đi bất chợt.
Chú Tường vuốt nếp cái túi đã khâu xong, chú đưa lên ngắm nghía.
- Đẹp rồi. Kỷ niệm Chí Hòa của chú, giữ đem về khoe mẹ nhé, Vũ nhé!
Tôi lại khóc. Lần này, không phải vì sợ hãi, vì nhớ mẹ, nhớ em, vì thương cha mà vì lòng tốt của chú Tường. Chú lấy khăn thấm nước mắt giàn dụa trên khuôn mặt tôi.
- Nín đi, chú cháu mình còn nhiều việc cần làm hơn là khóc.
- Cháu xin lỗi chú.
- Tốt tốt. Những điều chú đã nói với cháu, sắp nói với cháu, cháu chưa hiểu nổi thì cố nhớ. Bố cháu là giáo sư, là sĩ quan. Cháu là đứa học trò ngoan, đứa con hiếu thảo. Phải thế không nào?
- Dạ.
- Hãy xứng đáng là con một người trí thức, con một sĩ quan, không thèm hiểu sĩ quan gì và số phận ông ta bây giờ ra sao. Hãy kiên nhẫn chịu đựng mọi nghịch cảnh, không than van, khóc lóc. Hạnh phúc sẽ tới và sẽ chỉ tới với ai dám chịu đựng. Hãy ngẩng đầu lên khi bị hành hạ tàn nhẫn. Hãy sống như cháu đang sống dù ngày mai cháu có sống chung với toàn lũ trộm cắp, lưu manh. Hãy giúp chúng nó lấy lạy danh dự và phẩm cách con người. Hãy cao thượng và đừng bao giờ phán xét. Cháu nhớ chứ?
- Dạ.
- Điều này cần thiết giúp cháu về với gia đình. Đừng bao giờ làm anh hùng trong nhà tù. Cố sống bình thường, tầm thường càng tốt.
- Dạ.
- Ở nhà tù nào gặp người tốt, cháu nhờ họ dạy bảo, trại giam nào có sách, cháu cố mượn đọc, họ cho đọc thì cháu tự học thêm.
- Dạ.
- Sống không để hưởng thụ, cháu ạ, mà để thẩm thấu hết nỗi đau khổ trong trời đất. Nếu sống chỉ để ăn ngon, mặc đẹp, làm nhiều tiền, thì ai cũng sống được. Nhưng sống như cháu đang sống, còn sống, trên thế giới chỉ có một mình cháu thôi. Vỹ nhân thường được tạo nên trong niềm thống khổ. Cháu sẽ làm lại quê hương này, tổ quốc này, khởi sự từ sân Hoa Lư một đêm mưa tầm tã. Cháu sẽ là anh hùng dân tộc. Chứ không phải những đứa trốn chạy khỏi nước Việt Nam.
Tôi cố nhớ những lời chú Tường dặn. Nhưng tôi không tin rằng tôi có thể làm được những gì chú Tường mong muốn. Dẫu sao, tôi cũng phải nhớ. Để mai này khi trở về - điều này khó khăn lắm - hoặc lang thang hết nhà tù nọ sang nhà tù kia, tôi sẽ vỡ dần ý nghĩa trong mộng ước mà chú Tường gửi gấm tôi. Quả thật, gặp chú Tường nơi tù ngục hay ngoài cuộc đời đều may mắn cả. Dễ chi gặp chú Tường. Tôi tự cho tôi là đứa bé có hạnh phúc. Chú vê hai điếu thuốc rê, đưa tôi một điếu.
- Cháu hút đi.
Tôi lắc đầu. Chú bảo giữ đưa tặng Mai bím.
- Cuối tháng nó sẽ cho viết thư. Chú sẽ đóng tiền mua giấy, phong bì, tem và bút. Rồi cháu viết về nhà, xem sao.
Chú mồi lửa, châm thuốc, nhả khói:
- Nếu cháu đi sớm, cuối tháng, chú sẽ biết cho mẹ cháu giúp cháu.
Tôi thẫn thờ:
- Chú không viết cho cô?
Chú Tường cười:
- Cô đâu cần bằng cháu. Cô biết chú ở đây rồi.
Tôi ôm chầm lấy chú Tường, xuýt làm văng điếu thuốc trên môi chú. Nỗi hy vọng của tôi, chú Tường kính mến, trên bước đường hoạn nạn, tôi đã có chú, đã có lá bùa đeo trước ngực để phấn đấu với mọi nghịch cảnh. Chú dập điếu thuốc, vuốt ve tóc tôi. Và chú kể tôi nghe cuộc đời thơ ấu, nghèo nàn, vất vưởng của chú. Tôi thấy nỗi đau khổ của tôi hôm nay chưa thấm thía gì với nỗi đau khổ của chú Tường những năm lên tám, lên mười. Giọng chú Tường đều đều, xa vắng. Chú có nhiều ẩn ức. Tiếc rằng tôi còn nhỏ, chẳng thể san sẻ những ẩn ức của chú. Tôi bỗng quên gia đình. Có nhớ cũng vô ích thôi. Tôi không còn sợ hãi ngày mai, cái ngày mai người ta sẽ đưa tôi đến những nhà tù nào nữa và sẽ chụp lên đời tôi những tội trạng gớm ghiếc nào nữa. Cám ơn chú Tường, chú đã giúp cháu biết chấp nhận nghịch cảnh và nghiến răng chịu đựng. Cháu hứa sẽ không khóc trong nhà tù.
Cuốn sách này viết để tặng:
- Hội bảo vệ súc vật các nước trên thế giới
- Quý vị nuôi chó và sưu tầm chó trên thế giới
- Tòa án Bertrand Russell
- UNICEF
- Các nước viện trợ nhân đạo cho Việt Nam
Tác giả rất trân trọng
Duyên Anh
Thay lời tựa
VIỆT NAM ĐÃ CÓ SOLJENITSYNE
Cách đây hai năm, qua “Một người Nga ở Sài Gòn”, người ta đã so sánh ông với Vercors. Ngày nay với tác phẩm “Đồi Fanta” (Belfond xuất bản) nhà văn Duyên Anh, cân nhắc trên mọi tầm vóc, chẳng mấy chốc sẽ là Soljenitsyne Việt Nam: xen lẫn giả tưởng và thực tế, ông đã miêu tả trại tập trung Cộng sản Việt Nam qua tình bạn giữa Mai bím, tên móc túi khéo xoay xở và Nguyễn Hữu Vũ, mười ba tuổi, bị bắt vì cha là sĩ quan “ngụy”. Điều nguy hiểm nhất cho hai em bé: đồi Fanta. Nơi đây là mồ chôn hàng trăm trẻ em chết vì bị quản giáo sát hại, chết vì kiệt lực, vì “lao động tốt”, vì kiết lỵ, sốt rét ngã nước, dịch tả. Ở một nước gió mùa và thiếu hụt đủ thứ, các em không có được một tấm mộ bia. Thay vào đó là các mảnh giấy nhỏ ghi lại họ tên, có đủ hoặc thiếu sót, thường chỉ thu gọn vào tên gọi và ngày chết, được nhét vào vỏ chai nước ngọt Fanta cắm ngược đầu trên nấm mộ.
Được mệnh danh là “nhà văn của thiếu nhi”, Duyên Anh đã cho xuất bản khoảng năm chục tác phẩm gồm tiểu thuyết, biên khảo, thơ. Trước khi Sài Gòn mất năm 1975, Duyên Anh mô tả sự chán chường và nỗi cô đơn của tuổi trẻ Việt Nam. Và ông vẫn đang tiếp tục công trình này! Thời đó ông chỉ trích Hoa Kỳ và đồng thời chống đối Cộng sản. Cộng sản Việt Nam liệt ông vào “một trong mười tên biệt kích văn nghệ nguy hiểm nhất”. Tác phẩm bị cấm, còn ông bị bắt giam mà không tuyên án với số tù 239D TCT CT XM, chỉ được trả tự do năm 1981 nhờ sự can thiệp của Văn Bút và Ân Xá Quốc Tế.
