Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Vĩnh biệt duyên anh (1935-1997)

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Vĩnh biệt duyên anh (1935-1997)

    1. 1

    ... Nếu xác tôi tan trong cát bụi
    xin cho tôi biến thành
    cát bụi Việt Nam
    Nếu hồn tôi lạc lõng thiên đàng
    bơ vơ địa ngục
    xin cho tôi hóa kiếp
    cầm thú
    côn trùng
    thảo mộc Việt Nam
    Đừng bắt tội tôi
    đầu thai công dân Mỹ
    công dân Pháp
    công dân Anh
    Tôi hãnh diện đã làm người Việt Nam
    vẫn hãnh diện
    đến phút giây tôi nhắm mắt...

    ĐỘC NGỮ
    (Di chúc)



    *****

    2. Nhà Văn Duyên Anh từ trần tại Pháp ở tuổi 63

    Paris. Nhà văn Duyên Anh đã từ trần tại Paris, Pháp quốc ngày 6 tháng 2 năm 1997, nhằm ngày 29 Tết Bính Tý, ở tuổi 63, vì bệnh ung thư gan.



    Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh ngày 16-8-1935 tại Thái Bình. Ông Duyên Anh ở vào thế hệ được chứng kiến, tham dự và chịu những ảnh hưởng sâu xa những giai đoạn lịch sử của đất nước 1945, 1954 và 1975. Mới 10 tuổi ông đã chứng kiến những thảm cảnh phát xít Nhật, thực dân Pháp, rồi chủ nghĩa Cộng sản, thiên tai đầy đọa dân tộc ông mà sau này nó đã trở thành giòng văn chương trong tác phẩm của ông.



    Ông bắt đầu văn nghiệp vào năm 1962 và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay "Hoa Thiên Lý:. Trước khi trở thành nhà văn và sống bằng ngòi bút, ông đã làm đủ thứ nghề để mưu sinh: giữ xe đạp, quảng cáo trên hè hố cho gánh xiệc, kèm trẻ em tại tư gia, dạy đánh đàn guitare rồi đến biên tập viên cho Bộ Thanh Niên. Bước vào thế giới chữ nghĩa, ông là một ký giả, rồi chủ bút, chủ báo, giámđốc nhà xuất bản. Ông đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miềân Nam trước 75 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Ông vẫn tự nhận mình là một nhà báo có lớp da nhà văn.



    Sau 1975, ông bị cộng sản xếp vào hàng những nhà văn nguy hiểm cho chế độ và gán cho cái danh hiệu"... tên biệt kích của mặt trận văn hóa tư tưởng". Ông bị bắt và bị đầy ải trong các trại cải tạo 6 năm, từ tháng 8-1976 đến tháng 11-1981.



    Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, ông tìm đường vượt biển đến được Mã Lai, rồi sau đó định cư tại Pháp tháng 3-1983.



    Năm 1985 sang Hoa Kỳ lần đầu, ông chính thức cộng tác với Ngày Nay và là một trong những cây bút trụ cột của bản báo cáo cho tới ngày ông từ trần. Ngoài ra, ông cũng còn cộng tác không thường xuyên nhiều tuần báo, nguyệt san khác ở hải ngoại.



    Tin ông Duyên Anh qua đời đã gây xúc động lớn trong lòng những người yêu mến ông và là một tổn thất lớn lao cho văn học, cho chữ nghĩa và cho chính nghĩa. Duyên Anh là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông là một cây bút chống cộng hàng đầu và là một người tài hoa trong nhiều lãnh vực (thơ, văn, nhạc...). Ngoài ra, còn phải kể Duyên Anh là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào khó ai bì kịp: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm, trong đó có gần 10 năm như là một phế nhân sau đòn thù bạo lực đê hèn và 6 năm trong lao tù cộng sản.



    Sau những năm tù tội và bí cấm viết ở quê nhà, ra được nước ngoài ông đã "đi lại từ đầu". Ông đã sát tác một loạt những tác phẩm mở mang tầm nhìn cao rộng hơn, những suy tư mới sâu sắc hơn.



    Chính những tác phẩm sau này đã đưa Duyên Anh ra khỏi ranh giới quốc gia. Một số những tác phẩm sau này đã được các nhà xuất bản ngoại quốc đón nhận nồng nhiệt, được dịch ra ngoại ngữ, được xuất bản, được đưa lên màn ảnh, và đánh giá cao tại một trung tâm văn hóa thế giới: nước Pháp.



    Những tác phẩm này đã trở thành những vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng chống lại chế độ độc tài cộng sản khiến kẻ thù phải nể sợ. Đó là con đường mà ông đã chọn để phục vụ chính nghĩa, là sứ mạng đích thực của người cầm bút.



    Những đóng góp của Duyên Anh cho văn học và cho cuộc đấu tranh vì tự do của dân tộc là một sự nghiệp sáng chói sẽ còn ảnh hưởng lâu dài.



    TANG LỄ



    Tang lễ ông Duyên Anh đã được cử hành ngày 14 tháng 2 năm 1997 theo nghi thức Công giáo tại thánh đường Saint Madeleine, Plessi Robinson, Pháp. Đồng chủ sự thánh lễ là linh mục Jean Mais (người trước đây đã rửa tội cho ông Duyên Anh theo đạo Công giáo và cũng là người dịch tác phẩm "Một người Nga tại Sàigon ra Pháp văn), và linh mục Đinh Đồng Sách.



    Tham dự tang lễ ngoài những thân nhân của ông, còn có một số đông thân hữ và những người mến mộ ông. Có những người từ Hoa kỳ qua, đã ở tại Paris cả tuần lễ chờ dự tang lễ của ông. Ngoài ra, trong tang lễ còn có sự hiện diện của Sư huynh Trần Văn Nghiêm, người đã góp một phần vào sự nghiệp văn chương lúc cuối đời cuả Duyên Anh. Sư huynh là một trong những người đã dịch thuật các tác phẩm cũng như tìm kiếm những đại diện các nhà xuất bản Pháp để giới thiệu Duyên Anh với văn giới Pháp.



    Theo lời bà Duyên Anh thì, trước khi mất, ông không để lại chúc thư cho gia đình. Nhưng lúc sanh tiền, ông vẫn thường tâm sự với bạn bè và gia đình là khi qua đời, ông muốn hài cốt được thiêu thành tro để sau này có nghệ sĩ điêu khắc nào mến mộ ông thì lấy tro đó mà nặn tượng. Tôn trọng ước nguyện của ông nên gia đình đã làm lễ hỏa táng ông.



    Trong bài giảng tại tang lễ Duyên Anh, linh mục Jean Mais có nhận xét sau:



    "Một con vật Duyên Anh thường nói đến là con gọng vó trong tiểu thuyết và Thơ Tù của anh: con vật này có đặc tính là luôn luôn bơi ngược giòng nước. Duyên Anh cũng đi ngược dư luận và mọi biến cố. Vì vậy đôi khi anh cũng bị biến cố xô đẩy dữ dội".


  • #2
    3. BÀI GIẢNG TRONG THÁNH LỄ MAI TÁNG DUYÊN ANH của L.M Jean Mais 14-297 tại Thánh Đường Madeline Plessis Robinson

    Thưa Bà Duyên Anh,

    Thưa bà con thân quyến,

    Thưa các Bạn và Anh Chị,

    Hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để cầu nguyện chung quanh người mà chúng ta thường gọi bằng bút hiệu Duyên Anh mà tên thật là VŨ MỘNG LONG. Cách đây vài năm, lúc Anh chịu phép Rửa tội tại giáo xứ Việt Nam, Anh đã chọn Thánh Giuxe làm Bổn mạng. Chắc không ai lấy làm lạ khi nghe đọc trong Thánh lễ hôm nay câu chuyện Chúa Giêsu đề nghị lấy trẻ nhỏ, bị người lớn xua đuổi, làm gương mẫu cho loài người. Thật ít khi bài đọc đó được chọn trong một lễ tang. Nhưng ngày hôm nay, làm sao quên bài ấy được?

    Từ khi Duyên Anh khởi đầu sự nghiệp nhà văn, năm 1964, thì ngoài vài trường hợp đặc biệt, trẻ con luôn luôn được đóng vai chủ động và làm nhân vật chính cho các sáng tác của Anh, vì Anh muốn nhờ chúng để trao cho độc giả phần thầm kín tâm hồn Anh. Chúng ta là con yêu quý của Đấng Tạo Hóa, nên Anh muốn chúng để nhắc lại cho ta lịch sử thảm thương của nước Việt Nam từ 1940 đến năm 1980.

    Từ lúc đầu khi Anh chưa được gặp thực sự đạo Công Giáo để rồi sốt sắng xin theo, thì tâm trạng của Anh khi Anh nói về trẻ con, không khác gì mấy với ý nghĩ của Chúa Kiti65 trong bài Phúc Âm trên đây: Ai không chấp nhận Nước Trời như một đứa bé thì không được vào đấy. Vậy ta là người lớn, tự đắc tự hào với kinh nghiệm tràn trề của ta để coi tuổi thơ là tuổi ngây ngô thì Chúa Giêsu nói cùng ta: "Hỡi các anh, do đó mà các anh không còn trông thấy được Nước Trời". Thánh Bảo Lộc rất quen thuộc với lời dạy Chúa Kitô khuyên chúng ta phải trở nên "điên dại" để theo Người: "Nếu ai trong các anh cho mình là người khôn ngoan, người ấy phải trở nên "điên dại" mới được khôn ngoan".

    Đó là lời dạy của Chúa Kitô qua bài Phúc Âm đã đọc. Vậy dù cao niên đến đâu chúng ta hãy trở lại với tuổi thơ. Trở lại với Chúa, suốt đời chúng ta. Hãy lột bỏ những gì không phải là của Chúa. Chớ tưởng tuổi thơ là thời kỳ đã qua. Không. Nó còn đứng trước mặt ta.

    Quan niệm về tuổi thơ theo Phúc Âm, là phần không thể di nhượng được, là phần chân chính của chúng ta và như là lý tưởng nhân loại phải quyết tâm gìn giữ. Anh Duyên Anh có trực giác điều đó từ những tác phẩm đầu tiên của Anh. Vì vậy hình dạng trẻ con trong tác phẩm của Anh không bao giờ bị phai mờ đi. Trong quyển "Một người Nga tại Sàigòn" mà Anh đã viết sau khi đến nước Pháp và in tại Pháp, nữ nhân vật chủ động là Quỳnh Đào 32 tuổi cũng có một tâm hồn thanh xuân tươi trẻ. Quyển kế tiếp là "Đồi Fanta", vai chủ động chính cũng là một thiếu niên 13 tuổi vẫn mang tên Vũ như vai chính trong các tác phẩm đầu của Anh.

