Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Thời của thánh thần

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    PHẦN II. CUỘC BỂ DÂU - Chương 15

    Non sông một dải



    Trải qua một cuộc bể dâu

    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

    (Nguyễn Du)



    Hai mươi mốt năm, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, mùa Xuân năm 1975, giang sơn Việt Nam mới lạ quy về một mối. Cuộc hành trình đến độc lập tự do quá dài và cực kỳ gian khổ, khốc liệt. Cứ nhìn trập trùng bia mộ, tầng tầng lớp lớp nghĩa trang liệt sĩ khắp các thôn làng dọc dải đất hình chữ S thì đủ biết. Xương máu đã xây nên độc lập.

    Cái làng Động thân thương, suốt cả một cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm, đồn địch dựng giữa làng, ác liệt là thế mà cả làng cũng chỉ có tám liệt sĩ. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, đau thương mất mát đã tăng gấp bội. Con số liệt sỹ vọt lên cấp số nhân, gấp chín lần, tròn hai trung đội.

    Gia đình anh Nguyễn Kỳ Quặc không phải là hộ duy nhất trong làng có hai con trai đi chiến trường, nhưng mất mát thì lại đứng hàng đầu. Nguyễn Kỳ Công, con trai đầu của Cục, học hết lớp bẩy thì nghỉ học, chưa đầy mười bẩy, đã khai tăng tuổi trốn bố đi khám tuyển bó đội. Chị y sĩ ở phòng cân đo nhìn cậu thanh niên choai cao ngỏng, quần sắp tụt dưới háng vì sức nặng của những hòn đá chật căng hai túi, không nhịn được cười:

    - Cháu ơi, về để bố mẹ vỗ béo thêm một năm nữa rồi hãy đi khám tuyển.

    Công van vỉ:

    - Cháu xin cô. Mẹ cháu đã bị chết vì bom Mỹ ở cầu Thanh Am. Cháu muốn đi trả thù cho mẹ. Cô cho cháu thêm mấy cân, cô nhé.

    Chị y sĩ ứa nước mắt, tặng cho chú bé năm cân, đủ tiêu chuẩn nhập ngũ.

    Trước khi Nguyễn Kỳ Công vượt sông Bến Hải, anh gửi về cho bố và bà nội lá thư cuối cùng. Đó là mùa khô năm 1972, thời kỳ mà cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị diễn ra cực kỳ khốc liệt. Suốt từ đấy Công mất hút giữa đại ngàn Trường Sơn, giữa mịt mù khói súng.

    Tiếp theo bước Công là cậu em Nguyễn Kỳ Cải, sinh giữa năm Cải cách ruộng đất. Đây là đợt tồng động viên toàn quốc, huy động toàn bộ lực lượng cho chiến trường. Trai tráng thôn quê không gâu nệ thành phần lý lịch, tuổi từ mười tám đến ba mươi sáu, đủ tiêu chuẩn sức khoẻ đều phải nhập ngũ.

    Nhiều huyện, thiếu chỉ tiêu, phải gạn lấy xuống mười bẩy, lấy lên tới ba mươi bẩy tuổi cho đủ quân số. Các trường đại học, trung học chuyên nghiệp chỉ để lại nữ sinh và số nam sinh viên lớp cuối khoá, còn sinh viên năm thứ nhất, thứ hai đều điều hết ra mặt trận hoặc chuyển sang các trường Đại học Y, Bách khoa cầu đường, Giao thông vận tải… huấn luyện cấp tốc để chi viện cho chiến trường. Nhà Đĩ Ngao, liền một đợt cả hai anh em Ngạnh Vẩu và Ngộc cùng tòng quân. Ngạnh Vẩu cùng lứa với Cục, cả tuổi mụ là ba mươi nhăm, mọi đợt được miễn, nhưng lần này vẫn vào diện tuyển quân cho đủ chỉ tiêu của huyện, mặc dù ông Lưu Văn Ngao khi đó đang là chủ tịch xã. Riêng thằng Ngộc, em thứ năm của Ngạch, ngày bé trẻ con trong làng vẫn gọi đùa là Ngốc vì cậu chàng chuyên đi mang vác và hầu tụi con gái. Đi học, Ngộc chữa giấy khai sinh, đổi tên là Ngọc, Lưu Bích Ngọc, tên như đàn bà. Ngộc to béo như hộ pháp, nhưng bao nhiêu lần đi khám tuyển bộ đội đều bị loại. Không phải vì Ngộc có chân trong Ban chấp hành Đoàn xã, là trung đội trưởng dân quân, được địa phương giữ lại, mà vì lần nào khám tuyển, huyết áp và mạch đập của Ngộc cũng vọt lên đùng đùng. Có lần huyết áp tới 200/120, nhịp tim tăng hơn 100. Thì ra từ mấy năm nay, Ngộc đã có một bí quyết để đánh lừa các bác sĩ tuyển quân: Trước khi đi khám Ngộc uống một ly rượu pha với mấy giọt nhựa xương rồng, thế là huyết áp, nhịp tim tăng vù vù.

    Thủ đoạn trốn nghĩa vụ quân sự của Ngộc quả là lợi hại. Đám thanh niên trai tráng đi hết, giữa một biển đàn bà con gái ở thôn quê, Ngộc trở thành của hiếm, mì chính cánh. Đi dân công, đi đắp đê, đi tập dân quân, đi lấy phân xanh trong tít vùng núi đá Cầu Dậm, một mình Ngộc chăn dắt hàng chục vợ bộ đội, và một đàn gái tân đang khao khát mùi đời. Giống như Phèng Cửu Tựu, ông Đội cài cách ngày trước, có tối Ngộc ngủ liền với ba cô. Ông Tựu thời cải cách phải dùng quyền lực dùng chuyên chính đế ép buộc, cưỡng đoạt, còn Ngộc bây giờ là của quí hiếm, là cái cọc cỡ bự để các ả trâu tự tìm đến.

    Rõ ngược đời mười mươi mà lại là chuyện trăm phần trăm có thực. Có trường hợp hai cô, cùng đánh ghen vì Ngộc. Hoá không khảo mà xưng. Đó là trường hợp hai chị em cô Lành, cô Nhi con dì con già, cả hai mới cưới được một tuần thì chồng cùng đi chiến trường. Gái vừa chớm hơi trai, xa chồng biền biệt, lại gặp Ngộc tán tỉnh dẻo mỏ, không kìm giữ được, cả hai nàng cùng có chửa. May mà Ngộc có bố là chủ tịch xã, nên vụ việc được ém nhẹm đi ngay. Hai cô Lành, Nhi được gửi ra Hà Nội nạo thai chui. Ông Lưu Văn Ngao thấy mình bị tai tiếng, có thể khoá bầu sắp tới rớt chức chủ tịch, đành bấm bụng đẩy một lúc hai thằng con đi bộ đội.

    Lần khám tuyển ấy các bác sĩ từ Quân lực Trung ương điều về, nên mánh khoé uống nhựa xương rồng của Ngộc bị lật tẩy. Ngộc là trường hợp duy nhất bị khám lại. Kết quả Ngộc khoẻ nhất làng. Ngộc và Cải đều xếp sức khoẻ loại A.

    Ngay tuần sau, làng Động tiễn mười bẩy tân binh lên đường.

    Như đã được trù tính từ trước, hai con trai ông chủ tịch Ngao thuộc diện quân số do tỉnh quản lý. Sau hai ngày tập trung, Ngạnh Vẩu được phiên chế vào đơn vị huyện đội, chuyên đi tuyển quân ở các xã. Ngộc về tiểu đoàn cao xạ tỉnh đội. Ưu ái như thế, ngang loại "gáo" vàng, con ông cháu cha còn gì.

    Bọn Cải, dân ngu cu đen, mười lăm trai tơ làng Động, cùng mấy trăm tân binh các xã, ngay hôm sau, được một đoàn xe tải nguỵ trang như rừng, đưa thẳng ra mặt trận.

    ***

    Làng Động sau đợt tổng động viên cuối năm 1972 ấy, hầu như chỉ còn rặt trẻ con, người già và cánh đàn bà con gái. Đàn ông, một số ít thoát ly làm việc ở các cơ quan nhà nước công trường xí nghiệp, còn lại bao nhiêu vét hết ra chiến trường.

    Mọi công việc nặng nhọc như cày bừa, cấy gặt, đắp đê, đào mương, đi dân công, lợp nhà, tát ao, ma chay, tạp dịch… đều do cánh đàn bà con gái, mà họ tự giễu bằng hai từ "thị mẹt" đảm nhiệm. Hiếm hoi lắm ban quản trị hợp tác xã và một hai đội sản xuất mới có vài anh "cu ngảu", tức những người được gọi là đàn ông. Họ cũng có thêm một cái tên mới là "mì chính cánh", loại bột ngọt gia vị chỉ cần dính mấy hạt vào đầu que tăm là nước canh ngọt lừ, hiếm hoi và đắt giá vô cùng.

    Gọi là "mì chính cánh" cho oai, chứ bọn "cu ngảu" làng Động, thực chất là bọn đàn ông khoèo chân hở rốn, hoặc đã quá tuổi hoặc không đủ tiêu chuẩn ra mặt trận. Đó là anh Thím chột, uỷ viên kiểm sát Hợp tác xã, anh Lì khèo chủ hiệu may đầu làng, ông Tư Lắp, kế toán trưởng, chú Song Lé đội trưởng thuỷ lợi, ông Ngao rỗ, chủ tịch xã… Nổi bật trong số mì chính cánh này có lẽ là anh Tư Cục. Tuy đã tứ tuần, tay trái oặt ẹo như dải khoai nước, tai phải nghễnh ngãng, nhưng Cục lại có cái "phom" cao to, bộ mặt hao hao Tây lai, nhìn kỹ thấy còn bảnh ra phết. Vả lại, Cục đang là đàn ông độc thân.

    Từ ngày Bính bị bom chết, khối đám gọi Cục cho không con gái, nhưng thương vợ, xót con, Cục nhất quyết ở vậy. Sau đợt Công và Cải, hai thằng con lớn đi chiến trường, lý lịch Cục thêm vài điểm đỏ, được tổ chức tín nhiệm cho đi học cảm tình, đối tượng, sắp đặt vào chân Phó chủ nhiệm hợp tác xã phụ trách khu chăn nuôi. Cái tên Phó Cục bắt đầu được người ta gọi, lâu dần thành quen.

    Thật lạ hoá ra sông có khúc, người có lúc. Cái thời cơ hàn của Cục đã qua. Hết xuống chó rồi, giờ là lúc đời Cục lên voi. Lên voi ngay trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, cả làng Động rỗng rễnh như ổ trứng gà bị chuột tha trộm, như vò khoai khô bị rút hết ruột, mới kỳ lạ chứ. Làm cái anh phó chủ nhiệm phụ trách chăn nuôi như Cục, tưởng quyền rơm vạ đá hoá ra lầm to. Lắm quyền nhiều lực ra trò đấy nhé. Xã viên tranh nhau công điểm, một ngày công ba lạng, năm lạng thóc, kệ các thị mẹt. Cục thuộc diện cán bộ, nghiễm nhiên mỗi vụ cũng vài tạ thóc. Có người phơi khô quạt sạch gánh đến tận nhà. Đó là mối lợi nhỏ. Trại lợn vài trăm con, khu ao cá vài mẫu, lò ấp vịt mấy ngàn quả trứng một vụ… mới là lợi lớn.

    Xuất mổ một tấn thịt cho mậu dịch, bét nhất cũng được lại quả cái thủ, bộ lòng, tim gan. Anh chị cán bộ huyện xuống xin phân phối hữu nghị một con lợn về nuôi. Xong ngay. Tớ ký, nhưng cũng phải có đi có lại đấy nhé. Thế là xoàng nhất cũng phải cho cái phiếu mua tút thuốc Sông Cầu, cái phích Rạng Đông, gói chè Thanh Hương, hoặc xuỳ ra mấy mét phiếu vải, bìa tem thực phẩm. Cánh hẩu hơn thì cho cái phiếu mua vài nghìn gạch, tạ xi măng, vài chục cân sắt thép, hay cái đài Orionton, tấm vỏ chăn con công Trung Quốc, cái xe đạp Thống Nhất hay Vĩnh Cửu… Thời buổi mọi thứ khan hiếm như vàng, chỉ cần có một tí quyền, nắm một chút vật tư, lương thực, thực phẩm để trao đồi, phân phát là đời lên hương ngay.

    Nhà Cục từ ngày có tí chức, chẳng lúc nào thiếu nước mắm ngon, mì chính, xà phòng, đường sữa, thuốc lá, chè Thanh Hương. Bà Cử Phúc nhiều lần giấu Cục bảo con Ruộng mang cho bớt ông bà ngoại nó, cho đỡ phải tội. Nghĩ mà thương hại thằng Công, thằng Cải. Mùa đông cuốc bộ đi học từ tờ mờ đất, xa bẩy tám cây số, không có nổi một đôi dép cao su, một cái áo sợi mông. Bụng lúc nào cũng lép tận xương, sôi òng ọc. Bây giờ thằng Cách, con Ruộng sướng hơn nhiều. Lên chức Phó một năm, Cục đã mua được cho hai anh em chiếc xe đạp Thống Nhất để lai nhau đi học. Cũng là bổng lộc cả đấy. Phân phối hữu nghị cho bà Trưởng phòng Thương nghiệp huyện hai con lợn giống, bà ấy cho cái phiếu xe đạp cung cấp. Rõ là, có đi có lại thật toại lòng nhau.

    Đó là mối lợi vật chất. Nhưng cái lợi tình ái mới là mối đại lợi, mới thực sự đưa đời Cục lên voi. Ngẫm ra tay nào đặt cái tên "mì chính cánh" kể cũng thâm thuý thật. Cục là loại "mì chính cánh" nhãn hiệu "hai tô" của làng Động. Đi đến đâu Cục cũng thấy ánh mắt đàn bà nhìn mình thèm thuồng.

    Ngày còn thằng Ngộc ở nhà thì nó làm bá chủ. Lũ đàn bà con gái chạy theo nó như bầy dê cái. Nay thì vẫn thê đội ấy, những Lành, những Nhi, cùng Cúc, Nhài, Lan, Huệ.: tóm lại cả thế giới thị mẹt của làng Động và mấy làng lân cận đều là sở hữu của Cục. Nói ra thì mất lập trường, quan điểm, bôi xấu chế độ. Nhưng sự thật, chiến tranh đã làm cho đàn bà con gái cái làng Động của Cục lâm vào cảnh nguy khốn lắm rồi. Gay nhất là đám vợ liệt sĩ, thứ đến là vợ bộ đội.

    Nghe họ nói, nhất là trên hội trường, trong cuộc họp, tưởng họ sắt đá, chung thuỷ lắm. Nhưng cứ nhìn vào mắt họ xem. Những đôi mắt buồn thăm thẳm, lúc nào cũng bồn chồn khắc khoải không yên, lúc nào cũng như thiếu đói một cái gì. Đi giữa sân kho hợp tác, bất chợt nhìn sang chỗ cân lúa hay chỗ đập lúa, Cục đều bắt gặp những ánh mắt nhìn như thiêu đốt, như mời gọi. Ở trại chăn nuôi, mấy chị băm bèo trộn cám, cho lợn ăn mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào Cục. Có chị cứ lấy cớ xán vào Cục, hoặc đi qua như vô tình chạm người, chạm mông, tưởng điện chập, toé lửa…

    Miếng ăn đến miệng, không chén là ngu. Mấy lần Cục nghĩ thế, khi cô Nhi vào phòng làm việc của Cục, giả vờ xin chữ ký để áp bầu vú như quả bưởi vào vai Cục, phả hơi thở hôi hồi vào gáy Cục.

    Căng thẳng quá. Không chỉ Nhi, mà cả Lành, cả Nhài đều có chung những vở diễn như thế, làm thần kinh Cục lúc nào cũng căng lên, khắp người rộn rạo hưng phấn, tay chân như muốn phát cuồng. Cái gã đàn ông trong Cục bấy lâu nay bị ức chế, bị quản thúc, giờ bỗng bừng sống dậy. Cục thắp hương lầm rầm khấn vái trước bàn thờ Bính, xin Bính kéo anh ra khỏi những cái bẫy tình. Kìa, bát hương hoá. Chân hương cháy đùng đùng. Bính thương Cục đấy. Ở vậy thế là đủ rồi. Chiến tranh với đế quốc Mỹ còn dài, lấy vợ, đẻ thêm mấy thằng con trai nữa để chúng nó đi trả thù cho Bính.

    Hôm sau, Cục quyết hành động. Quả nhiên, Nhi lại vào phòng phó chủ nhiệm ở trại chăn nuôi.

    - Báo cáo anh… Kho lương thực huyện phân cho trại mình hai tấn rưỡi lúa để xay xát. Anh cho ý kiến để phân cho các gia đình.

    Nhi lại áp sát sau lưng Cục. Lần này hình như cô ta chịn cả cái "bàn là" vào lưng Cục. Là Cục đoán thế vì tự dưng anh thấy bỏng dẫy một bên sườn. Cái cô này đến lạ, chồng đi bộ đội mới mấy tháng đã dính vào thằng Ngộc nhằng nhằng. Đến khi có chửa, phải đưa ra Hà Nội nạo thai, rồi Đĩ Ngao bắt Ngộc đi bộ đội, mới dứt ra được. Nhưng nghĩ đi lại phải nghĩ lại, đàn bà đã phải hơi giai rồi, lại hơ hớ, ngồn ngộn thế kia, ai mà nhịn được? Đến như con lợn xề ngoài chuồng kia, đến kỳ động hớn, không có đực là lồng lên, phá phách điên cuồng. Thật tội chạm tay vào, là ả lợn nằm ngoan ngoãn, chân sau dạng ra, chổng mông chờ đợi. Có lẽ Nhi đã bị những con lợn xề động hớn tra tấn còn hơn mọi cực hình. Có lần, Cục bắt gặp Nhi đứng thẫn thờ, mặt đỏ bừng bừng nhìn con lợn đực nhảy lên lưng con lợn nái…

    - Kìa anh, ký duyệt cho em đi… - Nhi cúi xuống, những sợi tóc mai xoà vào má Cục, buồn buồn.

    Cục đánh bạo, ưỡn người lên, rồi luồn cánh tay lành ra sau lưng, bàn tay để ngửa, sau đó lại từ từ cúi xuống. Trời ơi, cả bàn tay Cục ấm nóng, rồi bỏng dẫy. Cục không dám động đậy.

    Nước ùa ra bàn tay anh ướt đầm…

    Kẻ ngồi người đứng úp thìa như thế một lúc lâu. Nếu không bị Nhài đến phá đám thì chắc chắn câu chuyện sẽ gay cấn biết chừng nào.

    Nhưng, tín hiệu đã phát và thu rồi, đời nào Nhi chịu dừng ở đó. Là người đàn bà ít nhiều đã có kinh nghiệm, lại đang cơn say tình, tối hôm sau, Nhi đã thu xếp cho hai người một chốn thần tiên, ấy là khu đống rơm ở vườn chuối cuối làng.

    Sau cuộc mưa gió với Nhi, Cục trưởng thành nhanh chóng trong tình trường, thành gã thập thành có hạng. Lần lượt các cô các chị Lành, Cúc, Nhài, Lan, Huệ… tự tìm đến Cục. Hình như họ kháo nhau, rỉ tai nhau rồi tạo điều kiện cho nhau được thưởng thức Cục. Khác xa với Phèng Cửu Tựu ngày cải cách phải dùng uy quyền, thủ đoạn mới cưỡng nồi người đàn bà cởi quần ra, Cục bây giờ được các thị mẹt tự dâng hiến. Cục là mì chính cánh giúp cho bát canh suông cuộc đời các thị mẹt làng Động thêm chút ngọt ngào.

    Đi đêm mãi cũng có ngày gặp ma. Không hiểu do các cô các bà ghen nhau vì "ăn chia" không đều hay vì có kẻ ghen ghét, mà một tối Nhài, Lành và chủ tịch Ngao rình bắt quả tang Cục và Nhi đang quần nhau ở nhà kho trại lởn. Đời Cục thế là toi rồi! Hết thời kỳ lên voi rồi. Hủ hoá với vợ bộ đội, khác gì tên Việt gian phản động cài ở hậu phương để phá tan tành sự nghiệp cách mạng? Người ta xung phong ra mặt trận, sống chết từng giờ, chỉ mong gửi lại vợ dại con thơ ở nhà cho các anh trông giữ, thế mà anh lại rủ rê, quyến rũ, rồi đè ngửa vợ người ta ra… Thứ hỏi còn anh lính nào yên tâm mà đánh giặc? Anh chọc bừa, nhiều thằng chó dái hậu phương khác cũng bắt chước anh chọc bừa thì vỡ trận to. Lính ngoài mặt trận đào ngũ hết. Thế cho nên Cục chết là đáng đời. Cục ơi, tham thì thâm!

    Nhưng rồi bỗng như có phép lạ, Cục được tha bổng. Trời đất quỉ thần ơi, nhà Cục đại hồng phúc. Bính linh thiêng cứu bố con Cục đận này rồi.

    Trời, Phật làm sao cứu nổi Cục?

    Cứu Cục chính là Chi bộ.

    Rất may là Cục vừa được Chi bộ kết nạp. Nếu không phải là người của tổ chức thì đời Cục đã ra bã. Chi bộ phải họp lên họp xuống hàng chục phiên. Phân tích, tranh luận đến nát nước nát cái. Đây không phải chỉ là chuyện riêng của đồng chí Quặc mà là chuyện hệ trọng của tổ chức, của cả hệ thống tổ chức. Con sâu làm rầu nồi canh. Bậy! Nồi canh của tổ chức, đời nào có sâu? Không làm êm thấm, kẻ địch nhân cơ hội này phá hoại tổ chức từ bên trong phá ra. Ông bí thư tuyên bố hùng hồn thế. Việc đầu tiên là cấm không được tiết lộ vụ hủ hoá này cho quần chúng biết. Ém nhẹm và bí mật tuyệt đối không để tin tức lọt lên cấp trên. Cấp trên biết chuyện này thì bao nhiêu công lao phấn đấu, bao nhiêu thành tích của cả một tập thể sẽ thành công cốc. Chi bộ không trong sạch, không đạt tiêu chuẩn bốn tốt thì còn mặt mũi nào để nói với quần chúng? Còn vai trò gì là đầu tầu, lãnh đạo? Thôi thì đóng cửa bảo nhau, xử lý nội bộ. Đồng chí Quặc vợ chết vì bom Mỹ, là đàn ông độc thân, gà trống nuôi con đã mấy năm trời. Dẫu là gỗ đá cũng phải mối mọt, huống chi người… Còn cô Nhi vợ bộ đội nhưng đã ba năm bặt tin chồng, ngày xưa ba năm là xứng đáng được nhận bằng tiết hạnh khả phong, giờ thời đại mới, thiếu nữ có kinh từ mười một tuổi. Nhi cưới được bẩy ngày thì chồng đi miết vào chiến trường. Ba năm chịu đựng, đóng cửa chờ chồng đã là ghê lắm rồi, chi bộ thử thách chán mới cho đi học lớp đối tượng. Đàn bà ấy mà, đái không vượt nổi ngọn cỏ, khôn ba năm dại một giờ…

    Chi bộ đang họp xử lý kín, thì có giấy báo tử chồng Nhi từ huyện đội chuyển về. Chủ tịch Ngao kêu lên giữa cuộc họp, không hiểu vì sung sướng thay cho Cục hay đã tìm được lối thoát cho tổ chức: "Tôi biết tin anh Bức chồng cô Nhi hy sinh tại trận địa pháo cầu Hàm Rồng từ năm ngoái rồi, nhưng vì muốn giữ yên ổn hậu phương nên không thông báo với gia đình Nay thì cô Nhi đã trở thành người tự do… Chi bộ mình chăng phải kiểm điểm ai hết. Chúng ta nên tác thành cho đồng chí Quặc và đồng chí Nhi làm vợ chồng…"

    Đám cưới đồng chí Quặc và Nhi được chi bộ đứng ra tổ chức sau lễ báo tử Bức một tháng. Cục lấy được vợ trẻ hơn mình mười sáu tuổi, hừng hực sức thanh xuân, nên chỉ trong vòng ba năm đã đẻ liền ba đứa con, hai gái, một trai.

    ***

    Càng gần ngày chiến thắng, các chàng trai làng Động càng nằm lại chiến trường nhiều hơn.

    Cải vào mặt trận sau Công đúng một năm. Vừa hành quân vừa tranh thủ luyện tập, đến hết mùa mưa, đơn vị Cải vòng qua đất bạn Lào, vào sâu chiến trường Tây Nguyên. Tháng chín năm 1974, trong trận thử lửa ở Đắc Tô, Tân Cảnh, trận đánh thăm dò, trước khi quân ta điểm huyệt toàn bộ hệ thống quân sự Mỹ Nguỵ ở Buôn Ma Thuột, Cải đã vĩnh viễn nằm lại ở một con suối không tên.

    Hai mươi bốn liệt sĩ của làng Động lần lượt được báo tử.

    Hôm nhận giấy báo tử Nguyễn Kỳ Cải, bà Phúc nhìn thấy bức ảnh thằng cháu nội trong khung tang, liền bị ngất. Còn cô Hậu lại ôm ghì lấy tấm ảnh, vừa nhăn nhở cười, vừa trò chuyện với đứa cháu như Cải đang còn sống. Riêng Cục, lầm lì suốt một ngày không nói. Anh bảo Nhi bắt con gà trống thiến làm một mâm cơm cúng, bảo cái Ruộng mời ông bà Bùng đến dự lễ tưởng niệm. Chập tối, Cục lặng lẽ ra mả Bính, thắp hương, lầm rầm khấn vái một hồi lâu, rồi vật vờ như con ma đói về nhà.

    Hy sinh giữa tuổi mười tám, bài vị chàng trai Nguyễn Kỳ Cải ngời ngợi như một tài tử điện ảnh trên ban thờ, cạnh dưới bài vị chị Bính. Còn một chỗ trống nữa, phía bên kia, lần nào thắp hương, anh Cục cũng thầm mong đó không phải là chỗ dành cho Công.

    Làng Động chỉ còn một trường hợp duy nhất là Nguyễn Kỳ Công vẫn bặt vô âm tín.

    Bỗng một ngày chị Là từ Hà Nội về, mang theo những tin tức làm cả làng Động sôi lên sùng sục.

    Tin thứ nhất: ông Nguyễn Kỳ Vọng, con thứ ba của ông bà Lý Phúc di cư vào Nam năm 1954, vẫn còn sống và sắp trở về.

    Tin thứ hai: ông bác Nguyễn Kỳ Vọng đã gặp thằng cháu Nguyễn Kỳ Công tại chiến trường miền Đông, Nam Bộ.

    Cả hai tin này đều chắc như đinh đóng cột, vì chị Là chỉ là cái loa phát ngôn của chồng. Ông Chiến Thắng Lợi là cán bộ Trung ương cao cấp, vào ra Sài Gòn như đi chợ, đã phát thì ngôn nào dám sai?

    Mẹ con bà Cử Phúc như người chết rồi bằng được sống lại. Bà Cử Phúc, gặp ai cũng khoe lá thư của anh Ba Vọng do ông cả Khôi mang từ Sài Gòn ra, đã được truyền tay đến nhàu nát. Không biết chữ, nhưng bà đã thuộc đến từng dấu phẩy

    "Con là Nguyễn Kỳ Vọng, cúi đầu kính lạy u vì tội bất hiếu.

    Vì hoàn cảnh chiến tranh, con xa gia đình đã hơn hai mươi năm. Lúc nào hình ánh thầy u, hình bóng quê hương cũng luôn ghi nhớ trong tâm khảm. Biết bao vật đổi sao dời, không làm sao kể hết trong mấy dòng thư này. Con vẫn luôn nói với vợ con và hai cháu Kỳ Vân, Kỳ Vy rằng, nhất định sẽ có một ngày chúng ta về thăm quê cha đất tổ. Quả là hồng phúc nhà ta còn rất lớn. Gặp anh Khôi con ở Sài Gòn mà con tưởng như trong mơ… Vậy là bốn anh em con vẫn còn cơ hội gặp thau giữa làng Động quê hương. Ngày ấy không còn xa nữa. Nhất định con sẽ về thăm u và gia đình… Nhân đây con cũng báo tin cho chú Quặc biết. Nếu chú có con trai lớn tòng quân thì đúng là hai bác cháu đã gặp nhau ở An Lộc rồi".

    Chỉ vỏn vẹn ba dòng thư ngắn ngủi cũng đủ làm anh Cục sướng muốn phát điên. Anh uống hết một chai ba rượu trên quán cháo lòng bà reo chợ Mới, mồm nói huyên thuyên rằng tuần trước chị Bính vợ anh báo mộng thằng Công dắt theo về một cô vợ người Sài Gòn, giọng líu lo, nói mà anh chẳng hiểu mô tê gì. Có thế chứ! Trong hai thằng con trai anh, nhất định sẽ phải có một thằng đi tới đích, là người chiến thắng trở về chứ? Khối trường hợp báo chí đăng hẳn hoi. Cô vợ nhận giấy báo tử chồng, bố mẹ chồng thương con dâu lỡ dở bèn cưới cho ruột thương binh goá vợ, đến khi đám cưới vừa diễn ra thì anh chồng lù lù xuất hiện. Lại có trường hợp một anh bộ đội về nhà, thấy ảnh mình trên bàn thờ, đang ngơ ngác đứng nhìn không hiểu thực hư ra sao, thì bố mẹ ngoài đồng về, tưởng con là ma, liền qui xuống vái lia lịa mong hồn ma sống khôn chết thiêng phù hộ cho cả nhà…

    Không thể ngồi yên ở nhà vì mấy dòng thư như đánh đố, anh Tư Cục bảo Nhi bắt con gà sống thiến cho vào rọ, đong vào tay nải mấy cân nếp cái hoa vàng, đích thân khăn gói ra Hà Nội, tìm gặp bác cả Khôi để hỏi về trường hợp bác Vọng đã gặp cháu Công như thế nào?

    ***

    Bác cả Khôi, anh Cục vẫn thường gọi đồng chí Chiến Thắng Lợi như thế, là người duy nhất của làng Động có mặt tại dinh Độc Lập, trung tâm đầu não của chính quyền Sài Gòn, đúng ngày chiến thắng 30 tháng tư năm 1975.

    Đoàn công tác đặc biệt của Ban X, do đồng chí Tư Vuông dẫn đầu, cùng đi có Chiến Thắng Lợi và Văn Quyền khởi hành từ Hà Nội vào đúng ngày giải phóng Huế, 26 tháng ba.

    Chiếc xe Uoat mới cứng, phủ kín lá nguy trang, đi suốt đêm ngày theo mệnh lệnh "thần tốc, thần tốc hơn nữa", đuổi kịp đại quân ở Đà Nẵng. Từ đây, đoàn nhập vào Bộ chỉ huy tiền phương của cánh quân phía bắc, tiến thẳng vào dinh Độc Lập.

    Sau hai mươi mốt năm, kể từ ngày 10 tháng mười năm 1954, ngày những anh bộ đội Cụ Hồ tiến vào giải phóng Thủ đô giờ đây Chiến Thắng Lợi lại có vinh hạnh được cùng đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Cũng bộ quân phục màu cỏ úa, mũ tai bèo, lẫn trong hàng vạn sĩ quan chiến sĩ quân giải phóng, nhưng vị thế của Chiến Thắng Lợi giờ đã khác. Ông theo đại quân vào thành phố lần này là để tiếp quản toàn bộ hệ thống của chính quyền cũ; tiếp đó là tẩy rửa, thanh trừng toàn bộ hệ thống tư tưởng phản động, chống đối; thiết lập bộ máy của chính thể mới. Đời người mấy ai có được niềm vinh quang cao vời, niềm hạnh phúc tột đỉnh ấy.

    Ngay ngày đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn, Ban X đã lập một chiến tích vang dội, có sức lan truyền khắp cả nước và thế giới ấy là bài phóng sự "Đại quân ta tiến vào Sài Gòn", ký tên tác giả Văn Quyền, thành viên của Ban X, đăng trên hầu hết các tờ báo lớn ra hàng ngày và phát liên tục trên Đài phát thanh. Bài phóng sự đăng kín hai trang báo khổ lớn mô tả các cánh quân tiến thần tốc với khí thế chẻ tre từ các ngả Đồng Dù, Bến Cát, Dầu Giây, Long Thành, Bến Lức…, vào chiếm các trung tâm đầu não cuối cùng của quân nguỵ Sài gòn, và mũi thọc sâu quyết định là Lữ đoàn tăng thiết giáp đánh chiếm dinh Độc Lập, bắt tướng Dương Văn Minh phải lên Đài phát thanh tuyên bố nguỵ quân nguỵ quyền bô súng, đầu hàng vô điều kiện, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Kèm theo bài phóng sự hừng hực lửa ấy là bức ảnh hai chiến xe tăng 843 và 390 của Lữ đoàn 208 anh hùng tiến thẳng vào cửa dinh Độc Lập.

    - Các cậu giôi lắm. Vừa vào hang cọp, còn lạ nước lạ cái chưa biết đường đi nước bước ra sao mà đã có ngay một bài phóng sự bốc lửa, chẳng khác gì bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ngay sau chiến thắng quân Minh…

    Đó là lời khen của đồng chí Tư Vuông dành cho Chiến Thắng Lợi và Văn Quyền.

    Chiến Thắng Lợi thật thà:

    - Dạ, báo cáo anh, công này thuộc về cậu Văn Quyền. Suốt đêm cậu ấy thắp đèn hì hục viết. Cậu ấy có nhờ tôi đọc duyệt. Tôi sửa cái tít, thêm chữ TA, để khẳng định đây là đại quân Cách mạng.

    - Giỏi lắm. Riêng cái tít đã chứng tỏ một tầm nhìn vĩ mô, chiến lược. Mà cậu Văn Quyền bỗng nhiên viết lên tay mới lạ. Vừa có thực tế sống động, vừa có văn chương bay bổng. Tớ sẽ đề nghị với Trung ương thưởng huân chương chiến công cho các cậu đợt này.

    Xưng hô cậu tớ thân mật như anh em một nhà, đủ biết đồng chí Tư Vuông vui đến mức nào…

    - Anh Tư đặc biệt đánh giá cao bài viết của chú - Chiến Thắng Lợi nói với Quyền - Chính tôi cũng rất khâm phục khả năng nắm bắt thực tế của chú. Không hiểu chú lấy tư liệu ở đâu, lúc nào mà tài thế?

    Cái nhìn dò xét, xăm xoi của Lợi, khiến Văn Quyền phát hoảng. Giả vờ hỏi vậy thôi, chứ ông ấy đã biết tỏng, đã đi guốc trong bụng mình - Quyền nghĩ thầm vậy và đành phải thú nhận:

    - Với anh thì em không dám giấu giếm điều gì. Anh có nhớ hôm anh em mình gặp Châu Hà ở phòng Tổng thống Dương Văn Minh không? Chính cậu ấy đã cung cấp cho em tư liệu viết bài phóng sự.

    Chiến Thắng Lợi à một tiếng, như đã hiếu ra.

    Châu Hà chính là bút danh của nhà văn Đà Giang từ ngày đi chiến trường. Về nguyên tắc tổ chức, các nhà văn đi B, đều không được ký bút danh cũ trên các tác phẩm viết tại mặt trận. Đà Giang, sau chuyến vượt Trường Sơn năm 1967, phải bỏ lại cái tên cũ ở miền Bắc, lấy dòng sông Châu Giang quê hương làm bút danh nhà văn giải phóng Châu Hà. Vậy là từ cái tên cúng cơm Mai Văn Nhạ, đến Đà Giang, rồi Châu Hà bây giờ là cả một chặng đường trưởng thành của một đời văn. Cũng tương tự, Du San lấy bút danh Xuyên Sơn, Hàn Thâm Nho ký tên mới Trần Nhân Ảnh. Từ ngày ký tên mới, Châu Hà trở thành nhà văn giải phóng nổi tiếng với hàng loạt các tác phẩm gây tiếng vang trên văn đàn: Các tiểu thuyết "Trường Sơn hùng vĩ" "Đỉnh dốc, "Vượt ngầm", các tập truyện ngắn và ký sự "Em gái Vân Kiều", "Trăng sáng Cửa Việt", "Mũ tai bèo"… Đặc biệt, tập tuỳ bút "Đường lớn ta đi" ngay sau khi xuất bản đã có sức hiệu triệu hàng vạn thanh niên lên đường ra mặt trận, đã được báo chí hết lời ca ngợi là tác phẩm đúng tầm thời đại, bản hùng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được chọn in vào phụ lục sách giáo khoa bậc trung học. Châu Hà được trao giải thưởng Văn học Trường Sơn và trở thành nhà văn giải phóng hàng đầu được nhận Giải thưởng Văn học Á - Phi - Mỹ La tinh. Gần mười năm ở chiến trường, Châu Hà không những là nhà văn với sức đi sức viết kỷ lục mà còn là một nhà báo sắc sảo, luôn có mặt tại những nơi nóng bỏng, ác liệt nhất, luôn có những phóng sự hừng hực khói lửa chiến trường.

    - Mình không ngờ trong cuộc chiến tranh này Châu Hà đã trưởng thành vượt bậc - ông Lợi nói với Quyền - Trong số ba tay nhà văn tình nguyện đi B đợt ấy, Đà Giang thực sự là niềm tự hào của giới văn nghệ… đau nhất là mình đã đồng ý để Du San đi chiến trường…

    - Em chẳng ngạc nhiên khi Xuyên Sơn trở thành kẻ chiêu hồi. Trong bài viết "Từ Du San đến Xuyên Sơn, hành trình của một tên phản bội", em đã lật tẩy bộ mặt tay sai bồi bút của nó. Viết đơn tình nguyện đi chiến trường cũng chỉ là sự a dua theo Đà Giang và Hàn Thâm Nho, chứ bản chất hắn là kẻ dễ dao động, không chịu được gian khổ, ác liệt, thì em biết. Thằng nhà văn khi đã quay bút phản bội Tổ quốc thì giọng lưỡi của nó còn hơn cả rắn độc. Nghe đài Sài Gòn đọc bút ký "Xương trắng Đất Việt" của nó em chỉ muốn đập vỡ cái đài, chỉ ước bắt được nó để băm vằm thành từng mảnh. Tiếc rằng nó đã leo lên máy bay trực thăng chạy theo quan thầy Mỹ. Trước khi tháo chạy ba ngày nó còn kịp phun trên đài Nguỵ bài tuỳ bút "Tử thủ cùng Sài Gòn", anh bảo có điên không?

    - Nhưng bù lại chúng ta đã có Châu Hà, Trần Nhân Ảnh và bao nhà văn anh dũng khác… - Chiến Thắng Lợi đột ngột trở lại chuyện cũ - Này, chú không nghĩ rằng Châu Hà sẽ kiện chú đấy chứ?

    - Kiện thế nào được em? - Văn Quyền nói cứng, nhưng sắc mặt chợt tái dại, không qua nổi được mắt Lợi - Em chỉ tham khảo tư liệu của cậu ấy thôi…

    - Tôi nhắc để tránh cho chú những phiền toái sau này. Đạo văn là điều tối kỵ của người cầm bút - Chiến Thắng Lợi xua tay - Thôi, qua chuyện khác nhé. Hình như tôi có đọc loạt bài Châu Hà viết về cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân ở Sài Gòn.

    - Dạ, đúng. Phóng sự "Dáng đứng Thành đồng" in trên Văn Nghệ Giải phóng. Năm 1968 Châu Hà từng sống ở địa đao Củ Chi, rồi tham gia tồng tiến công Tết Mậu Thân. Chẳng ngõ ngách nào ở Sài Gòn cậu ấy không biết.

    - Chú tìm Châu Hà, bảo đến gặp tôi nhé.

    Văn Quyền phát hoảng, trán toá mồ hôi hột. Anh thoáng nghĩ đến một cuộc đối chất mà vị quan toà không ai khác là Chiến Thắng Lợi.

    Như để trấn an Quyền, Lợi đặt cả hai bàn tay lên vai thuộc cấp, vỗ nhẹ:

    - Tôi muốn nhờ Châu Hà một việc. Hoàn toàn là chuyện riêng tư. Phải nhờ tay nhà văn xông xáo này may ra mới tìm thấy tung tích của cậu em cùng cha khác mẹ với mình.

    - Nguyễn Kỳ Vọng hả anh?

    - Vì nó mà cái lý lịch của tôi luôn bị tổ chức đặt một dấu hỏi - Tiếng thở dài của Lợi khiến Quyền như thấy lây sang mình.

    - Bây giờ là lúc mình phải đối mặt với sự thật. Dù sao nó cũng cùng giọt máu với mình. Người cách mạng không phải là kẻ không có trái tim. Nếu nó là nguỵ quân nguỵ quyền, là ác ôn nợ máu thì tôi cũng phải nhận trách nhiệm với tổ chức…

    - Dạ, anh để em lo việc này. Em sẽ đi gặp Châu Hà ngay.

    Quả nhiên, người tìm ra Nguyễn Kỳ Vọng không ai khác là nhà văn Châu Hà. Bằng hệ thống cộng tác viên đặc biệt và tài nghệ của một người săn tin, chỉ trong ba ngày, Châu Hà đã tìm thấy tên Nguyễn Kỳ Vọng trong danh sách của Tồng Cục Kiều Lộ, thuộc Bộ giao thông Công chánh chính quyền Sài Gòn.

    Dẫu đổi họ thay tên và súng sính trong bộ quân phục giải phóng rộng thùng thình thì Châu Hà vẫn là anh chàng nhà văn Đà Giang đen gầy, xương xẩu ngày nào. Chỉ có điều, thay vì chiếc điếu cày lúc nào cũng cặp kè bên mình, giờ thì trên môi Châu Hà thường trực điếu thuốc lá Basto. Hàm răng được hun khói thường xuyên xỉn màu cánh dán khiến nụ cười của anh không giấu được vẻ quê mùa gốc gác.

    Cùng bước vào phòng Chiến Thắng Lợi với Châu Hà là một người tầm thước, mặc bộ complê sáng, đội mũ phớt, dáng vẻ khúm núm sợ sệt.

    Chiến Thắng Lợi sững người. Ông nhìn người mới đến chằm chằm, rồi quên cả mình đang ở một cương vị phải giữ gìn, ông tiến lên mấy bước, xoà tay ra:

    - Chú Ba Vọng phải không. Đúng là em Nguyễn Kỳ Vọng rồi.

    - Anh Khôi! Em đây.

    Hai anh em ôm chầm lấy nhau. Chiến Thắng Lợi cố nuốt nước mắt vào trong, còn Vọng thì bật khóc ồ ồ.

    - Bà và cả nhà vẫn mong chú từng ngày. Biết chú không di tản, lại chỉ là một công chức kỹ thuật, không nợ máu, anh rất mừng.

    Đó là câu chuyện mở đầu của hai anh em suốt hơn hai mươi năm xa cách.

    ***

    Chuyến trở về làng Động của Nguyễn Kỳ Vọng như một giấc mơ.

    Trong số những người đầu tiên được lên con tàu Thống Nhất đầu tiên làm cuộc hành trình xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội, Vọng có niềm hạnh phúc của người phía bên kia nhưng lại được chính thể mới tin cậy, tin dùng. Cùng trên chuyến tàu với Vọng là một số ít người Bắc di cư, có nhân thân tốt, được ưu ái đặc biệt về gặp mặt gia đình. Còn lại, toàn một màu áo lính. Có nhiều toa chở đầy thương binh. Những người lính dạn dầy trận mạc, từng cận kề cái chết. Nhiều người là thương bệnh binh hôm qua còn trong bệnh viện. Nhiều người có thâm niên hàng chục năm khắp các chiến trường B, C, K. Họ được phiên chế theo từng đơn vị toa tàu có sĩ quan chỉ huy, có bộ phận bảo đảm hậu cần. Hành trang của những người lính chiến thắng hầu như giống nhau: kèm theo ba lô, võng dù, đàn ghita là khung xe đạp gia công, xăm lốp xe, búp bê, quần áo, đường sữa… Nhiều anh bê theo cả những chiếc ti vi đen trắng to đùng, hoặc treo toòng teng bên cửa sổ những buồng cau, những xe nôi trẻ con, đồ gia dụng bằng nhựa… Nhiều anh không quên mang vác đưa lên toa những bao tải gạo, những can nhựa nước mắm, những giỏ trái cây đủ loại măng cụt, sầu riêng, mãng cầu, dừa, xoài, chồm chôm, bưởi, mít tố nữ… cao ngất ngưởng. Đoàn tàu chiến thắng nồng nặc mùi mồ hôi người lâu ngày không tắm giặt chen chúc kẻ nằm người ngồi, chất ngất đồ đạc, hành lý, nhiều lúc ì ạch chạy với tốc độ bằng người đi xe đạp, đêm xuống nhà tàu phải thắp những ngọn đèn dầu vàng nhợt nhạt ở các lối đi. Vui nhất, ầm ĩ nhất là lúc hai đoàn tàu ngược chiều Nam Bắc gặp nhau ở ga cau Phú Yên, ga xoài Bình Định ga gà Quảng Ngãi và ga trứng vịt Quảng Bình. Tàu Bắc vào có vẻ hỗn tạp, chen chúc người, nhưng cũng nghèo nàn hơn. Toàn cán bộ vào tiếp quản, đi công tác, các gia đình tập kết dắt drư nhau về quê, thân nhân đi tìm người nhà và cánh lâi buôn đường dài. Hàng vào chủ yếu là chè Phú Thọ, Thái Nguyên, thuốc lá sợi Lạng Sơn, thuốc lào Vĩnh Bảo… Người ta réo tên ời ời xem có ai là người thân, người đồng hương. Không ít cảnh vợ chồng, cha con, anh em gặp nhau tình cờ, câm động đến rơi nước mắt.

    Dằng dặc suốt chiều dài đất nước đâu đâu cũng cảnh đổ nát hoang tàn. Những rừng dừa cụt ngọn cháy đen, tua tủa như những rừng cọc Bạch Đằng. Những cánh đồng bị đạn pháo cày, bỏ hoang lâu ngày, cỏ mọc ngút đầu. Những nền nhà nham nhở. Những túp lều dựng vội bằng đủ thứ phế liệu. Hàng trăm chiếc cầu đổ sập ngang sông. Xác xe tăng, xe tải cháy ngổn ngang dọc đường. Những thị trấn hầu như chỉ còn là những đống gạch vụn…

    Thế là tròn 22 năm kể từ ngày Vọng đáp chiếc máy bay Dakota từ phi trường Gia Lâm vào Sài Gòn. Ra đi như một cuộc chạy trốn quê hương bằng đường trên trời. Trở về trên chuyến tàu xuyên Việt nối liền hai miền chia cách. Ngày đi Vọng vẫn còn là một cậu tú tài mười bầy tuổi, ngày về đã là một người đàn ông tứ thập, với biết bao chìm nổi, phong trần.

    Gặp bà Cử Phúc, Vọng ôm chầm lấy mẹ, khóc rống lên. Nhìn thấy ảnh ông Cử Phúc trên ban thờ, Vọng lại khóc nức nở một lần nữa. Chao ôi, toàn những gương mặt thân yêu mà cho tới lúc gặp, anh vẩn không thể nhận ra. Mẹ anh gầy yếu hom hem và già sọm hơn tuổi thực của bà đến chục tuổi. Cục cao lênh khênh, đen cháy như thanh gỗ hong gác bếp, còn Hậu, cô em ruột, mà anh lại cứ tưởng là bà vú già của gia đình.

    Ký ức về Nguyễn Kỳ Viên một thời, khiến Vọng cứ ngơ ngẩn như người lạc vào một xóm ngõ nào đó chứ không phải ngôi nhà xưa, nơi anh đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ. Khu nhà của thầy u nay đã bị chia năm xẻ bẩy, chen chúc các hộ gia đình. Cái làng Động của anh đông đúc, chật chội hơn, nhưng xác xơ, tiêu điều. Nền đình Đụn giờ thành nhà kho, sân phơi hợp tác, ngổn ngang những đầu máy cày, máy tuốt lúa han rỉ. Đầu làng, cuối làng chỗ nào cũng chuồng trâu tập thể, trại chăn nuôi lợn, phân rác ngập đầy.

    Suốt một đêm trắng, Vọng thức kể cho bà Cử Phúc và Cục nghe về quãng đời hơn hai mươi năm chìm nổi, phiêu bạt. Dường như lần đầu tiên kể từ ngày xa quê, anh mới có dịp sắp xếp lại những trang ký ức.

    Mệt quá, Vọng ngủ thiếp đi trên tấm phản mà Cục đã thay cho chiếc sập cổ bị trưng thu hồi cải cách. Trong cơn mơ, Vọng thấy mình bé loắt choắt với cái tên Vện cúng cơm bà nội và u thường gọi. Cục và Vện dẫn bé Hậu ra bờ ao câu nhái cho vịt. Hậu rén đi sau hai anh, tay xách chiếc giỏ bằng tre đan, đựng nhái, bé như một quả phật thủ. Những con châu chấu nhỏ được mắc vào lưỡi câu, dùng dây gai nối vào đoạn cần tre. Chỉ cần nhử nhử bên vệ cỏ là con nhái háu ăn nhảy lên đớp. Đang ham câu, Vện bỗng nghe tiếng ùm, quay lại, thấy bé Hậu đang chới với dưới nước. Vện sợ quá, kêu oai oái chạy đi gọi u, gọi bà. Còn Cục, chẳng nói năng gì nhảy ùm xuống ao, vừa bơi vừa quờ tay túm tóc bé Hậu…

    Cơn mơ về tuổi thơ làm Vọng bừng tỉnh. Anh thấy như nước từ tóc Hậu còn vương trên má mình. Anh thấy lờ mờ một gương mặt đang cúi sát xuống anh. Một bàn tay nhỏ bé đang xoá ngấn nước trên má anh. Thì ra đó là cô em gái Hậu tội nghiệp. Lúc anh kể chuyện, Hậu chỉ ngồi ở góc khuất phía xa nhìn. Lúc Vọng ngủ, cô mới dám lại gần, ngắm nhìn anh với vẻ mặt ngây ngô nhưng vô vàn âu yếm. Cô không hiểu sao mà anh Vọng của cô, lại khóc?

    Hậu ơi, thế giới tuổi thơ của chúng mình đã chết rồi. Vọng thầm nói với em gái và chụp bàn tay lên mái tóc em.

    Comment


    • #17
      Chương 16

      Đứa con lưu lạc



      (Trích hồi ký "Kẻ tha hương")

      Từ đất Bắc, chúng tôi đáp máy bay xuống phi trường Tân Sơn Nhất buổi trưa ngày… tháng… năm 1954. Sau khi chia tay hai anh em Tạ Đôn và Tạ Thu Uyên, chúng tôi được xe nhà binh chờ tới lăng Đức ông gần chợ Bà Chiểu.

      Trước khi vào Nam, người đội mũ phớt, đeo kính đen luôn rót vào tai tôi rằng, đồng bào di cư sẽ được cấp một căn hộ và đầy đủ tiện nghi sinh hoạt. Hoá ra đó là những lời lừa phỉnh.

      Lăng Đức ông, nơi đón tiếp đồng bào Bắc di cư, như một cái bị quá chật phải chứa một lúc hàng nghìn con người. Các gia đình chen chúc trải chiếu, hay bất kỳ thứ gì để ngủ cả ở khu lăng mô, quanh hành lang đền thờ và cứa nhà cầu trong cái nóng bức và ngột ngạt hơi và đủ thứ xú uế người.

      Tôi rụt rè hỏi người phụ trách trại, một ông béo lùn, nói giọng Bắc lơ lớ.

      - Bác ơi, tối nay cháu ngủ đâu?

      - Cậu ngủ đâu tôi không cần biết - ông béo lùn xì mũi - Tôi chỉ biết mỗi ngày tôi cấp cho cậu mười đồng.

      Tôi đã sống hai tháng trời với mỗi ngày mười đồng bạc ấy. Có nghĩa là mỗi ngày tôi chỉ được ăn hai tô hú tiếu, mỗi tô năm đồng. Sức trai đang lớn, cái dạ dày tôi làm sao chịu nổi. Được bà con mách, tôi rủ một đứa bạn chuyển tới một trạm tạm cư khác ở đường Hàng Xanh. Nhà thờ Thánh Mẫu nơi đây cũng chật ních người Bắc di cư. Lang thang trong thành phố cả tuần, tôi lạc tới nhà thờ Phú Hạnh. Nước rãi tôi chợt ứa ra khi thấy nhà bếp của cha đổ đi những thức ăn thừa. Bà nấu bếp như đi guốc vào bụng tôi. Bà dồn đồ ăn vào một tô bự và báo: "Cháu là học sinh di cư phải không? Cháu ăn đi, đừng ngại".

      Bát cơm phiếu mẫu ấy, suốt đời tôi không quên. Từ hôm ấy, tôi khám phá ra một chỗ ngủ lý tưởng ở mái hiên trường xứ nhà thờ. Ban ngày tôi đi nghe ngóng về tin tức học hành, đến khuya tôi mới dam mò về mái hiên ngủ vì sợ nhà xứ đuổi.

      Anh em Tạ Đôn đến tìm tôi. Thật tình tôi không muốn gặp Thu Uyên trong tình cảnh bờ bụi này một chút nào. Nàng có vẻ hợp với không khí Sài Gòn, lộng lẫy như một cô đầm lai.

      Thấy tôi quá khốn khổ, Đôn giới thiệu tôi xuống ở cùng mẹ con Nhu, bạn cùng học, dưới xóm Cù Lao. Căn nhà sàn trong khu lao động. Muốn tới nhà phải qua một cây cầu khỉ ngoằn ngoèo, nước đen ngòm như mực tàu, suốt ngày bốc mùi hôi thối. Mẹ con Nhu dành cho tôi gian gác xép, đứng dậy là cụng đầu mái tôn. Lúc nào cũng có cảm giác tóc mình khét cháy vì chạm vào mái nhà. Mùa thu Sài Gòn dịu mát hơn tôi tưởng rất nhiều. Tôi dần làm quen với những phố sá sầm uất khi tạm biệt căn nhà ổ chuột của mẹ con Nhu lên ở tại Nhà hát Tây đầu đường Bôna. Thông tin này tôi đọc được trên báo chí và biết Chính phủ đã bắt đầu quan tâm tới học sinh di cư mất liên lạc gia đình.

      Chiều chiều tôi thả bộ dọc đường Catina, từ nhà thờ Đức Bà đến bờ sông Sài Gòn, say sưa ngắm nhìn những cao ốc nhiều tầng, những cứa hàng, khách sạn sang trọng, những dòng xe hơi bóng lộn, những bóng đèn nhiều màu lấp lánh dưới hàng me. Sài Gòn quả là viên ngọc Viễn Đông, đẹp hơn trí tưởng tượng của tôi nhiều.

      Từ Nhà hát Tây, chúng tôi lại được lệnh di chuyền xuống trại học sinh di cư Phú Thọ vừa mới xây trên bãi rác cũ. Sau bao nhiêu ngày vất vưởng thì nơi đây với tôi là chốn thiên đường. Cứ hai học sinh được ở một lô sáu mét vuông trong một dãy nhà sàn dài lợp tôn, phân tầng. Chúng tôi được nuôi ăn ở bếp tập thể, trừ tiền ăn, mỗi tháng tôi được lĩnh 90 đồng.

      Có bằng tú tài I từ Hà Nội, tôi vừa học phụ đạo để chờ thi tú tài II vừa đi dạy học tư gia. Chính Thu Uyên đã giới thiệu tôi với một gia đình người Bùi Chu di cư. Lớp học chỉ có hai em, em gái lớp ba và em trai lớp bốn. Em gái lớp ba tên Lê Thuỳ Miên. Số phận trớ trêu, mười một năm sau cô học trò lớp ba ấy đã trở thành người bạn đời của tôi.

      ***

      Cái cơ duyên đã dẫn tôi đến với Miên mười một năm sau, có lẽ bắt đầu từ người cha của nàng. Ông Lê Huy Mật từng là nhà thầu khoán lục lộ, tham gia xây dưng nhiều tuyến đường phía bắc. Sau khi di cư vào Nam, ông tiếp tục nghề cũ. Thấy tôi loay hoay chọn trường Đại học sau khi đậu tú tài II, ông gợi ý tôi thi vào trường Cao đẳng Công chánh. Nhờ đăng ký học ban MPC (toán lý hoá) ở Đại học xá Minh Mạng, tôi đã dễ dàng qua kỳ thi lý thuyết. Gay go nhất với tôi là môn thi thể dục. Từ bé đến giờ, tôi chưa hề động tới dây leo. Và lo nhất là môn vác bao cát nặng hai mươi ký lô chạy bộ một trăm mét. Bao cát quá to so với vóc dáng ốm o, nặng chưa đầy bốn nhăm ký, lại đói ăn lâu ngày, tôi lo không vượt qua được kỳ sát hạch… Vậy mà rồi ông thầy thể dục cũng chấm cho tôi đỗ. Mãi sau này tôi mới biết, thầy chấm thi cho tôi lần ấy là người quen của ông Ký Mật. Trước khi tôi dự thi, ông Ký Mật đã gửi gắm tôi cho thầy. Sự cưu mang và hướng nghiệp ban đầu này khiến tôi ghi nhớ suốt đời và trở thành người thân thiết trong gia đình.

      Với học bổng trường Công chánh 800 đồng một tháng, cuộc sống của tôi bắt đầu dễ chịu. Tôi lao vào học với quyết tâm hết năm học thứ ba sẽ đạt điểm trung bình trên 14/20 để được xét tuyển lên học kỹ sư. Và rồi mong ước của tôi đã thành tựu. Tôi được học kỹ sư, vừa đi học vừa lãnh lương cán sự 5.200 đồng một tháng. Đó là những ngày tháng huy hoàng nhất. Hằng ngày có người mang cơm tháng đến tận phòng. Quần áo lúc nào cũng là ủi tươm tất. Dư tiền, tôi sắm một chiếc xe máy hiệu Peugeot 103 đi học.

      Những ngày chuẩn bị lãnh bằng kỹ sư công chánh, tôi có niềm hạnh phúc mới. Một buổi chiều, khi tôi kết thúc đợt đi thực tế ở Bà Rịa, vừa đi xe đò về tới bến xe Miền Đông, thì Thu Uyên ào đến. Nàng mặc bộ ký giả màu thanh thiên, tóc cặp bồng, đẹp đến mê hồn.

      - Anh lên đồn điền với em. Ngày mai sinh nhật em mà anh không nhớ ư?

      Tôi tròn mắt định bảo: "Sao anh không nhớ. Nhưng phải hai tháng nữa cơ. Năm kia, anh và Tạ Đôn cùng dự sinh nhật em ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Quên sao được!". Thu Uyên như đoán được ý nghĩ của tôi, nàng đặt bàn tay lên miệng tôi, bàn tay sực nức mùi nước hoa Pháp thượng hảo.

      - Thì cứ coi như sinh nhật. Em muốn chúng mình có một chuyến picnic nhớ đời.

      Thu Uyên gọi taxi. Bẩy giờ tối chúng tôi đã lạc trong rừng cao su mịt mùng. Đồn điền của ông chú ruột Uyên có một ngôi nhà sàn bằng gỗ, dáng dấp biệt thự nằm giữa một vườn cây sầu riêng và cam, bưởi. Ông chủ đồn điền có dinh cơ ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về nghi cuối tuần.

      Như đã chuẩn bị sẵn, Uyên dẫn tôi vào căn đại sảnh mà vợ chồng người gác vườn đã dọn dẹp ngăn nắp, trên chiếc bàn tròn lớn phủ nhung màu huyết dụ có một bình hoa lay ơn Đà Lạt trắng muốt, hai chiếc ly cao chân và một chai Remy Martin còn trong hộp.

      - Tạ Đôn đâu? Chỉ có mình anh với em thôi ư? - Tôi nhìn Uyên, như không hiểu.

      - Anh Đôn có giấy nhập học trường sĩ quan Đà Lạt. Ba em đang quyết tâm quân phiệt hoá toàn gia đình em rồi. Chỉ vài năm nữa anh Đôn sẽ đeo lon cấp tướng. Nếu đúng như lời anh em ông Diệm nói, thì Đôn sẽ là kẻ tiên phong Bắc tiến để tiêu diệt Chủ nghĩa cộng sản.

      - Không nói chuyên chính trị… Anh cảm thấy hình như hôm nay em có chuyện gì?

      - Chuyện của anh và em, hai kẻ phiêu bạt từ chân trời phương bắc. Đêm nay anh có dám uống say với em không?

      Uyên mở rượu, rót ra hai ly. Nàng nhìn tôi, mắt long lanh một thứ ánh sáng kỳ lạ. Thứ ánh sáng như muốn hút lấy tôi, như đau đớn khắc khoải nếu bị tôi khước từ.

      - Vọng ơi hãy uống cạn với em ly này.

      Không đợi tôi có hưởng ứng hai không, nàng ngửa cổ, uống hết ly rượu. Tôi nhìn thấy một đường gân xanh mờ bỗng nổi hằn trên cần cổ mảnh de và trắng nõn của nàng, đường gân giần giật đầy kích đông. Tôi như bị nàng thôi miên, cũng ngửa cổ ực một hơi.

      Uyên lại rót tiếp, lần này thì đầy tràn hai ly.

      - Thôi Uyên - Tôi níu tay nàng, định đỡ lấy ly rượu.

      - Đừng cản em. Nếu không muốn uống nũa thì anh có thể về.

      Uyên lại ngửa cổ uống cạn ly. Rồi một ly nữa, một ly nữa. Tôi giật lấy chai rượu. Cũng là lúc Uyên quẳng chiếc ly xuống sàn nhà, đổ gục vào lòng tôi, khóc nức nở. Chưa bao giờ tôi thấy thương Uyên như lúc này. Tôi hít thật mạnh hương thơm từ tóc nàng, từ người nàng toả ra. Tôi đỡ nàng xuống đi văng. Đột ngột Uyên vòng tay ôm chặt lấy tôi, vít cổ tôi và áp môi nàng vào môi tôi. Ôi, nụ hôn đầu đời. Có vị ngọt ngào của trái đầu mùa, lại có vị mặn của nước mắt. Người tôi run lên. Tôi hoảng hốt nhìn quanh, như phản xạ của kẻ ăn trộm sợ người khác bắt gặp. Nàng lại rướn người lên, ghì đầu tôi, vừa hôn vừa cầm tay tôi đặt vào ngực nàng.

      Như bị điện giật, tôi sợ hãi rụt tay lại. Quen nhau đã mấy năm nhưng chưa bao giờ tôi dám cầm tay nàng, chưa bao giờ gần nàng như thế này. Có lẽ vì tôi quá tự ti, quá tôn thờ nàng. Tôi yêu nàng vì một tình yêu dè dặt của một kẻ nghèo khó trước nàng công chúa kiêu kỳ. Nhiều lần tôi tự ví mình như chàng Trương Chi, còn nàng như con quan thừa tướng chốn lầu tây. Cũng có lẽ vì tôi còn quá trẻ, còn đang dồn sức cho chuyện học hành, lập nghiệp. Tôi dè sẻn gìn giữ tình cảm của mình, và thầm nhủ rằng, khi nào đỗ bằng kỹ sư, có nghề nghiệp, công thành danh toại rồi, tôi sẽ ngỏ lời cầu hôn nàng.

      Nàng là mối tình đầu, là kỷ niệm của Hà Nội, của những năm tháng xa xăm trên đất Bắc. Tôi ấp ủ, tôn thờ nàng như một biểu tượng hơn là một thực thể hiện hữu.

      Sau phút cuồng nhiệt, người nàng bỗng chùng xuống. Nàng nói trong nghẹn ngào:

      - Vọng ơi em không muốn sống nữa.

      - Làm sao? Hãy nói cho anh biết đi. Em đang có tất cả mà…

      - Chỉ có anh là kẻ vô cảm… Anh thật đáng thương… Hãy mang em đi khỏi Sài Gòn. Đi thật xa…

      - Hãy đợi anh lấy xong tấm bằng kỹ sư công chánh. Anh sẽ đi nhận công tác ở một nhiệm sở…

      - Lúc đó thì em chẳng còn là của anh nữa rồi…

      - Là của ai? - Tôi thảng thốt như thoáng nhận ra mối nguy cơ.

      - Ba em đang muốn gả em cho con trai ngài tỉnh trưởng Bà Rịa.

      - Có phải cái anh chàng đeo lon thiếu uý mới tốt nghiệp trường võ bị Thủ Đức mà có lần em đã giới thiệu với anh đó không?

      - Anh ta đấy. Hồi ấy em vô tư, thấy anh ta cũng hay hay. Tưởng anh ta chỉ đến làm thân thế thôi. Nào ngờ anh ta bày binh bố trận để quyết chiếm đoạt em…

      - Vậy là em đã… - Vòng tay tôi chợt rời khỏi nàng. Tôi như cảm thất đất dưới chân mình sụp đổ. Nàng đã bị hắn chiếm đoạt rồi ư? Bao giờ? Vậy mà tôi tôn thờ nàng còn hơn cả Đức Mẹ đồng trinh…

      Thu Uyên như đọc thấy mối ngờ vực của tôi, nàng vòng tay ra sau lưng. Mãi sau này tôi mới biết đó là động tác nàng mở dây xu chiêng. Tôi cảm thấy hơi thở nàng gấp gáp, cảm thấy bầu vú thiếu nữ của nàng áp vào ngực mình.

      - Anh đừng quá ngốc. Nho chẳng còn xanh như anh tưởng nữa đâu…

      Câu nói xa xôi ấy, sau này tôi mới hiếu như một tín hiệu mời gọi, nhưng lúc đó tôi lại hiểu theo cách khác. Tôi rã rời hai tay, như không còn sức để ôm nàng.

      - Kìa anh… Anh không thương em ư? - Uyên như chồm lên người tôi.

      - Đừng em… - Tôi đấy nàng ra - Chúng mình hãy giữ mình cho đến khi nào chúng mình là chồng vợ…

      Nàng bỗng sững lại. Đôi mắt đau đớn nhìn tôi như một kẻ ở hành tinh xa lạ nào. Rồi nàng bỗng bật khóc, nhổ vào mặt tôi và vùng chạy ra ngoài trời đêm.

      Tôi biết từ giây phút ấy, tôi đã vĩnh viễn mất nàng.

      ***

      Sau khi nhận bằng kỹ sư Công chánh loại ưu, đầu năm 1959 tôi được bổ nhiệm làm phó ty công chánh Mỹ Tho. Một năm sau, do làm tốt công việc nới rộng quốc lộ 4, tổ chức thi công công trường và việc xếp đặt biển báo khoa học, tôi được cấp trên tín nhiệm đề nghị đi làm trưởng ty công chánh Bình Long.

      Tiếp quản một cơ ngơi nghèo nàn, tạm bợ, cư xá nhân viên là những dãy nhà lụp xụp, tôi không an lòng. Vận động anh chị em trong ty cùng bỏ công sức, huy động nhân viên chặt cây rừng, làm nhà ngay hàng thẳng lối, nền tráng xi măng, mỗi nhà đều có hố xí tự hoại, có bếp riêng, có vườn rau, ao cá, các nhân viên như được đổi đời, cuộc sống tràn trề sinh lực. Để đời sống nhân viện đỡ buồn tẻ nơi núi rừng héo lánh, tôi vận động anh chị em xây dựng một câu lạc bộ mang tên Lâm Viên.

      Khách bước vào công ty, thấy ngay một quán hàng sạch đẹp trong đó có quầy bán thức ăn, nước giải khát với giá rẻ bằng nửa giá chơ, có nhiều cây trái do đồng bào tặng như bưởi, chôm chôm, chuối, mít… được mời khách miễn phí. Kế đó là bàn pingpong, phòng đọc sách báo. Sau quán, còn có một phòng hớt tóc miễn phí dành cho nhân viên và gia đình. Con em trong cư xá đầu tóc luôn gọn đẹp. Một cuộc sống văn hoá thực sự làm mọi người yêu thương gắn bó với nhau.

      Những năm tháng ở Bình Long ngày ấy thật thanh bình. Nhà trưởng ty là một ngôi biệt thự trên sườn đồi nhìn xuống một thung lũng xanh mướt tiêu và cà phê. Biết bao đêm tôi nằm trằn trọc nhớ thầy u, anh em quê Bắc. Tôi lấy từ trong đáy va ly tập thơ "Thời của Thánh Thần" của anh Vỹ tôi ra ngắm nghía, đù tôi đã thuộc làu làu. Đề nguôi nỗi nhớ quê hương, tôi thường rủ gia đình ông Ký Mật, gia đình Tạ Đôn, mẹ con Nhu và các bạn bè lên choi. Ngày nghỉ, tôi có thể lái xe Jeep từ An Lộc về Sài Gòn, dừng nghỉ tại quán nhậu Chơn Thành hoặc Lai Uyên ăn tối. Trong khung cảnh an bình, tôi càng không nguôi nhớ Thu Uyên. Giá đêm ấy tôi hiểu tâm trạng nàng, tôi dám dũng cảm giành giật lấy tình yêu thì bây giờ tôi đâu phải ôm mối hận… Người con gái ấy đã bước ra khỏi đời tôi như cơn lốc xoáy. Đám cưới của nàng với anh chàng thiếu uý tổ chức ngay nửa tháng sau đó. Tôi ốm một tuần. May mà rồi cũng gương dậy sau cuộc chôn chặt mối tình đầu.

      Chẳng bao lâu chiến cuộc lan tràn. Quân giải phóng đã áp sát thị xã An Lộc. Con đường 13 nối Sài Gòn với Lộc Ninh trở thành con đường bất an.

      Cống Tham Rớt trên Quốc lộ 13, nơi giáp ranh hai tỉnh Bình Phước và Bình Long bị sập.

      Cầu đúc Cần Lê ba nhịp, dài 38 mét nối tỉnh lị An Lộc với quận lị Lộc Ninh bị phá.

      Lênh cấp trên chỉ thị cho tôi bằng mọi giá phải chữa cống Tham Rớt, bắc cầu Cần Lê để ngăn chặn Việt cộng xâm nhập.

      Tôi cưỡi xe Jeep tới hiện trường. Cầu Cần Lê gãy theo hình chữ V đầu cầu vểnh lên khỏi mặt đường một mét. Để tái lập lưu thông cấp thời, chúng tôi kê chuồng heo cao bẩy mét từ giữa lòng suối và dùng con đội để đưa sàn cầu về vị trí ban đầu Sau đó, cầu Eiffel được ráp lên trên sàn cầu bê tông.

      Những sáng kiến làm cầu, đường, sân bay của tôi mỗi ngày thêm nhiều, thêm mới, được Bộ giao thông Công chính đặc biệt chú ý.

      Chỉ nghiên cứu qua sách vở, chúng tôi đã hoàn tất một phi trường L19 ở tỉnh lỵ An Lộc theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật của Nha căn cứ Hàng không.

      Cầu Nha Bích trên quốc lộ 14 bị phá sập nhịp giữa. Nước sông sâu và chảy xiết không thể làm giàn giáo theo phương pháp lắp ráp thông thường, tôi quyết định ráp cầu Eiffel trên bờ và đưa vào vị trí bằng cần cẩu trực thăng. Lưu thông gián đoạn không quá ba ngày.