Ngày 30 tháng 4 năm ngoái, Duyên Anh phải trả một giá đắt về sự dấn thân của ông: trong dịp qua thăm California (Hoa Kỳ), ông bị bốn người Việt vây đánh gục. Ông nằm hôn mê nhiều ngày, rồi được đưa trở về Pháp điều trị trong một nhà thương ở Paris. Dần dà Duyên Anh đã lấy lại được sức khỏe. Ai là kẻ hành hung? Cảnh sát Hoa Kỳ không đưa ra được một kết luận nào cả. Rất có thể đó là những người quốc gia cực hữu thiển cận đã gán cho ông tội làm “ăng ten” cho Hà Nội, bất cần biết đến tư tưởng trong các tác phẩm của ông. Người ta cũng không thể loại trừ đó là sự can thiệp trực tiếp hoặc âm mưu của cơ quan tình báo Việt cộng, vì đối với một chính thể đang muốn tạo ra một bộ mặt có vẻ nhân đạo hơn, Duyên Anh với những tiết lộ, quả thật là một nghệ sỹ nguy hiểm.
Oliver Tood
(“Le Vietnam a trouvé son Soljenitsyne”, Paris Match ngày 9/3/1989)
Chương 1
Đến nửa đêm, người ta bảo chúng tôi xếp thành hàng ngồi giữa sân. Nhiều ngọn súng đen ngòm chúc xuống vừa tầm. Một lệnh ngắn khô khan: “Hễ đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm”, anh bộ đội nói. Cái giọng rít qua kẽ răng của anh nghe nổi da gà, tưởng chừng băng đạn sắp khạc lửa.
Từ chập tối, người ta đã đến các phố vắng, lùng bắt trẻ con vô gia cư. Bọn đánh giày, giữ xe, bọn móc túi, ăn mày, bọn cô nhi viện và cả nghệ sĩ hát dạo vỉa hè đều bị lùa lên xe mô-lô-tô-va đen giam tại nhiều nơi tối tăm của thành phố. Những đứa trẻ con nhà tử tế, nhưng vô phúc, đi bộ trên hè phố vào giờ cao điểm của chiến dịch, cũng bị thộp cổ luôn, phân trần vô ích mà còn bị ăn đòn nữa. Tôi là một trong số những đứa trẻ bất hạnh ấy.
Chúng tôi được dẫn với sân vận động Hoa Lư. Sự ồn ào, hỗn loạn bắt đầu khi chúng tôi từ trên xe nhảy xuống. Ở đây, người ta cho phép chúng tôi đi lại trong phạm vi quy định, có bộ đội kè súng canh giữ. Tha hồ nói chuyện, chửi thề, khóc lóc và lo lắng. “Đụ má, tự do ít xỉn à…” Thằng này đích thị là dân viện mồ côi cứng đầu. Nó không tỏ ve sợ hãi gì cả. “Đụ má, cha mẹ sinh ra, liệng vỉa hè, bà phước ác độc đưa vô viện nuôi nấng, cách mạng giải phóng viện mồ côi bóc lột, dẫn ra ánh sáng cuộc đời chôm chĩa, rồi lại tó. Đụ má, lần này cách mạng đẩy về đâu?” Nó nói bô bô, dáng điệu thật mất dạy. Nó phải lớn hơn tôi vài tuổi. Nói chán, nó nhìn anh bộ đội kè kè khẩu súng hát lí nhí: “Trên nòng súng AK tổ quốc cũng kinh hồn. Trên lưỡi lê bộ đội toàn dân ta đều khóc thét…” Và mấy đứa gần nó cười khoái chí. “Đụ má kỳ quá ta ơi, thời buổi cặc lõ nào tao cũng dính. Đánh giày thì tội con mẹ gì?” Thằng đánh giày khư khư thùng đồ nghề trong tay, trả lời luôn câu hỏi của nó: “Tội ngủ vỉa hè.” Nó hậm hực: “Đụ má, nghèo mới ngủ vỉa hè, bày đặt luật với lệ. Đụ má, có ông tòa nào ngủ vỉa hè chưa? Đụ má luật lệ!” Chửi sướng miệng, thằng đánh giày chuyển sang tích Tế Bần, nơi nó đã sống dở chết dở với bọn giám thị. Cuối cùng thằng đánh giày thở dài: “Tại số hết. Cầm tinh con chó là suốt đời khổ hơn con chó. Đêm nay tao đâu tính ngủ đó mà cứ vác xác tới đó. Ông biết đêm qua nó đã càn rồi. Còn càn dài dài. Mẹ, càn đi, tận số mới hết dân ngủ vỉa hè, xó chợ.” Thằng đánh giày thản nhiên chuyện bắt bớ. Như nó kể, nó bị tù nhiều rồi. Tù nhiều thì hết sợ bị tù. Bất chợt, nó thúc cù chỏ vào cạnh sườn tôi: “Mày tội gì?” Tôi nín thinh. “Bị bắt oan, hả? Mẹ kiếp, oan ơi ông địa cũng nằm ấp vài tháng đấy, con ơi! Đéo có nhà tù nào thương hại mình cả. Oan thì khóc lóc, kêu van coi? Nó sẽ đục phù mỏ.” Nó thúc thêm tôi cái nữa rồi bỏ đi.
Tôi muốn chạy theo thằng đánh giày sành sỏi hỏi nó xem, có khi nào oan được tha về ngay không. Nhưng tôi gớm nó. Tôi gớm tất cả những đứa đang cùng cảnh ngộ với tôi. Chúng nó đều dữ dằn, thô lỗ và đểu cáng. Thằng đánh giày sẽ chẳng giúp tôi điều gì, biết đâu, tôi còn khổ sở vì dại dột nói rõ nỗi oan uổng của tôi. Nó sẽ đi bêu rếu tôi hoặc hành hạ tôi nhục nhã, đau đớn. Tôi đã được đọc những truyện viết về bọn đánh giày, bọn móc túi vỉa hè, bọn cô nhi trốn viện và hình phạt trừng trị chúng nó ở trại Tế Bần. Chúng nó thật tàn bạo và đáng kiếp. Vả nữa, mới đây, mẹ tôi dặn tôi thật kỹ rằng, gặp người lạ không được nói rõ về gia đình mình. “Thời buổi này hở miệng là chết”, mẹ tôi bảo thế. Tôi ghi lời mẹ, chưa dám khai nỗi oan với bộ đội, ngu gì khai với bọn đá cá lăn dưa.
Bọn nhãi ranh vỉa hè vẫn oai oái nguyền rủa số phận và những người bắt bớ chúng. Bộ đội canh giữ mặc xác chúng muốn làm gì thì làm, đừng trốn chạy thôi. “Đụ má, ăn mày là phải ngủ vỉa hè, thời nào cũng thế và thời nào cũng bị lùa về ấp. Cách mạng đéo khá tí tỉ tì ti nào!” Thằng ăn mày lên tiếng. “Nếu ngon, cấp nhà cho ăn mày, bọn này sẽ hoan hô cách mạng!” Thằng móc túi phụ họa “Sẽ móc túi Mỹ cứu nước bằng thích!” Chúng nó bạo miệng rồi, không sợ sệt gì nữa. Bây giờ, chúng túm năm tụm ba, hát những bài do chúng đặt lời nhảm nhí thay hẳn lời ca cách mạng hoặc kể tiếu lâm về sinh hoạt của bộ đội miền Bắc ở Sài Gòn. “Ai sinh cái khám Chí Hòa, để cho ông phải vào ra mấy lần” thằng nghệ sĩ hát dạo rống lớn. Cả lũ vỗ tay. Mấy đứa bị bắt oan khóc chưa hết nước mắt, vẫn gục mặt trên đầu gối sụt sùi, nức nở. Tôi nóng lòng chờ đêm tàn nhanh, hy vọng sáng mai người ta sẽ hỏi kỹ lý lịch và tôi được về. Nhưng đêm dài vô tận. Nhiều chuyến mô-tô-lô-va xúc thêm nhãi ranh tới đỗ bãi Hoa Lư. Đến nửa đêm, người ta bảo chúng tôi xếp thành hàng ngồi giữa sân thì sự ồn ào, hỗn loạn tắt ngóm. Ngay cả thằng tỏ vẻ không sợ hãi đã sợ hãi.