    Hình như đó là những chứng minh cho thấy sự nghiệp và con người Anh bạn mà chúng ta hôm nay tiễn đưa khỏi đời, luôn luôn lưu luyến với tuổi thơ, vì vậy dầu những câu chuyện đó đã trải qua hơn nửa thế kỷ, nó không bao giờ trở nên già nua, bất chấp thời gian và biến cố. Đối với Anh bạn chúng ta, sự phản kháng trong tinh thần độc lập cũng là một trong những sắc thái của tuổi trẻ. Phản kháng không bạo lực, nhưng là một cách biểu lộ quyết tâm sống và gìn giữ chính con người mình. Một con vật Duyên Anh thường nói đến là con gọng vó (ariagnée d'eau) trong tiểu thuyết và Thơ Tù của Anh: con vật này có đặc tính là luôn luôn bơi ngược gòing nước. Duyên Anh cũng đi ngược gòing dư luận và mọi biến cố. Vì vậy đôi khi anh cũng bị biến cố xô đẩy dữ dội.

    Anh còn thích nhìn đời với cặp mắt trẻ thơ và phản ánh mọi biến cố lớn của lịch sử Việt Nam qua tâm hồn trẻ thơ. Nhưng không vì vậy mà tác phẩm của Anh là sách để giải trí cho trẻ con. Vì trẻ con cũng bị đời sống hành hạ dữ dội, tàn nhẫn như trong quyển "Đồi Fanta". Như Anh đã nói trong THƠ TÙ, "cây Nhân loại đang mọc ngay trong sự khốn khổ cứu chuộc".

    Anh quá thấu rõ nghĩa sâu hai chữ "cứu chuộc".

    Sinh ra tại Thái Bình năm 1935, cũng là nơi sinh của các nhân vật đầu tiên của Anh. Khi lên 10 tuổi, Anh đã chứng kiến giặc Nhật, rồi chiến tranh Việt Nam thứ nhất, đến hiệp định Genève chia đôi đất nước. Anh vô miền Nam với gần một triệu đồng hương. Anh bắt đầu văn nghiệp năm 1964 cho đến ngày Anh mất, với 100 tác phẩm Việt và Pháp. Năm 1976, Anh bị đi học tập 6 năm. 1983 Anh là một thuyền nhân. Bên phương Tây, Anh cũng không thoát khỏi thử thách. Anh bị kẻ thù ám hại. Anh thoát khỏi, nhưng phải mang tật suốt đời. Anh mất đi con gái mà Anh rất yêu thương. Và cuối cùng, một cơn bệnh hành hạ anh đến chết. Anh chấp nhận anh dũng, không phiền hà than thở, sáng suốt tỉnh táo đến giờ phút cuối cùng, hoàn toàn an bình trông cậy vào lòng Thiên Chúa. Anh biết đời sống Anh là do lòng rộng lượng Thiên Chúa ban để Anh làm tròn nhiệm vụ Anh.

    Đó là những cơn đau khổ "cứu chuộc" đã đem Anh đến mức cuối cùng trong tinh thần tuổi thơ như cách đây bẩy năm, khi Anh đã quyết định làm con Thiên Chúa trong nước và trong Thánh Linh. Tinh thần này đã đưa anh đến suối thanh nhàn Nước Chúa.

    Anh Duyên Anh, khi từ giã Anh hôm nay, tôi liền nghĩ đến câu sau đây của Bernanos trong tác phẩm "Les Enfants humilies" của ông, mà tôi mạn phép nôm na nhắc lại: "Suốt đời tôi, tôi đã sống dưới con mắt đứa bé mà chính là tôi khi xưa, và luôn cẩn thận để khỏi làm nó phải thất vọng".

    Hôm nay, Giuse Vũ Mộng Long Duyên Anh đã vào nước Tuổi Thơ mà Anh đã yêu mến hết lòng. Anh đã đến trước dung nhan Người Cha, cùng với các con cái Người. Chúng tôi tất cả, bà con, bạn bè, thân hữu, phó thác Anh trong tay và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Nguyện sinh Người nhận Anh vào cõi trường sinh. Amen.

    Comment


    • #3
      4. Đài Phát Thanh Việt Nam



      Đài Phát Thanh Việt Nam

      (Nam Cali)

      Đau đớn nhận được tin:

      Nhà văn Duyên Anh

      đã từ trần ngày 6-2-1997 tại Paris
      tức 5-2-1997 giờ Cali

      Khóc anh một ngàn lần, cạn hết nước mắt cũng chẳng đủ bày tỏ nỗi xót thương tài nhân bạc mệnh. Trên trang giấy hạn hẹp này, chúng tôi xin thành kính phân ưu và chia buồn cùng gia đình. Nỗi mất mát lớn lao ấy khó thể đắp bù. Cầu chúc linh hồn anh sớm về cõi Chúa


      ****


      5. Phân Ưu



      Phân Ưu

      Hay tin nhà văn Duyên Anh, tên thật là:

      Vũ Mộng Long

      Vừa tạ thế vào lúc 8 giờ sáng ngày 6/2/1997
      tại nhà thương Antoine Beclère, tỉnh Clamart
      sau một cơn bạo bệnh.

      Xin chúc hương hồn anh Duyên Anh
      được sớm về nước Chúa.

      Trần Quang Hải & Bạch Yến, Nhạc sĩ Lương Ngọc Châu
      và các Văn, Nghệ sĩ Việt Nam tại Paris


      ****


      6. CHIA BUỒN



      CHIA BUỒN

      Chúng tôi vô cùng xúc động được hung tin:

      Nhà văn DUYÊN ANH
      Giuse Vũ Mộng Long
      đã đột ngột từ trần tại Paris, Pháp Quốc
      ngày 6 tháng 2 năm 1997.
      Hưởng thọ 63 tuổi.
      Lễ hỏa táng đã được cử hành ngày 14-2-1997
      tại nghĩa trang Intercommunal Valenton, Pháp Quốc.

      Trước tin đau đớn này, chúng tôi xin thành kích chia sẻ nỗi buồn đau cùng chị Duyên Anh Nguyễn Ngọc Phương, các cháu Vũ Nguyễn Thiên Chương, Vũ Nguyễn Thiên Sơn và tang quyến. Nguyện xin Thiên Chúa nhân từ mở cửa Thiên Đàng cho Giuse Vũ Mộng Long được về với Chúa yên nghỉ cuối đời.

      Tạp Chí Thế Giới NGÀY NAY


      ****


      7. CHIA BUỒN



      CHIA BUỒN

      Chúng tôi được tin buồn:

      Nhà văn DUYÊN ANH
      Giuse Vũ Mộng Long
      đã đột ngột từ trần tại Paris, Pháp Quốc
      ngày 6 tháng 2 năm 1997.
      Hưởng thọ 63 tuổi.
      Lễ hỏa táng đã được cử hành ngày 14-2-1997
      tại nghĩa trang Intercommunal Valenton, Pháp Quốc.

      Trước tin đau buồn này, chúng tôi xin thành kính phân ưu cùng bà Duyên Anh Nguyễn Ngọc Phương, các cháu cùng tang quyến. Nguyện xin Thiên Chúa sớm rước linh hồn Giuse Vũ Mộng Long về Nước Chúa yên nghỉ đời đời.

      - Sơn Tùng - Vũ Băng Đình
      - Vi Khuê - Nguyễn Ngọc Ngạn
      - Hà Bỉnh Trung - Nguyễn Ngọc Khôi
      - Nghiêu Minh - Nguyễn Đức An
      - Lê Thị Ý - Lê Hồng Long


      *****


      8. Điếu Văn



      Điếu Văn

      Tang lễ Nhà Văn Duyên Anh

      của ông Lê Hồng Long
      Chủ Nhiệm tạp chí Thế Giới Ngày Nay

      Kính thưa chị Duyên Anh và các cháu,
      Kính thưa tang quyến.

      Nhân danh Tạp Chí Thế Giới Ngày Nay, và nhân danh một người bạn, tôi xin chân thành chia xẻ nỗi buồn đau với chị và các cháu cùng toàn thể tang gia trước sự ra đi đột ngột của anh Duyên Anh.

      Mặc dần nhân sinh hữu hạn, tử vô kỳ, nhưng chúng tôi không tránh khỏi bàng hoàng khi được tin anh Duyên Anh không còn nữa. Đây không phải chỉ là một mất mát riêng của những người thân, mà còn là một tổn thất lớn cho văn học, cho chữ nghĩa và cho chính nghĩa.

      Thật vậy. dù yêu hay không yêu, khó ai phủ nhận chỗ đứng cao trọng của Duyên Anh trong văn học nghệ thuật. Ông là một con người tài hoa trong nhiều lãnh vực (văn, thơ, nhạc...) Ở lãnh vực nào, Duyên Anh cũng đạt đến đỉnh cao.

      Duyên Anh là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào khó ai bì kịp: 60 tác phẩm trong 15 năm, trong đó có hơn 10 năm gần như một phủ nhận sau đòn thù bạo lực đê hèn.

      Sau những năm bị tù tội và bị cấm viết ở quê nhà, ra được nước ngoài, Duyên Anh tự hứa làm một cuộc cách mạng bản thân, "đi lại từ đầu", sáng tác một loạt các tác phẩm mới, mang tầm nhìn rộng hơn, những suy tư mới sâu sắc hơn, chứ không ngồi ôm quá khứ vàng son, và cạn mòn sức sáng tạo như nhiều nhà văn đã thành danh khác.

      Chính những tác phẩm trong giai đoạn sau này đã đưa văn tài của Duyên Anh ra khỏi ranh giới quốc gia. Một sốc tác phẩm của ông đã được các nhà xuất bản ngoại quốc đón nhận nồng nhiệt, dịch ra ngoại ngữ, được xuất bản, được đưa lên màn ảnh, và được đánh giá cao tại một trung tâm văn hóa nước Pháp.

      Những tác phẩm này đã trở thành những vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng chống lại chế độ độc tài cộng sản khiến kẻ thù phải nể sợ. Đó là con đường mà ông đã chọn để phục vụ chính nghĩa, là sứ mạng đích thực của người cầm bút.

      Những đóng góp của Duyên Anh cho văn học và cho cuộc đấu tranh vì tự do của dân tộc là một sự nghiệp sáng chói sẽ còn ảnh hưởng cho đến nhiều năm sau.

      Anh Duyên Anh Vũ Mộng Long, đang viết một truyện dài trên Thế Giới Ngày Nay, anh đột ngột bỏ về Pháp, làm tôi bối rối không hiểu vì lý do gì nhưng cũng tưởng như những lần trước, rồi anh sẽ lại trở qua, hoặc tiếp tục gởi bài. Không ngờ đây là lần ra đi vĩnh viễn.

      Tình bạn đã gắn bó tôi với anh bao nhiêu năm qua, khi vui lúc buồn, cũng như trong cơn hoạn nạn. Chỉ trừ thời gian anh bị tù đày trong bạo lực, tôi đã may mắn hơn anh, tránh khỏi những nhục hình mà anh phải trải qua.

      Khi đặt chân đến Hoa Kỳ năm 1985, tôi mừng rỡ lái xe từ Kansas xuống Dallas chào đón anh, và anh đã cộng tác với tờ Ngày Nay từ ngày ấy, cùng các văn hữu khác đã đưa tờ báo lên tầm cỡ hiện nay.

      Ngày 30-4-1988, anh bị kẻ thù ẩn mặt đả thương trầm trọng tại Khu Phố Bolsa, Cali, tôi đã tức tốc bỏ việc đáp máy bay xuống thăm anh, và đã xúc động rơi nước mắt nhìn anh trong cơn hôn mê.