      Càng làm việc, tôi càng muốn làm chủ mọi công nghệ, phương tiện, giải quyết mọi sự cố dù khó khăn đến đâu, vì thế tôi càng khát khao học hỏi. Tôi ao ước được đi tu nghiệp tại Mỹ, đất nước có nền khoa học nhất thế giới. Tôi muốn xem tận mắt phương pháp thi công đường trên nền đất yếu, làm cầu bê tông dự ứng lực, làm cầu cáp, cầu dây văng, đường ngấm. Biết rằng đi Mỹ học tôi sẽ mất chức trưởng ty mà nhiều người đang mong thế chỗ, rồi còn biết bao bất trắc khắc khi trở về, vậy mà đầu năm 1965 tôi vẫn liều lĩnh nộp đơn xin đi tu nghiệp Hoa Kỳ.

      Sáu tháng tu nghiệp trên đất Mỹ, tôi đã đến các bang: Louisiana, New Orleans, Iowa, Indiana, Wisconsin và học hỏi được bao điều về khoa học, công nghệ. Chỉ riêng điều này ở Mỹ là tôi không thích: ấy là thói kỳ thị chủng tộc. Người da đen buộc phải sử dụng cầu tiêu riêng; nhà hàng làm cửa riêng dành cho người da màu và chó. Tôi bỗng nhớ đến cậu bạn Lê Đoàn hồi còn ở Hà Nội. Đoàn khinh bỉ nước mẹ Đại Pháp đã bòn từ cục phân bắc ở nước thuộc địa. Giữa Pháp và Mỹ có sự giống nhau về bản chất thực dân.

      Trong thời gian tu nghiệp ở Mỹ, tôi nhận liền được mấy lá thư của Lê Thuỳ Miên. Cô lẽ vì những là thư của nàng đã thức tỉnh tình quê hương xứ sở, hình ảnh mái nhà Việt đầm ấm thân thương, khiến tôi đã từ chối một vài hợp đồng nhận làm việc với mức lương cao khước từ sự quyền rũ của nước Mỹ để trở về.

      Những lá thư của Miên đã khiến tôi nhìn cô học trò nhỏ ngày xưa với ánh mắt khác hẳn. Đón tôi ở phi trường, nàng lộng lẫy như một hoa hậu. Bất giác tôi chạnh nhớ đến Thu Uyên. Ngày từ Hà nội bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Uyên cũng trong sáng, tràn trề hạnh phúc như Miên bây giờ.

      - Em lo đến thắt lòng. Chi sợ anh bỏ em để ở lại nước Mỹ… - Miên ào đến bên tôi, nói trong hơi thở gấp. Và nàng bỗng đột ngột dùng lại mặt đỏ bừng và thấy mình mắc cỡ.

      Câu nói ấy đã thổ lộ hết tình yêu của nàng đối với tôi. Sau này, trong đêm tân hôn, Miên thú nhận với tôi rằng, nàng yêu tôi ngay từ ngày tôi là thầy giáo phụ đạo cô bé lớp ba. Rằng suốt mười một năm qua, tôi là thần tượng duy nhất mà nàng tôn thờ. Rằng nàng sẽ không sống nổi, rất có thể nàng sẽ ra cầu Bình Lợi nhảy xuống sông Sài Gòn tự tử nếu tôi ở lại nước My.

      Tôi vòng tay ôm Miên và bó hoa trên tay nàng. Không kìm được hạnh phúc, tôi ghé sát, hôn nhẹ nơi gáy, phía sau tai nàng. Thích thú như một cô bé, nàng nghẹo đầu rồi đột ngột rướn người hôn rất nhanh vào môi tôi.

      Chúng tôi tổ chức lễ cưới sau đó một tháng.

      Năm sau, Miên sinh cho tôi con gái đầu lòng: Nguyễn Lê Kỳ Vân. Và hai năm sau nữa là bé gái Nguyễn Lê Kỳ Vỹ.

      ***

      Sau khoá tu nghiệp từ Mỹ về nước, tôi gặp khá nhiều rắc rối về động viên. Ông đổng lý văn phòng Bộ hỏi tôi:

      - Anh có muốn đi Ty không?

      - Dạ, có.

      Ông Đổng lý nhìn tôi gật gù, gõ gõ tay xuống bàn rất lâu.

      Đợi mãi, không thấy tôi có những hành động tiếp theo, ông bên ghi tên tôi với chức vụ "nguyên Trưởng Ty" và gửi danh sách sang Bộ Quốc phòng.

      Nhờ thế lực, sự vận động và chạy chọt của bố vợ tôi, ông Ký Mật, giờ đã là Dân biểu Lê Huy Mật, tôi được hoãn quân dịch, sau đó được bổ nhiệm Trưởng ty Công chánh Phước Tuy.

      Như có duyên nợ với Bình Long, sau sáu năm lăn lộn với những tuyến đường ác liệt miền Đông: quốc lộ 15, tính lộ 23, 44 những con đường thường xuyên bị Việt Cộng băm nát, năm 1972 tôi lại trở về An Lộc. Nơi đây không còn vẻ thanh bình, thơ mộng như ngày đầu tôi nhậm chức trưởng ty nữa. Sau trận Việt cộng đánh tiêu diệt hơn hai nghìn lính Mỹ của sư đoàn Anh cả đỏ ở Bàu Bàng cuối năm 1965, Thủ Dầu Một, Bình Long, Phước Long trở thành vùng chiến địa nóng bóng. Quốc lộ 13 khét tiếng là con đường máu.

      Không dưới bốn lần tôi đã chết hụt trên những cung đường Lai Uyên, Bàu Bàng, Chơn Thành, Tân Khai. Có lần xe đang đi thì mìn nổ ngay trước mặt. Có lần tôi lọt giữa trận địa phục kích. Xe Jeep bị lật, bốc cháy, tài xế trúng thương, còn tôi bị đất đá vùi kín.

      Và số phận thật trớ trêu, sau nhiều năm biệt tăm tích, tôi gặp lại Trương Phiên, ông Đồn trưởng bốt làng Động quê tôi, ngay trên vùng đất tử thần. Tuần đầu nhận chức Đại tá Tỉnh trưởng Bình Long, Trương Phiên liền gọi tôi lên tư dinh của ông.

      Cái nước Việt hoá cũng chỉ bé như lòng bàn tay - Trương Phiên mở đầu cuộc gặp gỡ - Đọc hồ sơ, biết ông là con trai thứ ba cụ Lý Phúc làng Động, tôi mừng lắm. Thì ra chúng ta là người cùng chiến hào. Ông có biết cụ Lý Phúc thân phụ ông đã chết vì tay cộng sán như thế nào không? Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ. Trước khi rút khôi bốt làng Động, tôi đã cảnh báo trước với thầy ông và ông Chánh Hội Thiện điều này, và khuyên họ hãy đi theo chúng tôi, nhưng họ không nghe. Kết cục thật là bi thảm. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc tắm máu. Tôi thương cụ Lý Phúc vô cùng…

      Đã từng nghe phong thanh thầy tôi bị chết vì đấu tố trong cải cách ruộng đất của Bắc Việt, nay nghe Trương Phiên nói, tôi càng tin đó là sự thật. Thực tình tôi không có ấn tượng và kỷ niệm gì về ông Đồn trưởng Trương Phiên. Ngày ấy tôi thường đi trọ học. Thảng hoặc về nhà, gặp thầy tôi đánh tổ tôm với ông Đồn trưởng, tôi cứ tự đặt câu hói: Tại sao ông Đồn trưởng lại có khuôn mặt hao hao giống Cục. Chỉ có điều thằng Cục em tôi hiền lành, còn ông Đồn trưởng thì có vẻ ác và xảo quyệt. Hai mươi năm rồi, bộ mặt Tây lai ấy tuy già đi nhiều nhưng vẫn bất hảo như thế. Nghe nói, với thành tích chống cộng điên cuồng, năm 1972 Trương Phiên đã được phong chuẩn tướng, nhưng do thua trận liểng xiểng ở Vùng chiến thuật I, ông ta bị giáng chức và điều đi làm Tỉnh trưởng Bình Long.

      - Bộ Công chánh và Bộ Quốc phòng đánh giá rất cao năng lực và thành tích của ông - Trương Phiên chuyển câu chuyện - Vì thế tôi rất vui khi có ông là cộng sự. Công việc của ông là bầng mọi giá phải đảm bào giao thông cho các cuộc hành binh tìm diệt của Quân đội Quốc gia, phải luôn thông suốt mạch máu Quốc lộ 13 và ngăn chặn sự xâm nhập của Việt Cộng từ căn cứ Lộc Ninh và phía nam Cao nguyên Trung phần…

      - Thưa ngài Tinh trưởng, tôi sẽ làm hết phận sự.

      - Không chỉ phận sự mà phải thật trung thành và mẫn cán với Chính phủ Quốc gia, ông Trưởng ty ạ. Bọn Cộng sản đang cơn giãy chết. Hiệp định Paris đang tạo thế cho chúng ta cô lập và tiêu diệt hết bọn Việt cộng. Ông có mường tượng tới ngày chúng ta Bắc tiến, tôi và ông sẽ trở về làng Động của ông trong hào quang chiến thắng không?

      Những lời huênh hoang của Trương Phiên chưa ráo mép, thì mười ngày sau tỉnh lỵ An Lộc oằn mình dưới hoả lực và cuộc tấn công vũ bão cửa quân Giải phóng.

      Trước ngày cuộc tồng tiến công vào tỉnh lỵ xảy ra, tay chân của Đại tá Tinh trưởng Trương Phiên đã bắt được sáu trinh sát đặc công Việt Cộng. Trong số các chiến sĩ giải phóng ấy, có một anh lính, vừa gặp, tôi đã sửng sốt, tưởng như đó là em Cục của tôi. Ấy là một đêm mưa. Những đêm mưa bao giờ tôi cũng thấy cô đơn và bất an. Chiến cuộc quá dữ dội, buộc tôi phải để vợ con ở Sài Gòn. Mấy năm nay tại nhiệm sở, chỉ có mình tôi và vợ chồng chú Tám Báu lái xe. Tám Báu có bố mẹ là người Bắc đi phu đồn điền từ năm 1936, từ lâu tôi biết vợ chồng chú có cảm tình với Việt Cộng. Có đêm không ngủ, tôi thường thức Tám trở dậy, kêu đi kiếm mồi nhậu cho đỡ buồn.

      Cơn mưa kéo dài nửa tiếng đồng hồ, sấm rền như đại bác và chớp loè như rạch nát bầu trời. Hình như trong tiếng sấm có cả tiếng súng và tiếng lựu đạn rất gần nghe như ở chỗ con suối cạn, khiến tôi cảm thấy bất an. Trùm chiếc áo mưa, tôi bấm đèn pin, đi xuống nhà Tám Báu.

      - Ủa, con tưởng anh Tâm nhà con lên chô ông Ty? - Vừa thấy tôi, vợ Tám Báu đã hốt hoảng la lên - Ảnh vừa lên trên thiệt mà.

      Tôi vừa định quay lên thì có tiếng chó sủa, tiếng lính bảo an la hét, tiếng đạn nổ chiu chíu qua đầu, tiếng những bước chân chạy rầm rập bên phía con suối cạn. Hai bóng đen từ dưới vườn tiêu bỗng vụt vào nhà. Tôi nhận ra chú Tám Báu đang kéo lê một người bị thương.

      - Con xin ông… ông về đi. Nguy hiểm lắm… Xin ông đừng nói gì nhé. Coi như ông hổng biết gì chuyện anh Tám nhà con nhé… - Tôi bị người đàn bà đẩy dúi dụi về nhà.

      Vừa cởi áo mưa, chưa kịp định thần thì tụi lính bảo an đã kéo chật căn phòng tôi ở. Tên nào cũng ướt rượt, lấm lem, mặt mũi hằm hằm.

      - Ông Ty có chứa chấp thằng Việt Cộng nào thì đưa ra - Gã đeo mai thiếu uý sần sộ.

      - Việt Cộng nào dám vào nhiệm sở Ty Công chính? - Tôi nói cứng.

      - Rõ ràng có hai thằng chạy vào hướng này - Gã thiếu uý hất hàm ra hiệu cho lính lục soát khắp nhà.

      Tôi lắng tai về phía nhà Tám Báu, lo lắng.

      Bỗng có loạt súng nổ. Rồi tiếng vợ con Tám Báu la ré lên. Tôi biết, Tám Báu và anh chiến sĩ giải phóng nguy rồi.

      Ngày hôm sau, không khí tử thần bao trùm phố xá. Tiếng loa nhà binh ra rả rêu rao về chiến tích vừa bắt và tiêu diệt gọn tiểu đôi trinh sát Việt Cộng xâm nhập tỉnh lỵ An Lộc. Tôi cố lắng tai, tưởng như mình nghe nhầm:

      - Đặc biệt, cùng với sáu cộng quân, còn có cả tên Tám Báu, lái xe cho Trưởng ty Công chánh Bình Long, một điệp viên nguy hiểm của Việt Cộng nằm vùng. Theo lênh ngài Đại tá Tỉnh trưởng, ngay chiều nay, toà án binh tiền phương sẽ xứ bắn tên Việt Cộng theo quân luật…

      Để nắn gân và chơi đòn cân não, ngay buổi sáng, Tỉnh trưởng Trương Phiên cho gọi tôi lên tư dinh.

      - Tôi rất lấy làm tiếc về trường hợp tên lái xe của ông - Mặt Trương Phiên đằng đằng sát khí, đôi mắt ánh xanh màu nòng súng - Nó đã dắt Việt Cộng vào thám thính các khu bố phòng của ta. Rất may là nó không khai một lời nào về ông Trưởng Ty. Đó cũng là một niềm an ủi đối với tôi, người đã từng quen biết thân phụ của ông…

      - Tôi cũng rất bất ngờ, thưa ngài Tỉnh trưởng.

      - Trong chiến tranh, mọi điều có thể xảy ra - Giọng Trương Phiên bỗng rờn rợn - Chiều nay, tôi muốn giao cho ông Ty một nhiệm vụ.

      - Nhiệm vụ gì, thưa ngài?

      - Bây giờ còn bí mật - Trương Phiên nhún vai, cái nhún vai rất Tây như được di truyền từ tổ tiên lại - Ông Ty phải đi theo tôi để tận mắt hiện trường và có kế hoạch thực thi nhiệm vụ.

      Chiếc xe Landcruise đưa Trương Phiên và tôi đến một khu đất trống phía cuối tỉnh lỵ. Đây là vạt đất trồng cao su vừa chặt hạ. Mắt tôi hoa lên, người tôi muốn ngất xỉu khi chợt nhận ra giữa bãi đất đỏ nâu như màu máu khô là bẩy người bị chôn ngang thân, theo một hàng ngang, chỉ nhô lên phần đầu và vai. Người ở ngoài cùng có cái đầu muối tiêu là Tám Báu, còn lại là sáu chiến sĩ giải phóng, người nào cũng bị tra tấn làm cho khuôn mặt thâm tím biến dạng, nhưng mắt ai cũng mở trừng trừng nhìn chúng tôi đầy căm thù.

      - Ông Ty có nhận ra thằng tài xế trung thành của ông không? - Trương Phiên liếc nhìn tôi tự đắc một cách đểu giả khi xe dừng lại cách hàng người bị chôn chừng hai chục mét - Không ngờ quân tôi đã tóm được tên cáo già Việt Cộng nằm vùng, kẻ đã dẫn bọn cộng quân thám thính các khu bố phòng cửa ta. Còn cạnh thằng tài xế của ông là thằng lỏi Việt Cộng mới từ Miền Bắc xâm nhập, suýt được Tám Báu cứu thoát. Bị tử thương nhưng nó cứng đầu và tỏ ra nguy hiểm nhất bọn. Hớ hớ… Nó giấu quê quán, nhưng nghe giọng, tôi biết thằng này quê làng Động của ông đó. Nó bảo mẹ nó bị bom Mỹ giết, nó phải trà thù. Nó căm thù cả tôi, cả ông Ty… Vậy thì nó phải chết một cách đau đớn… Chiều nay ông sẽ có một nhiệm vụ là phải điều hai chiếc xe ủi Kamasu của Ty Công chính đến đây để ủi bẩy cái đầu Cộng sản này cho chúng không còn có đất nảy nở…

      Trương Phiên vừa bước vừa xoè hai bàn tay với những ngón to bè, như hai chiếc xe ủi dàn hàng ngang tiến. Tôi nổi gai hết người. Tôi như không còn nghe được tiếng gì nữa khi ánh mắt tôi vừa chạm vào gương mặt anh lính giải phóng bị chôn sát Tám Báu. Trời ơi, tôi có nhầm không? Gương mặt trẻ măng vừa hao hao như gương mặt Tỉnh trưởng Trương Phiên, vừa giống như gương mặt Nguyễn Kỳ Quặc, em tôi, ngày tôi xa nó để vào Nam.

      Trời đất bỗng nghiêng ngả, rồi tối sầm. Tôi ngã đổ vật trên bãi đất, không biết gì nữa.

      Comment


      • #18
        Chương 17

        Những mảnh đời



        Cái buổi sáng bị ngất xỉu khi nhìn thấy bẩy chiến sĩ quân giải phóng sắp bị Thương Phiên hành hình, là một bước ngoặt trong cuộc đời Nguyễn Kỳ Vọng.

        Vừa tỉnh dậy sau khi được sơ cấp cứu, Vọng đã nói với người phụ tá:

        - Hãy truyền đạt ý kiến tôi với ngài Đại tá Tỉnh trưởng: Phải dừng ngay trò hành quyết dã man thời trung cổ lại. Ty Công chánh kiên quyết phản đối và sẽ có tờ trình gửi Chính phủ về hành động man rợ này. Chúng ta sẽ tố cáo với toà án Quốc tế.

        Có lẽ vì những động thái quyết liệt của Trưởng ty Công chánh mà Trương Phiên đã phải chùn tay. Ngay chiều ấy, bẩy chiến sĩ giải phóng đã được đào lên. Nghe nói chính tên ác ôn khát máu sau đó đã tự tay hạ sát họ. Lại có người bảo cả bẩy người đã được giải thoát, vì ngay đêm ấy quân giải phóng đã ào ạt tràn vào tỉnh lỵ An Lộc.

        Nguyễn Kỳ Vọng về Sài Gòn trị bệnh. Cũng lại nhờ sự can thiệp của nhạc phụ - dân biểu Lê Huy Mật, Vọng được chuyển về Trung ương, kết thúc mười bốn năm lăn lộn ở những cung đường máu lửa dưới cơ sở.

        Cơ quan mới của Vọng là Tổng cục Kiều lộ, thuộc Bộ giao thông Công chánh. Do có nhiều thành tích công tác, giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, lại là tác giả của nhiều cuốn sách kỹ thuật, như "Phương pháp kiểm kê cầu đường", "Tính khả thi của Dự án LT50", "Xử lý nền đất yếu trong công nghệ cầu đường"…, Vọng được tăng ngạch trật cao hẳn so với các bạn đồng khoá: Kỹ sư Công chánh đặc hạng, cộng với mười lăm huy chương danh dự. Không chút đắn đo, ông Đổng lý Văn phòng đề cử kỹ sư đặc hạng Nguyễn Kỳ Vọng làm Phụ tá Giám đốc Nha kế hoạch kiêm Trưởng ban phần vụ kế hoạch, Tổng Cục kiều lộ. Nơi đây, Vọng sẽ có cái nhìn tổng quát về toàn bộ ngành giao thông vận tải.

        Vậy mà, chưa ở yên cương vị mới được nửa năm, thời cuộc đã thay đổi. Chính quyền Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ.

        Đêm 30 tháng tư năm 1975, khi ba mẹ con Miên hốt hoảng co rúm bên nhau quanh những va ly, đồ đạc đã sắp, sẵn sàng di tản, Nguyễn Kỳ Vọng đóng chặt cửa phòng tắm, dưới ngọn nến bập bùng như ma trơi, lặng lẽ đốt từng giấy khen, từng huy chương, bằng tưởng lệ, rồi cả những cuốn sách và những tài liệu, bản thảo… Mỗi lần ngọn lửa bùng lên, tim Vọng thắt lại. Sự nghiệp gây dựng hơn hai mươi năm nay đã tan như khói.

        Mấy ngày sau Vọng ra trình diện, tiếp tục làm việc tại cơ quan cũ. Không có tắm máu. Không có tra khảo cùm kẹp. Chỉ một không khí dò xét nặng nề. Nha kế hoạch Tổng Cục kiều lộ được đổi thành Phòng kế hoạch Cục Cầu đường thuộc Bộ Giao thông. Ông Huỳnh Út, tuỳ phái cũ của Vọng, trở thành xếp của Vọng về mặt tư tưởng. Út vốn kính trọng Vọng về nghề nghiệp và đức độ, nên đối xử với anh phần nào vẫn giữ vẻ khiêm tốn, khoan hoà. Út cắt cử Vọng làm những việc đơn giản như nhận lãnh và phân phối bó rau, miếng thịt, những đồ tiếp tế thường ngày.

        - Hôm nay anh Vọng rút thăm được miếng nạc hay miếng mỡ? - Đó là những câu xã giao mà anh Út chứng tỏ sự quan tâm đối với vị lãnh đạo cũ.

        - Dạ thưa thủ trưởng, miếng mỡ ạ.

        Được ba lạng mỡ, Vọng mừng như vớ được vàng. Nó giúp vợ con Vọng đỡ kêu ca cằn nhằn vì sống quá kham khổ.

        Một hôm Huỳnh Út đưa cho Vọng tờ giấy triệu tập và nhìn anh với cái nhìn của người sắp từ giã một tử tù.

        - Có lệnh mời anh đi học tập cải tạo tập trung. Tôi đã báo cáo với thượng cấp rằng anh chỉ là một chuyên gia kỹ thuật mà không hiểu sao họ vẫn đưa anh vào danh sách.

        Vọng hiểu, cải tạo tập trung là dành cho nguỵ quyền, cấp trung ương từ Chánh sự vụ trở lên, cấp địa phương từ Trưởng ty trở lên. Nghe nói diện tập trung này rồi sẽ điều hết ra Bắc, nhẹ nhất cũng giam giữ cải tạo vài ba năm.

        Buổi sáng tiễn Vọng đi trình diện cải tạo tập trung, Miên và hai con Kỳ Vân, Kỳ Vy khóc như Vọng sắp chết. Cùng đi với Vọng đến trường Gia Long có Huỳnh Út, cán bộ cơ quan tháp tùng. Út an ủi:

        - Anh cứ yên tâm cải tạo thành khẩn. Chị với hai cháu ở nhà đã có cơ quan chúng tôi lo.

        Ngồi trước bàn giấy ở phòng trình diện là một ông có thân hình gầy rạc như que củi, yết hầu lộ như mỏ diều hâu, cặp mắt trắng dã to lạ thường.

        - Anh cấp bậc gì?

        - Dạ, thưa cán bộ, tôi là phụ tá giám đốc.

        Ông cán bộ gầy rạc nhìn Vọng rồi khoát tay:

        - Anh không ở diện học tập trung. Tôi cho phép anh về học tập tại chỗ.

        Vọng toá mồ hôi, tưởng như vừa được tháo vòng treo cổ.

        - Chắc là ông cán bộ này là thuộc cấp của anh cả Khôi nên ưu ái với mình? Nhất định là anh Khôi đã bảo lãnh cho mình - Vọng thoáng nghĩ nhanh như vậy. Sau này, Vọng mới vỡ lẽ ra rằng, ở ngoài Bắc, phụ tá tức là thư ký, là người giúp việc cho Giám đốc, không thuộc hàng lãnh đạo. Ông cán bộ chưa biết rằng trong Nam phụ tá tương đương với Phó Giám đốc.

        Trở lại cơ quan, Nguyễn Kỳ Vọng nhanh chóng chiếm được lòng tin của lãnh đạo, sự vì nể của mọi người. Phần vì công tác chuyên môn quá chuyên nghiệp, thành thục, phần vì cả cơ quan đã biết Vọng là em trai của đồng chí Chiến Thắng Lợi.

        Vọng tham gia viết bài cho đặc san Cầu Đường của Cục, đánh giá về tình hình cầu đường miền Nam, về các giải pháp kỹ thuật chuyên ngành. Đáng chú ý nhất là bài nghiên cứu có tính học thuật "Ivanov hay Aashto?" phân tích một cách khách quan những mặt mạnh mặt yếu của cả hai quy trình quy phạm. Nhiều người dù bảo thủ đến đâu cũng phải nhận ra rằng, nên theo phương pháp Aashto, một phương pháp tiên tiến hiện đại cả thế giới phương Tây đang áp dụng. Bài chuyên luận này của Vọng, phải chờ hơn hai mươi năm sau các chuyên gia cầu đường Việt Nam mới thực sự thừa nhận tính chất tiên phong của nó.

        Có một câu chuyện vui, đậm tính bi hài. Ấy là bản báo cáo tổng kết nhân dịp Đại hội thi đua cuối năm của Cục. Công việc này là của anh Khuất Sỹ Hào, chuyên viên báo chí tuyên truyền. Thấy Vọng nắm vững tình hình cầu đường miền Nam, anh Hào đùn đẩy cho Vọng viết báo cáo tống kết. Bán báo cáo dầy hai mươi lăm trang đánh máy, khổ giấy A4, trong đó có nhiều đoạn trích nguyên văn lời phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều đoạn biến báo hạ chỉ tiêu, hoặc "do hoàn cảnh khách quan, thiên tai bão lũ, nhưng với quyết tâm nỗ lực vượt bậc, chúng ta vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch"…

        Ông Cục trưởng đọc nguyên văn, không chữa một dấu chấm, dấu phẩy. Lâu lâu ông dừng lại nhấp ngụm nước rồi tự vỗ tay trước. Cả hội trường vỗ tay theo vang dội. Huỳnh Út ngồi cạnh Vọng, ngáp dài liên tục rồi ngủ gật. Tiếng vỗ tay làm anh giật nảy mình, đứng dậy giơ tay hô lớn "quyết tâm" làm cả hội trường cười ồ.

        Sau đại hội, cán bộ Cục kháo nhau:

        - Đồng chí nào thảo diễn văn hay thế?

        - Đồng chí "nguỵ"… - Khuất Sỹ Hào đưa mắt về phía Vọng, khiến ai nấy cùng trố mắt nhìn.

        Sau "thành tích" viết báo cáo tổng kết, thật quá bất ngờ, Nguyễn Kỳ Vọng được Cục chỉ định ra Hà Nội họp bàn kế hoạch.

        ***

        Ngoài mẹ, người mà Vọng mong ngóng được gặp mặt trong lần trở về quê này là anh trai Nguyễn Kỳ Vỹ. Ngày 30 tháng tư, Vọng quyết không di tản chính là vì mẹ và anh Vỹ. Vọng tin rằng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ nhất định sẽ cùng đoàn quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Không thể nào khác được, anh Vỹ sẽ có mặt trong đoàn quân tiên phong.

        Anh không thể sống kiếp đời nô lệ

        Nàng thơ ơi, đừng níu giữ chiến bào

        Trống đồng giục, gọi trai Phù Đổng

        Rũ bùn bay tới triệu vì sao…

        Nhờ những câu thơ của anh trai mình mà Vọng vẫn giữ được đạo lý cốt cách sống cho tới bây giờ. Tập thơ "Thời của Thánh Thần", suốt bao nhiêu năm, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Vọng vẫn giữ bên mình như một báu vật. Kỳ lạ thế, mỗi lần nghĩ đến Vỹ, Vọng lại nhớ cái hôm ở Hà Nội, Tạ Đôn đến dúi vào tay anh tập thơ "Thời của Thánh Thần" và nhìn anh với bộ mặt rất nghiêm trọng: "Có đúng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ là anh trai của Toi không? Người ta đồn hai ông anh lại là Việt Minh. Tập thơ này hay nhưng sặc mùi cộng sản".

        Trong cái đêm hoảng loạn trước khi Sài Gòn thất thủ, khi vừa gạt nước mắt vừa đốt hết những văn bằng, tài liệu, thì Vọng vẫn quyết giữ lại tập thơ của anh trai mình. Đây là bùa hộ mệnh, là chứng chỉ của tình máu mủ ruột rà.

        - Vỹ đi đâu?

        Vọng hỏi anh cả Khôi, anh chỉ nói chú ấy vẫn đang công tác, sức khoẻ bình thường. Đồng chí Chiến Thắng Lợi hình như không muốn nhắc đến Vỹ. Ông trả lời qua loa và cố tình lảng tránh.

        Vọng hỏi bà Cử Phúc và Cục. Cục bảo: "Nghe nói anh ấy đang được giao một trọng trách đặc biệt". Còn bà Cử Phúc chỉ lắc đầu buồn bã: "Mẹ Khiêm nó bảo nhà con đi công tác nước ngoài dài hạn. Chẳng biết có đúng không?"

        Vỹ đi đâu?

        Còn ba ngày nữa Vọng phải đáp tàu về Nam, kịp triền khai kế hoạch công tác của Cục. Anh tìm đến nhà cô giáo Khiêm vào một buổi chiều se lạnh.

        Khiêm không còn ở căn phòng tầng hai hiệu may Phúc Hoà phố Lương Văn Can nữa. Hỏi thăm mãi, người ta mới chỉ cho Vọng căn nhà cấp bốn lợp ngói ta trong ngõ sâu ngoằn ngoèo, sau một cái chợ cóc ngập ngụa đầy rác và nồng nặc mùi cống rãnh.

        Một bà cụ tóc bạc trắng mặc chiếc áo bông Tàu màu mận chín đã sờn ngồi trước cửa ngôi nhà có một khoảng sân hẹp đang lúi húi ngồi chẻ rau muống. Những sợi rau muống chẻ rơi xuống chiếc chậu thau nước, cuộn lại, xoắn vào nhau như những bối bòng bong.

        - Dạ thưa cụ, cho cháu hỏi nhà chị Khiêm… - Vọng đợi mãi, không thấy bà cụ ngẩng lên, đành dè dặt hỏi.

        Bà già chậm rãi ngước cặp kính trắng nhìn khách.

        - Phải đấy. Cháu Khiêm đi dạy học. Mời ông vào trong nhà. Tôi là mẹ cháu Khiêm.

        Lần đầu tiên Vọng gặp bà Ba Yên nên anh không hề biết bà Phan Thị Hà Yên, chủ nhiệm trường tư thục Đất Việt ngày nào, giờ đã thành một bà già mắt mờ, tóc bạc.

        Trong khì bà Ba Yên sờ soạng tìm ấm tích pha trà, Vọng tò mò nhìn quanh căn phòng. Đập vào mắt anh là tấm bài vị mới trên chiếc tủ đứng kê làm ban thờ. Trên đó, một bình hoa huệ tươi nguyên như vừa ngắt từ ngoài vườn. Trước bát hương đang leo lét ba cây nhang nhả khói, là ảnh một anh bộ đội chừng hai mươi tuổi, rất đẹp trai, đôi mắt trong veo, ve áo lấp lánh một ngôi sao binh nhì.

        Linh tính như báo cho Vọng biết, căn phòng vừa có một đám tang.

        - Dạ thưa cụ, anh bộ đội nhà ta…

        Vọng chưa kịp hỏi hết câu, bà Ba Yên đà sùi sụt:

        - Cháu Khánh, con trai tôi, em cô Khiêm đấy ông ạ. Tôi mới nhận giấy báo tử cháu mười ngày nay… Cháu hy sinh ở thành cổ Quảng Trị. Cho đến giờ vẫn không tìm thấy xác…

        Vọng xin phép thắp một nén nhang.

        - Dạ, con là Vọng, em trai anh hai Vỹ. Con không biết nhà ta mới có chuyện buồn nên không có được một chút hương hoa…

        - Tôi có nghe cháu Khiêm nhắc nhiều về cậu. Cậu Vọng thật diễm phúc, có đi có về. Chứ em Khánh thì thật tội nghiệp…

        Câu chuyện của người mẹ như một vết thương tháo vộí băng, tứa máu ròng ròng.

        ***

        Đó là năm giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc ác liệt. Nông trường Quan Chi, nằm khuất sau dãy núi Tam Đảo, trở thành mục tiêu của từng đàn máy bay phản lực. Hội trường Nông trường bộ biến thành những hố bom sâu hoắm. Ngay sau trận bắn phá, ba mươi tám lá đơn tình nguyện viết bằng máu gửi lên tỉnh đội. Trừ bốn nữ và ba nam yếu sức khoẻ, ba mươi mốt chàng trai Hà Nội ở nông trường Quan Chi cùng lên đường nhập ngũ một ngày. Họ được phiên chế vào đại đội tình nguyện Thủ đô, huấn luyện cấp tốc để chi viện cho mặt trận Đường Chín. Trong số những người trai Hà Nội ấy, có Đào Phan Khánh, Lê Đoàn, Hoàng Họp, Nguyễn Văn Nức…

        Đào Phan Khánh được tranh thủ về thăm mẹ hai ngày. Anh thương mẹ tới mức, về nơi sơ tán, cả buổi chỉ đứng núp sau bụi tre lên nhìn mẹ. Giáp mặt mẹ rồi, nhìn thấy gương mặt xiết bao thân yêu máu thịt, nhìn thấy từng sợi tóc mai chớm bạc của mẹ mà chỉ thầm nuốt nước mắt, không dám gặp.

        - Chị Khiêm ơi, hay em viết lá thư tạ lỗi, khi em đi rồi chị hãy đưa cho mợ - Khánh cùng cô người yêu Võ Thu Hạnh đến năn nỉ chị gái - Em chỉ lo gặp mợ, hoặc là em không đủ sức ra đi, hoặc là khi biết tin em ra mặt trận, mợ sẽ quỵ mất.

        Khiêm nhất định không chịu.

        - Em phải gặp mợ. Nếu em tình nguyện ra trận thì chị và anh Vỹ sẽ cố tìm cách an ủi mợ. Em đi chuyến này sinh tử bất kỳ, không thể coi thường…

        Hai mẹ con gặp nhau trong nước mắt. Nhưng bà Ba Yên không ngã gục. Bà mua gà, gạo nếp cái hoạ vàng, đồ xôi gà ép con ăn rồi gói vào ba lô bắt Khánh mang theo. "Nước có giặc, tài trai phải đi cứu nước. Nhà mình là phần tử bị ghi sổ đen vì có người di cư vào Nam mà con cũng được cấp trên tin tưởng cho ra mặt trận, âu cũng là đồi hoạ lấy phúc… Mợ chỉ mong con chân cứng đá mềm, cầu Trời Phật phù hộ cho con tránh khói mũi tên hòn đạn". Lời dặn của mẹ, là hành trang theo Khánh lên đường.

        Những ngày Khánh luyện tập ở Phú Bình, ở Trung Dã, cứ hai tuần bà Ba Yên lại mang ruốc thịt, ruốc cá, thịt kho mặn, muối rang, đường sữa lên thăm con một lần. Bà đi bằng đủ mọi phương tiện. Tàu hoả, xe khách, xe tải, thậm chí cuốc bộ hàng chục cây số. Thỉnh thoảng Hạnh được nghỉ học, hai mẹ con lai nhau bằng xe đạp. Mỗi lần thấy mẹ lên thăm, anh em cùng đơn vị lại trêu Khánh: "Em Chã ơi, mợ lại mang sữa lên cho em bú tí kìa…". Thấy các bạn trêu chọc dữ quá có lần Khánh gắt với mẹ: "Thôi, mợ đừng lên nữa. Con lớn rồi, đâu còn là đứa trẻ. Mợ cứ đi như thế này thì ốm mất"…

        Ngày Khánh giã từ Hà Nội vào chiến trường, đơn vị tập kết ở ga Giáp Bát, sau đó chuyển quân bằng tàu hoả. Hạnh đến báo tin, bà Ba Yên vơ vội mấy bộ quần áo cho vào túi xách, giắt theo tất cả tiền vàng rồi bắt Hạnh đưa ra ga tàu.

        Con tàu ra mặt trận thờ hồng hộc, chuyền bánh ken két trên đường ray trong đêm trăng suông. Hạnh vứt xe đạp bên một nhà kho, vừa chạy theo đoàn tàu vừa réo tên Khánh gọi khản cổ. Bà Ba Yên vấp ngã cạnh một đống đá. Một anh lính nhảy vội xuống bế bà ra xa đường ray rồi hối hả chạy, bám lấy cửa toa đu người lên.

        - Em đưa mẹ về đi. Sáng mai bọn anh cho thằng Khánh nó về với mẹ…

        - Gắng ở nhà mà nuôi con… Mọi tiêu chuẩn chiến trường anh đã để lại nhà rồi. Hôn cái nào…Thương quá…

        - Mẹ ơi, chúng con tạm biệt mẹ. Đuổi hết giặc Mỹ, chúng con sẽ về…

        Đoàn tàu ì ạch như con cuốn chiếu khổng lồ trườn về phía những chớp lửa cuối trời.

        Một tháng sau, nghe tin Khánh đang đóng quân ở phía bắc cầu Hàm Rồng, bà Ba Yên lại khăn gói lên đường. Lần này bà rủ thêm hai bà bạn có con cùng đơn vị với Khánh. Ba người đàn bà lẽo đẽo theo con đến tận Vinh, khi đại đội tân binh Hà Nội bỏ đường quốc lộ, theo xe ngược Tân Kỳ, hoà vào dòng người xe trên đường mòn Hồ Chí Minh, thì họ mới trở về.

        Những năm tháng chờ đợi của người mẹ dài dằng dặc. Chi trong mấy tháng, tóc bà Ba Yên đã trắng đầu. Trường cấp một Thiền Quang, nơi có gian phòng của hai mẹ con ở tầng sát mái bị bom Mỹ đánh sạt nóc. Khiêm đón mẹ về ở cùng. Rồi chị nhường căn gác hai hiệu may Phúc Hoà cho cửa hàng mậu dịch, chuyển về ở trong ngõ hẻm. Mấy năm đầu, khi Hạnh còn học nốt những năm cuối trường Đại học Y, cô thường tranh thủ từ nơi sơ tán về chăm sóc mẹ. Nhưng rồi đến lượt bác sĩ Hạnh cũng xung phong ra hoả tuyến. Hạnh âm ỉ một mong ước sẽ được gặp Khánh nơi chiến trường.

        Ba mươi mốt chàng trai Hà Nội của nông trường Quan Chi nhập ngũ ngày ấy, sau năm 1975 chỉ có ba người trở về.

        Lê Đoàn, bạn thân của Khánh, là một trong ba người may mắn đó. Anh mang về cho mẹ Khánh hai tấm ảnh đã ố vàng, kẹp trong một túi ni nông nhỏ. Đó là ảnh bà Ba Yên và ảnh Võ Thu Hạnh. Đoàn bảo, trước khi vượt sông Thạch Hãn vào chi viện cho thành cổ Quảng Trị, Khánh đưa Đoàn giữ hộ hai tấm ảnh này, hẹn khi về sẽ lấy lại. Không ngờ đó là chuyến đi cuối cùng của Khánh…

        - Cậu có nhìn thấy tấm ảnh nhỏ ở góc tấm ánh cháu Khánh trên ban thờ kia không? - Bà Ba Yên đứng dậy, Vọng cũng đứng lên, cùng đến bên ban thờ - Đây là ảnh cháu Võ Thu Hạnh, vợ chưa cưới của Khánh, do anh Đoàn mang từ mặt trận về…

        Vọng nhìn người con gái trong ánh và chợt thấy cô hao bao giống Miên thời thiếu nữ. Cũng đôi mắt trong veo, mơ mộng. Hình như tất cả những cô gái đang yêu đều có ánh nhìn như thế.

        - Cháu Hạnh sau khi đỗ trường Y, cứ một mực đòi đi chiến trường. Cháu bảo tôi: "Con vào với anh Khánh mẹ ạ. Nhất định chúng con sẽ gặp nhau trong ấy. Ai ngờ đó cũng là lần tôi gặp Hạnh cuối cùng. Đoàn bác sĩ quân y của cháu vào khu Năm, cũng là nơi quê cha Quảng Ngãi. Cháu Hạnh đã hy sinh khi đang cấp cứu các thương binh trong một căn hầm dã chiến…

        Vọng thắp thêm ba nén nhang và đứng lặng trong nỗi đau những giọt nước mắt của người mẹ đang lan chảy sang mình.

        ***

        Có tiếng lao xao ngoài ngõ. Nhà văn Châu Hà vừa bấm còi xe vừa nói oang oang:

        - Có khách nào đến thăm nhà mình phải không mẹ Yên ơi?

        Cô giáo Khiêm dắt xe đạp đi sau. Châu Hà lai thằng Phong trên chiếc Honda 67 nổ oạch oạch vào nhà. Vọng quay ra, mắt hướng về phía người đàn bà gầy mảnh, nhưng vẻ đài các đoan trang của nàng khiến anh biết đó là Khiêm.

        - Dạ chị, em chào chị. Em là Vọng…

        - Trời ơi, chú Vọng! Tôi cứ ngờ ngợ từ ngoài ngõ. Phong, con chào chú đi. Chú Vọng em ruột của bố từ Sài Gòn ra đó…

        Vọng vòng tay ôm xiết thằng cháu ruột, cảm động trào nước mắt. Thằng Phong đang học lớp mẫu giáo lớn. Bốn tuổi, nhưng còi cọc như đứa lên ba.

        - Cháu giống anh Vỹ như hai giọt nước chị ạ.

        - Cháu là Nguyễn Kỳ Phong. Cháu gái chú, là Nguyễn Trinh Mai đi học cũng sắp về. Còn đây là nhà văn Châu Hà, tức Đà Giang, một người rất nổi tiếng, bạn chí thân của anh Vỹ nhà tôi…

        Không khí gia đình bỗng trở nên ấm cúng thân mật. Bà Ba Yên lẳng lặng xuống bếp sắp cơm. Khiêm nói nhỏ với Châu Hà nhờ tiếp Vọng rồi lấy xe đạp ra chợ mua thức ăn.

        Giờ thì Châu Hà lại trở thành nhà văn Đà Giang thuốc lào của ngày xưa. Anh kéo từ trong túi xà cột ra chiếc điếu cày bé xíu nạp thuốc rít sòng sọc.

        - Ông Vọng không biết tôi, nhưng tôi thì biết quá rõ ông, biết từ những ngày đầu vào tiếp quản Sài gòn. - Châu Hà muốn chủ động xoá đi những mặc cảm ở Vọng, liền thao thao một hồi - Thấy tên ông trong ban lãnh đạo Tổng Cục Kiều lộ, tôi nghĩ bét ra ông này cũng phải tập trung cải tạo ba năm. Phụ tá giám đốc Nha kế hoạch, tức là phó giám đốc, có đúng không? Ở Bộ giao thông Công chánh, Nha kế hoạch Tổng cục kiều lộ là nơi quyền sinh quyền sát. Ông hàm tương đương với tỉnh trưởng, thuộc loại nguỵ quyền chóp bu. Tôi nói với ông Văn Quyền bạn tôi, khi anh Lợi sai đi tìm ông: "May ra đồng chí Chiến Thắng Lợi thương tình anh em máu mủ mới cứu được kỹ sư công chánh Nguyễn Kỳ Vọng khỏi bị đi tù. Tội ông này là nối giáo cho giặc. Ta phá cầu đường thì ông ấy bắc cầu lại sửa đường lại cho địch đánh ta. Bây giờ gặp ông ở đây, không bị tù đày, lại được trọng dụng cho làm cán bộ Cục cầu đường thì đúng là chỉ có đồng chí Chiến Thắng Lợi mới đổi đen thành trắng, đáo tội thành công thế này được.

        - Dạ, cũng nhờ hồng phúc họ Nguyễn Kỳ nhà tôi, nhờ công lao của anh cả Khôi…

        - Ông Chiến Thắng Lợi muốn cứu ai thì người đó dẫu có tội tày đình vẫn trắng án như thường. Chỉ riêng thằng Vỹ bạn tôi là ông ấy ghét. Ghét đến muốn xúc đất đổ đi. Lạ thế. Anh em với nhau mà như mặt giăng mặt giời, thậm chí còn như quân thù quân hằn - Châu Hà thừ người, sau một mồi khói thuốc, không hiểu vì say thuốc hay vì chuyện gì mà hai khoé mắt anh bỗng rỉ nước - Tôi vừa lên thăm Vỹ. Thương nó quá. Nó mắc bệnh phù thũng và người cứ ngơ ngẩn như nhiễm chứng tâm thần…

        Đang ngồi, Vọng bỗng nhỏm dậy, nhìn Châu Hà ngơ ngác.

        - Dạ, sao bảo anh Vỹ tôi đi công tác đặc biệt nước ngoài? Anh vừa nói lên thăm anh Vỹ ở đâu?

        Đến lượt Châu Hà nhìn Vọng tròn mắt kinh ngạc:

        - Hoá ra ông chưa biết gì? Ông không biết anh Nguyễn Kỳ Vỹ của ông đi đâu à? Trời ơi, tôi tưởng đồng chí Chiến Thắng Lợi phải nói với ông chuyện này từ lâu rồi chứ? Ông Lợi bảo với ông là thằng Vỹ nó đi công tác nước ngoài à?

        - Dạ không. Mẹ tôi và chú Cục nói thế.

        Châu Hà vò nhàu mái tóc. Tưởng như anh muốn dứt phăng mớ tóc thưa thớt trên vầng trán đang hói dần.

        - Lẽ ra tôi không nên nói với ông câu chuyện này. Thằng Vỹ bạn tôi nó hay nói thế nào nhỉ. Phải rồi. Đời không đáng cái tổ trì. Một cái tổ trĩ thì không bao giờ được phô ra trước quan khách. Chính tôi cũng vô cùng kinh ngạc và đau xót khi vừa từ chiến trường ra liền nhận được tin thằng Vỹ bị…

        - Kìa, anh Châu Hà, đừng nói với chú ấy…

        Tiếng Khiêm bỗng cắt ngang câu chuyện. Mặt Khiêm xanh mét, như không còn giọt máu. Chị đánh rơi chiếc túi đi chợ, làm mấy bìa đậu phụ vỡ tung ra, trắng xoá trên nền nhà.

        - Đành phải cho ông ấy nhìn rõ một sự thật - Giọng Châu Hà méo xệch - Tôi sẽ kể cho cả nhà nghe tôi vừa lên gặp thằng Vỹ như thế nào. Phải bằng mọi cách cứu nó ra khỏi trại cải tạo. Ông Chiến Thắng Lợi không làm thì tôi làm. Tôi sẵn sàng tặng lại cho Vỹ tấm huân chương Thành Đồng và mấy tấm huân chương Giải Phóng của tôi. Cả mấy cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Văn học Giải phóng nữa. Phải cứu nó, kẻo nó chết thì uổng…

        Châu Hà đấm ngực thùm thụp và khóc nấc lên.

        Comment


        • #19
          Chương 18

          Kẻ ngoài cuộc




          Rời hiệu sách quốc văn, Vỹ đứng mãi bên vỉa hè, đọc ngốn ngấu như nuốt từng dòng tập tuỳ bút "Đường lớn ta đi" của nhà văn Châu Hà. Tập sách vừa ra khỏi nhà in, giấy rơm vàng xỉn, nhưng thơm phức cái mùi của chữ nghĩa, mà chỉ "những con mọt sách", những người sống chết với văn chương như Vỹ mới cảm nhận hết. Châu Hà, chính là cái gã nhà văn Đà Giang thuốc lào, cóc cáy quê mùa như một bác nông dân, không ngờ lại là cha đẻ của những áng văn chiến trường khét mùi khói súng, hừng hực lửa, máu và da diết tình yêu, lý tưởng. Cái bút danh Châu Hà, chính Vỹ đã tặng Đà Giang hôm hai thằng nằm với nhau đêm cuối cùng trên gác xép, trước ngày Đà Giang vào mặt trận.

          - Thằng Du San nó sẽ lấy bút danh Xuyên Sơn. Nó bảo nó không dạo trên núi mà nó sẽ đi xuyên núi. Tao muốn lấy lại cái tên cúng cơm cũ: Mai Văn Nhạ.

          - Tên ấy cũng được. Nhưng đã chôn đi rồi thì còn bốc mả lên làm gì? - Vỹ nói thủng thẳng - Quê mày có sông Châu Giang, ký bút danh Châu Hà vừa có nghĩa là sông Châu, vừa có nghĩa là viên ngọc của đất Hà Nam danh giá nhất ông Cò. Cố mà giữ lấy tình quê. Từ Đà Giang đến Châu Hà là dòng chảy của một thiên tài…

          Đà Giang ôm chầm lấy Vỹ.

          - Tao phục mày. Bút danh ý nghĩa lắm. Tao nguyện sẽ sống và viết đế xứng với cái tên Châu Hà.

          Không có dòng chữ nào Châu Hà gửi từ chiến trường ra mà Vỹ không đọc ngốn ngấu. Đọc với tình yêu, sự ngưỡng vọng, háo hức và cả nỗi ghen tị, tủi hờn. Đã biết bao đêm Vỹ nằm như con tôm luộc, ghé chiếc đài bán dẫn Xiong Mao sát tai, lắng nghe như nuốt từng lời giọng Tuyết Mai đọc những truyện ngắn, bút ký, những bài thơ viết từ chiến trường của Châu Hà, Trần Nhân Ảnh và những bạn văn chương thân thiết của anh. Có lần vừa nghe, Vỹ vừa lặng lẽ khóc. Khóc vì tự hào, kiêu hãnh có một lớp nhà văn bạn bè trưởng thành, vì tủi hờn khi mình bị vứt ra khỏi lề thời cuộc, trở thành kẻ vô tích sự.

          Nhớ nhất một đêm mưa, Vỹ đang nằm bên Khiêm, nhưng tai vẫn dán vào chiếc Xiong Mao để nghe tin tức đài BBC về tình hình chiến sự. Bỗng một giọng nói quen quen khiến Vỹ tung chăn ngồi vục dậy.

          - Giọng thằng Du San em ạ. Nó đổi bút danh là Xuyên Sơn. Vào chiến trường Quảng Đà được ba tháng, không chịu được bom đạn, gian khổ, xin chiêu hồi, liền được phong hàm trung tá tâm lý chiến, suốt ngày ra rả kêu gọi anh em đồng chí về với chính phủ quốc gia. Để xem thằng phản bội này nó sủa thế nào - Vỹ kéo Khiêm dậy, vặn đài to hết cỡ.

          - Tôi viết "Xương trắng Đất Việt" với nỗi buồn đau vô hạn của một kẻ cầm bút có lương tâm khi tận mắt chứng kiến hàng triệu người trai đang tuổi thanh xuân phơi phòi, chỉ vì nghe bọn cộng sản Bắc Việt xúi giục mà đi vào cuộc nồi da nấu thịt đang tay xả súng bắn vào những người đồng bào miền Nam ruột thịt của mình. Ôi, nước Việt mến yêu, biết bao xương trắng từ thuả Trịnh - Nguyễn phân tranh đã chất thành dải Trường Sơn hùng vĩ. Giờ đây xương trắng con dân Đất Việt lại chất ngất cao thêm tới chín tầng mây…

          - Đ. m. Văn chương chó ghẻ. Mẹ cha thằng chiêu hồi!

          Vỹ ném chiếc đài xuống đất vỡ tan. Từ hồi lấy nhau, lần đầu tiên Khiêm thấy Vỹ chửi tục và phẫn nộ đến thế.

          Vỹ xoá tên Du San khỏi bộ nhớ. Nhưng anh không bỏ sót một mẩu báo, một tác phẩm nào của Châu Hà. Cuốn "Đường lớn ta đi" này là tập hợp những bài Châu Hà đã gửi ra đăng trên nhiều báo và tạp chí. Đọc lại, nhưng không thấy cũ, vẫn thấy cuồn cuộn một dòng chảy, hừng hực một hào khí. Vỹ mua cuốn sách này là để tặng giáo sư Trần, nhà triết học và người thầy tư tưởng mà anh thường lui tới và xin thỉnh giáo.

          Giáo sư Trần là một nhà khoa học nhân văn có khuynh hướng cộng sản từ những ngày du học ở Paris. Năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, ông xin theo về. Bác Hồ bảo: "Bác phân công chú ở lại, tiếp tục học hỏi, tích luỹ kiến thức. Bác muốn chú phải trở thành một triết gia Macxit hàng đầu…". Thế là giáo sư Trần ở lại Paris thêm vài năm nữa. Năm 1951, ông nhận được chỉ thị của Bác Hồ về nước, rồi lên Việt Bắc, tham gia kháng chiến. Sau năm 1954, ông công tác ở Viện Mác-Lênin, từng dịch và hiệu đính nhiều tác phẩm kinh điển của Các Mác và Anghen. Thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, rồi Chủ nghĩa xét lại ở Liên Xô, ông không được tin dùng. Nhưng với Vỹ và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, sức hút của giáo sư Trần vẫn như một tảng nam châm cực mạnh. Ông như một đỉnh núi mà những kẻ hành hương như Vỹ thường muốn hướng tới, để được hít thở một chút khí trời trong khiết và cao siêu.

          Hà Nội những ngày sau khi Mỹ tuyên bố ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 19 trở ra, đã nhộn nhịp và đông đúc hơn. Một vài trường đại học, chuyên nghiệp, một số cơ quan sơ tán. tận vùng núi xa, thiếu thốn, kham khổ quá, đã rục rịch chuyển dần về các huyện ngoại thành. Đạp xe từ căn hộ tầng hai khu tập thể của giáo sư Trần về nhà, Vỹ thấy lâng lâng một cảm hứng muốn được sáng tạo. Anh ngầm muốn tranh đua cùng với Châu Hà. Nhất định anh sẽ hoàn thành trong năm nay cuốn tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng" mà anh vừa khởi thảo.

          Đang đi, bỗng một người đàn bà từ ngõ phố lao ra đâm sầm vào xe Vỹ. Lực đâm khá mạnh khiến cả hai cùng ngã.

          - Dở người. Làm thơ hay sao đấy? Đang đi thì đâm vào người ta.

          - Tôi xin lỗi. Chị có sao không? - Vỹ bỏ xe, đỡ người bị ngã dậy. Thoáng nhìn thấy bộ mặt sát tận xương và đôi mắt ngùn ngụt lửa, anh tưởng vừa chạm vào mạch điện…

          - Ối giời ôi! Đền tôi đi? Vỡ lòi xăm. Vành cong số tám thế này - Người đàn bà mếu máo rồi lu loa lên - Ông giết tôi rồi! Ối bà con đường phố ơi, có anh công an nào không đấy? Chiếc xe tôi đi mượn của người ta…

          Lời kêu cứu của nạn nhân như có phép thần. Một anh công an như đứng trực sẵn, liền xuất hiện.

          - Không được na nối nên giữa phố xá như thế - Giọng nói trầm đục lẫn lộn n và l khiến Vỹ rùng mình - Có việc gì mời hai người về đồn công an giải quyết.

          Vỹ nhìn đồng hồ. Sắp đến giờ cửa hàng dầu hoả đóng cửa. Chiếc can nhựa anh buộc sẵn sau xe vẫn không việc gì.

          - Đồng chí công an ơi, chuyện vặt trên đường, để chúng tôi tự thu xếp với nhau. Tôi sẽ đền tiền để chị sửa xe mà…

          - Ông định lừa tôi rồi chạy làng chứ gì? Cái ví lép kẹp của ông liệu có mua nổi một cái nan hoa? Cái xe của người ta được tiêu chuẩn phân phối, xếp hàng mấy đợt mà chưa được phân chiếc xăm - Tiếng người đàn bà xoe xoé - Không lôi thôi gì hết. Đề nghị anh công an cứ cho chúng tôi vào đồn.

          Sau này, Vỹ mới biết cuộc đụng xe đạp với anh chỉ là một màn kịch. Và người đàn bà mặt sát xương xoe xoé đòi ăn vạ, chỉ là một diễn viên nghiệp dư. Vừa dẫn Vỹ vào trong đồn công an xong là chị ta chuồn cửa sau ra về. Để có cớ lục soát chiếc túi xách của Vỹ, nhất là khi anh vừa có cuộc gặp gỡ ở nhà giáo sư Trần, thì không diệu kế gì hơn là bố trí một cuộc va quệt, cãi cọ trên đường. Vỹ bỗng sực nhớ đến trường hợp mất tích của hai người bạn anh trên đường phố gần đây. Dịch giả V. đang đạp xe trên đường Hàng Bài thì bị một chiếc com măng ca đỗ xịch, bắt cóc lên xe. Rồi nhà văn B. ở Hải Phòng, cũng bị bắt trong trường hợp tương tự. Cái tin đồn: "Đang có cuộc thanh trừng chính trị, tiêu diệt tận gốc bọn xét lại hiện đại âm mưu chống Đảng, lật đổ chính quyền" chắc đang ứng vào Vỹ chăng?

          - Đề nghị anh cho xem giấy tờ - Một anh công an khác, mũi khoằm như mỏ quạ, không đeo quân hiệu, nhưng đeo băng đỏ, ngồi ở phòng trực ban, có vẻ như cấp trên của anh công an nói ngọng, chỉ tay xuống ghế mời Vỹ ngồi, mặt lạnh như kem.

          Vỹ răm rắp làm theo.

          - Nguyễn Kỳ Vỹ. Nơi công tác: Nhà xuất bản Bình Dân. Cái tên này nghe quen quá - Nhà chức trách đọc như đánh vần, rồi liếc nhanh chiếc xà cột bên người Vỹ, chuyển giọng đột ngột - Đề nghị anh cho xem túi xách.

          - Báo cáo đồng chí. Chỉ là mấy cuốn sổ cá nhân…

          - Chúng tôi hoàn toàn tôn trọng đời sống cá nhân. Nhưng nhiệm vụ buộc phải làm, mong anh thông cảm.

          Chiếc túi được lộn mề gà. Gói thuốc Bông Lúa và bao diêm. Chiếc bút máy Trường Sơn. Tài liệu gì nữa đây? Một cuốn sổ ghi chép. Chữ viết loằng ngoằng, gạch xoá như mật mã, rất đáng nghi. Đây rồi. "Chủ nghĩa Hiện thực vô bò bến", 32 trang đánh máy. Ái chà, ảnh gì mà đẹp thế này? Phim à? Lại cả bài viết giới thiệu hàng loạt phim Liên Xô: "Người với người là bạn", "Số phận một con người", "Bài ca người lính", "Người thứ 41"… Toàn phim xét lại, xoá nhoà ranh giới đấu tranh giai cấp. Đây nữa. Tập thơ "Váy Đình Bảng". Sao lại đưa váy vào thơ? Đồi truỵ hết chỗ nói rồi.

          - Anh Vỹ ạ - Anh mũi khoằm nheo mắt, chỉ để lọt hai luồng tia sáng rất nhỏ nhưng sắc lạnh dọi chiếu vào mặt Vỹ - Anh đang giữ những tài liệu nguy hiểm cấm lưu truyền, phát tán. Chúng tôi buộc phải làm biên bản và giữ anh…

          Vỹ sững sờ. Anh nhỏm hẳn dậy như vừa ngồi phải đinh.

          - Sao lại thế? Tôi là một nhà thơ. Tập tài liệu này là một nghiên cứu triết học, tôi vừa mượn của giáo sư Trần… Còn đây là bản thảo các bài báo và bản thảo tập thơ chưa hề công bố của nhà thơ Bùi Việt. Không có gì phản động. Với tư cách nhà văn, tôi cam đoan như vậy.

          - Với tư cách những người làm công tác an ninh, chúng tôi lại thấy có những dấu hiệu vi phạm an ninh quốc gia, anh Nguyễn Kỳ Vỹ ạ. Chúng ta đang trong hoàn cảnh chiến tranh, những thế lực phản động thù địch đang tìm mọi cách chống phá lật đổ nhà nước Xã hội chủ nghĩa…

          - Nhưng tôi phản đối việc khám người vô cớ. Các đồng chí đã xâm phạm tự do cá nhân…

          - Đề nghị anh không được phát ngôn tuỳ tiện. Anh đang là người phạm pháp. Thứ nhất, anh gây rối trật tự trên đường. Thứ hai, anh đang cất giữ tài liệu cấm lưu hành. "Chủ nghĩa Hiện thực vô bờ bến", ngay cái tên đã đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội. Còn tập thơ "Váy Đình Báng" thì chúng tôi biết quá rõ tác giả của nó. Bùi Việt đang bị quản thúc. Tất cả các bài thơ của ông ta đang bị cấm in và lưu hành. Chúng tôi vừa nhận được nguồn tin có người đang muốn chuyển tập thơ này ra nước ngoài…

          Một cái phẩy tay nhẹ. Anh công an nói ngọng từ phòng bên liền mang tờ biên bản đã chuẩn bị sẵn sang để trên bàn.

          - Anh đọc và ký vào đây - Người đeo băng đỏ đẩy tờ biên bản đến trước mặt Vỹ.

          Vỹ cố giữ bình tĩnh, đọc lướt trang giấy đã viết sẵn.

          - Tôi muốn gặp cấp trên của các đồng chí. Tôi cực lực phản đối việc giữ, khám người và tờ biên bản có tính áp đặt này. Tôi là một công dân, nhưng đồng thời là một nhà văn, tôi đề nghị các đồng chí nên khách quan và trung thực.

          Trong khi Vỹ đang cố kìm giữ và tìm lời diễn đạt thì một tờ giấy in sẵn, có dấu đỏ tươi được anh chiến sĩ trực ban đưa đến trước mặt người chỉ huy.

          - Vì sự bất hợp tác với cơ quan chức trách, cố tình không ký biên bản khi có dấu hiệu phạm tội, chúng tôi buộc phải ký lệnh tạm giữ anh Nguyễn Kỳ Vỹ và khám xét nơi ở và làm việc để thực hiện công việc điều tra. Đề nghị anh Vỹ đứng lên nghe đọc lệnh.

          Chỉ một tích tắc nữa thì Vỹ đổ gục. Đầu óc anh choáng váng, mắt như có màng kéo tối sầm. Chân Vỹ run, bủn rủn. Nhưng rồi Vỹ gắng gượng, đứng dậy.

          Tiếng viên sĩ quan tuyên đọc lệnh như tiếng sấm, tiếng súng, từ rất xa vọng lại, lùng bùng trong tai Vỹ.

          ***

          Cuộc khám xét nơi làm việc của Vỹ ở Nhà xuất bản Bình Dân và ở căn gác hai hiệu may Phúc Hoà cũ kéo dài suốt một buổi chiều. Không một ngóc ngách nào bị bỏ sót. Không một tài liệu, một cuốn sách nào không được săm soi kỹ lưỡng dưới những con mắt nghiệp vụ tinh tường. Tang chứng đáng giá nhất phục vụ cho công tác điêu tra là những cuốn sổ ghi chép, những bản thảo, thư từ, ảnh kỷ niệm… Đặc biệt đáng chú ý là bản thảo tiểu thuyết Vỹ đang viết dở: "Chân trời hoang tưởng".

          Rất nhiều năm sau, và có thể cho tới cuối đời, hình ảnh khiếp đảm và đau đớn của mẹ con Khiêm trong cái buổi chiều đại hoạ ấy vẫn không làm sao dứt khỏi đầu óc Vỹ. Nàng và đứa con gái tội nghiệp, lúc nép bên nhau như những sinh linh nhỏ bé không còn khả năng tự vệ, không được ai che chở, đang bị dồn đuổi vào nơi hang ổ cuối cùng; lúc ngây dại đẫn đờ không còn chút sinh lực, không có khả năng cứu giúp. Vỹ không dám nhìn vào hai cặp mắt hoảng loạn ấy. Vỹ nhục nhã đau đớn đến cùng cực vì vôn đã vô tích sự, chưa một ngày mang lại hạnh phúc cho vợ con, giờ lại gieo thêm tội lỗi, tai hoạ.

          Nếu không có những người đang thừa hành công vụ, có lẽ Vỹ đã ôm chầm lấy Khiêm và con gái, oà khóc. Nhưng lạ thay, khi chiếc còng số tám bập vào hai cổ tay anh, Vỹ bỗng thấy cứng cỏi và có chút ngạo đời, anh hất mái tóc đang xoà trước trán, nói với vợ giọng cứng cỏi rồi bước ra khỏi nhà.

          - Không sao đâu… Anh đi rồi lại về. Em gắng an ủi và chăm sóc bé Mai nhé…

          Chiếc xe màu rêu đít vuông như chiếc hòm kín bịt bùng chở Vỹ đi đâu, đi bao lâu, anh cũng không biết nữa. Từ đây Vỹ quên dần cảm giác thời gian và không gian. Lẫn lộn giữa hiện tại và quá khứ. Mờ mịt không thấy tương lai.

          Suốt hai ngày đầu trong căn phòng như chiếc quan tài, chiều ngang chừng hai mét, chiều dài ba mét, có ô kính bằng bàn tay phía trên đủ hắt một chùm ánh sáng từ ngoài vào, Vỹ lúc nằm xoài trên chiếc phản nhớp nháp vì đủ loại mồ hô người lâu ngày, lúc ngồi gục mặt trên hai đầu gối, lúc lại nằm nghiêng như con tôm luộc. Suất cơm cá khô để chỏng chơ. Tập giấy và chiếc bút bi vẫn nguyên chỗ cũ. Người ta khuyên anh thành khẩn khai hết tội lỗi, kể hết quá trình tha hoá, phản cách mạng, từ khi còn học ở Liên Xô, rồi theo nhóm Nhân văn Giai phẩm, theo Chủ nghĩa xét lại, câu kết với bọn phản động chống phá cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội…

          Cho đến ngày thứ năng thì cuộc hỏi cung bắt đầu.

          - Anh cho biết họ tên?

          - Báo cáo cán bộ, Nguyễn Kỳ Vỹ.

          - Ngày tháng năm sinh? Quê quán.

          - Báo cáo cán bộ, sinh ngày… tháng… năm…, tại làng Động, huyện Phương Đình, tỉnh Sơn Minh.

          - Nghề nghiệp, nơi làm việc?

          - Báo cáo cán bộ, đi bộ đội rồi viết văn.

          - Viết văn không phải là nghề nghiệp. Anh nói lại.

          - Báo cáo cán bộ, làm biên tập tại Nhà xuất bản Bình Dân.

          - Vì sao anh bị bắt, vì tội gì?

          - Báo cáo cán bộ, đang đi, tôi bị đụng xe đạp, rồi bị giải về đồn…Tôi không biết mình bị bắt vì tội gì.

          - Anh hãy nghiêm chỉnh. Không ai vô cớ bắt anh. Anh cố tình ngoan cố. Trả lời lại cho thành khẩn. Anh bị bắt vì tội gì?

          - Báo cáo cán bộ. Thực tình tôi không hiểu bị bắt vì tội gì. Đề nghị cán bộ cho biết…

          Nhà chức trách mũi khoằm bỗng đập bàn. Rõ ràng ông không thể kiên nhẫn được nữa. Người thư ký ở bàn bên giật mình, đánh rơi chiếc bút.

          - Anh định hỏi cung lại chúng tôi phỏng? Anh quá biết tội lỗi tày trời của mình, nhưng lại cố tình quanh co. Cho anh trả lời lại! Anh thấy mình bị bắt vì tội gì?

          Vỹ cúi mặt. Nhà chức trách đọc rõ vẻ lì lợm, sắt đá qua vành môi cắn chặt của Vỹ.

          - Anh Nguyễn Kỳ Vỹ. Hãy nhìn thẳng cán bộ và trả lời câu hỏi.

          - Báo cáo cán bộ. Tôi không có tội.

          Chiếc đồng hồ treo tường điểm tích tắc nặng nề. Không khí trong phòng tưởng như nén lại, ngột ngạt.

          - Tôi cảnh cáo anh - Nhà chức trách xô ghế đứng dậy - Tôi cho anh tiếp tục suy nghĩ. Nếu anh muốn được khoan hồng để trở về với vợ con thì phải thành khẩn. Tội anh to hơn anh tưởng rất nhiều đấy anh Nguyễn Kỳ Vỹ ạ.

          Câu cuối cùng nhà chức trách gằn qua kẽ răng, rồi hất hàm cho anh cảnh vệ đưa Vỹ đi Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, kịch bản diễn ra vẫn y nguyên như cũ. Lại những câu hỏi và những câu trả lời như lần trước.

          Lần thứ tư, Vỹ được dẫn tới một căn phòng khác, rộng hơn. Có thêm hai người nữa. Một thư ký ngồi ở bàn bên, cạnh anh thư ký cũ, có máy ghi âm và một chồng sổ sách tài liệu.

          Ngồi trước bàn lớn giữa phòng, cạnh người mũi khoằm là một người mang hàm đại tá, có gương mặt thư sinh, trán hói, đeo kính trắng, rất khó đoán tuổi. Người mũi khoằm lại đưa ra những câu hỏi thủ tục ban đầu. Và Vỹ vẫn một mực không nhận tội.

          Người đeo kính trắng bất ngờ đưa ra một cuốn sổ.

          - Anh Vỹ có nhận ra cuốn sổ này không?

          Vỹ bỗng tròn xoe mắt khi nhìn thấy cuốn sổ tay bìa màu đô mà anh tưởng đã đánh rơi ở bến phà sông Công khi anh đi cùng Hạnh lên thăm Khánh ở nông trường Quan Chi năm nào. Trời ơi, sao cuốn sổ ghi chép của Vỹ lại nằm ở đây? Bằng cách nào? Ai đã vớt nó dưới sông lên?

          - Anh ngạc nhiên lắm phải không? Cuốn sổ tay này ghi những gì chắc anh còn nhớ? Anh có muốn chúng tôi đọc lại bản nháp lần đầu bài thơ "Tiếng hát nhân dân" của anh không?

          "Chữ Đồng Tử trầm mình lội ngược sông Hồng

          Từ thuở Âu Cơ đến giờ vẫn khố

          Đồng hợp tác chỉ toàn rơm với rạ

          Máu đỏ bầm chứ đâu phải phù sa?

          Khi cho in trên "Giai phẩm Bốn mùa" anh đã sửa hai câu cuối thành " Sóng cuồn cuộn chay tận cùng xứ sở/ Máu đỏ bầm chứ đâu phải phù sa?" Miệng lưỡi thâm độc quá, nhà thơ ơi. Còn đây nữa, rất nhiều những câu thơ phản động của các đồng chỉ Nhân văn Giai phẩm mà nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ của chúng ta đã chép trong sổ tay. Nào là: "Tôi đi giữa phố giữa nhà / Mà không thấy phố thấy nhà / Chi thấy mưa sa trên nền cờ đỏ" Nào là: "Đem bục công an đặt giữa tim người" Phản động hết chỗ nói. Nhà thơ ơi, đáng lẽ chúng tôi đã cho bắt anh ngay từ những ngày ấy…

          Vỹ bất ngờ. Vì cuốn sổ như có phép thăng thiên, độn thổ, lọt vào tay các nhà chức trách. Vì cái giọng đọc diễn cảm và cách nói giễu cợt rất có duyên của ông đại tá.