Trời sắp mưa, gió thổi mạnh. Cành lá kêu xào xạc. Sấm nổ vang. Chớp lòe dễ sợ. Tôi có thể nhìn rõ đám phạm nhân qua những tia chớp xẹt nhanh. Tôi không nhìn rõ tôi mà nhìn rõ nỗi buồn thê lương trên khuôn mặt mẹ tôi nếu mẹ tôi đang chờ tôi ngoài cửa. Tôi là Nguyễn Hữu Vũ, sinh năm 1962, học lớp 7 trường Taberd, Nguyễn Du Sài Gòn. Tôi có hai đứa em gái, em bé nhất bốn tuổi, chị nó hơn nó năm tuổi. Cha tôi làm nghề dạy học. Ông bị động viên vào trường Bộ binh Thủ Đức. Hồi cha tôi ra trường, chưa có lệnh giáo chức được biệt phái về Bộ Giáo dục, lại không có tiền chạy chỗ ngồi yên thân, nên cha tôi đã trở thành một sĩ quan tác chiến. Mẹ tôi buôn bán lặt vặt để thêm tiền nuôi nấng mấy anh em tôi.
Cuối tháng 4 năm 1975, đơn vị của cha tôi bị tan rã. Ông chạy về nhà như một kẻ chiến bại hèn hạ nhất. Nghĩa là ông chỉ còn mặc một chiếc quần xà lỏn! Cha tôi núp kín trong nhà, sợ hãi đến nỗi mẹ tôi phải khó chịu. Ông thường ngồi ủ rũ, đau đớn tưởng như những giọt nước mắt rơi xuống vết thương đang rướm máu trên thân thể mình. 30 tháng 4, cả nhà tôi khóc. 1 tháng 5, người ta bắt chúng tôi lau khô nước mắt, ra đường hoan hô cách mạng, trong khi cha tôi vẫn ngồi ôm vết thương tươi rói của một đời người. 14 tháng 6 năm 1975, cha tôi đi trình diện học tập cải tạo mười ngày. Rõ ràng lệnh nói mười ngày, cha tôi không về. Cũng chẳng ai đi trình diện được về! Mẹ tôi bị một số các bà vợ, bà mẹ sĩ quan rủ rê bồng bế hai em tôi tới nơi cha tôi ghi tên trình diện hỏi thăm tin tức. Mẹ tôi đi từ buổi trưa, đến tối vẫn chẳng thấy trở lại. Tôi nghe nói những người biểu tình đòi chồng, con trình diện học tập bị đàn áp, bị bắn thẳng họng súng, chết vô khối. Tôi sốt ruột, khóa cửa, băng đi kiếm mẹ và em. Và tôi bị bắt trong chiến dịch Phố sạch phố.
- Nhớ kỹ, rời hàng sẽ bị bắn vỡ sọ. Đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm. Muốn đi đâu phải báo cáo.
Người bộ đội lại rít qua kẽ răng. Anh ta mím môi:
- Mà không đi đâu cả. Đái ỉa tại chỗ!
Khi hàng ngũ ổn định, trời đổ mưa. Những người bộ đội chạy hết lên khán đài sân vận động. Chúng tôi ngồi chịu trận mưa xối xả. Chớp là thứ đèn pin giúp bộ đội dễ kiểm soát chúng tôi. Thỉnh thoảng, họ còn quét đèn bấm xem chúng tôi có dở trò gì không. Nhưng mưa mỗi lúc một quyết liệt, ánh sáng đèn pin dễ chi xuyên qua màn mưa dày đặc, mù mịt. “Đứa nào trốn, những thằng chung quanh chịu trách nhiệm.” Chúng tôi ngó nhau, trông chừng. “Thằng nào lớn nhất bọn?” Người bộ đội ngồi trên khán đài hét dữ dội: “Thằng nào lớn nhất phải báo cáo từng phút xem có đứa nào trốn không.” Thằng đánh giày gào lên: “Em báo cáo được không, anh bộ đội?” Nó tự ý đứng lên. “Được, mày tự giác thế tốt.” Thằng đánh giày nói đủ cho đồng bọn nghe: “Đụ má, báo cáo cứ báo cáo, dzọt cứ dzọt nghe, tụi bay!” Nó kích động: “Mưa vầy, tụi nó có nhìn rõ cái con cặc!” Nó vẽ đường: “Bò khỏi hàng rồi chuồn về phía tường Hồng Thập Tự, táp vô trường Văn Khoa ngủ khò, mai tính.” Thằng đánh giày bi bô: “Báo cáo anh bộ đội, không đứa nào dám trốn.” Im lặng. Mưa còn hứa hẹn dữ dội hơn. Mỗi đợt thằng đánh giày báo cáo là mỗi đợt mười thằng rời hàng. Chúng nó ra đi dễ dàng quá. Tôi cũng muốn trốn nhưng lại chần chừ vì nghĩ rằng, sáng mai, hỏi rõ lý lịch, họ sẽ thả tôi. Thằng đánh giày dặn dò: “Tao trốn một lát thì tụi bây hô hoán ầm ỹ, nghe. Không tụi nó xử tụi bây đó.” Trận mưa đã giúp ngót năm chục dân vỉa hè về với vỉa hè! Đến lượt thằng đánh giày hành động. Nó báo cáo thật rõ ràng. Rồi một mình nó chạy, không quên thùng đồ nghề. “Báo cáo bộ đội, chúng nó trốn hết rồi!” Lúc ấy, thằng đánh giày chưa kịp tới bức tường và bộ đội bắn chỉ thiên hàng loạt đạn và nhào xuống gió mưa tầm tã.
- Thằng nào vừa báo cáo đó?
Người bộ đội hỏi bằng giọng giận dữ. Một thằng nhãi đứng lên. Dù trời mưa như trút nước, tôi vẫn có thể thấy thằng nhãi đứng nghiêm.
- Mày báo cáo hả?
- Dạ.
- Những thằng nào trốn?
- Em không rõ, em chỉ biết thằng báo cáo nó trốn.
- Mày báo cáo mà?
- Lúc nãy thằng kia xí phần.
- Mày đứng yên không được nhúc nhích.
Người bộ đội đi chung quanh đám phạm nhân, trong khi, đồng ngũ của anh đang lao vào cuộc truy nã đám trốn chạy. Ngồi dưới tôi, một thằng rủa thằng vừa báo cáo: “Đù má, ham báo cáo quá, ông chưa kịp chẩu!” Thằng khác lầu bầu: “Mẹ kiếp, ăn cái giải rút gì mà nó vội hô hoán. Đứng nghiêm nghe con. Rồi nó sẽ cho mày ăn báng súng.” Một băng đạn nổ ròn rã. Những ánh đèn bấm quét qua quét lại bức tường thấp phía đường Hồng Thập Tự. Chúng tôi nín thở. Chỉ còn nghe tiếng mưa rầm rầm. Và, riêng tôi, tôi nghe rõ từng nhịp tim đập nhanh rồi đập loạn. Một lát, nhưng tôi tưởng đã quá lâu, những người bộ đội truy nã đám chạy trốn trở lại. Trời ngớt mưa. Bây giờ tôi nhìn rõ quang cảnh. Thằng đánh giày bị lôi xềnh xệch trên sân cỏ như một con chó. May nhờ mưa nên nó cũng đỡ đau. Nó rên rỉ, lạy van. Vô ích thôi. Người ta dựng nó dậy rồi buông ra. Và nó gục rũ y hệt thân chuối bị chém ngang. Người ta đá nó, đạp nó. Nó gắng sức nói một câu cuối cùng: “Em bị thương rồi, em trúng đạn rồi!” Mặc xác nó, người ta giáng xuống thân thể nó những cú đòn trả thù nó cái tội bắt người ta đội mưa đi tóm cổ nó về. Khi đạp đá đã hả hê, người ta hầm hầm nhìn chúng tôi. Tôi không còn nghe thằng đánh giày rên rỉ nữa. Hình như nó đã chết. Lúc này trời tạnh hẳn.