      Anh lắm kẻ thù và nhiều ân oán vì anh khinh mạn trò đời nhơ nhuốc mà anh biết quá nhiều, và khi đã xuống tay thì anh thẳng cánh, không nương. Nhưng, tôi hiểu anh là con người rất nhân nghĩa, nhân nghĩa với người biết trọng nhân nghĩa. Anh khinh bỉ phường bất nhân và biết trọng kính người nhân nghĩa.

      Giờ đây, tôi muốn nói lên tại đây, trước giờ vĩnh biệt, nhân danh một người bạn.

      Giờ đây, anh đã buông xuôi mọi ân oán, hệ lụy của cuộc đời nhiều phiền muộn. Chúng tôi nghiêng mình tiễn đưa anh, và cảm ơn anh về những công trình tim óc do anh để lại, mà theo tôi, là một sự nghiệp to lớn của một con người suốt đời chiến đấu trong đơn độc.


      *****


      VĨNH BIỆT DUYÊN ANH (1935-1997)

      » Tác giả: Nhiều Tác Giả
      » Dịch giả:
      » Thể lọai: Tùy bút/Tản mạn/Tiểu luận
      » Số lần xem: 56278

      9. Thiên tài đã chết!!!



      Thiên tài đã chết!!!

      Nguyễn Thụy Minh Ngữ
      Chủ Nhiệm & Chủ Bút tuần báo Tiểu Thuyết


      Thế là anh đã ra đi. Anh đã trả xong một kiếp làm người đầy nhọc nhằn bể khổ. Hôm tháng Chín, 1996, chúng ta còn gặp nhau. Anh còn hào sảng tiếng cười với ánh mắt kiều kỳ ngạo nghễ và hứa hẹn sẽ bắt tay với Tiểu Thuyết tuần san vào tháng mười.

      Có ngờ đâu... đó là một câu hứa và sẽ không bao giờ thành sự thật! Anh đã bị cơn bạo bệnh quất vào thân xác lành mạnh, đang như một đóa hoa nở đầu mùa xuân. Và anh đã ra đi, để lại sự thương tiếc của độc giả yêu mến anh trong nhiều thập niên qua.

      Chất xám trong đầu anh như ngọn núi lửa bắt đầu cuồn cuộn phun ra thì đã bị tắt ngóm bởi định mệnh. Sự ra đi của anh là một mất mát lớn cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung. Ngò viết ngạo nghễ ấy đã thật sự đầu hàng trước thiên lệnh.

      Mặc cho người đời xót xa, mặc cho nhân thế ngậm ngùi. Anh đã thật sự giã từ cõi tạm để yên nghĩ một giấc ngàn thu. Nhà văn của tuổi trẻ đã chết, thiên tài của Việt Nam đã chết. Nhưng gần một trăm tác phẩm của anh còn mãi, ở mãi với chúng ta như những nụ hồng rực rỡ trong vườn văn chương Việt Nam. Chia vui cùng anh đã thoát kiếp người buồn như mặt cỏ ban đêm. Một kiếp văn nhân mang đầy vấn nạn. Duyên Anh sống và chết với tuổi trẻ, kỳ vọng vào tuổi trẻ, muốn hướng dẫn tuổi trẻ. Anh quan niệm tuổi trẻ khác nào nhánh cây non đầy nhựa sống, tinh khiết, trong sáng. Mộng lành dở dang, anh đã lìa trần để lại sự thiệt thòi cho tuổi trẻ mất đi một người hướng dẫn trung thực.

      Sau năm mất nước, anh đã bị tù đày. Khi được thả là lúc bọn cộng sản đã thành công trong việc dàn dựng sự mâu thuẫn, để mọi người đã hiểu lầm và đánh phá anh. Chúng đã thành công, và chúng ta bị mắc mưu. Anh đứng giữa hai làn đạn.

      Văn hào Nguyễn Du đã để lại một câu mà chúng ta phải công nhận rằng ông đã có một nhận xét tinh tế trong đời sống mặc dù hàng trăm năm sau câu nói "Chữ tài liền với chữ tai một vần" vẫn hiệu nghiệm. Chẳng phải riêng Duyên Anh mà Bethoven, Mozart cũng không thoát được nghiệo kiếp.

      Con người tàn nhẫn, thiếu suy nghĩ, đã nhân danh một số cá thể thiển cận, đã nông nổi triệt hạ anh bằng cách đánh lén, đã để lại thương tật trên xác thân anh. Lấy mất đi của anh ba năm vô nghĩa trên giường bệnh. Bằng vào nghị lực của một nhà văn mang đầy dũng tính, anh đã hồi phục, đã sống lại trong cái chết gần kề, hiên ngang, ngạo nghễ với hàng chục tác phẩm mới ra đời cũng bằng ngòi viết cương trực sắc bén.

      Bọn hèn hạ phải đầu hàng trước dũng khí trong từng trang giấy, ở mỗi tác phẩm mới của anh, trong xác thân của một phế nhân, nhưng anh đã ngẩng cao nhìn đời, bằng lòng chấp nhận vác thập giá hằn đớn đau của nhân loại, và... đường anh, anh cứ đi, để cuối đời còn lại tuy ngắn ngủi, anh cũng hoàn tất được một số điều anh cần phải làm cho tuổi trẻ đời sau. Đó là những tác phẩm còn mới toanh sẽ ra đời trong những ngày sắp tới.

      Chúng tôi khóc anh, khóc cho đất nước mình mất đi một thiên tài. Khóc cho một văn nhân chưa được đền bù trả vay thì phải đầu hàng định mệnh. Chúng tôi cúi đầu trước cái chết của anh. Mộ mất mát lớn lao cho độc giả đã từng yêu mến anh. Một thiệt thòi to tát cho gia đình và thân bằng quyến thuộc của anh. Bao nhiêu chữ nghĩa không đủ để diễn đạt nỗi đau đớn này.

      Ai đó đã ghim lên Duyên Anh những bản án vu vơ không bằng chứng, chỉ vì ngòi bút của anh đã quá thành thật, đã không khéo bưng bít tội lỗi cho lãnh tụ? Ai đó đã cố tình đẩy Duyên Anh sang ranh giới Việt Cộng để chụp mũ, để bôi bác? Có phải họ muốn anh bẻ cong ngòi viết để vinh danh, để ca ngợi sự tham nhũng, sự bán rẻ quốc gia dân tộc của một số người?

      Trong một nước tự do dân chủ, mà dường như anh không được tự do ngay trong ngòi viết của mình. Họ chỉ muốn anh chửi cộng sản mà thôi. Họ chỉ muốn quy triệt mọi tội lỗi cho cộng sản. Và họ đã phẫn nộ khi anh đưa ra ánh sáng sự thật. Một sự thật phũ phàng và trắng trợn của những lãnh tụ bất tài đã làm nước mất. Nếu cá ngợi và tôn vinh những tên lãnh tụ bù nhìn, thì khác nào chiến thắng của cộng sản là một chiến thắng vinh hiển? Đất nước chúng ta rơi vào tay cộng sản vì chúng ta không có lãnh tụ tài ba. Không phải vì bọn cộng sản có tài "giải phóng" như chúng huênh hoang khoác lác trong hơn hai thập niên qua.

      Duyên Anh muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng, cộng sản là một thứ chó ngáp phải ruồi trong việc chiếm lấn miền Nam. Chúng không bao giờ là một kẻ chiến thắng trong trận chiến vừa qua. Chúng ta sợ sự thật, chúng ta không bằng lòng với sự thật, thế cho nên chúng ta đã bị lừa. Hai mươi mấy năm lưu vong, sao chúng ta không tự hỏi. Đã có bao nhiêu lần chúng ta bị lừa đảo? Người dân hải ngoại mất tiền. Người trong nước mất mạng cũng chỉ vì những chiêu bài nổ như pháo đại của mộ lũ người buôn dân bán nước.

      Duyên Anh đã không bẻ cong ngòi viết, đã bạch hóa sự thật bằng ngòi viết sắt thép cho đến hơi thở cuối cùng. Nhà văn ấy mất đi có khác nào tuổi trẻ vừa mất đi một ngọn đuốc để soi đường. Cùng một ý nghĩ, cùng một con đường, chúng tôi cố gắng để tiếp nối. Sống hèn hạ có khác nào đã chết.


      ****


      10. Tiếc Duyên Anh

      Tiếc Duyên Anh
      Nguyễn Thụy Minh Ngữ

      Anh bảo
      sẽ làm tròn nhiệm vụ
      của tuổi hồng
      đã quá tự bao lăm
      của vết son
      đã loang lổ bao lần
      của lá khô
      nhọc nhằn bầm dập
      của nắng tắt
      trên đỉnh đầu cô quạnh...

      Nay anh đã
      xa lìa
      như tuổi hồng tàn úa
      như vết son loang lổ
      như lá khô nát vỡ
      như nắng tắt ngấm ngay
      ở đầu Xuân

      Anh đến chỉ một lần
      trong cuộc đời trải thảm ẩm
      làm bẩn chân
      May anh đến chỉ một lần!

      Khóc tiếc anh
      hơn tiếc ngọc ngà
      khi đánh mất

      cơ hôi nào để còn nhìn thấy được anh
      trong nụ cười một buổi sáng đến thăm.

      Tháng Hai, 1997.

      *****


      11. Giuse Vũ Mộng Long

      Giuse Vũ Mộng Long
      (1935-1997)

      Thái Bình có cái cầu Bo
      Có nhà máy cháo có lò đúc môi
      Thái Bình là dân ăn chơi
      Tay bị tay gậy khắp nơi tung hoành!
      Duyên Anh sưu tầm

      Viễn dương điện thoại đổ hồi
      Paris tắt nắng thôi rồi Duyên Anh
      Tường An xóm nhỏ Thái Bình
      Tuổi Thơ Tuổi Ngọc riêng mình Tuổi Hoa

      Mùa hè ở Wichita
      Một mình mày một căn nhà vắng teo
      Tao về mày cứ ngó theo
      Rưng rưng ngọn gió bay vèo trong cây

      Trước sau chỉ Đặng Xuân Côn
      Bên mày cho tới lúc chôn cất mày
      Vào trong huyệt lửa tro bay
      Thương ôi khép miệng túi đầy văn chương

      Thánh kinh tiếng nói, Người Trời
      Thi kinh tiếng nói Người Đời nhớ nhau
      Mỗi lời thơ một hạt châu
      Mỗi hạt châu một giọt sầu nở hoa

      Xin cho tròn giấc Giu-Se
      Trên cao Người đón mày về hôm nay
      Quê xưa rồi cũng có ngày
      Chín mươi ông cụ nhà mày biết tin !!!