          - Chưa hết đâu - Vị đại tá tiếp tục - Chúng tôi sẽ dành riêng một buổi để nghe anh nói về người đồng chí tên là Sécgâyêvích, anh đã hẹn gặp ở Đại sứ quán Liên Xô, cùng những tài liệu về Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô, mà anh đã dịch và truyền bá… Hôm nay hãy nói về văn chương… Những tư liệu mới nhất mà chúng tôi có trong tay càng cho thấy nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ đã trở thành người đứng ngoài cuộc, hoàn toàn thờ ở xa lạ với cuộc chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc. Chưa nói tới việc lưu hành tập thơ "Váy Đình Bảng" của Bùi Việt, một nhân vật của nhóm Nhân văn không chịu hối cải, hay phát tán tài liệu ra nước ngoài để đài báo của địch lợi dụng công kích, bêu xấu chế độ ta. Nguy hiểm hơn là Bùi Việt và một vài phần tử đang có khuynh hướng sáng tác suy đồi, đi ngược lại phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa mà toàn giới văn nghệ sĩ đang lấy làm kim chỉ nam cho đường hướng sáng tác của mình. Hiện thực vô bờ bến là hiện thực gì? Garôdi là ai? Rõ ràng là một sự phủ nhận Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, xoá nhoà đấu tranh giai cấp, thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Người dịch tài liệu này là ai? Có phải người từng tranh luận rồi kết thân với Jean-Paul Sartre, kẻ đã ly khai Đảng Cộng sản Pháp, đi theo chủ nghĩa hiện sinh? Chúng tôi đã từng cảnh báo giới văn nghệ sĩ rằng giáo sư Trần là một nhân vật đặc biệt nguy hiểm. Ai đã đưa anh đến với giáo sư Trần?

          - Báo cáo cán bộ, tự tôi đến. Tôi coi giáo sư là người thây triết học…

          - Đó mất lập trường quan điểm từ chỗ đó. Ăn phải đạn bọc đường từ chỗ đó, nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ ạ - Vị đại tá bắt đầu tỏ ra thích thú khi thấy Vỹ đã bị cuốn vào câu chuyện - Còn đây nữa, hai câu thơ đề tựa cho cuốn tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng" đang viết dở, đặc biệt đáng lưu ý: "Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Lại khóc những người bay không có chân trời"(1).

          - Báo cáo cán bộ, không phải thơ của tôi. Đây là câu thơ rất hay của một nhà thơ bậc đàn anh. Tôi mượn làm lời đề tựa.

          - Của ai vậy?

          - Báo cáo cán bộ. Thơ nháp trong sổ tay, dạng bản thảo, tác giả chưa công bố, vì thế xin được coi như bí mật cá nhân.

          - Nhà văn Nguyễn Kỳ Vỹ đã nhầm lẫn quá rồi. Đối với cách mạng thì không có gì là cá nhân cả. Mọi bí mật riêng tư đều thuộc về tổ chức, về tập thề. Vì chế độ chuyên chính vô sản, mọi công dân đều phải có nghĩa vụ hy sinh mọi cái riêng, mọi toan tính cá nhân. Câu thơ ấy là của ai?

          - Báo cáo cán bộ, tôi đọc trộm từ một cuốn sổ tay…

          - Của ai? Chúng tôi muốn biết tác giả của hai câu thơ này. Đây là thơ cực kỳ phán động… Nếu anh trung thực khai báo, anh sẽ được khoan hồng…

          - Báo cáo, xỉn miễn cho tôi trả lời câu hỏi này…

          Biết vừa chạm vào tảng đá ngầm, mặt vị đại tá đang lạnh tanh bỗng nhếch một nụ cười:

          - Không sao… Thì ta hãy tạm gác chuyện này lại. Tôn trọng tự do cá nhân mà… Chúng tôi đành phải tự tìm ra tác giả. Chỉ xin nói với anh Vỹ rằng đây là hai câu thơ ám chỉ, các anh dùng biểu tượng hai mặt để công kích Chủ nghĩa xã hội. Chân trời là gì? Chân trời hoang tưởng là thế nào? Người bay là ai? Các anh không thể dùng biểu tượng ba bốn mặt để che giấu dã tâm của mình được đâu. Bọn Nhân văn Giai phẩm từng rêu rao là những chiến sĩ đấu tranh cho tự do sáng tạo, tự do nghệ thuật. Chúng thiếu chân trời, bức bối ngột ngạt vì thiếu tự do, dân chủ. Chúng rêu rao Chú nghĩa xã hội là một trại lính. Đấy, biểu tượng hai mặt chính là ở chỗ đó Chúng vừa kích động trực tiếp, vừa bóng gió xa xôi.

          Vỹ bàng hoàng vì sự diễn giải và suy diễn của vị đại tá.

          - Bây giờ ta bàn đến tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng".

          - Tôi rất thắc mắc, tại sao nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ bỗng nhiên lại chuyển sang viết văn xuôi nhỉ? Anh chán thơ rồi à?

          - Báo cáo cán bộ, tôi vẫn làm thơ. Tôi coi thơ như một tháp ngà nghệ thuật. Nhưng không phải lúc nào mình cũng tới được.

          - Một tháp ngà nghệ thuật. Rất hay. Nhưng còn tiểu thuyết?

          - Báo cáo cán bộ, nếu ví thơ như một tháp ngà thì văn xuôi nói chung và đặc biệt là tiểu thuyết, như một dãy núi. Tiểu thuyết là những khẩu đại pháo của nền văn học. Một nền văn học vạm vỡ và đồ sộ phải có những đỉnh cao tiểu thuyết…

          - Thế "Truyện Kiều" của thi hào Nguyễn Du thì sao? Thi ca chẳng lẽ lại kém tiểu thuyết hay sao? - Vị đại tá lại thấy hứng thú khi đụng chạm đến những vấn đề học thuật.

          - Báo cáo cán bộ, Truyện Kiều chính là bộ tiểu thuyết bằng thơ. Một thi phẩm tiểu thuyết kiệt tác. Nguyễn Du phải dùng tới hơn ba ngàn câu thơ mới sáng tạo nổi nàng Kiều và bức tranh xã hội thời nàng sống. Thơ là những khúc tình ca và bi ca. Phải tiểu thuyết mới đủ khả năng bao chứa những vấn đề xã hội rộng lớn…

          - Và nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ phải chuyển thành nhà văn, phải dùng đến tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng" để công kích, bôi nhọ, tiến tới xoá bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của chúng ta?

          - Báo cáo cán bộ, đây có lẽ là một kiểu đọc văn bản hết sức lệch lạc…

          - Thôi, anh đừng nguy biện, đánh tráo khái niệm - Vị đại tá nhìn đồng hồ, và đột ngột nổi nóng. Hình như ông sực nhớ tới cuộc hẹn ở nhà hàng trên đường Cổ Ngư trưa nay - Hình tượng nhà báo Phan trong tác phẩm, bỏ toà soạn về nuôi chó cảnh, suốt ngày đàm đạo, tâm sự với đàn chó, nhằm mục đích gì? Tại sao anh cho cô Nhuỵ, con một địa chủ bị ta xử hồi cải cách ruộng đất, yêu Phan, rồi kể hết về cuộc đấu tố cha để khuyên Phan dựng lại thành tiểu thuyết?

          Mỗi câu nói của vị đại tá lại khiến Vỹ nổi gai, ớn lạnh dọc sống lưng. Hoá ra ông ta đã đọc kỹ những trang viết bằng đủ thứ mực, những dòng nguệch ngoạc, gạch xoá nhằng nhịt mà tưởng chỉ Vỹ mới đọc nổi. Và ông ta không chỉ đọc mà còn ghi nhớ, nghiền ngẫm, săm soi, tìm kiếm xem phía sau những dòng chữ ấy chứa ẩn điều gì?

          - Báo cáo cán bộ, đây là một tác phẩm văn học… Vả lại tác phẩm này vẫn đang ở dạng bản nháp, chưa công bố, nó vẫn thuộc về bí mật cá nhân, nên chưa thể bàn xét…

          Vị đại tá lại nhìn đồng hồ. Qua gần hai tiếng trực tiếp hỏi cung phần tử hậu Nhân văn Giai phẩm, kiêm Xét lại hiện đại, sắc mặt ông đã đổi màu. Nó chuyển từ trắng xanh sang đỏ lựng, rồi tím tái. Nguyễn Kỳ Vỹ quả là một nhân vật rất nguy hiểm, nhưng nói chuyện với y thật thú vị.

          ***

          Suốt một tháng trong phòng tạm giam, nhà chức trách vẫn không kết được tội Vỹ. Vỹ kiên quyết không ký biên bản. Vỹ đòi phải mở một phiên toà công khai để xử anh theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật.

          Đài BBC và một vài hãng thông tấn nước ngoài, như Reuters, UPI, AFP… đã đánh hơi thấy vụ bắt giam Vỹ, đưa tin một cách méo mó và sai lệch.

          Một buổi sáng, Vỹ được đưa lên chiếc xe đít vuông có thùng kín bịt bùng đến một nơi xa thành phố. Bằng trực cảm và kinh nghiệm, Vỹ nhận ra chiếc xe đang đi trên những con đường trải sỏi vùng trung du, thỉnh thoảng lại gặp một ổ voi, một vũng nước, cũng có thể là xe đang đi qua những hố bom.

          Chừng hai giờ sau, chiếc xe dừng lại, Vỹ biết, xe đang dừng bên một hồ nước, dưới những đồi thông, vì tiếng reo vi vút của thứ lá kim trong gió, không lẫn được. Quả nhiên, khi ra khỏi thùng xe, Vỹ ngỡ ngàng vì một vùng cảnh quan thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình. Người ta dẫn Vỹ đến một căn nhà lợp lá cọ, nép dưới tán thông xanh tốt, nửa nổi trên mặt đồi, nửa chìm dưới lòng đất, có hệ thống giao thông hào, hầm chữ A xung quanh rất kiên cố. Thật ngạc nhiên, đón Vỹ trong căn phòng biệt thự thời chiến ấy lại chính là anh trai của Vỹ, đồng chí Chiến Thắng Lợi.

          - Em gầy quá!

          Đó là câu nói đầu tiên của ông Lợi khi hai anh em giáp mặt nhau. Vỹ cảm thấy độ rung của hai bàn tay to nặng đặt lên vai Vỹ. Vỹ nhìn thấy hai ngấn nước trong khoé mắt người anh trai của mình. Ông xúc động và thương Vỹ thật lòng.

          - Chú có biết anh đau lòng biết bao khi gặp chú trong hoàn cảnh này không?

          Đến lúc hai anh em ngồi đối diện bên chiếc bàn rộng, có trà, thuốc lá, kẹo và bánh ngọt, thì Vỹ lại thấy những lời của Lợi không còn chân thật nữa rồi. Kỷ niệm về lần gặp gỡ đầu tiên tại Ban X, nơi Lợi làm việc, sau khi Vỹ bị trục xuất khỏi Liên Xô về nước, khiến Vỹ nhớ ngay đến cuộc tranh luận nẩy lửa giữa hai người. Lần này thì Vỹ không muốn cãi nhau với ông anh trai nữa. Vô bổ. Còn gì mà tranh cãi? Hai thế giới tâm hồn khác nhau. Hai phạm trù đạo đức, phạm trù sống khác nhau. Hai đường thẳng song song, chỉ có thể gặp nhau ở vô cùng…

          - Hôm chú đụng xe, các đồng chí công an gọi cho anh ngay. Anh nghĩ chỉ vài tiếng đồng hồ rồi chú lại về…

          - Em cũng nghĩ thế…

          Câu chuyện giữa hai anh em thật khó khăn. Ngay cả cuộc gặp gỡ này, cũng khó khăn lắm ông Lợi mới thu xếp nổi. Sẽ chẳng còn là một con người theo đúng nghĩa của nó, chứ không nói chi đến bổn phận một ông anh trai, quyền huynh thế phụ, nếu Lợi không có một cuộc dàn xếp để, hoặc là cứu tội cho em mình, hoặc là để Vỹ và gia đình họ mạc biết rằng, ông đã làm hết sức. Trước khi đến đây, Lợi cũng đã xin ý kiến Anh Tư và tổ chức. Lợi muốn bảo lãnh, nếu có thể. Nhưng ý Anh Tư có vẻ kiên quyết lắm. "Ông cha mình đã dạy rồi: Thương cho vọt cho roi. Trị thằng Vỹ tức là dằn mặt cả một phe nhóm chống đối, là giữ yên một mảng hậu phương, không để kẻ địch lợi dụng. Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót, Mao Chủ tịch từng dạy như thế". Lợi biết không còn cách nào cứu Vỹ hơn cách Vỹ tự cứu mình. Ông còn biết, chính Vỹ đang là thứ thuốc thử đối với ông. Ông đang bị Văn Quyền theo dõi từng ngày. Có hai vụ ông đã bị hớ với Quyền. Một là cuốn sổ ghi chép của Vỹ do Sành lấy trộm của vợ nộp cho Quyền. Quyền giả vờ như cánh hẩu với Lợi, đưa riêng cho Lợi biết, nhưng lại ngầm sao chụp lại và báo cáo với đồng chí Tư Vuông để thử xem Lợi có dám ém nhẹm đi không? Vụ ấy Lợi cứ chần chừ mãi, phải đợi Anh Tư nhắc. Hai là, việc Lợi xin cho Lê Kỳ Chu, con trai Phó Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh Đào Thị Cam, không những không phải ra mặt trận mà còn được sang Liên Xô học kỹ thuật tên lửa. Hai tử huyệt ấy, Văn Quyền vẫn ngầm găm lại đấy. Ai biết Quyền sẽ lật đổ Lợi lúc nào? Cho nên, chỉ cần ông tỏ ra mềm yếu, đặt tình anh em lên trên những nguyên tắc của tổ chức, chắc chắn sẽ bị trả giá…

          - Cái lần Văn Quyền đưa cuốn sổ ghi chép của chú cho anh, mấy lần anh định tâm sự với chú…

          - Hoá ra anh cũng đã biết hết cả rồi…

          Sau lần Anh Tư chỉ thị cho đăng bài bút ký "Sau luỹ tre làng" trong chuyến đi thâm nhập thực tế của chú, anh đã mừng…

          - Ai ngờ chứng nào vẫn tật ấy, phải không anh?

          - Anh không nghĩ đó là ý thức hệ, là quan điểm lập trường, mà đơn thuần chỉ là phương pháp tư duy, cách tiếp cận hiện thực. Văn nghệ sĩ các chú bồng bột và thiên về trực cảm, thiếu sự dẫn dắt của lý trí, đặc biệt là lý tưởng.

          - Vì thế mới có anh và em. Anh làm quan, còn em thì làm giặc!

          - Đừng nghĩ thế. Chú là kẻ ngoài cuộc thì đúng hơn. Chú ngây thơ về chính trị. Chú tự tách mình ra khỏi dòng chảy cuồn cuộn của cách mạng. Trong khi hàng triệu chàng trai cô gái xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, trong khi hàng nghìn nhà văn, nghệ sĩ, trí thức tình nguyện khoác ba lô ra trận, hát cho đồng bào tôi nghe, sáng tác phục vụ công nông binh, trong khi hàng chục triệu người thắt lưng buộc bụng, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, sẵn sàng dỡ nhà để làm đường cho xe qua, pháo qua, sẵn sàng hy sinh thân mình để đường thông cầu thông… thì một nhóm phần tử văn nghệ ly khai ra rả đòi tự do sáng tác, đòi dân chủ và công bằng, nguy hiểm và phản động nhất là đòi quyền lãnh đạo…

          Chiến Thắng Lợi nói sa sả hơn tiếng đồng hồ. Ông độc diễn thì đúng hơn. Ông nói về hai con đường, về giai đoạn quá độ, về quy luật tất yếu của lịch sử, về sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản… Cứ nghe ông nói thì Mỹ, Nhật, Anh, Pháp… sắp chết đến nơi. Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc đang ở giai đoạn Chủ nghĩa xã hội phát triển, mọi người đang làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Chủ nghĩa xã hội đang nhỡn tiền thành thiên đường của nhân loại…

          Vỹ nhìn ông anh một cách thương hại. Ông là người học trò cấp một rất xuất sắc, nhưng không bao giờ vươn tới được tầm kiến thức đại học. Với ông, chủ nghĩa Mác là bất biến, trong khi thế giới biến đổi từng giờ. Trong khi cả thế giới tư bản phương Tây đã vận dụng chủ nghĩa Mác để tự điều chỉnh chính nó, trong khi các nước Bắc Âu như Đan Mạch, Phần Lan, Thuỵ Điển đang thực hiện lý tưởng nhân đạo của Mác trên đất nước họ một cách hài hoà, thì các nước Đông Âu lại biến học thuyết Mác thành một thứ giáo điều, khô cứng, biến Chủ nghĩa xã hội thành một đại công xã đầy quan liêu, hình thức và tẻ nhạt… Sao ông Lợi lại nỡ lấy những bài rao giảng trong các lớp tuyên huấn cho cán bộ cấp xã để nói với Vỹ? Chả lẽ Vỹ lại đốp chát thẳng vào mặt ông anh ngu tín, giáo điều và ảo tưởng rằng, em cam đoan với anh, chỉ hơn chục năm nữa là những hình tượng sáng chói ấy của ông anh sẽ sụp đổ. Bởi cuộc sống không cho phép ai xây dựng lâu đài trên những ảo tưởng, sự độc đoán áp đặt, lối hô hào đạo đức giả… Nhưng thôi, ích gì? Lợi đang thoả mãn vì quyền lực, đang là công cụ của quyền lực. Tự nhiên Vỹ không còn hứng thú tranh luận, như muốn ngủ gật.

          - Anh có thể bảo lãnh được cho chú, với một điều kiện - ông Lợi kết thúc bài lên lớp hơn một tiếng đồng hồ.

          - Điều kiện gì hả anh?

          - Chú phải thành khẩn ký vào biên bản nhận tội. Tội hùa theo kẻ xấu gây rối, chia rẽ, đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội. Tội sáng tác và truyền bá tư tưởng chống Đảng, chống chế độ…

          - Thôi, anh về đi…

          Vỹ uể oải chực đứng dậy, nhưng chưa kịp thì đã bị đồng chí công an ở phía sau tưởng Vỹ có biểu hiện manh động, liền áp sát dằn xuống ghế.

          - Nhờ anh nói với nhà em và chị Là, nếu u có hỏi thằng Vỹ thì bảo nó đi công tác nước ngoài. Anh nhớ dặn cả chú Cục. Tuyệt đối không để cho u biết em phải đi…, anh nhé. Tội người già lắm…

          Ông Lợi thở dài bất lực. Không có cách nào cứu thằng em bướng bỉnh và bất trị này được.

          Một tuần sau, Nguyễn Kỳ Vỹ có lệnh điều đi trại T5.

          Chú thích:

          (1) Thơ Trần Dần.

          Comment


          • #20
            Chương 19


            K27



            Châu Hà là người bạn duy nhất lên thăm Vỹ ở trại cải tạo.

            Không phải Vỹ không có bạn. Những người bạn từ thuở bộ đội Cụ Hồ, những người bạn văn chương thân thiết như Châu Hà cũng có đến hàng chục. Nhiều người yêu quí Vỹ tới mức sẵn sàng chia cửa xẻ nhà. Nhiều người tình nguyện làm đệ tử, có thể tửu phùng tri kỷ suốt đêm, có thể mang vác điếu đóm cho anh tới bất cứ buổi bình thơ, nói chuyện văn chương nào. Nhưng giờ thì người ta sợ liên luỵ. Giá Vỹ mắc căn bệnh hiểm nghèo, thậm chí bệnh xã hội nan y, lây nhiễm như ho lao, hủi, dịch hạch… người ta cũng sẵn sàng đến thăm, thậm chí vận động, quyên góp tiền bạc để Vỹ và vợ con vượt qua cơn hiểm nghèo. Nhưng "căn bệnh chính trị" Vỹ đang quàng vào người thì bạn bè thân thiết đến mấy cũng đành lảng tránh. Dây vào "con hủi chính trị" như Vỹ, không những toi đời mình, mà còn khuynh gia bại sản, tan tành tương lai sự nghiệp của cả vợ, con, họ hàng ruột thịt.

            Có hai người đàn bà, không phải bạn bè của Vỹ, nhưng dám liều theo Khiêm lên thăm Vỹ hồi anh chuyển về trại giam K27 là những trường hợp ngoại lệ. Đó là Nguyệt và chị Là.

            Đi thăm em chồng, nhưng lại sợ ông Lợi ngăn cấm, chị Là nói dối về thăm quê trên Định Hoá, rồi bảo Khiêm đưa lên K27. Chắc chị đã chuẩn bị cho chuyến đi kỳ công lắm, nên khi giáp mặt Vỹ ở nhà chờ, chị vừa lau nước mắt vừa lấy trong tay nải ra một bọc túi ni-lông gói nhiều lần giấy báo, nặng tới ba ki lô, khiến Khiêm cũng phải ngạc nhiên.

            - Ruốc thịt nạc thăn với ruốc bông cá quả đấy. Thứ này để lâu ăn dần. Tôi mua tem phiếu thịt của người ta, mua cá quả ở chợ Long Biên rồi thuê người trên phố Chả Cá làm hộ. Không phải phiếu bìa B của ông cán bộ tập kết làm thơ tặng tôi đâu chú Vỹ ạ. Ông ấy tình nguyện trở về quê chiến đấu từ năm ngoái rồi.

            Ba cân ruốc ấy, Là và Khiêm năn nỉ mãi, ông quản giáo mới cho Vỹ mang vào phòng giam. Nhưng ngay hôm sau, bọn đầu gấu trong trại đã trấn sạch. May mà chúng thương và nể Vỹ tha cho anh một trận đòn xăng tan.

            Nguyệt theo lên với Khiêm một lần khác, vào dịp Quốc khánh 2-9. Giống như chị Là, Nguyệt cũng phải nói dối chồng rằng đi thăm người em ruột trên Tuyên Quang. Sành bây giờ đã là chủ tịch phường. Căn nhà phố Huế với Tổ hợp cắt tóc Cờ Đỏ nhờ sự giúp đỡ tận tình của Văn Quyền, đã hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của vợ chồng Sành. Từ ngày Nhà xuất bản Bình Dân sáp nhập với các nhà xuất bản khác, Nguyệt chuyển sang Xưởng phim Đèn chiếu, giữ chân tạp vụ. Lên thăm Vỹ, Nguyệt chỉ muốn gặp để nói về cuốn sổ ghi chép của anh.

            - Thấy ông Sành nhà em nói anh bị bắt là từ quyển sổ ấy, em ân hận quá - Nguyệt nói với Vỹ, như con chiên thú tội trước Đức Cha bề trên, nói trong giàn giụa nước mắt - Chỉ tại em thích đọc những bài thơ của anh nên em mới đem về nhà. Ai ngờ cái lão Sành nhà em giấu đi, mang nộp cho ông Văn Quyền. Tội ở em. Em giết anh không dao rồi anh Vỹ ơi…

            Nguyệt nói, Vỹ mới biết Quyền đã ngấm ngầm theo dõi anh từ dạo ấy. Cho tới giờ Vỹ vẫn chưa hiểu Quyền thù ghét Vỹ về chuyện gì? Đố kỵ tài năng ư? Ghen ghét vì Khiêm ư? Hay thù hận vì quan điểm lập trường giai cấp?

            - Được lên thăm anh lần này để nói rõ nguồn cơn với anh là em vợi đi nỗi ân hận - Nguyệt lau nước mắt, rồi liếc nhanh người quản giáo, dúi vào tay Vỹ một tờ giấy gấp nhỏ tí như chiếc khuy áo - Anh còn nhớ ông Hiệu không? Nhà báo Hữu Hiệu ấy mà?

            - Hiệu tổ trĩ thì làm sao quên được. Tưởng ông ấy nghỉ hưu rồi?

            - Vâng. Về quê, trở lại nghề bốc thuốc của ông nội rồi. Thỉnh thoảng bác ấy vẫn ra Hà Nội cất thuốc, có ghé chỗ em. Biết em sắp lên thăm anh, bác Hiệu gửi cho anh toa thuốc chữa bệnh trĩ gia truyền. Bác ấy bảo, với anh thì chẳng cần giấu bí quyết gì. Sau khi ra tù, bài thuốc này đủ giúp anh kiếm sống, chẳng cần phải viết lách văn chương gì cho nó nhọc xác, mà lại dễ mắc tù đày. Bác ấy cũng đề phòng trong này anh ăn uống kham khổ, dễ bị trĩ. Người thật thà như đếm. Bác ấy viết thế nào em vẫn để y nguyên, không suy suyển một chữ nào đâu…

            Vỹ chợt nhớ câu anh từng nói với ông Hiệu: "Đời không đang một cái tổ trĩ". Bây giờ thì phải nói khác. "Cái tổ trĩ thật ứng đáng ở đời". Đúng thế không, bác Hiệu? Vỹ thấy lòng ấm nóng tình người.

            ***

            Bài thuốc trĩ của ông Hiệu, không ngờ đã giúp Vỹ trở thành thầy lang của trại. Do ăn uống kham khổ, gạo hẩm, cá khô lại thiếu rau, nhiều người trong trại táo bón, rồi sinh trĩ. Vỹ chữa cho mấy người khỏi. Có vị giám thị, tên Bản, từ chiến trường ra, mắc trĩ nặng, được Vỹ chữa khỏi, cảm động lắm. Để trả ơn cho Vỹ, ông Bản đã cho Vỹ một đặc ân mà Vỹ phải mang ơn suốt đời.

            Số là tết năm ấy trời rét căm căm. Ở vùng núi đá này, có ngày nước đóng váng, sắp thành bằng. Đúng hai mươi ba tháng chạp âm, ngày ông Táo lên chầu trời, Vỹ lên rẫy trồng bí ngô, bị cảm lạnh. Rồi sốt rét đùng đùng. Chỉ một mảnh chăn chiên, không đủ ấm. Vỹ nằm co ro trong phòng giam, răng đánh cầm cập, môi lưỡi khô sác, sưng vù. Các phạm nhân trong trại, ai cũng thương Vỹ, dành cho Vỹ những miếng thịt hiếm hoi trong suất cơm tù, có người nhường hẳn mảnh chăn bông cho Vỹ đắp.

            Đúng lúc ấy thì Khiêm vượt ba trăm cây số đường núi lên thăm chồng. Chị mang theo một túi xách nặng đầy bánh chưng, giò, chả, kẹo bánh, thuốc lá, đường, sữa… mà gia đình và bè bạn dồn hết phần tem phiếu để lo cho Vỹ một cái tết.

            Nội quy của trại, phạm nhân chỉ được gặp người thân một buổi ở nhà chờ, dưới sự giám sát của quản giáo. Ngay cả vợ lên thăm chồng cũng chỉ được trò chuyện vãn nhau qua khung cửa sắt. Nhưng lần này, giám thị Bản đã giải quyết cho Vỹ như một trường hợp đặc biệt ngoại lệ. Bởi Vỹ đang ốm, rất cần người chăm sóc. Giám thị Bản giải thích với mọi người thế.

            Nhưng ý tứ sâu xa của sự hào phóng này là Vỹ đã giúp Bản khỏi bệnh trĩ. Bản lại là người yêu thơ văn, rất thích tập thơ "Thời của Thánh Thần". Trong số những phạm nhân ở trại, Vỹ là người tù mà ông luôn có những ứng xử đặc biệt. Ông hiểu được nỗi oan khuất và tấn bi kịch của đời Vỹ trước thời cuộc. Trong con người Bản vẫn sẵn tiềm chứa lòng trắc ẩn.

            Đêm ấy, trong căn nhà lá của trạm xá trại cải tạo, là một đêm kỳ diệu. Rét thấu xương. Gió vật vã trên tán lá rừng như có hàng đàn trăn gió trườn qua. Nhưng thật lạ, gian nhà lá chỉ tù mù một ngọn đèn dầu mà như có sức nóng của một bếp than hồng. Chỉ mới gặp Khiêm, được nắm bàn tay nàng, soi vào mắt nàng, là cơn sốt rét trong người Vỹ lui ngay. Vỹ cảm thấy khoẻ mạnh, bừng bừng sinh lực.

            - Con Mai thế nào? Có học được không? Con có nhớ anh không? Cứ bảo con là anh đi công tác xa cho con nó khỏi tủi… Hai bà mẹ của chúng mình nữa? U đã biết anh lên trên này chưa? Mợ có khoẻ khỏng? Anh chỉ thương bà ngoại con Mai vất vả!

            Bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Khiêm chưa trả lời câu này, Vỹ đã hỏi câu khác. Cuống cuồng, Khiêm cứ gật lia lịa, cứ nhìn Vỹ như người đói con mắt.

            - Chỉ chậm lên tàu mười lăm phút là có thể em vĩnh viễn không gặp anh đêm nay - Khiêm ngả cánh tay cho Vỹ gối đầu, tay kia vòng ôm anh trong lòng, như ôm ấp đứa con. Nàng kể cho anh nghe chặng đường lên thăm chồng - Máy bay B52 đang rải thảm Hà Nội, Hải Phòng. Ních-xơn tuyên bố sẽ cho Việt Nam trở lại thời đồ đá anh ạ. Tàu vừa đi khỏi thì nhà ga bị đánh bom. Còn bao nhiêu người đang chờ tàu. Sáng qua nghe đài nói, hơn một trăm người bị bom Mỹ giết hại…

            - Anh ở trên này hoá ra lại yên ổn. Suốt mấy năm nay chẳng biết tiếng máy bay là gì - Vỹ nói một câu như người ngớ ngẩn, nhưng nước mắt anh lại chảy ướt cánh tay Khiêm.

            - Trước khi lên đây, em đến gặp bác Lợi, hỏi xem liệu bao giờ thì anh được tha. Bác ấy bảo, việc ấy là tuỳ thuộc ở anh. Chỉ cần anh viết bản khai, thành khẩn nhận tội đã trót dại theo bọn phản động chống phá cách mạng…

            Vỹ bỗng đẩy Khiêm ra.

            - Em gặp bác ấy làm gì? Phí nhời. Anh không muốn nhắc đến ông ấy.

            - Đừng cực đoan thế anh. Anh em ruột thịt, làm sao mà bỏ nhau được? Chắc bác ấy cũng bị dằn vặt lắm. Anh ở trong này bác ấy cũng chẳng sung sướng gì… Mà thôi, không nói đến chuyện ấy nữa. Chẳng có cơ hội nào vợ chồng mình được ở với nhau thế này…

            Nghe giọng hờn dỗi của Khiêm, tim Vỹ thắt lại. Anh vòng tay ôm xiết lấy người nàng.

            Lâu quá rồi, hơn hai năm rồi, Vỹ không gần vợ. Cứ tưởng gặp nàng, như tất thảy những lần xa nhau lâu ngày, Vỹ sẽ ôm ghì lấy nàng, như con thú gặp con mồi, như con đực gặp con cái chồm lên mà cắn xé, ngấu nghiến, cho thoả cơn thèm khát Vậy mà lần này, một cơ hội trời cho hiếm có. Một nghĩa cử đầy nhân đạo và tình người mà chỉ vị giám thị giàu lòng vị tha và đầy quyền lực như Bản mới dám ban phát cho vợ chồng Vỹ, thế mà Vỹ có thể để tuột khỏi tay mình. Vỹ hoảng sợ khi mơ hồ nhận ra mình không còn khả năng chăn gối. Ôm riết Khiêm vào lòng, nhưng Vỹ vẫn không dám để nửa dưới của anh chạm vào người nàng. Vỹ vừa tự ti vừa sợ hãi phải thú nhận sự bất lực của mình. Đó sẽ là bí mật cuối cùng của Vỹ Anh không muốn nàng thất vọng, đau khổ. Đời thằng đàn ông, nhục nhã nhất là sự bất lực. Mà Vỹ, ngót bốn mươi tuổi, đâu phải đã già? Ý nghĩ đau đớn ấy cứ chà xát trong lòng Vỹ. Liệu Khiêm có hiểu và thông cảm rằng anh vẫn còn chưa dứt trận ốm? Rằng thiếu dưỡng chất, sinh khí đàn ông cũng yếu đi nhiều. Ôi giá như nàng ở bên Vỹ thêm một hai đêm nữa…

            - Kìa, anh. Sao mà khóc? Ở bên em, anh không thấy hạnh phúc ư?

            Nàng hôn môi Vỹ, uống hết những ngấn nước mắt đang chảy trên má anh. Đôi môi nàng, mềm ấm và thơm mùi trái chín, ấp lên môi anh. Cảm giác tê mê, ngọt ngào quyến rũ của đầu lưỡi nàng làm anh bủn rủn. Với tất cả tình yêu, sự sung mãn và thèm khát của người đàn bà bấy lâu gìn giữ, kìm nén, người đàn bà đang độ phì nhiêu nhất, đắm đuối nhất, nàng đang giúp anh hồi sinh lại. Rồi, như có phép màu, như con rắn có khả năng tự lột xác, nàng trườn khỏi những vải vóc đang mặc trên người. Một tấm thân mềm mại, căng nở, ấm nóng, trẻ trung đến ngỡ ngàng thoắt làm Vỹ bừng bừng sinh lực. Ánh sáng ngọn đèn dầu không đủ cho Vỹ nhìn thấy thân thể nàng, nhưng anh cảm nhận thấy làn da ngà ngọc và những đường cong bất hủ còn gợi cảm và tuyệt mỹ hơn cả mười năm trước. Rồi cũng những động tác thuần thục và dìu dàng, nàng cởi bỏ hết vải vóc trên người Vỹ. Anh như lột xác, khắp người bừng bừng hưng phấn, khắp người trưởng nở, cương cứng.

            - Em thèm một đứa con. Em sẽ sinh cho anh một thằng cu Vỹ con - Nàng lùa lưỡi vào tai Vỹ, giọng ngạt đi vì ham muốn.

            Hai tay nàng, cặp vú căng mọng của nàng, cả cặp giò thon thả của nàng, cùng hoà nhịp mơn trớn, khích lệ anh trong một vũ điệu tuyệt vời của nữ thần tình ái. Như con mãnh thú, Vỹ trườn lên người nàng, đi xuyên suốt người nàng.

            Tấm ván ghép run lên bần bật. Vỹ nghe rõ tiếng những khớp xương mảnh dẻ của nàng kêu răng rắc như có thể gãy vụn dưới sức nặng và sự cuồng bạo của anh.

            Tiếng sấm trái mùa, rồi mưa rừng ào ào đổ xuống. Gió gầm rít trên tán cây, mái nhà, cùng tiếng mưa sầm sập như dàn hoà tấu vĩ đại của thiên nhiên khiến tiếng rên rỉ trong những cơn khoái cảm tột cùng của nàng mang đậm màu sắc hoang dã và lính thiêng như thuở hồng hoang.

            ***

            Cái ý nghĩ mình có thể chết được rồi bắt đầu nảy sinh trong Vỹ sau cái đêm thần tiên ấy. Như một người đã đạt đến đỉnh điểm của tình yêu và hạnh phúc, Vỹ thấy mình không còn lý do gì để tồn tại trên cuộc đời này. Vỹ đã làm xong mọi công việc của một kiếp người.

            Rất nhiều đêm Vỹ nằm chong mắt nhìn lên trần nhà.

            Hình ảnh thầy anh, ông Cử Phúc, trong bộ quần áo trắng, treo ngược xà nhà, cứ chập chờn, ám ảnh. Thầy anh tự huỷ trong sự bi phẫn, bị dồn đuổi, trong áp lực nhục nhã của kẻ sỹ Nhưng anh thì khác. Anh sẽ tự giải thoát trong nỗi ê hề thừa mứa của bữa tiệc đời sống, trong sự kiệt cùng của sự hữu hạn đời người. Chim ưng đã bay đến tận cùng của giới hạn bầu trời, chỉ còn cách đâm đầu xuống biển. Tôi khóc những chân trời không có người bay. Giờ thì Vỹ không khóc được nữa. Không cần khóc nữa. Vỹ sẽ tự giải thoát.

            Vỹ lặng lẽ kiếm tìm một dải lụa, hay một sợi dây dù.

            Nhưng rồi, mọi dự định của Vỹ bỗng nhão ra, mủn đi, tựa hồ như chính sợi dây bằng tơ tằm hay nilông kia bị ngâm vào a xít. Ấy là khi Vỹ nhận được thư của Khiêm. Nàng hoan hỉ và sung sướng báo tin đã có thai. Đứa con mà nàng ao ước đến cháy bỏng đã được kết trái trong cái đêm mưa gió bên nhà lao giữa rừng.

            "Em tin mình sẽ đẻ con trai. Bé nghịch lắm. Hơn cà anh nữa cơ. Em định đặt tên con là Nguyện Kỳ Phong, anh đồng ý không? Cơn gió kỳ lạ: Anh đã thổi vào em một cơn xoáy lốc. Suốt đời em nằm trong vòng xoáy của anh. Không thể thoát được Có con, em càng yêu và thương anh bội phần…"

            Một người vợ như thế, còn mong gì hơn? Phải tìm mọi cách sống để trả ơn nàng. Vỹ chế giễu sự bạc nhược, hèn hạ, sự trốn chạy trách nhiệm và nghĩa vụ làm người trong những ngày qua của mình. Vỹ viết thư về thú nhận với Khiêm và mong nàng tha thứ, mong nàng vì anh mà giữ gìn sức khoẻ, nuôi dạy các con…

            Từ ngày có bé Phong, Vỹ bỗng trở thành một người trầm lặng. Anh sống giữa đám phạm nhân nhộn nhạo và ô hợp như một cái bóng âm thầm. Hết giờ làm lao công ngoài trại, Vỹ thường hay nán lại bên các bờ suối, tha thẩn bên các bụi cây để kiếm tìm một loại thảo dược, một thứ rễ cây nào đó. Về trại, Vỹ ngồi một góc, tìm một xó xỉnh và trầm ngâm suy nghĩ hàng giờ. Bằng một trí nhớ kỳ lạ, Vỹ hình dung lại những hộc thuốc bắc của thầy ngày xưa với hàng trăm đầu vị: trần bì, cam thảo, cát cánh, xuyên khung, đỗ trọng, thảo quả, kỳ tử, quế chi, khổ qua… Vỹ sẽ tìm lại những bài thuốc gia truyền thầy thường dùng ngày xưa. Tất nhiên, bài thuốc chủ đạo của Vỹ sẽ là bài thuốc trĩ mà ông Hiệu đã tặng. Vĩnh biệt văn chương. Vĩnh biệt nàng thơ với độc dược đầy tính Vulnérable của nàng. Vỹ sẽ trở về nghề thuốc gia truyền của thầy để độ thế và tìm kế sinh nhai, nuôi con Mai, thằng Phong và đỡ đần Khiêm…

            Nhưng khi đã quyết tâm khai tử một khát vọng, một hoài bão mà cả đời người đam mê, theo đuổi, dường như Vỹ cũng dần đánh mất mình. Anh trở nên chậm chạp và lười nhác, nhiều lúc như kẻ không hồn. Cái lõi ở bên trong đã khác thì cái vỏ bên ngoài cũng thay đổi.

            Bốn năm tiếp theo,Vỹ sống như kẻ cầm hơi, như kẻ mộng du. Gương mặt Vỹ như phù nề, bạc phếch, có lúc bì bì, tựa như một quả bòng héo.

            - Thôi chết rồi. Mày bị bệnh phù thũng rồi, Vỹ ơi?

            Đó là tiếng kêu thương của Châu Hà khi hai người bạn vừa chạm mặt nhau ở gian nhà chờ của trại. Châu Hà nhìn bạn chằm chằm, rồi anh bật khóc hu hu. Bao năm ở chiến trường, từng mấy lần ôm xác đồng đội, đào hố chôn đồng đội, nhà văn mặc áo lính chỉ nuốt nước mắt vào trong, nhưng lần này, Vỹ vẫn còn sống sờ sờ, đang cười nhăn nhở với Châu Hà đó mà anh lại ngỡ rằng bạn anh đang rất gần cái chết. Đau xót và thương đến thắt lòng.

            - Mai Văn Nhạ đây. Đà Giang hay là Châu Hà cũng là tao đây! Mày có nhận ra không hở Vỹ?

            Ngơ ngác và hồ nghi, Vỹ vẫn nhoẻn một nụ cười vô hồn. Bộ mặt Vỹ thật ngô nghê, đần độn.

            - Hở Vỹ? Mày không nhận ra thằng bạn chí cốt của mày ư? Đà Giang, Châu Hà. Nhà văn Châu Hà…

            - Nhận ra rồi… Tưởng nhà văn Châu Hà đã đi theo thằng chó ghẻ Du San?

            - Mày điên rồi. Mặc mẹ thằng phản bội Du San. Nó không đáng được nhắc tên ở đây. Nó khác chúng ta một trời một vực. Nó là bóng tối mà chúng ta là ánh sáng…

            - Mình cũng là ánh sáng à? Nói năng lạ đấy. Mình tưởng ông cũng chôn mình xuống địa ngục rồi…

            - Vỹ, mày nói kiểu gì thế? Không yêu mày thì tao đã chẳng tìm đến đây. Này, tao hỏi, mày phải nói thật. Mày có bị đánh đập, tra tấn không?

            Vỹ nhòm vào mặt Châu Hà rất lâu. Như cân đong đo đếm một cái gì.

            - Đấy là thời Pháp. Bây giờ thời dân chủ, ai lại tra tấn, hành hạ…

            - Vậy vì sao mày ốm thế? Thiếu ăn hay bị bệnh gì?

            - Ông không nhớ câu thơ Chế Lan Viên à? Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ. Hớ hớ… Xưa như thế, nay vẫn còn như thế. Bộ đội các ông còn không có ăn thì bọn tù chúng mình làm sao no được.

            - Thằng này tù thành tinh rồi. Trả lời bạn mà như nói với giám thị trại giam - Châu Hà nửa khóc nửa cười.

            - Đừng cười giễu thế. Miệng ông giờ đã có gang có thép rồi… Nhà văn Châu Hà đang nổi như cồn. Tôi đọc ông thấy đã lắm. Tụi học trò trong nhà trường đang học ra rả từng áng văn của ông. Sướng thật. Ông phùng thời. Còn tôi thì bất phùng thời. Tôi quên hết văn chương rồi ông ạ. Đang học nghề bốc thuốc. Để chữa cái bệnh phản động bán nước hại dân…

            Châu Hà quay đi, không nỡ nhìn bạn. Mồm Vỹ méo xệch. Hai hốc mắt rỉ nước. Thoắt cái, Vỹ lấy cùi tay chùi nước mắt, rồi tự nhiên chết lặng, mắt nhìn vào chốn mung lung.

            Châu Hà muốn nói với bạn bao nhiêu chuyện, hỏi han những điều mà suốt chặng đường lên đây anh nung nấu, bồn chồn. Vậy mà từ lúc đó, Vỹ đổi tâm tính, như kẻ vô cảm, dửng dưng. Thậm chí Vỹ cứ lơ đãng quay mặt đi không muốn tiếp chuyện.

            Hết giờ tiếp xúc. Giám thị Bản nói với Châu Hà:

            - Dạo này phạm nhân Vỹ không được khoẻ. Bác sĩ nói phạm nhân Vỹ mắc căn bệnh trầm cảm. Đồng chí có thể nghỉ lại nhà khách của trại. Mai phạm nhân Vỹ khoẻ, chúng tôi lại bố trí để đồng chí gặp gỡ.

            Châu Hà lấy khăn chấm nước mắt, nhìn theo cái dáng lòng khòng chậm chạp của bạn khuất sau cổng trại, lắc đầu buồn bã.

            - Tôi phải về Hà Nội ngay chiều nay. Có điều này tôi muốn nhờ các đồng chí giúp đỡ.

            - Đồng chí cứ nói. Với nhà văn Châu Hà, chúng tôi sẽ làm hết sức mình.

            Châu Hà lấy hết trong ba lô những thứ mà anh mang cho Vỹ, đặt lên bàn. Rất nhiều thuốc bổ tân dược, nhân sâm, nhung hươu, lại thêm một chai rượu hổ cốt nữa.

            - Tôi nói điều này các đồng chí có thể không tin. Nhưng với tư cách một người lính đã qua nhiều thử thách chiến trường, một người cộng sản cầm bút, tôi cam đoan rằng Vỹ là người tốt một người yêu nước, thậm chí theo tôi đó là một tài năng, một tài sản quốc gia… Sức khoẻ cậu ấy đang có vấn đề. Trước mắt cần được bồi dưỡng để chống sự suy sụp. Tự cậu ấy không thể chăm sóc mình được. Tôi nhờ các đồng chí trong bệnh xá trại giúp tôi bồi bổ cho cậu ấy bằng những thứ thuốc này - Châu Hà móc các túi áo quần, lấy hết số tiền mà anh có, đưa cho Bản - Đây là số tiền lương mà tôi không tiêu đến. Nhờ các đồng chí hằng ngày mua thêm thức ăn để cho Vỹ phục hồi sức khoẻ.

            Giám thị Bản đưa tay ngăn lại.

            - Chúng tôi nhận quà và thuốc của đồng chí để chuyển cho phạm nhân Vỹ. Còn tiền thì không thể. Đây là nguyên tắc của trại… Chúng tôi hứa sẽ cố gắng thực hiện những điều mà đồng chí gửi gắm…

            ***

            Chiếc Uoat đưa Châu Hà về Hà Nội trong buổi chiều xám xịt. Suốt chặng đường hơn ba trăm cây số, nhà văn ngồi như hoá đá.

            Gần mười năm ở chiến trường, nhiều khi đối diện với cái chết, nhiều tháng đói quay quắt, đến rau tàu bay, củ chuối rừng cũng không kiếm đâu ra, ba lần vào viện dã chiến, cắt nửa mét ruột… vậy mà chưa bao giờ anh gục ngã, thối chí. Lúc nào anh cũng có thể viết. Dưới địa đạo. Trên cánh võng giữa rừng. Dưới làn pháo sáng địch. Bên ngọn đèn cầy… Viết như một nhu cầu tự thân, như một thôi thúc, một niềm hứng khởi vô bờ, như một nhiệm vụ thiêng liêng trước Nhân dân và Tổ quốc. Thế nhưng, vừa ra khỏi cuộc chiến, vừa hưởng cuộc sống hoà bình, Châu Hà đã đụng phải một thực tế ngổn ngang phức tạp.

            Sự trớ trêu đầu tiên, cái nghịch lý đầu tiên mà Châu Hà gặp là vụ nghi án văn chương của Vỹ. Bằng trực cảm và chiêm nghiệm của người cầm bút, anh tin rằng Vỹ là người bị oan ức bị quy chụp bởi một lối hành xử thô thiển ít văn hoá, thiếu bề dầy nhân văn. Đây cũng chính là căn bệnh vĩnh cửu của quyền lực. Rất hiếm người nắm quyền lực lại chấp nhận quanh mình có kẻ giỏi phản biện, thích tranh luận, dù anh ta luôn đứng về lẽ phải, thuộc về nhân dân. Những nhà văn hoá lớn như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… là những ví dụ. Phải nhiều chục năm sau, hàng thế kỷ sau, lịch sử mới nhận ra đóng góp lớn lao của họ trong tiến trình phát triển của văn hoá, văn minh dân tộc.

            Nguyễn Kỳ Vỹ, cũng như Châu Hà, những người cầm bút chân chính, nếu không đóng vai những người phản biện tài ba, mà chỉ là một người hát thánh ca trong một dàn đồng ca vĩ đại thì phỏng có giúp ích gì thêm cho bước tiến xã hội, đóng góp vai trò gì vào động lực của đời sống?

            Châu Hà đã thành thật nói tất cả những điều gan ruột ấy với đồng chí Tư Vuông ngay sau chuyến lên trại giam thăm Vỹ.

            - Đồng chí nói rất hay - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên chắp hai tay trước ngực, mắt lim dim lắng nghe Châu Hà hồi lâu, rồi mỉm cười không ra giễu cợt, cũng không hẳn hoàn toàn tán đồng. Nếu không phải là Châu Hà, người hùng văn chương chống Mỹ, tiếng tăm nổi như cồn, tên tuổi lừng lẫy hơn nhiều tư lệnh quân đoàn, chính uỷ mặt trận, thì đời nào ông chịu cho ngồi đối diện để thao thao giảng giải về văn hoá, nhân văn như thế này.

            - Mấy anh văn sĩ thời thượng dễ mắc bệnh hoang tưởng - Đồng chí Tư Vuông thầm nghĩ - Tưởng văn chương cũng là một thứ quyền lực, văn chương ngang bằng chính trị. Nhầm to rồi. Huyễn hoặc mình mà làm gì? Nguyễn Trãi ngày xưa cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ chính trị. Dẫu có sang sông rồi cũng chỉ là quân tốt. Lễ phong thần ở đền Đồng Cổ, Lê Lợi xếp cho chức Hành khiển, ở hàng gần áp chót. Sau áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo, phẩm trật đến thế là ân oán giang hồ đã xong. Tốt đã qua sông rồi, gần bằng xe pháo mã rồi, còn mong gì nữa? Muốn bắt sỹ tượng, muốn thịt tướng ư? Còn lâu nhé. Quá hăng máu vịt, thối tốt như chơi. Vì thế mới có chuyện Nguyễn Trãi về Côn Sơn ở ẩn. Mới có đại bi kịch Lệ Chi Viên. Kẻ sỹ mọi thời đều chỉ như cái dải áo trên tấm long bào. Chứ làm gì mà hoắng lên? Cái dải áo mà vướng thì cắt, bị bẩn thì bỏ. Chính trị là thế. Chuyên chính vô sản lại là thứ chính trị cao nhất, triệt để nhất. Mao Chủ tịch dạy: "Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót". Bài học của Tào Tháo vận dụng vào thời nay đấy. Tào Tháo đi xa rồi, vẫn không yên tâm, sợ Lã Bá Sa phản bội, bèn quay lại giết cả nhà người vừa cưu mang, cứu sống mình.

            - Câu chuyện Tào Tháo xưa, người sau cho là gian hùng, bất nghĩa. Nay có thể ví như sự cảnh giác cách mạng - Đồng chí Tư Vuông nói - Mác cũng đã dạy: "Vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí", tức là không thể nói suông với kẻ thù. Buông lỏng chuyên chính vô sản là tự sát. Đồng chí là nhà văn cách mạng, chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hoá, càng phải quán triệt sâu sắc luận điểm này…

            - Dạ thưa anh. Tôi nói điều này, nếu không phải, xin anh bỏ qua…

            - Đồng chí cứ nói - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên xem đồng hồ - Còn ba mươi phút nữa: Hôm nay mình mời cơm nhà văn của chiến trường cơ mà. Cứ thoải mái trao đổi. Mình thực sự muốn dân chủ, nói thẳng nói thật…

            - Anh cho phép thì tôi xin thưa. Tôi thừa nhận khả năng bách chiến bách thắng của chúng ta. Nhưng hình như còn một khả năng mà chúng ta chưa dám thừa nhận. Đó là khả năng hoài nghi, khả năng biến những con người tài năng, tâm huyết thành nạn nhân của những cuộc thanh trừng, thành những phế nhân về tư duy và nhận thức, thành những kẻ ngoài cuộc…

            - Ví dụ? - Đồng chí Tư Vuông bỗng ngồi thẳng dậy, đôi mắt kính loang loáng chĩa thẳng vào Châu Hà.

            - Ví dụ khẩu hiệu "Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, mà điển hình là cải cách ruộng đất. Theo thống kê tuyệt mật mà tôi được biết, bẩy mươi phần trăm huyện uỷ viên, tỉnh uỷ viên toàn miền Bắc đã bị xử bắn, bị thanh trừng trong cải cách ruộng đất. Bẩy mươi tám phần trăm địa chủ cường hào đại gian đại ác là thành phần bị quy sai, oan khuất, trong đó rất nhiều người có công với cách mạng, là ân nhân của cách mạng… Và cụ thể nhất, ví dụ trường hợp của tác giả "Thời của Thánh Thần" nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ. Vỹ nó có tội gì mà phải bày đặt ra một cuộc bắt bớ hạ cấp thế? Chúng ta có pháp luật, có toà án. Có tội sao không mở phiên toà? Hãy công khai với tất cả bàn dân thiên hạ, với thế giới, một tên phản quốc đi. Rút cục, Vỹ bị tù gần sáu năm trời mờ mịt không biết vì tội gì. Thời đại văn minh bây giờ đến một chiếc máy bay rơi từ tít tầng trời chục ngàn mét, người ta còn tìm bằng được hộp đen để truy nguyên nhân, huống như một con người bằng xương bằng thịt với bằng cứ sờ sờ giấy trắng mực đen. Tôi lo rằng, chính chúng ta mới đang là một cái hộp đen lớn, âm u và đầy bí hiểm. Một nền dân chủ chân chính không bao giờ nắm trong bóng tối… Tôi đề nghị anh, với cương vị và uy tín của mình, hãy đưa vụ án Nguyễn Kỳ Vỹ ra công lý…

            Lẽ ra phải vặn cổ cái gã đang ngồi đối diện. Đáng ra phải gọi một cú điện thoại để công an mang còng số tám lôi đi. Nhưng đồng chí Tư Vuông lại nuốt nước bọt, ngả người trên ghế tựa, mắt lim dim sau cặp kính. Ông hiểu rằng bây giờ đã khác hồi Nhân văn Giai phẩm. Không dễ chụp mũ, không dễ áp đặt. Chỉ cần ông tỏ thái độ, ngay ngày mai cả giới văn nghệ; cả mạng truyền thông toàn cầu sẽ lu loa lên rằng ông chà đạp văn nghệ, phỉ báng nhà văn. Với lại, mình mời người ta đến nhà ăn cơm để nói chuyện. Người ta thành thực, tất nhiên, một sự thành thực quá khích, thậm chí xấc xược, thì cũng phải đành thể tất… Thôi được, tạm thời không tranh luận. Tôi lắng nghe anh. Tôi dân chủ với anh. Nhưng anh bạn người hùng của văn học chống Mỹ kia ơi, đừng đi quá giới hạn cho phép. Không có dân chủ quá trớn đâu nhé!

            - Chuyện cải cách ruộng đất cũ rồi - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên khoát tay như xua đi một vật cản vô hình trước mặt - Chính Bác Hồ mình đã khóc trước đồng bào về những sai lầm không muốn có. Nhắc lại, là để thấy khả năng tự sửa chữa của chúng ta. Thánh thần cũng còn có khuyết điểm. Người cộng sản như mình, như ông, cũng có lúc lỗi lầm chứ? Sai thì sẽ sửa. Nhưng không thể hữu khuynh, lơ là cảnh giác cách mạng. Về trường hợp Nguyễn Kỳ Vỹ thì lại khác. Ông không hiểu đằng sau văn chương còn có chuyện gì đâu. Chỉ đơn thuần văn chương thì dại gì mà bắt? Văn nghệ sĩ mà làm chính trị mới là mối nguy. Bên an ninh họ sẽ cho ông biết chỗ nào có vi trùng… Cuộc chiến càng ác liệt thì hậu phương càng phải dọn cho sạch. Mình không chuyên văn nghệ, thơ chỉ là tay trái, là cảm hứng nhất thời, nhưng mình hiểu vũ khí văn nghệ. Những viên đạn bọc đường tưởng ngọt ngào vô bổ, nhưng đừng chủ quan. Nó có thể phá huỷ cả một tổ chức, một thể chế, phá huỷ toàn bộ thành quả cách mạng. Ông có mường tượng ra đất nước mình sẽ ra sao không, nếu hồi ấy bọn Nhân văn Giai phẩm làm chủ được tình hình văn nghệ? Tập hợp được toàn bộ lực lượng vàn nghệ sĩ? Một cuộc Bắc tiến chắc chắn sẽ xảy ra. Mỹ Diệm ở miền Nam, văn nghệ sĩ phản động ở miền Bắc… Sẽ có tắm máu…

            - Thưa anh, đó là khả năng hoài nghi…

            - Ông đừng ngắt lời mình… Nguyễn Kỳ Vỹ bắt đầu trượt dốc từ dạo ấy. Không ai đau bằng mình đâu. Đích thân mình viết lời giới thiệu cho tập thơ "Thời của Thánh Thần" chứ ai? Mình đưa Vỹ lên mây xanh, trở thành chàng thi sĩ của cách mạng. Nhưng rồi Vỹ nó bạc. Nó phụ mình. Theo đóm ăn tàn, theo voi ăn bã mía. Có những chuyện ngoài văn chương chỉ bên an ninh họ mới biết được. Chỉ xét riêng bài thơ "Tiếng hát nhân dân", Vỹ đã xoá sạch công lao của nó rồi. Con chửi bố mẹ thì là nghịch tử chứ còn gì nữa? Phải dạy cho đến nơi đến chốn. Biết sợ rồi, thì tha.

            Châu Hà thấy ớn lạnh. Không còn hứng thú tranh luận nữa. Đến một khoảng trời cỏn con sáng tạo, một cái tôi nhỏ bé cũng không có chỗ đứng.

            - Cánh nhà văn các ông có thể không thích nói tới hai từ "chuyên chính", nhưng đó là sự sống còn của cách mạng. Đây là nguyên lý của học thuyết, phương châm của tổ chức. Ngay cả mình cũng chỉ là công cụ của học thuyết ấy. Muốn làm khác đi cũng không được. Trong chuyện này đừng trách Chiến Thắng Lợi. Anh em ruột thịt, tay đăm sao nỡ cầm dao chặt tay chiêu? Có lần tâm sự với mình, Lợi đã khóc. Mình cũng thương lắm chứ. Nhưng, "Thương em anh để trong lòng. Việc quan anh cứ phép công anh làm…". Anh Lợi cũng chỉ là một quân tốt…

            Châu Hà định nói "quân tốt trong tay anh" nhưng rồi kìm lại được. Thoạt đầu khi vừa từ chỗ Vỹ về, Châu Hà định đến gặp Chiến Thắng Lợi ngay, nhưng sau nghĩ lại thấy thật vô bổ, phí công. Vả lại, anh không muốn đụng Văn Quyền ở đó. Từ sau khi phát hiện ra việc Văn Quyền thuổng tư liệu của anh để viết bài phóng sự "Đại quân ta tiến vào Sài Gòn" phát trên Đài và in trên nhiều tờ báo lớn, thì Châu Hà thực sự khinh bỉ, ghê tởm không muốn dây với con người ấy.

            - Chúng ta, cả ông, cả mình cũng đều là những quân tốt. Thế đấy, Châu Hà ạ. Trên chúng mình là tổ chức. Còn tổ chức là ai thì làm sao mà chỉ ra được? Nhà văn Châu Hà cũng phải biết thương chúng mình với chứ.

            - Anh nói như thế là trốn tránh trách nhiệm - Châu Hà nhìn thẳng vào mắt đồng chí Tư Vuông. Đã đến lúc anh phải lật ngửa quân bài - Anh nói với tổ chức một câu bằng cánh nhà văn chúng tôi phải viết cả đời. Tôi tha thiết cầu xin anh có ý kiến với cấp trên cho Vỹ được tự do. Hãy cứu lấy một tài năng khi còn chưa muộn. Hãy cứu lấy một con người. Tôi vừa lên thăm Vỹ về. Cậu ấy có thể chết trong tù…

            Như một chiếc hàn thử biểu, đồng chí Tư Vuông đo được độ nóng trong người Châu Hà. Cậu ấy đang uất nghẹn. Hãy trông chừng ngọn núi lửa có thể phun trào trong khoảng khắc Và ông nghĩ ngay đến cách hạ nhiệt:

            - Nhà văn làm mình bối rối đấy. Mình thật sự quý và trọng Châu Hà về nhân cách một nhà văn chân chính, về tình bạn văn chương của ông với nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ… Thôi được. Mình sẽ phản ánh ý kiến của ông với cấp trên. Khi nước đã vô trùng thì tất cả chúng ta đều có thể uống. Thế, hỉ…

            Chương 20
            Những ngày động biển


            Châu Hà thu xếp cho Nguyễn Kỳ Vọng một chuyến lên thăm Vỹ. Xe Vonga đen hẳn hoi. Tổng Biên tập báo Tia Sáng sẽ đích thân lấy xe hộ tống Châu Hà và Vọng lên K27…

            Nhưng rồi một sự cố xảy ra: Điện khẩn của Văn phòng đại diện phía nam Bộ giao thông yêu cầu kỹ sư Nguyễn Kỳ Vọng phải về ngay Sài Gòn. Bức điện mập mờ và có vẻ rất nghiêm trọng khiến Vọng vô cùng lo lắng và bối rối.

            Có chuyện gì xảy ra? Việc nhà thì Miên phải báo cho anh chứ sao lại nhờ cơ quan? Vì mối quan hệ ruột thịt giữa Vọng và Vỹ ư? Bên an ninh đã phát hiện ra chuyện gì về Vỹ và tìm cách ngăn không cho Vọng lên gặp anh trai ư? Hay có việc hệ trọng liên quan đến một sự cố kỹ thuật cầu đường? Rất nhiều câu hỏi tình huống được đặt ra, nhưng không có lời đáp.

            Vọng về quê từ biệt mẹ và chia tay với vợ chồng Cục.

            - Chưa biết khi nào tôi mới trở lại quê được - Vọng nói với Cục những lời có vẻ như trăn trối - Chú là em Út, nhưng công lao với thầy u và em Hậu thì cả ba anh em tôi không thể sánh bằng. Nếu không có chú, hương khói thờ tự đã nguội lạnh từ lâu mà u và em Hậu cũng chẳng biết sống chết thế nào… Tôi là kẻ đại bất hiếu. Tôi chưa báo đáp u được một ngày. Chỉ còn biết trông cậy ở chú thím và các cháu…

            Vọng lấy hết những gì anh mang theo đưa cho Cục. Mấy lá vàng con rồng Miên khâu trong chiếc túi vải nhỏ xíu giắt trong người. Hai chiếc nhẫn mặt kim cương. Chiếc đồng hồ Rado khảm hạt xoàn. Tất cả số tiền còn lại. Chú thím cầm tạm nhưng thứ này để phụng dưỡng u. Tôi vào sẽ bàn với nhà tôi thu xếp để hàng tháng gửi thêm cho chú thím. U chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu. Tôi muốn được rước u vào trong ấy để báo đáp những năm cuối đời. Nhưng bây giờ vẫn phải trăm sự nhờ chú thím và các cháu… Vọng mang hương ra bãi tha ma cuối làng, thắp trên mộ ông Cử Phúc, ngồi cho đến lúc chiều tối.

            Sáng hôm sau, tinh mơ, anh từ biệt mẹ, ôm lấy bà Cử Phúc như thể không có ngày gặp lại, rồi lủi thủi rời làng Động.

            ***

            Căn nhà của Vọng nằm trong một phố cụt gần bờ kênh Nhiêu Lộc. Trước năm 1968, đây là khu sình lầy, rác rưởi ngập ngụa. Bằng con mắt của nhà kinh doanh địa ốc, lại có thế của một dân biểu, ông nhạc Lê Huy Mật đã xây cất mấy lô biệt thự dành cho thuê, trong đó một căn là của vợ chồng Vọng. Căn biệt thự hai tầng lầu, sáu phòng, trong một khuôn viên rộng ba trăm bẩy mươi mét vuông, có vườn hoa cây kiểng. Với một gia đình trí thức trung lưu, một cơ ngơi như thế là quá lý tưởng. Nơi đây, đã bẩy năm rồi, trở thành tổ ấm của Vọng. Ngay cả trong những ngày bão táp tháng Tư năm 1975, cách mạng ào về, thành phố ngập chìm trong khói súng, thành phố náo loạn vì tin đồn về một cuộc tắm máu…, thì cái tổ ấm của vợ chồng Vọng vẫn không hề vương một mảnh đạn pháo. Khói súng tan đi, thành phố lại trở về cuộc sống yên bình. Con Vân, con Vy lại đến trường tiểu học. Miên lại về làm công việc của một y sĩ tại bệnh viện Bình dân. Còn Vọng, tuy không còn ở vị thế một quan chức, nhưng không phải đi cải tạo, không thuộc diện nguy quyền tay sai, vẫn có một công việc trong guồng máy mới, thậm chí còn được tin dùng, trọng dụng.

            Thực lòng, đôi khi Vọng vẫn nhớ tiếc những ngày xưa. Nhớ tiếc với một nỗi đau đớn, mất mát lớn. Bao nhiêu năm đèn sách. Hai chục năm phấn đấu nỗ lực. Một hàm kỹ sư đặc hạng. Một chức trưởng ty Công chánh, cộng với mười lăm huy chương danh dự. Một chức Phụ tá Giám đốc Nha kế hoạch kiêm Trưởng ban phần vụ kế hoạch Tổng cục Kiều lộ… Đâu phải dễ ai cũng có được trong đời? Nhưng, thế gian biến cải, thương hải tang điền. Vẫn còn lại một công việc, một gia đình, còn mẹ già, anh em; quê hương yêu dấu với đầy ắp những kỷ niệm thân thương. Và cao hơn, lớn hơn là một đất nước thống nhất, toàn vẹn. Vậy thì cá nhân dù mất mát đi phần nào, cũng vẫn là hạnh phúc.

            Vọng bằng lòng với hạnh phúc đang có. Chuyến hành hương đất Bắc sau hơn hai chục năm xa quê biền biệt là niềm sung sướng vô bờ. Nếu không có cú sốc về Vỹ thì quả là trọn vẹn.

            Vọng sẽ đưa Miên và các con về thăm quê. Chuyến hành hương của cả gia đình có thể sẽ được thu xếp ngay trong dịp Tết năm tới. Sẽ kết hợp đưa Miên và các con về thăm xứ đạo Ninh Bình, quê cha của nàng. Chính nàng đã bao lần ao ước được về thăm quê nội, quê chồng. Đất Bắc là cội nguồn của những cuộc hành tiến phương Nam. Về quê, nàng sẽ thấm thía câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long".

            Với một tâm trạng xốn xang, bồi hồi như thế, máy bay vừa đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Vọng đã gọi taxi về thẳng ngôi nhà thân thuộc của mình.

            Ơ kìa, sao ổ khoá đã bị thay? Sao lại có băng giấy niêm phong giữa hai cánh cửa? Và kìa, khoảng vườn thần tiên với cây mai thế trăm tuổi và những chậu kiểng quí hiếm đã biến đâu rồi? Chân Vọng như khuỵu xuống, đứng không vững. Mồ hôi toá đầy người. Miên và các con đi đâu? Chị Út Chín, người giúp việc bỏ nhà đi đâu? Có việc gì đã xảy ra với Vân, Vy, với nàng?

            Như đã túc trực sẵn để đón Vọng, một người đàn ông trong bộ đồ màu rêu bạc, chiếc nón nỉ màu lông chuột chụp ngang mặt, từ đâu bỗng xuất hiện. Đó là ông tổ trưởng dân phố.

            - Hoá ra anh còn ở lại? - ông tổ trưởng nhìn Vọng với ánh mắt hằn học và nói bằng giọng Quảng Trị trầm đục rất khó nghe - Nhà anh đã bị niêm phong.

            - Vì sao, thưa ông? - Khó khăn lắm Vọng mới mếu máo bật ra được mấy tiếng.

            - Kẻ trộm giả làm thợ sửa ống nước đột nhập vào nhà, bắt trói người giúp việc, cướp hết tài sản. Anh đóng kịch giỏi lắm. Nhưng làm sao che nổi mắt chính quyền cách mạng và lưới trời nhân dân thiên la địa võng. Vụ trộm là do vợ chồng anh bày đặt. Tôi biết ngay mà. Bản chất phản động của các anh đâu dễ thay đổi.

            - Tôi thực sự không hiểu… - Đang nói, Vọng bỗng sững lại, lạnh toát sống lưng khi nhìn thấy khẩu súng ngắn lòi ra cạnh sườn ông tổ trưởng.

            - Rồi anh sẽ hiểu. Ngay bây giờ anh theo tôi lên công an để trình diện và ký nhận biên bản. Cũng may mà tổ dân phố đã phát hiện kịp thời vụ trộm và giải cứu cho cô Út Chín về quê rồi. Tôi chờ anh đã năm ngày rồi đó. Có tin nhóm vượt biên của mụ Miên và hai con gái anh đã bị bắt lại ở Vũng Tàu. Nếu đúng vậy thì nhà anh vẫn còn đại hồng phúc. Mùa này không tàu nào vượt biên thoát khỏi bọn hải tặc và mồi cho cá biển đâu.

            Suốt từ đó Vọng như người mất hồn. Nỗi sợ hãi qua đi nhanh và thay vào đó là nỗi lo đến hoảng loạn. Khắp các gian phòng, ngổn ngang như một bãi chiến trường. Đồ đạc, giá sách, chăn màn quần áo bị xới tung. Những con búp bê của Vân, Vy bị rạch bụng, moi mắt, vứt lăn lóc. Những chiếc gối nhồi bông bị xé nát, bông gòn bay khắp nhà… Miên và hai con đã trốn đi thật rồi. Kẻ trộm đã vào hôi của hay mẹ con nàng đã tự phá huỷ? Sao nàng nỡ lừa Vọng về Bắc để mang các con đi? Vì sao lại gấp gáp và bí mật thế? Ít ra nàng cũng phải đợi Vọng về để vợ chồng bàn bạc? Hay là đã có kẻ nào chen vào? Ai? Lâu nay nàng vẫn giấu kín một gã nào đó? Tên vô lại nào đã bảo kê đưa nàng đi?

            Vọng muốn phát điên lên. Sự ghen tuông vốn không phải là bản tính của anh. Từ hồi lấy nhau, chỉ duy nhất một lần Vọng nổi nóng khi cái gã thiếu tá Võ Nhựt Biền, sĩ quan tổng hành dinh, hay đến nhà ông nhạc, giở trò chim chuột nàng. Cũng vì lần ấy bị ép uống say, nàng nổi hứng đi cùng xe với hắn từ khách sạn về nhà. Đã thế, từ lúc thay đồ đi ngủ, nàng không ngớt lời nhắc đến hắn, ca ngợi hắn. Điên tiết, Vọng tặng cho một cái bạt tai, rồi ôm chăn gối ra ngủ ngoài đi-văng.

            Gã thiếu tá Võ Nhựt Biền sau đó được thăng vượt cấp, lên đại tá. Và hắn đã chuồn theo quan thầy Mỹ trước ngày quân giải phóng vào Sài Gòn.

            Hay là chính Võ Nhựt Biền đã móc nối đưa Miên đi? Và Miên đã ngấm ngầm chờ cơ hội lừa cho Vọng về Bắc để bán xới theo tình nhân?

            Cái ý nghĩ mơ hồ, nỗi lo xa như một ám ảnh, như linh cảm trước một cái gì đó rất khó nhận biết bắt đầu nảy sinh từ hôm Vọng nhận được quyết định của cơ quan ra Hà Nội họp, không ngờ nay đã thành sự thật.

            Vọng nhớ lại cái đêm hai vợ chồng nằm bên nhau trước ngày anh lên tàu ra Bắc. Nàng lột trần anh ra, cào cấu, hôn hít, bắt thoả mãn nàng như sẽ không bao giờ còn được sống bên anh nữa.

            - Em biết không thể ngăn được anh trở về thăm mẹ, thăm quê cha đất tổ. Anh khao khát bao nhiêu nărn rồi… Anh có thể không có em và các con, nhưng anh không thể bỏ mẹ và quê Bắc…

            - Sao em lại nói thế? Anh muốn có tất cả. Cả em, cả Vân, Vy cả mẹ, cả anh em gia đình và quê hương đất Bắc. Giờ là lúc chúng ta đã có tất cả. Anh ra thăm mẹ rồi anh lại về…

            - Nhưng em thì lại thiếu ba mẹ. Không biết giờ này ba mẹ ở đâu?

            Nàng áp mặt vào ngực Vọng và khóc nức nở. Đúng là nàng đã trải qua những cơn dày vò, vật vã vì cuộc ra đi của ông bà dân biểu Lê Huy Mật và gia đình anh trai Lê Huy Mão. Trước ngày tướng Dương Văn Minh đọc bản tuyên bố đầu hàng trên Đài phát thanh, trung tá Lê Huy Mão còn là Chỉ huy trưởng cảnh vệ Hành dinh Tổng thống. Ngay trong giờ phút chính quyền Sài Gòn hấp hối, Mão đã kịp thời đưa bố mẹ và gia đình lên máy bay trực thăng chuồn khỏi đô thành.