- Đứa nào ngồi cạnh thằng khốn kiếp kia?
Người bộ đội rít qua kẽ răng câu hỏi, tay anh ta chỉ chỗ xác thằng đánh giày nằm một đống.
- Em.
Em là thằng báo cáo có đứa chạy trốn. Tôi ngồi cách nó khá xa mà vẫn thấy nó run lẩy bẩy, đứng không vững.
- Mày, hả?
- Dạ, em.
- Mày giúp đồng bọn trốn.
- Em báo cáo đàng hoàng.
- Nó chạy gần thoát mày mới báo cáo.
- …
- Giúp đồng bọn trốn tội nặng hơn bỏ trốn. Mày còn thêm tội gạt cách mạng, mày là thằng phản động cộng lưu manh.
- Em lạy các anh.
- Bước khỏi hàng.
- Em lạy…
- Nghe rõ không?
- Dạ rõ.
Nó bước khỏi hàng. Nó bước thật chậm. Đột nhiên, nó xoay người ù té chạy. Đợi nó chạy vừa tầm đạn, người ta rê một băng. Nó khụy ngã. Đến lượt những thằng khác ngồi cạnh thằng đánh giày đứng dậy, ra khỏi hàng. Những thằng này hết dám chạy sảng.
- Còn đứa nào biết chuyện chạy trốn mà không báo cáo thì tự giác ra khỏi hàng đi.
Không đứa nào dám tự giác. Người bộ đội rít qua kẽ răng:
- Cách mạng biết hết, biết hết. Tự giác sẽ được khoan hồng, ngoan cố sẽ bị trừng trị đích đáng. Tao đợi hai phút, không chịu tự giác, tao sẽ lôi cổ ra bắn vỡ sọ.
Thêm một thằng tự giác. Rồi thằng nữa. Người bộ đội gật gù tự mãn:
- Có thế chứ. Đừng đứa nào âm mưu che giấu tội lỗi với cách mạng.
Tất cả, tự giác và không tự giác đều bị hạch hỏi, chửi rủa và ăn no nê báng súng. Chúng nó la như bọng, khóc như ri. Cuộc ăn đòn sẽ kéo dài nếu xe mô-lô-tô-va không từ ngoài cổng vào sân. Đám khốn nạn được tha về hàng. Bây giờ, chẳng đứa nào dám hé răng nói nhảm. Lần đầu tiên tôi được gặp cảnh này và chứng kiến tận mắt. Tôi thấy những gì mà nhà văn mô tả về nghịch cảnh của đám trẻ khốn nạn, bơ vơ trong cuộc đời còn thiếu sót rất nhiều. Chúng tôi bị ngắt thành từng khúc, mỗi khúc, chừng năm mươi đứa lên một xe mô-lô-tô-va. Người ta chèn ép chúng tôi cứng ngắc. Mình sẽ đi về đâu nữa? Tôi chưa biết. Nhưng tôi mơ hồ biết rằng khó lòng được tha vào sáng mai. Tự nhiên, nước mắt tôi ứa ra.
Người ta lùa bắt tôi, tung tôi lên xe, chở đi, chẳng cần hỏi tên tuổi, địa chỉ. Hình như, người ta đã chỉ có ý nghĩ duy nhất: Địa chỉ của chúng tôi là vỉa hè. Lại một lệnh ngắn hãi hùng: “Nhảy xe sẽ bị bắn vỡ sọ. Cấm nói khi xe chạy.” Xe chưa chạy chúng tôi đã câm họng, chúng tôi sợ quá rồi. Tôi đếm rõ năm chiếc mô-lô-tô-va cùng rời sân Hoa Lư một lượt. Hai cái xác chết bỏ lại. Người ta sẽ đào đất vùi tại chỗ hoặc mang đi nơi khác chôn. Chuyện này giản dị thôi. Giản dị như hàng ngàn chuyện giản dị tôi đã thấy trong suốt sáu năm tù đày vô duyên cớ của tôi mà tôi sẽ kể sau này. Cách mạng, tôi đã hiểu, không thích nghi thức, cái gì cũng dễ dàng, kể cả sự bắt bớ, đánh đập giam cầm, giết chết và chôn vùi. Xe chở chúng tôi lòng vòng thành phố nửa đêm về sáng.
Đường vắng hoe. Nhà nhà đóng cửa kín mít. Sinh hoạt Sài Gòn đã khác lạ. Chúng tôi, quần áo còn sũng nước nhưng không cảm thấy lạnh vì ngồi sát nhau. Tôi thèm gặp một phép lạ là có ai quen đi dưới đường, lúc này, để tôi nhắn họ báo cáo cho mẹ tôi biết tôi bị bắt rồi. Dẫu biết sẽ bị ăn một báng súng, tôi cũng cứ sẽ gọi nhắn. Không có phép lạ đâu. Phép lạ chỉ có trong cổ tích.
Bốn chiếc mô-lô-tô-va chạy trước đã rẽ sang đường khác. Xe của chúng tôi quẹo đường Hiền Vương, tới ngã sáu Lê Văn Duyệt thì quẹo trái luôn vô đường Hòa Hưng. Một thằng vỉa hè thứ thiệt ghé sát tai tôi: “Chí rồi, Chí rồi.” Tôi ngơ ngác, nó giải thích: “Mình vào ấp Chí Hòa rồi.” Xe đậu trước cổng khám Chí Hòa. Nó hoan hỉ đập nhẹ vai tôi: “Ở Chí Hòa mau về lắm, tao đã ngơi vài lần. Ở Tế Bần là bỏ mẹ cả lũ.” Tôi hỏi: “Mau về là mấy tháng?” Nó đáp gọn: “Tháng”, và nó vui vẻ: “Kể như trăm ngày, tiếng Tàu là bách nhật nghe mày. Chết xong, ăn bách nhật mau thấy mồ!” Nó vội im vì đang xảy chuyện đôi co ở cổng khám giữa người nhận tù và người giao tù.
- Chúng tôi không nhận thêm. Các đồng chí đem giam nơi khác.
- Gửi đâu?
- Thiếu gì nơi lao cải!
- Chỉ thị của chúng tôi là đem đến đây một xe, bốn xe khác gửi nơi khác. Đồng chí cần xem chỉ thị của Ủy ban Quân quản thành phố không?
- Không cần.
- Đồng chí chống quyết định, hả?
- Tôi không chống nhưng đây chật rồi.
- Nhét thêm đi.
- Đồng chí đợi vài phút.
- Này, đồng chí hiểu dùm là chúng tôi thức suốt đêm với lũ tiểu yêu đấy.
- Cũng đợi lệnh của thủ trưởng chúng tôi đã.
Vậy là chúng tôi cũng đợi. Đã có chút kinh nghiệm, chúng tôi ngồi im, không cục cựa. Thằng cạnh tôi lâm râm khấn vái: “Vái trời nó nhận mình. Tao ớn Tế Bần rồi, đòn Tế Bần ác lắm.”
Tôi thì thầm: “Mày biết lao cải là gì không?” Nó hích khẽ tôi: “Là nhà lao cải thiện của cách mạng, sẽ sướng cho mày coi. Hễ sướng lần này tao xin ở tù muôn năm.” Phía cổng khám lại ồn ào:
- Thủ trưởng nói chỉ nhận hai mươi đứa thôi. Ở đây không có tiêu chuẩn con nít.