      Đồng Hương:
      Đinh Tiến Lãng, Trần Đức Minh, Phạm Thế Truyền, Phê-Rô Vũ Băng Đình



      *****


      12. Thương Tiếc Duyên Anh

      Thương Tiếc Duyên Anh

      Gặp lại hôm qua, chú học trò
      Còn nuôi con sáo bạn ta cho
      Ta mừng, khoe chú bông Thiên lý
      Rực rỡ, huy hoàng như tuổi thơ

      Cao Tần


      *****


      13. Trò chơi

      Trò chơi

      cho Duyên Anh

      Lũ búp bê ngủ vùi
      Trong bóng tối ta không còn nghe tiếng đập
      của trái tim lầm lũi
      Kẻ nào đã ra đi
      Con chim nào đã hót
      Suối tuổi thơ xanh biếc?
      Hãy ngủ đi
      Hỡi những con búp bê yêu dấu của ta,
      Trò chơi của chúng mình đã chấm dứt

      Thi Thạch


      *****

      Comment


      • #4
        14. NHỚ DUYÊN ANH



        NHỚ DUYÊN ANH



        Nhận được tin Duyên Anh mất, thật bất ngờ, năm 95 nhân dịp ghé qua Colorado trong việc ra mắt 3 tác phẩm, tôi đã gặp anh sau 30 năm. Trên tòa soạn Việt Báo, tôi vô tình bắt tay, song anh không bắt được, vì tay phải đã bị liệt , để trấn áp xúc động tôi vui với anh : Không sao, mày tuy thân có bại song tao nghĩ Danh mày không liệt"' Trên đường từ tòa soạn đưa anh về nhà chơi. Anh nói: "Mày có thể tưởng tượng tao với mày lại có thể gặp lại nhau trên đất Colorado này không?



        Sau những chuyện thăm hỏi vê gia đìnhvà một bạn bè cũ, chúng tôi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm của những năm còn trên ghế Trung Học của Trường Trần Lãm Thái Bình . Thái Bình, một thị trấn nhỏ của miền Bắc, với giòng sông Trà Lý thật hiền hòa xuôi chảy dưới cầu Bo, phố Lê Lợi, Trưng Trắc. Thời thơ ấu của chúng tôi đã êm đềm trôi qua dưới mái trường Trần Lăm do thầy Đinh Văn Ló làm Hiệu Trưởng. Duyên Anh là một học sinh rất nhanh nhẹn , nói chuyện rất có duyên, ông rất nghịch ngợm. Những trận đấu bóng chuyền giữa Trường Trần Lãm và Nguyễn Công Trứ, Duyên Anh tuy không phải là cầu thủ chính trong sân, song anh đứng ngoài cổ võ tinh thần, làm cheerleader cho thêm phần hào hứng trong sân đấu, nhất là những trận đấu bóng tròn.



        Mượn được cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Chân và Hoài Thanh, chuyền tay nhau chép lại những thơ của Xuân Diệu, Thế Lữ, Vũ Hoàgn Chương và Lưu Trọng Lư,... Say mê thơ của thời tiền chiến. Chúng tôi đọc Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc dưới sự hương dẫn của cụ Trinh Đình Rư, yêu thích những câu thơ trong Tỳ Bà Hành.



        Thuyền mấy lá Đông Tây lặng ngắt

        Một vừng trăng trong vắt lòng sông



        Học xong lớp đệ Tứ, chúng tôt cùng lên Hà nội để theo học lớp Đệ Tam . Trong thời gian học tại Hànội , ít khi gặp nhau vì ngoài ban ngày đi học, tôi phải kèm học cho những trẻ nhỏ tại tư gia để tự túc. Tuy nhiên, trong những ngày chủ nhật, chúng tôi cùng đi xe đạp lên Nghi Tâm, Quảng Bá, Voi Phục để chơi, hoặc cùng nhau ghé Hồ Hoàn Kiếm ăn bánh tôm, dạo qua Hàng Ngang, Hàng Đào...



        Hà nộl của những năm 1952- 1953, sự xuất hiện của phim Bến Cũ, thịnh hành của những nhạc bản "Ai Về Sông Tưong" của Thông Đạt và Trở Về của Châu Kỳ,. . . những buổi tuyển lựa ca sĩ của đài Phát Thanh , phong trào thanh niên "Càn" với áo chemise đe, tay áo xắn cao để lộ "bắp thịt lớn" đánh nhau bằng khóa xe đạp. Ban đêm những tiếng súng đại bác từ các đồn bót vùng phụ cận vọng lại. Chúng tôi chỉ cặm cụi lo học gạo để đạt được kết quả.

        Sau trận Điện Biên Phủ. đất nước chia đôi, chúng tôi trở về Thái Bình sống dưới chế độ Cộng sản. Trong sự mong muốn được tiếp tục học, chúng tôi phải tỏ ra là những thanh niên tốt, hoạt động hăng say . Với những đêm học tập tích cực và liên hoan "sol, do, mi" hết mình. Sau một thời gian, nhận thấy chúng tôi không thể nào sống được.

        Sau đêm liên hoan với thanh niên nông thôn, tôi và Duyên Anh đúng 12 giờ đêm đã rời bỏ Thái Bình, mỗi thằng một chiếc xe đạp, một gói quần áo để lên Hà nội và kiếm cách vào Nam. Khi tới Nam Đinh, Duyên Anh đã ngừng lại để bán một số thuốc Tây làm lộ phí. Số thuốc này Duyên Anh đã lấy của ông Bố khi đi vì nhà Duyên Anh bán thuốc Tây.

        Trên đường từ Nam Định lên Hà nộl, cán bộ đã giả làm dân chúng cản chúng tôi ở lại. Họ có biết đâu rằng chính chúng tôi cũng cảm thấy đau buồn khi xa rời miền Bắc. Duyên Anh và tôi đã rời bỏ tất cả những người thân yêu trong gia đình, nơi sinh trưởng, đơn độc bước vào đời trong niềm hy vọng thật nhỏ bé là được sống ở một nơi có trái tim , bộ óc. Ở một nơi con người được tự do phát triển.



        Vào tới Sàigòn, Duyên Anh cư ngụ tại nhà hát lớn với hai người bạn thân là Đặng Xuân Côn và Vũ Khắc Niệm, hai anh bạn cùng ở Thái Bình và cùng học ở Trần Lãm. Duyên Anh kiếm sống và viết văn , anh từng lăn lộn vồi nhiều giai cấp tận cùng của xã hội để tìm "chất liệu" để viết. Còn tôi vẫn tiếp tục đi học.



        Vì mỗi người mỗi con đường, khi ở Saigon, ít khi chúng tôi gặp nhau. Đến năm 1970 vì có trách nhiệm thực hiện một thư viện cho đơn vi, vì ngân khoản có giới hạn, tôi nói với các anh em, cho biết những nhà văn, những tác phẩm nào anh em thích. tôi sẽ thực hiện. Khi kiểm điểm những ý kiến, tôi thấy đến 50% anh em đều ưa thích tác phẩm của Duyên Anh như: "Sa Mạc Tuổi Trẻ, Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang, Điệu Ru Nước Mắt". Duyên Anh đã chiếm được những cảm tình của giới trẻ, những tác phẩm phản ảnh băn khoăn, day dứt của tuổi trẻ trước thời cuộc, hoặc vẽ lại một khung cảnh thật êm đẹp khi còn trên ghế Trung Học. Duyên Anh viết lại: "Những tuổi thơ và tuổi trẻ của mình đã mất đi trong cách mạng và chiến tranh"



        Với 64 quyển sách "còn thấy chưa đủ" chưa nói hết được những nỗi chua cay và nhục nhằn của dân tộc nhỏ bị chinh chiến tàn phá!



        Khi ở nhà tôi ra về, Duyên Anh nói: "Hôm nào có dịp tao ở lại nhà mày, hai thằng nói chuyện một đêm thì mới hết chuyện được, bây giờ tao phải về kẻo toà soạn đóng cửa, mày lại không biết nhà của B. Bao giờ đám cưới con trai mày, thế nào tao cũng đi dự." Song đây là lần cuối cùng gặp anh. Không bao giờ gặp nhau để ôn lại chuyện ngày xưa của "Những Đứa Trẻ Thái Bình!" Duyên Anh đã từ giã bạn bè, những người yêu mến tác phẩm anh! Anh đã trở về "Quê Hương" nơi thanh thản, không còn "Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang". Một quê hương, tràn đầy thương yêu trong trắng của "Tuổi Ngọc" và ngát mùi hương thơm của "Hoa Thiên Lý".



        Trần Văn Môn

        Việt Báo - Số 35 - Tháng 4/97


        *****

        Comment


        • #5
          15. Một vài kỷ niệm về âm nhạc với Duyên Anh



          Một vài kỷ niệm về âm nhạc với Duyên Anh



          Tôi biết anh Duyên Anh khi anh đặt chân lên xứ Pháp vào đầu thập niên 80. Tôi cũng đã được nghe nói tới nhà văn Duyên Anh, tác giả của mấy chục quyển sách về thế hệ trẻ ở Việt Nam (Chương Còm, Dũng Đa kao, Mơ thành người Quang Trung. . . )



          Giữa anh Duyên Anh và tôi có một vài kỷ niệm về âm nhạc. Chính qua âm nhạc, chúng tôi gởi gấm cho nhau một số quà văn nghệ và có dịp gặp nhau thường xuyên bên cạnh ly rượu Bordeaux, giữa những câu hát sáng tác cho nhau với tiếng đàn tây ban cầm



          Sáng tác nhạc trẻ thơ



          Tôi còn nhớ có lần anh Duyên Anh tới nhà tôi. Hai anh em bàn chuyện âm nhạc. Tôi hỏi anh về giai đoạn nhạc mới từ 1946 tới 1954 để tìm hiểu thêm về sự tiến triển nền tân nhạc Việt Nam sau thế chiến thứ hai.



          Rồi có một hôm, chúng tôi bàn về loại nhạc mà ít có nhạc sĩ Việt Nam sáng tác. Đó là loại nhạc dành cho trẻ em. Thế là Duyên Anh tự đề nghi viết lời ca và tôi cũng hứng chí ngõ ý viết nhạc thử xem sao. Sau một tháng làm việc, chúng tôi hoàn tất 12 ca khúc nhạc trẻ thơ. Lúc đó vào năm 1984. Tôi viết nhạc ngũ cung, có tiết tấu nhẹ nhàng, dễ nhớ. Anh Duyên Anh đặt lời đơn giản phù hợp với trẻ em từ 6 tuổi tôi 11 tuổi (trình độ tiểu học). Sau đó, tôi hát vào trong băng nhạc. Hai anh em bàn cãi để giữ lại một vài nơi cho hoàn hảo hơn. Ý định mang 12 bài này phổ biến trong giới trẻ để làm thành một số bài hát cộng đồng chưa đi tới đâu thì anh Duyên Anh lại đi sang Hoa Kỳ một thời gian. Tôi lại ngâm các bài này một vài năm. Khi anh Duyên Anh trở lại Pháp, anh không được mạnh khỏe cho lắm, tôi lại bận bao việc khác. Việc riêng với sự thực hiện cuốn phim hát đồng song thanh. Rồi tới việc lo tham gia 2OO năm cách mạng Pháp với bài nhạc cho 250 trống thế giới vào năm 1989.