            - Nhất định anh Mão đã đưa ba mẹ sang Mỹ an toàn. Người Mỹ chẳng bao giờ bỏ rơi những chiến hữu của họ…

            - Giá như khi đó mình theo kịp anh Mão và ba mẹ…

            - Ở lại cũng là một cách lựa chọn… Thì chúng mình cũng đang sống yên ổn đây thôi. Thậm chí cả anh và em đều được chính quyền mới dung nạp…

            - Sống thế này mà cũng là được dung nạp ư? Em thấy ngột ngạt quá. Cả khu biệt thự này giờ đã thuộc về những người phía bên kia. Chúng mình như những tử tù bị giam lỏng. Bọn trẻ luôn sống trong nỗi khiếp sợ, luôn bị những ánh mắt hằn học vây bủa. Rồi sẽ bị đưa lên đoạn đầu đài lúc nào không hay…

            - Đừng nghĩ thế em. Chúng mình phải thay đổi lại cách nhìn, lối sống. Em không được bi quan dao động. Em phải khuyên các con tập sống hoà đồng. Cuộc cách mạng nào cũng phải qua những khoảng giao thời.

            - Muốn hoà đồng nhưng đâu có được. Gặp ai trong ngõ phố này em và các con cũng cúi gập người chào. Nhưng không ai thèm đáp lại. Họ nhổ nước bọt, quay đi. Em nhục lắm…

            - Phải học cách sống với chữ Nhẫn em ạ. Những ngày vừa qua, đã nhiều lúc anh muốn bỏ việc. Đến nhiệm sở, gặp toàn những bộ mặt xa lạ, nghe toàn những điều sáo rỗng, giả tạo. Người ta nhìn anh với con mắt nghi kỵ, cảnh giác, ác cảm. Không ai nghĩ đến chuyên môn, nghiệp vụ, mà chỉ lo tìm được một căn nhà, kiếm được tí quyền chức, thêm được ô tem phiếu. Có ông còn giả bộ đi chân đất đến cơ quan để được phân phối một đôi dép nhựa. Có cô sẵn sàng nằm cạnh nhà cầu để đòi phân cái ga ra ô tô cơ quan làm nhà ở… Nhưng đấy có thể chỉ là những cá biệt. Rồi cuộc sống sẽ trở lại nhịp điệu bình thường…

            Miên nằm như ngủ. Dường như nàng không nghe những điều Vọng nói. Dường như nàng đang chìm đắm vào một cơn mộng mị. Rồi bất ngờ nàng nhỏm dậy, xoay người anh lại phía mình.

            - Nhỡ khi anh về, không gặp mẹ con em thì sao?

            Câu hỏi ấy, cho đến bây giờ Vọng mới nghĩ ra, chứ lúc ấy anh chỉ ôm xiết lấy nàng và bảo:

            - Thì anh sẽ đi tìm. Anh sẽ đi tận cùng trời cuối đất…

            ***

            Bây giờ thì Vọng biết tìm mẹ con nàng ở đâu?

            Vọng tìm mua tất cả các tờ báo ra trong ngày, đọc không sót một mẩu tin nào. Những cuộc vượt biên đăng nhan nhản trên các trang báo:

            Một vụ vượt biên không thành vừa diễn ra ở Mũi Nai, Hà Tiên. Chủ tàu và bẩy mươi sáu người, cả người lớn tre em, bị bắt lại. Ở biển Long Hải, Bà Rịa, một đường dây có tổ chức đã lừa một trăm mười hai người vượt biên trái phép. Mỗi người phải nộp trước ba cây vàng. Bọn chúng lừa đưa nhũng người cả tin nhẹ dạ ra phao số không rồi thả trôi tàu, chuồn về đất liền. Tại Đồ Sơn, Hải Phòng, tàu Hải quân vừa bắt một tàu chờ năm mươi chín người, trong đó có mười ba người từ Sài Gòn ra đang định vượt biên sang Hồng kông…

            Có một tin không đăng báo, nhưng đang loan đồn ầm ĩ khắp các quán cà phê vỉa hè: Một tàu vượt biên bị hải tặc tấn công. Chúng cướp toàn bộ của cải vàng bạc, hãm hiếp phụ nữ, rồi đánh chìm tàu. Hiện mười bốn xác người trôi dạt vào Bãi Sau và Bãi Trước thành phố Vũng Tàu. Công an đang thông báo để các thân nhân ra nhận xác…

            Thông tin khủng khiếp này đã phản bác lại cái tin ông to trưởng dân phố thông báo lúc Vọng vừa từ Hà Nội về. Đúng, nếu mẹ con Miên bị bắt lại thì là đại phúc cho Vọng. Nhưng đã qua mấy tuần rồi, vẫn bặt vô âm tín. Rất có thể trong số những xác người dạt vào bờ biển Vũng Tàu kia có mẹ con Miên…

            Vọng đến Công an quận, Uỷ ban phường, đến báo cáo thủ trưởng cơ quan xin được ra Vũng Tàu để tìm vợ con. Nhưng ở đâu cũng một câu trả lời: Hiện thời công dân Nguyễn Kỳ Vọng không được đi khỏi thành phố.

            Không một văn bản, một tuyên bố nào tống đạt đến tay Vọng, nhưng từ hôm ở Hà Nội về, Vọng như một kẻ bị quản thúc. Người ta mở cửa cho Vọng vào nhà, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của anh, nhưng lại phải kê biên tất cả những tài sản, giấy tờ, vật dụng… Tại cơ quan Phân cục Cầu đường nơi Vọng đang làm việc, cũng diễn ra những buổi tường trình, kiểm điểm tương tự. Cái uy tín chuyên môn, sự nể trọng về năng lực nghề nghiệp mà Vọng mới giành được, giờ tan như bọt xà phòng. Không ai dám gần Vọng, bắt chuyện với Vọng.

            Ông trưởng phòng kỹ thuật bảo Vọng nộp lại toàn bộ hồ sơ tài liệu để giao cho người khác. Huỳnh Út ái ngại nói với Vọng:

            - Công lao tôi giúp anh hoàn lương thành công cốc. Anh xem có cơ quan nào họ nhận thì chuyển đi là hơn.

            Riêng Khuất Sỹ Hào, người phụ trách thi đua, có lê là người còn ưu ái ngầm với Vọng. Hào kéo Vọng ra một chỗ khuất nháy mắt thân thiện, rồi bảo:

            - Dù thế nào, em vẫn rất tin năng lực chuyên môn của ông anh. Đào tạo được một chuyên gia cầu đường như anh còn mệt. Chuyện vợ con, rồi sẽ nguôi ngoai đi. Vẫn phải tìm cách mà sống ông anh ạ. Với lại anh có cái ô trên Trung ương là ông anh ruột Chiến Thắng Lợi, thì ngại gì. Thế lực của đồng chí Chiến Thắng Lợi ngày càng lớn… Nghe nói sắp tới thủ trưởng Lợi sẽ vào chỉ đạo cải tạo tư bản tại phía Nam… Em đã nói với thủ trưởng cơ quan chuyển anh xuống bộ phận thư viện. Tha hồ mà đọc sách, nghiên cứu. Rồi có lúc tài năng của ông anh lại được dùng đến… - Móc túi, mời Vọng một điếu ba số Hào lại bảo - Cùng là dân Bắc Kỳ, hồi mới gặp, em đã khoái ông anh luôn. Thằng em vẫn tín nhiệm ông anh viết báo cáo tổng kết, báo cáo thi đua. Có việc là em vẫn nhờ vả ông anh đấy nhé…

            Vọng chán chường, không muốn sống. Những đêm dài dằng dặc trong căn nhà trống hoang trở thành những đêm của ke phát vãng. Vọng lục tìm trong mọi xó xỉnh, gầm giường, giũ tung từng chăn đệm, soi từng cuốn sách, khe nhà, để tìm xem Miên và các con có viết gì để lại. Không một mẩu giấy, một tín hiệu nào. Kiệt sức, Vọng nằm vật. Hình ảnh gã thiếu tá Võ Nhựt Biền say lả lướt, ôm eo Miên cứ chập chờn trong ý nghĩ. Có lúc vọng lại thấy hai người không một mảnh vải trên người đang quằn quại vật nhau trong một khách sạn choáng lộn như cung điện tận bên bờ biển Los Angeles, Hoa Kỳ…

            Đề phòng mình có thể phát điên, Vọng lấy khăn mặt dấp nước đá ấp lên mặt. Cũng không thoát khỏi hoảng loạn. Sau rồi, Vọng tìm giải pháp khác. Lần lượt mỗi đêm, Vọng lấy một mảnh quần áo của Miên, của Vân, Vy còn sót lại, ấp lên mặt mình để tìm lại hơi hướng thân thuộc của vợ con, để triền miên trong nỗi nhớ thương, xa xót. Những mảnh xiêm y ấy thường đẫm nước mắt Vọng, lùa anh trong chập chờn, mộng mị.

            Thời gian rồi cũng giúp vết thương lên da non. Buồn đau không thể làm Vọng chết được, thì Vọng phải sống. Cái chữ nhẫn mà suốt bao năm Vọng thờ phụng thì nay lại được kèm theo một chữ nhục. Nhẫn nhục sống ở khối phố, với láng giềng, và đặc biệt là ở cơ quan. Vọng ngoan ngoãn như con chiên bị rút phép thông công, muốn thành tâm sửa mình để sớm được về với nước Chúa. Vọng làm tất cả mọi điều mà một công chức mẫu mực nhất có thể làm để được tổ chức, cơ quan tin tưởng, trọng dụng…

            Để hằng tháng gửi tiền về cho mẹ như đã hứa với Cục, đồng lương eo hẹp không đủ, mỗi tháng Vọng lại bán đi một vài đồ vật trong nhà. Chiếc ti vi màu hiệu Panasonic, loại hiếm nhất mà cả Sài Gòn hồi ấy mới nhập mấy lô chào hàng. Mấy chiếc quạt cây, quạt trần. Vài chiếc lọ cổ, mấy bộ đĩa sứ quí hiếm có niên đại Càn Long, Khang Hy. Chiếc xe Volvaghen bụi phủ dày trong ga ra rồi cũng phải tìm mối bán…

            Trong những ngày hoạn nạn này, Khuất Sỹ Hào quả là người bạn tốt. Hào là người duy nhất trong cơ quan dám ngang nhiên thân thiết với Vọng. Hào thường đến nhà anh chơi, mang những tài liệu kỹ thuật tiếng Anh để Vọng dịch, kiếm chút thù lao. Có những chủ nhật, Hào lân la ở chơi cả buổi. Anh săm soi khắp các ngõ ngách trong nhà, dùng bước chân đo đếm suốt chiều ngang chiều rộng khu vườn, như thầm toan tính công việc sửa chữa, phân chia lại khu biệt thự.

            - Khu đất này của ông anh rất có thể bị thu hồi, nếu ông anh chỉ sống có một mình - Hào khoát tay chỉ khu vườn, lắc đầu ái ngại - Không kể hàng bộ thứ trưởng, chánh phó chủ tịch cấp quận, cấp thành phố, nhiều cán bộ tép riu cấp phòng, ban cũng đang hau háu nhìn ngôi biệt thự này như hổ rình mồi… Ông anh phải nghĩ đến phương án đề phòng bị cướp nhà. Thiếu gì thứ lí do. Trưng dụng để làm trụ sở. Đổi cho một căn hộ khác phù hợp với người độc thân. Đưa một đồng chí nào đó đến ở tạm. Bài học cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc mấy chục năm trước còn nhỡn tiền đó…

            Vọng tái xám mặt. Anh nghĩ đến câu chuyện cộng vợ cộng chồng, cào bằng giàu nghèo đã từng nghe trước đây. Khuất Sỹ Hào trấn an:

            - Cho đến giờ vẫn không có tin tức gì của chị Miên và các cháu, tức là… Ông anh phải nghĩ đến những rủi ro cao nhất… Tất nhiên vẫn phải hy vọng ở sự kỳ diệu của Chúa trời - Hào chỉ bức tượng Chúa Jesu trên cây thánh giá trước ban thờ - Nhưng phải cứu lấy mình trước khi Chúa cứu. Ông anh phải nghĩ đến một phương án phòng ngừa, bảo mạng. Trước mắt là phải đón bà cụ vào để có mẹ có con. Anh có điều kiện chăm nom bà cụ, và bà cụ cũng giúp ông anh cơm nước, giữ gìn sức khoẻ, trông nom cửa nhà…

            - Tôi cũng đã có ý định thế… Đây là lúc tôi có thể báo đáp công lao mẹ…

            - Có tin này liên quan đến anh - Hào khum tay trên miệng như sợ ai nghe thấy - Dư luận cơ quan cho rằng ông anh không yên tâm công tác. Rằng rất có thể rồi anh cũng theo vợ con vượt biên…

            - Chết thật - Vọng sững người.

            - Thằng em coi ông anh như anh ruột, nói riêng với anh thôi, chớ hở ra cho ai biết. Công an đã đến đặt vấn đề với lãnh đạo phải canh chừng ông anh đó. Một là đề phòng anh làm gián điệp. Hai là đề phòng anh trốn ra nước ngoài. Vì thế họ quyết không cho ông anh đụng đến các tài liệu kỹ thuật và hạn chế việc anh đi cơ sở, ra tỉnh ngoài…

            Vọng nén tiếng thở dài, mặt tái dại.

            - Tôi cũng linh cảm thấy mình luôn bị theo dõi.

            - Cho nên ông anh phải đưa bà cụ vào để đánh tan mối nghi ngờ của tổ chức, chứng tỏ rằng anh thực sự muốn ở lại đất nước. Bà cụ chính là một cái xiềng giữ anh ở lại. Rồi ngoài phương án đưa bà cụ vào, anh cũng phải nghĩ tới việc nhập khẩu cho một vài người bà con thân thiết vào để giữ lấy ngôi nhà. Thằng em nói thế, là đã giãi bày hết gan ruột rồi.

            - Vâng. Tôi hiểu. Đúng là như vậy. Tôi không thể bỏ u tôi được Tôi sẽ viết thư ra ngoài quê để thu xếp đưa u tôi vào.

            - Còn một việc nữa - Hào nói tiếp - Dù đón được hay chưa đón được bà cụ thì ông anh cũng phải có một người đàn bà để an ủi sẻ chia với mình… Đàn ông chúng mình không ép xác được đâu.

            Vọng bỗng ngước nhìn lên cây thánh giá, xua tay hốt hoảng:

            - Chuyện này thì… xin đừng nhắc đến. Tôi không dám nghĩ tới…

            - Đừng thần thánh hoá điều gì trên cõi đời này, ông anh ạ. Chung tình, chung thuỷ cũng có dăm bầy đường. Đời mà thiếu vắng đàn bà thì còn có nghĩa lý gì…

            Tưởng Hào chỉ đùa vui thế thôi, nào ngờ, mấy ngày sau, anh đưa đến nhà Vọng một người đàn bà, không còn trẻ, tuổi chừng ba mươi, nhưng đẹp như một diễn viên chèo. Đó là Thu Xoan, cán bộ ngành thuế, mới từ Hà Nội vào để chuẩn bị cho công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

            - Thu Xoan là người làng em. Có chồng là liệt sỹ, hy sinh ở chiến trường Quảng Trị - Hào ghé tai Vọng thầm thì - Gái một con, trông mòn con mắt. Nếu ông anh ưng thì em chỉ nói một tiếng là xong…

            Vọng lại hốt hoảng xua tay:

            - Đừng làm thế. Tôi sẽ có tội với Miên và các con.

            - Thì cứ để em Thu Xoan thỉnh thoảng được lui tới chăm sóc ông anh. Nên chăng thì thiếp với chàng. Chẳng nên ta lại họ hàng với nhau… Ông anh có mất gì đâu. Với lại, em muốn Xoan giúp anh che mắt thiên hạ. Rằng anh đã tìm được niềm vui mới. Anh đã yên tâm ở lại, đã toàn tâm toàn ý với cơ quan…

            Vọng thầm cám ơn cao kiến của Khuất Sỹ Hào. Nhưng với Thu Xoan, anh luôn luôn giữ một khoảng cách.

            ***

            Từ hồi lấy Miên, Vọng trở thành một con chiên ngoan đạo. Gia đình Miên theo đạo đã nhiều đời. Vùng quê Ninh Bình của nàng là một xứ đạo toàn tòng. Trước khi cưới, anh đã đến nhà thờ chịu lễ rửa tội và làm lễ đặt tên Thánh: Juse Nguyễn Kỳ Vọng.

            Vào một chiều chủ nhật, khi Vọng đang hành lễ ở nhà thờ xứ đạo, thì có một người đàn bà chít khăn che mặt lặng lẽ đến bên.

            - Chào anh Vọng. Chắc anh không nhận ra em. Em là em họ anh Tạ Đôn và chị Tạ Thu Uyên. Anh Đôn đang ở cùng chỗ với chị Miên…

            Tiếng nói giọng pha Bắc, rất khẽ nhưng Vọng tưởng như tiếng loa phóng thanh bên tai. Giật bắn người, Vọng quay nhìn tứ phía.

            - Anh bình tĩnh. Chỗ này không tiện nói chuyện. Em phải đi ngay. Có thư chị Miên gửi cho anh.

            Người đàn bà dúi vào tay Vọng một bì thư, rồi thoắt cái đã lủi đi đâu mất.

            Vọng bỏ dở cuộc hành lễ về nhà. Sau khi đóng kỹ các cửa phòng, anh lấy bì thư ra. Đúng là nét chữ của Miên. Nhưng không có ngày tháng, không biết gửi từ đâu, bao giờ. Phong bì cũ nhàu, các góc đã sờn.

            "Anh thương yêu,

            Đưa thư cho anh là một người bạn rất tốt của em. Anh, có thế nhờ cậy khi cần…

            Anh nhận được thư này thì mẹ con em, hoặc đã làm mồi cho cá biển, hoặc may mắn đã đặt chân đến xứ người. Cầu Chúa. Đức Chúa lòng lành vô cùng. Chúng con xin gửi trọn đức tin noi nước Chúa.

            Mong anh đừng trách và hận em cùng cây con. Em phải giấu anh, quyết dứt áo ra đi thế này mói mong kéo anh đi theo được Mẹ con em hy vọng một ngày gần đây nhất sẽ được đón anh nơi xứ người. Khi nào thuận tiện, em sẽ báo tin.

            "Em và các con rất thương anh phải ở lại giữa những người xa lạ. Vì thế, trước khi đi, em đã trù tính cho anh mọi điều. Anh có thể bán chiếc Volvnghen, nhưng nhớ phải xem lại thùng dầu mỡ… tra dầu mỡ thường xuyến cho xe khôi han rỉ. Và ngay cá ngôi biệt thự nhà mình. Nếu cần sửa chữa, chuyển đổi cũng chỉ cần nói với bạn em một tiếng…

            Cầu chúc cho anh bằng an…"

            Đọc xong thư, Vọng đã hiểu ngay những ẩn ý bên trong. Anh xuống ngay nhà xe. Chiếc Volvaghen lâu nay vẫn phủ bạt im lìm. Cuối ga ra có một ngách nhỏ đựng đồ nghề sửa xe, dăm thứ phụ tùng và thùng dầu mỡ. Cái nhà kho nhớp nháp, hôi hám đầy muỗi gián này, hằng năm nay không ai sờ đến. Nếu không có những dòng thư của Miên, không chừng nó sẽ vĩnh viễn bị bô quên.

            Hồi hộp như kẻ tìm vàng, Vọng thận trọng bê thùng mỡ xe ra. Chiếc thùng sắt tây dung tích năm lít rúm ró và bụi bặm vẫn chứa đầy thứ mỡ sánh đặc mầu nâu. Vọng khẽ chọc năm đầu ngón tay xuống. Và khắp người anh bỗng râm ran một niềm kinh hoàng, như chính anh đang sống trong một thế giới cổ tích. Ngập trong mỡ, chen chúc trong cái hộp sắt tây bẩn thỉu là vàng thỏi, nhẫn, hạt xoàn, dây chuyền, lập là vòng cổ, vòng tay và đủ mọi thứ đồ trang sức đắt tiền…

            Vọng không tính đếm được từng thứ, nhưng mường tượng được giá trị của chúng. Một tài sản khổng lồ mà anh và Miên đã chiu chắt bao năm có thể đủ đóng cả một con tàu vượt đại dương… Tất nhiên để lo liệu cho chuyến vượt biên và trù tính cuộc sống ở xứ người, mẹ con Miên đã tiêu tốn và mang đi một phần lớn rồi… Chính Vọng cũng không ngờ Miên, nhờ người cha làm nghề thầu khoán và kinh doanh địa ốc, đã nối nghiệp, làm đồng tiền sinh sôi nảy nở, tích cóp được nhiều của cải đến thế. Hoá ra từ hồi lấy anh, Miên đã lặng lẽ làm một người quản gia, người thủ kho vĩ đại. Hằng tháng Vọng chỉ biết làm việc và đều đặn đưa tiền lương, tiền thưởng và bổng lộc về cho Miên. Nhưng Miên mới là người giữ của và làm cho chúng sinh sôi. Bao nhiêu phi vụ làm ăn từ uy tín và vị thế, từ các mối quan hệ nghề nghiệp và xã hội của Vọng, từ địa vị, kinh nghiệm và mánh lới của người cha… Tất cả đều do Miên điều hành, do Miên làm nảy nở sinh sôi…

            Cứ xem cái cách giấu của của Miên thì đủ biết nàng tinh khôn và mưu lược đến mức nào. Cho các ông bà cách mạng cứ khám xét rương tủ, két sắt, bàn thờ. Cứ việc lục tung va ly, quần áo, đồ dùng sang trọng. Các vị không thể ngờ trong cái hộp mỡ xe vứt lay lắt ngay dưới chân các vị là cả một gia tài mà cả đời hoạt động cách mạng của các vị, có nằm mơ cũng không có được.

            Suốt đêm ấy Vọng hì hụi phân loại kho báu, số thì tiếp tục để trong thùng mỡ xe, số để trong dầu luôn, số gói trong các túi nilông mang chôn ở các gốc cây ngoài vườn hay nhét dưới khe, hốc. Phải phân tán đề phòng bất trắc. Mất chỗ này, còn chỗ khác. Sẽ có rất nhiều việc cần đến tiền, vàng. Để sống yên ổn với những người cộng sản lại cần phải có rất nhiều tiền, vàng.

            Đã đến lúc Vọng báo hiếu được mẹ rồi. Anh viết thư cho vợ chồng anh Lợi, cho chị Khiêm, cho vợ chồng Cục kể rõ sự tình mẹ con Miên vượt biên và thiết tha đề nghị mọi người hãy đưa u và em Hậu vào sống với anh. Kèm theo thư là số tiền đủ mua năm vé máy bay cho hai mẹ con và cả những người tháp tùng.

            Comment


            • #21
              Chương 21

              Tìm cha


              Đúng vào lúc cấp trên dự định đề bạt đồng chí Chiến Thắng Lợi giữ chức Bộ trưởng Kinh tế, kiêm Phó trưởng ban Cải tạo tư sản phía Nam, thì có nhiều đơn khiếu nại gửi lên Tổ chức Trung ương.

              Rất nhiều lá đơn nặc danh gần từ nhiều địa chỉ, bưu cục khác nhau trên khắp ba miền Bắc Trung Nam. Nội dung các đơn thư này, dù viết bằng nhiều thứ chữ, đánh máy hoặc viết tay, nhưng chung quy lại đều tập trung vào bốn nội dung:

              Thứ nhất: Gần đây lập trường tư tưởng chính trị, quan điểm giai cấp của đồng chí Chiến Thắng Lợi có nhiều biểu hiện lệch lạc, phẩm chất tư tưởng sa sút. Cụ thể là đồng chí bị nhóm các nhà văn quá khích Châu Hà, Trần Nhân Ảnh, Bùi Đào Nguyên… bắt ép bảo lãnh cho em ruột là Nguyễn Kỹ Vỹ ra khôi trại cải tạo. Việc tha Nguyễn Kỳ Vỹ, một cây bút chống đối, đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ và độc giả cả nước bất bình và phẫn nộ…

              Lập trường tư tưởng lệch lạc của Chiến Thắng Lợi còn thể hiện ở việc đồng chí này đang ra sức vận động để đưa nhà văn Châu Hà về làm Tổng biên tập báo Văn Chương, một tờ báo có vị trí tiên phong và định hướng nền văn học cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Châu Hà là một nhà văn có thành tựu trong hai cuộc kháng chiến, nhưng gần đây mắc bệnh công thần và đặc biệt đang có khuynh hướng dân chủ đa nguyên cực kỳ nguy hiểm…

              Thứ hai: Việc Trung ương định bổ nhiệm Chiến Thắng Lợi làm Bộ trưởng Kinh tế và đảm trách các hoạt động kinh tế là trái với sở đoản sở trường của đồng chí ấy. Chiến Thắng Lợi xuất thân gia đình địa chủ kháng chiến, bản thân là học trò nông thôn đi theo cách mạng, không biết gì về kinh tế. Không nên lặp lại những trường hợp trái quy luật, như kiểu "Nhà thơ làm kinh tế, Thống chế đi đặt vòng" trong thời gian gần đây.

              Thứ ba: Điều đặc biệt nguy hiểm là Chiến Thắng Lợi đã lừa dối tổ chức, khai man lý lịch để chui sâu, luồn cao. Lợi là người có truyền thống hủ hoá. Hồi còn hoạt động trong vùng địch hậu, Chiến Thắng Lợi đã hủ hoá với đồng chí Đào Thị Cam, vợ của Khu uỷ viên Hữu ngạn Lê Thuyết, có con hoang là Lê Kỳ Chu. Sau đó, khi lên chiến khu, ngựa theo đường cũ (đúng hơn là dê theo đường cũ), Chiến Thắng Lợi lại tiếp tục lừa dối tổ chức, hủ hoá với chị Ma Thị Là, người Tày thuộc địa bàn đóng quân. Sau khi cơ quan phát hiện thấy quan hệ bất chính này, đã buộc Lợi phải cưới Là. Việc Chiến Thắng Lợi cố tình không báo cáo với tổ chức mối tình vụng trộm với đồng chí Cam, và đứa con ngoài giá thú Lê Kỳ Chu là vi phạm lời thề của tổ chức, lừa dối cấp trên và nhà nước.

              Thứ tư: Chiến Thắng Lợi đã phạm tội phản bội lại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc. Đó là trong khi hàng triệu thanh niên hăng hái tòng quân vượt Trường sơn đi cứu nước, hàng vạn chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận, thì Chiến Thắng Lợi và Đào Thị Cam đã lợi dụng chức quyền của mình, như Lý Thông lừa Thạch Sanh ra miếu cho trăn tinh ăn thịt, thế người khác vào chỗ của con, thu xếp cho con trai ngoài giá thú là Lê Kỳ Chu "B quay", sang Liên Xô học để bảo mạng và vinh thân phì gia sau này…

              Cho mãi tới những năm sau này, khi đã về vườn, tác giả của những lá thư nặc danh tố cáo Chiến Thắng Lợi mới đột ngột lộ mặt trong một bài hồi ký đăng trên tờ tạp chí mạng Talaviet của người Việt ở nước ngoài. Còn ngày ấy, Văn Quyền làm như một kẻ hoàn toàn vô can, thậm chí trước mặt Chiến Thắng Lợi, Quyền còn tỏ ra hết sức phẫn nộ với những kẻ vu cáo.

              - Em đề nghị anh phải báo cáo tổ chức để tìm ra kẻ dã tâm bôi xấu cán bộ, gây mất đoàn kết nội bộ - Quyền cầm tập đơn thư dầy cộp, đặt lên trên bàn Lợi, mắt ngân ngấn nước như đang oan ức thay cho sư phụ - Không có ai biết quan hệ của anh với chị Cam ngoài Châu Hà. Anh còn nhớ cái truyện ký "Người đẹp Sơn Minh hay sự thật về Ni cô Đàm Hiên" của Đà Giang viết đăng trên. tạp chí Văn không?

              - Thế thì chẳng nhẽ cậu ấy lại tự mâu thuẫn với mình? Cậu ấy đả kích cả việc mình muốn tiến cử cậu ta vào cái ghế Tổng biên tập báo Văn Chương?

              - Anh ơi, thế mới là Châu Hà. Hắn khôn như rận và mưu mô như Gia Cát. Viết thế là để anh tin hắn thuộc về phe của anh, của Nguyễn Kỳ Vỹ. Viết thế tức là hắn cũng muốn tự đánh bóng tên tuổi của hắn đấy. Một nhà văn kinh qua chiến trường, cấp tiến như thế, lại được chính đồng chí Chiến Thắng Lợi và rất có thể cả đồng chí Tư Vuông đề cử, thì cái ghế Tổng biên tập báo Văn Chương còn là bé.

              - Nhưng còn chuyện thằng Chu đi học Liên xô, làm sao Châu Hà biết được? Ngày ấy chính tôi thu xếp cho Đà Giang và Hàn Thâm Nho đi chiến trường mà…

              - Cả nhà văn Du San mà sau này là Xuyên Sơn, cây bút chiêu hồi chống cộng khét tiếng nữa chứ ạ - Mắt Văn Quyền ánh lên tia ma quái - Với Châu Hà thì có gì mà hắn không biết. Em không hiểu sao Châu Hà đặc biệt ác cảm với anh. Đi đâu hắn cũng rêu rao: Anh làm Trung ương mà bắt em trai là một nhà thơ yêu nước đi tù, thì đến Tào Tháo, Gơben sống lại cũng phải gọi bằng đại sư phụ…

              - Nếu như vậy thì tay này nguy hiểm thật. Biết thế dạo ấy tôi đã quyết giữ quan điểm bảo vệ chú. Tôi vẫn cho rằng điều chú sang làm Tổng biên tập báo Văn Chương là hợp lý hơn cả. Chú là Hội viên nhà văn, từng có tác phẩm thơ văn xuất bản, lại kinh qua hoạt động chính trị, hoạt động tuyên huấn báo chí… Nếu Anh Tư chịu nghe tôi…

              - Bây giờ có thể đồng chí Tư Vuông sẽ nghĩ lại anh ạ… Nếu anh tiếp tục đề nghị, tổ chức họ sẽ ủng hộ em chứ không phải Châu Hà. Đây là tờ báo định hướng văn chương chứ không phải thuần tuý đăng sáng tác văn học, như hồi nó còn là tạp chí. Em theo dõi tờ báo mấy chục năm, em thuộc từng chuyên mục, từng phóng viên biên tập viên của nó. Châu Hà làm văn thì được chứ làm báo là hỏng. Chuyến này thì Châu Hà đã tự vạch mặt mình. Nghe nói hắn muốn cái ghế của anh chứ không thèm chức Tổng biên tập. Muốn thế hắn phải hạ gục anh. Anh nên nhớ rằng trong bốn mũi tên nhằm bắn vào anh hắn chỉ cần một mũi tên trúng đích. Ấy là tố cáo anh lừa dối tổ chức. Đây là tội vi phạm vào lời thề thứ nhất. Không tuyệt đối trung thành…

              Trời lạnh mà mồ hôi Lợi túa ra đầy mặt, ướt hết vệt tóc trước trán và thái dương. Ông bỗng thấy hiển hiện lại hình ảnh Cam đột ngột đến tìm ông hơn mười năm trước. Đó là lần đầu tiên nàng báo với ông cái tin họ cùng có một đứa con trai, kết quả của cuộc tình sét đánh ba ngày vô tiền khoáng hậu ở phố Phương Đình thời tạm chiếm.

              - Tôi chỉ xin anh mười lăm phút thôi - Chị lấy trong túi xách ra một tấm ảnh chân dung đen trắng khổ bằng bàn tay, đặt trước mặt Lợi - Anh có nhận ra ai đây không?

              - Cam vẫn giữ tấm ảnh tôi ngày ấy?

              - Anh lầm rồi. Tôi đã đốt tấm ảnh Nguyễn Kỳ Khôi từ sau ngày gặp anh ở Phương Đình. Anh nhìn kỹ lại xem. Giống anh lắm phải không? Nó đấy. Lẽ ra tôi không bao giờ cho anh biết điều này…

              Cam bỗng bật khóc. Nhưng rồi chị thanh chóng lấy mùi soa chấm mắt, cầm lại tấm ảnh, cất vào túi xách.

              Người Lợi run như cơn sốt rét rừng ngày nào bỗng ập về. Tiếng anh méo đi:

              - Thật vậy sao? Có đúng là con chúng ta không em? Nó đang ở đâu?

              - Anh hãy bình tĩnh… Tôi đặt tên nó là Lê Kỳ Chu. Họ Lê là anh Lê Thuyết. Họ Chu của tôi. Chỉ có một chữ Kỳ của anh thôi nhưng ngay chữ tên đệm ấy, anh cũng đã vứt đi rồi. Tôi biết anh không muốn và không cần có nó. Nó sẽ là gánh nặng trong cuộc đời cách mạng của anh, thậm chí sẽ là vật cản trên bước đường anh thăng tiến. Nhưng với tôi, nó là tất cả.

              - Tôi hạnh phúc vô cùng, Cam ạ. Linh tính luôn báo với tôi rằng, giữa tôi và em có ruột sự gắn kết thiêng liêng… Tôi đã từng nói với em, bằng bất kỳ giá nào tôi cũng lo cho con, nếu chúng mình có chung một giọt máu…

              - Không cần phải như thế. Tôi tin, chỉ ít phút nữa, khi bình tĩnh lại, anh sẽ muốn rút lại đề nghị ấy của mình. Bởi nếu chuyện thằng Chu vỡ lở ra, hạnh phúc gia đình anh sẽ tan vỡ. Anh sẽ mắc tội man trá với tổ chức. Anh sẽ mất hết. Có bao nhiêu kẻ sẽ lợi dụng sự việc này để giành lấy chiếc ghế của anh…

              Mồ hôi vã ra trên trán Lợi.

              - Cả tôi cũng sẽ mất hết. Chúng ta đều quá hiểu sự nghiêm khắc của tổ chức… Vì thế chuyện này chỉ riêng anh biết. Tôi đã viết cho anh một lá thư dài. Nhưng thấy giấy trắng mực đen là quá nguy hiểm nên đã xé đi và buộc phải đến gặp anh hôm nay.

              Lợi như bị những kỷ niệm xưa kéo trĩu xuống. Ông ngồi xo ro, hai tay vuốt những giọt mồ hôi trên trán.

              Văn Quyền thầm bấm bụng cười vì trò đùa ác của mình, nhưng giọng anh lại méo xệch muốn khóc.

              - Anh đau ba thì em cũng đau một. Đây là tất cả đơn tố cáo nặc danh mà em đã thu lượm được. Xin thề với anh là chỉ mình em biết. Nay em xin đốt trước mặt anh…

              Quyền bật diêm. Ánh lửa xanh lem lém nuốt dần từng con chữ, như trò ma thuật.

              - Dù có đốt tất cả thì cũng không che được tai mắt của tổ chức. Họ biết hết cả rồi - Lợi như tự nói với mình và phì một tiếng thở dài.

              - Năm nay anh có sao La Hầu. Đại hạn vào tháng tám…

              - Chú cũng biết tử vi?

              - Dạ, em biết sơ qua. Ông thầy Tứ Bạng của em mới thực siêu phàm. Phu nhân các cụ nhà mình bà nào chẳng đến xin quẻ cho chồng. Tuần trước em nhờ thầy nói về anh, thầy bảo anh gặp tuổi đại hạn, Kình Dương, Phá Toái xung chiếu cung Quan, nhưng cung Mệnh lại có Thái Dương, Quốc Ân miếu địa, có quý nhân phù trợ.

              - Tức là rồi sẽ qua?

              - Anh cứ kiên tâm chờ đợi. Đừng vội lạy ông tôi ở bụi này. Em sẽ tiếp tục thu nhặt hết đon thư tố cáo đã gửi. Anh yên tâm đi. Em có chân rết ở khắp các văn phòng từ Ban tổ chức, Viện kiểm sát, đến Toà án, Tư pháp, Nội vụ. Em đã thăm dò ông Phó ban Bảo vệ Nội bộ rồi. Đã lên đến vị trí như anh, có bìa tem phiếu đặc biệt, có chế độ chăm sóc sức khoẻ định kỳ, tức là cái đầu đã được bảo lãnh bằng kim cương, trừ trường hợp phản bội lý tưởng, phản bội tổ chức như bọn Nhân văn Giai phẩm, bọn Xét lại… còn chỉ va vấp về tác phong sinh hoạt, lại biết lỗi lầm, thì bằng giá nào tổ chức cũng bảo vệ tới cùng.

              ***

              Văn Quyền đi khỏi, Lợi đóng chặt cửa phòng. Ông quay điện thoại tới phòng làm việc của bà Cam, lúc này đã chuyển về Hà Nội, trong ban lãnh đạo Cơ quan Phụ vận Trung ương.

              Tiếng chuông đổ liên hồi nhưng không có người nhấc máy. Cam đi đâu? Vẫn còn giờ hành chính, nhưng ông không muốn gọi tới phòng thư ký trực.

              Lật tìm sổ danh bạ, ông gọi về nhà riêng.

              Đầu dây bên kia, giọng bà Cam khê nồng, như người đang trong một cơn ốm nặng.

              - A lô, tôi nghe…

              - Bà đang ốm phải không? Đã uống thuốc gì chưa? Nếu cần tôi sẽ cho người đến đưa đi viện.

              - Cám ơn, tôi tự lo được…

              - Có việc tôi rất cần gặp bà. Chúng ta phải bàn bạc thống nhất kỹ…

              - Tôi cũng đang định gặp ông… Thằng Chu nó vừa làm một chuyện động trời. Tôi đang sống dở chết dở…

              Đang nói, bà Cam bỗng dừng máy. Ông Lợi áp sát ống nghe bên tai chờ đợi. Hình như chiếc ống nghe vẫn để ngoài bàn phím và tiếng khóc nấc vọng vào rất rõ.

              Chuyện gì đã xảy ra với Cam?

              Chiến Thắng Lợi mở tung các cánh cửa. Tiếng khóc của Cam vẫn đang nấc lên ở đâu đó. Tổ chức đã làm việc với cô ấy rồi sao? Sao Cam lại nói: "Thằng Chu nó vừa làm một chuyện động trời"? Chu mắc tội gì? Đã làm gì ảnh hưởng đến mẹ nó?

              Lướt nhanh các sự kiện liên quan đến Lê Kỳ Chu gần đây, ông Lợi thấy yên lòng. Hơn mười năm qua, kể từ cái ngày Cam cho Lợi biết chàng trai Lê Kỳ Chu ngời ngợi như một hiệp sĩ, chính là giọt máu của Lợi, ông vô cùng mãn nguyện. Ông luôn theo dõi từng bước đi và thầm chăm sóc Chu với tình cảm và trách nhiệm một người cha mẫu mực.

              Ôi chao, mới đó mà anh con trai cả mang họ Lê của ông đã vào tuổi tam thập nhi lập, đã vợ con đề huề, và ông đã có thằng cháu đích tôn, dù vẫn còn trong vòng bí mật. Cho tới bây giờ, cảm giác lần đầu nghe Cam tiết lộ điều tuyệt mật linh thiêng của hai người, rồi tâm trạng khi tận mắt nhìn thấy giọt máu của mình hiện hữu thành chàng trai tuấn tú trong đoàn quân sắp ra trận ở vùng Sơn Tây ấy, vẫn tươi rói, bồi hồi như mới hôm qua. Phải rồi, lúc ấy suýt nữa thì Lợi không kìm được lòng mình, suýt kêu lên: "Con trai của ta. Ta mới chính là bố đẻ của con đây". May mà bản lĩnh chính trị dày dạn đã kịp ngăn Lợi lại. Ông xoài tay ôm chầm lấy đôi vai rắn chắc của chàng tân binh. Tưởng như dòng máu chảy giần giật trong tấm thân trai căng tràn mười bẩy tuổi đang truyền sang Lợi. Cảm giác ruột thịt máu mủ bỗng làm mắt Lợi cay xè ông bỗng thấy biết on Cam vô cùng. Cam thật sâu sắc, biết nhìn xa trông rộng khi quyết bằng mọi giá giành lại đứa con của mình. Lợi phải biết ơn Cam, ngàn lần biết ơn nàng đã cho ông giọt máu vô giá này. Nó sẽ phải ở lại hậu phương như nàng mong muốn. Không ai có quyền cướp đi báu vật quí giá nhất của đời nàng, giọt máu thiêng liêng mà suốt mười tám năm vì nó nàng đã chịu muôn vàn đắng cay cơ cực.

              Nhờ sự can thiệp kịp thời và vô tư của thượng tá Võ Khang ở Cục Quân lực, Lê Kỳ Chu đã làm một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục, tách khỏi những đoàn quân điệp trùng màu lá nguy trang rùng rùng xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước để bay sang đất nước thần tiên Xã hội chủ nghĩa.

              Mãi mãi sau này, và có thể không bao giờ Lê Kỳ Chu và bất kỳ ai đó biết được vở kịch "B quay" tài tình đã được ông Lợi, bà Cam dàn dựng như thế nào. Ngay đến như thượng tá Võ Khang, người trực tiếp giải quyết cho Chu sang học Liên Xô cũng không thể biết kịch bản này. Và bây giờ chứng nhân duy nhất của vụ "B quay" ấy cũng đã nằm lại ở chiến trường Quảng Đà. Thượng tá Võ Khang được Bộ Tổng tham mưu tăng cường cho mặt trận Khu V năm 1970. Và ông đã bị địch phục kích giết hại ngay trên đường về quê, cách căn nhà nơi ông sinh ra và lớn lên chỉ một con sông nhỏ. Đợt ấy nếu Chu vào chiến trường, chắc chắn anh cũng sẽ nằm lại, như thượng tá Võ Khang, như hàng chục vạn chàng trai tuổi hai mươi vượt Trường Sơn đã nằm lại…

              Tại Liên Xô, chiếc nôi của Cách mạng tháng Mười, Lê Kỳ Chu được phân vào học trường đào tạo sĩ quan điều khiển tên lửa. Hai năm sau, thiếu uý Lê Kỳ Chu theo đoàn tên lửa SAM2 trở về nước. Và trận ra quân đầu tiên của trung đoàn tên lửa Sông Đà hạ gục pháo đài bay B52 Mỹ ở của ngõ phía tây Hà Nội, có công lao đóng góp của sĩ quan điều khiển Lê Kỳ Chu.

              Với ông Lợi, sự trưởng thành của Chu luôn luôn là niềm kiêu hãnh ngấm ngầm. Chu bước ra khỏi cuộc chiến chỉ với quân hàm thượng uý, nhưng đó là tấm giấy thông hành tối cần thiết, là thứ trang sức thời thượng quý giá để Chu trở lại trường đại học, tiếp tục cuộc hành trình hoàn thiện tri thức còn bỏ dở. Đã hơn một lần Chiến Thắng Lợi nói với Cam rằng, con trai họ sẽ nằm trong đội ngũ kế cận của cách mạng, sẽ kế tục con đường mà họ đang đi. Những thập kỷ sắp tới sẽ là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường ai thắng ai, Tư bản giãy chết hay Chủ nghĩa xã hội khoa học?

              Thời kỳ đấu trí đấu lực bằng trí tuệ và kinh tế. Cho nên, năm 1977, khi thượng uý Lê Kỳ Chu trúng tuyển khoa vô tuyến điện trường Đại học Bách khoa, thì ông Lợi quên hết vai trò một người cha bí mật, giữa thanh thiên bạch nhật một ngày nghỉ lễ, đã cưỡi xe Vonga mang một bó hoa lớn đến chúc mừng hai mẹ con Cam.

              - Anh liều quá đấy. Không sợ tai mắt thiên hạ à? - Cam hốt hoảng và bối rối. Dường như bà đã thấy những ánh mắt đang săm soi hết nhìn Lợi lại nhìn Chu. Hai người đàn ông đứng cạnh nhau chẳng khác gì hai giọt nước.

              - Em sợ gì chứ? Tôi đang muốn công khai cho thiên hạ biết. Tôi tự hào về con trai mình…

              Những lời nói khiến Cam hởi lòng hời dạ. Nhưng rồi bà vẫn phải tìm cách tiễn Lợi đi nhanh. Bà biết rằng cả sự nghiệp của hai cha con họ còn ở phía trước.

              Cho đến khi Lê Kỳ Chu yêu cô giáo Linh và quyết định cưới vợ ngay khi còn đang ngồi trên ghế trường đại học, thì những bí mật của ông Lợi, bà Cam có vẻ như không còn là độc quyền của họ nữa.

              Câu chuyện lấy vợ của Chu có vẻ như một sự sắp đặt sẵn của định mệnh.

              Hồi còn là sĩ quan ở trung đoàn tên lửa Sông Đà, do thành tích bắn hạ pháo đài bay Mỹ, do khả năng diễn đạt và báo cáo trước các hội nghị điển hình, Chu đã được đại tá Quảng Lạc, Cục trưởng Cục Z, đặc biệt yêu mến. Chính vì cái tên độc đáo, gợi nhớ đến nhà hát Quảng Lạc của Hà Nội thời Pháp tạm chiếm, mà toàn quân quen gọi đùa là ông tuồng Quảng Lạc, hoặc là ông tướng Quảng Lạc, khi ông được phong cấp tướng sau này. Về ông tướng này, trong và ngoài quân đội có khá nhiều giai thoại. Ông vốn xuất thân làm nghề đạp xích lô ở ngoại thành Hà Nội. Hồi trước cách mạng, trong một lần đạp xe lòng vòng kiếm khách, bỗng từ một ngõ hẻm, một người mặc bộ quần áo đũi diềm bâu, đội mũ phớt cháo lòng hớt hải nhảy lên xe Lạc. "Tôi là Việt Minh, đang bị mật thám đuổi. Anh đạp thốc lên". Người lạ vừa nói vừa chỉ tay ra hiệu chạy vào một khu chợ. Sau lần cứu thoát ông cán bộ Việt Minh ấy, Lạc tham gia Trung đoàn bảo vệ Thủ đô, rồi rút qua sông Hồng lên chiến khu. Trong một lần chỉnh quân đầu hoà bình lập lại, Lạc nhận ra người cán bộ mà mình cứu giúp năm xưa chính là vị cán bộ cấp cao Trung ương đến giảng bài. Nhưng Lạc lờ đi xem người cán bộ có nhận ra ân nhân không? Hoá ra chẳng ai quên ai. Suốt giờ giảng vị cán bộ cứ nhìn Lạc chằm chằm. Giờ giải lao, đồng chí đến gặp Lạc, nhắc lại câu chuyện cũ. Cả hội trường đổ xô đến nghe chuyện. Lạc xích lô trở thành cái tên nổi tiếng toàn quân Sau lần ấy, Quảng Lạc tiến vù vù. Từ Chính trị viên phó tiểu đoàn, ông đi học một lớp chính trị, rồi được phong vượt cấp, giữa cuộc chiến tranh chống Mỹ đã lên tới chức Phó Cục trưởng. Không ít người ghen tị với Lạc, nhưng ai cũng phải thừa nhận, mặc dù trình độ văn hoá có hạn, nhưng Quảng Lạc có trí nhớ thật tuyệt vời. Dường như tất cả những gì, từ thời Tây đến giờ, hễ đã qua mắt ông đều được ông ghi vào bộ nhớ. Học nghị quyết, tài liệu dày hàng vài chục. trang, chẳng cần ghi chép gì, ông nhớ vanh vách.

              Cái trí nhớ của tướng Quảng Lạc không ngờ có lần đã đánh trúng tim đen Chiến Thắng Lợi. Số là lần ấy, tất cả cán bộ cấp cao về học tạp nghị quyết Trung ương tại Hội trường lởn Ba Đình. Tướng Quảng Lạc ngồi cạnh Chiến Thắng Lợi.

              Suốt buổi, ông chẳng ghi chép gì, chỉ ngồi nhìn Lợi, trầm ngâm nghĩ ngợi. Vốn tính thẳng ruột ngựa, giờ giải lao, Lạc kéo Lợi xuống quầy căng tin, gọi hai vại bia hơi và một gói lạc rang rồi vừa cụng ly đánh keng vừa hỏi thẳng đuồn đuột:

              - Này, tớ hỏi thật đằng ấy nhé, đằng ấy có quen thân với cô Cam, Hội phó Tỉnh hội phụ nữ Sơn Minh không?

              - Sao anh lại hỏi vậy? - Mặt Lợi bỗng đỏ nhừ.

              - Tớ trông thằng Lê Kỳ Chu ở trung đoàn tên lửa Sông Đà giống cậu như đúc. Tớ đồ rằng thằng Chu là con của cậu, chứ không phải con ông Lê Thuyết. Hồi Nhật đảo chính Pháp, tớ cũng từng đạp xích lô cho đồng chí Lê Thuyết. Con ông Thuyết không có cái mặt ấy. Nói thật nhé. Tớ phục cậu. Cậu mà ngủ được với cô Cam, Ni cô Đàm Hiên, mỹ nhân Sơn Minh, cũng sướng một đời…

              - Tôi chưa hiểu ý đồng chí… - Lợi chống chế yếu ớt.

              - Khách sáo, già dối làm chó gì? Tuổi ngần này rồi, tổ chức không thích, cho về vườn, thì đã làm sao? Tớ đang muốn gả con gái cho thằng Lê Kỳ Chu, nên mới nói với cậu thế. Nếu thật Chu nó là con cậu, thì chúng mình làm thông gia với nhau cho vui…

              Tưởng chuyện đùa tếu, nào ngờ năm sau, tướng Quảng Lạc gả con gái Út là cô giáo Quản Thị Linh cho Lê Kỳ Chu, khi anh còn đang theo học khoá kỹ sư vô tuyến điện.

              ***

              Chu lấy con gái tướng Quảng Lạc, như chuột sa chĩnh gạo. Ông bố vợ thuộc hàng sĩ quan cao cấp, được phân nhà ở trong thành. Khu hoàng thành cổ từ triều Lý - Trần - Lê, sau ngày giải phóng Thủ đô được chọn làm đại bản doanh của Bộ Quốc phòng. Ngoài nơi đặt trụ sở các cơ quan đầu não, vùng ven tường thành được biến thành khu gia binh, còn gọi là khu phố nhà binh. Suốt mấy chục năm bao cấp, kín cổng cao tường nhà này đi sang nhà khác bằng những ngõ ngách ngoắt ngoéo, tăm tối, nay tất cả các nhà tướng tá cùng phá bức tường phía sau, quay một phát, trăm tám mươi độ, đồng loạt thành nhà mặt phố. Vì nhà đông người, lại thuộc diện tham gia cách mạng từ tiền khởi nghĩa, tướng Quảng Lạc được chia thêm một lô đất ở sân bay Bạch Mai cũ, ông cùng vợ và con trai Út xây một căn nhà vườn, nhường căn hộ phố nhà binh cho vợ chồng Linh, Chu. Vậy là bỗng nhiên vợ chồng Chu có phố mặt tiền. Nhà mặt tiền ra tiền mặt. Nhà mặt phố hơn bố làm quan. Những câu ca này được lưu truyền từ dạo ấy.

              Có lẽ do sự thúc bách của ông bố vợ tướng Quảng Lạc, mà từ ngày cưới Linh, Lê Kỳ Chu đã âm ỉ một khát vọng là tìm bằng được mộ và quê gốc của bố Lê Thuyết. Đã mấy lần anh gạn hỏi mẹ, nhưng bà Cam hoặc như lờ đi không nghe rõ, hoặc là viện lý do gạt phắt:

              - Bố mẹ cưới nhau không giá thú. Với lại ngày ấy bố mày có nói gì đến quê quán?

              - Chả lẽ bố con vô sản đến mức "không quê hương sương gió tơi bời"? Phải có một nơi nào là quê gốc của ông bà cha mẹ chứ?

              - Thì mẹ vẫn nghe bố Thuyết mày nói quê gốc ở Thái Bình. Năm lên mười tuổi ông bà đưa bố mày ra làm cu ly ở mỏ than Hòn Gai. Rồi ông bà cùng chết vì dịch tả. Bố mày lang thang về Hải Phòng, làm cu ly nhau ở nhà máy đèn…

              Chỉ bằng những thông tin sơ sài và ước lệ ấy, Lê Kỳ Chu đã đi không biết bao nhiêu cửa, lần tìm từ phòng lưu trữ Sở than Hòn Gai, phòng truyền thống nhà máy điện, nhà máy Xi măng Hải Phòng, Ban tổ chức Trung ương, Ban lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình… Cho đến khi tưởng đã bế tắc, vô vọng hoàn toàn, thì một tia sáng rất nhỏ bỗng hé lộ cuối đường hầm. Trong đợt chỉnh lý lần cuối cuốn "Lịch sử phong trao công nhân đất cảng, Ban biên tập và Nhà xuất bản Cánh Buồm bỗng lần tìm ra và cho người về xác minh quê gốc đồng chí Lê Thuyết. Hoá ra tên Lê Thuyết, cũng chỉ là một cái tên giả để hoạt động cách mạng. Tên thật đồng chí là Hoàng Văn Vẹo, quê quán tại làng Rìa, xưa thuộc tổng Cồn Cua, tỉnh Thái Bình.

              Nhận được thông tin này, suốt một đêm Chu không ngủ. Xúc động, mừng vui, bồi hồi, xa xót, tự hào, thương tiếc… Đủ các cung bậc tình cảm chen lấn, hỗn tạp. Anh lén ngồi dậy hôn vợ rồi hôn vào cãi mẩu chim bé tí như quả ớt chỉ thiên của con trai và thầm nói với con: "Thế là bố con mình sắp tìm được cội nguồn rồi".

              Sáng sớm hôm sau, Chu nói dối vợ về Mường Bi có việc, hôn chim thằng cu lần nữa, rồi cưỡi chiếc Honda 67 về rủ cậu Quách Liêu đi Thái Bình. Cậu Quách Liêu, em cùng mẹ khác cha với Cam, giờ làm cán bộ phòng văn hoá Mường Bi. Dù đã là dân Hà Nội, nhưng Chu vẫn luôn coi cậu Quách Liêu và quê hương Mường Bi là ruột thịt của mình.

              Cái làng Rìa trước kia, từ ngày tiến lên Chủ nghĩa xã hội được khoác một cái tên mĩ miều là hợp tác xã nông nghiệp cấp cao Tiên Tiến. Hỏi thăm rất nhiều người, nhưng phải gặp những người già cao tuổi, mới tìm tới được làng Rìa nằm khuất nẻo bên một nhánh sông đổ ra cửa Diêm Điền.

              Xế chiều, hai cậu cháu Chu mới tìm thấy nhà ông Hoàng Văn Vọ, em trai liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo. Ông Vẹo có người con gái duy nhất lấy chồng đi khai hoang kinh tế mới trên Nghĩa Lộ, nên bát hương thờ tự để ở nhà ông em ruột. Nhìn tấm bằng Tổ quốc ghi công ghi tên liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo, tức Lê Thuyết, hai cậu cháu Chu mừng thầm là đã tìm đúng địa chỉ rồi.

              Ông Vọ mới ngoài sáu mươi mà cổ kính, già nua như ông lão tám mươi tuổi. Cuộc gặp gỡ đột ngột với hai cậu cháu Chu, khiến ông Vọ tưởng như mình đang gặp những người ngoài hành tinh, tức là câu chuyện của họ hoàn toàn xa lạ, hoang đường, đến mức nông dân chân chỉ hạt bột như ông mà cũng nổi máu cảnh giác cách mạng, cho rằng có thể mình đang gặp hai kẻ gián điệp, muốn về hợp tác xã Tiên Tiến phá hoại phong trào nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn. Ông giả vờ đi đái sau đống rạ, rồi gọi cô con dâu, ngầm bảo đi gọi ông xã đội trưởng đến để đề phòng bất trắc.

              Chẳng mấy chốc người trong làng đã kéo đến kín đặc cái sân đất nện. Trẻ con chỉ trỏ, đuổi nhau quanh đống rơm, người già, đàn bà ghé tai nhau thì thào bàn tán. "Ông Vẹo làng mình có con riêng. Hoá ra trước ngày bị mật thám bắn ở Cầu Đất Hải Phòng, ông Vẹo đã kịp gửi lại một hạt giống cách mạng". "Dào ôi, khéo mà lại bé cái nhầm, kẻ ăn ốc người đổ vỏ! Nhà ông Vẹo làm gì có cái mặt thế kia?" "Gớm, chỉ độc mồm. Không có lửa thì làm sao có khói. Người ta ngời ngời là thế mà lại thèm đi nhận nhằng à?"…

              Trong nhà, cậu Quách Liêu giúp Chu đặt đồ lễ và thắp hương khấn vái trên bàn thờ.

              - Thưa chú, nếu chú đúng là em ruột bố cháu thì cháu sung sướng vô cùng - Lê Kỳ Chu sau khi nói rõ mục đích chuyến đi, và trình bày hết hoàn cảnh của mình, liền lấy trong cặp ra một tờ giấy được bọc cẩn thận, kính cẩn hai tay đưa cho ông Vọ:

              - Thưa chú, đây là giấy khai sinh của cháu. Cháu chính là Lê Kỳ Chu, con trai bố Lê Thuyết, tức là liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo…

              Mãi rồi ông Vọ cũng vỡ lẽ. Khổ, hoá ra anh này cũng giống như những người đi tìm đồng đội trên đài. Ông nheo nheo đôi mắt kèm nhèm nhìn ngang lại nhìn dọc. Anh Vẹo mà có con ngoài giá thú thì phúc đức nhà ông to bằng cái đình. Khốn nỗi anh Vẹo lấy vợ sớm, từ năm mười bốn tuổi, chị vợ hơn chồng gần năm tuổi, nhưng hai người chê nhau, mãi mấy năm sau mới có một mụn con gái, là cái Vặn. Hồi anh Vẹo bị Pháp bắn ở Hải Phòng, cái Vặn mới hai tuổi…

              - Đúng, anh tôi đi làm Việt Minh có lấy bí danh là Lê Thuyết. Bố mẹ tôi có ra Hòn Gai làm cu ly than hai năm, nhưng sau khi anh Vẹo tôi mải xuống tàu chơi, bị lạc, bố mẹ tôi bèn dắt díu chúng tôi về quê. Được mấy năm, anh Vẹo tôi về nghe theo lời bố mẹ tôi, lấy vợ. Lấy vợ được vài tháng, anh tôi chê vợ, lại bỏ nhà đi. Hoá ra anh tôi theo Việt Minh…

              - Chỗ này thì không khớp với lý lịch - Chu nói.

              - Lý lịch thật của ông anh tôi là thế đấy. Đi làm Việt Minh, bố ai dám khai thật. Tên là Xoài phải khai là Mít, tuổi Thân thì nói là Dần, bố mẹ anh em ruột thịt phải khai đã chết hết. Thế, Tây nó mới không mò ra. Tôi không dám nói sai, chuyện vợ con của ông anh tôi thì không giấu được. Ngoài người vợ ở quê sau khi anh tôi bị Tây bắn, đã đi bước nữa, lấy chồng bên kia sông, tôi không thấy nói anh Vẹo tôi có người vợ bé nào.

              - Dạ, mẹ cháu lấy bố cháu không có giá thú… Hai người cùng đi tham gia cách mạng…

              - Thế vậy anh sinh năm nào? - ông Võ biết chắc là bé cái nhầm rồi, mới nghĩ cách hỏi lục vấn.

              - Dạ, giấy khai sinh gốc đây ạ. Mẹ cháu sinh cháu năm 1949.

              Ông Vọ thừ người, đưa ngón tay nhẩm tính.

              - Thế thì cả anh với mẹ anh đều nhầm to rồi. Ngay từ lúc anh đến, tôi đã biết ngay là có sự nhầm. Họ Hoàng nhà tôi không ai có khuôn mặt như anh. Anh Vẹo tôi, tức là liệt sĩ Lê Thuyết trên cái bằng treo kia, hy sinh năm 1946 tại Hải Phòng. Giấy chứng nhận liệt sĩ cũng ghi rõ năm anh tôi mất. Làm sao chết ba năm rồi mà còn đẻ con được?

              Câu chuyện đang đến hồi kết thúc thì trưởng công an xã và mấy dân quân khoác súng đến. Đây là vùng cửa sông, ven biển, nơi các nhóm biệt kích gián điệp thường xâm nhập, vì thế tuy đất nước thống nhất vẫn phải đề cao cảnh giác cách mạng, cảnh giác bao nhiêu cũng không thừa.

              Trưởng công an xã lừ đừ đi vòng quanh, rồi chiếu tia nhìn sắc lạnh như màu nòng súng vào hai người lạ mặt.

              - Đề nghị các anh cho xem giấy tờ.

              Đấy là gáo nước lạnh của nhà chức trách bồi tiếp theo những phán quyết của ông chú hờ, khiến Lê Kỳ Chu chợt nhận ra tình thế trớ trêu đến vô duyên và thảm hại của mình.

              Mặc dù đã đưa hết các giấy tờ tuỳ thân, lại viện đến nhạc phụ là tướng Quảng Lạc lừng lẫy, nhưng tối ấy hai cậu cháu vẫn phải nộp mạng cho đàn muỗi đói như những chiếc B52 Mỹ, thoả sức oanh tạc ở trụ sở uỷ ban xã.

              Nỗi đau không có cha, cộng với nỗi đau bị mẹ lừa dối càng sưng tấy lên, nhức buốt suốt dọc đường hai cậu cháu từ làng Rìa, Thái Bình, về Hà Nội.

              - Mẹ lừa dối con. Mẹ cố tình lừa dối con suốt ba chục năm nay… - Vừa nhìn thấy bà Cam, Chu đã ôm mặt khóc nấc lên.

              Những âm thanh ban đầu còn tắc nghẹn, sau thì ồ ồ như vòi nước xả hết van. Không phải tiếng khóc của một người đàn ông vừa đến tuổi làm bố, mà là tiếng khóc của một đứa trẻ đau đớn vì tủi nhục, vì bị lừa gạt.

              Bà Cam sững sờ không hiểu có chuyện gì xảy ra. Đến khi nghe cậu Liêu tường thuật lại toàn bộ cuộc hành trình đi tìm cha của Chu, thì bà cũng ôm mặt khóc nức nở.

              - Vì sao mẹ lại lừa dối con? Vì sao một người cách mạng như mẹ lại có thể sống trong sự dối trá? Con là con ai thì chỉ riêng mình mẹ biết thôi. Thế mà mẹ lại giấu giếm. Hay cha con là kẻ phản động? Mẹ sợ bị khai trừ ra khỏi tổ chức, sợ mất chức mất quyền ư? Vì sao mẹ lại phải nấp dưới một cái bóng ma? Hoá ra con chỉ là một đứa con hoang. Thế mà mấy chục năm nay con cứ hãnh diện tự hào vì có một người cha là liệt sĩ là chiến sĩ cách mạng. Thật là dối trá, lừa đảo. Thật nhục nhã…

              Mỗi tiếng đấm ngực thình thịch của Chu lại như nhát búa dội vào tim bà Cam buốt nhói.

              - Mẹ xin con… Con đừng nói nữa… Hãy tha lỗi cho mẹ…

              - Thế thì ai tha lỗi cho con, một đứa con hoang đội lốt con một chiến sĩ cách mạng? Thật là thô bỉ, hèn mạt. Trong khi hàng vạn thanh niên ra trận, cả lớp bạn bè nằm lại Trường Sơn thì con cố tình khoác áo con liệt sĩ để B quay, để đi nước ngoài bảo toàn tính mạng. Ôi, sao mẹ không cho con sống một cách đàng hoàng? Mẹ và tất cả bạn bè đồng chí của mẹ đều hùa nhau đẩy con vào con đường giả dối…

              - Đừng nói thế. Mẹ cấm con không được nói thế - Bà Cam thấy con trai đã bắt đầu đi quá đà.

              - Mẹ còn oan ư? Sao mẹ có thể nhẫn tâm lừa dối tới ba mươi năm? Ừ, thì con là đứa con hoang đi. Thì đã làm sao? Mẹ có quyền chửa đẻ với bất cứ ai, miễn là có con. Con đâu cần cầu mong có một người cha làm đến chức này nọ. Người cha cách mạng hay không cách mạng với con đâu có nghĩa lý gì? Cha con có thể là một lão nông dân, một cu li xe. Không cần địa vị cao sang, chỉ cần là một người lương thiện, có danh tính - Chu nhìn thẳng vào đôi mắt ngập nước của mẹ, ôm lấy đôi vai mẹ mà lắc liên hồi.

              Trong cái giây phút đau đớn ấy của đứa con, bà Cam bỗng nhận ra một luồng ánh sáng cực mạnh chiếu vào tận nơi sâu thẳm nhất tâm hồn mình, truyền cho bà một nguồn năng lượng kỳ diệu đủ thắng mọi lực cản mà bao năm nay bắt bà phải im lặng. Dường như bây giờ, khi đứa con đã bóc trần lớp màn bí mật, không còn gì cần che đậy, không còn gì phải giấu giếm, bà mới bắt đầu sống với con người thực của mình, nhận ra con người thực của mình. Giống như một thứ quả, như quả cây sở, cây cao su chẳng hạn, muốn chúng nảy mầm cho một lứa cây mới, người ta phải đập vỡ lớp vỏ cứng bao bọc, thậm chí phải nhúng chúng vào nước sôi trăm độ. Bóc trần một sự thật bao giờ cũng đau đớn, cực kỳ khó khăn. Bà Cam đang tự bóc trần một lớp vỏ che đậy. Bà ngồi bệt xuống đất buông xuôi, như muốn trút hết những gì mà lâu nay bà vẫn khoác trên mình.

              - Cứ phỉ nhổ mẹ anh nữa đi… Tôi là kẻ hư hỏng, tôi đáng bị nguyền rủa. Tôi hèn nhát và giả dối không dám khai ra người đã ngủ với mình. Tôi không đáng là một người mẹ…

              Thái độ thay đổi của Cam, những lời tự sỉ vả của bà, khiến Chu bối rối. Trời ơi, sao mẹ bỗng già như một bà lão bẩy mươi thế kia? Anh chợt nhận ra những sợi tóc bạc quá nhiều trên đầu mẹ. Anh thấy thương mẹ da diết, anh nhận ra mình đã đi quá đà.

              - Kìa mẹ. Con chỉ muốn biết sự thật thôi mà…

              - Có những sự thật còn cay đắng hơn nữa mà chỉ mình mẹ biết. Và mẹ phải chôn chặt trong lòng, có thể phải mang theo xuống mồ…

              Bà Cam nói và nước mắt tuôn chảy lã chã. Bà chợt nghĩ tới Cục đứa con đầu lòng tội nghiệp của bà, một mảng sự thật nữa, cay đắng ê chề nhưng xa xót, đáng thương vô cùng mà có thể cho tới lúc xuống mồ bà vẫn giấu kín mang theo. So với Chu, giọt máu hoang mà ngay sau đây bà dám công khai cho tổ chức và bàn dân thiên hạ biết, thì Cục là một ẩn số của bài toán mà không nhà toán học thiên tài nào, ngoài bà, có thể giải được. Ngay người cha đẻ nó, Trương Phiên, đồn trưởng bốt làng Động, kẻ hàng ngày vẫn ra vào đánh tổ tôm với ông Lý Phúc, hàng ngày chạm mặt thằng bé, cũng không nhận ra được giọt máu của mình. Chuẩn tướng Trương Phiên giờ đã thành kẻ lưu vong, gia nhập tổ chức Việt Nam phục quốc, suốt ngày ra rả trên đài BBC kêu gọi Việt kiều lật đổ chế độ cộng sản. Nếu tướng Trương Phiên biết một mảng sự thật nữa của đời bà Cam bị bóc trần thì sẽ ra sao? Nếu ngay bây giờ Cục cũng từ làng Động lên đây để bóc trần sự thật, để phanh phui quãng đời bí ẩn nữa của bà, thì bà làm sao sống nổi? Trời ơi, một người mang danh cộng sản như bà sao mà nhơ nhớp đàng điếm đến thế?

              - Thôi, chị ơi, cháu nó có lỗi. Em xin chị… - Cậu Quách Liêu xua tay rối rít, ra hiệu cho Chu hãy lánh đi.

              Chu quỳ sụp xuống bên mẹ.

              - Kìa mẹ. Xin mẹ đừng tự làm khổ mình như thế. Con van mẹ. Nếu thấy không cần phải nói ra thì mẹ cứ giữ trong lòng…

              Bà Cam vấn lại tóc, lau khô nước mắt.

              - Giờ thì mẹ đã có thể yên tâm về con… Con đã đủ trưởng thành để biết một sự thật. Hôm nay có cả cậu Quách Liêu, chị muốn cậu cùng nghe một sự thật. Chu ơi, con hãy nghe mẹ nói đây. Con là kết quả của một tình yêu. Một tình yêu không toan tính, không vụ lợi. Con có một người cha cũng đủ cho con tự hào…

              - Mẹ nói đi. Cha con là ai?

              - Lẽ ra mẹ đã nói với con từ cái đợt con tập trung trên Suối Hai để chuẩn bị khoác ba lô vào chiến trường. Nhưng vì nhiều lẽ. Vì mẹ không muốn công danh sự nghiệp của cha con bị ảnh hưởng. Mẹ không muốn hạnh phúc gia đình của cha con bị phá vỡ. Lại cũng đúng như con vừa nói, vì mẹ sợ bị khai trừ khỏi tổ chức, mẹ hèn hạ đến mức sợ mất chức mất quyền… Con có nhớ người đã đến đơn vị xin cho con đi Liên Xô học không?

              - Đấy là bạn cùng tham gia cách mạng với bố Lê Thuyết…

              - Bác Lê Thuyết hy sinh từ năm 1946 ở Hải Phòng. Cha con thuộc lớp đàn em đi theo cách mạng, không thuộc thế hệ bác Lê Thuyết. Năm 1948 mẹ mới gặp và yêu cha con như một thứ tình yêu ma ám, mê muội. Tên con là Kỳ Chu. Còn tên thật của cha con là Nguyễn Kỳ Khôi…

              Comment


              • #22
                Chương 22

                Người trở về


                Cơn mưa rả rích khiến đêm thật dài. Nghe rất rõ cành cây khô bên đầu trái nhà rơi xuống mái ngói tạo một âm thanh như tiếng ho khan trầm của cây.

                Cái nhánh khô này Khiêm đã nhìn thấy từ mấy hôm trước. Và suốt năm đêm liền nàng đã canh xem nó rơi vào lúc nào. Năm đêm liền với những giấc ngủ chập chờn mộng mị. Và cả trước đó, hàng mấy tháng trời, kể từ khi Vỹ ở trại cải tạo về hình như chưa đêm nào nàng ngủ yên giấc.

                Sẽ không bao giờ có được một đêm kì diệu như cái đêm mưa trái mùa ở trại K27 ngày ấy nữa. Đêm ấy rét thấu xương. Gió vật vã trên tán rừng như vũ điệu cuồng dại của từng đàn trăn gió. Và trong căn nhà lá trạm xá của trại cải tạo, những tấm ván ép cũng run lên bần bật như không thể chịu nổi sức nặng và sự cuồng nhiệt của hai thân thề quấn xiết lấy nhau.