- Giam chúng nó chung với bọn lớn.
- Không được.
- Được.
- Không được.
- Các đồng chí cửa quyền vừa vừa chứ. Giải quyết vấn đề một cách lề mề, cố tình gây khó khăn. Địt mẹ, vượt Trường Sơn vào đây không phải để xin chúa ngục đâu nhé!
- Đồng chí thận trọng ngôn ngữ.
- Anh dọa hả?
- Yêu cầu đồng chí ăn nói có văn hóa.
- Bây giờ nhận không?
- Chỉ nhận hai mươi đứa.
Sau một hồi cãi vã, chửi bới, lên cò súng rốp rốp, những người bắt chúng tôi đành thua cuộc. Họ túm chúng tôi đẩy xuống xe. Tôi “được” giam ở Chí Hòa. Thằng ngồi cạnh tôi hên quá, nó cũng “được” đến nơi nó mơ ước, đủ để tôi nghe: “Mày nắm tay tao khi xếp hàng đôi, tao và mày sẽ chung phòng.” Tôi làm theo lời nó dặn. Người ta dẫn chúng tôi qua cổng nhỏ của khám Chí Hòa. Tôi nhớ rõ, đó là sáng sớm tinh sương ngày 4 tháng 7 năm 1975. Chúng tôi không bị làm thủ tục gì cả. Ở đây cũng như ở vỉa hè, người ta bắt chúng tôi người ta chẳng thèm biết lý lịch của chúng tôi. Thứ lý lịch bẩn thỉu của đám ranh con vỉa hè không xứng đáng ghi trên giấy trắng, mực đen, mực xanh, mực tím hay mực đỏ. Chính vì vậy mà tôi, thằng bé mười ba tuổi, không thuộc thành phần công dân vỉa hè đã trở thành công dân vỉa hè thực thụ và bị lưu đày như một tội nhân khổ sai khốn nạn. Sợi xích của định mệnh phũ phàng nào đã ràng buộc tôi với thằng vỉa hè qua cái bắt tay, nắm chặt gắn bó. “Nhớ nhé, mày đừng rời tao. Mày là tù con so, cần được tao hướng dẫn.” Nó dặn dò tôi khi chúng tôi bước trên lớp đá răm lạo xạo.
Phải đi bộ thật lâu, chúng tôi mới qua vòng ngoài khám Chí Hòa. Và khi hồi kẻng tù báo thức ngày mới, chúng tôi mới vào hẳn cái lò bát quái, leo lên hành lang lầu thứ nhất. Người ta lại bảo chúng tôi ngồi ngay ngắn, cấm rời hàng nói chuyện. Tôi hơi yên tâm vì ở đây người ta không ra lệnh qua kẽ răng. Đấy, người ta bắt chúng tôi. Thật giản dị. Hai thằng bị đánh, bị bắn chết. Mấy chục thằng bỏ trốn. Không cần báo cáo, ghi chép mất công. Phải chi, đêm qua, tôi can đảm một chút, một chút thôi, theo thằng cô nhi to con, chạy trốn chuyến đầu thì sáng nay, tôi đang nằm ở nhà đắp chăn kín mít để khỏi hình dung cái cảnh thằng đánh giày bị vùi dập trong mưa gió.
Đến sáu giờ, người ta kiểm số tù các phòng xong xuôi, người ta mới tính tới số phận của hai mươi “tiểu yêu”. Người ta ngắt từng sáu đứa, dẫn đi, mở cửa sắt nặng cả tấn, đẩy chúng nó vào phòng, rồi khóa lại. Ba lần ngắt mất mười tám đứa, còn tôi và “người bạn”, hai đứa được ở chung một phòng. “Mày thấy tài tính toán của tao chưa?” nó khoe và tự giới thiệu: “Tên tao là Mai, chuyên mạo bím, kéo đổng. Mày cứ kêu tao là Mai bím. Tao chuyên móc túi, giật đồng hồ!” Tôi gớm thằng Mai bím, tôi là con nhà có giáo dục nên tôi chúa ghét bọn móc túi, ăn cắp.
Những người chung phòng nhìn hai đứa chúng tôi muốn lòi con ngươi. Họ thấy quần áo chúng tôi chưa kịp khô và vào tù tay không thì ngạc nhiên và ái ngại lắm. Họ chỉ nhìn chúng tôi, chẳng hỏi han gì nên chúng tôi ngậm miệng. Ông Trưởng phòng dắt hai đứa tôi đến nhận chỗ nằm. Mai bím lăn ra ngủ ngon lành. Còn tôi, tôi ngó hết người này đến người khác, nước mắt ứa ra. Cái lưới định mệnh đã thực sự chụp xuống đời tôi. Tôi như con cá nhỏ dính vào lưới cách mạng. Cuộc đời có nhiều khúc rẽ thật tàn nhẫn mà người ta không thể ngờ, có lần, mình bị đẩy vô. Hãy hình tưởng một thằng bé đang sống êm đềm với cha mẹ, anh em nó dưới mái gia đình ấm cúng. Hãy hình tưởng cái gia đình ấm cúng ấy bị cuốn xoáy trong bão tố cách mạng. Người chồng tình nguyện lưu đày, người vợ bồng bế con nhỏ đi đòi chồng mình, bị bắn chết cùng con sõng xoài trên vũng máu. Hãy hình tưởng đứa con lớn lao mình trong đêm tối đi tìm mẹ, tìm em và bị lùa bắt như một phạm nhân đê tiện. Hãy hình tưởng và sẽ thấy tôi trên khúc rẽ đổi đời với cái lưới cách mạng bủa kín âm u.
Chương 2
Vậy là tôi ở phòng mười khu FG lầu 2. Đã quá bảy ngày, vẫn chưa có cán bộ quản giáo nào hỏi han gì tôi cả. Mai bím, hầu như đã quen hết mọi người trong phòng. Nó nói với tôi: “Chí Hòa cách mạng khác hẳn Chí Hòa ngụy.” Theo nó, Chí Hòa ngụy, mỗi phòng đều có một vua tù ác ôn. Hai khu FG và BC hãi hùng nhất. Các vua tù mặc sức sai phái, bóc lột, đánh đập dân tù, thậm chí còn bắt dân tù làm các việc kinh tởm, không ai dám tưởng tượng. Chí Hòa cách mạng lật đổ chế độ vua tù tự phong, cán bộ quản giáo chỉ định một người lo việc cho mọi người. Đó là trưởng phòng. Giúp trưởng phòng có phó phòng, trật tự viên, thư ký. Phòng chia thành nhiều tổ, mỗi tổ có tổ trưởng, tổ phó. Cơm nước đã có tổ trực chia đủ, khỏi sợ cướp phần. Trưởng phòng hiền lành tử tế. Nhiệm vụ của ông ta là duy trì nội quy nhà tù và báo cáo với cán bộ những vụ ăn cắp, đánh lộn trong phòng. “Điểm khác này tao đếch khoái,” Mai bím nói, “là bị nhốt suốt ngày đêm. Xưa đâu vậy mày, điểm danh buổi sáng xong, cửa phòng mở toang hoang, tụi tao đi tứ tán, qua cả các khu khác buôn bán, kiếm ăn, tối mới về phòng.” Nó thở dài, hoài cổ: “Có vua tù mà có tự do. Mất vua tù lại mất luôn tự to. Mẹ, hồi trước muốn tắm xuống hồ tắm líp ba ga, đánh vô lây tíu tít. Giờ bày trò xách nước lên lầu, tuần tắm hai lần, sân banh thì cuốc cha nó lên trồng rau muống. Phòng thì nhốt như xe buýt dồn khứa. Mẹ, ngày tiêu chuẩn bốn ca nước, rửa đít, đít đéo sạch, lấy nước đâu rửa mặt, rửa chén đũa…” Cái giọng của Mai bím tuôn xối xả. Với nó chỉ khi nào họng súng dí vào ót, nó mới câm miệng. Nhưng mà nó đã nói đúng. Nhiều người thích nó và nhiều người ghét nó. Những người thích Mai bím khai thác nó triệt để về sự nghiệp ở tù và thân thế vỉa hè của nó ngày xưa. Mai bím còn cao hứng biểu diễn nghệ thuật móc túi của nó nữa. Người ta đã trả công nó bằng điếu thuốc rê, thuốc lào, cục đường, miếng thịt. Những người ghét Mai bím đuổi nó đi chỗ khác, khi nó lân la tới gạ gẫm kể chuyện Tế Bần, cướp giật đồng hồ. Tôi nằm ì chỗ của mình. Chán nằm lại ngồi, không đi đâu cũng không thích nói chuyện với ai. Chú nằm cạnh tôi, thấy tôi hay khóc lại tỏ vẻ không ưa Mai bím, đã hỏi tôi:
- Tên cháu là gì?