          Thời gian trôi qua, mãi bận bịu với công việc ngày càng chồng chất, tôi ít gặp anh Duyên Anh cho đến một hôm nghe tin anh Duyên Anh qua đời vào ngày 6 tháng2, 1997. Hôm mai táng anh, tôi lại bận đi công tác dạy học ở Venice (Ý) nên không có mặt.



          12 bài nhạc trẻ thơ vẫn nằm im trong học tủ và có thể chúng sẽ không bao giờ chào đời. Dù sao đó cũng là một món quà kỷ niệm của anh Duyên Anh dành riêng cho tôi.



          Tham Gia Cuốn Băng "Ru Đời Phù Ảo"



          Vào năm 1985, anh Duyên Anh có ý định phát hành một cuốn băng nhạc và thơ Duyên Anh tại Paris. Anh có nhờ ông Phạm Duy phổ nhạc bài thơ của anh Duyên Anh "Có bao giờ em hỏi?" Một mặt khác, anh cho phổ biến bài thơ "Saigòn ra đường" do anh Vũ Trung Hiền phổ nhạc vào năm 1981 ở Saigòn trước khi anh Duyên Anh sang Pháp. Rồi để cho có nhiều màu sắc nhạc khác nhau, anh Duyên Anh mới nhờ tôi phổ nhạc bài thơ của anh "Chỉ còn vậy thôi sao." Lúc đầu anh Duyên Anh có ý định để một mình nữ ca sĩ Ngọc Hải hát mà thôi. Các bài hát đều do nam ca sĩ Văn Tấn Phát soạn hoà âm sau khi tập dượt nên mới nhờ hai nam ca sĩ là Văn Tấn Phát và Quốc Anh cùng với nữ ca sĩ Bạch Yến đốâng góp. Bài bản đã thu sẵn hết, nên vì vậy phần hát hoàn toàn bị gò bó, không thay đổi cung điệu. Ngọc Hải hát 4 bài bắt đầu bằng chữ Ru: "Ru đời phù ảo, Ru ta lưu đày, Ru người mê hoặc", Ru em muộn phiền". Bạch Yến hát 4 bài: "Tưởng chừng như, "Sài Gòn ra đường", ngồi gần anh chút nữa", "Ngàn sau lơ lững"' Văn Tấn Phát hát 2 bài "Ai tín" và ' "chuyện tình". Còn Quốc Anh hát bài "Có bao giờ em hỏi" (nhạc Phạm Duy) và "Chỉ còn vậy thôi sao?" (nhạc Trần Quang Hải) . Cuốn băng này được mở mắt chào đời tại Paris. Nhiều bài rất thành công. .. Rất tiếc là ít được phổ biến sâu rộng. Giờ đây, ít ai nói đến cuốn băng này, chứ đừng nói là có tích trữ trong nhà. Ngay nhà sách Nam Á (ở Paris) cũng không còn một cuốn để tìm cách sao lại cho những ai muốn thu thập tài liệu.



          Tôi còn nhớ khi Bạch Yến quá xúc động phải bị nức nở ở một câu trong bài "Sài Gòn ra đường" nhạc Vũ Trung Hiền), Bạch Yến yêu cầu được hát lại, nhưng anh Duyên Anh không đồng ý và ngược lại cho rằng tiếng nức nở đó chính là dấu vết xúc động thực sự của một ca sĩ hoàn toàn xúc động khi diễn xuất.



          Anh Duyên Anh đã hăng say viết nhạc và lời ca hàng trăm bài . Một số bài hát được ca sĩ Quỳnh Dao trình bày . Sau giai đoạn tập trung về âm nhạc, anh Duyên Anh đã bỏ lĩnh vực này và nhảy sang lĩnh vực viết sách. Anh đã viết rất nhiều sách ở hải ngoại. Hàng chục quyển đã được trình làng cho cộng đồng Việt Nam. Anh Duyên Anh đã viết một số bài thơ do nhạc sĩ Lương Ngọc Châu dày công sáng tác tạo thành những áng nhạc rất giàu về chất nhạc, ý nhạc và không sao tìm được một nhà xuất bản vềâ nhạc có mang âm hưởng dân tộc. Duyên Anh đã để lại trong ký ức của tôi một người bạn tốt, một người nhạc sĩ có nhiều chất nhạc đa dạng, một nhà thơ viết lời nhac với nhiều kinh áp. Hỗ trợ những người đấu tranh và bênh vực khi họ bi đàn áp là một bổn phận của mọi người Việt Nam hôm nay. Do đó, chúng ta hãy cùng nhau quảng bá một rộng rãi tin tức đấu tranh cho tự do dân chủ của mọi thành phần dân tộc hiện nay tại Việt Nam . Chúng ta hãy cùng nhau hỗ trợ một cách cụ thế bằng tinh thần cũng như vật chất, để hành động tranh đấu cho tự do dân chủ của từng người, từng tập thể có điều kiện bộc phát mạnh mẽ và lan rộng. Chúng ta hãy cùng nhau bênh vụt khi họ bị đàn áp, trù dập bởi chế độ độc tài, bằngsự lên tiếng phản đối của từng người, từng tập thế và vận động áp lực của dư luận quốc tế buộc nhà cầm quyền cộng sản phải chùn bước trong chính sách của họ.



          Kính thưa quý vị,



          Chúng ta lo âu trước những hậu quả nghiêm trọng do chính sách cai tri sai lầm và độc đoán của cộng sản Việt Nam ,nhưng chúng ta lạc quan về khả năng giải quyết của dân tộc. Khi có đủ những điều kiện cần thiết, chắc chắn người Việt Nam của mọi khuynh hương và thần phần sẵn sàng đóng góp công sức của mình vào công cuộc tái thiết và canh tân đất nước. Những điều kiện đó chỉ có thể nói khi Việt Nam dựng được thể chế dân chủ đa nguyên. Với nỗ lực của tất cả, chắc chắn dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua thử thách trước mắt là gỡ bỏ chế độ độc tài hiện nay , để xây dựng lại quê hương tự do, dân chủ và thái hòa mãi mãi .

          Trân trọng kính chào toàn thể quý vị.



          Trần Quang Hải

          Việt Báo - Số 35 Tháng 4/1997

          Comment


          • #6
            16. DUYÊN ANH và NƯỚC VIỆT NAM



            DUYÊN ANH và NƯỚC VIỆT NAM

            Bài của Phạm Kim Vinh



            Nhà văn Duyên Anh đi rồi. Người con trai lớn của ông đã trao cho chủ nhiệm nguyệt báo thế giới Ngày Nay một bài thơ ngắn ký tên Độc Ngữ - bút hiệu đắc ý nhất của Duyên Anh mỗi khi ông làm thơ - đó là bài thơ thay cho di chúc - chỉ có vài câu nhưng bài thơ nói lên trọn vẹn khát vọng, mơ ước và khí phách của Duyên Anh: ông hãnh diện được sinh ra là người Việt Nam và ông mong ước khi nằm xuống, ông vẫn được là người Việt Nam.



            Cho đến giờ ông ra đi, ông vẫn còn đeo nặng sự uất hận của khá nhiều người chỉ vì họ đã làm hại quê hương và dân tộc VN. Thiết tưởng không cần viết nhiều hơn nữa mới đủ để chứng tỏ lòng yêu nước của Duyên Anh. Lòng yêu nước bao la ấy mang đến cho tôi sự quyết định đặt cho bài này cái tựa là "Duyên Anh và nước Việt Nam". Trong số gần hai triệu người Việt lưu vong rải rác từ trên 40 quốc gia sau năm 1975, chỉ có Duyên Anh (D.A.) xứng đáng với cái tựa này qua những thành tích chồng chất của ông sau khi nhiều nỗ lực quốc tế phối hợp với nhau đã cứu được ông ra khỏi nhà tù khổng lồ VN năm 1983.



            Bài thơ di chúc của Duyên Anh cũng giúp tôi thoát được sự chọn lựa lúng túng trong lãnh vực văn học, D.A. là một thiên tài tung hoành ở nhiều địa hạt (văn xuôi, thơ, tùy bút sừ, truyện ngắn, truyện dài, phiếm luận, trào phúng). Người ta sẽ mắc tội bất lương nếu tưởng rằng có thể viết đầy đủ về sự nghiệp văn chương của Duyên Anh trong ít trang giấy.



            Nhờ bài thơ chót của Duyên Anh, tôi đã chọn viết về nỗ lực phi thường Duyên Anh đã thực hiện để làm vẻ vang cho hai chữ Việt Nam.



            DUYÊN ANH RA KHƠI



            Năm 1985, Nhóm Tao Đàn Sông Hàn, một nhóm người cầm bút quyết liệt chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975, đã cố gắng gửi được ra thế giới bên ngoài một lời nhắn thống thiết của họ đến những người Việt đã sớm được tự do tại xứ người, đặc biệt là nhắn giới văn nghệ sĩ Việt lưu vong. Trong lá thư ngỏ gửi "các chiến sĩ văn hóa ở hải ngoại", nhóm ấy viết: "Văn nghệ sĩ, nếu khác với người thường chăng, họa là ở chỗ: tâm hồn hắn không phải tảng đá, hoặc nếu là tảng đá thì là tảng đá sững nơi triền biển để làm dội vang lên tiếng sóng vỗ, để làm cho biển không còn câm nín, hết là một sự có-mặt-vô-hình... Biển của chúng ta hôm nay là biển mất-nước. Vượt biển ra đi, sang bên kia bờ tự do, các anh chị chỉ mở rộng thêm ra thành mênh mông cái biển-mất-nước kia mà thôi. Nhưng các anh chị em đã làm gì cho biển thành hình ra những âm vang của sóng?...Văn nghệ sĩ là nhân chứng. Từ xưa, ai cũng nói thế. Các anh chị em đã làm gì và làm đến đâu cái vai trò một nhân chứng của mình? Các anh chị em là những người may mắn. Gần 60 triệu người dân cùng khổ trong nước ao ước được ra đi, chỉ có các anh chị em là lọt thoát. Trong trái tim các anh chị em, nặng trĩu tâm sự của 60 triệu người, các anh chị em nỡ làm thinh hay chỉ hát những bài ca ru ngủ?..."

            Tìm giải đáp cho câu hỏi này, người ta không thể tránh được cái nhìn hướng về trách nhiệm của những người cầm bút, trách nhiệm của giới người gọi là trí thức của xã hội Việt Nam? Hai giới ấy đã đóng góp được những gì cho quê hương đau khổ? Hai giới ấy đã dùng tự do chính trị và tự do tư tưởng của họ như thế nào : Hiện có gần hai triệu người Việt tị nạn trên thế giới, trong số đó, có hàng ngàn nhà đại trí thức, hàng ngàn lý thuyết gia, chính trị gia, quân sự gia. Hàng ngàn nhà văn, nhà báo, nhà làm văn hóa...,tại sao khối người có tiềm năng lớn như thế lại chịu để cho mặt trận quốc tế vận èo uột ròng rã hơn mười một năm cho đến khi Duyên Anh một người một ngựa tiến sâu vào mặt trận này ngay sau khi ông tìm được tự do năm 1983?