                "Em chết mất". Hình như nàng đã nói với Vỹ thế khi nàng nghe rất rõ tiếng những khớp xương mảnh dẻ của nàng kêu răng rắc như có thể gãy vụn dưới sức nặng và sự cuồng bạo của anh. Cái đêm kì diệu ấy chính là sự run rủi của trời đất sinh ra và lớn lên không biết mặt bố. Rất nhiều lần sau này, mỗi khi nói với các con về bé Phong, Khiêm cứ đùa rằng để có được thằng bé, nàng suýt bị gãy cả bộ xương sườn.

                Bây giờ thì đúng là tiếng cành cây khô rơi chứ không phải tiếng khớp xương nàng. Vỹ không bao giờ có được cái sức mạnh kỳ diệu của người đàn ông. Vĩnh viễn Vỹ không còn là đàn ông nữa rồi.

                Những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống gối. Nàng lại khóc Không biết đã bao đêm rồi. Nỗi đau không thể nói với ai. Nỗi đau hành hạ từng đêm, âm ỉ, nhức buốt. Giá như Vỹ cứ đi mất hút như anh đã từng mất hút khỏi đời nàng bẩy năm qua. Giá như nàng đã già nua, xấu xí, hay bị một tật nguyền gì đó. Nghiệt ngã thay, nàng mới chớm vào tuổi hồi xuân, cái tuổi mà rất nhiều người đàn bà chưa biết yêu, hoặc chưa kịp hưởng thụ thời con gái thì đây là những ngày đại lễ hội của đời mình. Đàn ông sành sỏi, biết thưởng thức mùi đời thưởng tìm đến những cuộc tình tuổi bốn mươi. Không nũng nịu, sướt mướt, nai tơ ngờ nghệch, mà chín đỏ, nồng nã, đắm đuối cuồng nhiệt. Khiêm tự cảm thấy mình đang ở đỉnh điểm của người đàn bà. Nàng như trở lại thời xuân sắc. Da thịt nàng sau bao ngày xanh xao héo úa, nay bỗng căng nở, phồn thực. Rất nhiều lần đi đường nàng thấy những gã trai đạp vượt lên rồi ngoái lại nhìn nàng với ánh mắt vừa ngưỡng mộ vừa thèm muốn. Nhiều người đàn ông, trong đó bền bỉ nhất vẫn là Văn Quyền, biết tình cảnh của nàng, cố tình đến ve vãn, gỡ gạc. Nực cười nhất là ông giáo dạy toán đeo đôi kính cận hơn mười đi-ốp, ngày nào cũng săn đón, chĩa đôi mắt kính dày như đít chai vào khoảng ngực nàng với niềm khao khát không cần che giấu. Đã thế ông giáo toán còn làm thơ nữa chứ. Những bài thơ viết trên giấy vở học trò, nhiều bài phỏng giọng thơ Bút Tre, thỉnh thoảng như vô tình lại rơi vào cặp sách của nàng. Có lần con gái Trinh Mai ôm lấy người nàng rồi lùi ra xa ngắm nghía mẹ, thở dài: "Con lo cho mẹ lắm. Đến như con mà cũng bị mẹ quyến rũ. Mẹ làm sao mà giữ nổi mình, chờ được cho đến khi bố con về?" Con bé đến tuổi yêu nên đã biết thương mẹ. Nó lo cho mẹ là phải. Chính Khiêm có lúc trước một ánh mắt, một nụ cười cám dỗ, cung tự lo thay cho mình.

                Nhưng rồi cuối cùng thì Khiêm vẫn trụ vững được. Quả bom từ trường dù gặp sắt thép cũng không chịu nổ. Trái nho chín mọng trên cây nhưng còn lâu mới đến miệng những con cáo. Nàng vẫn đủ trinh trắng và kiêu sa chờ ngày Vỹ về.

                Cái đêm đầu tiên Vỹ từ trại cải tạo về là một đêm quá sức. Cả nàng, mẹ nàng, con Trinh Mai và bé Phong đều sốc vì quá bất ngờ. Vỹ đột ngột như từ trên trời rơi xuống. Đến mức con chó cũng không kịp sủa. Khi nghe tiếng gõ cửa, Khiêm cứ ngỡ ma chứ không phải người. Ôi chao, hay là hồn ma Vỹ từ trên ấy mò về? Nếu được tha thì trại người ta phải báo chứ? Người ta phải nhắn người nhà lên đón về chứ? Mà sao phải về nhà giữa lúc nửa đêm? Hay là trốn trại? Hay là có chuyện động trời? Khiêm cuống cuồng, hốt hoảng. Cả nhà hốt hoảng, cuống cuồng.

                Nhưng sốc nhất lại là Vỹ. Cho tới lúc gặp Khiêm và các con rồi, anh vẫn còn bàng hoàng. Suốt từ ga tàu về nhà, chốc chốc Vỹ lại véo tay mình. Khi thấy còn đau anh mới tin rằng mình còn đang sống.

                Mãi sau này, những lúc Vỹ minh mẫn nhất, nghe Vỹ kể lại, nàng tưởng như chuyện hoang đường.

                - Em có nhớ ông giám thị Bản không?

                - Làm sao mà quên được. Không có bác Bản, làm gì có thằng Phong nhà mình.

                - Ừ, cái ông người giời sai xuống ấy, nhân từ và độ lượng nhất trên đời, đã trở thành Giám đốc trại. Sáng hôm ấy, ngay sau giờ tập thể dục, Giám đốc Bản cho gọi anh lên phòng làm việc đưa cho anh tờ giấy đánh máy và bảo:

                - Anh được tự do từ hôm nay. Về chuẩn bị tư trang đồ đạc. Có người nhà nào muốn đón thì nhắn lên.

                Trời ơi, tưởng nghe lầm, anh hỏi lại:

                - Dạ… thưa, tôi được tự do và được về nhà?

                - Chứ còn gì nữa. Tôi rất mừng cho anh. Từ giờ phút này, anh là người tự do.

                Anh mân mê tờ giấy đánh máy, cảm thấy tờ giấy chưa đủ độ tin cậy, lại hỏi:

                - Dạ, tôi tưởng phải mở phiên toà? Tôi phạm tội danh gì phải có tuyên án?…

                - Ôi cái ông văn sĩ này, rõ rách việc. Người ta bảo chúng tôi tha ông thì chúng tôi viết giấy. Chứ chúng tôi cũng chẳng biết gì hơn ông. Mấy chục năm nay hàng nghìn con người vào, ra trại, cũng đều thế cả. Chúng tôi chỉ biết làm việc theo lệnh. Có tội danh hay không có tội danh, đã vào đây đều phải xử theo lệnh. Ai tuyên án ông ngồi tù? Án đâu? Tội danh gì? Tù thời hạn bao nhiêu năm? Đến như giám đốc trại là tôi mà cũng không có nổi những văn bản ấy, thì làm sao có phiên toà để xử ông được?

                - Dạ… nhưng khi về địa phương, tôi sẽ không có bằng chứng gì để trình báo rằng tôi đã được tha sau bẩy năm tù.

                - Thì bằng chứng anh đang cầm trên tay đó thôi. Chỉ một tờ giấy xuất trại này là đủ. Nó cũng giống như anh bị bệnh phải nhập viện bắt anh phải đi viện? Chẳng ai bắt. Có bệnh thì anh tự đến, hoặc anh bị đột quỵ ngang đường một người làm phúc nào đó đưa anh vào viện. Có đúng vậy không? Hết bệnh rồi, người ta cho anh một cái giấy ra viện - Giám thị Bản vừa nói vừa cố nhịn cười, vé mỉa mai không cần giấu giếm - Anh không được nói là anh đi tù, phải nói là đi học tập cải tạo. Không được nói là bẩy năm tù mà là hơn hai lệnh. Mỗi lệnh tính ba năm. Có người gần chục lệnh rồi mà vẫn chưa thành án. Số anh vẫn còn may đấy. Có quý nhân phù trợ. Ông nhà văn Châu Hà tốt với anh lắm. Không có ông ấy thì chẳng biết bao giờ anh mới được rời khỏi đây…

                Câu chuyện ra tù của Vỹ chỉ đơn giản như vậy. Sinh mạng chính trị, tư cách công dân của một con người chỉ một cái hất đầu là đi đứt, chỉ một mảnh giấy là tha bổng. Thế nên anh mới sốc. Cứ nghĩ mình đang trong mơ. Cứ tưởng chuyện hoang đường. Có lẽ vì quá sức, mà đêm đầu tiên ngủ với vợ, cố gắng thế nào Vỹ vẫn bất lực. Lại giống hệt như cái lần ồng giám thị Bản cho vợ chồng Vỹ gặp nhau ở cái lán trạm xá trại cải tạo. Những phút đầu gặp gỡ, Vỹ thực sự biết mình không còn khả năng chăn gối. Anh run rẩy đưa cả mười ngón tay vuốt ve làn da ngà ngọc và những đường cong tuyệt mỹ của nàng mà thồn thức khóc vì bất lực. Và đến lượt Khiêm, với tất cả nỗi thèm khát yêu đương mấy năm dồn nén, với sự sung mãn bùng nổ của người đàn bà đang độ hồi xuân, nàng cố phả vào Vỹ ngọn lửa ma mị của tình ái, giúp anh hồi sinh lại. Tấm thân ngà ngọc của người đàn bà đang độ mãn khai, giống như đoá quỳnh lúc nửa đêm, phô diễn vẻ ngần trắng tinh khiết, quyến rũ mê hoặc. Điệu thoát y vũ tuyệt mỹ ban đầu còn mơn trớn khêu gợi, mời mọc, sau thì trần trụi, suồng sã với những đụng chạm, cào cấu thô thiển, quyết liệt. Từ ham muốn, thèm khát tới nhẫn nhục chờ đợi, rồi trơ trẽn, ê chề… Hì hục hàng tiếng đồng hồ mà dương vật Vỹ vẫn mềm oặt như con giun chết.

                Tưởng những trục trặc ban đầu rồi sẽ qua. Nhiều đêm sau, lúc điên cuồng, rạo rực như người đàn bà đang cơn thèm khát bản năng, khi đầy trách nhiệm và sự thương cảm của một người thầy thuốc, khi xa xót cảm thông như người mẹ… Khiêm đã dùng đủ mọi cách, từ các loại thuốc cường dương đặc hiệu, đến các liệu pháp kích hoạt, để giúp Vỹ lấy lại cảm hứng đàn ông. Nhưng vô vọng. Vỹ không bao giờ có được cái phút thăng hoa kỳ diệu để thổi vào nàng một cơn xoáy lốc đủ nàng lượng hoài thai một sinh linh bé bỏng Nguyễn Kỳ Phong như ngày ấy nữa. Những T5, và K27 đã huỷ hoại dần ở Vỹ tố chất đàn ông rồi.

                ***

                Cái phần đàn ông bản năng của. Vỹ mất đi, thì, như để bù lại cái phần đàn ông lý trí, mà trung tâm là não bộ, lại phát triển như một quái thai trong Vỹ. Nói chẻ hoe ra là, dương vật Vỹ bị liệt, không cương nổi, thì bù lại, Vỹ quyết làm tình bằng mắt, bằng tay, bằng miệng và lưỡi. Chỉ mấy tuần sau, khi cảm giác nhục nhã và xấu hổ vì bất lực sinh lý qua đi, Vỹ bắt đầu mắc chứng bệnh cuồng dục. Hằng đêm, và cả ban ngày, nếu thấy thuận lợi, Vỹ lại mò mẫm sục sạo khắp người nàng, dùng tứ chi, tứ giác, ngũ khiếu, tóm lại là mọi bộ phận của cơ thể để khám phá, gậm nhấm cho thoả cơn thèm khát nhục dục. Vỹ thích ngắm nhìn nàng loã thể, thích vày vò, hành xác cả những khi nàng run lên vì khiếp sợ. Căn bệnh trần cảm càng nặng, bệnh cuồng dục của Vỹ càng tăng. Bình thường, có khi cả ngày Vỹ chỉ ngồi trầm ngâm một chỗ, hoặc tỉ mẩn bào chế thứ thuốc trĩ gia truyền theo thần đơn do ông Hữu Hiệu tặng từ ngay còn ở trại. Nhưng nếu có người đàn ông nào đến nhà nhìn ngắm, trò chuyện với cô giáo Khiêm, là Vỹ liền thay đổi và ghen. Vỹ tưởng tượng ra cảnh người đàn ông kia sẽ tìm cách ngủ với vợ mình, làm đủ thứ trò khả ố với nàng. Vỹ sợ mất quyền sở hữu. Chỉ đợi người đàn ông ấy ra về, chỉ đợi đêm xuống là Vỹ giành lại quyền chiếm đoạt nàng. Vỹ đẩy nàng vào giường, hoặc bế thốc nàng lên. Không hiểu sao những lúc ấy Vỹ có một sức khoẻ phi thường, đến nỗi mọi chống cự của nàng chỉ là sự ngúng nguẩy của một đứa trẻ.

                Nhưng thường thì nàng, với bản tính con nhà gia giáo, không muốn gây cãi cọ, không muốn phát ra tiếng động thô lậu để mẹ và các con biết, nàng đành bất lực, ngoan ngoãn cam chịu. Được thể, Vỹ tự lột hết quần áo nàng. Không để sót mảnh vải nào. Vỹ ngây ngất nhìn ngắm toà thiên nhiên, như nhà danh hoạ tự chiêm ngưỡng kiệt tác của mình. Rồi Vỹ rên lên khe khẽ như con thú thưởng thức con mồi. Hôn hít. Cào cấu khóc lóc. Cắn xé. Vày vò. Đủ mọi hành xử cuồng dục. Nhiều lần khắp người Khiêm thâm tím những vết cắn, vết cào. Nhiều lần môi Khiêm sưng tấy. "Em van anh. Nỡ nào anh hành hạ em thế này?" Đã bao lần nàng kêu lên, nàng van xin Vỹ. Có lần biết chuyện, con Trinh Mai phải vào đưa mẹ ra ngủ cùng với bà ngoại. Khiêm xấu hổ và đau đớn ê chề.

                Rất nhiều lần đến chơi, nhà văn Châu Hà đều phát hiện thấy những vết thâm tím trên cổ, trên má, trên môi Khiêm. Anh khe khẽ thở dài, ánh mắt xa xót đầy thương cảm. Anh hỏi. Nhưng nàng đều tìm cách lảng tránh. Một lần gặp Khiêm ngang đường, Châu Hà phát hiện một vết tím rất sâu, như một vết cắn, dưới cằm nàng. Anh mời nàng vào hiệu cà phê gần đấy.

                - Chị đừng giấu tôi nữa - Từ hồi Khiêm lấy Vỹ, Đà Giang và các bạn của anh đều coi nàng như em gái, luôn gọi em xưng anh. Nhưng từ khi Vỹ đi trại cải tạo, và Đà Giang đã trở thành nhà văn giải phóng Châu Hà, thì anh liền thay đổi cách xưng hô, gọi nàng bằng chị, xưng tôi, một cách xưng hô để đề phòng những hiểu lầm, để tăng phần giãn cách, tạo một rào chắn theo lời khuyến cáo của người xưa: "Con thầy, vợ bạn, gái cơ quan".

                Châu Hà nhìn chằm chằm vào vết tím mà Khiêm cố đẩy chiếc khăn che. Bao giờ cũng vậy, cứ gặp Khiêm là Châu Hà lại nghĩ đến nàng ba Châu Long trong vở chèo cổ "Lưu Bình, Dương Lễ". Nàng có phẩm hạnh tuyệt vời của một người vợ chỉ biết yêu chồng, hy sinh tất cả vì chồng con. Từ lâu rồi, Châu Hà đã chọn nàng làm hình mẫu, nhân vật trung tâm của một cuốn tiểu thuyết về tình yêu, về người phụ nữ Việt, nhưng rồi nấn ná mãi, anh vẫn chưa đặt bút viết. Vỹ, anh bạn tài hoa nhưng khốn khổ của Châu Hà, đáng là Lưu Bình, hay là Dương Lễ nhỉ? Nhưng dẫu là ai thì cậu ta cũng có một nàng ba Châu Long. Còn Châu Hà chỉ là khán giả, đứng ngoài và mơ tưởng…

                - Tôi đã tìm đọc tài liệu nói về trường hợp cuồng dục. Những người sống trong trạng thái ức chế quá lâu như Vỹ thường mắc căn bệnh ấy. Tôi mới nghe nói có một thầy lang đã tìm thấy bài thuốc thần diệu của vua Càn Long chữa chứng liệt dương. Để tôi sẽ lùng tìm cho Vỹ…

                Khiêm rùng mình. Má nàng chợt đỏ bừng lên. Nàng quá xấu hổ khi người khác phát hiện ra những bí mật riêng tư của mình. Chắc là Vỹ đã nói cho Châu Hà biết? Đã vậy thì cần gì phải giấu giếm? Tự nhiên nàng thấy tủi thân và muốn được chia sẻ. Cố kìm, mà nước mắt cứ trào ra.

                - Anh Vỹ cứ hành hạ mãi thế này, thì em đến chết mất…

                - Lẽ ra chị phải nói với tôi sớm. Chị hãy coi tôi như người nhà. Tôi sẵn sàng chia sẻ với Vỹ và chị mọi chuyện. Con Trinh Mai nó mới đến khóc với tôi. Nó bảo từ ngày bố ra tù, mẹ Khiêm lại khổ hơn. Hình như đêm đến bố thường đánh mẹ. Nhiều sáng ngủ dậy con thấy mắt mẹ sưng và nhiều vết cào… Có đúng là Vỹ nó thường hành hạ chị không Nó muốn giải toả. Nó muốn giành giật lấy cái mà nó không thể. Đây là một thứ bệnh, y học gọi là bệnh cuồng dục, do tác động của hoàn cảnh. Hồi chúng tôi ở rừng Trường Sơn, có thời kỳ hàng loạt các đơn vị bộ đội nữ, nữ thanh niên xung phong bỗng nhiên ôm nhau cào cấu, rồi nhức đầu, nôn mửa và ngất xỉu. Y học gọi là bệnh Dơtstơri, bệnh thiếu đàn ông. Căn bệnh của Vỹ, cần có thời gian, và chắc chắn rồi sẽ khỏi. Trước mắt phải cách ly Vỹ khỏi chị. Tốt nhất là phải để Vỹ ngủ riêng…

                - Em đang nghĩ cách phải cơi thêm một gian gác xép. Vừa cơi gác xép, vừa nới thêm một gian chỗ cây hồng xiêm. Cây hồng xiêm cỗi rồi, chặt đi làm một gian cho Vỹ bốc thuốc và tiếp bệnh nhân. Bài thuốc trĩ của Vỹ xem ra đắc địa đấy. Đã có mấy người đến Vỹ chữa khỏi.

                - Vâng. Hôm vừa rồi cô Nguyệt đưa bác Hữu Hiệu đến chơi. Từ ngày về hưu theo nghề trĩ gia truyền, bác ấy làm không hết khách. Bác Hiệu thương nhà em lắm, nói sẽ bào chế thuốc sẵn ở quê mang lên để nhà em hành nghề. Thú thật với anh, mẹ con em cứ nghĩ giời cho bác Hiệu xuống cứu giúp nhà em. Thu nhập kinh tế là một phần, vì nhà em thường chữa giúp, không lấy công. Cái chính là có việc làm, có kẻ ra người vào mà bệnh trầm uất ở nhà em thuyên giảm…

                Châu Hà mở cặp, lấy ra một phong bì và một gói nhỏ.

                - Chị cầm tạm số tiền này để sửa nhà. Đây là nhuận bút cuốn "Đường lớn ta đi" của tôi vừa tái bản. Nó chẳng đáng là bao. Khi nào cần đến tôi sẽ lấy lại. Chị đừng ngại. Còn đây là hai lạng cao hổ cốt, tiêu chuẩn của tôi, tôi không dùng vì bác sĩ nói tôi đang phải kiêng, chị mang về ngâm rượu cho Vỹ uống. Ít thôi. Mỗi ngày một chén hạt mít trước khi ngủ. Bệnh của Vỹ uống cao này rất tốt.

                Khiêm chối đây đẩy. Nhưng Châu Hà bắt nàng phải cầm về.

                - Tôi đã trù tính sẵn việc này và định đến nhà trao cho chị. Nhưng tôi hiểu tính Vỹ. Gần đây cậu ta gàn và có lúc điên khùng. Gặp chị ở đây tiện hơn. Đừng làm tôi buồn vì một việc cỏn con này…

                Suốt từ lúc gặp, Khiêm để ý thấy Châu Hà luôn lần tránh đôi mắt nàng. Ngay cả lời nói của anh cũng lạnh băng, cố không lộ một biểu cảm gì. Châu Hà là người bạn vô tư trong sáng nhất của Vỹ mà Khiêm luôn coi như anh trai mình.

                Số tiền nhận bút của Châu Hà đủ để Khiêm cơi nới một gian gác làm phòng riêng cho Mai. Cô bé đang tuổi dậy thì, nổi tiếng là hoa khôi của trường. Phải có một phòng riêng để cô bé ôn thi vào đại học. Căn phòng mới dựng đầu chái nhà, vách trát toocxi, mái lợp giấy dầu, nhưng thoáng rộng, phía trong là giường ngủ của Vỹ, phía ngoài là nơi tiếp và chữa trị bệnh nhân trĩ.

                Rất may, chất kẻ sĩ trong người Vỹ dần dần hồi phục. Ngủ riêng, Vỹ mới đủ dũng cảm thoát khỏi sức quyến rũ của nàng. Khi ấy, Vỹ như con thú cô đơn, một mình nằm trong hang ổ của mình mà gặm nhấm sự đời. Nhưng thường thì Vỹ chẳng gặm nhấm gì cả. Vỹ lười biếng để cho đầu óc trống rỗng. Và khi ấy não bộ Vỹ giống hệt như một cái hang hút gió, hoặc một sân khấu bỏ ngỏ, mặc sức cho mây sà, sương giăng, gió thổi, mặc sức cho các loại con rối, các nhân vật tuồng, chèo, chính kịch, hài kịch… múa may quay cuồng. Dường như bộ nhớ của Vỹ đã xoá hết những con người, những cảnh ngộ, sự kiện, gắn bó với Vỹ suốt nửa đời người. Cả những bài thơ, những cuốn sách của Vỹ từng xuất bản, nhiều khi gõ đầu mãi Vỹ cũng không nhớ ra.

                Một lần Trần Nhân Ảnh và Châu Hà đến chơi. Ảnh khoe với Vỹ cuốn "Người Việt, nhìn từ góc độ triết học" có chữ ký đề tặng của giáo sư Trần, rồi vỗ vai hỏi Vỹ:

                - Tao vừa gặp giáo sư Trần. Thấy mày được về giáo sư mừng lắm. Thế nào, còn nhớ giáo sư Trần không?

                - Trần nào? Nhà thơ Trần Nhân Ảnh thì đang ở trước mặt tôi đây!

                - Thằng này có sạn trong đầu rồi Châu Hà ơi. Nó quen phản cung quản giáo, tao chưa hỏi đã bật lò xo liền.

                - Cho suy nghĩ năm giây - Châu Hà đưa năm ngón tay trước mặt Vỹ - Giáo sư Trần Đức, nhà triết học số một Việt Nam, nhớ chưa?

                - Không nhớ. Tôi chưa gặp con người này - Vỹ lắc đầu.

                - Ha ha… - Châu Hà bỗng cười lớn, cầm chiếc điếu cày dứ dứ trước mặt Vỹ - Tên phạm nhân nửa Nhân văn Giai phẩm, nửa Xét lại kia, hãy nghe Quản giáo hỏi đây. Trước lúc ngươi đụng xe trên đường phố rồi bị công an tóm về đồn khám xét, ngươi có đến thăm giáo sư Trần và tặng ông ta cuốn sách "Đường lớn ta đi" của bạn ngươi là nhà văn Châu Hà, một thằng bạn từng ký bút danh Đà Giang mà nhà ngươi chúa ghét. Nhà ngươi vừa mua ở hiệu sách quốc văn cuốn sách đó, liền mang ngay đến tặng giáo sư Trần, có đúng không? Vẫn ngoan cố, không chịu khai báo phải không? - Trần Nhân Ảnh thấy mặt Vỹ cứ nghiệt ra, liền hỏi tiếp - Vậy là I-sê của phạm nhân có vấn đề rồi. Châu Hà ơi, thằng này giống Bàng Quyên, đáng tội tứ mã phanh thây. Nó từng tôn giáo sư Trần là đại sư phụ, nhà triết học thiên tài của nước Việt, thế mà mới đi nghỉ ở Hiltơn đờ Lahiên bẩy năm, đã quên béng sư phụ. Học trò mà không nhớ thầy thì đại bất nghĩa. Thời Xuân Thu chiến quốc, Bàng Quyên lừa thầy phản bạn, bao nhiêu lần mưu giết Tôn Tẫn, nhưng khi gặp thầy Quỷ Cốc Tiên Sinh vẫn phải quỳ lạy xin đại xá. Ngươi mang danh là nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Kỳ Vỹ, mà há chẳng bằng người xưa thế ru?

                Vỹ nghển mặt, chẳng hiểu hai người bạn nói gì.

                Thuận tay, Châu Hà rút tập thơ "Thời của Thánh Thần" trên giá sách, chìa trước mặt Vỹ:

                - Tập thơ này có phải của nhà ngươi viết không?

                Vỹ sầm mặt, giằng lấy cuốn sách, vứt xuống gầm giường.

                - Hãy quên nó đi. Đời không đáng một cái tổ trĩ! Vứt hết thơ phú ra sọt rác.

                Châu Hà và Trần Nhân Ảnh nhìn nhau lắc đầu. Họ nên hiểu bạn mình bị mất trí nhớ hay là y chưa hề quên một điều gì?

                ***

                Vỹ đang là con người đặc biệt. Từ ngày đi trại cải tạo về, trong Vỹ tồn tại hai con người: Một thầy lang mẫn cán, tận tuỵ thương người và một thi sĩ cùn, trầm cảm, lầm cẩm và bất đắc chí.

                Buổi sáng Vỹ là một thầy lang tận tuỵ. Vỹ thường dậy từ sáu giờ sáng. Một tiếng thể dục, vệ sinh cá nhân, ăn bát cơm nguội rang do Khiêm chuẩn bị, rồi bắt đầu làm việc. Công việc của một thầy lang không có gì phức tạp. Thuốc bào chế sẵn thường thì ông Hữu Hiệu gửi từ quê lên hoặc do chính tay Vỹ sao tẩm. Bệnh nhân thường tự đến, thảng hoặc có ca đặc biệt, Vỹ có thể đến tận nhà. Cực nhọc và bỉ lậu nhất là lúc khám và làm thuốc. Bệnh nhân tụt quần ngang đùi, chổng mông, chìa cục trĩ dơ dáy và bốc mùi vào sát mắt, mũi thầy lang.

                Căn bệnh trầm cảm của Vỹ thường chỉ xuất hiện từ đầu giờ chiều, lúc bệnh nhân đã về và Vỹ đã ăn xong bữa trưa. Xét theo thuyết âm dương thì thời khắc đó cho tới nửa đêm thuộc về âm. Từ khoảng bốn giờ chiều, Vỹ thường không làm một việc gì hay ngồi một mình trong góc nhà liên tục đốt thuốc lá và nhìn xa xăm vào một khoảng không gian nào đó. Đó là lúc Vỹ lười biếng để cho đầu óc trống rỗng. Bộ óc Vỹ khi ấy giống hệt như một cái hang mặc sức gió lùa, hoặc một sân khấu bỏ ngỏ, tha hồ phô diễn những tấn trò đời. Thường thì Vỹ hay "tua" lại những cảnh mà Vỹ đã trải qua ở T5, ở K27, nhớ lại những gương mặt, những thân phận của anh em cùng nằm sương nếm gió với mình. Những lúc ấy, nước mắt ở đâu cứ ồng ộc ứa ra.

                Mãi sau này, Khiêm mới biết đó là một thứ bệnh lý, dạng tiền Alzheimer (bệnh mất trí nhớ). Đưa đi bệnh viện chụp chiếu, siêu âm, vẫn chẳng phát hiện thấy gì. Các bác sĩ đêu cùng phê hai chữ "trầm cảm". Khi biết rõ bệnh, Khiêm nhờ người viết son trắng trên tấm bảng con của học trò dòng chữ: "Chỉ nhận chữa bệnh vào các buổi sáng hằng ngày" treo trước phòng Vỹ. Đấy là một cách thông báo về nội dung và thời gian biểu làm việc của Vỹ với các bệnh nhân.

                Vỹ về nhà thêm một miệng ăn, một bệnh nhân hổ lốn nhiều thứ bệnh, nhưng sổ gạo, tem phiếu, lương bổng thì hoàn toàn không có. Đây là thời kỳ củi châu gạo quế. Nền nông nghiệp của nước Việt Nam thống nhất tiến lên sản xuất lớn, kế hoạch hoá Xã hội chủ nghĩa theo ba ngọn cờ hồng, ba dòng thác cách mạng… mà vẫn ì ạch chưa vượt nổi cái ngưỡng 19 triệu tấn quy thóc một năm. Toàn dân ăn bo bo, sắn khô, khoai tây. Giáo viên ở nông thôn mang sổ gạo đến cửa hàng mua cám chăn nuôi, mua phân đạm trừ vào tiêu chuẩn gạo. Cán bộ công nhân viên một năm bị cắt một tháng lương thực, tức 13kg tem gạo. Để bù lại, các cơ quan trường học đóng cửa vài ba tháng đưa người lên trung du trồng khoai sắn, hoặc về các tỉnh đồng bằng xin đất hợp tác xã bỏ hoang, trồng lúa. Câu cửa miệng: "Bố chết không bằng mất sổ gạo" ra đời trong thời kỳ này.

                Phải bằng cách nào đảm bảo những điều kiện sống tối thiểu cho Vỹ? Đó là mục tiêu lớn nhất mà Khiêm phải thực hiện. Không có án tù, tức là Vỹ chưa mất quyền công dân, chưa bị loại ra khỏi danh sách cán bộ công nhân viên nhà nước. Với Vỹ, điều này chẳng có mảy may ý nghĩa gì. Nhưng với Khiêm thì đó lại là tất cả.

                Nhà xuất bản Bình Dân, nơi Vỹ làm việc trước đây đã bị giải thể và sáp nhập với Xưởng phim Đèn chiếu. Sau rồi Xưởng phim Đèn chiếu cũng giải thể nốt. Thủ trưởng, nhân viên tứ tán đi bốn phương. Đến như giám đốc Tiến Tới, người mà Khiêm có thể bấu víu được để xin giải quyết công việc và quyền lợi cho Vỹ thì đã xin chuyển về quê, làm một công việc lạ hoắc với sở trường sở đoản của anh ta: Hiệu trưởng trường Bồi dưỡng Chính trị tỉnh. Bí quá, Khiêm đành viết đơn kêu các cửa, xin tổ chức xét quá trình cống hiến, đi theo cách mạng từ kháng chiến chống Pháp của Vỹ, mà cho Vỹ được giải quyết chế độ hưu non, hoặc về mất sức một cục. Hướng này do Châu Hà gợi ý. Anh chạy đôn chạy đáo gõ cửa các nơi. Anh gặp Chiến Thắng Lợi nói như van vỉ, rằng ông có thể ghét Vỹ, nhưng ông không thể để hai đứa cháu ruột của ông phải đứt bữa, phải bỏ học. Thấy Lợi còn chần chừ, Châu Hà trực tiếp lên gặp đồng chí Tư Vuông, đề nghị đồng chí có công văn gửi Bộ Thương binh Xã hội xem xét giải quyết cho Vỹ một chút quyền lợi, như một cứu giúp kẻ cùng đường.

                ***

                Căn bệnh trầm cảm của Vỹ, thời kỳ này hay bột phát về đêm. Thường lúc ba giờ, Vỹ trở dậy, bật ngọn đèn bàn, ngồi im như tượng cho đến sáng.

                Đêm nay cũng vậy. Đúng vào lúc cành cây khô rơi xuống mái ngói, cũng là lúc Khiêm nghe thấy tiếng ho khan ngoài phòng Vỹ, mở mắt nhìn ra đã thấy anh ngồi im phăng phắc trước ngọn đèn bàn. Vỹ viết gì? Hay nghiệp viết lại thôi thúc, anh lại bắt đầu phục hồi sức sáng tạo? Khiêm rùng mình.

                Nàng sợ những trang bản thảo của Vỹ. Chúng sẽ là một đại hoạ, như hết thảy những gì anh đã viết ra. Thà Vỹ cứ là một ông lang chữa trĩ. Thà không có lương bổng, không có nhuận bút, không có danh tiếng. Miễn là yên thân, sống bình lặng một kiếp người. Quên cả căn bệnh cuồng dục của Vỹ có thể tái phát, Khiêm trở dậy, khoác hờ chiếc khăn phủ qua vai, rón rén đi lại chỗ Vỹ.

                Kỳ lạ, Vỹ ngồi im phắc hút thuốc, trước mặt là một chồng giấy thếp một mặt trắng, loại giấy kiểm tra bài của học sinh mà Khiêm đã soạn lại từ những tập bài bỏ đi. Vỹ viết liên tục, từng tờ, như ông hiệu trưởng ký bằng khen, ông giám đốc ký séc: Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân tròi hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng. Chân trời hoang tưởng…

                Thì ra cuốn tiểu thuyết mà Vỹ viết dở những năm trước, đã bị tịch thu bản thảo từ hồi khám nhà, cho tới giờ vẫn quẩn quanh trong đầu Vỹ.

                Khiêm định nói với Vỹ một điều, nhưng rồi nàng cảm thấy người mình như đông cứng lại. Nàng không nỡ phá vỡ khát vọng của một người hoang tưởng.

                Cái công việc Vỹ làm một cách cơ học, một cách vô thức, bỗng bị dừng đột ngột. Vỹ châm tiếp một điếu thuốc, rồi vơ hết những tờ giấy vừa viết, vo tròn, vứt xuống gậm bàn.

                Tâm thần rồi. Ý nghĩ cay đắng ấy như xộc từ tim lên đỉnh đầu Khiêm. Xót ruột vì những tờ giấy trắng mà nàng đã kì công chuẩn bị cho Vỹ nháp bản thảo, nàng quyết ngăn cái trò lẩm cẩm của Vỹ, khi thấy anh chọn một tờ giấy đẹp nhất, định viết tiếp Nhưng không kịp. Nàng định vươn tay ra lấy chiếc bút, thì Vỹ đã nắn nót viết hai chữ mới: "Giỗ thầy".

                Dòng tư duy nào đang nhảy cóc trong đầu Vỹ, để từ "Chân trời hoang tưởng" vắt sang "Giỗ thầy"? Không thể là tâm thần. Đó chỉ là những dòng ý thức rối rắm, không phương hướng. Là nỗi dày vò, dằn vặt của một tâm hồn bấn loạn không có hướng tháo cởi. Hoá ra Vỹ vẫn không quên ngày giỗ thầy. Suốt bẩy năm trong tù, có ai nhắc Vỹ ngày giỗ này đâu?

                Khiêm đặt hai bàn tay lên vai Vỹ.

                - Anh không ngủ được ư?

                Vỹ giật mình quay lại. Hai hốc mắt đọng đầy nước.

                - Bốn ngày nữa là giỗ thầy. Cả nhà mình cùng về quê nhé.

                - Em quên bẵng đi mất, chưa kịp nói với anh. Bác Lợi với bác Là bảo, bà mới vào trong Sài Gòn với chú Vọng, giỗ ở quê cứ để vợ chồng chú Cục cúng, chủ nhật tới hai bác cúng giỗ thầy ở ngoài này.

                - Sao?

                - Chiều qua chị Là mới gặp em. Chị Là thế mà tin cúng bái lắm nhé. Tháng trước chị ấy về quê, ra mộ thầy xin một gói đất mang sang điện cô Hằng. Thầy về, vừa nói mấy câu mà chị Là đã sởn hết da gà.

                - Có chuyện ấy thật à? - Lờ mờ trong ký ức Vỹ là hình ảnh cái chết không toàn thây của ông Lý Phúc mà Cục đã kể lại cho anh nghe.

                - Em cũng chẳng biết hồi thầy mất thế nào. Chị Là cũng không biết. Nhưng chị ấy bảo, lúc ở điện cô Hăng thấy thầy về trong bộ quần áo trăng toát, đầu cắm xuống đất như người trồng cây chuôi.

                - Vợ quan chức cấp cao mà cũng tin bói toán?

                - Điện cô Hằng ngày nào chẳng đón vợ các ông cốp. Họ kéo nhau đến nườm nượp. Hỏi gia cảnh, cầu xin chức quyền, tài lộc nhà cửa, đất cát, đi nước ngoài, chuyện học hành của con cái. Thầy không nói thì vừa rồi khéo vợ chồng bác Lợi bỏ nhau… Thế nên chủ nhật này, vợ chồng bác Lợi muốn đích thân làm giỗ. Bác ấy bảo cả nhà mình phải đến.

                - Làm gì có chuyện đó?

                - Thế anh không biết gì à? Đơn tố cáo anh Lợi gửi lên tận tổ chức Trung ương. Chuyện tanh bành ra, chị Là khóc lóc, bỏ ăn đến hai ngày, toan làm đơn li dị. Anh có biết thằng Chu, con riêng của chị Cam không? Cháu đích tôn của anh đấy.

                Vỹ ngẩn người, như nghe chuyện hoang đường.

                - Chị Là lên gặp tổ chức Trung ương, đề nghị can thiệp, cho cậu Chu đi thử gien. Tổ chức người ta khuyên can. Người ta bảo vệ uy tín anh Lợi, chị Cam, muốn dẹp yên chuyện. Chỉ đến khi thầy về, thầy khuyên chị Là, chị ấy mới chịu… Thế nên chủ nhật này, vợ chồng bác Lợi muốn đích thân làm giỗ.

                - Bác ấy bảo cả nhà mình phải đến.

                Comment


                • #23
                  Chương 23


                  Đám giỗ



                  Từ ngày theo chủ nghĩa vô thần, đồng chí Chiến Thắng Lợi khinh bỉ một cách sâu sắc những kẻ mê tín dị đoan.

                  Rất nhiều lần chị Là muốn lập một bàn thờ để cúng gia tiên ông bà, nhưng Lợi đều gạt phắt. Trên nóc chiếc tủ đứng giữa nhà ông, từ năm 1969, mới có một bát hương và tấm ảnh bài vị thờ Hồ Chủ tịch. Đó là ứng xử hữu thần, sự tôn kính duy nhất và tuyệt đối từ khi Lợi làm người Sau này, có nhà điêu khắc tặng ông bức tượng bán thân Bác Hồ, ông đặt lên đó, thay cho bức ảnh bài vị.

                  Nhưng rồi bỗng một ngày, như một sự kiện lạ, ông Lợi gọi người mang đến một chiếc bàn thờ, loại đóng băng gỗ dán, sơn vecni bóng, có hai khung sắt hình thước thợ đóng cố định vào tường. Bàn thờ được đặt ở gian giữa tầng hai, cạnh phòng ngủ của hai vợ chồng. Đồ thờ cúng, tuy giản dị, nhưng cũng đủ lệ bộ một ban thờ truyền thống: Hai giá nến bằng đồng, khay đựng rượu và hoa quả, ba bát hương, bát hương đại ở giữa thờ gia tiên hai bát bên thờ bố mẹ ông Lợi. Ảnh ông Lý Phúc đội khăn xếp, áo the đen, ảnh bà cả Phúc như một cô gái thôn quê, mặc yếm vấn khăn, do thợ vẽ truyền thần phục chế lại, trông mờ ảo như nhưng bức ảnh đầu thế kỷ. Bà cả Phúc chết lúc Nguyễn Kỳ Khôi mới hai tuổi, nên bức truyền thần dù có giống hay không, ông Lợi cũng không rõ. Với ông Lý Phúc, thì đây là lần đầu tiên bài vị ông được người con trai cả lập ban thờ.

                  Điều gì đã khiến ông Lợi chuyển đổi đột ngột về nhận thức và hành xử tín ngưỡng?

                  Sự hoài nghi về chủ nghĩa vô thần?

                  Nỗi ân hận về sự vong bản, xa lánh cội nguồn?

                  Mối lo sợ trước sự trừng phạt của các thế lực siêu nhiên?

                  Có lẽ ông Lợi không nghĩ ngợi tới những phạm trù triết học vĩ mô cao siêu đến thế. Những sự cố dồn dập làm điên đảo cuộc sống, ảnh hưởng đến gia đình, sự nghiệp, quyền lợi, địa vị của ông mà nguyên nhân trực tiếp là từ những lá đơn tố cáo ông và bà Cam suốt một năm nay, buộc ông phải tìm mọi sự cứu giúp.

                  Một vị giáo sư thân thiết, nhà khoa học hàng đầu về nghiên cứu tiềm năng con người, đã nói với ông:

                  - Anh nên xem lại cung phúc trạch. Và nên có cách ứng xử với người âm, nhất là những người thân của mình. Quý anh lắm tôi mới khuyên vậy, xin anh đừng hiểu lầm.

                  Lợi không nói gì. Ông ngẫm nghĩ một tuần rồi tìm đến gặp nhà khoa học.

                  - Tôi nghe anh. Nhưng xin anh hiểu rằng, ở cương vị tôi, rất khó làm. Việc này. Tôi muốn nhờ anh gặp để nói với nhà tôi…

                  Nhà khoa học nhìn Lợi, tủm tỉm cười. Ông nhận lời sẽ gặp chị Là.

                  - Thời gian này, mối quan hệ giữa hai vợ chồng ông Lợi hết sức căng thẳng. Kẻ viết thư tố cáo nặc danh đã đi một nước cờ cao tay: Gửi trực tiếp đơn tố cáo cho Là.

                  Một người đàn bà thật thà như đếm, thuần phác và phúc hậu, tôn thờ chồng như Là làm sao chịu nổi cú sốc khi nhận được thông tin chồng mình có con ngoài giá thú? Và người đàn bà ấy giờ lại có danh vọng, địa vị, vẫn hằng ngày đưa nhau đi hội thảo, nghị quyết?

                  Không ầm ĩ, ngoa ngoắt, chẳng điên khùng, chanh chua, Là như xỉu đi vì quá đau đớn, hoảng loạn. Mắt sưng húp, chỉ lặng lẽ để tập đơn thư nặc danh trên bàn làm việc của Lợi rồi nằm liệt trên giường, không ăn uống hai ngày. Lả rất muốn chết. Nếu như ở trên quê Định Hoá, chị sẽ vào rừng kiếm lá ngón. Chi một nắm, vừa nhai vừa nuốt là xong. Nhưng cứ nghĩ thằng Chiến Thống Nhất, con Chiến Huyền Ly bơ vơ không có mẹ, chị lại bủn rủn, toát hết mồ hôi. Là chết đi thì khối kẻ nháy cẫng lên vì sung sướng. Có kẻ sẽ hợp thức hoá, ào về chiếm nhà, chiếm chồng, chiếm cả con của Là nữa. Có kẻ được thể lấy một lúc vài ba vợ. Đang chức quyền trong tay, đang nhà cao cửa rộng, khối gái mười tám, hai mươi ấy chứ. Tống khứ được gái sề này đi người ta mừng bằng đuổi được hủi ra khỏi cửa. Hoá ra cái ý nghĩ mình như là con ở trông cái cửa nhà, cơm nước hầu hạ ba bố con, như gái bao thỉnh thoảng ông chủ động cỡn lên lại đè ngửa ra dụi hùng hục… cấm có sai. Mấy chục năm sống với Lợi, chưa bao giờ Là được một lời âu yếm, một tí chút quà tặng, một tâm sự chia sẻ. Hai vợ chồng như hai thế giới cách biệt. Lợi cậy chữ nghĩa, chức quyền, coi khinh Là ra mặt. Rõ nhất là những khi có khách đến chơi hoặc làm việc. Là vừa chuẩn bị nước mời khách, vừa nấn ná lại chào hỏi một câu xã giao, Lợi đã đuổi quầy quậy: "Thôi, bà ra ngoài kia để chúng tôi làm việc". Buồn nhất là những khi bố mẹ trên quê ốm đau, nhà có công việc cưới xin giỗ chạp. Mang tiếng chồng từng ăn dầm ở dề vùng ATK, được dân bản cưu mang đùm bọc, mà về Hà Nội một cái là quên phắt, cấm có đoái hoài. Người ta quyền cao chức trọng, dễ quên và coi khinh người nghèo. Mỗi lần đưa các con về quê, Là tủi thân lắm, nhưng chị luôn mua quà dấm dúi biếu bố mẹ, xóm bản, nói dối là "quà của nhà con gửi biếu", "nhà con bận việc lắm, sẽ về thăm dịp khác". Chao ôi, hay Là chỉ đáng trò tiêu khiển mỗi khi Lợi khát thèm? Chỉ những lúc ấy Lợi mới dẻo mỏ, nịnh nọt, thậm chí tâng bốc Là lên mây xanh. Lợi mơn trớn, ngắm vuốt, hôn hít khắp thân thể Là, rồi xuýt xoa, rên rỉ: "Em hơn cả tiên nữ giáng thế. Em là giai nhân của núi rừng". Nhưng cuộc sống đâu phải chỉ có trò ấy? Chuyện giường chiếu rồi cũng nhàm chán theo năm tháng, tuổi tác. Mà nỗi khát thèm một tình yêu thương, sẻ chia, nương tựa thì bao giờ Là cũng khắc khoải, cồn cào.

                  Cho nên, những bí mật của Lợi bị phơi bày, càng khiến Là tuyệt vọng khi nhận rạ con người thật của chồng. Chị quyết định không việc gì phải chết. Chị phải sống để nuôi dạy các con nên người. Chị sẽ lật ngược thế cờ, hoặc là Lợi phải khuất phục chị, hoặc là chị sẽ ra toà ly hôn. Là tìm gặp đồng chí Phó ban Tổ chức, một người thân cận của Lợi và gia đình.

                  - Nhà em đã đến nước này… Em muốn xin cấp trên một lời khuyên?

                  Đồng chí Phó ban sững người khi thấy Là tiều tuỵ đến khó nhận ra. Người đàn bà béo tròn mà đồng chí mới gặp tháng trước nay đã tọp đi như vừa qua trận ốm thương hàn.

                  - Chúng tôi cũng đang đau đầu về vụ này đây. Tuần trước đài địch đã đưa tin. Các thế lực thù địch đang nhân cơ hội hạ thấp uy tín, gây chia rẽ nội bộ ta. Tôi chẳng thể khuyên đồng chí điều gì lúc này, ngoài sự nhắc nhở của tổ chức về ý thức và trách nhiệm của người chiến sĩ tiên phong. Đồng chí được công nhận chính thức năm ngoái phải không?

                  - Dạ vâng.

                  - Giờ lại là cửa hàng trưởng?

                  - Dạ vâng.

                  - Tức là ý thức và trách nhiệm trước tổ chức càng phải cao, đúng không?

                  - Dạ vâng.

                  - Thế nên tôi không phải nói nhiều. Đồng chí hãy tự hiểu. Chuyện của hai đồng chí Chiến Thắng Lợi và Đào Thị Cam, như đồng chí đã biết. Họ đều đã có bản tường trình với tổ chức. Cháu Lê Kỳ Chu chính là con chung của họ… Kìa, đồng chí đừng khóc, bình tĩnh lại đi. Đó là hậu quả của chiến tranh, là sự hy sinh hạnh phúc cá nhân… Nếu không thất lạc nhau rất có thể đồng chí không là vợ của đồng chí Lợi, mà là ấy thế, đấy là duy vật lịch sử. Vấn đề bây giờ là, đồng chí phải bình tĩnh để thu xếp mọi việc. Chuyện đã rồi, không có cách gì thay đổi được, thì ta nên chấp nhận. Đấy là quy luật của duy vật biện chứng. Phải nghĩ đến danh dự và sự nghiệp của chồng, đến hạnh phúc gia đình, tương lai con cái. Xấu chàng hổ ai? Dân gian đã nói thế. Lại có câu: "Cá vào ao ta, ta được"…

                  - Nhưng mà, tại sao anh Lợi phải giấu giếm?…

                  - Chúng tôi đã và sẽ kiểm điểm hai đồng chí ấy về thái độ chưa thành khẩn trước tổ chức. Lẽ ra đồng chí Lợi phải báo cáo hết sự thật với tổ chức từ trước khi cưới đồng chí Là. Và đồng chí Cam cũng không nên lạm dụng danh nghĩa của đồng chí Lê Thuyết… Nhưng suy cho cùng đó cũng là duy vật lịch sử, do hoàn cảnh chiến tranh… Chúng tôi không bao che, không xuê xoa một chiều. Nhưng nói để đồng chí hiểu: Cả hai đồng chí Lợi và Cam đều là cán bộ chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý. Những thế lực thù địch đang muốn chĩa mũi nhọn bôi xấu, hạ uy tín hai đồng chí ấy. Ứng xử với hai trường hợp này phải hết sức thận trọng, bởi vì đây là nội dung chủ yêu của công tác bảo vệ nội bộ. Một tổ chức trong sạch vững mạnh không thể có một cá nhân mắc sai lầm khuyết điểm… Con sâu không thể làm rầu nồi canh. Mà canh đây là canh riêu cua, canh dưa chua cá trê nổi váng, dậy mùi nức mũi. Tôi nhắc lại, bảo vệ các đồng chí lãnh đạo không có nghĩa là bao che, dung túng, mà là giữ gìn uy tín, danh dự của cả hệ thống tổ chức… Tôi mong, và giao nhiệm vụ, với tư cách một cán bộ nòng cốt, đồng chí hãy bảo vệ sự trong sạch của tổ chức như giữ gìn con ngươi của mắt mình…

                  Sau những lời chỉ thị của đồng chí Phó ban, Là như con chiên bị rút phép thông công. Chẳng còn cách gì cựa quậy, chống phá Lợi. Đã là người của tổ chức là phải biết sống chết bảo vệ nhau. Là đã là đồng chí của Lợi rồi, lại được cấp trên chỉ thị, không được phép phản bội Lợi. Huống chi, Lợi lại là nhân vật quan trọng của tổ chức, dù trong hoàn cảnh nào cũng được tổ chức bảo vệ đến cùng. Cứ nhìn chú Vỹ, gương tày liếp đó, chỉ cần chớm có biểu hiện chống đối tổ chức là ngót chục năm tù như chơi. Anh làm lãnh đạo mà cũng không cứu được em. Bao công lao với kháng chiến đều thành công cốc. Đi tù về thân bại danh liệt. Ngày trước thông minh hoạt bát là thế mà nay như gà phải cáo, chẳng còn ra hồn người.

                  Là định cáo từ ra về, nhưng nghĩ, chẳng lẽ chưa ra trận đã vội đầu hàng, bèn lấy tờ đơn xin ly hôn mới viết tối qua, trình đồng chí Phó ban:

                  - Nhưng mà em khổ lắm. Em với anh Lợi không thể sống với nhau được. Em báo cáo với Ban và xin gửi lá đơn này.

                  ***

                  Lá đơn xin ly dị của Là, cũng như hầu hết những đơn thư khiếu tố Chiến Thắng Lợi, chỉ ngày hôm sau đã nằm trong cặp của Lợi.

                  Và, như sự tác động dây chuyền, vài hôm sau nữa, vị giáo sư nghiên cứu tiềm năng con người gặp chị Là. Ông khuyên Là nên đến điện cô Hằng.

                  Cuộc gặp gỡ với người âm, như chiếc chìa khoá, giải toả mọi ghen tuông thù hận, trả lại con người vị tha, nhân hậu, bao dung như bản chất vốn có của Là. Ông Lý Phúc như một quan toà hiện về, nhìn thấu ngõ ngách mấy chục năm trước, nhìn xuyên suốt những năm sau. Ông bảo, nếu Nguyễn Kỳ Khôi lấy Cam thì làm sao ông có hai đứa cháu nội là thằng Chiến Thống Nhất và con Chiến Huyền Ly? Ông bảo, dòng họ Nguyễn Kỳ đã bao năm li tán, nay là lúc phải tụ hợp, rằng vong linh ông sẽ được siêu thoát nếu ông được nhìn thấy anh em, vợ chồng, con cháu hoà thuận, quây quần…

                  Là đã kể hết với Lợi câu chuyện chị về quê ra mộ thắp hương, xin hòn đất trên mộ để thỉnh ông Lý Phúc đến điện cô Hằng thế nào, ông Lý Phúc hiện về và nói ra sao? Bộ áo giáp chủ nghĩa vô thần của Chiến Thắng Lợi bị những thông tin của Là làm thủng một mảng lớn. Và cơn gió đen duy tâm đang luồn lách trườn qua lỗ thủng ấy, làm ông lạnh buốt xương sống, chân tay nổi da gà. Ông không hề nói với vị giáo sư khoa học tiềm năng con người về ông Lý Phúc, thầy ông, và cái chết của thầy ông. Ông cũng chưa từng gặp cô Hằng. Hay là Là bịa chuyện để lấy cớ tha thứ cho ông?

                  Mấy ngày liền ông Lợi sống trong tâm trạng hoài nghi nửa tin nửa ngờ. Thầy đã về và đang phù giúp ông giải cái đại hạn mà ông đang mắc phải? Hẳn là như vậy rồi. Như có phép mầu, chỉ một tuần qua, từ khi ông nghe lời vị giáo sư tâm linh, tình hình đã xoay chuyển từng ngày. Hôm qua đồng chí Tư Vuông gọi ông lên và bảo: "Trên sắp có kết luận về cậu. Theo mình là khả quan. Nếu ý kiến của mình được xem xét thì đợt này cấp trên sẽ phê duyệt nhân sự cả trường hợp tay Châu Hà. Hắn mà làm Tổng biên tập báo Văn Chương là mình yên tâm". Lợi như người sống trên mây. Nhiều khi đi như chân không chạm tới đất. Chủ nghĩa vô thần của ông lung lay tận gốc rễ. Ông lặng lẽ thuê người dựng bàn thờ gia tiên, bố mẹ. Ông bù đắp lại cho Là những thua thiệt mất mát, sự thờ ơ rẻ rúng trong mấy chục năm qua. Ông bàn với vợ những trù tính và cuộc sám hối trong ngày giỗ ông Lý Phúc sắp tới.

                  Lạ thay, bàn thờ vừa làm xong, thì có điện thoại của bà Cam:

                  - Chín giờ sáng chủ nhật này ông đến chỗ tôi nhé. Có chuyện rất cần tôi muốn bàn với ông. Nhất định phải đến đấy.

                  Không phải là một cuộc trao đổi bình thường, mà là mệnh lệnh. Ông Lợi hiểu rõ tầm quan trọng của cuộc hẹn gặp này.

                  Đúng giờ hẹn, bà Cam đã đứng chờ ông ở cửa. Họ gặp nhau như hai tội phạm đã từng có lúc chung lưng buôn thuốc phiện lậu, nay cùng bị phát giác.

                  - Tôi đã báo cáo hết với tổ chức rồi và sẵn sàng chịu hình thức kỷ luật cao nhất.

                  - Tôi cũng vậy. Trong bốn điểm đơn thư nặc danh tố cáo, tôi đã tường trình rõ điểm ba và điểm bốn. Chúng tôi thực sự yêu nhau và đến với nhau một cách chân thành, trong sáng. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi đành phải hy sinh hạnh phúc cá nhân vì sự nghiệp chung. Chúng tôi nghĩ đây là việc riêng cá nhân và cũng là việc xảy ra trong quá khứ, nên nay tổ chức yêu cầu thì xin thành khẩn trình bày…

                  - Như vậy là thấu tình đạt lý rồi. Còn chuyện thằng Chu sang Liên Xô học tên lửa?

                  - Chuyện này hoàn toàn do điều động của tổ chức. Tôi đã mạnh dạn trình bày như vậy vì biết chắc thượng tá Võ Khang đã hy sinh… Tôi nói, thằng cháu Chu hồi ấy luôn là học sinh phổ thông xuất sắc, vì thế Cục Quân lực thấy cần phải đưa cháu đi đào tạo tiếp…

                  - Thôi được. Anh thành khẩn đến mức như thế mà tổ chức vẫn không tin dùng thì đó là số phận.

                  - Số phận ư? - ông Lợi bỗng nhìn bà Cam bằng ánh mắt của một người đã bắt đầu ngộ ra rằng cuộc đòi còn có những điều bí hiểm mà ta không cắt nghĩa được.

                  - Bây giờ đến một việc tối quan trọng mà tôi muốn báo cho anh biết, nhưng không hiểu trong hoàn cảnh này anh đã chuẩn bị tinh thần để đón nhận chưa?

                  Bốn mắt họ gặp nhau.

                  Kỷ niệm ba ngày thần tiên ở Phương Đình bỗng hiện về. Lợi hình dung rất rõ một anh chàng Nguyễn Kỳ Khôi cuồng nhiệt và hăm hở lúc nào cũng bị đôi mất đen đắm đuối dìm cho đến chết. Đôi mắt đen thẳm ngày xưa, giờ đọng đầy nước.

                  - Cam đã nói với con?

                  Bà Cam khẽ gật đầu.

                  - Chu vừa về tận quê đồng chí Lê Thuyết. Và tự nó đã tìm ra sự thật.

                  - Vậy thì hãy cho tôi gặp con. Đâu? Nó đâu rồi?

                  Như có phép màu, có tiếng gõ cửa.

                  Bà Cam chưa kịp nói hết câu: "Chu ơi, bố của con đấy", Chu đã dang rộng vòng tay, ào vào, ôm chầm lấy ông Lợi.

                  Hai bố con đứng ôm nhau. Hai người đàn ông, người tóc muối tiêu, người tóc còn đen ánh, giống nhau như cùng khuôn đúc. Họ ôm nhau và khóc.

                  Bà Cam cười mà miệng méo xệch, nước mắt chảy chan hoà. Hơn ba mươi năm tủi nhục, giấu giếm, vụng trộm, thậm chí với con trai mà phải giả dối, thớ lợ…, giờ mới là lúc bà hoàn toàn mãn nguyện khi thấy cảnh châu về Hợp Phố, bố con đã nhận ra nhau.

                  Chu kéo ông Lợi nhích lên và vòng tay ôm bà Cam lại gần.

                  - Con đã có cả bố và mẹ. Con sẽ hạnh phúc vô cùng nếu bố mẹ sống bên nhau…

                  Bà Cam gỡ tay Chu ra.

                  - Đó là điều không tưởng, vì số phận không cho mẹ nhiều đến thế. Bây giờ, mẹ chỉ còn một mong muốn cuối cùng là làm sao giúp bố con qua khỏi cung đại hạn này.

                  Cả ông Lợi và Chu cùng ngồi xuống ghế, nhìn bà Cam chờ đợi.

                  - Đây là quyết định của tôi sau rất nhiều đêm suy nghĩ, dằn vặt - Bà Cam đặt lên bàn những trang giấy do tự tay mình viết. Đơn xin nghỉ hưu. Đơn xin nghỉ sinh hoạt…

                  - Đừng, Cam, tôi xin em - Lợi vồ lấy những tờ giấy, như không tin ở mắt mình - Sao em lại làm thế? Hãy suy nghĩ lại!

                  Bà Cam nhìn vào xa xăm, như nói với một ai đó:

                  - Những lá đơn này là để tôi nhận hết tội lỗi về phần mình. Đồng chí Chiến Thắng Lợi vô tội trong việc này. Vào những năm 1947, 1948 ấy, sau khi đồng chí Lê Thuyết hy sinh, tôi rất hoang mang, bế tắc. Tôi đã lừa đồng chí Nguyễn Kỳ Khôi để xin một đứa con… Đó là điểm tựa tinh thần để an ủi tôi vững tin cống hiến lâu dài cho cách mạng… Tôi không có ý định lấy đồng chí Khôi, vì thế đã chủ động cắt đứt mối liên lạc Nếu những việc làm của tôi là lừa dối tổ chức, không trung thực, thành khẩn, thì tôi xin sẵn sàng chịu kỷ luật cao nhất, tôi xin được khai trừ khỏi tổ chức, xin tình nguyện về hưu… để cho tổ chức được trong sạch vững mạnh…

                  Ông Lợi cắt ngang:

                  - Cam không được nộp những lá đơn này lên tổ chức. Cam vẫn còn tuổi công tác và đang giữ những trọng trách… Cam phải nhớ tới lời thề thiêng liêng…

                  Bà Cam lắc đầu, miệng thoáng cười khinh bạc.

                  - Với lại đã đến lúc con người ta nghĩ khác rồi… Ai cũng rất cần một khoảng trời tự do… Tôi đã hy sinh quá nhiều cái riêng, cái cá nhân cho cách mạng. Nay là lúc tôi phải sống riêng cho mình. Tham quyền cố vị làm gì, khi mà một chút riêng tư cá nhân cũng bị phanh phui, quy kết, cũng phải giải trình, báo cáo?

                  Đó là sự đổ vỡ lớn nhất trong đời bà Cam.

                  Ngày hôm sau, tự tay bà mang đơn lên nộp tổ chức.

                  Và đúng như bà Cam phán đoán, hành động của bà như Lê Lai liều mình cứu chúa. Ông Lợi không những được gỡ tội mà còn được đề bạt giữ trọng trách Phó ban Cải tạo Công thương.

                  Cho nên, đám giỗ ông Lý Phúc sẽ mang rất nhiều ý nghĩa.

                  ***

                  Ngôi biệt thự rợp bóng hoàng lan ở góc phố Lý Thường Kiệt, kể từ ngày vợ chồng con cái ông Lợi dọn đến ở, hôm nay, lần đầu tiên, mới có cuộc hội ngộ đông vui như thế.

                  Ngay từ sáng sớm, ba mẹ con Khiêm, ba mẹ con Là đã tíu tít chợ búa, chuẩn bị làm cỗ. Sự xuất hiện của mẹ con Khiêm, khiến đám giỗ có ngay không khí tưng bừng, trang trọng của một ngày lễ hội. Hai mẹ con, như hai chị em, rực rỡ và đài các, quý phái. Tuyệt vời nhất là Trinh Mai. Dáng thanh cao, nước da trắng mịn, mắt đen như nhung, môi tươi như đoá trà. Cô đẹp rực rỡ, như bông hồng vàng trong truyện của Pautôpxki. Sự xuất hiện của cô, ngay từ đầu đã làm mê mẩn cô bé Chiên Huyền Ly, đến nỗi cô bé cứ ngơ ngẩn đi quanh mà nhìn ngắm, mà trầm trồ:

                  - Chị Mai, chị giống như Bạch Tuyết trong truyện "Nàng Bạch Tuyết và bẩy chú lùn".

                  - Ê, chị Ly, lộn xộn. Chị phải gọi Mai là em, rõ chưa? - Mai thơm vào bên má phính của cô bé, cười thích thú, chỉ ông anh họ - Thế còn anh Chiến Thống Nhất, trông có giống anh chàng Pie Bêdukhốp trong tiểu thuyết "Chiến tranh và Hoà bình" của văn hào Lép Tônxtôi không?

                  - Giống quá - Phong vỗ tay, reo to - Pie Bêdukhốp.

                  Cả Phong và Ly cùng nhìn Nhất và ôm bụng cười ngặt nghẽo. Đúng là anh chàng ngố Bêdukhốp, mà chúng đã gặp trong phim. Chiến Thống Nhất giờ đã là chàng sinh viên năm cuối trường Đại học Giao thông, cao to, mặt béo bệu, kính cận bốn điệp, giọng ồ ồ như vịt đực. Nhìn Nhất lóng ngóng gọt khoai tây, su hào, chẳng ai nhịn được cười.

                  - Chị Mai này - Ly vẫn không thể quen gọi em xưng chị vì ngượng lắm - Mẹ Là bảo Ly với Mai là chị em con chú con bác ruột, thế sao họ Mai là Nguyễn, còn họ Ly lại là Chiến?

                  Mai ngẩn người, một lúc mới nghĩ ra cách giảng giải:

                  - Vì bố chị Ly là quan, còn bố em là phó thường dân. Họ của quan thì phải khác dân. Ví như đức ông Lý Thường Kiệt, được đặt tên đường phố mà chị Ly đang ở đây này. Ông vốn có tên cha mẹ đặt cho là Ngô Tuấn, quê ở ven Hồ Tây. Vì ông quá tài giỏi giúp vua Lý đánh giặc, nên được ban họ vua, được đổi tên là Lý Thường Kiệt.

                  - Ly ứ thích họ Chiến. Một mình một họ chán lắm. Ly chỉ thích họ Nguyễn Kỳ. Này, chị Mai này, mẹ Là bảo Ly còn có một anh trai, trên cả anh Nhất nữa cơ… - Ly ghé tai Mai thì thào chuyện gì đó có vẻ cực kỳ bí mật…

                  - Em cũng đang chờ đợi… - Mai gật đầu lia lịa ra vẻ rất thích thú khi sắp được chứng kiến một sự kiện trọng đại - Chị Ly này, họ Nguyễn Kỳ nhà mình có nhiều chuyện rất chỉ là… kỳ. Ông nội chúng mình ngộ ghê cơ. Ai lại đặt tên con là Nguyễn Kỳ Cục - Đang nói Mai bỗng ôm miệng nhìn ra cổng.

                  Một người đàn ông. đội mũ cối, vai đeo bị gạo, tay xách chiếc lồng nhốt hai con gà trống, đang tập tễnh đi vào.

                  - Chết em rồi. Chú Cục thiêng thế. Vừa nhắc đến đã xuất hiện.

                  - Ối giời! Tôi đã bảo chú ra không thôi kia mà - Bà Là trách móc một cách thân tình - Khổ. Nhìn tủ lạnh Saratôp nhà tôi trong kia xem có thiếu thứ gì không? Bày vẽ gạo đỗ gà qué ra cho nó khổ cái thân…

                  Khiêm từ trong bếp ló ra, gương mặt đỏ hồng vì lửa.

                  - Chào ông phó chủ nhiệm hợp tác. Gà chăn nuôi hay là mua ngoài chợ Đồng Xuân đấy? Kìa, hai chị em con Mai, con Ly đâu, ra xách gà cho chú đi.

                  - Thế thím Nhi với các cháu đâu? Cái Ruộng, cái đất, cái Hợp thằng Tác đâu? Sao không cho chúng nó ra hết cả ngoài này? - Là nhìn tuốt ra ngoài cổng - Nhà tôi đã dặn chú giỗ thầy năm nay là cuộc họp mặt đại gia đình, phải cho cả nhà ra ngoài này kia mà.

                  - Nhà em phải ở nhà chuẩn bị mai em về cúng giỗ thầy, chứ kéo ra hết ngoài này đâu có được. Giỗ ngoài bác cả cũng chỉ là giỗ vọng. Bà nhắn về, bảo thế. Bà dặn phải cúng giỗ thầy ở nhà thờ đúng ngày mai. Trong Sài Gòn trưa mai bà với bác Vọng cũng giỗ vọng thầy. Nhà em hôm nay phải đi xay yến nếp cái hoa vàng để mai đồ xôi. Các cháu bác đứa đi cắm trại với nhà trường, đứa ra đồng trông đàn vịt với cô Hậu. Từ ngày bà vào Sài Gòn với bác Vọng, bí người lắm.

                  - Các cụ đã bảo rồi. Một mẹ già bằng ba người ở! Bà vào trong kia, cũng là đi ở trông nhà cho chú Vọng.

                  - Vợ chồng em đang tính, phải đón bà em về.

                  - Thôi. Hoa thơm mỗi người ngửi một tí - Là có vẻ chao chát - Bà về cũng không đến lượt chú thím. Vợ chồng tôi là con trưởng, cũng phải để cho chúng tôi được báo hiếu mẹ một chút chứ…

                  - Vâng, thì sau anh Vọng sẽ là bác cả rồi bác hai. Nhưng em cam đoan là bà chỉ thích ở với vợ chồng em… Nào, có việc gì em phụ một tay…

                  - Việc gì? Cừ để đàn bà con gái chúng tôi. Chú rửa mặt mũi chân tay rồi lên trên nhà với anh. Có cả chú Vỹ ở trên ấy. Anh em tha hồ mà hàn huyên với nhau…

                  Trên nhà, tức là tầng gác hai, nơi sẽ diễn ra lễ cúng giỗ ông Lý Phúc, anh em ông Lợi, ông Vỹ, như hai cái bóng, mỗi người một góc nhà.

                  Suốt từ lúc đến nhà anh trai, ông Vỹ hầu như chỉ im lặng. Ngôi nhà sang trọng này quá lạ lẫm đối với ông. Đầu tiên là ông đi vòng quanh, ngắm nghía, sờ mó những đồ vật, ngó nghiêng phòng ngủ, toa lét, hành lang, y như một bác nông dân lần đầu ra tỉnh. Quan cách mạng có khác. Khác hẳn người thường. Riêng một chiếc tủ cổ lồng kính trưng bày những huy chương, huân chương, bằng khen, những đồ lưu niệm của các nước Trung Quốc, Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Lào, Triều Tiên, Cuba… đủ thấy chủ nhân đã đặt chân lên hầu khắp các vùng trái đất. Điểm dừng sau cùng là bộ bàn thờ. Ông đứng ngắm như nhà đạo diễn tổng duyệt bài trí sân khấu, rồi sắp xếp điều chỉnh lại từng đồ thờ cúng. Tiếp đó, ông lấy từ chiếc làn nhựa ra nải chuối, chai rượu chanh, ba thẻ hương, mà Khiêm sắm từ hôm qua trịnh trọng đặt lên giữa ban thờ. Khói hương vấn vít trên mái tóc như sương, ông Vỹ đứng lặng phắc như nhập thiền trước bài vị người cha quá cố gần tiếng đồng hồ.

                  Vóc dáng tiều tuỵ và vẻ mặt vô cảm, nhẫn nhục, cùng mọi động thái có vẻ như lẩn thẩn của em trai, đều không qua con mắt bao quát, dò xét của ông Lợi. Ông bỗng động làng trắc ẩn và thấy như chính mình có lỗi. Đúng là bẩy năm trong trại cải tạo đã biến Vỹ trở thành một người khác. Đầu óc, sức khoẻ có vấn đề. Giờ thì Vỹ chẳng còn gì nguy hiểm đến an ninh quốc gia sự an toàn của thể chế, mà bản thân Vỹ cũng chẳng còn có ích gì cho mình và cho gia đình. Đó là nguy kịch mà chính ông Lợi, anh em máu mủ ruột rà sẽ phải gánh chịu. Ông trách mình đã không kịp thời can thiệp. Mải mê với địa vị, quyền lợi của mình, ông đã thờ ơ, đã nhẫn tâm… Rồi Vỹ sẽ sống ra sao, nếu bệnh tật và những áp lực tinh thần đã tích tụ mấy năm qua bùng phát? Vợ chồng con cái Vỹ sẽ sống thế nào, khi tất cả thu nhập đều chỉ trông cậy vào đồng lương và việc dạy thêm của Khiêm? Đã gần hết năm rồi mà mọi chế độ tiêu chuẩn của Vỹ vẫn chưa giải quyết được. Mấy chục đồng bạc một tháng hoặc một chân cán sự quèn ở một cơ quan, mà cứ như quả bóng đá đi đá lại bao nhiêu cửa. Người ta vẫn cứ muốn hành hạ Vỹ, lấy miếng cơm manh áo, sự mưu sinh tầm thường để làm nhục kẻ sỹ. Giá không vướng những đơn thư yếu tố thì Lợi sẽ can thiệp cho Vỹ. Nhưng ông đang trong tình trạng há miệng mắc quai, ốc còn không mang nổi mình ốc. Đành lại đế Châu Hà và đám bạn bè văn chương giúp Vỹ.