- Thưa chú cháu tên Vũ, Nguyễn Hữu Vũ.
- Cháu là bạn thằng kia à?
- Không.
- Cháu phạm tội gì?
- Cháu không biết.
Tôi kể lể gia đình tôi và sự việc khiến tôi bị bắt chung với đám nhãi vỉa hè. Chú ấy chép miệng:
- Chúng nó bắt bừa bãi, cháu bị oan.
Chú xích gần tôi:
- Cháu gọi chú là chú Tường, Võ Thế Tường, cháu Vũ nhé!
Lần đầu tiên có người gọi tên tôi bằng giọng thân mật, âu yếm. Tôi bỗng nhớ cha tôi. Và nước mắt tôi lại ứa ra. Chú Tường xoa đầu tôi:
- Đừng khóc, Vũ. Mỗi người vào tù đều có số cả.
- Bố cháu có số không?
- Có.
- Cả nước có số luôn?
- Đó gọi là vận mệnh của đất nước, hàng triệu đứa trẻ chết oan uổng và khổ sở như cháu, nhưng riêng cháu, Vũ ạ, cháu hãy tin chú đi, cháu sẽ nên người, sẽ có lại tất cả những gì cháu tưởng là đã mất.
- Cháu sẽ gặp lại bố cháu?
- Nhất định.
- Và mẹ và em cháu?
- Chứ sao.
Nếu thế, tôi không còn gì để lo lắng. Mẹ tôi, em tôi vẫn còn sống. Dễ mẹ tôi chịu đứng yên cho người ta ria đạn. Phải, dễ chi mẹ tôi và em tôi có thể chết thảm. Có nhiều viên đạn đã tránh người lương thiện.
- Thưa chú.
- Cháu muốn hỏi chú điều chi?
- Bên ngoài chú làm nghề gì?
- Chú viết báo, làm thơ.
- Tại sao họ bắt chú?
- Chú chống họ, chống tới cùng. Họ ghép chú tội phản động.
- Bao giờ họ mới thả chú?
- Chú là tù nhân không bị kết án, cháu ạ. Hai tháng hay hai mươi năm, chưa biết được.
- Còn cháu?
- Chừng nào họ cho cháu làm lý lịch, họ sẽ tha cháu.
- Chừng nào, chú Tường?
- Đợi đi, Vũ.
Sau lần chuyện trò đó, chú Tường chăm sóc tôi như thể tôi là cháu ruột chú ấy. Chú cho tôi cái bát nhựa, cái muỗng nhựa, tôi hết bị ăn bốc và đựng cơm bằng miếng ni-lông dày. Ở Chí Hòa, phạm nhân không được giữ bất cứ đồ đạc gì bằng kim khí. Tất cả bằng nhựa. Giấy bút cũng bị cấm chỉ, kể luôn giấy vệ sinh. Chai lọ thủy tinh phải nộp từ lúc xét tư trang cá nhân trước khi bước vào phòng. Có chú Tường gần gũi, tôi bớt sợ hãi. Và tôi dám tin rằng, ngày tôi được tha, tôi sẽ gặp cha mẹ và hai em. “Nhưng cháu phải thân mật với thằng Mai bím. Chú sợ, trước khi về, cháu và nó còn đi với nhau. Nó có thể hại cháu đấy. Ở tù Cộng sản không sợ cai tù mà sợ nhất những người bị tù như mình. Hễ chạm tới quyền lợi hay hễ nó ghét mình, nó sẽ đổ cức lên đầu mình, đặt đủ thứ chuyện xấu xa về mình rồi rỉ tai khắp nơi nó đến. Tốt nhất, cháu đừng làm mất lòng ai. Cứ luôn luôn khờ khạo, dốt nát là yên thân.” Chú Tường dạy tôi bài học vỡ lòng ở tù. Chú hút thuốc rê liên miên. Điếu thuốc chú quấn to như ngón tay cái, chú nhả khói y hệt ống khói tàu hỏa. Chú Tường rất khoái ngâm thơ. Bài thơ chú hay ngâm là bài “Nhớ rừng”. Giọng chú bi thương chả khác gì lời than của con hổ trong vườn bách thú. “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi…” Chú Tường rống lên rồi im bặt. Tưởng chừng chú sắp vươn chân lên đạp đổ bức tường xi măng cốt sắt. Không, chú vẫn ngồi im, đôi mắt chớp mau.
Nghe chú dạy bảo, tôi đỡ khó chịu hơn với thằng Mai bím. Ít ra, Mai bím cũng dễ thương hơn những kẻ đã bắt tôi. Nó chẳng thèm hiểu thì đúng hơn. Mai bím thường bẻ đôi cục đường nó chĩa được cho tôi. Nó khuyên tôi nên hút thuốc lào. “Nằm ấp, phi thuốc lào bất thành tù,” nó nói thế. Nó hút thuốc lào khủng khiếp. Thường, nó chỉ sấy lại điếu thuốc mà người ta đã rít. Khi nào, nhất là sáng sớm, chĩa điếu thuốc nguyên, nó kéo một hơi dài, đẫy đà, vừa buông điếu đã lăn đùng trên sàn phòng, dẫy dụa rất buồn cười. “Phê sướng lắm, mắt lim rim, tim đập mạnh, mày ơi!” Nó dụ dỗ và quảng cáo thuốc lào: “Hút điếu thuốc lào nâng cao sĩ khí! Một điếu thuốc lào bằng bao thuốc lá.” Mai bím xứng đáng tước danh công dân vỉa hè hạng nhất. Nó và tôi hay đứng gần tường, qua chấn song sắt, mỗi thanh to bằng một cánh tay tôi, nhìn cái lò bát quái. Những lúc này, Mai lại có dịp múa may những điều hiểu biết của nó về khám Chí Hòa.
- Mày đếm coi Vũ, đúng tám cạnh chưa?
- Đúng.
- Bát giác mờ lỵ. Bái quái xêm xêm. Người ta biểu Nhật nó vẽ kiểu cho Tây xây cất đấy, mày ạ! Đó, đó, cái sa-tô-đô chính giữa sân giống hệt lưỡi kiếm của thằng hiệp sĩ mù cắm xuống, cái chuôi thì dựng đứng. Tụi nó rước thầy bên Tây Tạng sang ếm dân mình. Cứ phá mẹ cái sa-tô-đô và nhổ phăng lưỡi kiếm là dân mình hết cảnh tù tội. Đủ má, cách mạng đéo chịu phá nên tao với mày lại nằm tù. Kỳ ghê, hén?
- Chí Hòa có mấy khu?