            Là một kẻ lưu vong hèn mọn từ năm 1975 cho tới nay, tôi luôn luôn đi tìm những thành tích cao cả hiếm có của người Việt quốc gia để tôn thờ. vinh. Trong hành trình bạc bẽo ấy, tình cờ tôi đọc đượcc những mẫu tin từ Âu Châu cho biết sự thành công của nhà văn Duyên Anh trên mặt trận quốc tế vận, khu vực Âu Châu. Rồi tôi lại được đọc một số tác phẩm mới của Duyên Anh xuất bản tại Pháp.



            Theo sát nỗ lực này, tôi thấy một sự chuyển hướng rõ rệt nơi khả năng sáng tạo của DA, ông đã dùng ngòi bút để trực tiếp tham gia nỗ lực chống cộng sản trên chiến trường quốc tế vận, chỉ mới từ năm 1984 là năm D.A. định cư tại Pháp, ông đã mau lẹ làm cho Âu Châu biết đến sự thật về VN dưới ách cộng sản nhiều hơn bất cứ một ngời Việt lưu vong nào khác đã làm được từ 1975 cho đến nay.



            Tháng Giêng năm 1987, tôi được đọc nguyệt báo Ngày Nay, xuất bản tại Wichita, tiểu bang Kansas, số tháng 1-87, bài "Đi Lại Từ Đầu" của Duyên Anh. Cũng nên ghi rằng nguyệt báo này là tờ báo đầu tiên của người Việt hải ngoại đã biết tôn vinh nỗ lực quốc tế vận của Duyên Anh. Bài báo ấy có đoạn viết:



            "Ripault, chẳng hề có Ripault trong đồng nghiệp của tôi lưu vong bên Mỹ. Người ta đã cố tình không nói tới những tác phẩm mới xuất bản của tôi, cố tình dìm tôi xuống. Tệ hại hơn, người ta còn toa rập với âm mửu đê tiện để bêu nhục tôi. Người ta định cô lập tôi. Ngời ta sợ hãi tôi. Rốt cuộc, người ta đã chỉ làm mất phẩm cách của chính mình. Vẫn còn độc giả yêu tôi. Vẫn còn Nam á Paris trả tác quyền thật cao cho sách của tôi. Vẫn còn nhiều nhà xuất bản bên Mỹ muốn in sách của tôi. Hôm nay, tôi lại kiếm thêm con đường mới. Lúc nào và ở đâu, tôi cũng lừng lững đi. Ít nhất, tôi đã thoát kinh rạch, tôi ra khơi trước những kẻ muốn chọc thủng thuyền của tôi. Ít nhất, tôi đã có Jean Mais, có Ghislain Ripault, và đã đưa tác phẩm của tôi vào Belfond, một nhà xuất bản lừng danh ở Paris, ở Pháp, ở Âu Châu, ở thế giới. Trước đây, tôi không có tham vọng văn chương. Bây giờ, tôi thèm nổi tiếng, mong mỏi nổi tiếng, càng nổi tiếng sớm càng tốt. Để tôi có tiếng nói đẹp đẽ tranh đấu cho sự giải thoát dân tộc và tổ quốc tôi. Tôi tin tưởng nhiều nhà văn tài năng khác sẽ ra khơi luận văn chơng với quốc tế, và giúp ích thiết thực cho quê hương Việt Nam. Giai đoạn múa bơi chèo, tranh con tôm, con tép trong kinh rạch cần chấm dứt. Phải ra khơi biết mặt trùng dương. Ra khơi xong, hoàn tất sứ mạng văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại xong, tôi lại về kinh rạch quê hương tôi".



            Và trong cuốn "Quán Trọ Trước Cổng Thiên Đường" của Duyên Anh, xuất bản cuối năm 1986, ông ta đã nêu ra một lời chính khí, có thể tạm coi như là một thứ Kinh Lưu Vong cho người Việt tị nạn trên thế giới: "Sợ mưa nắng quê người phai nhòa lời son sắt nên ta phải dùng gang thép giải tỏ hoài bảo phục quốc của ta: Ta đi chiến đấu cho dân tộc, không đi xin bố thí tự do".



            Bên câu Kinh Lưu Vong thật thấm thía này, Duyên Anh còn gửi tới những người cầm bút Việt lưu vong lời nhắn thẳng thắn: "Những bước đi mới của tôi, dẫu kém cỏi và vụng dại, nhưng đủ xác định bổn phận của nhà văn với dân tộc y, với thời đại y. Đi không chẳng lẽ lại về không, giấy Mỹ tốt, mực Mỹ tốt, máy in Mỹ tốt, không viết nổi nữa thì đi tìm tự do làm cái gì? Văn hữu anh bị nhốt kỹ trong tù ngục quê nhà, bị cấm viết ngoài đời, vẫn âm thầm viết đấy. Còn anh, anh nhởn nhơ ở thế giới tự do, anh không viết, nay mai anh về giải phóng dân tộc, anh về tay không à? Hay anh về với những câu chuyện múa gậy vửờn hoang? Hay về với những mẩu bài tán tụng ca sĩ kiếm rửợu? Tôi nghĩ rất thô thiển: Nhà văn có tự do tuyệt đối mà không viết tác phẩm thì hoặc là bất tài, hoặc là lười biếng. Cả hai trường hợp, anh đáng kể như đồ bỏ. Và anh đừng nhận anh là nhà văn nữa. Và sự liêm sỉ tối thiểu độc giả đòi hỏi là anh nên lặng lẽ rút vào bóng tối một cách khiêm tốn."



            Sự thật từ năm 1984 cho tới nay chứng tỏ rằng "những bước đi mới" của Duyên Anh không kém cỏi, không vụng dại. Những bước đi ấy đã làm đẹp mặt cho người tị nạn VN trước mắt cộng đồng quốc tế, và làm đẹp hai chữ Việt Nam. Những thành tích lẫy lừng đâ được giới chính trị và văn hóa quốc tế tại âu Châu tôn vinh, và nhiều người trong hai giới ấy đã dành cho Duyên Anh sự ngưỡng mộ và giúp đỡ tận tình.



            Ripault là một nhà văn, nhà báo lớn của Pháp. Ông ta chưa hề biết Duyên Anh trước khi Duyên Anh tị nạn tại Pháp. Nhưng sau khi được nghe trình bầy về đóng góp tư tưởng của Duyên Anh cho khối người Việt hải ngoại, Ripault đã mau lẹ tự nguyện trở thành một trong những người bạn ngoại quốc chí thiết của Duyên Anh.



            Trước khi một mình xông xáo vào mặt trận quốc tế, Duyên Anh đã nêu khẩu hiệu chiến đấu của ông ta: "...Bây giờ, tôi thèm nổi tiếng, mong mỏi nổi tiếng, càng nổi tiếng sớm càng tốt. Để tôi có tiếng nói đẹp đẽ tranh đấu cho sự giải thoát dân tộc và tổ quốc tôi... Giai đoạn múa bơi chèo, tranh con tôm, con tép trong kinh rạch cần chấm dứt. Phải ra khơi biết mặt trùng dương. Ra khơi xong, hoàn tất sứ mạng vãn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại xong, tôi lại về kinh rạch quê hương tôi". Giữ lời hứa tâm nguyện. Giữ lời tự nguyện làm tròn sứ mạng ngời cầm bút lưu vong, Duyên Anh quả thật đã mang được tiếng nói đẹp đẽ vào mặt trận tư tưởng để tranh đấu giải phóng quê hương và dân tộc Việt Nam. Nhiều tờ báo Pháp nồng nhiệt giới thiệu Duyên Anh với độc giả của họ, và theo lời lẽ trong những bản tin hoặc bình luận, các tờ báo ấy đều gọi Duyên Anh là nhân chứng quan trọng về vấn đề Việt Nam dưới ách Cộng sản. Những bản tin và tường thuật về hoạt động tranh đấu sơ khởi bằng tư tưởng này của Duyên Anh đã làm cho dân chúng Pháp càng ngày càng biết thêm về Duyên Anh.



            Từ đây trở đi, con đường càng ngày càng mở rộng để đưa Duyên Anh vào đời sống tư tưởng các dân tộc Âu Châu. Vì trong chiến tranh Việt Nam, nhiều quốc gia âu Châu đã phạm tội thờ ơ, phạm tội che đậy tội ác của cộng sản Hà nội trong cuộc chiến tranh thôn tính miền Nam VN, nay đã biết giác ngộ, hay là vì tư tưởng của Duyên Anh có chiều sâu và sức mạnh thuyết phục được các dân tộc Âu Châu? Có thể cả hai điều ấy đã xẩy ra nên các dân tộc ấy dành cho Duyên Anh một sự đãi ngộ thật đặc biệt mà chưa một người Việt Nam nào có được từ trước tới nay.

            Vì con đường đã mở rộng nên Duyên Anh được mời diễn thuyết, nói chuyện hoặc đọc thơ nhiều lần. Ông ta không có thói quen giữ lại các bài báo ngoại quốc viết về hoạt động tranh đấu bằng tư tưởng của ông ta. Tôi đã phải viết thư khẩn khoản yêu cầu ông ta nhiều lần, ông ta mới nhờ bạn hữu thâu thập được một số bài báo hoặc bản tin viết về hoạt động quốc tế vận của ông tại âu Châu cùng với nhiều tài liệu ngoại ngữ khác để viết xong cuốn "Duyên Anh và Mặt Trận Quốc Tê Vận", Xuân Thu xuất bản năm 1987.



            Ngày 25-5-1986, bỉnh bút Philippe Riboton của nhật báo Le Duuphine Libéré tường thuật buổi đọc "Thơ Tuứ của Duyên Anh tại Thé tre Action tối 23-5-1986. Trước một cử tọa chọn lọc và chăm chú, Duyên Anh đọc nhiều bài thơ mà ông ghi trong trí nhớ trong những năm tháng còn bị cộng sản giam tại Việt Nam, rồi sau này, khi sang Pháp, ông mới ghi lại được trên giấy và chuyển sang Pháp ngữ. Những bài thơ này có sức mạnh làm cho bỉnh bút Riboton kết luận sau khi nghe Duyên Anh là "những bài thơ này đã vang dội như là tiếng nói của nước Việt Nam lưu vong."

            Tháng 5 năm 1986, Duyên Anh được mời đọc Thơ Tù tại thành phố Grenoble. Tiếng vang tốt đẹp cho uy tín và danh dự của người Việt lưu vong nhờ Duyên Anh còn chửa dứt thì đã đến thời điểm Duyên Anh phát hành cuốn Un russe à Sai gon. Sách ấy vừa được phát hành thì ông ta được mời đại diện cho Việt Nam để tham dự "Festival de la Littérature francophone" cùng với 250 nhà văn lỗi lạc của các quốc gia nói và viết tiếng Pháp tại thành phố Le Mans. Thế giới biết đến Le Mans như là một nơi chuyên tổ chức những cuộc đua xe hơi chạy nhanh nhất thế giới, nhưng Le Mans còn là một khu vực mà cộng sản Pháp hoạt động rất mạnh. Chính ở điểm thứ hai này mà Duyên Anh nhằm để lên tiếng mạnh mẽ. Được mời lên tiếng, Duyên Anh đã đọc một diễn văn nẩy lửa để kết án chính quyền Hà Nội. Ban tổ chức đã ân cần dành cho Duyên Anh một cái bàn tại địa điểm đại hội để ông ta ký sách cho độc giả mua cuốn Un russe à Saigon.