                  Một câu hỏi như những nhát búa cứ nhói lên trong đầu Lợi: người giúp Vỹ ra khỏi K27, rồi đang đôn đáo lo quyền lợi, đời ông cho Vỹ, sao không phải là ông, mà là nhà văn Châu Hà?

                  Không phải lúc này, ở đây, mà là suốt mấy tháng nay, kể tư khi Vỹ ra tù, câu hỏi này đã gõ vào đầu ông nhức buốt. Bây giờ, đối diện với Vỹ, câu hỏi càng nhức buốt. Nó khiến ông không dám dàn mặt với em trai, không dám nhìn thẳng vào mắt Vỹ. Bây giờ thì ông đã thành phạm nhân và Vỹ thành quản giáo. Vỹ im lặng vì bệnh trầm cảm, bệnh Alzheimer, hay Vỹ đang khinh bỉ?

                  Lợi chạy xuống nhà bảo vợ đưa chìa khoá tủ, rồi tự tay ông lấy hai lạng cao hổ cốt, một hộp nhân sâm Cao Ly dúi vào tay Vỹ.

                  - Chú cầm lấy mấy thứ này về bồi dưỡng. sức khoẻ. Tôi thấy chú yếu lắm.

                  - Em xin bác - Vỹ ngửa lòng bàn tay, nhìn chằm chằm vào ông anh trai. Tự nhiên, ông bỗng thấy sao chiếc mũi của ông anh trai lại dài ra và khoằm lại như mỏ quạ. Rồi bộ mặt ông Lợi bỗng biến thành bộ mặt ông mũi khoằm đeo băng đỏ trong đồn công an ngày nào. Vỹ hốt hoảng đưa lại lạng cao và hộp sâm cho ông Lợi.

                  - Coi như em đã nhận. Em gửi bác giữ hộ.

                  - Kìa chú. Chú cầm về để bồi dưỡng…

                  Vỹ quay lại, đặt mọi thứ lên ban thờ. Rồi lại đang lầm rầm khấn vái.

                  Rất may, sự xuất hiện của Cục đã phá vỡ không khí nặng nề. Lợi xoắn lấy Cục hói thăm về tình hình trong quê, về mùa màng, khoán sản… Còn Vỹ thì chỉ ngồi nhìn Cục đầy âu yếm, như cậu học trò Vỹ thường ngắm nhìn hai đứa em Cục và Vện chơi bi, chơi đáo ngày xưa. Thấy Cục mở gói thuốc lào, Vỹ liền xăng xái đi tìm chiếc điếu cày. Tìm mãi không thấy, tự tay Vỹ kiếm giấy báo vấn cho Cục một chiếc điếu thật dài. Cỗ cúng đã xong và được "anh chàng Bêdukhốp", với sự trợ giúp của Mai, Phong và Ly, lễ mễ bưng lên, đặt trên cái bàn kê dưới ban thờ. Một con gà trống thiến, mỏ vểnh cao, ngậm bông hồng, luộc vàng ươm, nằm bên đĩa xôi đỗ lớn choán gần hết chiếc mâm đồng. Tiếp đó là một mâm cỗ cúng nghi ngút khói với các đĩa, các bát giò nem ninh mọc, đặc chất ẩm thực Hà Nội mà chỉ có tài nữ công gia chánh điêu luyện mới làm nổi. Đây là những nghi thức, thủ tục rất trang trọng do chính cô giáo Khiêm đạo diễn. Đến lượt ông Lợi cũng trịnh trọng không kém. Ông thay bộ đồ mới, khoác áo đại cán, thắp đủ ba tuần hương, rót rượu rồi lầm rầm khấn vái. Lần đầu tiên trong đời, không phải do một ai đó, một tổ chức nào đó tác động, chỉ đạo, tự ông làm một cách tự nguyện những công việc trang nghiêm, thành kính và thiêng liêng như thế.

                  Bà Là từ dưới nhà đi lên, dáng bồn chồn hết nhìn đồng hồ lại ngóng ra cổng. Đợi ông Lợi cúng xong, bà lo lắng đến bên chồng.

                  - Anh có hẹn đúng ngày giờ không? Sao giờ này vẫn chưa thấy đến? Nghe nói tướng Quảng Lạc ở mặt trận Cămpuchia chưa về?

                  Ông Lợi còn sốt ruột hơn cả vợ. Lòng ông như lửa đốt. Đúng là ông có nghe tin tướng Quảng Lạc vừa từ mặt trận biên giới phía Bắc bay sang mặt trận Tây Nam. Nhưng nhân vật chính mà ông chờ đợi hôm nay đâu có phụ thuộc gì vào ông tướng ấy? Lê Kỳ Chu, con trai cả của ông, cháu đích tôn của người đang ngồi trên ban thờ hương khói nghi ngút kia, mới là trung tâm của ngày trọng đại này. Đám giỗ mà ông kỳ công sắp đặt, chỉ dành riêng cho những người ruột thịt, chính là dịp để ông kính cáo với tổ tiên, với thầy u ông, cho vợ chồng Lê Kỳ Chu và con trai về nhận cha, nhận họ. Mọi kế hoạch đã được ông trù tính kỹ. Ông đã bàn bạc cả với hai vợ chồng nó.

                  Người ngoại tộc duy nhất được ông mời hôm nay là cụ Ba Yên và vợ chồng tướng Quảng Lạc, với danh nghĩa thông gia. Cụ Ba Yên xin kiếu vì sức khoẻ yếu. Ông cũng đã bàn với vợ về trường hợp bà Cam. Là tỏ ra rộng lượng, cứ mời. Nhưng ông gạt đi. Tất nhiên, nếu mời bà Cam cũng không đến.

                  Có tiếng còi xe ô tô ngoài cổng. Chiếc Uoat đầy bụi đường trường vừa dừng, tướng Quảng Lạc, trong bộ quân phục còn nguyên nếp gấp, mũ mềm gắn sao, từ trên xe bước xuống. Theo sau vị tướng lừng danh là cô giáo Linh, con gái ông, cùng Lê Kỳ Chu, con rể, và thằng cháu ngoại.

                  Cả nhà cùng ào ra cổng đón khách. Ai cũng dồn mắt vào chàng trai cao lớn mặc bộ complê như chú rể đi cạnh vợ và con trai. Nhác trông đã biết ngay là con trai ông Lợi, không lẫn vào đâu được. Người ta có thể nghi ngờ Chiến Thống Nhất, chứ chẳng ai nghi ngờ Lê Kỳ Chu. Là và Khiêm cùng dang tay ra ôm thằng cháu đích tôn.

                  Thằng bé cười khanh khách khi bà Là cứ day mũi vào chim nó.

                  Cô bé Ly ghé tai Mai:

                  - Giống cực kỳ. Chỉ có bố Kỳ Khôi mới sinh nổi con Kỳ Chu.

                  Rồi cô bé chạy vào trong nhà ôm một bó hoa lớn đã chuẩn bị sẵn, bẽn lẽn đi đến trước vợ chồng anh trai.

                  - Xin lỗi cả nhà, vì phải chờ đợi lâu - Tướng Quảng Lạc hồ hởi bắt tay từng người, với tác phong dứt khoát của một quân nhân - Lẽ ra vợ chồng cháu Chu, Linh và thằng cu Ti phải đến sớm, nhưng các cháu cứ nấn ná chờ tôi về. Vừa xuống sân bay, tôi chỉ kịp qua nhà đón các cháu rồi đến đây ngay.

                  Khi bắt tay Vỹ, ông dừng hơi lâu.

                  - Tôi đọc và nghe nói về ông đã lâu, nhưng hôm nay mới có hân hạnh gặp. Sẽ hẹn đến thăm cả hai ông bà.

                  Không khí chiến trường, tình hình thời cuộc theo chân ông tướng ùa vào phòng khách. Người háo hức chờ đợi nhất là Cục. Thằng Cách, con trai thứ ba của ông đang ở chiến trường Campuchia. Cục tin rằng vừa rồi thể nào ông tướng cũng gặp thằng Cách ở bên đó.

                  - Phải xác định cháu nó còn phải ở đất bạn lâu dài - ông tướng nói - Tình hình phức tạp lắm. Tàn quân Pônpốt rút vào rừng đánh du kích. Nó dùng sở trường của ta để đánh lại ta mới gay chứ. Vật nhau với thằng Pônpốt keo này mất nhiều thời gian, xương máu lắm đây…

                  - Nghe đài BBC nói, ta bị thế giới phản đối về vụ Campuchia này lắm - ông Cục nói.

                  - Thế mới gay. Mình sa lầy nhưng vẫn không thể rút chân ra được - ông tướng thở dài. Không hiểu ông thở dài vì sự không rút chân ra được hay vì ông thấy mình không còn nhiều thời gian…

                  Đúng lúc ấy thì ông tướng bỗng giật mình, khi con gái ghé tai nói nhỏ điều gì. Ông kéo tay Cục và Vỹ cùng lên nhà trên. Trước ban thờ, ông Lợi và Chu, đứng cạnh nhau, giống nhau như hai giọt nước. Cạnh họ là hai mẹ con cô giáo Linh.

                  Giọng ông Lợi nghiêm trang và xúc động, như một nguyên thủ đọc diễn văn trước đám đông:

                  Kính thưa đồng chí thiếu tướng Quảng Lạc, thân sinh của con Quản Thị Linh, nhạc phụ của con Lê Kỳ Chu, ông ngoại của cháu Lê Kỳ Châu. Thưa chú Nguyễn Kỳ Vỹ và thím Đào Trinh Khiêm. Thưa chú Nguyễn Kỳ Quặc. Thưa bà Ma Thị Là, vợ tôi, cùng các con cháu trong gia tộc Nguyễn Kỳ - Hôm nay là một ngày trọng đại của gia đình. Nhân ngày ky nhật của thầy tôi, vợ chồng chúng tôi có lưng cơm, nén nhang tưởng nhớ thầy tôi và kính báo với thầy tôi cùng gia tiên dòng họ Nguyễn Kỳ một sự kiện quan trọng. Tôi, tên thật là Nguyễn Kỳ Khôi, bí danh cách mạng là Chiến Thắng Lợi, có con trai là Lê Kỳ Chu, sinh ngày… tháng… năm… Do hoàn cảnh kháng chiến, bố con tôi đã thất lạc nhau hơn ba mươi năm. Nay nhờ ân huệ tổ tiên, bố con tôi đã tìm thấy nhau. Vậy hôm nay, trước vong linh tiên tổ, vong linh thầy, xin cho vợ chồng con cái Lê Kỳ Chu sửa lễ mọn bái yết gia tiên, ông nội, và từ nay xin nhận bà nội, bố mẹ, các chú thím, các em và họ hàng nội ngoại chi họ Nguyễn Kỳ…

                  Mâm đồ lễ nhận cha nhận họ đã được vợ chồng Chu chuẩn bị sẵn mang theo xe ô tô, giờ được Nhất và Mai bưng lên đặt trên ban thờ. Vợ chồng Chu, Linh như cặp tân hôn ngày lễ gia tiên, cùng quỳ trước ban thờ cầu khấn.

                  Lễ nhận họ xong, Chu đứng lên, tiến đến trước mặt ông Lợi. Anh như đổ vào ngực người cha.

                  - Bố ơi, sao bố không nói với mọi người về mẹ con? - Chu bỗng oà khóc - Sao bố không mời mẹ Đào Thị Cam của con đến đây? Không có mẹ Cam, làm sao con có cuộc hội ngộ này?

                  Cũng lúc ấy, như có luồng sáng nóng bỏng sau gáy, Chu vội quay lại.

                  Chu nhận ra đôi mắt Cục đang nhìn anh với ánh mắt thật khác lạ ánh nhìn ấy, như sự sắp đặt của định mệnh, mãi hơn hai mươi năm sau, Chu mới giải mã được.

                  Comment


                  • #24
                    Chương 24

                    Nửa đời nửa đoạn



                    "Anh vô vàn thương nhớ của em!

                    Mẹ con em đã viết cho anh bao nhiêu lá thư rồi, mà vẫn biệt tăm hơi. Tại sao anh không trả lời? Anh không được viết hay thư không đến nơi? Hay anh làm sao? Có bị đi cải tạo không? Có bị quản thúc không?

                    Cuộc ra đi như một hành trình vượt qua chín tầng địa ngục Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, Đức Chúa sáng danh đã cứu giúp mẹ con em cập bến an toàn…

                    Vậy là mẹ con em đang ở xa anh nửa vòng trái đất. Một khoảng cách mà chỉ có nỗi nhớ thương mới đủ sức kéo lại gần…

                    Vân và Vy ngày nào cũng nhắc ba. Học tiếng Anh không vào chúng nó cũng viện lý do vì nhớ ba mà không học được.

                    Hôm qua, có tin tàu chở người di tản cập cảng. Ba mẹ con đến chờ ở cầu cáng mười tiếng đồng hồ. Gặp vợ chồng con cái anh Thới, mừng hết nói. Hỏi nhà em đâu, anh Thói bảo: "Tao cho nó đi free, nhưng nó ngu quá trời. Không muốn nói nữa. Mấy mẹ con gào trong nước mắt. Anh ơi, hay là anh đã quên mẹ con em? Hay đã có cô nào giữ anh ở lại?"

                    Đọc thư Miên, Vọng khóc tức tưởi. Nhạt nhoà giữa những dòng chữ là gương mặt của Miên, như một con chiên đang đau khổ và nhẫn nhục hướng về nước Chúa.

                    Thì ra Miên vẫn đau đáu, khắc khoải một nỗi nhớ về anh. Vọng bỗng thấy ân hận, muốn xỉ vả mình vì đã trót oán hận Miên khi mẹ con nàng bỏ nước ra đi đột ngột. Vọng đâu thấu hiểu quyết tâm ra đi của nàng đại mạnh mẽ và quyết liệt đến thế Nàng muốn đi trước tiền trạm. Muốn anh có thời gian sống với mẹ ít ngày, có thời gian thu xếp việc gia đình, chia tay người thân ngoài Bắc.

                    Anh Võ An Thới mà Miên viết trong thư, là người mà Miên tin cậy và nhờ thu xếp đưa Vọng sang với mẹ con nàng. Đó là người bạn thân của anh trai nàng, và sau này là người anh em thân thiết trong gia đình. Thới là một nhà sử học. Anh giảng dạy tại trường Đại học Vạn Hạnh. Sau ngày 80 tháng Tư, chính Thới đã nhiều lần khuyên nhủ vợ chồng Vọng nên ở lại góp phần tái thiết đất nước. Thới là người không thân cộng sản, nhưng có tinh thần dân tộc, sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới để xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, giàu mạnh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. "Mình ủng hộ những người cộng sản vì họ có khát vọng thống nhất Tổ quốc. Họ chỉ muốn đánh đuổi kẻ xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc. Chúng mình cùng giống máu đỏ da vàng, cùng khát vọng như họ, tại sao phải trốn chạy đến một nước ngoại bang? Mình và Vọng lại là trí thức. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sỹ hơn lớp bình dân là được học hành, biết sự chuyển xoay của thời cuộc…". Anh Thới đã nhiều lần nói với Vọng như vậy. Anh hăng hái tham gia vận động thành lập Hội Trí thức yêu nước của thành phố, vận động được rất nhiều nhà khoa học, giáo sư, kỹ sư, bác sĩ ở lại hợp tác với chính quyền mới.

                    Nhưng rồi Thới đã vỡ mộng. Người ta đã không cho anh giảng dạy và nghiên cứu lịch sử, bởi vì anh dạy khoá giáo trình lịch sử cận đại, là chuyên gia nghiên cứu về Triều Nguyễn và quá trình Nam tiến mở cõi của người Việt. Anh Thới có lần buồn bã nói với Vọng: "Người ta vứt tất cả mớ tài liệu nghiên cứu của mình vào sọt rác. Người ta xoá tên hết toàn bộ những con đường, những địa danh liên quan đến các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát… các tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Mạc Cửu… những người góp phần quyết định cho việc mở cõi trời Nam từ Thuận Hoá tới Hà Tiên. Lịch sử nghìn năm của dân tộc bị bóp méo, giản lược để chỉ tôn vinh, dồn cho mấy chục năm…"

                    Chỉ trong vòng hai năm, các thành viên của Hội Trí thức yêu nước lần lượt bỏ nước ra đi. Đây là thời kỳ làn sóng di tản ập vào từng nhà, trở thành câu chuyện cửa miệng ở các bến xe, quán hàng, phố chợ. Hàng nghìn người đi chui bị bắt, lại đi tiếp Rồi làn sóng người Hoa ào ào rời khỏi Chợ Lớn. Đã xuất híện nhiều đường dây bán chính thức. Chỉ cần nộp tiền nộp vàng là tàu đưa ra khỏi phao số không.

                    Một buổi tối, Thới đội mưa đến nhà Vọng.

                    - Mọi việc đã chuẩn bị xong. Bảo mật tối đa. Tầu được trang bị la bàn, dầu mỡ, đồ ăn đủ cho cả tháng. Chỉ cần đến Mã Lai sẽ có người đón. Mày muốn đi, tao cho đi free. Chuẩn bị lẹ lên nghe. Đúng hai giờ sáng mai hẹn gặp ở nhà dệt Tân Hội - Thới thông báo vắn tắt, rồi vội vã đi ngay.

                    Chao ôi, một cơ hội ngàn vàng. Đi với Thới chắc chắn sẽ trót lọt bởi anh là người chín chắn, tính toán chi ly mọi nước cờ.

                    Nhưng Vọng làm sao bỏ được mẹ một mình bơ vơ giữa đất khách quê người? Bà Cử Phúc đã vào ở với Vọng được gần một năm. Nhờ sự tận tâm của Khuất Sỹ Hào và Xoan, Vọng đã nhập được hộ khẩu cho mẹ. Từ ngày đón mẹ vào, dù đi công tác đâu xa, Vọng vẫn dành thời gian về chăm sóc mẹ. Mẹ gầy yếu quá anh tìm đến tận ông Lang Chánh phố Hải Thượng Lãn ông ở Chợ Lớn cắt thuốc bắc cho mẹ. Tự tay sắc thuốc ép bà cụ uống mỗi ngày. Mỗi tuần anh đặt mua ở chợ Bà Chiểu một con gà đen, tiềm tam thất, quy, thục ép bà cụ ăn. Người già như trái chín cây. Không biết rụng ngày nào. Nhìn mẹ nhai trệu trạo, vừa ăn vừa nằng nặc đòi về Bắc gặp Vỹ, đòi về ở với vợ chồng Cục, Vọng cũng không nuốt nổi. Bà cụ bảo:

                    "Hoá ra thằng Vỹ phải đi tù. Thế mà mẹ Khiêm nó giấu u bảo chồng nó đi công tác nước ngoài. Khổ. Thằng Vỹ tội tình gì mà đến nông nỗi ấy?" Trong những đứa con của mẹ, Vọng thấy mình là đứa bất hiếu. Bỏ mẹ biền biệt mấy chục năm trời. Anh cố níu kéo mẹ nán lại vài năm để được phụng dưỡng…

                    Đêm ấy, khi Thới đi rồi, Vọng vội vã thu xếp quần áo, đồ đạc. Anh xuống nhà xe, moi hết số vàng, đá quý còn giấu trong hộp dầu nhờn san ra làm hai, một gói mang đi phòng thân, một gói để lại, kèm mấy chữ viết cho Cục.

                    Còn gì nữa nhỉ? Ngôi nhà, làm sao mang theo được? Vọng tin, sau khi Vọng đi, mẹ sẽ gọi các anh Khôi, Vỹ, Cục vào tìm cách quản ngôi nhà. Hào và Xoan sẽ tìm cách giúp bà cụ. Vả lại, đã đến cái bước đường cùng này thì còn tiếc cái gì? Cuộc đi này Vọng chấp năm ăn năm thua. Mất thì làm mồi cho cá biển. Được thì sang gặp Miên và hai con Vân, Vy.

                    Vọng rón rén vào phòng bà Cử Phúc. Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn ngủ, bà cụ nằm như một con mèo hen, quay mặt vào tường, chiếc mền chăn đắp ngang người. Lặng lẽ ngắm nhìn mẹ, môi cắn chặt cho khỏi bật khóc, Vọng quỳ vái sống mẹ ba vái.

                    - Làm gì mà lục đục cả đêm thế con? - Hoá ra bà Cử Phúc vẫn thức, bà trở mình nói với Vọng - Đi ngủ đi. Mai còn đến cơ quan chứ.

                    Chi một câu nói của mẹ, đủ làm cho Vọng không thể bước đi được nữa.

                    Anh có ngờ đâu, chuyến vượt biển ấy của vợ chồng con cái Thới lại rất suôn sẻ. Chỉ hơn bốn tháng sau họ đã đặt chân tới nước Mỹ.

                    ***

                    Thư của Vân và Vy như xát muối vào lòng Vọng.

                    "Ba ơi, chúng con không thể viết dài. Vì cứ định viết thư cho ba là cả hai chị em cùng oà khóc. Hai chị em con viết chung gửi ba mấy dòng này thôi. Khi nào gặp ba chúng con sẽ kể biết bao nhiêu là chuyện.

                    Ba ơi, ba có còn yêu chúng con không? Ba có nhớ chúng con không? Bác Thới báo tin ba không sang, chúng con muốn ngất xỉu. Vậy là Ba đã quên chúng con rồi. Những đứa con gái tội nghiệp trên đất khách quê người, thiếu quê hương, thiếu Tổ quốc giờ lại thiếu người cha mà chúng hằng yêu kính. Nước Mỹ của hợp chủng quốc, nhưng không có chỗ cho những đứa con Việt tha hương.

                    Sao chúng con thấy nhớ Sài Gòn, nhớ quê hương đất Việt vô cùng. Nhớ những hàng me dọc phố Nguyễn Du, những hàng sao, hàng dầu cao vút dọc đường Duy Tân, Pétrus Ký…

                    Mùa thu ở bên này tuyệt đẹp. Nhưng vẫn không sao quên được mùa mưa Sài Gòn. Những con đường láng ướt hàng cây sau mưa và quán crem ông Già ở đầu đường Tự Do… Có những ngày chúng con lang thang ở công viên trung tâm New Orleans và cố đi tìm bước chân ba từng đến đây tu nghiệp cái năm ba sắp cưới mẹ… New Orleans quả là thành phố du lịch tuyệt vời như ba đã kể. Ba ơi, khi nào ba sang, cho chúng con đi chơi hồ Michigan ba nhé…"

                    Lá thư chỉ hai trang giấy nhưng Vọng phải ngừng nghỉ mấy lần. Anh đâu có ngờ một ngày nào đó các con anh lại đi tìm dấu vết những kỷ niệm về nước Mỹ mà anh từng kể cho các con nghe để khích lệ hoài bão học tập của chúng. Duyên nghiệp chăng khi vùng đất của các bang Louisiana, Iowa, Indiana… xa xôi bên kia bán cầu, mà Vọng tưởng chỉ đi qua, như một bài học địa dư, nay lại là mảnh đất nương thân của bao người ruột thịt? Ngày ấy, lần đầu tiên đặt chân tới thủ đô nước Mỹ, Vọng không thấy choáng ngợp, mà chỉ thấy sợ cái giá lạnh buốt giá, tuyết trắng xoá ngoài công viên, tuyết đen nhớp nhúa trên các đường phố. Chỉ đến khi tới hồ Michigan mùa băng tuyết, anh mới thấy hết vẻ hùng vĩ của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ. Lần ấy, sau một tuần ở thủ đô để học khoá hướng dẫn, trên đường từ Washington DC về Louisiana, máy bay dừng ở Chicago ba giờ. Đó là khoảng thời gian thật tuyệt vời. Lợi dụng cơ hội có một không hai, Vọng đáp xe buýt, đi thăm hồ Michigan để thưởng lãm những mảnh băng tan lềnh bềnh, như những toà lâu đài khổng lồ, đủ loại hình khối kỳ dị lừng lững trôi trên mặt hồ dậy sóng.

                    Riêng New Orleans thì quả là thiên đường của những người ham xê dịch. Vọng đã được tham gia một tour du lịch ba ngày nhớ đời. Ngày đầu đi thăm cầu Pontchartrain 24 dặm, dài nhất thế giới, rồi cầu xe lửa Huey B. Long cao nhất thế giới, sân vận động có mái che (Superdome) 100.000 chỗ ngồi, rộng nhất thế giới. Ngày thứ hai đi thăm French Quàrter, ngồi xe điện đường St. Charles ngắm những biệt thự kiến trúc theo kiểu Pháp xen giữa những cây sồi xanh um. Và ngày thứ ba, một tour độc đáo: đi swamp (du lịch đồng lầy) và công viên quốc gia lịch sử Jean Laflĩtte. Ngồi trên tàu đáy bằng du khách tha hồ xem cá sấu như thời hồng hoang… Cái vùng đất bang Louisiana, nơi mà Vọng đã thực tập hai tháng trời, nơi anh đã học hỏi được nhiều điều bổ ích cho công việc cầu đường của anh, có cấu tạo địa chất thuỷ văn tương tự như đồng bằng sông Cửu Long quê mình. Không ngờ vùng đất ấy đang là nơi dung thân, nơi dồn tụ của hàng vạn gia đình người Việt, nơi Miên và các con anh đang sống trong nỗi khắc khoải đợi chờ…

                    Nước Mỹ bên kia đại dương, từng xa lạ và thù hận, giờ hằng ngày lởn vởn trong đầu Vọng, mờ ảo trong cả bữa ăn, giấc ngủ. Vọng không giấu được nỗi nhớ vợ con đến vật vã, cồn cào. Cả Xoan, cả Khuất Sỹ Hào đều biết rõ điều đó, khi họ dễ dàng đọc được những lá thư từ nước Mỹ chữ đã nhòe mờ thỉnh thoảng Vọng lại mở ra xem, rồi để đâu đó không cần che giấu.

                    - Em biết là anh Vọng không thể quên được chị Miên - Đó là câu nói nửa như trách móc, nửa như có phần tự bào chữa của Xoan, trong cái đêm chị ngủ lại trông bà Cử Phúc bị trúng cảm.

                    Từ ngày vào Sài Gòn, Xoan là bạn tâm giao của bà Cử Phúc. Chị hợp tính bà, biết chiều chuộng người già, lại xởi lởi hay chuyện. Đặc biệt, Xoan giúp bà cụ nhớ về quê Bắc nhờ những làn điệu chèo quyến rũ mê hồn. Bà Cử Phúc nhận Xoan là con, xưng u, và không giấu giếm mong muốn Xoan là con dâu bà.

                    - Con làm cho nó đừng có nhớ nhung sầu não nữa. Cố mà giữ nó ở lại cho u. Trông nó khô khan thế, chứ chẳng phải gỗ đá gì đâu. Khổ, cũng là cảnh nửa đời nửa đoạn. Đàn ông mới qua tuổi bốn mươi mà đã phải diệt dục. Thà là chết vợ nó đi một nhẽ… Trông nó suốt ngày ủ dột, u chẳng còn lòng dạ nào…

                    - Con cũng thương anh Vọng. Nhưng anh ấy cứ như thầy chùa - Xoan nói.

                    - Thì thế nên u mới muốn con năng đến. Mưa dầm thấm lâu nước chảy đá mòn con ạ…

                    Bà Cử Phúc tìm mọi cớ rủ Xoan đến chơi, rủ Xoan ngủ lại. Những món ăn truyền thống xứ Bắc: Canh riêu cua ăn với rau ghém, cà muối xổi canh cá rô rau cải xanh; canh ốc nấu với chuối xanh, đậu phụ và thịt ba chỉ; canh cá trê dưa chua; thịt kho tàu; xôi vò ăn với chè hạt sen… gợi vơi đi nỗi nhớ quê nhà.

                    Hôm ấy, Sài Gòn nóng tới bốn mươi độ C. Trong phòng có máy điều hoà, nhưng bà Cử Phúc không quen dùng. Vật bất li thân của bà là chiếc quạt giấy. Thấy mẹ vật vã trong cái nóng, Vọng mở cả điều hoà và quạt. Nào ngờ buổi tối bà cụ trúng cảm lạnh. Một mình Vọng không biết xoay xở ra sao. Bà Cử Phúc bắt Vọng gọi điện cho Xoan đến. Chị đi tìm lá ngải cứu đánh gió, nấu cháo hành cho bà cụ ăn. Nửa đêm thì cơn sốt dịu, bà cụ chợp được một giấc sâu.

                    Xoan vào nhà tắm dội nước ào ào. Nhìn da thịt mình ngồn ngộn trong gương, Xoan thấy phấn khích, muốn được ve vuốt, được vỗ về. Chị lim dim mắt nghĩ đến Vọng và Hào. Thật quá trớ trêu với cái trò mỹ nhân kế mà Khuất Sỹ Hào đã bày đặt.

                    Hào tưởng chơi trò trận giả, tự cho mình cái vai trò Trọng Thuỷ để bắt nàng Mỹ Châu, là Xoan, ăn cắp nỏ thần, tưởng lịch sử luôn lặp lại, Xoan mãi mãi là người của anh ta, nào ngờ gậy ông giờ lại đập lưng ông…

                    Ngẫm ra Khuất Sỹ Hào quả là người khôn ngoan, có óc nhìn xa trông rộng. Khi phát hiện ra ngôi biệt thự của Vọng là một món mồi rất béo bở, nếu Vọng đi tản, Hào đã bàn cách dùng kế mỹ nhân để gài Xoan vào làm nội gián. "Em phải cưa bằng đổ ông Vọng. Với sắc đẹp của em, đến thép cũng phải chảy" - Hào giao nhiệm vụ cho Xoan. Tất cả mọi nỗ lực, động thái Hào giúp Vọng việc này, việc kia đều chỉ xoay quanh mục tiêu ngôi biệt thự. Bây giờ thì cả Xoan, cả Khuất Sỹ Hào đều trở thành người thân thiết của Vọng, của bà Cử Phúc. Thậm chí, trong thời gian Hào giúp bà Cử Phúc nhập hộ khẩu, anh ta cũng đã thuyết phục Vọng cho cả Xoan cùng nhập vào. Mọi đường đi nước bước đã được Hào tính toán chi ly. Chỉ chờ giờ G nữa thôi. "Mà giờ G trước sau cũng đến - Hào nói toạc với Xoan, khi biết tin mẹ con Miên đã sang Mỹ an toàn và gửi thư về - Anh biết, trước sau thì Vọng cũng phắn. Thứ nhất, Vọng là người chân chỉ hạt bột, đời chỉ biết phụng sự vợ con. Cái chất kẻ sỹ Bắc Hà, tôn thờ đạo Khổng trong Vọng rất rõ. Suốt đời Vọng chỉ mong là một công chức mẫn cán, mong một gia đình yên ấm, chung thuỷ đạo vợ chồng. Thứ hai, một trí thức như anh ta, từng làm đến chức Trưởng Ty Giao thông Công chánh, từng có bằng kỹ sư đặc hạng, tiếng Anh tiếng Pháp làu làu sách khoa học viết hàng chồng. Viết báo cáo tổng kết đến Cục trưởng, Bộ trưởng cũng phải kính nể, giờ đang là nhân viên quèn, lương cán sự hai, tương đương mấy chục bát phở.

                    Một người như vậy làm sao mà chịu được cung cách quản lý và trình độ khoa học của các quan chức cộng sản? Hai ý thức hệ tư tưởng, hai thể chế, hai cung cách… tất tật đều đối chọi nhau, loại trừ nhau. Hết chiến tranh ùng oàng súng đạn là cuộc chiến tranh về ý thức hệ, về đường lối phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Dẫu có là tướng sĩ tượng thì ông Vọng cũng đành thúc thủ vì những quân tốt đỏ đã áp sát. Thế cờ giờ chỉ còn là những nước đi ngang phè của những quân tốt. Cho nên, "Liệu mà cao chạy xa bay. Ái ân ta có ngần này mà thôi… Nếu là anh, dù có bỏ mạng cho cá rỉa ngoài đại dương, anh cũng good bye".

                    Khuất Sỹ Hào quả là đã nhìn thấu suốt tim gan Vọng. Nhưng, trớ trêu, càng tiếp xúc, gần gũi với Vọng, Xoan càng thấy bị cảm hoá, càng thấy giữa Vọng và Hào khác nhau một trời một vực. Hào chỉ là một tay dẻo mỏ, cơ hội tầm thường, còn Vọng thực sự là một nhân cách… Những ngày gần đây, nhiều lúc trông Vọng như người mất hồn. Xoan thấy thương anh. Giá mà bù đắp được cho Vọng! Ước gì Xoan giúp bà Cử Phúc giữ Vọng lại! Người như Vọng rất cần cho đất nước, rất có ích cho mọi người. Vọng bỏ nước ra đi thì tiếc biết bao…

                    Vọng choáng váng khi Xoan trong bộ đồ ngủ, cùng mùi sữa tắm White Care ngào ngạt vào phòng.

                    - Khó ngủ quá. Cho em nhờ quạt với.

                    Xoan nói và chiếu những tia mắt nồng nàn qua hàng mi rợp, khiến Vọng bối rối.

                    Vọng không dám nhìn lâu. Nhưng cái khoảng trắng ngần với một đường sâu hun hút của bộ ngực căng mọng phập phong, chỉ thoáng qua cũng đủ ám ảnh, làm rối trí. Đâu óc Vọng bỗng chao đảo, như người say rượu.

                    Từ hồi Miên đi, đêm nào Vọng cũng đọc kinh trước Chúa, ngày nào cũng tự sám hối. Cuộc sám hối mới nhất, cách đây chừng vài tháng. Ấy là cuộc tình đơn phương của Út Thương, em gái Ba Thi, bạn học của Miên. Cả nhà bỏ đi trong đợt 30 tháng Tư. Một mình Út Thương ở lại chăm ba đau ốm, không kịp di tản. Rồi ba Thương cũng phải đi trại cải tạo Giá Rai, Long Khánh. Thấy hoàn cảnh Út neo đơn, thỉnh thoảng Vọng lại đưa cô lên thăm nuôi ba. Không ngờ Út thương Vọng từ lúc nào. Có lần xe chạy qua rừng cao su tối mịt mùng, Út cứ ôm nết lấy Vọng, gục mặt lên vai anh mà khóc. "Anh Tư có thương em không? Hồi chị Miên ở nhà em giấu kín. Bây giờ chị đi em mới dám nói! Trời ơi, hoá ra Thương nói thật.

                    Thương từ chối bao nhiêu người đàn ông ngưỡng vọng cô. Thương bảo, em chỉ nghĩ đến anh thôi. Đến chỗ đường ngoặt, Thương ôm ghì lấy Vọng, bảo anh dừng xe, hai đứa tạt vào lô cao su. Chỉ cần dừng xe, chỉ cần lẫn vào mịt mùng cao su kia, Vọng sẽ không giữ nồi, sẽ không còn là của Miên nữa. Vọng đành nói thật với Út Thương cái ý định anh sẽ vượt biên. Anh muốn giữ mình trọn vẹn cho tới lúc gặp Miên… Út Thương khóc oà, nhất định không chịu ngồi xe với Vọng. Cô đòi anh đón một chiếc xe khách chở cô về thành phố.

                    Bây giờ, người vừa vào phòng anh là một Út Thương khác. Đã bao nhiêu lần Vọng phải lẩn tránh cái nhìn hút hồn của Xoan. Xoan luôn như miếng mỡ ngon lành, còn anh nhiều khi không giấu được bản tính của một chú mèo.

                    - Anh Vọng hứa mấy lần rồi mà không chịu nhớ - Xoan đến bên bàn, nơi Vọng đang dịch một tài liệu tiếng Anh.

                    - Tôi hứa gì nhỉ?

                    - Biết ngay mà. Còn đầu óc đâu để nghĩ đến em?

                    Xoan đứng sát sau ghế, người hơi cúi xuống Vọng. Anh cảm nhận rất rõ những sợi tóc mai, hơi thở nồng nàn của cô đang phả vào gáy, còn cặp tuyết lê như chùm trái chín đang đung đưa sau vai anh, có lúc chạm vào da thịt anh, nóng bỏng.

                    - Không nhớ ra à? Em nhắc lại nhé: Dạy-em-tiếng-anh. Tiếng-của-anh.

                    Xoan cười, tiếng trong và ngân, như tiếng chuông gió. Rồi bất ngờ vòng tay ngà ngọc quàng qua ngực Vọng.

                    - Em đố anh nhé. Love You tiếng Anh là gì?

                    Vòng tay và khuôn ngực Xoan khiến Vọng như ngợp thở.

                    Anh bối rối xoay chiếc ghế. Cả gương mặt nóng bừng của anh đỡ gọn hai bầu vú Xoan lúc này đã thoát khỏi hai vạt áo ngủ, như hai trái đào tiên trĩu nặng. Quá choáng ngợp, cùng với ham muốn bản năng bị kìm nén lâu ngày, Vọng cuống cuồng luồn tay ôm lấy vòng eo người đàn bà xiết mạnh.

                    - Ối em chết mất - Tiếng rên khẽ của Xoan, chứng tỏ nàng đang bị kích thích mạnh.

                    Xoan đỡ Vọng lên, giúp anh dịch đến bên giường.

                    Giá như Xoan không vươn tay tắt đèn, giá như cô không có cái bản năng e thẹn, sợ ánh sáng quá mức trong các cuộc hoan lạc, chắc chắn tình thế đã khác. Nhưng đúng vào lúc Xoan tắt đèn thì Vọng bừng tỉnh. Ngọn đèn trái hồng trên ban thờ làm nổi hình cây thập tự và hình Chúa tuẫn nạn, khiến Vọng toát hết mồ hôi.

                    - Xin lỗi, tôi đang làm gì thế này? - Vọng như nói với chính mình và ngồi vục dậy.

                    Hết trò. Xoan buông xuôi hai tay như người chết đứng. Rồi như không thể chịu nồi, cô bưng mặt, bật khóc, chạy ra khỏi phòng.

                    ***

                    Có thư của Cục viết vào báo tin cháu Cách bị thương ở mặt trận Campuchia, đang nằm điều trị ở bệnh viện Quân y 147.

                    Vọng, rồi cả bà Cử Phúc, cả Xoan cùng đến thăm. Hằng tuần tranh thủ những ngày nghỉ, Vọng lại vào thăm, tiếp tế thêm thuốc bổ và thức ăn cho cháu.

                    Vết thương của Cách ở phần mềm, đạn xiên táo từ vai, qua ổ ngực, xé nát cánh tay phải. Theo các bác sĩ, với sức trẻ như Cách, chỉ cần bốn tháng, vết thương sẽ lành, lại có thể trở lại chiến trường.

                    Cục viết thư cho Vọng:

                    "Em nghe binh tình, mặt trận K không biết đến khi nào mới xong. Nghe ông tướng thông gia với nhà bác Lợi nói, quân mình thương vong nhiều vì thiếu lương thực, đạn dược, lại không nắm được dân. Mình ở trong nhà họ, đóng quân gần nhà họ, ban ngày họ hợp tác với mình, nhưng tối họ lại ra rừng tiếp tế cho quân Khơme đỏ, cầm súng bắn mình. Cháu Cách bị thương là do bị bắn lén phía sau. Chơi với chiến tranh du kích của họ, mình không thắng được. May mà cháu Cách bị thương, coi như thoát chết. Em nhờ bác, quan hệ với bệnh viện cho cháu Cách nó cái giấy thương binh nặng để cháu về quê. Thằng Công, thằng Cài, hai anh nó đã mất xác ở Trường Sơn rồi, giờ còn một giọt máu của Bính… Cháu Cách mà mệnh hệ nào, em làm sao sống nổi?"

                    Cuộc chiến Campuchia ác liệt thế nào thì Vọng quá biết. Anh đã được phân công trong ban kỹ thuật tái thiết cầu Gò Dầu Hạ trên quốc lộ 20 để mở đường cho xe tăng ta tiến vào Phnômpênh. Hầu như toàn bộ vũ khí tối tân hiện đại của phe ta, cộng thêm vũ khí hiện đại của Mỹ ta thu được đều đem sang chiến trường Campuchia, nhưng xem ra chúng ta đang đấm vào bị bông, chúng ta đang đánh nhau với những bóng ma.

                    Lá thư của Cục, làm Vọng rất khó nghĩ. Nếu là tiền bạc thì dù thế nào anh vẫn lo được. Nhưng đây lại là cái giấy chứng thương. Sức khoẻ thằng Cách thế nào, nó bày ra bệnh án cả. Làm sao công biến thành quạ được?

                    Bí quá, Vọng đành nói với Khuất Sỹ Hào.

                    - Cháu nó đang ở bệnh viện 147 phải không? - Hào chau mày suy nghĩ một lát rồi gật gù - Em có cách rồi. Cô Xoan có người anh họ là bác sĩ ngoại ở đó. Vấn đề là… - Hào bật ngón tay cái vào ngón giữa tanh tách.

                    - Cái đó để tôi lo - Vọng dúi vào tay Hào ba lá vàng Kim Thành - Nếu thiếu thì tôi lo tiếp.

                    Ngày Cách sắp ra viện, Vọng viết thư báo tin cho Cục bảo Cục vào đón con về phép. Vọng sẽ tài trợ toàn bộ vé tàu xe của cả hai bố con.

                    Chuyến hành phương nam của Cục, không ngờ lại là một cuộc đại đoàn viên của chi họ Nguyễn Kỳ tại Sài Gòn.

                    Nếu như buổi giỗ ông Lý Phúc và cuộc nhận cha ở nhà ông Lợi chỉ thiếu bà Cử Phúc và Vọng thì cuộc đoàn viên này chỉ thiếu vợ chồng con cái Vỹ.

                    Cục vào được mấy ngày, thì vợ chồng ông Lợi cùng con gái Chiến Huyền Ly cũng đáp máy bay vào thành phố. Hiếm có một cuộc trùng hợp thế này, vì ông Lợi phụ trách công tác cải tạo công thương nghiệp đợt hai, đáp máy bay ra vào như cơm bữa. Nhưng bà Là phải thu xếp phép năm. Với lại cũng chọn dịp nghỉ lễ mới cho con gái Chiến Huyền Ly theo cùng.

                    Ngôi biệt thự suốt mấy năm đìu hiu, giờ bỗng tưng bừng như mở hội. Mẹ con Là được xếp ở căn phòng cũ của Miên trên lầu một, nên từ ngày vợ đi di tản, Vọng ít khi lui tới, vì không muốn chạm đến những kỷ niệm xưa. Ông Lợi ở và làm việc tại nhà khách thành phố, buổi tối và ngày chủ nhật thường đến ăn cơm với cả nhà. Vẫn một phong cách trầm mặc, lạnh lùng của nhà chính trị, ông Lợi thường hay trầm ngâm đứng trên ban công lầu hai nhìn khắp khu vườn, rồi phóng tầm mắt qua những nóc phố, nghĩ ngợi. Là có vẻ cũng chia sẻ ý nghĩ với chồng. Chị thích thú đặc biệt với ngôi biệt thự, vì cách xây dựng và bài trí hiện đại.

                    - Vợ chồng chú Vọng ngày trước sống sướng hơn cả Bộ trưởng ấy bà ạ - Là thì thào với bà Cử Phúc - Ngôi biệt thự này to gấp hai nhà con. Riêng cái nhà xe của chú ấy cũng đủ cho một hộ năm người.

                    - Chẳng có đâu bằng quê mình - Bà Cử Phúc chép miệng - Đợt này tôi nhất quyết theo bố con thằng Cách về quê. Nhà cửa bố Vọng nhờ cô Xoan trông nom.

                    - Bà bảo định tác thành cô ấy cho chú Vọng phải không? Con thấy được đấy. Bà dặn chú ấy đừng có di tản di tong gì hết. Sang Mỹ cũng chỉ ăn cơm thừa sữa cặn, làm nô lệ cho Đế quốc sài lang. Nhà con bảo, Liên Xô, Đông Đức với các nước bạn phe mình đang sắp hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ nghĩa xã hội phát triển. Rồi cả phe người ta xúm vào kéo mình lên vù vù ấy chứ. Nhà con bảo, con đường ai thắng ai sắp ngã ngũ rồi. Đế quốc Mỹ trước sau vẫn là con hổ giấy. Để con khuyên chú ấy. Cứ để mẹ con thím Miên ở bên ấy. Cưới ngay cô Xoan thì còn kịp đẻ một thằng cu.

                    Bà Cử Phúc nói thầm với Cách:

                    - Bà cứ chuẩn bị quần áo đồ đạc trước. Nếu bác Vọng không cho bà về với bố con mày, bà sẽ trốn…

                    Cách đã ra viện, được về với người thân, như chim sổ lồng suốt ngày rủ chị Ly lai bố Cục, mẹ Là đi chơi khắp Sài Gòn.

                    Cách béo trắng, như chưa hề qua những ngày thập tử nhất sinh, chưa hề nếm mùi lửa đạn. Giấy chứng thương của cậu ghi mất 34 phần trăm sức khoẻ, nếu đối chiếu thang bậc, thượng sĩ Nguyễn Kỳ Cách sẽ được xếp hạng thương binh loại ba.

                    Cầm hồ sơ xuất viện, Cục gật gù:

                    - Thế này thì ổn rồi. Cái gáo của thằng Cách chắc trên cổ còn hơn cả bê tông cốt thép. Chuyến này về, em phải cưới vợ cho nó. Bác Vọng thế nào cũng phải ra.

                    Vọng không nói gì, chỉ gật đầu ra hiệu.

                    Cục làm sao biết được để có cái giấy chứng thương kia Vọng đã phải đưa cho Khuất Sỹ Hào hai cây vàng Kim Thành.

                    Cục càng không thể biết rằng, không cần đợi đến đám cưới Cách, chỉ sau khi đưa bà Cử Phúc, mẹ con chị Là và bố con Cục về Bắc, Vọng sẽ ra đi vĩnh viễn. Có thể sẽ không bao giờ gặp lại…

                    ***

                    Kế hoạch vượt biên đã được Vọng ngấm ngầm chuẩn bị từ hai tuần nay.

                    Đầu mối và đường dây, không phải ai xa lạ, chính là Khuất Sỹ Hào.

                    Câu chuyện bắt đầu từ sau cái hôm Hào thông báo cho Vọng hay tin lãnh đạo Cục đã quyết định cử anh đi Campuchia làm cố vấn. Đây là một thử thách lòng trung thành với chế độ. Không phải ở thủ đô Phnompênh mà về các tỉnh, các vùng chiến sự ác liệt. Hơn bất cứ ngành nào, cầu đường và y tế là hai ngành luôn ở sát mặt trận, bên cạnh người lính. Vì thế mức độ ác liệt sẽ vô cùng.

                    - Anh hãy suy nghĩ kỹ đi - Hào nói - Rất thương anh, em mới báo tin này. Chỉ còn chờ ý kiến họp liên tịch. Vì người ta chưa tin anh, sợ anh sang bên đó rồi chuồn qua Mỹ.

                    - Tôi cũng chẳng biết phải làm gì để họ tin mình…

                    Hào nhìn Vọng rất lâu như thăm dò, cân nhắc điều gì, rồi đột ngột hạ giọng:

                    - Sang đó cũng cầm bằng đi vào chỗ chết. Chín đi chỉ có một về. Quân Khơme Đỏ mới được quan thầy trang bị cho loại súng bắn tia hồng ngoại, trăm phát trăm trúng. Chúng toàn bắn tỉa vào ban đêm. Anh cân nhắc kỹ đi. Đi Cămpuchia hay ở lại, với anh, đều bị dồn vào tử địa. Em biết đã đến lúc anh ói mửa ra rồi. Chính quyền cộng sản không xực nổi anh. Và anh cũng không xực được họ. Trong trường hợp này, binh pháp Tôn Tử xếp vào kế sách thứ ba mươi sáu: "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn.

                    Vọng giật mình. Hào nhắc lại đúng câu Võ An Thới nói với anh trước ngày di tản.

                    - Chú bảo chuồn đi đâu?

                    - Ông anh đừng giấu thằng em. Mình ông anh ở nước Ngô, nhưng đầu ông anh lúc nào cũng ở nước Sở. Ngày nào mà anh chẳng cầu Chúa để mong chóng được sang với mẹ con chị Miên.

                    - Chết. Sao chú biết?

                    - Ông anh hơi coi thường Sỹ Hào này. Biết là ông anh còn chưa tin nên thằng em chưa tiện nói. Giờ em hỏi thẳng anh nhé. Có đường dây bán công khai chịu trách nhiệm toàn bộ từ A tới Z, khi nào chuyến đi trót lọt mới lấy tiền, anh có ưng không?

                    Gần đây Vọng có nghe nói về đường dây di tản bán công khai, thực chất là những tổ chức làm tiền do một số phần tử trong bộ máy chính quyền… thoái hoá biến chất, đứng ra bảo kê và làm dịch vụ đưa người vượt biên. Đi theo đường dây này, chắc chắn sẽ lọt qua phao số không. Từ hải phận quốc tế, tuỳ thuộc vào định mệnh. Nếu tàu không đắm vì bão tố, không bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc, may ra tới được miền đất hứa.

                    - Tôi tin ở chú. Nếu chú thu xếp được…

                    - Phải chắc như đinh đóng cột, thằng em mới nói với ông anh.

                    - Vậy nhờ chú thu xếp cho tôi một suất. Hết bao nhiêu?

                    - Giúp cho ông anh đi được là em mừng, chứ tiền nong không thành vấn đề. Nhưng sao chỉ một suất? Thế còn bà cụ?

                    - Làm sao mà đưa u tôi đi được? Tạm thời bà cụ sẽ ở lại với cháu Cách. Rồi Cách sẽ đưa u tôi về Bắc.

                    - Tốt rồi - Hào gật gù - Em sẽ bảo cô Xoan đến trông nom bà cụ. Anh cho em dự kiến thời gian đi, để em bố trí.

                    Kế hoạch được nhanh chóng hoàn tất. Chi phí cho cả chuyến đi hết hai mươi cây vàng ba sọc. Nhưng Hào sẽ chỉ lấy trước năm cây, mười lăm cây còn lại sẽ được thay vào giấy tờ thế chấp ngôi biệt thự của Vọng. Nếu cuộc đi bị trục trặc hoặc Vọng bị bắt lại, Hào sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền, vàng và mọi giấy tờ

                    Lịch trình cho chuyến vượt biên đã được gút lại vào giờ chót: Vọng phải có mặt tại bến Cửa Cạn, thành phố Vũng Tàu lúc 0 giờ ngày X. Quá giờ quy định, coi như Vọng tự huỷ chuyến đi, phía tổ chức không chịu trách nhiệm.

                    0 giờ ngày X, tức là 24 giờ ngày Y, ngày bà Cử Phúc và bố con Cục lên tàu ở ga Bình Triệu, lên đường ra Bắc.

                    Trái với dự đoán của bà Cử Phúc, Vọng dễ dàng đồng ý để mẹ về quê.

                    - U không muốn ở, con cũng không dám giữ. Số con chỉ được phụng dưỡng u ngần ấy ngày.

                    - U đã nói với cô Xoan rồi. Con đồng ý để cô ấy đến ở trông nom nhà cửa cho con nhé. Nhớ nghe lời u. Có thế u về quê mới yên lòng.

                    Vọng gật đầu không nói gì.

                    Anh gọi hai bố con Cục vào phòng, đóng chặt cửa lại, rồi lấy ra một gói đã được chằng buộc rất kỹ.

                    Gói này bác giao cho thằng Cách giữ. Để trong ba lô và trông nom kỹ không được để mất cắp trên tàu. Đây là nhiệm vụ không kém gì sứ mạng một người lính. Trong gói này có thư chuyển cho bác Vỹ và mọi người. Chú Cục sẽ trực tiếp mở và làm theo lời tôi dặn. Tôi nhắc lại: Tuyệt đối không được mở thư trên tàu hoặc dọc đường. Chỉ mở thư khi đã về tới nhà. Chú Cục và cháu Cách đã nghe rõ chưa?

                    Cục cùng con trai khoanh hai tay:

                    - Dạ, bố con em sẽ làm đúng như lời bác dặn.

                    Vọng xếp gói đồ vào đáy ba lô của Cách.

                    Trước giờ tàu chạy, Vọng thuê xe taxi. Đích thân anh đưa mẹ và bố con Cục ra ga Bình Triệu.

                    Đó là một cuộc chia ly đẫm nước mắt. Một buổi sáng nắng loá và oi bức đến ngột ngạt. Nắng đến mức những chùm hoa giấy chói gắt và những vầng phượng vĩ như lửa, không ai dám nhìn.

                    Tiếng còi tàu hú dài nghe thê lương như tiếng kêu vĩnh biệt. Con tàu đi khuất mà Vọng vẫn đứng giữa sân ga như người mất hồn.

                    Lát sau, Vọng như bừng tỉnh. Anh chắp tay vái dài về phương Bắc, rồi vội vã khoác túi du lịch, hành trang của kẻ vượt biển, lên vai.

                    Một chiếc taxi trườn tới. Vọng tự mở cửa xe và bảo người tài xế chạy thẳng Vũng Tàu.

                    Còn mười lăm tiếng nữa.

                    Thời gian đủ cho anh có mặt ở nơi tập kết.

                    Ngày mai, Vọng phó mặc cuộc đời mình cho mù mịt đại dương.


                    Chương 25

                    Vàng và giấy



                    Con Cục đưa bà Cử Phúc về quê rồi mà mấy hôm sau vẫn chưa kịp hoàn hồn vì chuyến tàu khủng khiếp.

                    Con tàu Thống Nhất phải dừng lại ga Mường Mán một ngày vì tàu vào trật bánh ở gần ga Diêu Trì, gây ùn tắc cả tuyến. Như cuộc trường chinh không mệt mỏi, những chuyến tàu ra vẫn kìn kìn chở gạo, hoa quả, vải vóc, nước mắm, bột ngọt, khung xe đạp, hàng điện tử phế thải và búp bê… Ba chuyến tàu ra nối đuôi nhau chờ đợi suốt từ Nha Trang vào đến Phan Thiết. Sự nghèo khổ, thiếu thốn của nửa nước phía bắc không giấu giếm nổi trên tuyến đường sắt xuyên Việt.

                    Sân ga Mường Mán trở thành một bãi phóng uế khổng lồ, một cái chợ tạm vĩ đại với đủ loại dịch vụ từ ăn uống, tắm rửa, trao đổi, buôn bán, chửi bới, cãi lộn. Trẻ con kêu khóc như ri. Đủ thứ rác rưởi, giấy báo, đồ lót vứt đầy sân ga, đường ray. Nước đái dềnh lên từng vũng. Phân người vung vãi khắp nơi. Mùi dơ dáy phải đào thải của cả ngàn con người dồn tụ trong một không gian tù hãm chật hẹp… Bà Cử Phúc mấy lần suýt ngất xỉu vì khát, vì cố nhịn không dám đại tiểu tiện, cuối cùng không đừng được, đã phịch hết ra quần. Bố con Cục vừa phải giải quyết hậu quả, vừa phân công nhau canh chiếc ba lô, hai đêm liền không dám ngủ. Nhiều người réo trưởng tàu, réo lãnh đạo đường sắt chửi rủa thậm tệ. Có ông chửi thề: "Đ. mẹ. Tàu Thống Nhất đéo gì. Ông mà còn đi con tàu này nữa thì ông chỉ là con chó".

                    Về đến Hà Nội mới biết mình vẫn còn là người. Trong thời gian ở chơi ba ngày với vợ chồng bác Vỹ, mấy lần Cách năn nỉ nói với bố được mở gói bọc của bác Vọng, nhưng Cục không nghe. Chỉ đến khi về đến nhà, hai bố con mới vào buồng, đóng chặt cửa, rồi hệt như cha con Quan Công thời Tam quốc, đến Phàn Thành mới mở bọc hồ lô của Khổng Minh xem Gia Cát Lượng dặn gì.

                    Hai bố con cùng toá hết mồ hôi. Những lá vàng hình chữ nhật nhỏ chừng bao diêm, chói loá, tưởng như trong mơ.

                    Cách thì thào:

                    - Hồi bên Cămpuchia, con cũng thấy anh trung đội trưởng đơn vị có những miếng vàng lá thế này. Anh ấy lấy trong ruột tượng Phật ở một ngôi chùa. Hôm sau anh ấy lại vào một ngôi chùa khác, nhưng không thấy ra. Nghe nói bọn Khơme Đỏ đã chặt đầu anh, lấy lại số vàng. Người ta bảo, nhặt được vàng là độc lắm.

                    - Vàng này khác. Đây là mồ hôi nước mắt của bác Vọng. Cả đời bác Vọng chỉ biết học hành, đỗ đạt. Người tài như bác Vọng trong ngành giao thông cầu đường nước ta chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngày trước, lương một tháng của bác ấy hàng chục cây vàng. Một vài năm là đủ sắm xe hơi nhà lầu. Con đọc thư xem bác Vọng dặn thế nào.

                    Cục đưa cho Cách lá thư của Vọng kẹp giữa những lá vàng.

                    "U vô vàn kính yêu.

                    Các anh chị Khôi, Vỹ, chú thím Quặc và các cháu thương mến.

                    Khi u và đại gia đình ta đọc lá thư này, thì con trai của u, đứa con bất hiếu, vong bàn của chi họ Nguyễn Kỳ, đang lênh đênh trên biển cả. Biết đâu, đây là cuộc vĩnh biệt. Nếu số phận run rủi, có thể Vọng sẽ sống sót. Bằng không thì coi như Vọng đã làm mồi cho cá biển. Và ngày ra đi sẽ là ngày giỗ".

                    Đọc mấy dòng, Cách đã cắn phải lưỡi đau điếng. Anh dừng lại gọi với ra nhà ngoài:

                    - Bà ơi…

                    Nhưng Cục đã lấy tay bịt miệng con lại.

                    - Đừng. Bà không chịu nổi đâu. Phải giữ kín chuyện này. Con đọc tiếp đi.

                    "Số vàng này do vợ chồng con mấy chục năm dành dụm. Nay gửi u hai cây để u an dưỡng tuổi già. Con gửi ba gia đình anh Khôi, chị Là, anh Vỹ chị Khiêm, chú Quặc thím Nhi, mỗi gia đình một cây. Riêng em Hậu một cây. Còn lại, mẹ nói chú Cục giữ để chuộc lại phần đất và nhà của Nguyễn Kỳ Viên mà các gia đình bần cố nông đã tịch thu hồi cải cách. Nếu vẫn còn tiền thì xây mộ cho thầy và sửa sang lại nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ… "

                    ***

                    Người đầu tiên không kịp hưởng số vàng của Vọng để lại là bà Cử Phúc. Biết tin con trai vượt biên, bà bỏ ăn ba ngày, ốm liệt giường ba tuân, rồi mất.

                    Đợi hết trăm ngày bà Cử Phúc, vợ chồng Cục mới đưa lá thư và số vàng ra báo cáo với vợ chồng bác Lợi bác Vỹ.

                    Ông Lợi gạt phắt, không thèm nhận cây vàng Vọng gửi tặng. Việc Vọng vượt biên là một cú đòn đau điếng giáng xuống sự nghiệp chính trị của Lợi. Vừa thoát khỏi vụ đơn thư khiếu tố chuyện mẹ con bà Cam, Chu, giờ lại phải tường trình báo cáo với Trung ương về Vọng. Có kẻ kiếm chuyện còn vu cho ông xui em trai vượt biên để chiếm ngôi biệt thự. Có kẻ vu cho Vọng mang theo nhiều tài liệu mật về hệ thống cầu đường miền Nam để bán cho Mỹ… Ông Lợi căm Vọng, nhiều đêm nằm không ngủ, khí uất rực tràn ruột. Bà Cử mất, ông về cho phải phép, chứ ông đã chán ngấy phải dính líu đến mấy ông con bà vợ hai của bố ông đến tận cổ.

                    Vỹ cầm lá vàng giơ lên ngắm nghía rất lâu, cái mặt phù thũng đần ra, tựa như lần đầu trong đời ông nhìn thấy thứ kim loại kì lạ, rồi không nói gì, đưa lại cho Cục.

                    - Vợ chồng chúng tôi coi như đã nhận - Khiêm hiểu được ý chồng, diễn giải - Chú thím cầm lấy để xây mộ cho thầy u.

                    Cục nhìn cái đầu hói, mấy sợi tóc lơ phơ bết xuống trán khiến khuôn mặt Vỹ vốn đã bung bủng vàng thêm bì bì một vẻ đần độn, nghĩ thương ông anh trai đến thắt lòng. Hoàn cảnh gia đình Vỹ so với vợ chồng Cục, còn khó khăn hơn nhiều. Vỹ không còn đủ sức làm việc, phải về chế độ một cục. Nghe nói cũng là nhờ công bác Lợi với mấy nhà văn bạn bè, chứ diện chống đối, phản động, phải đi cải tạo như Vỹ, không mất quyền công dân, lại được tính thâm niên công tác để hưởng tiền về mất sức, là nhà nước quá ưu ái, nhân đạo. Lại nhớ cái hôm bố con Cục đưa bà Cử Phúc từ Sài Gòn ra. Bà cụ Ba Yên đang ngồi gò tấm lưng còng xuống cái mẹt bày dăm đôi dép nhựa, đáng giá nhất là đôi dép nhựa trắng Tiền Phong, thấy có tiếng chân người, Cách lại mặc quân phục, bà cụ cứ tưởng công an thuế vụ đuổi, liền quáng quàng vơ mấy đôi dép chạy, vấp ngã, máu me đầy mặt. Khổ, lưng còng, tai điếc mà cụ Ba Yên vẫn tham công tiếc việc. Bà cụ có trợ cấp liệt sĩ của cậu Khánh, nhưng thương vợ chồng Khiêm và hai đứa cháu, vẫn muốn buôn bán nhì nhằng kiếm thêm đồng rau, quả trứng. Đến khi vào tới nhà, nhìn ông Vỹ đang nửa nằm sấp, nửa quì lom khom trước một cái mông thâm xì, mụn ghẻ như hoa gấm của một bệnh nhân trĩ, bà Cử bỗng khóc rống lên. Từ ngày Vỹ đi cải tạo về, bây giờ mẹ con mới gặp nhau. Bà Cử ôm chầm lấy con trai, không thể nhận ra cái bộ mặt phù thũng lơ phơ tóc, cái đôi mắt với đôi con ngươi bạc phếch đờ đẫn kia lại là cậu hai Vỹ thông minh đĩnh ngộ của bà. "Ối con ơi, vì sao ra nông nỗi này"? Tiếng kêu của bà Cử làm bố con Cục cũng khóc theo.

                    - Nhà em chỉ biết chuyển quà của bác Vọng - Nhi kiên quyết dúi cây vàng vào tay Khiêm - Các bác không cầm, chúng em có tội với bác Vọng.

                    - Tôi với nhà tôi coi như đã nhận rồi. Đây là chúng tôi góp để xây mộ thầy u với sửa sang nhà thờ - Khiêm còn kiên quyết hơn. Cái máu sỹ tiểu tư sản trí thức của vợ chồng Khiêm làm sao Cục lay chuyển nổi.

                    - Đến chán cho vợ chồng hai ông anh - Nhi nói với Cục khi cánh Hà Nội đã về - Chuyện gia đình mà các ông bà ấy cứ khoán trắng cho vợ chồng mình. Đã thế để tôi lo. Tôi sẽ chuộc lại hết phần đất và nhà cũ của thầy u, còn bao nhiêu đổi thành tiền gửi tiết kiệm. Đợi khi nào bác Vọng về, bác ấy khắc xây!

                    - Bác Vọng làm mồi cho cá biển rồi - Cục nói như thở hắt ra.

                    - Phỉ phui cái mồm nhà ông. Ai bảo ông thế?

                    Cục vào lục ngăn tủ, lấy ra một tờ báo nhàu nát, đưa cho Nhi.

                    - Báo này bác Là mang về cho tôi đấy. Công an người ta gặp bác Lợi xác nhận con tàu đăng trên báo là tàu vượt biên của bác Vọng. Đúng cái hôm bố con tôi và bà kẹt tàu hoả ở ga Mường Mán. Thảo nào hôm ấy bà thì ngất, miệng nôn trôn tháo, còn tôi thì máy mắt liên tục. Con tàu của bác Vọng vượt biên từ Vũng Tàu, ra đến hải phận quốc tế thì bị bọn hải tặc trực sẵn, xông lên tàu cướp của. Chúng quẳng hết trẻ con người già xuống biển, giết hết đàn ông, thi nhau hãm hiếp đàn bà con gái.

                    - Khiếp quá ông làm tôi sởn hết da gà…

                    - Thì báo người ta viết thế. Tôi bịa thế nào được.

                    - Thế còn cái nhà? To vật vã ba bốn tầng như thế, giờ ai ở?

                    - Bác Là bảo, sau khi biết bác Vọng vượt biên, bác Lợi phải bay vào ngay. Hoá ra tay Hào với cô Xoan bàn nhau lừa bác Vọng để chiếm ngôi biệt thự. Tôi biết hai người này. Ngày bà ở trong ấy cứ thì thụt đến, anh em, mẹ con, ngọt xớt. Bà muốn bác Vọng lấy cô Xoan để khỏi vượt biên. Nhưng tôi liếc mắt thấy ngay ông Hào với cô Xoan có tình ý với nhau. Tôi chỉ lo bác Vọng nhà mình bị ăn quả lừa. Y như rằng họ đã nhắm ngôi nhà bác Vọng từ lâu…

                    - Thế bác Lợi chịu để yên à? Chức vụ quyền hành như bác ấy đời nào chịu để mất ngôi nhà?

                    - Thì bác Lợi đã bay vào giải quyết…Trong họ nhà mình, còn ai có chức quyền, lại khôn ngoan lọc lõi, bằng bác Lợi?

                    - Thôi, mẹ cái Đất cứ lo cho tôi chuyện đất cát từ đường như bác Vọng đã dặn. Vạn nhất mà bác Vọng xấu số không về thì vong linh bác cũng phù hộ cho…

                    Rất may, vào đúng dịp ấy, làng Động có một chiến dịch di dân tự do vào vùng cao su Sông Bé và vùng cà phê Lâm Đồng.

                    Lần đầu tiên, nhiều người làng Động nhận ra cái làng của họ quá chật. Xưa kia, cáo chết ba năm còn quay đầu về núi. Người làng Động dù đi đông đi tây, nửa đời, hoặc cuối đời vẫn bằng mọi cách tìm về làng, sửa lại nếp nhà, chăm tiếp mảnh vườn, rồi chí thú sống với chúng, chết với chúng. Nhưng đến đận này thì khác hẳn. Sau những trận đói vàng mắt, những vụ thu hoạch của hợp tác xã mà người đi quét lúa rơi, đi mót lúa sót, nhiều hơn cả người đi gặt, người ta chán ngấy ruộng đồng, bỏ đi buôn, bỏ ra Hà Nội làm người ở, phu hồ, buôn ve chai… Vụ Chỉ thị 100, cho nông nghiệp cả nước khoán sản phẩm, kéo được vài gia đình trở về. Nhưng nhận dăm sào ruộng khoán, cũng cầm bằng như làm thuê. Trừ công cày bừa, giống, phân, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi phí, thuế nông nghiệp, tiền cho ban quản trị đãi khách, họp hành… mỗi sào còn được đăm chục cân. Rõ là ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai. Cá năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà cái bồ vẫn trống rỗng.

                    Thế nên nói như Ngạnh Vẩu: Tam thập lục kế, tấu vi thương sách. Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn. Cái anh chàng nhà quê một cục mà giờ học được ở đâu ba chữ Hán, ra ve thâm nho. Lại chuồn ngay chính trên quê hương mình, mới ngược mớ đời.

                    Số là Ngạnh Vẩu, sau mấy năm đi bộ đội, về phục viên, được cơ cấu làm chủ nhiệm hợp tác xã. Vụ làng Động khoán chui năm 1979, do Ngạnh Vẩu chỉ đạo, bị đài báo phanh phui, cả bộ sậu lãnh đạo địa phương, trong đó có cả Nguyễn Kỳ Quặc, phó chủ nhiệm phụ trách chăn nuôi, bị huyện kỷ luật.

                    Chán quá, Ngạnh Vẩu bỏ làng vào Sông Bé chơi với một người bạn trước cùng quân ngũ, nay đang làm công đoàn nông trường cao su Phú Riềng. Hai tháng sau Ngạnh trở về quê, bán thốc bán tháo nhà cửa vườn tược, đưa vợ con vào Phước Long lập nghiệp.

                    Ngạnh tuyên bố xanh rì: "Thì ra, ngày học phổ thông mình từng nghe: Cao su đi dễ khó về. Khi đi trai tráng khi về bủng beo… Rồi, Bán thân đổi lấy đồng xu. Thịt xương vùi xác cao su mấy tầng… Toàn là lối tuyên truyền lấy được. Ngày xưa thì ở đâu chẳng sốt rét, thương hàn? Cánh thợ xẻ làng Động chết vì ngã nước trên Võ Nhai, Đại Từ hàng đống đấy thôi. Lử khử lừ khừ, chẳng Đại Từ thì cũng Võ Nhai, là gì? Trong Sông Bé cơ man nào là đất. Làm ba tháng, sống cả năm. Dễ sống bằng vạn cái làng Động nhà mình. Mười ba gia đình, bỏ làng theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé.

                    Tám gia đình khác theo Cu Sộp vào Lâm Đồng. Vợ chồng, con cái từng dây từng đống, chồng ba lô, bao tải, vợ tay nải, quang sọt, con cái đứa lớn cõng đứa bé, đứa choai choai dắt đứa nhỏ, lũ lượt kéo nhau ra ga Hàng Cỏ theo tàu vào Nam.

                    Cả một góc xóm Thượng kéo đi hết. Sáu bẩy nhà liền kề đóng cửa im ỉm, để vườn hoang cho chó ỉa, rêu, cỏ mọc vào tận cửa nhà Các xóm khác, lỗ chỗ từng khoảnh, từng chòm, vườn không nhà trống. Nhà Hiển Hồng, bốn đứa con gái, đứa nào cũng học giỏi, bị bố mẹ bắt nghỉ học để đi Sông Bé, chị em ôm nhau khóc như ri. Vợ chồng nhà Hoán Bang, nhà ngói, sân trị bể cạn đề huề, cũng bỏ lại cho ông bố già và thằng em tật nguyền, dắt ba đứa con ra ga Hàng Cỏ. Cứ dắt díu nhau đi kiếm ăn cái đã. Vài ba năm, dăm bẩy năm, khấm khá thì ở lại khó khăn thì lại về quê theo đít con trâu, bám sào ruộng hợp tác.

                    Bị Ngạnh Vẩu thuyết phục, Ngộc, tức Lưu Bích Ngọc, cậu em trai đa tình, đa dâm của Ngạnh, chuyên gia uống rượu pha mủ xương rồng làm cho huyết áp tăng vọt mỗi lần đi khám tuyển bộ đội, cũng nổi máu ly hương. Cùng đi bộ đội với Cải một đợt, Ngộc được phân vào bộ đội cao xạ tỉnh, đánh nhau đúng một trận với máy bay Mỹ thì hiệp định Paris được ký kết. Vậy mà không hiểu sao, khi xuất ngũ, Ngộc cũng có được cái giấy chứng nhận thương binh loại bốn, được hưởng trợ cấp hằng tháng. Ngộc về làng, ngựa (thực ra là dê) quen đường cũ, người đàn bà đầu tiên mà anh muốn ngủ là Nhi.

                    Nhi, Nhài, Lành…, những vợ bộ đội ngày trước từng ngủ với Ngộc, thậm chí Nhi còn có thai với Ngộc, luôn gợi cho Ngộc nỗi thèm khát một thời.