- Bốn, AH, BC, ED, FG. Mỗi khu hai cạnh. Mày nhìn kỹ con đường hầm giữa khu ED đi tới sa-tô-đô, trông như con voi xếp hàng dọc. Ban đêm họ bật đèn, ớn thấy mẹ. Còn cái con đường từ lầu 2 ráp gianh AH – BC là sân khấu ngoài trời. Hồi trước, mỗi chúa nhật, Hùng Cường, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Ngọc Giàu, Mai Lệ Huyền… vô biểu diễn, cả làng tù ra hành lang thưởng thức, vỗ tay rầm trời. Đủ má, giờ nó cấm cả ra hành lang.
- Bếp ở đâu?
- Bếp phía ngoài mình đâu thấy. Bếp kia chỉ nấu nước sôi đổ vô hồ cung cấp cho toàn khám. Còn nhiều chỗ, mà vô phúc thiếu âm đức bị điệu tới chỉ có nước hui nhị tì.
- Những chỗ nào?
- Phòng kỷ luật, tối om, thối, khai khú. Khu FG nổi tiếng phòng kỷ luật gớm nhất khám. Trên lầu 3 cơ, chứ góc cầu thang là đồ bỏ.
- Nghe nói có ma vú dài?
- Bố láo. Trước ngày giải phóng tao nằm ở phòng 2 khu BC, cách mạng vào mở cửa cho tao ra ngon lành. Mày tin chứ?
- Không.
- Thây kệ mày. Lạy tao tao mới ra. Ra nhằm hôm mít tinh, biểu tình đông nghịt, ông nạo được ba cái bím, kéo một hơn bốn đổng ba cửa sổ mười hai cột đèn, oắt-tơ-púp đánh bốc thi hơi…
Đó, những điều hiểu biết của Mai bím. Nó mà kể chuyện bán đồng hồ cho bộ đội miền Bắc vô tiệm uống cà phê thì khối người bị bắt ngay từ hôm 30 tháng 4 phải bò ra cười. Đôi khi, Mai bím đã bịa đặt thêm, nhưng nó vẫn ăn đường, uống sữa bột và hút thuốc đều đều. Chưa bao giờ tôi thấy Mai bím buồn bã. Một hôm, tự nhiên, nó gác chân lên đùi tôi, thủ thỉ:
- Này Vũ, tao khoái mày thật tình, mà tao hơi buồn là mày không khoái tao.
- Ai bảo mày thế?
- Tao biết, Vũ ạ! Tao còn biết mày không thuộc loại vỉa hè như tao.
- Rồi sao?
- Rồi tao vẫn khoái mày. Ba mày là sĩ quan ngụy hả?
- Ừ.
- Cứ khai nghề buôn bán cho tiện. Nó ghi vô phích sĩ quan ngụy là mày tàn đời. Đủ má, tao nghe tụi này thù sĩ quan mình thấu xương. Tao thương mày, dặn mày vậy đó.
- Cảm ơn Mai bím.
- Ông hiểu thân phận ông, ra đời sức mấy dám chơi với mày.
- Đừng nói thế, mày. Mà sao bữa nọ mày không trốn?
- Trốn đâu? Trốn lên trời mới thoát, dân vỉa hè trốn đêm nay, đêm mai bị tó lại. Ước gì… mà thôi.
Mai bím nín thinh, cậy răng nó, nó cũng không chịu nói. Tôi chẳng hiểu Mai bím ước gì. Nhưng từ hôm đó, tôi hết ý nghĩ khinh thường Mai bím. À, Mai bím hết ham múa may những điều mà nó cho là kinh nghiệm nhà tù với tôi. Nó có vẻ sợ sệt chú Tường, sợ sệt và kính trọng. Mai bím chưa hề chĩa chú Tường điếu thuốc nào. Nếu nó xin, chú Tường sẽ cho nó. Chú Tường thương tôi thì khỏi nói, song chú không mời tôi hút thuốc. “Ở tù phải tập nhiều thứ, Vũ ạ! Phải tập để không thèm khát thứ gì. Tập nhịn đói được càng tốt. Cháu nên ăn ít cho dạ dày quen làm việc ít,” chú dạy tôi thế, “lỡ mai cháu chưa về, cháu còn đi tới nhiều nhà tù trên đất nước Việt Nam, cháu đừng buồn, đừng tuyệt vọng. Không bao giờ có tuyệt vọng, cháu nhớ kỹ, Vũ nhé! Hãy can đảm đi tới cùng, đi không giống người phiêu lưu, mạo hiểm, mà đi như đi tìm ý nghĩa cuộc sống cao cả, bát ngát.” Như vậy, tôi còn bị đi tới nhiều nhà tù khác nữa. Chí Hòa chưa phải là nơi dừng chân đợi về của tù nhân bất đắc dĩ.
Hai tuần lễ đã trôi qua, người ta vẫn không thèm đoái hoài đến tôi. Ông trưởng phòng tử tế ghi tên tuổi, địa chỉ của tôi vào danh sách phòng nhưng cũng vô vọng. Bất ngờ, vào một buổi chiều, người cán bộ quản giáo ghé phòng, phát một tờ giấy lớn cho ông thư ký làm danh sách mới. Tôi mừng quýnh. Có danh sách nộp cán bộ quản giáo là được cán bộ chấp pháp hỏi cung. Và sẽ được trả tự do. Tôi nghĩ ngay đến con đường dẫn tôi về nhà. Tôi đi bộ hay đi xe xích lô? Đi bộ thì vừa đi vừa chạy. Đi xe xích lô thì phải nói rõ đến nhà xin tiền của mẹ mới trả. Mẹ tôi sẽ ôm tôi khóc nức nở. Tôi sẽ khóc nức nở. Các em tôi sẽ ôm chân tôi, khóc nức nở. Hạnh phúc, bấy giờ, sẽ là nước mắt. Chỉ là nước mắt. Tôi không dám nghĩ gì hơn. Ông thư ký gọi từng người tại chỗ ông khai lý lịch. Xong xuôi, ông chờ nộp cho cán bộ. Sáng hôm sau, cán bộ xuất hiện ngoài song sắt hỏi tội trạng từng người rồi tự ghi vô danh sách, vì chiều qua, cán bộ quên mục tội trạng.
- Phan Quán Khả.
- Tư sản.
- Nguyễn Văn Thiệu.
- Ăn cướp.
- Bùi Kiên Bản.
- Tư sản.
- Nguyễn Cao Kiều.
- Ăn cắp.
- Võ Thế Toàn.
- Phản động, chống Cộng sản.
- Lê Văn Mai.
- Móc túi.
- Nguyễn Ngọc Linh.
- Trộm xe đạp.
- Cao Văn Vinh.
- Giết người.
- Đỗ Tùng.
- In lậu sách, lưu manh.
- Nguyễn Hiệu.
- Sư giả vờ, bịp bợm.
Cả phòng lần lượt khai tội trạng khi cán bộ gọi tên. Đủ các thứ tội. Tư sản mại bản, phản động gặp gỡ sát nhân, trộm cướp, lưu manh.
- Nguyễn Hữu Vũ.
- Không rõ tội.
Cán bộ nhìn tôi trừng trừng khiến tôi sợ hãi. Anh ta gật gật cái đầu, dáng điệu vừa chế riễu vừa răn đe.
- Không rõ tội là vô tội, hả?
- Dạ.
- Bị bắt ở đâu?
- Ngoài đường.
- Tội cướp giật, hiểu chưa? Cách mạng chẳng lầm lẫn bao giờ. Cách mạng sáng rực như mặt trời, mặt trăng.
- Thưa cán bộ…
- Cách mạng sáng suốt không bắt lầm. Mày can tội cướp giật.
Anh ta không cho tôi phân trần hay hỏi tôi thêm điều gì. Chắc chắn, anh ta ghi tội cướp giật vào hồ sơ của tôi. Và tiếp tục gọi:
- Bùi Diễm.
- Lừa gạt.
- Dương Đức Dũng.
- Chống phá cách mạng.