            Sau ngày tham dự đại hội nói trên, Duyên Anh được truyền thanh và truyền hình của Pháp phỏng vấn về thân thế và sự nghiệp văn chương của ông ta trước và sau năm 1975, và đặc biệt là họ phỏng vấn ông ta về cuốn Un russe à Saigon.



            Ngày 19-1-1987, Duyên Anh lại được mời đọc Thơ Tù tại địa điểm Salle des Fêtes, Quận 6 của thủ đô Paris cho một cử tọa gần 400 người Pháp ưu tú nghe. Đây là một trong những quyền Anh.



            Sử gia Pierre Chaunu của Pháp nồng nhiệt giới thiệu Duyên Anh với cử tọa trước khi ông ta đọc thơ. Kịch sĩ Michel Etcheverry của Đoàn Ca Kịch Quốc Gia Pháp diễn tả bằng Pháp ngữ. Nhiều người trong cử tọa ấy khóc sướt mướt trong buổi đọc thơ. Xong phần đọc thơ, sử gia Chaunu phát biểu tới mười phút về thơ và về con ngừời Duyên Anh. Trong những lời phát biểu của Chaunu, có câu "Duyên Anh đến đây dạy chúng ta một bài học về lòng nhân ái. " Trên hàng ghế tham dự, còn có tác giả Michel Tauriac, một nhà văn Pháp kịch liệt chống bạo quyền Hà nội, và Olivier Todd, một cây viết trứ danh của Pháp trước kia hung hãn bào chữa cho Hà nội và Việt Cộng, nay giác ngộ và trở thành ngừời hết sức ủng hộ cuộc chiến đấu của người Việt quốc gia. Đêm 19-1-1987, tuyết lạnh ngập trời, nhưng độc giả vẫn kiên nhẫn đứng chờ để mua sách của Duyên Anh. Số sách bán được trong buổi đọc thơ này được Duyên Anh tặng cho ủy Ban ủng Hộ Một Nước Việt Nam Tự Do.



            Cơ hội thật sự để Duyên Anh RA KHƠI đã đến, và cũng là cơ hội để cho mọi người Việt biết tài năng cũng như bản lãnh của ông ta khi ông ta được mời đại diện cho người Việt Nam để tham dự Đại Hội Các Nhà Văn Quốc Tế có mặt tại Pháp, do cơ quan văn hóa Pháp tổ chức tại Montreuil trong hai ngày 10 và 11 tháng 4 năm 1987. Với đề tài "Sự Dấn Thân của văn chương", Duyên Anh đã thay mặt cho nước Việt Nam, thay mặt cho dân lộc Việt Nam để cho thế giới thấy trình độ tư tưởng của người Việt đã đạt đến mức độ nào. Trên mười một năm lưu vong đã qua, chưa thấy có người tị nạn VN nào phát biểu được những tư tưởng như tư tưởng của Duyên Anh trong đề tài Sự Dấn Thân Của Văn Chương" đọc tại Đại Hội Các Nhà Văn Quốc Tế tháng 4 năm 1987. Duyên Anh xứng đáng được coi là người cầm bút lỗi lạc nhất của dân tộc Việt Nam trong lúc này, vì chỉ mới thấy có ông la øđã làm vẻ vang được cho hai chữ Việt Nam. Bài phát biểu ấy có một giá trị lớn vượt ra khỏi biên giới của nước Việt Nam để mang một giá trị quốc tế. Đó là một thông điệp rất hàm xúc, đáng được gửi tới toàn thể nhân loại ở những năm chót của thế kỷ này.



            Bài phát biểu ấy còn là phương châm để hướng dẫn nhà văn Duyên Anh hành động bây giờ, và trong suốt thời gian còn RA KHƠI của ông ta, cho đến khi xứ sở và đồng bào của ông ta được giải thoát khỏi ách cộng sản. Yù kiến then chốt của bài này là đoạn Duyên Anh suy diễn về sự dấn thân của người cầm bút: ở bất cứ một cảnh huống nào, con người bị hạ giá, con người bị bạo lực chế ngự, chữ nghĩa phải dấy động, tư tưởng phải lên đường. Người cầm bút cần có thái độ đối với bạo lực, bất kể bạo lực đến từ phía nào. Khi bạo lực còn đe dọa con người hàng ngày, thi ca và văn chương không thể là thứ trang trí cho hạnh phúc giả tạo, khiêu vũ trên thống khổ của đồng loại...Đi về phía trước, đó là tín hiệu dấn thân quyết liệt của chữ nghĩa. Trong mọi hoàn cảnh, khi bạo lực diễn hành khiu khích, khi chủ nghĩa quất xuống thân phận con người những ngọn roi nghiệt ngã, khi lưỡi lê độc tài đâm chảy máu dân chủ, tự do, khi hứa hẹn biến thành phản phúc, những khi ấy sẵn sàng nổi giận" Là người, chúng ta ngẩng mặt chiến đấu".

            Với những thành tích trên đây, đạt được chưa đầy ba năm sau khi ông ta tới Pháp, với những thành tích đang đạt được và những thành tích lẫy lừng khác chắc chắn sẽ đạt tới, người ta không thể coi những lời dưới đây của Duyên Anh là quá đáng nữa mà phải coi những lời ấy là chính đáng và cần thiết:



            " Một chút tự hào bốc dậy. Đã ngồi trên mặt đại dương bằng thuyền gỗ, sẽ ra khơi bằng văn chương. Đừng nghiêm khắc với sự kiêu ngạo của nghệ sĩ sáng tạo. Thiếu kiêu ngạo, nghệ sĩ sẽ khó lòng vươn lên..."

            Xác định sứ mạng cao cả của người cầm bút Việt khi quê hương thân yêu bị cộng sản tàn phá, khi đồng bào ruột thịt bị cộng sản đầy đọa, Duyên Anh nhắc những người cầm bút Việt lưu vong: "Tôi đã im lặng từ lâu, không trả đũa những ai bêu nhục tôi. Tôi không thích làm nạn nhân trò chơi bẩn Thầy Tăng Sâm giết người do cộng sản đạo diễn. Tôi lên tiếng để xác định thái độ chống cộng của tôi là tôi không chống cộng với tướng bẩn đào ngũ và tá cớm chạy làng. Tôi chống cộng với những người quốc gia chân chính. Bọn quốc gia giả hình cứ việc bêu nhục tôi. Với những ai gọi là nhà văn, tôi xin phép được nhắc câu nói của Gabriel Garcia Marquez: nghĩa vụ và bổn phận của nhà văn là viết cho hay. Anh hãy viết cho hay, thật hay và tự nhiên anh sẽ nổi tiếng. Tỏ thái độ với người này người kia là mất thời giờ, vô ích. Tỏ thái độ với cộng sản bằng tác phẩm và làm cho tác phẩm có kích thước quốc tế mới là nghĩa vụ của nhà văn VN... Tôi nói những điều tâm cảm. Và tôi sẵn sàng cái thế một mình một ngựa như tôi đã một mình một ngựa. (Tựa của sách Một Người Tên Là Trần Văn Bá).



            Và Duyên Anh đã làm đúng câu Tri Hành Hợp Nhất. Ít ra cũng đã có 3 tác phẩm của ông được chuyển sang Pháp ngữ, trong số đó, cuốn La Colline de Fanta được hãng 3-B Production phỏng theo thành cuốn phim "Poussières de Vie", mang chiếu khắp thế giới. Tạm trú tại Pháp mới có vài năm, ông đã viết lại và cho xuất bản gần hai chục tác phẩm, chưa kể hơn năm chục tác phẩm xuất bản tại VN trước năm 1975.



            Ý CHÍ VÀ NGHỊ LỰC SIÊU PHÀM CỦA DUYÊN ANH



            Không kể vài chuyến đi ngắn giữa âu Châu và Mỹ trước đó, Duyên Anh tới california đầu năm 1988 với ý định ở lại một thời gian khá lâu. Phải chăng ông muốn chuyển điạ bàn hoạt động đến vùng Tây Bán Cầu?



            Trong ngày 30- 4-1988, trong khi quan sát cuộc biểu tình của người Việt lưu vong tại khu thương mại của người Việt vào buổi trưa, ông đã bị một kẻ lạ mặt hành hung. Ông không chết nhưng những người thương mến ông đã lo ngại rằng ông sẽ không cầm bút được nữa. Vụ hành hung này được báo chí Mỹ tường thuật dựa vào tin tức không chính xác và có ác ý do một số người Việt mớm lời là một điều sỉ nhục cho mọi người Việt sống nhờ trên đất Mỹ. Người ta tiên đoán Duyên Anh sẽ câm, mất hết trí nhớ và nằm yên một xó bất động để chờ chết. Rõ ràng là có những kẻ sợ hãi ngòi bút của Duyên Anh, và không muốn ông ta tung hoành trên đất Mỹ. Chúng không chủ trương giết mà chỉ cần làm cho ông mất khả năng sáng tạo khi trở thành một phế nhân tinh thần. Chúng đã đánh giá lầm nghị lực sống của Duyên Anh. Quả thật là sau khi bị thương nặng ở đầu, Duyên Anh đã phải ngưng viết trong một thời gian khá dài (từ tháng 5-1988 đến tháng 10- 1990). Nếu là người khác thì việc cầm bút sau tai nạn này kể như chấm dứt. Với một người thừa nghị lực sống và mang trong người một ý chí sắt thép thì không có sự đầu hàng. Ngày 11-10-1990, Duyên Anh khởi sự viết lại, sau nhiều tháng khắc khổ tập viết tay trái vì tay phải đã bị liệt - ông kể lại: "Tôi đã học đọc, học viết, học suy nghĩ, học đi đứng nhiều ngày trong bệnh viện",( tại Pháp).



            Bốn tháng sau, vào ngày 22-2-1991, ông đã hoàn thành một tác phẩm chữ nghĩa dầy 270 trang có tựa là 'Ngược Giòng Chữ Nghĩa, trong đó ông viết về nhiều đề tài khác nhau: Nông dân và con cò, truyện vui, thuốc lào, huyền sử, ca dao, chép sử, ăn bún, thi ca, âm nhạc... Tác phẩm này là cách trả lời hay nhất của ông cho những ai tưởng ông đã mất trí nhớ rồi.



            Sau cuốn sách này, Duyên Anh còn cho độc giả thêm nhiều tác phẩm nữa, nhiều bài báo nữa với một nhịp độ khó tưởng tượng nổi. Trí nhớ của ông đã trở lại hoàn toàn, và sự bén nhạy của ông khi nhận định về chính trị VN, và chính trị thế giới không hề giảm sút. Đầu tháng 11 năm 1995, ông ra mắt một lúc 4 tác phẩm trong số đó có hai cuốn viết về ca dao VN, cuốn nào cũng chan chứa tình yêu quê hương và dân tộc VN. Một điều an ủi lớn làm cho Duyên Anh thêm tự tin và thêm hãnh diện: nhiều độc giả ngưỡng mộ và yêu mến ông đã tổ chức đưa ông đi nhiều nơi trên đất Mỹ để ông giới thiệu các tác phẩm mới của ông. Chiến dịch thâm độc của những kẻ đố kỵ ông và hận thù ông đã không cản được số đông độc giả và đồng bào mến mộ ông.