                    - Tôi không thể quên được Nhi. Đêm ngủ, cứ nghĩ đến Nhi là thèm nhỏ dãi… - Một lần nhân lúc Cục đi vắng, Ngộc sang nhà, vỗ vào cái mông cong tớn, nần nẫn như mông nái xề của Nhi, giọng sàm sỡ.

                    - Nghiêm cấm đấy nhớ - Nhi quay ngoắt, trừng mắt cảnh cáo Ngộc - Này, tôi nói thật nhớ. Ông Cục nhà tôi lấy đĩ về làm vợ chứ không lấy vợ về làm đĩ đâu mà tưởng bở.

                    - Nhưng mà ông Cục bằng thế nào được Lưu Bích Ngọc này…

                    - Ối giời ôi! Làm sao bì phấn với vôi. Bì l. con đĩ với môi anh thợ kèn. Này, tôi bảo thật nhé. Anh chỉ đáng xách dép cho ông Cục nhà tôi. Với lại ông Cục không phải là cái loại đàn ông dễ để cho vợ ngứa nghề. Hãy chôn chuyện cũ đi. Di xuống đất rồi vứt vào chuồng xí. Đừng có đụng vào con dâu nhà họ Nguyễn Kỳ. Thằng Cách, thằng Tác nó thì lấy dao rạch mặt.

                    - Khiếp! Nói mà phát hãi… Nhưng nhớ không chịu được… Hay là… bắn súng không nên thì đền đạn…

                    - Nói thế thì được - Nhi hạ hoả. Nghĩ ngợi một lúc rồi bảo - Hãy gọi tôi bằng dì tôi sẽ gả con Ruộng cho.

                    - Thật không? Dì Nhi gả Ruộng cho tôi nhé… Mắt Ngộc sáng quắc. Ngộc không ngờ mấy năm đi bộ đội về, Ruộng đã lớn phồng lên, hai vú như hai quả bưởi, bộ mông căng tròn, lúc nào cũng chọc vào mắt Ngộc. Rất nhiều lần, Ngộc đứng lấp sau búi tre ngắm nhìn trộm Ruộng vớt bèo ở bờ ao. Hai ống quần kia vén cao lên tí nữa thì đã mắt phải biết. Nhớ đến ngày học cấp một hay đi rình phụ nữ tắm ao nhà ông Xã Duyên, Ngộc cứ ao ước giá nhìn thấy Ruộng tắm truồng: Phải biết là ngồn ngộn, phây phây. Chao ôi, được ngủ với Ruộng thì sướng hơn tiên. Sướng gấp vạn lần bà dì ghẻ đanh đá cá cầy kia. Nghĩ thế, Ngộc đã râm ran khắp người. Tưởng nói chơi, nào ngờ Nhi trở thành mẹ vọ của Ngộc nửa năm sau đó.

                    Người ngầm phản đối duy nhất cuộc hôn nhân này là Cục. Cục vẫn ức Ngộc ngày trước đã ngủ với Nhi. Nay lại lấy con gái mình thì thiên hạ họ cười vào mũi. Nhưng mà Nhi điều khiển được chồng. Chuyện cũ, ôm vào người cho nó sinh bệnh. Chi cần em yêu mình, chung thuỷ với mình là được rồi. Không yêu, không chính chuyên mà có những ba đứa, con Đất con Hợp, thằng Tác. Mình không nghe cái làng Động này có câu vè rất hay về tên các con ông Cục đấy à? "CÔNG CẢI CÁCH RUỘNG, thành ĐẤT HỢP TÁC. Tưởng thóc của mình. Hoá toàn rơm rác". Đúng là mình có hai vợ, bẩy đứa con không? Họ bảo, ông Cục là con cụ Cử Phúc có khác, đặt tên con rất thâm nho. Tưởng ông ấy ghi nhớ công lao cải cách ruộng đất, công lao của hợp tác xã, nên mới đặt tên con thế, ai dè ông ấy xỏ xiên. Nông dân đừng có tưởng bở. Tưởng cải cách, giảm tô, ruộng đất về tay mình, hoá ra của thiên lại trả địa, mọi thứ về hợp tác hết, công của nông dân thành công cốc. Bây giờ mình muốn giữ con Ruộng chứ gì? Thách đấy. Hợp tác tan rồi, người ta đang bỏ ruộng kéo nhau ra tỉnh. Con Ruộng đến tuổi lấy chồng rồi. Để trong nhà như chứa bom nổ chậm, mình chớ có trách.

                    Đến nước ấy thì Cục không ưng cũng không xong. Vá lại, cô Ruộng lâu nay cũng ngầm để ý Ngộc. Hai nhà lại liền kề. Đống rơm đã đánh sẵn. Xoè que diêm là cháy đùng đùng.

                    Gả Ruộng cho Ngộc, Nhi đã ngầm nuôi ý định thu lại khu đất các gia đình ông bà nông dân tịch thu hồi cải cách, trà về cho Nguyễn Kỳ Viên. Quả nhiên, khi Ngộc và Ruộng có ý định theo Ngạnh Vẩu vào Sông Bé, chính là lúc người con dâu của chi họ Nguyễn Kỳ thực thi toàn bộ ý định của mình. Với sự giúp sức tận tình của Ngộc và Ruộng, tất nhiên họ cũng được hưởng quyền lợi đích đáng, chỉ cần hơn một phần hai số vàng Vọng để lại, châu đã về Hợp Phố, toàn bộ khu khuôn viên của Nguyễn Kỳ Viên bị mất trước đây không những đã được thu hồi lại mà còn mua thêm được một sào tám thước đất thổ cư của hai gia đình liền kề.

                    Chuộc lại được đất rồi, Nhi muốn nhân cơ hội, sửa lại ngôi nhà thờ, khai lại cái hồ bán nguyệt và dựng lại nguyên trạng cái cung Nguyễn Kỳ Viên. Nhi đã đi hỏi những người già trong làng về cái cổng, nhờ người có hoa tay vẽ lại hình dáng, viết lại cả ba chữ nho ngày xưa.

                    Cục bảo:

                    - Chuộc được đất của tổ tiên là bước đầu thành công rồi. Nhưng sang bước hai mới là quan trọng. Mình là con thứ, lại là con nuôi con đòi, nói trắng ra tức là đứa ở… Không thể tự ý xây nhà thờ được.

                    - Nhưng tôi thấy bà với các bác, có ai coi mình như con nuôi đâu? Nếu kể công với nhà này thì mình xứng đáng xếp thứ nhất. Hai bác đi kháng chiến, một bác đi Nam. Chỉ còn nhà mình ở lại hương khói, nuôi bà và cô Hậu. Trong mấy người con, bà chỉ thích ở với vợ chồng mình.

                    - Mà chính tôi cũng cứ nghĩ mình do u đẻ ra đấy chứ. U cứ một mực bảo, tôi với bác Vọng là anh em sinh đôi.

                    - Thế thì mình còn sợ gì điều tiếng. Các bác ấy không lo được thì mình đứng ra xây nhà thờ. Tiền bác Vọng đã để lại sẵn rồi. Mình chỉ bỏ công sức…

                    Nhi cứ sùng sục thúc ép Cục bao lần. Cái số Cục được nhờ vợ. Đời Cục có hai người vợ, thì được cả hai. So với Bính, Nhi không dịu dàng bằng, nhưng lại xốc vác, đảm đang hơn. Lo cho con Ruộng chồng con nhà cửa đề huề rồi, Nhi lo tiếp vợ cho thằng Cách. Cách lấy Bống, con bà Đạt lớn, tức là em gái nhà Bang, mấy năm trước theo chồng là Hoán vào nông trường cao su Phú Riềng. Vừa cưới vợ xong, nghe theo chị Ruộng, chị Bang rủ rê, Bống ráo riết giục Cách xin vợ chồng ông Cục cho vào Sông Bé làm ăn. Nhi tán đồng ngay, cho hẳn hai vợ chồng Cách năm chỉ vàng, phần của bác Vọng cho, mang đi làm vốn. Lo cho con riêng của chồng, như Nhi, làng Động chỉ có một.

                    Nhưng rồi việc xây nhà thờ vẫn chưa thành.

                    Vợ chồng hai ông anh Khôi, Vỹ không có ý kiến, nói tuỳ chú thím muốn làm gì thì làm. Nói thế, có bằng thách đố, bố ai dám tự tiện. Thời buổi khó khăn, các bác ấy phải lo miếng cơm manh áo, lo học hành công việc làm ăn cho con cái, chưa ai nghĩ đến chuyện tâm linh, chuyện mồ mả tổ tiên, từ đường gia tộc.

                    - Giữ vàng trong nhà tôi hãi lắm thầy nó ạ!

                    Nhì nằm bên chồng mà cứ thở dài thườn thượt. Bằng mọi cách Nhi đã dúi vào tay bác Là, bác Khiêm mỗi người một cây vàng, giải quyết xong xuôi quà cáp bác Vọng nhờ chuyển rồi. Chỉ còn số vàng của bà Cử Phúc và cô Hậu cộng với ba cây còn lại sau khi đã chuộc được đất. Nghĩ nát nước mà vẫn không biết sử dụng ra sao - Hay là đem đổi hết thành thóc, rồi tôi góp họ, hoặc cho vay lấy lãi, dành tiền tậu cái xe đạp cho bọn trẻ đi học, thầy nó nhỉ?

                    - Làm thế khác nào mình lợi dụng để vun vén làm giàu cho riêng nhà mình - Cục gạt phắt.

                    - Thế thì tôi mang ra Hà Nội gửi cô Tài Tiến, chứ không để vàng ở nhà được đâu. Về đằng ngoại, cô Tài Tiến với u là con cô con cậu. Ngày trước cô có tiệm vàng lớn nhất phố Hàng Đào chú ấy có xe khách chạy tuyến Hà Nội - Phương Đình. Từ ngày nhà nước cấm buôn bán vàng, cô ấy vẫn buôn chui đấy. Gửi cô Tài là chắc ăn nhất.

                    - Mẹ mày muốn làm gì thì làm - Cục xoay người, thọc bàn tay lành vào vú Nhi, vê cho đầu vú săn cứng như hạt nhãn. Ấy là dấu hiệu Cục đã phê, sẵn sàng thoả hiệp vô điều kiện.

                    Ngày hôm sau, Nhi ôm cái bị cói trong có sáu cây vàng gói trong cái áo rách, để lẫn với mớ khoai sọ, bắt xe ra Hà Nội.

                    Vừa gặp cô Tài Tiến, Nhi đã vội kéo bà cô vào trong buồng, thì thào to nhỏ. Bà Tài Tiến hốt hoảng nhìn xung quanh, chối đây đấy:

                    - Chục năm nay cô có nhìn thấy vảy vàng nào đâu? Đừng gieo tai hoạ cho nhà cô, nguy hiểm lắm. Vàng là thứ hàng quốc cấm, không được buôn bán. Không có vảy vàng nào mà tài chính thuế vụ cứ vào khám nhà luôn xoành xoạch. Moi hết bàn ghế, giường tủ, gối nệm, góc bếp, nhà xí… Chổi cùn rể rách không có cãi gì là họ bỏ qua. Tởm lợm nhất là cái thằng Sành, con rể lão Thước tổ hợp cắt tóc Cờ Đô ở Phố Huế. Nó làm chức gì ở cơ quan thuế vụ to lắm. Lần nào nó cũng ghé cái mồm thối hoắc như nhà cầu vào mặt cô và bảo:

                    "Bà không buôn vàng và thuốc phiện lậu thì tôi đi đầu xuống đất! ứ đợi đấy, có ngày tôi sẽ cho bà lấm lưng, trắng bụng chẻ hoe cái tổ con chuồn chuồn cho coi". Họ cứ nghi cô vẫn còn buôn vàng. Giời ôi, vụ kiểm tra hành chính Z30 vừa rồi, suýt nữa là cô đi tù…

                    - Z30 là gì hả cô?

                    Thì họ đặt ra mật danh mật diếc gì ấy, chứ cô biết thế nào được Nói nôm na là kiểm tra hành chính những gia đình giàu có. Mấy trăm gia đình Hà Nội buôn bán có máu mặt, mới xây nhà hai tầng trở lên trong vài năm nay đều nằm trong diện phải kiểm tra hành chính. Tiền của chúng mày ở đâu ra? Chúng tao đi đánh Mỹ, giải phóng đất nước, chết mấy triệu người mà bây giờ cơm độn bo bo cũng không có mà ăn, cớ sao chúng mày xây nhà lầu, mua xe máy, ăn trên ngồi trốc, con cái chúng mày nhơn nhơn ăn diện? Chúng tao đang phấn đấu cả xã hội đều vô sản ngang nhau mà chúng mày dám rắn mặt chống lại à? Thế là công an, dân phố đến bao vây khám nhà, tịch thu tài sản. Trẻ con, người già khóc như ri. Còn ghê hơn cả thời cải cách ruộng đất. Mấy người oan ức, tiếc của quá đã uống thuốc sâu, treo cổ tự tử…

                    - Thật thế hả cô? Ở quê chúng cháu chả biết gì…

                    - Nghe nói cái lão Chiến Thắng Lợi, người quê nhà mình có chân trong ban chỉ đạo cái vụ này đấy. Ông ta vào trong Sài Gòn chỉ đạo cải tạo công thương, rồi ra Bắc làm tiếp vụ Z30… Thiên hạ đang kháo ầm lên: "Nhà thơ đi làm kinh tế. Thống chế thì đi đặt vòng". Toàn làm chuyện ngược đời. Khó sống lắm cháu ạ. Mang vàng về mà đổi thành thóc cho vay lấy lãi. Cô không dám giữ hộ cháu đâu…

                    Nhi đành ôm vàng về, đào hố chôn dưới chân ông táo trong bếp. Nửa tháng sau, nghĩ thế nào lại đào lên, bí mật mang lên phố Phương Đình đổi hết thành tiền, gửi vào quỹ tiết kiệm của xã.

                    Sau này, tức hai năm sau, Nhi mới rụng rời nhận ra rằng, đây là hành động ngu xuẩn nhất của đời mình. Việc nông nổi đổi vàng ra tiền rồi gửi tiết kiệm, đã mặc nhiên phá huỷ toàn bộ ý định xây dựng lại từ đường dòng họ mà ông kỹ sư công chánh Nguyễn Kỳ Vọng đã ký thác trước khi tự nguyện làm mồi cho cá biển.

                    Vụ đồi tiền năm 1985, đã biến những cục vàng thành đất sét, biến tất cả những bao tải tiền cũ thành giấy lộn.

                    Ông Nông Ích Ló, cậu ruột chị Là, quê Định Hoá, Thái Nguyên, vừa bán mười hai con trâu, cơ nghiệp cả một đời làm lụng vất vả, để giành tiền làm nhà. Chưa kịp mua gỗ, mua vôi, gạch, lá cọ, thì đổi tiền, mười đồng cũ ăn một đồng mới. Ba tháng sau, tiền đổi mười hai con trâu không mua nổi một con gà. Đau quá, tiếc của quá, ông Ló ăn lá ngón tự tử.

                    Nhi còn đau đớn hơn cả ông Ló cậu ruột chị Là. Bởi vì tiền vàng này là của dòng họ, là của bác Vọng nhờ giữ hộ. Nhi là con dâu họ. Lại là con dâu nuôi. Từ ngày về làm dâu chi họ Nguyễn Kỳ, Nhi luôn làm mọi cách để chồng mình không bị tủi hổ là đứa con nuôi con đòi. Nhi có ý thức và quyết tâm sắt đá sẽ làm chồng con rạng danh với họ hàng, làng nước. Vậy mà, bỗng chốc Nhi làm tiêu tán cả một sản nghiệp. Nhi bán trời không văn tự. Nhi giết chồng con, anh em, họ hàng không dao. Nhi mất ăn mất ngủ, người gầy tọp. Rất nhiều đêm Nhi nằm mơ. Toàn giấc mơ lạ mà người Nhi thường gặp là một bóng trắng toát, lúc thì trồng cây chuối, đi đầu xuống đất, lúc thì xoã tóc bước từ dưới đáy ao lên. Người ấy nói như khóc, bảo rằng không có chỗ ở, nghe nói con cháu sắp xây nhà mà chờ mãi không thấy.

                    Thế rồi một đêm, vào quãng gần sáng, Nhi bỗng thấy người áo trắng hiện về gọi đúng tên mình. Hình như có chuyện gì gấp gáp lắm, đến nỗi Nhi không kịp nói với Cục, không kịp nhắn lại với các con. Theo người áo trắng, Nhi đi vòng qua bờ ao, đến chỗ cây dừa đổ, Nhi còn dừng lại soi mình xuống bóng nước. Nhi định lội xuống, nhưng nghĩ thế nào, chỉ vục nước lên rửa mặt, vuốt lại tóc, rồi theo hút bóng người áo trắng đến nhà thờ. Dọc đường, suýt nữa thì Nhi vấp ngã bởi một vật cản chắn ngang đường. Nhi cúi xuống, nhận ra đó là sợi dây thừng trâu thằng Tác mới thay lúc chiều. Thuận tay, Nhi cầm theo luôn.

                    Thấy tiếng chân người, đàn chuột chạy túa lên mái nhà, kêu chí choé. Tiếng tắc kè từ cây muỗm cổ thụ điềm năm tiếng. Bóng áo trắng đến khe cửa nhà thờ thì mất hút. Một ô cửa trống như đợi Nhi sẵn. Chị lách vào nhà thờ như một cái bóng. Hoàn toàn như một kê mộng du, Nhi bật lửa, thắp ba nén hương, quì trước ban thờ, miệng lẩm bầm: "Con có tội. Con là kê phá tán cơ nghiệp chi họ Nguyễn Kỳ. Con xin về hầu chịu tội…" Rồi rất chậm rãi, Nhi trèo lên chiếc ghế đẩu, luồn sợi dây thừng qua thanh xà ngang…

                    ***

                    Nhờ mùi hương phả trong đêm khuya, Cục nhanh chóng phán đoán ra Nhi có thể đang ở trên nhà thờ.

                    Trước đó chừng dăm bẩy phút, khi tỉnh dậy, không thấy vợ nằm bên, máu nghi ngờ ghen tuông đã tràn khắp người Cục, đầy ứ một cục như bát nguội chèn ngang cổ họng, nuốt mãi không trôi. Cục nghi cái tính lẳng lơ của Nhi lại trỗi dậy. Hơn tháng nay tính khí Nhi rất lạ. Lúc nào cũng có vẻ lên lút giấu giếm chồng. Lạ nhất là mỗi lần Cục thèm muốn, Nhi cứ đẩy hắt ra. Chó chê cứt là có vấn đề. Cục lại nhớ cái đận cải cách ruộng đất. Nếu Cục không sớm cảnh giác, rất có thể Bính đã ngã vào tay lão đội Phèng Cửu Tựu. Giờ với Nhi càng chớ có lơ là. Nhi còn phây phây mà Cục thì đã có tuổi, nhiều khi lực bất tòng tâm. Biết đâu có một thằng đực lạ mới xuất hiện ở làng Động? Đang ngủ bên chồng mà len lén bỏ đi là cớ làm sao? Loạn rồi. Nó cắm sừng lên đầu mình rồi.

                    Ánh đèn pin trong tay Cục khi đến trước nhà thờ bỗng loé lên, lia loang loáng. Khi ngửi thấy mùi hương, biết chắc Nhi ở bên trong, Cục liền rảo chân, rọi hẳn đèn vào nhà thờ.

                    - Trời ơi, ai kia? Ai đang treo cổ lủng lẳng trước ban thờ?

                    Cục rụng rời chân tay, vấp ngã ở bậu cửa. Nhi, Nhi ơi! Sao em lại làm thế? Có ai làm gì em mà em lại nỡ huỷ hoại đời, nỡ bỏ mấy bố con anh? Ới các con… Đất, Hợp, Tác ơi! Lên đây cứu mẹ!

                    Cục hét lên, nhảy bổ đến bên vợ. Cuống cuồng, nhưng khôn khéo, Cục trèo lên chiếc ghế đẩu ôm thốc Nhi lên.

                    Comment


                    • #25
                      Chương 26

                      Đến miền đất hứa



                      (Trích hồi ký "Kẻ tha hương")

                      Buổi chiều Vũng Tàu cuối mùa mưa ấy sao nhiều hoa và nắng đến thế. Cứ ngỡ như cái nóng của ca xứ sở dồn tụ về đây hoa của mọi miền ùa về đây để đưa tiễn một đứa con xa xứ. Những bông điệp cuối mùa đỏ như máu. Hoa giấy đủ màu, từ trắng ngà đến da cam, tím Huế, xơ xác bung từng búi, từng chùm như giấy màu học trò. Và hoa sứ trắng muốt, đỏ bầm trong những vòm xanh, toà hương nồng nàn như không còn cơ hội nào dâng hiến.

                      Giờ này u tôi và bố con chú Cục trên con tàu Thống Nhất chắc đã ra tới Tháp Chàm? Chỉ vài ngày nữa u và mọi người sẽ biết tôi vượt biên. Biết đâu, khi họ xôn xao oán thán, trách cứ thương cảm… thì tôi đã chìm nghỉm giữa biển khơi, làm mồi cho cá…

                      Tôi đặt cược cho cuộc đi này năm ăn năm thua. Vì có quá nhiều người vượt biển không thành. Kia, nhỡn tiền trước mắt tôi kia, ngay trên đường Võ Tánh, gần bãi Dứa, một bãi tắm xinh đẹp cạnh Niết Bàn Tịnh Xá, bốn xác chết vừa từ ngoài khơi dạt vào. Nghe mọi người kháo nhau, dọc bờ biển Núi Đúng 0 giờ ngày X, tức là chỉ còn không đầy mấy giờ nữa tôi sẽ có mặt ở bến Cửa Cạn.

                      Con tàu định mệnh chờ chúng tôi ở ngoài bãi sú vẹt. Trong đêm tối, nó lù lù một khối đen như bóng tử thần. Dù là tàu bán công khai, có người bảo lãnh, chúng tôi vẫn phải lén lút theo ghe chèo chạy bằng máy đuôi tôm đến tàu từng tốp một. Trong ánh đèn pin loang loáng, lố nhố người lớn trẻ con mang vác đồ đạc, bồng bế dắt díu nhau. Chủ tàu đôi chiếc nón nỉ, không rõ mặt, chỉ nghe giọng miền Trung nằng nặng, ồm ồm. Bãi đỗ đã được mua trước, có an ninh canh chừng. Chủ tàu đưa danh sách những người còn thiếu vàng cho an ninh.

                      An ninh gọi tên những người còn thiếu. Ai không có nộp sê phải ở lại. Không thấy đọc tên mình, tôi biết Khuất Sỹ Hào, sau khi tôi đưa giấy tờ nhà, đã giữ đúng lời hứa, lo cho tôi đi chuyến này trót lọt.

                      Gần đến giờ xuất phát thì tàu bị mắc cạn. Tiếng la hét ầm ầm phản đối chủ tàu. Tiếng đông cơ gầm rú, chân vịt sục nước hối hả. Lúc sau mọi người nhận ra đó là mánh khoé của chủ tàu để kéo dài thời gian chờ người nhà. Khi toán người nhà cuối cùng của chủ tàu tới, cùng với sự hỗ trợ của tàu kéo, con tàu bắt đầu rời bãi sú vẹt, nhằm hướng hừng đông thẳng tiến.

                      Tảng sáng, nhưng tàu vẫn chưa ra đến hải phận quốc tế. Nhìn mãi vẫn chưa dứt khói tầm chiếu của ngọn hải đăng trên mỏm Núi Nhỏ. Tôi có cảm giác như tàu đang vòng trở lại.

                      Hay là một trăm chín mươi mốt con người trên con tàu này đang bị lừa? Đi mãi mà toà Bạch Dinh và tương Thánh Pôn sau mũi Nghinh Phong vẫn còn trong tâm mắt.

                      Bây giờ thì tôi đã nhìn ngắm rõ con tàu mang biển số VT 1413. Chín nút. Con số đen. Nhưng nhìn kỹ thì con tàu đánh cá này thuộc diện chỉ đánh bắt ven bờ và sắp đến kỳ thải loại.

                      Nước sơn xanh hai bên mạn tàu đã tróc từng máng: Thành tàu và sàn tàu có chỗ ván đã mục được vá víu lại bằng nhũng thanh gỗ đẽo sơ sài. Con tàu rệu rã này làm sao vượt nổi biển Đông để đến In đô hay Úc. Tôi cứ vân vi một nỗi sợ mơ hồ.

                      - Moi người xuống hết hầm tàu đi – Chủ tàu luôn mồm quát tháo - Đ. mẹ, ông nội này muốn bướng hả. Ống nhòm tàu biên phòng phát hiện không phải tàu đánh cá, họ đuổi theo liền. Muốn ngồi trên boong ngắm kiểng, hả? Vậy thì ông nội lấy lưới phủ kín giùm đi. Lát nữa hết phao zêrô tha hồ mà ngắm kiểng.

                      Giờ thì tôi mới nhìn rõ chủ tàu. Mặt bự thịt, mắt ti hí, râu cằm lưa thưa, đi chân chữ bát. Ông ta chừng ngoài năm mươi, tên là Kiếng. Cùng phụ giúp chủ tàu là hai tài công tên là Cón và Hiêu, cùng to như hộ pháp, ngực vồng như tảng gỗ lim bắp tay nâu bóng vặn như chão bện. Riêng anh thợ máy tên Thạch thì lại bé loắt choắt, nhưng rất lanh lợi. Người phụ nữ tóc xoăn tên Chiên lúc nào cũng cặp kè với chủ tàu, còn khá trẻ đáng tuổi con, cao dong dỏng, có đôi mắt sắc như dao rất quyến rũ.

                      Sau này, khi lâm cuộc, tôi mới biết, chủ tàu hoàn toàn không biết gì đến nghề đi biển. Nghe chú thợ máy nói, Kiếng vốn là cán bộ đi tập kết, đã có vợ ở quê, nhưng ra Bắc lại lấy vợ mới.

                      Sau năm 1975, Kiếng đưa vợ con về quê, được giữ một chức lãnh đạo phòng phong nghiệp huyện. Do buôn bán gian lận hay sao đó, Kiếng bị kỷ luật, bị cách chúc. Cũng thời gian này Kiếng bắt bồ với Chiên, người đàn bà buôn cá có đôi mắt dao cau quyến rũ. Quá bất mãn và chán nản, Kiếng quyết bỏ vợ con, quê hương, rủ Chiên vào Vũng Tàu. Gặp người bà con làm ở sở Vôi Vụ mách mối, Kiếng hùn tiền mua tàu đánh cá, đứng ra làm chủ tàu, móc nối với an ninh, tổ chức người vượt biên.

                      Khi bờ biển Vũng Tàu đã mờ xa, mọi người bỗng nháo nhác thì tài công Cón phát hiện ra một con tàu biên phòng đang phóng đuổi. Chủ tàu cuống cuồng, hét thợ máy và tài công mở máy hết cỡ, con tàu xả khói đen mù mịt trốn chạy. Cuộc rượt đuổi chỉ dừng lại khi tàu đã ra tới hải phận quốc tế.

                      Một cơn mưa bất chợt ập đến. Những ngọn sóng lừng lũng từ đâu bỗng đổ ập xuống. Con tàu chao đào, nhảy cẫng lên cao rồi rơi hẫng xuống, như chui hun hút xuống đáy đại dương.

                      Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới cái nồi cám lợn u tôi nấu ngày xưa. Cám sôi lục bục, tạo ra những lỗ sâu hoáy, những đinh bọt cao ngang miệng nồi. Một vài chiếc vỏ trấu giữa nồi lúc bị bọt tung lên cao, lúc chìm nghỉm dưới xoáy sâu. Con tàu của chúng tôi lúc này cũng hệt như vỏ trấu trong nồi cám sôi của u tôi ngày xưa. Nó sẽ chìm bất cứ lúc nào.

                      Mưa mịt mù không thấy trời. Nước mưa, sóng biển tràn qua sàn tàu, chảy như xối xuống hầm tàu. Đàn ông hò nhau tát nước bằng tất cả những phương tiện có được. Hết đợt mưa này lại ào đến trận mưa khác. Trời mù đặc trên đầu và biển đen đặc dưới chân. Cũng là lúc màn đêm ập xuống và con tàu chết máy.

                      Tôi đã quá khiếp nhược và mệt lả vì nỗi sợ hãi bị bắt trở lại vì nôn oẹ mật xanh mật vàng. Tất cà những người xung quanh tôi, người lớn, trẻ con ai cũng nôn mửa, mặt xanh mét, nằm ngồi chồng lên nhau như những đống rẻ rách. Con tàu vốn dùng để câu cá ngừ vùng biển gần, có chiều rộng hơn ba mét, chiều dài khoảng mười lăm mét, chồng chất gần hai trăm con người mới đủ thứ đồ đạc, vật dụng, giờ lại nồng nặc mùi người mùi phế thải theo đường miệng nôn, trôn tháo… càng trở thành một cái hòm khủng khiếp. Trong ánh sáng ngọn đèn đỏ quạch ngóc hầm, tôi nhận ra một đôi mắt xanh lè như mắt mèo. Không ai khác, ngoài gã trai có bộ mặt choắt với cái mũi khoằm và đôi mắt lồi mà chủ tàu đã văng tục vào mặt lúc mờ sáng. Gã là người duy nhất trong đám người vượt biên không bị say sóng. Chính tôi cũng nổi máu nghi ngờ rằng mục đích của gã không giống như chúng tôi. Gã lên tàu để làm một việc khác. Hay gã chính là người của an ninh gài vào? Gã mắt lồi không biết tôi đang theo dõi gã, nên gã mặc nhiên thọc tay sờ nắn người đàn bà đang nằm ôm đứa con gái nhỏ. Chị đi cùng hai đứa con gái sinh đôi suýt soát năm, sáu tuổi đứa chị cao gầy, đứa em thấp và mập hơn. Hôm qua đứa em uống phải sữa thiu, đi ngoài đến mệt lả, sau đó sốt nóng đùng đùng. Người mẹ lo cho con đến trũng mắt, mệt quá, ngủ say như chết. Chị ta không hay biết rằng có kẻ đang sờ soạng lục lọi mình, hay cũng hứng chí vì được ve vuốt. Tôi mở cuốn sổ bé bằng bàn tay, được đóng bìa ni lông, có phecmơtuya kéo. Đây là cuốn nhật ký tôi đã chuẩn bị sẵn, để ghi lại cuộc hành trình tha hương, giống như phần hồi ký tôi viết ngày tôi rời đất Bắc, năm 1954, vào Sài Gòn để sống cuộc đời tự lập. Cuốn nhất ký này được bắt đầu vào 0 giờ ngày X.

                      Để đề phòng cuốn sổ có thể bị sóng biển cuốn trôi, hoặc nhòe mờ không đọc được, tôi còn có một sợi dây dù buộc ngang người. Mỗi ngày một thắt một nút để ghi nhớ ngày tháng lênh đênh trên biển. Kinh nghiệm này tôi học được ở Rôbinsơn Crusô, nhân vật của Danien Đêphô.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Tàu vẫn bị chết máy. Thợ máy Thạch và mấy người biết nghề cơ khí xoay trần dưới hầm tàu, đánh vật hàng ngày trời vẫn không làm cho động cơ khởi động nổi. Tháo máy ra mới biết hầu hết phụ tùng đã bị thay thế. Trước khi bán tàu cho Kiếng, chủ tàu cũ đã rút hết ruột máy, mua ngoài chợ trời một máy rỏm lắp vào. Không có phụ tùng thay thế. Đành bó tay.

                      Thợ máy Thạch buồn rũ, bỏ ăn, suất ăn mà cả tàu chắt bóp ưu tiên nhường, chú nhìn mọi người đầy hối hận như chính chú có lỗi.

                      Đành phải chờ tàu cứu hộ, hoặc đón tàu quốc tế trợ giúp. Có một con tàu trắng treo cờ Panama. Đàn bà, trẻ em nhảy cá lên boong tàu, đốt lửa, lấy khăn trắng vẫy. Nhưng bọn thuỷ thủ chỉ ngó lơ, bỏ đi.

                      Kiếng lôi từ dưới hầm tàu lên một khẩu M16 bóng loáng vẫn những băng đạn vàng choé. Gã chĩa súng lên trời nổ ba phát đuổi theo chiếc tàu Panama, khiến ai nấy xanh mắt.

                      Thằng này từng là xạ thủ khét tiếng miền Đông thời chống Pháp. Khẩu này mua hai cây. Phải bí mật lắm mới qua nổi bọn Cá. Vùng biển này bắt đầu thuộc quyền kiểm soát của hải tặc. Phải có món này phòng thân… Kiếng lên đạn rôm rốp, bô bô cho mọi người nghe thấy. Sau khi đã bắn súng thị uy, hắn bàn với Chiên và Hiêu, kêu tất cả mọi người phải nộp thêm tiền, bù chi phí sửa máy, xăng dầu và thời gian chờ đợi. Ai không nộp sẽ bị ném xuống biển.

                      Ai cũng phải bấm bụng nộp thêm nữ trang, tiền bạc. Tôi lột chiếc đồng hồ Longdin mạ vàng đeo trên tay. "Chiếc đồng hồ này giá hơn một lượng, ưng không?" Kiếng liếc nhìn, gật đầu. Bỗng có tiếng chu chéo của người đàn bà có hai đứa con sinh đôi: "Có ai nhặt được vàng của tôi không Tôi mất hai lượng". Chị mếu máo sờ nắn khắp người, rũ tung mọi đồ đạc tư trang. Đứa chị đang trông đứa em vẫn sốt cao, thấy mẹ khóc, vội đến ôm lấy mẹ khóc theo.

                      Tôi nhìn gã mắt lồi mũi khoằm. Gã cúi gằm mặt lẩn ra phía sau. Tôi biết, tối qua gã đã chôm chỉa hai cây vàng khi sờ soạng người đàn bà. Vạch mặt gã lúc này ư? Gã sẽ chối biến. Dây với hủi làm gì? Gã sẽ thù, ném tôi xuống biển. Nghĩ vậy và tôi cũng như gã, cúi gằm mặt. Đã bị dồn tới tình cánh này mà còn hèn nữa, thì còn gì để nói nữa…

                      Ngày… tháng… năm…

                      Tài công Cón có sáng kiến làm buồm dã chiến bằng các tấm chăn ghép lại để tàu xuôi về hướng đông nam. Gió quẩn.

                      Tàu như chạy vòng tròn. Cứ kiệu này bao giờ mới tới bờ Inđonêxia hay Mã Lai. Lương thực mang theo đã cạn. Những chiếc bánh chưng bị sũng nước, nhão nhoét, bốc hơi thiu. Bánh mì, lương khô cũng bị nước ngấm, mún nhão, cố lắm mới nuốt nổi. Tình trạng thiếu nước đã bắt đầu. Bọn chủ tàu vẫn cơm hai bữa. Thỉnh thoảng Kiếng bảo Chiên phát chẩn cho trẻ con và người ốm mỗi người một nắm cơm vừa sống vừa khê.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Nắng như đổ lửa. Kể ca chủ tàu cũng đã hết lương thực và nước ngọt. Môi tôi khô rộp, mắt mờ nổ đom đóm. Mọi người bất động. Chẳng còn gì để tranh giành nhau, trừ ăn thịt đồng loại để sống.

                      Bác sĩ Thuần nhóm những que củi cuối cùng để biến chai nước biển thành ly nước ngọt. Thấy tôi nhìn thòm thèm, anh cho tôi vài giọt để thấm ướt môi. Ở góc tàu, gã mắt lồi vạch quần đái vào vỏ chai cô ca rồi uống. Mấy người đan bà cũng bảo trẻ đái vào ca để uống.

                      Ai đó reo lên khi lờ mờ nhìn thấy hòn đao phía trước. Bác sĩ Thuần nói với chủ tàu:

                      - Cho tàu cập đảo để sửa máy và lấy nước, thực phẩm.

                      - Cha nội có biết đấy là Côn Đảo hay Phú Quốc không? Muốn rơi trở lại vào tay cộng sản phải không?

                      - Thà bị cộng sản bắt lại còn hơn chờ chết - Ai đó nói. Nói vậy nhưng tấp vào đảo đâu có dễ khi con tàu chết máy, dù có buồm dã chiến nhưng hầu thư tàu trôi tự do.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Đang ngủ vật vờ, một tiếng súng bỗng dựng tôi dậy. Tôi tự hỏi: Kiếng bắn ai hay bọn cướp biển đã tới? Quả nhiên, một con tàu lạ đã áp sát bên hông. Tiếng quát tháo thỉnh thoảng chen một câu tiếng Anh. Tỏi bủn rủn người. Chợt nghĩ đến những bộ mặt cổ quái, những mắt chột, thọt chân trong truyện "Đảo giấu vàng". Tàu chúng còn nhỏ hơn cả tàu chúng tôi.

                      Chúng chỉ có hơn chục đứa, trang bị toàn bằng mã tấu, dao găm. Chỉ có duy nhất một khẩu súng lục trong tay một gã râu cằm đen kịt mà tôi đoán chắc là thằng chỉ huy. Thằng này súng lục lăm lăm. mặt đầy sẹo, dữ dằn. Những thằng khác cũng sát khí đằng đằng.

                      Người đầu tiên mà chúng bắt phải đi sang tàu cướp là Chiên. Liếc thấy Chiên thằng chỉ huy đã thèm. Những người phụ nữ khác, từ hôm qua, sau khi nghe bác sĩ Thuần kể về bọn hải tặc vùng biển Malácca đã tự bôi mặt lọ lem đầu tóc rũ rượi, nên chưa lọt vào mắt bọn cướp biển.

                      - Thằng Hiêu vào lấy khẩu súng cho tao. Tao sống chết với chúng. Bọn này chỉ toàn dao thôi. Mười chọi một sợ gì!

                      Đang nói, thằng chỉ huy chĩa súng vào cổ. Kiếng vội im bặt.

                      Lần lượt từng người sang tàu bọn cướp cho chúng khám xét. Thấy thùng nước ngọt, thuyền nhân xô nhau đến uống no nê.

                      Có tiếng phụ nữ kêu thét trong phòng tên chỉ huy. Tôi đoán là Chiên đang bị làm nhục. Đành bất lực thay cho Kiếng.

                      Cuộc khám xét chóng vánh. Số phụ nữ bôi mặt không ai bị cởi quần áo khi tự nguyện tháo đồ trang sức nộp. Bọn cướp không ngờ là chúng thu được nhiều đồ nữ trang và tiền vàng đến thế. Thằng chỉ huy cười như lợn kêu khi đệ tử nộp hắn khẩu M16 của Kiếng. Chúng giật cả chiếc đồng hồ Longdin của tôi trên tay Kiếng dâng cho thằng chỉ huy. Khốn khổ thân Chiên. Cô bị hành hạ đến nhàu nát. Mắt cô sưng húp, má có nhiều vết cắn. Một vết máu chảy từ háng xuống tưới bàn chân.

                      Vừa từ tàu bọn cướp về, Chiên đã nhảy bổ đến Kiếng, tát đánh bốp vào mặt gã.

                      Cả bọn nhìn Chiên cười sằng sặc. Thằng chỉ huy ra lệnh cho tay chân mang ra ít đồ ăn và cơm nguội. Thuyền nhân tranh nhau giành giật. Bọn cướp nhìn, cười khinh bỉ: "Vietnam no good". Rồi chúng cắt dây, nổ máy bỏ đi.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Chiều tối, tàu bị cướp lần thứ hai. Lần này bọn hải tặc đông hơn. Chúng có nhiều súng, cả một khẩu B40, không biết thạt hay giả. Chúng nhốt tất cả đàn ông trong hầm lạnh để dễ dàng lục soát, hãm hiếp đàn bà. Tất nhiên cô chủ tàu xinh đẹp không thể lọt khỏi mắt cú vọ của chúng. Dưới hầm tàu, chúng tôi nghe rõ tiếng kêu khóc, tiếng vật lộn của cánh đàn bà con gái với lũ hải tặc.

                      Trong bọn cướp biển, có thằng nói được tiếng Anh. Tôi thay mặt tàu nói chuyên với bọn chúng.

                      "Chúng tôi là thuyền nhân, được chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh - Tôi nói – Hiện nay máy tàu chúng tôi bị hỏng. Lương thực, nước ngọt đã hết. Chúng tôi nhờ các ông kéo tàu tới đảo tị nạn gần nhất.

                      - 5000 USD - Thằng trưởng tàu xoè năm ngón tay ra.

                      Tôi nói lại với Kiếng. Kiếng lắc đầu:

                      - Tiền bạc của tôi cũng bị cướp sạch. Có ai còn 5000 mỹ kim thì ứng ra.

                      Cuộc thương thảo thất bại. Bọn hải tặc cắt dây. Con tàu hỏng máy lại vật vờ giữa đại dương.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Hầu như tàu vẫn đứng nguyên tại chỗ. Nắng như đổ lửa. Trời im gió như trước một cơn bão. Lại lâm vào tình cánh đói và khát.

                      Đói quá. Bây giờ thì mọi người lại trông chờ cho bọn hải tặc tới. Thà để cho chúng cướp và hãm hiếp, may ra còn có ngụm nước, miếng cơm qua con đói và khát. "Tôi mong cho bọn cướp biển tới" - Gã mắt lồi như con thú đói lồng lộn trên sàn tàu, gào lên. Hình như gã muốn điên. Cái dạ dày rỗng không của gã chừng như không chịu được. Sáng sớm tôi đã thấy gã uống nước đái và ngồi câu suốt buổi. được một con cá bằng ngón tay, mắt gã sáng rực. Gã mút con cá như trẻ con mút kẹo kéo.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Cả tàu đói lả. Không ai muốn nhúc nhích.

                      Cứ tình trạng này, chỉ vài ngày nữa, cô thế giới sẽ hoảng hốt lên khi phát hiện thấy một con tàu ma vật vờ trên đại dương mà bên trong là gần hai trăm xác người thối rữa…

                      Không biết ở giữa đại dương thế này, kền kền và dòi bọ có đến được không?

                      Ngày… tháng… năm…

                      Cơn bão bất ngờ ập đến giữa nửa đêm. Chưa bao giờ tôi thấy khủng khiếp đến thế. Ai cũng tin chắc mình sẽ chết.

                      Không còn cách gì chống đỡ được. Đến như vịn tay vào thành tàu hay vật cố định nào đó cho khôi bị quăng quật cũng không còn đủ sức. Trẻ con thôi không thấy gào thét. Chúng được bố mẹ ôm chặt hoặc như quả bóng bật từ chỗ này sang chỗ khác.

                      Không biết ngoài kia sóng gió gầm rít như thế nào? Con tàu có lật úp chìm xuống đáy biển không? Tự nhiên tôi nhớ đến u tôi, đến Miên và hai con Vân, Vy.

                      Bây giờ chắc chắn u tôi và bố con Cục đã về đến quê. Đã chín ngày tôi lênh đênh trên biển rồi. Ở quê chắc đã biết tôi vượt biên, đã sắp tới miền đất hứa. Ôi, miền đất hứa là thế này đây?"

                      May mà cơn bão qua nhanh. Chắc là một cơn lốc biển chứ nếu là bão thì con tàu này không trụ nổi.

                      Nước tràn các khoang. Đàn ông, dù đói là, cũng phải tát nước, nếu không muốn tàu chìm.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Đã trữ được một ít nước mưa, nhưng lương thực thì cạn kiệt. Đói vàng mắt. Lại ao ước có tàu hải tặc, để chúng cho ăn, và may ra chúng kéo tàu tới đảo.

                      Trong cơn đói lả, tôi mơ màng ngửi thấy mùi thịt nướng. Hay là tôi mơ? Nhưng rõ ràng khứu giác tôi không lầm. Mùi thịt nướng thơm muốn tứa nước chân răng. Ngày xưa Tào Tháo làm cho quân lính tứa nước chân răng vì câu chuyện rừng mơ phía trước mặt. Bây giờ tôi tứa nước chân răng vì có vị thịt nướng ngay phía đuôi con tàu này.

                      Bác sĩ Thuần nằm kề bên tôi cũng cưa quậy trở dậy. "Có mùi thịt nướng ông ạ. Tay nào mới câu được cá. " "Không phải mùi cá. Mùi thịt nướng hẳn hoi. Hay tay nào vừa bắt đuốc chuột?".

                      Bỗng có tiếng thét khản đặc:

                      - Ối trời đất ơi, có ai thấy con bé Huệ nhà tôi đâu không? Suốt đêm qua tôi ôm nó trong tay… Hai chị em, con Lan một bên, con Huệ một bên…

                      Bé Huệ bị mất tích. Có thể bị lăn xuống biển. Cả tàu như bị điện giật. Nhưng cũng chẳng biết làm cách nào vì ai cũng đói lả không thể nhúc nhích gì được.

                      - Ối các ông các bà các cô các chú ơi, tìm cháu Huệ giúp tôi với! Ối Huệ ơi. Con đi đâu rồi? Tôi biết ăn nói làm sao với anh ấy ở bên kia…

                      Sau này tôi biết chị Bẩy Trà, tên người đàn bà sinh đôi, vốn là vợ nhỏ của một thiếu tá quân đội cộng hoà. Ngày viên thiếu tá di tản theo quân đội Mỹ, Bẩy Trà đang có mang hai đứa nhỏ. Giờ viên thiếu tá đang làm ăn khá giả trên đất Mỹ, nhắn tin về đón ba mẹ con sang.

                      Bỗng có tiếng huỳnh huỵch trên boong tàu. Tôi cố gương dậy, nhìn lên. Tài công Cón với thân hình hộ pháp đang lôi gã mắt lồi xềnh xệch trên sàn tàu, thỉnh thoảng lại thoi một quà đấm tròi giáng giữa mặt. Môi gã mắt lồi sưng vù, bê bết máu. Cái mũi khoằm như vẹo sang một bên.

                      - Nói đi. Mày vừa nướng thịt gì? Mày quăng xác con bé xuống biển rồi phải không?

                      Thông tin rợn người xộc lên óc tôi nhức buốt. Tôi lấy hai tay bưng lấy đầu. Chẳng lẽ con người đang biến thành thú vật?

                      - Đ. mẹ. Nói! Tao sẽ quăng mày xuống biển - Cón giật mảnh áo vất lên sàn, để lộ những tảng ngực nâu bóng - Nghe tiếng vật gì ném xuống biển cha mày đã sinh nghi. Không ngờ mày chó má thế. Mày vừa nướng thịt gì?

                      - Dạ, nướng tôm. Em bắt được con tôm…

                      - Mày tưởng lừa được cha mày hả? - Cón vòng chân đá móc, hất gã mắt lồi khỏi sàn tàu - Cho mày sẽ cho mày xuống ngủ với tôm.

                      Cón cúi xuống bế bổng gã mắt lồi lên, toan lăng xuống biển. Nhưng Chiên đã kịp ngăn lại. Thằng mắt lồi đã được tha. Gã nằm co rúm trên sàn tàu như một con chó ghẻ.

                      Tôi nằm bưng mặt khóc. Đau đớn quá chừng thân phận người Việt

                      Ngày… tháng… năm…

                      Tiếng động cơ bỗng vang lên. Những ngọn đèn bật sáng.

                      Cả tàu như được gặp cứu tinh.

                      Thì ra suốt mấy ngày nay, thợ máy Thạch cùng kỹ sư Hoàng vẫn lặng lẽ mày mò cách cứu máy tàu. Và họ đã thành công. Con tàu đã có thể thoát khói vùng biển quẩn để tới một đảo gần nhất.

                      Niềm vui vừa loé lên, liền bị vụt tắt. Một tàu hái tặc lại lù lù xuất hiện. Chúng bôi số tàu để không bị nhận diện. Chúng cho tàu chạy vòng quanh, như con thú trước khi thịt con mồi.

                      Cũng có thể chúng dè chừng vì sợ có súng. Đến khi biết chắc những thuyền nhân người Việt đang thoi thóp vì đói, chúng mới sáp gần, quăng dây và bắc cầu tràn sang. Tên chủ tàu trông gian giảo và hung bạo. Gã cầm lăm lăm chiếc búa sắc lém trong tay, ra hiệu cho bọn lâu la lục soát từng người.

                      Chẳng cần che đậy, cách li, chúng bắt tất cả đàn bà cời quần áo vạch kỹ từng silip xu chiêng, soi từng ngóc ngách xem có giấu tư trang hay hạt xoàn vào chỗ kín. Thằng chủ tàu dùng búa nậy cá thành tàu vì nghi có giấu vàng. Lục soát chán, chúng biết rằng chỉ còn ăn cái xái vì bọn cướp trước đã lột hết. Chúng chửi bới loạn xạ, vơ vét một ít quần áo, đồ đạc, rồi bó đi.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Tàu nhằm hướng tây đi miết. Thấy đàn chim bay lượn, chúng tôi đoán đất liền đã gần đâu đây.

                      Ánh trăng như dát vàng trên mặt biển. Tôi khóc thầm vì cảnh chẳng chiều lòng người. Tói nửa đêm, thấy cồn cát và hàng dừa mờ mờ hiện ra. Không biết đây là đâu: Phú Quốc, Côn Đảo, hay Thái Lan, Mã Lai. Đâu cũng được. Miễn là đất liền. Mười ngày trên biển đã vãi hết cả linh hồn. Moi người xô nhau lội nước lên bờ. Riêng bọn chủ tàu ở lại. Có lẽ Kiếng đợi mọi người lên bờ hết mới mở kho cất giấu vàng. Hoặc họ sẽ cho tàu đi một nơi khác. Gần sáng, dân trên đảo chạy tới. Hoá ra đây là đất Thái.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Hoá ra, các nước bạn láng giềng, chăng ai vui sướng gì khi phải đón tiếp những người khách không mời Việt Nam. Bằng chứng là hầu hết những người dân đều tỏ ý xa lánh và nhìn đám người tị nạn chúng tôi như bọn hủi, bọn thương hàn, dịch hạch. Cũng đáng thôi. Người Việt mình còn không đùm bọc cưu mang nhau, gà cùng một me dứt tình hại nhau, thì người ngoài đối xử như thế là phải thôi.

                      Sau này tôi được biết rằng, chúng tôi không phải là những người khách đầu tiên. Từ mấy năm nay đã có hàng chục con tàu hàng nghìn thuyền nhân Việt Nam dạt vào hòn đảo nhỏ bé này. Cuộc sống của những người dân đánh cá lập tức bị đảo lộn. Khan hiếm lương thực, thực phẩm. Phóng uế bừa bãi. Trộm cắp, đánh lộn. Câu nói của người xưa: "Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc" quà không sai. Người Việt cùng đường đi đến đâu cũng gieo rắc tai hoạ.

                      Nhà chức trách địa phương tỏ ra rất phiền lòng. Họ cho dẫn cả chủ tàu tới, giam lỏng tất cả trên một doi cát được quây xung quanh bỏi cây phi lao và dây kẽm gai. Mỗi người được phát một chén cơm với một con cá khô mỗi ngày. Mỗi gia đình tự tìm cây que, lá dừa khô để tự làm những chiếc lều che tạm.

                      Đến lúc này mọi người mới phát hiện ra gã rnắt lồi đã biến đâu mất. Gã không dám nhìn mặt đồng loại, hay đã cuỗm được vô số của cải và tìm cách trốn về nước. Nhưng thôi, còn 189 người, thế là may. Tránh xa được một con thú ăn thịt người.

                      Mười một ngày trời sống trên doi cát, như thời Rôbinsơn Cruxô, dài hàng thế kỷ. Tôi gầy tọp như một que củi. Khắp người ghẻ lở. Tóc và râu tôi rậm rì chẳng khác nào ác quỷ…

                      Ngày… tháng… năm…

                      Có tin đồn các thuyền nhân sẽ được đưa tới trại ty nạn đao Songkla rồi được đưa đi Hồng kông hoặc Mỹ, Canada. Ai cũng mừng và nhanh chóng quên đi mười ngày sống nhu những kẻ hành khất trong những túp lều trống hoang với những đêm mưa nhiệt đói ướt sũng không thể nào chợp mắt.

                      Nhưng rồi tình hình có vẻ nghiêm trọng khác hẳn một cuộc chuyển địa điểm bình thường. Lính Thái quần áo rằn ri, có chó becgiê đi theo, tiểu liên lăm lăm, áp giải bọn chủ tàu và thuyền nhân đi một chặng đường thật xa. Thuyền nhân sẽ bị đưa đi đâu? Đi đày biệt xứ hay đi thủ tiêu như hồi thế chiến thứ hai Híttle đã làm với người Do Thái. Chúng tôi hoang mang đến cực điểm. Ngay từ thời Tây Sơn thắng trận Rạch Gầm, Xoài Mút, tiêu diệt gần hai mươi vạn quân Xiêm, người Thái đã chẳng ưa gì người Việt. Khi cộng sàn tràn xuống phía nam, lấn sang Campuchia thì họ càng thất kinh, lúc nào cũng lo một hiểm hoạ luôn rình rập.

                      Đoàn người rồng rắn đi chừng ba giờ đồng hồ thì đến một bến cá với hơn chục nóc nhà. Nhìn thấy con tàu cũ của chúng tôi mang biển số VT 1413 thì tất cả đều thất kinh. Thì ra suốt mười ngày nay người Thái điều nhũng thợ giỏi nhất đến để chữa tàu là muốn nhanh chóng tống khứ con tàu ma và những người bạn Việt không mời này ra khỏi đất nước họ.

                      Không ai bảo ai, người lớn trẻ con đều ngồi phịch xuống đường. Chúng tôi biểu tình, quyết không lên con tàu cũ của mình, quyết không ra biển nữa. Phải đưa chúng tôi đến Songkla, phải cho chúng tôi gặp Hôi Chữ thập đỏ, gặp Uỷ ban người tị nạn của Hôi đồng Bào an Liên Hợp Quốc.

                      Tôi đã dùng tất cà vốn liếng tiếng Anh và một vài tiếng Thái cùng những động tác chân tay để đàm phán ngoại giao với viên chỉ huy, nêu rõ nguyên vọng của mọi người, nhưng vô ich. Viên chỉ huy với bộ mặt sắt chỉ biết đúng ba từ tiếng Anh "Vietnam no good ", xua tay như xua tà, ra lệnh cho binh lính thi hành nhiệm vụ.

                      Đạn rôm rốp lên nòng. Lưỡi lê sáng quắc. Chó becgiê vừa gầm gừ vừa lùa đoàn người ra cầu tàu. Cứ hai người lính Thái một cặp, khuân từng người quăng xuống tàu. Tiếng khóc, tiếng gào thét như sắp phải xuống địa ngục.

                      Rồi tàu hải quân Thái nổ máy, kéo con tàu VT 1413 ra khơi, giữa đêm tối mịt mùng.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Sau khi tàu hài quân Thái cắt dây, tàu chúng tôi chạy tiếp một ngày một đêm nữa thì đụng một hòn đảo. Lần này là đất Mã Lai. Thấy bãi cát trắng trải dài dọc hàng dừa xanh, thấp thoáng những toà nhà ven biển có cắm cờ, chúng tôi đoán đây là một khu nghỉ mát.

                      Trước khi đổ bộ lên bờ, chúng tôi bàn nhau tìm cách phá tàu đục cho tàu chìm, làm cho máy hỏng để khỏi bị kéo ra khơi thêm lần nữa. Trăm lạy ngàn lạy vua Thuỳ Tề, chúng con không dám đùa rỡn với người nữa rồi.

                      Người Mã đã chuẩn bị sẵn để đón tiếp những bạn Việt. Lính Mã, quần áo rằn ri, trang bị như thuỷ quân lục chiến Mỹ tập trung chúng tôi trên bãi cát, lần lượt gọi tùng người đến một cái lều bạt để khám. Họ tuyên bố: Đây là vấn đề an ninh.

                      Tiền bạc nữ trang họ sẽ giữ hộ. Đám đàn bà con gái sợ co rúm. Ho biết chắc bon lính lại giở trò ma. Sau bao phen tam khoanh tứ đốm bị hai tặc nhiều lần lột truồng cuỗm sạch, nào ngờ vẫn còn nhiều người giấu lại được vàng và hạt xoàn. Một số người tinh khôn, lùi lại giấu của dưới bãi cát. Nào ngờ sau một hồi khám xét, tất cả thuyền nhân phải chuyển đi ngay. Những người giấu của dưới cát đành không có cơ hội tìm lại.

                      Chúng tôi bị lính Mã áp giải như bọn tù nhân. Dân Mã nhìn người Việt bằng ánh mắt khinh bỉ, hằn học. Du khách phương Tây chạy theo chụp hình. Ngày mai trên các kênh thông tin toàn cầu, hình ảnh chúng tôi sẽ bị bêu lên như những kẻ mạt vận đáng thương nhất của nhân loại.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Chúng tôi trở thành tù nhân trên xứ người theo đúng nghĩa đen của từ này. Lính Mã nhốt chúng tôi trên một khu đất một bên là con lạch sâu, một bên là rừng dừa nước, phía trước là đồn canh biên phòng. Đến trước chúng tôi đã có 37 thuyền nhân của con tàu mang biển số ĐN 2067 đi từ Cần Giờ. Tàu ĐN 2067 nhỏ hơn tàu chúng tôi, khởi hành trước chín ngày, chở 83 người, nhưng chỉ còn 37 người sống sót. Bọn hai tặc đã cướp tàu, giết chết và quăng 46 người xuống biển.

                      Để trừng trị tội phá tàu, nhà chức trách Mã bỏ đói chúng tôi ba ngày, không tiếp tế lương thực, thuốc men. Người của tàu ĐN 2067 thương hại sẽ chia trong cơn hoạn nạn. Một vài phụ nữ phải lén vào đồn cho lính Mã giải buồn để có một chút đồ ăn, thuốc ngừa. Bẩy Trà cũng vào tình cảnh này.

                      Mười bẩy ngày bị cầm tù trên xứ người, phải đi chặt dừa nước, kiếm cây dựng lều, kiếm củi, mò ốc bán lấy tiền đổi gạo… khiến tôi bị ho ra máu. May mà có phái đoàn Hồng thập tự đến cho thuốc kịp thời, cơn ho của tôi đã tạm dứt.

                      Ngày… tháng… năm…

                      Con tàu biển số VY 1413 của chúng tôi, đã được nhà chức trách Mã sửa chữa xong, đang đứng trực sẵn ở cầu tầu. Nhìn thấy nó là thấy bóng tử thần. Tất cả đều kinh hoàng táng đởm khi phải bước chân lên sàn tàu kia. Nhưng định mệnh đã sắp đặt. Làm sao mà cưỡng nổi. Ra khơi lần này, tàu chúng tôi còn có bạn đồng hành là tàu ĐN 2067 chở theo 37 người số may còn lại.

                      Dây được buộc lần lượt từ tàu hải quân Mã vào tàu chúng tôi tiếp đó từ tàu chúng tôi lại buộc sang tàu ĐN 2057, mỗi tàu cách nhau chừng một trăm mét.

                      Buổi sáng nắng chói chang. Nếu tôi không lầm thì đúng vào những ngày này bẩy năm về trước, Sài Gòn thất thủ. Sáng 30 tháng tư ấy mẹ con Miên đã ra cửa chờ sẵn để theo bố và anh trai di tản. Nhưng tôi đã hiên quyết ngăn cuộc ra đi này. Vì tôi phải gặp lại u và nhũng người ruột thịt. Tôi phải trở về làng Động. Tôi yêu nước Việt.

                      Bây giờ, cuộc ra đi của tôi đã quá muộn và hình như không thuận ý trời. Chúng tôi đến đâu cũng bị xua đuổi. Không có nơi nào cho chúng tôi dung thân…

                      Tàu hải quân Mã kéo hai tàu chúng tôi về phía đông nam với vận tốc chóng mặt. Đã quen sóng gió rồi, tàu lắc khủng khiếp, nhung chỉ ít người nôn oẹ. Mà có gì trong bụng nữa đâu Chỉ có cơn khát cồn cào. Nhiều người xin nước uống. Lính Mã chỉ xuống biển.

                      Gần sáng, chắc đã đi xa hải phận Mã Lai, tàu chiến Mã cắt dây. Chính lúc này chúng tôi đã rơi vào thảm hoạ.

                      Số là đang chạy với tốc độ quá lớn, trời lại tối, sóng lớn mù mịt, bị cắt dây bất ngờ, tàu chúng tôi hẫng lại, vừa quay tròn, vừa dụng lên cao. Tàu ĐN 2067 cũng mất đà, chồm tới, đâm sầm vào hông tàu tôi. Con tàu bật trở lại. Tôi nghe thấy một tiếng động khủng khiếp. Rồi ngất đi.

                      Tỉnh lại, thấy mọi người im như chết. Tôi bò đi lay từng người. Thì ra sự va đập quá mạnh, nhiều người cũng giống tôi, bị chết ngất. Hơn một giờ sau, chúng tôi mới hiểu ra sự tình. Đúng giây phút con tàu của chúng tôi mười mươi bị chìm thì tài công Hiêu đã nhanh chóng cắt dây, nên cuộc va đập không bị vỡ tàu. Nhưng con tàu xấu số phía sau, do không chắc tay lái, đã không giữ được thăng bằng, quay tròn với sức văng ly tâm cực lớn, bị sóng tung lên cao rồi lật úp xuống. Sự cố xảy ra rất nhanh. Đến khi tàu chúng tôi hoàn hồn, nhìn lại phía sau thì không thấy bóng dáng con tàu đồng hương đâu nữa.

                      Thương thay 37 thuyền nhân xấu số. Tưởng họ may hơn 46 người cùng hội cùng thuyền, ai ngờ họ cũng bị chôn vùi dưới đáy biển…

                      Ngày… tháng… năm…

                      Con tàu của chúng tôi bị mất la bàn, như con tàu mù, lao bừa về hướng mặt trời mọc.

                      Buổi chiều, trời bỗng đen kịt, giông gió nổi lên. Mưa trút xối xả. Tàu lại như mảnh vỏ trấu trên nồi cám lợn đang sôi. Moi người lầm rầm khấn Phật. Tôi làm dấu Thánh. Chỉ còn biết cầu mong ở đấng tối cao.

                      Có ánh đèn phía trước. Biết là tàu đã tấp vào một hòn đảo. Mọi người háo hức lội vào bờ. Vừa đặt chân xuống nước, nhiều người đã kêu thét vì đáy biển lởm chởm đá san hô cứa chân toé máu.

                      Lần này thì tròi đã có mắt. Chúng tôi đã đến đất Nam Dương. Người dân ở đây đón chúng tôi thân thiện và cỏi mở.

                      Một người đàn ông biết tiếng Anh tình nguyện làm hướng dẫn viên đưa tàu chúng tôi tới Le Tung cách đây không xa. Theo lời người dẫn đường thì Le Tung là nơi có cơ man người tị nạn Việt Nam.

                      ***

                      Sau hai mươi chín ngày thập tử nhất sinh, nhiều lần tưởng rơi vào móng vuốt thuỷ thần, tới Le Tung, con đường đến miền đất hứa của tôi mới phần nào hé lộ. Tôi gặp khá nhiều người quen, nghe biết tin tức thời sự và tình hình ở nhiều nơi. Tôi gửi tin ngay cho Miên và các con và cho địa chỉ liên lạc.

                      Le Tung là trung tâm một quần đảo có bốn đảo nhỏ, thuộc đất Nam Dương. rất gần Mã Lai và Singapore. Từ năm 1975 tới nay, do dòng người tị nạn Việt Nam ồ ạt đến, nơi đây đã trở thành một khu đô thị sầm uất.

                      Phố xá hẹp, chạy ngoằn ngoèo ven đáo, nhưng san sát các sạp hàng, bày bán đủ thứ như chợ Nguyễn Thông gần ga Hoà Hưng, Sài Gòn. Người bán chủ yếu là người Hoa, người In đô, người mua là thuyền nhân Việt. Theo nhà chức trách, tàu chúng tôi là tàu thứ 372 đến đảo. Đã có hàng nghìn người đủ tiêu chuẩn được chuyển sang Singapore để đáp máy bay đi Mỹ. Nhưng cũng có cả nghìn người phải ở lại, vì sức khoẻ không đảm bảo, vì thân nhân không rõ ràng, vì thiếu người bảo lãnh… Số người này xoay ra tìm cách kiếm sống lâu dài.

                      Họ làm đủ nghề, từ khuân vác, gánh nước thuê, vào rừng chặt củi chặt cây dựng nhà, xuống bãi mò cua sò, mở hiệu tạp hoá, làm đầu, đi trích ngừa, dạy tiếng Anh, ăn xin, trộm cắp, làm đĩ. Rất nhiều người đã đến trước chúng tôi hàng nửa năm. Họ đang xếp lốt chờ khám sức khoẻ và phỏng vấn.

                      Ơ Le Tung một tuần, chúng tôi lại được chở sang đao Ruồi, cách chừng hơn hải lý, nơi có trại tị nạn do Liên Hợp Quốc bảo trợ. Từ đây chúng tôi đã được sống bằng tiền bố thí của Liên Hợp Quốc với tiêu chuẩn 3 USD một người một ngày.

                      Gọi là đảo Ruồi, vì ở đây cơ man nào là ruồi. Dân tị nạn hàng chục ngàn người, ở tràn lan, các lán trại hàng hàng san sát. Sáng sáng người ngồi chồm hỗm đen đặc bãi biển. Lính In đô cầm roi đuổi, nhưng không xuể. Một dải bãi cát dài bốc mùi khai thối nồng nặc. Tệ phóng uế bừa bãi, khiến ruồi bọ phát sinh, bu theo từng đàn đen kịt. Ban ngày cũng phải ngồi ăn trong mùng. Nhiều người bị mụn nhọt, không có bông băng phải lấy giấy báo quấn đầy chân tay để tránh ruồi. Ruồi kéo theo bệnh tả và thương hàn, làm chết hàng chục người. Phái đoàn HCR đến phỏng vấn, phái đoàn Mỹ đến thăm, phới bỏ nửa chừng vì ruồi quấy nhiễu…

                      Một thanh niên của tàu MH 1172 mới đến, bị người In đô treo cổ trên cây dừa vì tội vào nhà thờ Hồi Giáo ăn trộm thùng tiền công đức. Người bản địa ngày càng khinh ghét dân tị nạn. Một lần đi bắt sò, bị một thanh niên In đô chửi vỗ mặt bằng tiếng Anh: "Vietnames is the doges" (Dân Việt Nam là đồ chó ghẻ), tôi đã toan xông đến đấm vào mõm hắn ta.

                      Tôi mở lớp dạy tiếng Anh cho các cháu con em người quen để chờ đợi.

                      Hơn năm tháng đợi chờ. Làm các thủ tục. Khám sức khỏe. Chụp hình. Trả lời phỏng vấn. Cuối cùng tin vui đã đến: Tôi có tên đi Mỹ.

                      Vậy là sau sáu tháng mười hai ngày, trong đó có hai mươi chín ngày thập tử nhất sinh nồi chìm trên biển và trong nanh vuốt tử thần, buổi sáng thần tiên ấy, chiếc máy bay Boeing 747 mang cờ hiệu Hoa Kỳ đã chở những thuyền nhân khốn khổ chúng tôi từ phi trường quốc tế Singapore băng qua Thái Bình Dương tới Los Angeles. Chỉ hơn chục tiếng đồng hồ nữa thôim tôi sẽ gặp vợ con tôi sau bốn năm xa cách. Tôi sẽ đặt chân tới miền đất hứa, nơi mà để tới được, tôi đã tìm sự sống trong cái chết, đã phải đổi bằng sinh mạng, với tất cả nỗi tủi nhục ê chề và những ngày vô cùng khủng khiếp mà chỉ những ai đã vượt qua địa ngục mới hình dung ra nổi.

                      Nhìn xuống Thái Bình Dương hun hút dưới cánh máy bay, mấy lần tôi bật khóc. Ước gì tôi có một vòng hoa và mở cửa để thả xuống, để cầu chúc cho hàng vạn đồng bào xấu số của tôi đã tan hoà vào mịt mùng biển thẳm.

                      Comment


                      • #26
                        Chương 27

                        Đối thoại Đông Tây


                        Mười hai năm sau, phần II hồi ký "Kẻ tha hương", mới được tác giả Nguyễn Kỳ Vọng hoàn thành tại Mỹ. Ông viết trong dịp nằm bệnh viện hai tháng vì vụ tai nạn dập bàn chân khi chỉ huy thi công một công trình cho cộng đồng người Việt ở New Orleans. Lật giở lại cuốn sổ tay nhoè nát vì thời gian, vì nước biển ghi lại sáu tháng mười hai ngày địa ngục trần gian ấy, vừa viết, nước mắt ông vừa nhỏ thánh thót xuống các con chữ.

                        Độc giả đầu tiên có may mắn được đọc những dòng hồi ký độc nhất vô nhị trên thế gian này, là nhà văn cộng sản Châu Hà.

                        Theo lời mời của tổ chức "Các nhà văn viết về chiến tranh" của Mỹ, gồm phần lớn những người từng tham chiến ở Việt Nam, đoàn nhà văn Việt nam đầu tiên do nhà văn Tổng biên tập báo Văn Chương, dẫn đầu, đã sang thăm Hoa Kỳ một tháng hai mươi bẩy ngày.

                        Cuộc viếng thăm có tính chất ngoại giao nhân dân để chuẩn bị cho tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đã bị hoãn đi hoãn lai tới ba lần vì không hề đơn giản. Bởi phía Mỹ đưa ra một danh sách chín nhà văn do họ chọn, trong đó có nhà văn Châu Hà và nhà thơ Trần Nhân Ảnh.

                        Văn phòng đại diện Mỹ tại Hà Nội chỉ cấp hộ chiếu cho những người khách này. Phía Việt Nam muốn rút một số tên, muốn thêm một số tên khác. Người mà phía Việt Nam đề nghị rút tên đầu tiên là Châu Hà, với lý do ông đang là Tổng biên tập báo Văn Chương, một tờ báo hàng đầu, cơ quan ngôn luận của trí thức, văn nghệ sĩ. Bản thân ông là một yếu nhân, là cán bộ lãnh đạo cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý. Ông phải có đanh sách trong một phái đoàn cấp nhà nước, Chính phủ Hoa Kỳ phải có lời mời chính thức theo đường ngoại giao chứ không thể đi theo cách dân dã thế này.

                        Nhưng, nguyên nhân đề nghị rút tên Châu Hà, thực chất, không sang trọng đến như vậy.