Cán bộ qua phòng khác. Hy vọng của tôi tiêu tan. Tôi lủi thủi về chỗ, nằm khóc rưng rức. Chú Tường dỗ dành tôi: “Ngoan nào, Vũ. Đừng khóc. Cháu phải can đảm thì mới mong về gặp được bố mẹ và em.” Tôi khóc nhiều hơn. Nước mắt của tôi tưởng không tài nào hết. Cách mạng sáng suốt vô cùng. Cách mạng quy tôi cái tội cướp giật, tội mà, sống trọn đời mình tôi cũng không vi phạm. Chú Tường mới nói về số phận, về định mệnh. Định mệnh gì khắc nghiệt vậy? Chỉ chớp nhoáng, định mệnh dẫn thằng học trò ngoan ngỗn vào lao tù với tội cướp giật vu khống. Tôi khóc, tôi nghĩ miên man rồi tôi ngủ một giấc. Tỉnh dậy, tôi thấy chú Tường vẫn ngồi cạnh tôi. Chú không đốt thuốc rê mà khâu cái túi đựng phân bón hóa học. Dù bị cấm đoán, bị xét phòng liên tiếp, tù nhân vẫn có thể tạo được kim khâu vá bằng dây điện nhặt lén khi xuống sân tắm giặt, người ta lượm cả đá lên làm búa, lon sữa bò làm dao và ngói làm phấn học chữ Tàu… Chú Tường đã biết tôi thức.
- Vũ ạ!
- Cháu nghe chú đây, chú Tường ơi!
- Chú mơ hồ cảm giác là chú cháu mình sắp xa nhau. Hoặc chú đi, hoặc cháu đi.
- Ai ai cũng đều buồn, chú ạ!
- Rốt cuộc, vẫn phải xa nhau. Ở tù không có gì đáng hứa hẹn cả, mà chẳng ai dám hứa hẹn với ai. Chú đã may tặng cháu hai cái quần đùi, một bộ đồ cũ sửa lại và cái túi cho cháu đựng.
Chú xé tấm đắp mỏng của chú, cắt quần cho tôi bằng nắp hộp sữa bò mài sắc.
- Tù lớn, tù bé đều cần có hành lý. Chú còn vài đồng và ít viên át-pi-rin, ít viên trụ sinh mạnh, chú tặng cháu luôn, đề phòng đi xa cần dùng.
- Chú thương cháu quá.
- Không đâu, chú thương đời chú đấy. Rồi chú sẽ kể chuyện đời chú cho cháu nghe. Tối nay hoặc lát nữa chú kể. Ta phải làm nhanh vì nó kêu đi bất chợt.
Chú Tường vuốt nếp cái túi đã khâu xong, chú đưa lên ngắm nghía.
- Đẹp rồi. Kỷ niệm Chí Hòa của chú, giữ đem về khoe mẹ nhé, Vũ nhé!
Tôi lại khóc. Lần này, không phải vì sợ hãi, vì nhớ mẹ, nhớ em, vì thương cha mà vì lòng tốt của chú Tường. Chú lấy khăn thấm nước mắt giàn dụa trên khuôn mặt tôi.
- Nín đi, chú cháu mình còn nhiều việc cần làm hơn là khóc.
- Cháu xin lỗi chú.
- Tốt tốt. Những điều chú đã nói với cháu, sắp nói với cháu, cháu chưa hiểu nổi thì cố nhớ. Bố cháu là giáo sư, là sĩ quan. Cháu là đứa học trò ngoan, đứa con hiếu thảo. Phải thế không nào?
- Dạ.
- Hãy xứng đáng là con một người trí thức, con một sĩ quan, không thèm hiểu sĩ quan gì và số phận ông ta bây giờ ra sao. Hãy kiên nhẫn chịu đựng mọi nghịch cảnh, không than van, khóc lóc. Hạnh phúc sẽ tới và sẽ chỉ tới với ai dám chịu đựng. Hãy ngẩng đầu lên khi bị hành hạ tàn nhẫn. Hãy sống như cháu đang sống dù ngày mai cháu có sống chung với toàn lũ trộm cắp, lưu manh. Hãy giúp chúng nó lấy lạy danh dự và phẩm cách con người. Hãy cao thượng và đừng bao giờ phán xét. Cháu nhớ chứ?
- Dạ.
- Điều này cần thiết giúp cháu về với gia đình. Đừng bao giờ làm anh hùng trong nhà tù. Cố sống bình thường, tầm thường càng tốt.
- Dạ.
- Ở nhà tù nào gặp người tốt, cháu nhờ họ dạy bảo, trại giam nào có sách, cháu cố mượn đọc, họ cho đọc thì cháu tự học thêm.
- Dạ.
- Sống không để hưởng thụ, cháu ạ, mà để thẩm thấu hết nỗi đau khổ trong trời đất. Nếu sống chỉ để ăn ngon, mặc đẹp, làm nhiều tiền, thì ai cũng sống được. Nhưng sống như cháu đang sống, còn sống, trên thế giới chỉ có một mình cháu thôi. Vỹ nhân thường được tạo nên trong niềm thống khổ. Cháu sẽ làm lại quê hương này, tổ quốc này, khởi sự từ sân Hoa Lư một đêm mưa tầm tã. Cháu sẽ là anh hùng dân tộc. Chứ không phải những đứa trốn chạy khỏi nước Việt Nam.
Tôi cố nhớ những lời chú Tường dặn. Nhưng tôi không tin rằng tôi có thể làm được những gì chú Tường mong muốn. Dẫu sao, tôi cũng phải nhớ. Để mai này khi trở về - điều này khó khăn lắm - hoặc lang thang hết nhà tù nọ sang nhà tù kia, tôi sẽ vỡ dần ý nghĩa trong mộng ước mà chú Tường gửi gấm tôi. Quả thật, gặp chú Tường nơi tù ngục hay ngoài cuộc đời đều may mắn cả. Dễ chi gặp chú Tường. Tôi tự cho tôi là đứa bé có hạnh phúc. Chú vê hai điếu thuốc rê, đưa tôi một điếu.
- Cháu hút đi.
Tôi lắc đầu. Chú bảo giữ đưa tặng Mai bím.
- Cuối tháng nó sẽ cho viết thư. Chú sẽ đóng tiền mua giấy, phong bì, tem và bút. Rồi cháu viết về nhà, xem sao.
Chú mồi lửa, châm thuốc, nhả khói:
- Nếu cháu đi sớm, cuối tháng, chú sẽ biết cho mẹ cháu giúp cháu.
Tôi thẫn thờ:
- Chú không viết cho cô?
Chú Tường cười:
- Cô đâu cần bằng cháu. Cô biết chú ở đây rồi.
Tôi ôm chầm lấy chú Tường, xuýt làm văng điếu thuốc trên môi chú. Nỗi hy vọng của tôi, chú Tường kính mến, trên bước đường hoạn nạn, tôi đã có chú, đã có lá bùa đeo trước ngực để phấn đấu với mọi nghịch cảnh. Chú dập điếu thuốc, vuốt ve tóc tôi. Và chú kể tôi nghe cuộc đời thơ ấu, nghèo nàn, vất vưởng của chú. Tôi thấy nỗi đau khổ của tôi hôm nay chưa thấm thía gì với nỗi đau khổ của chú Tường những năm lên tám, lên mười. Giọng chú Tường đều đều, xa vắng. Chú có nhiều ẩn ức. Tiếc rằng tôi còn nhỏ, chẳng thể san sẻ những ẩn ức của chú. Tôi bỗng quên gia đình. Có nhớ cũng vô ích thôi. Tôi không còn sợ hãi ngày mai, cái ngày mai người ta sẽ đưa tôi đến những nhà tù nào nữa và sẽ chụp lên đời tôi những tội trạng gớm ghiếc nào nữa. Cám ơn chú Tường, chú đã giúp cháu biết chấp nhận nghịch cảnh và nghiến răng chịu đựng. Cháu hứa sẽ không khóc trong nhà tù.
Comment