            Trong những buổi ra mắt sách và tại nhiều nơi công cộng, người ta không thấy ông tỏ vẻ thù hận kẻ (hoặc những kẻ ) đã hạ ông. Nếu có nói tới thì chỉ là nói như kể lại một kỷ niệm buồn trong đời. Lá thư do ông viết bằng tay trái đề ngày 13-3-1989 khi gặp nạn) chứng tỏ tinh thần trên. (Xin xem bản chụp lá thư in cùng với bài này).



            DUYÊN ANH TUNG HOÀNH VỚI KHÍ GIỚI TƯ TƯỞNG



            Tuy giới hạn của bài báo không cho phép tôi dẫn chứng nhiều hơn nhưng tôi tin rằng bấy nhiêu đã đủ để chứng minh rằng trong hoàn cảnh và điều kiện hiện tại của người Việt lưu vong, khí giới tư tưởng là khí giới duy nhất mà người tị nạn VN trên thế giới còn có thể dùng để tung hoành trên mặt trận quốc tế vận để đạt được sự hậu thuẫn của thế giới bên ngoài. Trận chiến tư tưởng sẽ là trận chiến quyết liệt nhưng thầm lặng của những người tị nạn Việt Nam có khí phách, uy tín và tài năng. Nếu có được ba điều thiết yếu này, chỉ cần một người hay một vài người cũng có thể làm xoay chuyển dư luận nước ngoài, và còn có thể làm thay đổi cả lối suy tưởng của một hay nhiều dân tộc nữa.

            Chỉ cần dùng một vài tài liệu cụ thể để dẫn chứng, bài này cho thấy rằng nhà văn Duyên Anh là người duy nhất trong khối người tị nạn Việt Nam trên thế giới đã đắc lực dùng khí giới tư tưởng để đạt được mục tiêu quốc tế vận.

            Lựa chọn sự dấn thân tích cực, Duyên Anh đã biểu lộ khí phách và tinh thần bất khuất của ông ta để nhập cuộc chiến đầy chông gai, bạc bẽo nhưng rất cao cả này khi ông ta viết: "Tôi lựa chọn sự dấn thân tích cực và thái độ 'nổi giận' với bạo lực của các chủ nghĩa phi nhân. Dĩ nhiên, sự chọn lựa sẽ đẩy tôi vào cô đơn khôn cùng. Có sáng tạo nào ồn ào? Có chữ nghĩa nào viết đúng giờ kẻng khua dục dã? Người cầm bút không cần thế lực và hậu thuẫn." '

            Khi lựa chọn Paris làm chiến trường, Duyên Anh đã cho người Việt hải ngoại một bài học quý giá về chiến lược quốc tế vận. Nước Pháp tiếp tục được nhân loại coi là quốc gia của văn hóa nhân bản quốc gia của nhân quyền. Bạo quyền Hà nội đã có sứ quán và những tên nầm vùng tại Pháp từ nhiều năm nay. Duyên Anh đã chọn vùng đất ấy để trực diện đánh cộng sản bằng văn hóa và tư tưởng.



            Cứ một nhà báo Tây phương nổi tiếng được Duyên Anh thuyết phục sẽ là một người mang lại cho chính nghĩa người Việt quốc gia một sức mạnh không đo lường được. Duyên Anh đã thuyết phục được không phải một nhà báo Tây phương mà là hàng chục nhà báo Tây phương. Ta hãy ước lượng tầm mức ảnh hưởng bài báo do ông Pierre Bas khi viết về Duyên Anh và những lời kết án của ông ta giáng xuống chế độ Hà-nội, chưa kể những lời khuyến cáo mà ông ta trực tiếp gửi tới Bộ Ngoại Giao Pháp và dân tộc Pháp. Michel Tauriac, Olivier Todd, sử gia Pierre Chaunu (người làm cho nước Pháp hãnh diện) không giữ một chút dè dặt nào khi gửi cho Duyên Anh sự kính nể và ngưỡng mộ của họ. Danh sách những người khả kính và đầy ảnh hưởng cũng như uy tín của Tây phương ủng hộ Duyên Anh còn dài...



            Tôi đã nhìn thấy mục tiêu của Duyên Anh đằng sau những nỗ lực đội đá vá trời của ông ta: làm cho thế giới bên ngoài kính nể và thương mến người Việt quốc gia qua con người và qua thành tích của Duyên Anh. Một khi thế giới ấy đã nhìn người tị nạn VN bằng thiện cảm và yêu thương như thế thì những người lãnh đạo xứng đáng cho cuộc chiến của người Việt lưu vong sẽ thấy con đường tranh đấu trước mặt họ thênh thang và hứa hẹn nhờ công lao khai phá của Duyên Anh.



            Đọc Duyên Anh và nghe Duyên Anh, người ta nghĩ tới Việt Nam. Nói tới Việt Nam, người ta nghĩ tới Duyên Anh. Ông rất xứng đáng với niềm vinh dự số một đó của dân tộc Việt Nam.



            NƠI AN NGHỈ XỨNG ĐÁNG VỚI TẦM VÓC DUYÊN ANH



            Duyên Anh đã chọn nước Pháp để định cư. Ông cũng chọn nước Pháp làm nơi an nghỉ cuối cùng. Đó là sự lựa chọn khôn ngoan và soi sáng cho người đời. Khôn ngoan vì chỉ có nước Pháp mới xứng đáng với một thiên tài văn chương tầm vóc quốc tế lẫy lừng như Duyên Anh. Soi sáng vì sự lựa chọn ấy mở mắt nhiều người để họ nhận ra đâu là đất thật sự kính trọng Tình Người và Những Người có khả năng siêu việt, không quan tâm đến mậu da, quốc tịch và biên giới quốc gia. Trong khi Duyên Anh được đưa vào điều trị khẩn cấp tại nhà thương Humana, vùng Orange County, nam California, sau tai nạn ngày 30-4- 1988, chính phủ Pháp mau lẹ gởi một máy bay đặc biệt tới Califomia chở Duyên Anh về Pháp. Ôâng được cung cấp những sự săn sóc và điều trị y tế tối tân nhất của nước Pháp. Bên sự săn sóc kỹ thuật ấy, nước Pháp không quên sự săn sóc thực tế: Duyên Anh được trợ cấp tài chánh đủ để ông khỏi phải lo sinh kế cho đến lúc ông nằm xuống.



            So với những cường quốc kinh tế nước Pháp thua về mặt sản xuất và mậu dịch. Nhìn từ phương diện nhân bản và văn hóa, nước Pháp hãnh diện đứng đầu thế giới - không quốc gia nào có uy tín và thành tích văn hóa đủ mạnh để tranh địa vị của nước Pháp khi Liên Hiệp Quốc lựa Pháp là nơi đặt trụ sở cơ quan văn hóa của thế giới (UNESCO).

            Pháp cũng là vùng đất hứa đối với nhiều khối dân lưu vong. HoÏ tìm đến đất Pháp không phải vì khẩu hiệu sáo mép "cơ hội đồng điệu" cũng không phải vì "Giấc mơ Pháp" mà vì chính sách "đãi ngộ theo khả năng mỗi người". Duyên Anh có giác quan vô cùng bén nhậy nên sớm nhận ra điều ấy. Nước Pháp đã không làm ông thất vọng.

            Đầu tháng 9-1996, chính phủ Pháp mời Duyên Anh về Paris để lãnh nhận văn bằng công dân Pháp. Ông đã bình thản đón nhận vinh dự đặc biệt ấy. Trong cuộc điện đàm ngắn trước khi lên đường về Pháp, Duyên Anh tán thành đề nghị của tôi là vì ông có một trí nhớ phi thường, một sự phân tách thật sắc bén về những biến chuyển trong lịch sử cận đại của Việt Nam, ông nên viết một cuốn sử đầy đủ để hướng dẫn thế hệ trẻ - tán thành điều ấy xong, Duyên Anh còn cho biết khi ông trở lại đất Mỹ, ông sẽ được một số Mạnh Thường Quân việt tài trợ để ra một tờ báo chống cộng sấm sét.



            Thời gian trở bệnh của ông đến rất mau, và bệnh tàn phá những ngày chót của ông cũng rất tàn nhẫn. Thấy trước viễn ảnh tử biệt, ba người thương mến Duyên Anh vô cùng, và cũng là ba người đóng góp rất nhiều trong việc yểm trợ nỗ lực quốc tế vận của Duyên Anh đã luôn luôn ở bên giường ông: linh mục Jean Mais Sư Huynh Piene Trần Văn Nghiêm và văn hào Ghislain Ripault. Những người bạn cao quý này đã giúp Duyên Anh ra đi trong sự bình tĩnh của tâm hồn, dù rằng nỗi niềm u uất vẫn còn day dứt ông, u-uất vì thấy quê hương vẫn còn chìm đắm trong nghèo khổ và lạc hậu.



            Tôi muốn mượn hình ảnh mà Duyên Anh đã vẽ ra khi ông đặt tựa "Quán Trọ Trước Cổng Thiên Đường" viết về cuộc sống tạm bợ lay lắt và tủi nhục của người tị nạn Việt Nam tại Bidong (Mã Lai Á) làm lời kết cho bài tưởng niệm này. Cả cuộc đời của Duyên Anh - từ quê hương Việt Nam đến cuộc định cư tại Mỹ đều chỉ là có khoảng thời gian chờ đợi trước Cổng Thiên Đường. Ông đã về tới Thiên 'Đường ngày 5 tháng 2 năm 1997 trong sự vô cùng thương tiếc của những độc giả và đồng bào ngưỡng mộ và kính trọng ông. Tôi tin rằng ngay cả những kẻ giờ này vẫn còn thù hận ông - thù hận ông vì lý do nào không cần bàn ở đây - sẽ có những lúc những kẻ ấy tiếc rằng Duyên Anh không còn nữa để mà tiếp tục làm cho họ căm hờn nhưng phải nể sợ Duyên Anh vì sau Duyên Anh, đời sẽ không tìm được khí phách và thiên tài viết để cấy vào một Duyên Anh thứ hai. Ở Thiên Đường ấy tôi chân thành cầu mong Duyên Anh sẽ tìm được cái xã hội trong đó, những kẻ cai trị sẽ lương thiện và tài đức - Tôi đã tưởng tượng được nhìn thấy cái cười nửa miệng tuy ngạo nghễ nhưng dễ thương của Duyên Anh Vũ Mộng Long.



            26-2-1997

            Đất Tạm Trú Califomia

            Phạm Kim Vinh

            Comment


            • #7
              Vũ, Thuý, Côn, Vọng ghẻ tàu; Bồn lừa, Dzũng Đa Kao, Chương còm, Hưng mâp...cùng một trời kỷ niệm ấu thơ!

              Nhớ mãi Duyên Anh!

              Comment

              Working...
              X