                        Người hiểu rõ chuyện này, như nằm trong chăn, không ai khác là Văn Quyền. Từ ngày tạp chí Văn chương đổi thành tuần báo Văn Chương và cái chức Tổng biên tập tuột khỏi Văn Quyền để rơi vào tay Châu Hà, Quyền thù Hà ra mặt. Số báo Văn Chương nào vừa ra, Quyền cũng đeo kính lúp xăm soi từng chữ, từng dấu phẩy. Ai báo cáo với Trung ương vụ đăng truyện ngắn "Thần linh" báng bổ lãnh tụ, hạ bệ thần tượng? Ai trực tiếp lên gặp cấp lãnh đạo tối cao cảnh báo về loạt bài: "Chủ nghĩa phải đạo trong văn chương", "Khúc ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ", "Hãy cáo chung dòng văn chương cổ động", "Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, hay là nửa chiếc bánh mỳ" v.v và vv… Văn Quyền chứ ai. Quyền vừa báo cáo vừa khóc trước mặt Trưởng ban X. rằng, cả bọn viết loạt bài này lẫn kẻ cho đăng loạt bài này, mà cụ thể là ông Tổng biên tập Châu Hà, đang bán đứng Chủ nghĩa xã hội, đang tiếp tay cho thế lực thù địch làm cuộc diễn biến hoà bình một cách tinh vi và xảo quyệt. Rằng, nếu Trung ương không đề cao cảnh giác thì Việt Nam sẽ giống như các nước Đông Âu và Liên Xô, mọi thành quả của cách mạng sẽ sụp đổ tan tành. Công sức, máu xương của hàng triệu triệu người sẽ thành công cốc. Rằng, đây là động thái dạo đầu cho thứ chủ nghĩa đa nguyên đang ngấm ngầm hình thành trong trí thức và văn nghệ sĩ. Lịch sử từ cổ chí kim, bọn văn sĩ trí thức thường khơi mào cho những cuộc lật đổ, quân sư đắc lực cho bọn phiến loạn…

                        Đồng chí Trưởng ban nói:

                        - Trung ương có biết những vấn đề này. Nhưng văn nghệ là một lĩnh vực nhạy cảm. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói văn nghệ sĩ hãy tự cởi trói. Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Chúng ta xiết chặt, sẽ vi phạm quyền tự do, dân chủ, sẽ tạo cớ cho Mỹ và các nước Tây Âu tố cáo ta về nhân quyền. Vả lại Châu Hà đã kinh qua thử thách chiến trường ác liệt, phải tin đồng chí ấy.

                        Văn Quyền đấm ngực thùm thụp:

                        - Đồng chí ơi, tôi xin lấy danh dự người cộng sản, một người lính Cụ Hồ vẫn còn mang trong đầu mảnh đạn quân thù, xin báo cáo với Trung ương rằng, nhà văn Châu Hà bây giờ đã trở thành một người hoàn toàn khác, đã thay máu gần hết rồi. Sang Mỹ, chắc chắn Châu Hà sẽ gặp Xuyên Sơn, tên bồi bút chiêu hồi phản động. Vì họ từng là bạn chí cốt của nhau. Từ ngày nắm tờ báo, tuần nào Hà cũng tụ tập ở nhà Nguyễn Kỳ Vỹ những nhân vật tiền chiến và nhân văn… Loạt bài lý luận về "Chủ nghĩa hiện thục vô bờ bến" của Garôdi, về Freud, Nietzche, Chủ nghĩa hiện sinh, Hậu hiện đại… là do Châu Hà đặt hàng Nguyễn Kỳ Vỹ dịch. Nếu đồng chí không tin thì tôi buộc phải đưa đồng chí đọc bản đề dẫn do chính tay Châu Hà viết định trình bày trước Đại hội các nhà văn, nhưng rất may là đã không được thông qua…

                        Bản đề dẫn Văn Quyền trịnh trọng đặt trên bàn Trưởng ban X, có tựa đề: "Vì một nền văn học đậm bản sắc dân tộc, đồng hành với nhân dân", do Châu Hà khởi thảo bằng chữ viết tay. Đọc xong, Trưởng ban lạnh toát người. Ông thầm biết ơn Văn Quyền đã cho ông thấy những vấn đề cực kỳ gai góc phức tạp của giới văn nghệ sĩ, mà ông, vốn trưởng thành từ một cán bộ phong trào ở địa phương mới được Trung ương điều động lên, chưa nắm bắt được. Kiểu này mất nước như chơi. Để bọn văn nghệ sĩ nắm được quyền lãnh đạo, chúng sẽ thiết lập lại chế độ tư bản, hô hào đa nguyên đa đảng, đi theo vết xe đổ của các nước Đông Âu, thì tất cả những ai đang nắm giữ các chức vụ trong chính quyền sẽ phải dựa cột hết. Chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp sẽ không còn đất chôn…

                        Chỉ một cú điện thoại của Trưởng ban X, Châu Hà đã bị loại ra khỏi danh sách.

                        Nhưng phía Mỹ không chịu nhượng bộ. Đại diện chính phủ Hoa Kỳ ở Hà Nội từ chối cấp visa cho đoàn nhà văn, nếu không có tên Tổng biên tập báo Văn Chương.

                        Trưởng ban X. vốn không phải là dân am hiểu văn hoá văn nghệ. Ông trưởng thành từ nông thôn, từng làm chủ nhiệm một hợp tác xã nông nghiệp nổi tiếng nhất miền Bắc. Bị phía Mỹ và Bộ Ngoại giao ta thúc ép, ông phải có ý kiến chính thức. Vốn là người chín chắn và thận trọng, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, ông đến gặp đồng chí Tư Vuông.

                        Mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng vai trò và ảnh hưởng của Anh Tư đối với ê kíp lãnh đạo đương nhiệm vẫn cực kỳ quan trọng. Ông có chân trong Hội đồng cố vấn Tối cao, là thành viên Ban nghiên cứu Chiến lược năm 2000.

                        - Tôi đã có ý kiến về bản đề dẫn của anh Châu Hà ngay từ khi nó được khởi thảo - Đồng chí Tư Vuông nói - Đây quả là một hệ thống luận điểm văn hoá văn nghệ có nhiều vấn đề mới mẻ, đi trước thời cuộc. Tôi nhớ tới cuộc tranh luận với Châu Hà về giới văn nghệ sĩ, khi cậu ấy mới ở chiến trường ra. Lúc ấy cậu ta có trách cứ rằng, cách mạng chúng ta ngoài khả năng bách chiến bách thắng còn có khả năng hoài nghi, nhất là hoài nghi văn nghệ sĩ. Và cậu ta công khai chính kiến, dám lên diễn đàn trong các cuộc thảo luận nghị quyết, dám đối thoại với cả Tổng Bí thư. Con người này uy vũ bất năng khuất lúc nào cũng nói thẳng nói thật. Bản đề dẫn này khó thông qua không phải vì nó sai mà chỉ vì quan điểm và tư tưởng của nó chưa thể phù hợp với hoàn cảnh cách mạng nước ta trong bối cảnh Liên Xô vừa tan rã, phe Xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Việt Nam đang muốn vào WTO, đang tìm hiểu kinh tế thị trường…

                        - Như vậy, việc anh Châu Hà sang Mỹ đợt này càng không có lợi.

                        - Đấy là theo cách hiểu của đồng chí - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên, cái bút danh mà rất lâu rồi đồng chí Tư Vuông hầu như không dùng đến, cảm thấy người kế nhiệm không hiểu ý mình - Theo tôi, nếu cần một gương mặt đại diện cho văn chương chống Mỹ thì Châu Hà rất xứng đáng…

                        - Nhưng nhỡ anh ta ở lại, hoặc phát ngôn bừa bãi? Trường hợp hai ca sỹ sang biểu diễn ở châu âu đã chuồn ở lại, tìm cách sang Mỹ…

                        Đồng chí Tư Vuông cười khẩy, thương hại sự non nớt của ông Trưởng ban mới được đề bạt:

                        - Văn nghệ sĩ cũng có dăm bẩy đường Nhưng phàm đã là nhà văn chân chính, lấy tiếng Việt mẹ đẻ để nhào nặn thành tác phẩm nghệ thuật, thì có đuổi người ta cũng không chịu bỏ Tổ quốc. Châu Hà là người như vậy. Để Châu Hà đi chuyến này, hoặc là Kinh Kha nhập Tần, hoặc là điệu hổ ly sơn. Đấy chính là một mũi tên mà nhắm hai đích. Đằng nào thì ông cũng tìm ra đối sách với Châu Hà. Ông còn muốn gì hơn nữa?

                        Trưởng ban ngớ ra không hiểu:

                        - Anh nói thế có nghĩa là…

                        Tư Vuông lại cười khẩy, vít cổ, rỉ vào tai anh bạn vàng.

                        Trưởng ban X, hấp hay mắt cười, gật đầu bái phục người tiền nhiệm sát đất.

                        Ngay hôm sau ông gặp Văn Quyền đả thông tư tưởng, rồi làm quyết định để Châu Hà đi Mỹ.

                        ***

                        Ở California, nơi tập trung đông nhất người Việt tị nạn, ngày đầu tiên đến nước Mỹ, năm nhà văn Việt Nam được đón tiếp nồng nhiệt bằng cà chua và trứng thối, cùng những lời la ó đả đảo thậm tệ. Nhà thơ Tiến Khanh bị một quả cà chua giữa trán, suýt phải đi bệnh viện.

                        Đến bang Lousiana, quê hương nhà thơ cựu chiến binh Uyliam Bôtơn, tưởng sẽ được tiếp đón ân cần, nào ngờ một nhóm người Việt quá khích trưởng cờ ba sọc, cũng đón tiếp đoàn bằng cà chua và trứng thối cùng một loạt băng rôn biểu ngữ với lời lẽ chống cộng điên cuồng.

                        Cầm đầu nhóm lưu vong phản động này là chuẩn tướng nguỵ Trương Phiên và bộ sậu của tờ báo "Máu đỏ da vàng" một tờ lá cải của tổ chức "Mặt trận Phục quốc" do nhà văn chiêu hồi Xuyên Sơn làm chủ bút.

                        Trương Phiên đã ngoài bẩy mươi, tóc bạc ánh kim, mắt sâu màu đồng thau, mỗi ngày uống nửa lít rượu, nên da mặt lúc nào cũng đỏ như gà chọi và chân đi lảo đảo. Có cảm giác như lão sẽ ngã bất cứ lúc nào nếu không có cây can bịt bạc, vật bất ly thân. Từ ngày chạy sang Mỹ, được chính phủ Hoa Kỳ trả phụ cấp đặc biệt theo diện những chiến hữu có công trạng chiến đấu cho thế giới tự do, cộng với lương hưu cao ngất ngưởng, vô công rồi nghề, lão tham gia vào nhiều tổ chức: "Gươm thiêng ái quốc", "Chuyển lửa về quê", "Hận núi sông", vv Khi tờ báo "Máu đỏ da vàng" ra đời, Trương Phiên khoái quá, tình nguyện làm cố vấn, đi vận động tài trợ và tham gia phát hành báo.

                        So với nhà văn Du San gầy gò ngày xưa, Xuyên Sơn bây giờ có vẻ xôi thịt và phàm phu tục tử quá chừng. Các chiến hữu ở quán nhậu bảo cái bụng của Xuyên Sơn là thùng tô nô đựng bia. Thực ra, nó đựng đủ thứ tạp pí lù. Bia và đủ loại rượu, ngoài ra là sản phẩm thuộc đủ các trường phái ẩm thực.

                        Tác giả tập bút ký bóp méo cuộc kháng chiến chống Mỹ: "Xương trắng đất Việt", vừa viết xong thiên tuỳ bút: "Tử thủ cùng Sài Gòn", phát ông ổng trên đài Quốc gia chưa trọn hai mươi tư giờ, đã vội bỏ tử thủ luôn, chuồn theo máy bay trực thăng quan thầy Mỹ, ra Hạm đội 7 đang đợi ngoài khơi. Sang Mỹ, Xuyên Sơn càng có đất dụng… văn. Hơn hai triệu người Việt thiếu quê hương, chữ quốc ngữ và tiếng mẹ đẻ là hồn thiêng gắn kết và lưu giữ họ với cố hương. Nhưng viết văn quá tốn công sức và tâm huyết, những thứ mà Xuyên Sơn đã mòn kiệt. Viết báo mì ăn liền phục vụ các độc giả thừa thời gian nhưng đói thông tin, thích chuyện giật gân, chửi bới, vừa nhanh, vừa dễ có tiền. Nhà văn Xuyên Sơn chuyển sang làm báo chuyên nghiệp. Ông lấy nhiều bút danh, có lúc không có người viết, ông phải biến báo vừa viết tin, vừa viết bài, ký năm, sáu tên trên một số báo.

                        Được ông chủ tịch "Mặt trận Phục quốc", vốn là Tổng trưởng Chiêu hồi kiêm nhà tài phiệt giàu nhất Sài Gòn, mời, Xuyên Sơn đứng ra tổ chức tờ "Máu đỏ da vàng", một cái tên gợi nhớ con Rồng cháu Tiên, rất dễ đánh lừa người Việt hải ngoại.

                        Thế mạnh của Xuyên Sơn là văn học. Cho nên, khi nghe tin có đoàn nhà văn Việt Nam sẽ đến thăm New Orleans, ông chủ bút tờ "Máu đỏ da vàng" đã cho đăng lại toàn bộ loạt bài "có vấn đề" trên báo Văn Chương:: "Chủ nghĩa phải đạo trong văn chương", "Khúc ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ", "Hãy cáo chung dòng văn chương cổ động", "Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, hay là nửa chiếc bánh mỳ"… Tất nhiên, có cả truyện ngắn "Thần linh", thủ phạm nguy hiểm nhất, suýt làm Tổng biên tập Châu Hà bị cách chức.

                        Với tất cả những người say mê văn học và những người làm báo hải ngoại, mấy năm gần đây, báo Văn Chương là tờ báo duy nhất trong nước, đã thổi vào họ một luồng gió mới. Họ cảm nhận được thời tiết chính trị trong nước qua bài vở và những sáng tác mới của các nhà văn. Họ coi Tổng biên tập Châu Hà, người chấn hưng báo Văn Chương, là người anh hùng của sự nghiệp đổi mới, nhà cách mạng đang dũng cảm hé mở bức màn đen của một trong những dinh luỹ cộng sản cuối cùng…

                        Xuyên Sơn không hề hay biết trong đoàn nhà văn sang thăm Mỹ có Châu Hà. Ngoài tình bạn, Nguyễn Kỳ Vỹ và Châu Hà là những nhà văn Xuyên Sơn kính trọng. Từ ngày Châu Hà làm báo Văn Chương, ông càng kính trọng.

                        Đăng loạt bài này, toà soạn "Máu đỏ da vàng" đã bộc lộ thái độ nhiệt liệt đồng tình với quan điểm: văn nghệ cần phải tách khỏi chính trị, phải là lực lượng xã hội phụng sự nhân quần, văn học và báo chí phải là quyền lực thứ tư, góp phần đẩy mạnh tiến trình tự do, dân chủ. Những dòng Shapeau in chữ to, chiếm gần hết trang nhất, là những lời quảng cáo nồng nhiệt: "Trong chế độ kìm kẹp hà khắc của chế độ cộng sản, mọi phương tiện thông tin tuyên truyền đều cùng một giọng điêu lừa phỉnh, giả dối, thì báo Văn Chương, tiếng nói của các nhà văn Việt Nam, đã dũng cam đăng một loạt bài chấn đông, làm nức lòng bạn đọc ca nước, vạch một lộ trình mói: tự do dân chủ cho văn chương, một sứ mạng mới của nhà văn: viết lên sự thật, phụng sự Tổ quốc và Dân tộc".

                        Để cho số báo đặc biệt thêm xôm trò, thu hút độc giả, Xuyên Sơn còn cho đăng hẳn một đoạn hồi ký về tình bạn giữa ông và Tổng biên tập báo Văn Chương. Bài này vừa có ý khoe rằng Xuyên Sơn đã có một người bạn như Châu Hà, nhưng đồng thời cũng như một cảnh báo: Chúng tôi tẩy chay văn chương cộng sản. Chúng tôi chỉ kính trọng những nhà văn có tâm huyết và dũng khí như Tổng biên tập báo Văn Chương…

                        Đoạn hồi ký nhắc lại kỷ niệm về mấy nhà văn, trong đó có Đà Giang (Châu Hà), Hàn Thâm Nho (Trần Nhân Ảnh), Du San (Xuyên Sơn), và Nguyễn Kỳ Vỹ. Vào thời kỳ Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, leo thang bắn phá miền Bắc, họ đã tụ tập tại nhà Vỹ, bàn nhau viết đơn bằng máu xin ra mặt trận.

                        Mấy anh chàng, có tác phẩm phơi bày sự thật về cải cách ruộng đất, từng bị ghi sổ đen, sách bị thu hồi, rất muốn nịnh nọt để được Đảng tin dùng. Khi thấy Đà Giang viết đơn băng máu, Du San bèn nói kháy rằng có thể đó là máu đỉa hoặc nước quả mồng tơi. Đà Giang liền nổi điên cầm chiếc điếu cày phang túi bụi. Rồi cả bọn ôm nhau khóc. Thương cho thân phận những anh văn sĩ tiểu tư sản bị nghi kị, bị ném ra ngoài rìa thời cuộc. Du San bảo: "Nhiều khi tao cứ ngỡ mặt mình dính cứt. Ấy là những lúc chi bộ họp, đuổi mình ra ngoài. Nhục không chịu được. Sau mới biết đó chỉ là cuộc họp để phân phối một cái lốp xe đạp, một mảnh xô màn… Viết đơn bằng máu, nếu được tin dùng, sướng còn hơn lau sạch đống cứt trên mặt, các bố ạ…".

                        Một nghìn tờ báo "Máu đỏ da vàng" số đặc biệt được phát không để thu hút mọi người tẩy chay bọn bồi bút cộng sản.

                        Đoàn người biểu tình đi rồng rắn trong khu Vợc-sai, phía đông thành phố, khu phố làng nổi tiếng với hơn năm nghìn người Việt sinh sống. Cảnh sát Mỹ phải vào cuộc, sẵn sàng tống giam những phần tử gây rối.

                        Lâu lắm rồi Trương Phiên mới lại có một ngày phấn khích đến cao độ. Cổ lão khản đặc vì hò hét, đả đảo. Lão đeo một túi cà chua lệch một bên sườn. Đến khi nhìn thấy năm thằng nhà văn cộng sản, trong đó có hai thằng mặc đồ quân giải phóng, đội mũ tai bèo, đi cùng hai nhà văn cựu chiến binh Mỹ trên chiếc xe mui trần có cảnh sát Mỹ hộ tống, thì cả người lão run lên cầm cập. Cái bộ quân phục màu cỏ úa cùng chiếc mũ tai bèo kia, bao giờ xuất hiện cũng gây cho lão sự táng đởm kinh hồn. Đó là hung tinh của đời lão, là hình bóng của tử thần, nỗi ám ảnh mang màu lửa và máu. Trời ơi, lão đã trốn biệt sang tận cái xứ sở xa xôi bên kia bán cầu này mà vẫn không thoát nổi chiếc mũ tai bèo. Cả một rừng mũ tai bèo, trùng trùng điệp điệp, như thiên la địa võng bủa vây lão tứ phía.

                        Những cái tên Khe Sanh, Cồn Tiên, Dốc Miếu ở vùng chiến thuật I; Đắc Tô, Pleyku, Ya Súp… ở cao nguyên Trung phần, Bình Long, Đồng Xoài, Bến Cát… ở Miền Đông, cứ ong ong, toé lửa trong đầu lão, tựa như có hàng trăm mối dây điện nhằng nhịt bỗng chập vào nhau…

                        Trương Phiên cầm sẵn trên tay quả cà chua, định nhằm một cái mũ tai bèo trên xe. Nhưng lão không thể nào ném đi nổi. Lão đảo người, như bị trúng gió, rồi ngã vật xuống đường.

                        ***

                        Cuộc biểu tình phản đối các nhà văn bồi bút cộng sản, thoắt cái, đã quay ngoắt một trăm tám mươi độ.

                        Không phải vì cú ngã của ngài chuẩn tướng Trương Phiên. Chủ bút báo "Máu đỏ da vàng" đã tự đốt cháy kịch bản.

                        Ấy là khi Xuyên Sơn bỗng nhìn thấy Châu Hà trong bộ quân phục giải phóng, đội mũ tai bèo, đang trên xe đi về hướng Nhà sinh hoạt văn hoá Tre Việt.

                        - Đà Giang… Châu Hà… Nhà văn Châu Hà!… - Xuyên Sơn vừa gọi, vừa đuổi theo xe, tay vẫy rối rít.

                        Cảnh sát chặn Xuyên Sơn lại.

                        - Hãy để cho tao đến với bạn tao, cái thằng cộng sản trên xe kia - Xuyên Sơn xổ ra một tràng tiếng Anh không kịp chia vecbờ với anh chàng cảnh sát da đen - - Dừng lại, Đà Giang… Châu Hà… Du San… đ… â… y…

                        Nghe gọi tên mình, Châu Hà ngoái lại. Đúng là Du San rồi. Gã chạy lạch bạch như vịt, cái bụng cóc lắc lư. Hình như gã quá sung sướng như bố gã đang sống lại. Châu Hà nói với tài xế cho xe chạy chầm chậm.

                        - Trời ơi, tôi không ngờ là ông lại đặt chân tới nước Mỹ… - Xuyên Sơn vừa thở, vừa chới với đưa tay về phía Châu Hà - Nhận ra ông, tôi mừng quá. Hoá ra linh cảm của tôi đúng. Tôi đã tổ chức hẳn một số báo đặc biệt để chào đón ông.

                        Một tay Xuyên Sơn nắm lấy tay Châu Hà, còn tay kia chìa ra tờ báo "Máu đỏ da vàng".

                        - Có gì mà phải chào đón… Chúng tôi chỉ là những mẩu xương trắng Đất Việt…

                        - Thôi mà! Đừng mai mỉa tao nữa, Đà Giang ơi… Xí xoá đi! Anh em mình sẽ còn gặp nhau tại nước Mỹ này…

                        Chiếc xe ấn còi đi tiếp. Xuyên Sơn quay lại đám đông như rắn mất đầu, đang vón lại hai bên đường:

                        - Giải tán thôi anh em! Người phía ta đó? Tổng biên tập báo Văn Chương, bạn tôi đó! Chúng ta ra số báo đặc biệt này là để chào mừng họ… Nào, cùng đến Nhà Tre Việt, anh em ơi!…

                        Cờ ba sọc, biểu ngũ, băng rôn… bị ném lại dọc đường. Mọi người theo Xuyên Sơn nhảy lên xe buýt.

                        Nhà Tre Việt là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các sự kiện lớn của cộng đồng người Việt tại New Orleans. Hội trường lớn có sức chứa sáu trăm người, khi năm nhà văn Việt Nam đến, đã chật cứng. Đón tiếp họ là Hội người Việt tại bang Lousiana, mà Chủ tịch Ban chấp hành là kỹ sư đặc hạng Nguyễn Kỳ Vọng.

                        Không thể kể xiết nỗi vui mừng khi Châu Hà gặp lại Nguyễn Kỳ Vọng tại ngôi nhà Tre Việt, cách xa quê hưong nửa vòng trái đất.

                        Họ ôm chầm lấy nhau, gục mặt vào vai nhau, lặng lẽ khóc. Thấm thoắt đã hơn mười sáu năm, kể từ ngày Châu Hà gặp Vọng ở nhà Khiêm. Lần ấy, ông đã cố thu xếp một chuyến xe để Vọng lên K27 thăm Nguyễn Kỳ Vỹ. Xe Vonga đen hẳn hoi. Tồng biên tập báo Tia Sáng, bạn ông, sẽ đích thân hộ tống hai anh em lên thăm "phần tử Xét lại nguy hiểm, chống phá cách mạng" là anh trai của Vọng. Thế rồi chuyến đi đành phải hoãn lại. Vọng có điện khẩn phải về Sài Gòn. Vợ và hai con gái ông di tản. Bốn năm sau, Vọng lại tiếp tục vượt biển. Vậy là qua hai cuộc chiến, rồi tiếp mười mấy năm đằng đẵng, hai anh em Vọng và Vỹ vẫn biền biệt xa nhau.

                        - Lúc nhìn thấy anh, tôi cứ ngỡ trong mơ. Không ngờ anh em mình lại có ngày hội ngộ… Anh với anh Vỹ hồi này có hay gặp nhau không?

                        - Tuần nào cũng gặp… Biết mình gặp Vọng thế này, Vỹ thèm lắm.

                        - Bên này, tôi có theo dõi báo Văn Chương… Ba tháng trước có tin đồn anh bị tù, giống như anh Vỹ…

                        - Đồn thổi đến thế kia ư? Thế là vu oan cho cộng sản chúng mình đấy.

                        - Bên này chúng tôi vẫn không tin cộng sản các anh… Hôm nay anh phải nói chuyện về tờ báo của anh, về tình hình đất nước. Anh có thấy bà con chào đón các anh như thế nào không?

                        - Tuyệt vời! Quá tuyệt vời! - Châu Hà trả lời Vọng mà như nói với chính mình khi ông nhìn xuống hội trường chật kín không còn một ghế trống.

                        Không có một ánh mắt thù hận.

                        Tràn ngập hội trường là tình thân ái, đồng bào.

                        Trong đời, đã bao nhiêu lần nhà văn Châu Hà đăng đàn diễn thuyết trước hàng nghìn học sinh, sinh viên các trường phổ thông, đại học, hàng vạn thợ mỏ, công nhân nhà máy, nông trường, thanh niên xung phong, bộ đội, xã viên hợp tác xã nhưng chưa bao giờ ông xúc động như hôm nay. Bởi lần đầu tiên, ông thoát xác khỏi một anh nhà văn tuyên huấn, nói những điều không phải của chính ông nghĩ, mà là của ai đó của tổ chức, của đoàn thể… Bây giờ, ông đang là chính ông, anh nông dân, anh bộ đội Cụ Hồ tên khai sinh là Mai Văn Nhạ, là người cầm bút có tên Đà Giang và Châu Hà. Ông đang trò chuyện với những người đồng bào cùng một dòng máu, một quê hương, một nước Việt mến yêu. Trước mặt ông là những người còn mang trên mình đầy thương tích của cuộc chiến đẫm máu, còn mang nguyên vẹn nỗi hoảng loạn cùng cơn đói khát tột cùng của những ngày vượt biển. Họ phải từ bỏ quê hương, từ bỏ anh em ruột thịt, từ bỏ ngôi nhà, mảnh vườn mà cả đời chắt chiu mới dành dụm được, để đến đây, đất khách quê người, để ngửa tay cầu xin sự bố thí, đe chịu sự ghẻ lạnh, khinh miệt, kỳ thị…Và bây giờ thì họ đang ngồi dưới mái nhà của họ để nghe ông, kẻ đã từng ở phía bên kia, có tên là Việt cộng. Kẻ đã góp phần đẩy họ ra khỏi Tổ quốc…

                        - Thưa bà con cô bác… Sự hiện diện của năm anh em chúng tôi cùng hai bạn nhà văn Mỹ, Uyliam Bôtơn và Tôm Joyxơ, hai cựu chiến binh đã từng tham chiến tại chiến trường Việt Nam, tại cuộc họp mặt vô cùng đầm ấm và chân tình này, đủ cho thấy rằng chúng ta gặp nhau hôm nay là để xoá bỏ hận thù. Tôi mặc bộ quân phục này, cũng như Tôm và Uyliam mặc bộ quân phục kia, chỉ cốt để nói rằng chúng tôi từng ở hai phía. Nếu tôi không lầm, chính tôi đã gặp anh bạn Uyliam đây tại chiến trường Quảng Đà mùa hè năm 1970. Chúng tôi đã chĩa súng vào nhau, đã bóp cò. Nhưng lạy trời, cả hai cùng bắn trượt.

                        - Riêng tôi thì lại toàn bắn lên trời - Nhà thơ Tiến Khanh ngồi bên đế vào, khiến hội trường cười ồ.

                        Châu Hà nói tiếp:

                        - Vì thế bây giờ Uyliam, Tôm và chúng tôi mới gặp nhau ở đây cùng khép lại quá khứ, coi nhau như những người bạn. Và chúng tôi đến với bà con cô bác mang dòng máu Việt tại thành phố New Orleans này, để nói về điều này: Đã đến lúc chúng ta phải cùng nhau bàn cách khép lại quá khứ, để hướng tới tương lai, xây dựng một nước Việt mến yêu đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…

                        Những tràng vỗ tay vang dội, khiến Châu Hà phải dừng bài diễn thuyết nhiều lần.

                        Những tiếng sụt sịt của phụ nữ và người già.

                        Có một tràng vỗ tay lạ ở phía cuối hội trường. Châu Hà nhìn xuống. Ông nhận ra bộ mặt đầy phấn khích của Xuyên Sơn.

                        Thì ra, chủ bút tờ "Máu đỏ da vàng, được xếp vào diện quá khích, không có giấy mời. Đích thân ông Nguyễn Kỳ Vọng phải can thiệp với ban tổ chức, tác giả "Xương trắng Đất Việt" mới vào được.

                        ***

                        Ngày mưa ở New Orleans.

                        Kế hoạch đi thăm cầu Pontchartrain, sân vận động Superdome, khu French Quarter, rồi công viên quốc gia lịch sử Jean Laffltte… đành phải hoãn lại. Bốn nhà văn đáp xe lửa đến thăm trang trại nhà Tôm Joyxơ. Riêng Châu Hà đến chơi nhà ông Vọng.

                        Đã sáu năm nay ông Vọng ở độc thân. Hầu như bạn bè thân thích, rất ít người biết chuyện này. Đây là nỗi đau riêng mà ông không muốn chia sẻ với ai.

                        - Tôi muốn được thăm Miên và hai cháu Vân, Vy…

                        Chưa nói hết câu, Châu Hà đã biết mình lỡ lời khi ông nhìn thấy trên giá, tấm ảnh một cô bé chừng hơn mười tuổi lồng trong khung đen.

                        - Cháu Nguyễn Lê Kỳ Vân, chị con Vy đấy bác ạ. Nếu sống, bây giờ đã vào tuổi ba mươi rồi. Cháu mất trên biển, trong chuyến ba mẹ con di tản. Miên và cháu Vỹ giấu tôi, cho tới khi tới Mỹ tôi mới biết. Mỗi lần viết thư về cho tôi, Vỹ đều giả chữ viết của chị. Suốt bốn năm, tôi cứ tin con bé vẫn còn sống…

                        - Cháu mất trên biển? - Châu Hà như không nghe rõ, hỏi lại.

                        - Vâng. Cháu Vân chỉ là một thuyền nhân xấu số. Anh có biết bao nhiêu mạng người Việt mình đã bị làm mồi cho cá biển trong cuộc chạy trốn khỏi Tổ quốc vừa qua không?

                        Ánh mắt Vọng vằn lên, dữ dội. Đôi mắt như hai móc xoáy, dọi thẳng vào Châu Hà, khiến ông hốt hoảng, quay đi.

                        - Chưa ai thống kê con số này - Vọng nói tiếp - Mười nghìn? Trăm nghìn hay hơn nữa? Hãy thử làm một phép tính: Hai triệu người vượt biển, nếu chỉ cần một phần trăm trong số đó rớt xuống biển…

                        - Sẽ là 20.000 người…

                        - Đó một nấm mồ khổng lồ dưới biển không ai hương khói. Nhưng sao lại một phần trăm? Sao lại chỉ có 20.000? Phải hàng trăm nghìn. Một vết đau của lịch sử đang cố bị quên đi. Thật khủng khiếp. Thật vô cảm.

                        - Có nhiều đến thế không? - Châu Hà bỗng choáng váng với những con số.

                        - Anh là một nhà văn, không thể không biết sự thật về cuộc di tản đau đớn và khủng khiếp nhất của lịch sử người Việt. Cuốn hồi ký này, tôi viết tặng anh Vỹ tôi. Nhưng anh ấy đã là phế nhân rồi…

                        Nguyễn Kỳ Vọng lấy trong tủ đưa cho Châu Hà tập bản thảo vi tính, bìa xanh màu nước biển, có tựa đề: Hồi ký "Kẻ tha hương".

                        Suốt buổi chiều, rồi cả buổi tối, Châu Hà như lên cơn sốt. Những trang hồi ký thiêu đốt ông. Ông muốn cấu xé, đập vỡ một cái gì đó. Ông tu rượu Brandy ừng ực. Kể từ hôm nay, cuộc đời ông sẽ không thể yên ổn.

                        - Cái chết của cháu Vân bi thảm quá - Vọng nói - Bọn hải tặc đã nhảy lên cướp tàu và hãm hiếp đàn bà con gái. Cháu Vân, mười ba tuổi, bắt đầu tuổi dậy thì. Bị làm nhục, cháu nó phát điên, gào thét, hoảng loạn, rồi cháu gieo mình xuống biển…

                        Mắt Châu Hà đỏ hoe. Ông đảo xung quanh, tìm một nén hương, nhưng không có. Ông chắp hai tay, đến trước tấm ảnh cô bé.

                        - Vân ơi, cháu tha lỗi cho bác. Bác có tội… Bác không biết làm gì để cứu cháu…

                        - Có lẽ tình cảm của Miên đối với tôi đã rạn nứt từ sau cái chết của cháu Vân - Vọng như tìm thấy người đồng cảm, muốn trút bầu tâm sự - Miên oán trách tôi vô trách nhiệm. Miên mệt mỏi vì bốn năm chờ đợi, phải một mình chống chọi với biết bao gian nan thử thách trên xứ người. Đến khi hai vợ chồng gặp lại nhau, gia đình sum họp, thì tình yêu của Miên đã chết…

                        - Không thuần tuý là như vậy… Tôi cảm thấy còn có một nguyên nhân khác?

                        - Đúng là không thể giấu được anh… Trong thời gian nhà tôi và cháu Vỹ đến ở Cali để chờ tôi, có một anh người gốc Mễ Tây Cơ luôn săn đón, giúp đỡ. Họ phải lòng nhau. Miên bảo, cô ấy dị ứng với tất cả mọi đàn ông người Việt. Toàn một lũ vô trách nhiệm và hèn hạ. Miên viết đơn ra toà đòi li hôn nhiều lần, nhưng tôi cố trì hoãn cho đến khi cháu Vỹ tốt nghiệp bác sĩ đi làm và xây dựng gia đình, tôi mới chính thức ly dị.

                        - Kết cục bi thảm vậy ư?

                        - Không còn cách nào khác. Tôi phải lấy công việc để khuây khoả. Thời gian này tôi được thăng kỹ sư công chánh đặc hạng, được Hội đồng thành phố New Orleans tuyên dương công trạng vì đã có công lao xây dựng tuyến hành lang dọc bờ sông Misissippi… Cũng may, cuộc đời không quá bất công. Người bạn gái Hà Nội thời trẻ đã bù đắp cho tôi quãng đời còn lại… Chúng tôi sống với nhau như những người bạn tri kỷ. Thỉnh thoảng nàng lại từ Bôtxtơn xuống, hoặc tôi từ đây lên…

                        - Có phải Tạ Thu Uyên, người đàn bà kiều diễm trong hồi ký "Kẻ tha hương" và là người trong bức ảnh kia không?

                        - Thu Uyên đấy. Nàng là mối tình đầu của tôi. Đã cùng tôi di cư vào Nam. Quá hận vì tôi đã khước từ nàng để lấy Lê Thuỳ Miên, Tạ Thu Uyên đã lấy viên thiếu uý theo đuổi nàng. Ông ta đã được thăng tới quân hàm đại tá. Nhưng rồi, viên đại tá ấy tử trận ở cửa ngõ Dầu Giây trước ngày Sài Gòn thất thủ.

                        - Xin chúc mừng cuộc tái hồi Kim Kiều - Châu Hà rót rượu ra hai ly, cầm một ly đưa cho Vọng. Hy vọng trong những ngày ở Mỹ, tôi sẽ được gặp Thu Uyên. Tôi hình dung ra một thiếu nữ Hà Nội thời trẻ. Bao nhiêu thương hải tang điền mà nàng vẫn kiều diễm, dịu dàng…

                        - Tôi hiểu anh đang nói đến nền tảng văn hoá, bản sắc dân tộc. Dù đi đến cùng trời cuối đất, người Việt mình cũng không thể hoà tan, biến mất trong biển lớn nhân loại. Anh đến Sài gòn Little ở Cali, hay đến Vécsai ở New Orleans vừa rồi, đã thấy rõ điều đó. Người Việt dù bị văng ra khỏi Tổ quốc thì họ cũng sẽ trở thành những tiểu vệ tinh luôn quay quanh đất Mẹ…

                        - Ông thực sự là một nhà văn. Ông có cái gien của Nguyễn Kỳ Vỹ. Đọc hồi ký của ông, rồi nghe ông nói, tôi tin như vậy. Ông có định viết một cuốn tiểu thuyết không?

                        - Tôi không có ý định. Vả lại số người Việt ở hải ngoại nhiều người đã chuyển sang đọc tiếng Anh. Nhà văn ở đây không có độc giả. Các anh có lợi thế là có tới tám mươi triệu người đọc…Vậy mà thật tiếc. Sao văn chương của chúng ta lại nhạt nhẽo, giống như văn kiện?

                        Châu Hà giật mình. Ông thấy má mình, hoặc ở đâu đó trên mặt, như có vết nhơ.

                        - Tôi nói anh đừng giận. Bời tôi từng có bốn năm ăn lương công chức cộng sản. Trong thời gian ấy tôi đã tìm đọc hầu hết các tác giả văn học thế hệ các anh… Tôi rất mừng vì báo Văn Chương của anh đã cho đăng loạt bài mà tờ báo của Xuyên Sơn ở bên này vừa in lại. Các anh đã tìm thấy căn bệnh. Nhưng các anh không dám dũng cảm chữa trị…

                        - Căn bệnh xã hội hay căn bệnh văn chương?

                        - Cả hai. Bởi văn chương của các anh chỉ là sự minh hoạ… Văn chương cũng như xã hội, mắc phải căn bệnh giả dối trầm trọng. Đời sống xã hội nước ta không tự nhiên như nó cần phải có. Lúc nào người ta cũng lên gân với nhau. Cha lên gân với con, chồng lên gân với vợ. Cấp trên lên gân với cấp dưới… Trẻ học mẫu giáo mà toàn như cụ non, cũng lên gân để cố yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, học vẹt những điều lớn lao, sáo rỗng. Chúng không được dạy yêu ông bà, cha mẹ, yêu cái gia đình nhỏ bé của mình, trước khi yêu những gì rộng lớn hơn… Văn chương thì chỉ một gam tô hồng, coi cách mạng Việt Nam là nhất thế giới, là tiên phong của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội là thiên đường, Tư bản là xấu xa, đang giãy chết… Căn bệnh chủ quan giáo điều, bệnh thành tích là nguyên nhân của thói giả dối, đạo đức giả. Hồi ở Phân Cục đường bộ phía Nam, mấy năm liền tôi đọc báo cáo tổng kết đều thấy viết năm sau thành công hơn, xuất sắc hơn năm trước. Nhưng thực tế đều ngược lại - Nguyễn Kỳ Vọng ngừng lại, gõ trán, rồi quay sang Châu Hà - Cái ông Phó Thủ tướng nước mình chuyên vác rá đi xin khối SEV tên là gì ấy anh nhỉ?

                        - Ông Lê Thanh Nghị.

                        - Đúng rồi. Ông Lê Thanh Nghị là một người đi xin vĩ đại. Bên này cứ tưởng khi Liên Xô tan rã thì các anh không trụ vững được nửa năm.

                        - Đó là thời kỳ khốn khó nhất của đất nước - Châu Hà rót một ly rượu uống cạn, mắt nhìn xa tít về phía cánh rừng sau nhà - Các ông chỉ nhìn thấy niêu cơm của nhà mình mà không nhìn ra vận nước. Cả nửa thập kỷ 70, 80, có ai để cho chúng ta yên để xây dựng hoà bình? Biên giới Tây Nam. Rồi biên giới phía Bắc. Mỹ bao vây cấm vận hơn chục năm trời. Anh em trong phe thì cắn xé nhau… Nhìn vào đâu cũng thấy mờ mịt, không xác định ra phương hướng… Ông có biết sau vụ đổi tiền, tình hình kinh tế như thế nào không? Năm 1986, lạm phát phi mã đến mức kỷ lục thế giới, kỷ lục mọi thời đại: bẩy trăm tám mươi phần trăm (780%)..

                        - Sao? Anh nói lại đi. Mức lạm phát ấy tôi chưa nghe nói đến bao giờ.

                        - Vậy mà nền kinh tế chúng ta đã thảm hại như thế. Năm 1987, Nghệ An, Thanh Hoá có người chết đói. Giáo viên nhận lương bằng phân đạm, mỳ chính. Trẻ em sơ sinh, phải có chứng nhận của bác sĩ, thừa nhận mẹ mất sữa mới được mua phân phôi bốn hộp sữa ông Thọ một tháng…

                        - Trời đất, hoá ra người tị nạn chúng tôi, ăn bố thí của Liên Hợp Quốc còn khá hơn…

                        - Ngày ấy nếu mở cửa tự do, sẽ có nửa nước ra đi. Tức là vài chục triệu người. Không phải chỉ sang Mỹ, Tây Âu, mà nơi nào dễ sống hơn là ào ào đến. Khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, gần nửa triệu người không về. Thà sống lưu vong, bất hợp pháp chứ quyết không về nước để bám đít con trâu, theo tiếng kẻng hợp tác, ăn bo bo, bột mì viện trợ. Ba mươi năm chiến tranh, hậu hoạ bây giờ mới ngấm…

                        - Vậy mà tôi không thể hình dung nổi. Công của Đảng hay công của Dân?

                        - Cả hai. Đó là thành tựu của công cuộc Đổi Mới. Từ chỗ đi xin ăn, chuyên nhập lương thực, năm 1989 ta đã bắt đầu xuất khẩu gạo. Năm 1990 đã xuất gần hai triệu tấn… Và bây giờ là bốn, năm triệu tấn, đứng hàng thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan. Chúng ta không những trụ vững mà còn trên đà phát triển…

                        - Nếu tôi không lầm thì sự thoát khỏi cái đói là do sự vận động của dân. Làm kinh tế tư nhân bây giờ cũng là do dân. Dân mình vĩ đại hơn là lãnh đạo các anh tưởng. Anh có hay xem đấu Quyền Anh không? Các võ sĩ lên võ đài, bị nockout, bị thâm tím mặt khi gượng dậy có anh nào bảo rằng sẽ cạch đến già, sẽ giải nghệ đâu? Tôi thua là do khi ấy tôi chủ quan không chú ý cú đòn móc phải. Tái đấu, nhất định tôi sẽ thắng… Làm chính trị là thế, cà cuống chết đến đít vẫn còn cay. Không đổ vỡ, không tan rã là do dân mình quá tốt. Dân mình quá tin yêu cách mạng chứ không phải do các anh tài giỏi gì đâu. Cụ Hồ nói Dân là nước, Đảng là thuyền, là chí lý đấy Các anh lái thuyền đi vòng vèo, đổi hướng xoành xoạch. Người ta làm một lần là xong, nhưng các anh luôn sửa sai, điều chỉnh. Nghị quyết này phủ định nghị quyết khác. Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930, Nam Kỳ Khởi nghĩa năm 1940, rồi Mậu Thân 1968, thành cổ Quảng Trị 1972… hy sinh toàn bộ lực lượng cốt cán, hàng vạn tinh hoa ưu tú nhất của dân tộc, thì các anh bảo là tập dượt, là tiền khởi nghĩa, là đêm trước của cách mạng… Nhân dân luôn là vật thí nghiệm… Và các vị, giống như người đẽo cày giữa đường, người gọt chân cho vừa giày… ở bên này nhưng chúng tôi vẫn thuộc câu ca: "Mất mùa là tại thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài Đáng ta". Dân biết hết cả. Nhưng dân mình hiền. Không nỡ giận con chuột mà đập vỡ cái bình quí. Lấy đại cục làm trọng, chứ không câu nệ cái tiểu tiết. Dân tộc mình như thế, văn hoá lịch sứ mình như thế, đất đai sông núi như thế, có kém gì nước Nhật, nước Hàn, nước Thái… mà mãi vẫn không trở thành cường quốc được, vẫn luôn xếp hàng cuối sổ của thế giới?… Đau lắm chứ…

                        Châu Hà không ngờ Vọng lại quyết liệt và đáo để đến thế. Ông ta đang muốn trút tất cả những ẩn ức, bực dọc lên đầu cái tay nhà văn bồi bút cộng sản.

                        - Nói như ông thì chúng tôi chịu. Bởi vì cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam mình không hề có kịch bản viết sẵn. Nhưng sao ông vô can, ông đứng ngoài cuộc? Lúc khó khăn nhất thì các ông rũ tay áo, bỏ nước ra đi? - Châu Hà chua chát. Ông cảm thấy mình đang bị thương tổn.

                        - Ai tin tôi? Ai cho tôi cống hiến? - Vọng cũng rót một ly rượu ngửa cổ uống cạn, rồi bỗng xấn xổ, như muốn dồn Châu Hà vào chân tường - Các vị có cả một hệ thống tổ chức từ cơ sở tới Trung ương để chọn lọc những người được cầm quyền. Từ tổ phó trở lên đã phải qua hệ thống sàng lọc trước khi đề bạt. Dân thường chẳng ai chen vào được. Đất nước của các vị chứ đâu phải của mọi người Việt? Anh có biết bạn tôi, nhà sử học Võ An Thới nói gì không? Anh ta bảo rằng các anh sổ toẹt hết lịch sử. Giành được nước là các anh đút túi như của cải riêng của mình. Các anh vô ơn, chẳng cần biết rằng đất nước này có tới bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, mà các anh mới chỉ là khoảng khắc, công lao như cái móng tay. Nếu không có công lao mở cõi của tổ tiên từ thời Lý, Trần, nếu không có Đoan Quận công Nguyễn Hoàng với cuộc vượt biển vào Ái Tử, Quảng Trị năm 1558, rồi tiếp đời các chúa Nguyễn đưa dân Việt vào mở mang khai khẩn, thì ranh giới nước Việt còn ở tận Châu ô, Châu Rí, tận Thuận Quảng, Phú Yên, chứ đâu có Sài Gòn, Cà Mau, Hà Tiên, Phú Quốc… cho các anh giải phóng? Vậy mà vừa vào Sài Gòn, việc đầu tiên của các hậu sinh là xoá sổ hết những con đường, những địa danh mang tên Nguyễn Hoàng và các hậu duệ, các công thần nhà Nguyễn… Trong câu chuyện này, người Nga họ sòng phẳng và tín nghĩa hơn chúng ta. Họ lấy lại tên Sankt Peterburg thay Leningrad để vinh danh Pier Đại đế, người anh hùng vĩ đại đã sáng lập nên thành phố bên bờ biển Ban Tích, đã đưa nước Nga lạc hậu trở thành cường quốc ở châu âu… Chúng ta thì khác. Độc quyền tất cả. Đến như một tình yêu nước nhỏ nhoi, thiêng liêng… - Nguyễn Kỳ Vọng uất nghẹn, trào nước mắt - Sang bên này, từ một kẻ tha hương, lê lết hết cửa này đến cửa khác để xin việc, thi lấy đủ thứ chứng chỉ, nhưng khi đã chứng tỏ được năng lực, thì tôi lại được tin dùng như mọi công dân Mỹ, trở thành kỹ sư công chánh đặc hạng, hưởng mức lương cao không kém thị trưởng thành phố. Người ta không cần biết tôi là người Việt, ghét hay thân cộng sản, chỉ biết tôi có năng lực làm việc, có lương tâm nghề nghiệp… là họ sẵn sàng tin dùng và trao cho những trọng trách. Còn hồi làm việc ở Phân cục Cầu đường, tôi không nhìn thấy tương lai. Tôi không thể nào thích ứng với một lối sống luôn bị áp đặt, luôn bị ức chế. Độc quyền trong thương hiệu hàng hoá, trong phát minh sáng chế, chiếm lĩnh tài năng, sẽ tạo ra sự cạnh tranh, sáng tạo, nhưng độc quyền yêu nước… sẽ tiêu diệt mọi khát vọng, tự do, dân chủ… Anh có khi nào nghĩ rằng mình đang là một tín đồ tôn giáo không? Được làm việc mấy năm với các anh, tôi hiểu ra rằng người ta đang biến học thuyết của Mác thành một thứ tôn giáo, lãnh tụ thành giáo chủ. Vì thế mọi hình thái của nhà nước, bầu bán nọ kia đều là giả vờ. Nhà báo nhà văn các anh cũng giả vờ viết. Các anh thụt lùi so với các cụ Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố một khoảng rất xa… Anh Châu Hà, tôi hỏi thật, có khi nào anh trăn trở rằng chúng ta đang rơi vào bi kịch của kẻ lập dị không? Trong khi thế giới đang đi trên một đại lộ rộng lớn, với đủ làn đường cho các loại phương tiện có động cơ, tốc độ khác nhau, thì riêng chúng ta lại chọn một con đường vô định… Thật quái đản, khi cuối cùng người ta đã phải thừa nhận nền kinh tế thị trường, nhưng lại cố gắn sau đó một cái đuôi…

                        - Nhận thức là một quá trình… Cái thời ấu trĩ trong tư duy, trong nhận thức và hành động sắp qua rồi… Chúng ta đã rút ra những bài học trong xây dựng kinh tế. Chúng ta sắp vào WTO. Việt Nam đang được thế giới đánh giá là nước có tốc độ phát triển thần kỳ…

                        - Anh đã mắc phải căn bệnh thích tổng kết và rút kinh nghiệm. Khi các anh kịp thời tổng kết và rút kinh nghiệm, thì lịch sử đã tiến một bước xa. Cải cách ruộng đất là một ví dụ. Khi chúng ta kịp sửa sai thì hàng vạn đảng viên ưu tú, hàng vạn những nhà quản lý nông nghiệp giỏi, đã bị nghi oan là địa chủ cường hào gian ác và bị hành quyết. Thầy tôi là một nạn nhân của tội ác lịch sử đó. Vụ khoán ruộng của ông Kim Ngọc ở Vĩnh Phú là một ví dụ khác. Đến khi nhận ra sai lầm, thì nông nghiệp, nông thôn đã kiệt quệ. Bây giờ, khi chúng ta đang rút kinh nghiệm tại sao Liên Xô và Đông Âu sụp đổ thì nước Nga, các nước Ba Lan, Hunggari, Bungari và kề cận ta là các nước Thái Lan, Malaixia, Singapore… đã tiến một bước xa vượt chúng ta hàng mấy thập kỷ… Rồi ai sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự tụt hậu này?

                        - Thôi, chúng ta không nói chuyện chính trị… Nhức đấu lắm - Châu Hà thở dài, giơ hai tay lên như xua ruồi. Ông biết, Nguyễn Kỳ Vọng có kiến thức sâu rộng chẳng kém gì một nhà xã hội học. Ông ta đưa ra những chứng cớ rất khó phản bác.

                        - Hiếm khi anh em mình gặp nhau, nên tôi muốn được trút bầu tâm sự để nhẹ lòng. Anh là nhà văn, chắc anh phải trăn trở hơn tôi rất nhiều. Bởi văn chương sẽ là vô bổ, nếu không ký thác được điều gì. Nhà văn nếu không phải là người phản biện của xã hội thì anh ta còn có ích gì? Anh có biết rằng sau đêm đón các anh ở nhà Tre Việt, tôi mơ thấy gì không?

                        - Mơ gì?

                        - Anh đừng giận. Anh đừng cho tôi là thằng xỏ xiên thì tôi mới nói.

                        - Mình đang ở trên đất Mỹ, đất nước được coi là tự do nhất thế giới…

                        - Tôi mơ gặp anh Vỹ tôi. Anh Vỹ mặc bộ quần áo trắng, treo ngược người, như trồng cây chuối trước nhà thờ ở Nguyễn Kỳ Viên. Tôi đến định cởi dây thừng cho Vỹ. Nhưng Vỹ xua tay và bảo: "Anh không muốn sống nữa". Tôi hỏi vì sao? Vỹ bảo: "Có nhà sử học vừa viết rằng Cách mạng nước ta không phải mãi tháng Tám năm 1945 mới thành công mà đã giành chính quyền từ tay thực dân Pháp từ năm 1930… Đọc đến đây anh không muốn sống nữa. Vì nếu như vậy thì văn học nghệ thuật nước nhà làm sao có được những trào lưu như Thơ Mới, Tiểu thuyết Thứ Bẩy, Tự lực Văn đoàn, những Tân nhạc, Mỹ thuật Đông Dương… mà hàng loạt tên tuổi lừng danh đã làm vẻ vang cho xứ sở, như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên…" Đến đây, thì tôi giật mình tỉnh dậy. Người toát hết mồ hôi.

                        Châu Hà không biết Vọng mơ như thế hay bịa ra một giấc mơ.

                        Và đến lượt ông, cũng toát hết mồ hôi.

                        ***

                        Trước khi đoàn nhà văn Việt Nam rời New Orleans để đến Washington DC, Xuyên Sơn gọi điện cho Châu Hà, tha thiết xin được gặp đoàn.

                        Châu Hà một mực khước từ. Ông thấy không có điều gì để nói với con người phản bội lý tưởng ấy nữa. Nhưng ông ta khóc lóc quá trời. Chiếc máy điện thoại tưởng như tuôn đầy vào tai Châu Hà nước dãi và nước mắt. Vốn thương người và không nỡ bất nhẫn, Châu Hà đành nhận lời.

                        Họ hẹn nhau ở Hà Nội quán, gần khu Shadow Brook. Xuyên Sơn và Trương Phiên cùng mấy người bạn đã đến từ trước và chuẩn bị một bữa ăn khá thịnh soạn.

                        - Hôm nay chúng ta sẽ sống một không khí thuần Việt để nhớ cố hương. Đây là sáng kiến của ông Trương Phiên, chuyên gia ẩm thực - Xuyên Sơn giới thiệu Trương Phiên và nhóm bạn bè với các nhà văn.

                        Trong khi mọi người làm quen, chụp ảnh, Xuyên Sơn kéo Châu Hà ra một góc, ra sức trổ tài khuyển mã để mong Châu Hà hãy tha thứ cho mọi tội lỗi của mình. Rồi ông ta vẫy tay, một cô gái mặc áo dài hoa hiên bước lại, đưa một tờ báo kèm một phong bì trên chiếc khay sứ.

                        - Ông có thể căm thù, hoặc khinh ghét tôi, đấy là quyền của ông. Nhưng lòng tôi đối với ông vẫn như thăng Du San đối với Đà Giang ngày nào. Nhân ông sang đây, tôi mạn phép đăng lại loạt bài của báo Văn Chương. Và gọi là có chút nhuận bút còm, 1.000 đô la…

                        Như bị điện giật, Châu Hà rụt phắt tay lại.

                        - Tôi đâu phải là tác giả? Và chúng tôi cũng không gửi bài cho các ông.

                        - Ông cứ cầm lấy mà tiêu. Đây là nguyên tắc báo chí. Lẽ ra chúng tôi phải xin phép trước khi đăng - Xuyên Sơn cầm chiếc phong bì dúi vào tay Hà, giọng nhỏ lại - Còn đây là 500 đô la của riêng tôi, nhờ ông chuyển cho Vỹ. Bên này bồi bút như tôi cũng không sống nổi đâu. Kiếm được tiền là nhờ trồng cần sa đấy… Nghe nói từ khi Vỹ ra tù, sức khoẻ yếu lắm?

                        - Cũng bình thường lại rồi. Biết tôi sang đây, Vỹ nó cấm không muốn tôi gặp ông… Ông gửi người khác đi.

                        - Giời ơi - Mắt Xuyên Sơn ướt nhoẻn - Cái thằng đã thành kiến với ai thì xúc đất đồ đi. Tôi phản động chứ đồng đô la nó có tội tình gì? Nó làm thế tôi càng thấy tội mình đáng chết. Đà Giang ơi, cứ cầm về đưa cho Vỹ dưỡng bệnh. Đừng nói tôi gửi.

                        - Kỳ cục chưa? Sao mấy văn sĩ lại uỷ mị thế này? - Chủ quán một trung niên có bộ râu đen ánh đến bên Xuyên Sơn từ lúc nào - Thôi, mời hai ông anh cùng các vị quan khách vào tiệc.

                        - Chúng tôi muốn chiêu đãi quí vị đặc sản thịt cầy bẩy món, nấu theo vùng ẩm thực trứ danh Phương Đình - Trương Phiên trịnh trọng nói lời phi lộ - Hồi tôi đóng quân ở làng Động, cụ Lý Phúc, thân sinh nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ và ông chủ tịch Hội người Việt ở New Orleans Nguyễn Kỳ Vọng đã dạy tôi thưởng thức món này. Và tôi nghiện cho đến bây giờ…

                        Mấy ông nhà văn cộng sản ngỡ như mình đang ngồi ở quán Trần Mục, Nhật Tân, hay ở một ngôi nhà đâu đó có hàng sau luỹ tre, và văng vẳng bên sông một tiếng ru hời. Mâm đặc sản thịt cầy với đĩa hấp bốc khói hôi hổi, đĩa dồi nướng màu cánh dán, bát nhựa mận ngào ngạt vị riềng, tô xáo măng vàng suộm, bát mắm tôm ngào bọt… rồi rau húng quế xanh rờn, lá mơ hồng tía, riềng thái lát, ớt đỏ tươi… một hoà sắc, quện hương, đầy quyến rũ…

                        - Đã là quốc hồn quốc tuý thì phải dùng thứ quốc tửu chính hiệu - Chủ quán lấy ra chai rượu nút lá chuối trong vắt - Giới thiệu với quý vị, đây là rượu Vân chính hãng, một người bạn từ Bắc Ninh vừa gửi sang. Có đủ các loại rượu ngoại hảo hạng và bia, nước giải khát trên bàn, xin dùng tự do, nhưng chúng ta phải mở đầu cuộc vui này bằng chén rượu quê nhà.

                        Rượu rót đầy các ly.

                        - Và để cho thấm đẫm tình quê hương xứ sở, mở đầu cuộc vui, các liền anh liền chị Quan họ của Hà Nội quán chúng tôi xin có màn chào hỏi.

                        Chủ quán Hà Nội vừa dứt lời, tiếng đàn nhị bỗng ngân vang. Sáu thiếu nữ, áo tứ thân, tóc bỏ đuôi gà, như từ quê hương Quan họ vừa sang, tha thướt nâng rượu mời khách.

                        Khách đến… ì… chơi… ì… i… ì… nhà, Hôm nay đây hỏi cô mình ơi… khách đến… ì… chén… ì. ~ i… nhà, Rượu ngon em nay đã rót… Rượu ngon em nay đã rót, mà này để… ối a… tay ngà, tay ngà chúng em trao…

                        - Nào, xin nâng cốc. Chúc mừng đất nước yên bình. Chúc con dân nước Việt xoá bỏ hận thù, hướng về nguồn cội…

                        - Chúc mừng.

                        - Xin chúc mừng…

                        Tiến Khanh bấm Châu Hà, nói thầm:

                        - Phải đề phòng diễn biến hoà bình…

                        Châu Hà gật gù:

                        - Thì chúng ta đang là sứ giả hoà bình. Người Việt tha hương tội nghiệp lắm…

                        Bèo dạt mây… ì… i… trôi…

                        Chốn xa xôi… anh ơi, em vẫn đợi ì… i… bèo dạt… mây… trôi Chim sa… tang tính tình… cá… i… vờn…

                        Hẹn một… tin trông… hai tin đợi… ba bốn tin chờ…

                        Sao chẳng thấy… ì… i… anh…

                        Tiếng hát làm Châu Hà cay mắt. Tiếng hát như lời trách cứ thổn thức, rưng rưng. Ở bên này đại dương, xa quê nhà ngàn trùng dặm thẳm này, nghe tiếng Quan họ, không thể cầm lòng được. Ôi, thật kỳ diệu là nền văn hoá Việt. Nó trói buộc người ta. Nó cởi bỏ phiền muộn, hận thù.

                        - Đà Giang ơi, bây giờ thì ông đã tha thứ cho tôi chưa? - Mắt Xuyên Sơn ướt nhoẻn, ông đến bên Châu Hà - Tôi mắc tội là kẻ phản bội, kẻ chiêu hồi. Nhưng ngày ấy, thực tình tôi không tin rằng chúng ta sẽ thắng. Gian khổ quá. Khốc liệt quá. Tôi không chịu đựng nổi…

                        Thôi, chuyện qua rồi… Tôi mừng vì ông vẫn là một người Việt.

                        - Tôi không dám viết văn nữa ông ạ. Không đủ tư cách cầm bút. Giờ tôi chỉ là một bồi bút kiếm ăn. Như thơ Nhã Ca: "Đổi họ thay tên viết văn làm báo. Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo". Nhưng mà ông có tin không, tôi yêu nước Việt. Tôi muốn về thăm quê. Ông có giúp tôi trở về quê Việt không?

                        - Đất nước đang mở vòng tay đón những người con xa…

                        - Thật thế chứ? Các ông cho chúng tôi được yêu nước cùng với chứ? Tôi nghe nói Chính phủ Việt Nam đã nhìn nhận Việt kiều như một bộ phận không tách rời của dân tộc. Nhưng nghe ông nói tôi mới tin…

                        - Tôi cũng xin được về quê với - Trương Phiên có vẻ ngà say. Lão kéo Xuyên Sơn ra, ngồi cạnh Châu Hà, rót thêm rượu vào hai ly - Từ lâu tôi đã ra khỏi tổ chức "Việt Nam Phục quốc" rồi… Tôi đã có khoảng cách để nhìn rõ tội ác của mình. Tôi đáng tội tùng xẻo vì đã giết bao mạng người Việt vô tội. Tôi là tên đồ tể mang dòng máu Việt. Nhưng biết sao được? Chúng ta chỉ là những con tốt trên bàn cờ thế sự… Thôi, tha tội cho lão già gần đất xa trời này nhé… Tôi uống để tỏ lòng kính trọng một nhà văn bản lĩnh như ông… Cạn nhé… Cám ơn Bây giờ, tôi muốn hỏi ông chuyện này. Ông trong giới lãnh đạo chắc có biết bà Đào Thị Cam…

                        Châu Hà chau mày nhìn Trương Phiên.

                        - Bà Đào Thị Cam hồi chống Pháp hoạt động ở Sơn Minh… Nghe nói làm chức gì to lắm, trong ban lãnh đạo phụ nữ… Đấy là nguyên mẫu văn học của tôi - Châu Hà bỗng nhớ tới truyện ký "Người đẹp Sơn Minh hay là huyền thoại về Ni cô Đàm Hiên" - ông quen chị Cam à? Chị ấy từng trong Ban lãnh đạo Hiệp hội Phụ nữ. Nhưng đã nghỉ hưu lâu rồi.

                        - Đó là người đàn bà tôi không thể nào quên được… - Trương Phiên đờ đẫn, như thể lão đang sống lại những năm tháng tuổi trẻ - Nửa cuộc đời của tôi đã để lại ở Sơn Minh đấy ông ạ. Nghe nói ngôi đình làng Động nổi tiếng, sau khi chúng tôi rút quân đã bị giật đổ… Thề có thánh thần, tôi không làm việc ấy. Tôi có tội lớn với làng Động, với bà Cam… Ông ơi, cho tôi gửi lời hỏi thăm bà ấy nhé - Trương Phiên lấy từ trong tủi áo một chiếc hộp nhỏ đã được chuẩn bị từ trước – Nếu ông thấy không phiền thì cho tôi gửi đến bà ấy một chút quà. Không có gì phải bí mật đâu. Đó chỉ là một sợi dây thánh giá con gái tôi đã tặng tôi để cầu phúc. Tôi gửi bà Cam để cầu mong cho bà ấy sức khoẻ và tha thứ cho tôi mọi tội lỗi…

                        - Không biết tôi có xứng đáng là người mang trọng trách giao liên này không - Châu Hà nhìn Trương Phiên với cái nhìn cảm thông.

                        - Ông cố giúp tôi nhé - Trương Phiên nài nỉ và lại lấy trong túi ra một tấm ảnh - Còn đây, là kỷ niệm tôi muốn tặng ông. Ông có thể xem đây như một tư liệu để viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Người lính giải phóng trong bức ảnh này, ảm ảnh tôi cho mãi tới bây giờ.

                        Châu Hà chăm chú nhìn tấm ảnh đen trắng đã ố vàng. Một bãi đất trống nhô lên bẩy cái đầu. Cận cảnh là một thanh niên còn rất trẻ, bị chôn tới ngực, cao hơn sáu đồng đội có lẽ vì anh quá cao. Anh có đôi mắt thật sáng, mở trừng trừng đầy căm thù.

                        - Ông có tấm ảnh này ở đâu?

                        - Đây là bẩy trinh sát Việt cộng bị chúng tôi bắt trước ngày quân miền Bắc tấn công vào An Lộc, nơi tôi làm tỉnh trưởng.

                        Chính ông trưởng ty Cóng chánh Nguyễn Kỳ Vọng đã cứu họ khỏi bị hành hình. Ngay đêm ấy, quân miền Bắc ào vào thị xã. Và anh lính này cùng sáu trinh sát đã được giải thoát… Bức ảnh này do thuộc hạ của tôi chụp. Hồi ấy tôi mắc chứng điên ông ạ. Tôi thích hành hạ con người… Cố lẽ do anh lính trong ảnh này giống tôi quá chăng? Và tự nhiên tôi nổi máu điên muốn hành hạ bằng nhục hình kẻ nào dám giống mình. Ông nhìn kỹ đi? Anh ta có giống tôi ngày trẻ không? Nhìn ảnh, tôi lại giật mình nghĩ, cậu ta hình như là con trai mình, cháu ruột mình. Ồ, rất có thể. Đời binh nghiệp tôi đã ngủ với không biết bao đàn bà. Xin lỗi ông, bỏ qua cho sự quái gở này… Và suốt từ đó tôi luôn ám ảnh bởi ý nghĩ suýt nữa mình đã giết một người ruột thịt. Tôi sám hối. Đến đâu, nhà thờ hay chùa chiền nào, tôi cũng cúng bái, cầu xin tha tội. Tôi luôn coi mình là tên sát nhân kinh tởm nhất trên thế gian này…

                        Trương Phiên ngửa cổ, nốc cạn ly rượu. Mắt nhắm nghiền đau đớn. Rồi lão bỗng đấm ngực thùm thụp, bật khóc ồ ồ.


                        Chương 28
                        Huynh đệ như thủ túc


                        Cuối cùng thì dân làng Động cũng biết người chuộc đất Nguyễn Kỳ Viên và sẽ xây lại nhà thờ chi họ Nguyễn Kỳ, chính là ông Nguyễn Kỳ Vọng, Việt kiều yêu nước tại Mỹ. Họ kháo nhau: "Trước khi di tản ông Vọng mang về cho nhà Cục một thùng vàng. Sang Mỹ, ông Vọng gửi về mấy thùng đô la. Làng này suýt bé cái nhầm. Đợi con ông Lợi chịu nhả tiền ra thì còn xơi nhé. Vợ chồng con cái nhà Cục, thì ăn cũng chẳng xong. Có xây cái… đánh chịn".

                        Lần ông Vọng trở về làng đầu tiên, bà Nhi như gà phải cáo: Bà bắt gà, đồ xôi làm một mâm cơm cúng, bắt ông Cục phải mặc áo dài, đội khăn xếp lên nhà thờ khấn cha mẹ tổ tiên trước khi anh em ngồi vào mâm, bà phủ phục lạy ông Vọng ba lạy. Vừa lạy vừa khóc như cha chết:

                        - Nếu bác không tha tội thì bác bắt em chết, em cũng phải chết. Em là đứa con dâu hư hỏng của nhà họ Nguyễn Kỳ. Chỉ tại em ngu. Bao nhiêu vàng của bác em bán, gửi tiết kiệm. Ngày đổi tiền, mất sạch. Suốt đời vợ chồng con cái em có kéo cày thay trâu cũng không chuộc lại được…

                        Ông Vọng vội đỡ bà Nhi dậy.

                        - Thím đừng băn khoăn. Chị Khiêm, chị Là đã kể cho tôi nghe hết rồi. Hôm ấy không có chú Cục sớm phát hiện ra, cứu được thím, thì họ nhà mình lại chết oan một người. Thời buổi biến động, làm sao mà tránh được tai hoạ?

                        - Dạ, thế là bác tha tội cho em?… - Bà Nhi nhìn ông anh chồng, tưởng đang mơ.

                        - Đến như tôi cũng suýt làm mồi cho cá biển cái đận ấy, chứ nói gì đến tiền bạc. Thôi, chú thím quên chuyện cũ đi. Chuộc được đất là phúc lớn rồi. Chuyến này tôi về, ta lại bàn tiếp chuyện xây lại nhà thờ…

                        Ông Vọng ra Hà Nội xin ý kiến vợ chồng hai ông anh. Nhà ông Vỹ đã chuyển xuống Trung Hoà. Bà cụ Ba Yên được nhà nước đền bù chính sách, trong cuộc cải tạo công tư hợp doanh, một căn hộ ở Giảng Võ. Cô giáo Khiêm bán căn nhà cũ, và căn nhà đền bù của mẹ, gộp tiền mua đất, xây ngôi nhà ba tầng, một tum. Về hưu, nhưng cô giáo Khiêm vẫn có học trò. Mái tum nóc tầng ba, dành riêng làm lớp dạy thêm. Mỗi tháng thu nhập gấp hai lần lương hưu.

                        Chuyển nhà mới, ông Vỹ thất nghiệp, vì bệnh trĩ chữa ở bệnh viện hiệu quả hơn. Bà Khiêm cũng không muốn chồng làm cái công việc vừa bệ rạc, vừa mất vệ sinh. Với lại, ông Vỹ càng có tuổi càng như người chập cheng. Bây giờ, một bên tai lại nghễnh ngãng. Nhà hai người khiếm thính. Bà mẹ vợ thì điếc đặc lưng còng như con tôm, lúc mào cũng lủi thủi dưới tầng một, trong gian bếp. Anh con rể thì bịt tai này cũng không nghe rõ tai kia.

                        Đang hí hoáy với xấp bản thảo cũ nát, bốn góc đã quăn tít, chứng tỏ chúng được viết từ rất lâu, nhưng có lẽ không bao giờ kết thúc. Đó là phác thảo tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng", mà ngày nào tác giả cũng đánh vật với nó hàng giờ, thấy có người đứng sau, ông Vỹ mới chậm rãi quay lại, giương đôi kính nhìn chằm chằm.

                        - Ai đây nhỉ?

                        Anh em xa nhau biền biệt bốn mươi năm mà gặp nhau cứ như người dưng nước lã thế này sao? Ông Vọng đứng lặng, nỗi túi dâng đầy cổ.

                        Ông Vỹ lùi lại, nhòm từ đầu đến chân.

                        - Có đúng là Vọng không? Ở đâu về?

                        - Em đây. Thằng Vọng đây.

                        Vọng ôm chặt ông anh, khóc rưng rức. Thương cho một tài năng bị thui chột. Thông minh, sắc sảo là thế, mà giờ, như người cổ xưa.

                        Bà Khiêm nhìn hai anh em, cũng khóc theo.

                        - Chú Vọng vừa ở Mỹ về. Anh Châu Hà đến kể chuyện về chú ấy mãi, anh không nhớ à?

                        Ông Vỹ vỗ bồm bộp vào cái trán còn lưa thưa vài sợi tóc.

                        - A tôi nhớ ra rồi. Việt kiều có khác, béo tốt quá. Hôm Châu Hà nó đi Mỹ về, có mang tiền của chú gửi biếu tôi. Cám ơn lắm. Tôi bảo nhà tôi cất đi để góp với chú Cục xây nhà thờ.

                        Bà Khiêm mở tủ mang ra chiếc phong bì.

                        - Tiền chú gửi anh Châu Hà đem về, tôi vẫn để nguyên đây Anh chú nhất định bắt mang về đưa chú Cục. Tôi bảo đợi chú về xin ý kiến chú. Đưa cho thím Nhi, khéo lại như cái năm nào… Tôi bàn với chú thế này, hay là dành tiền để xây cho chú ngôi nhà, hoặc là mua cho chú căn hộ ở Hà Nội. Già rồi, về quê mà ở, anh em chú cháu có nhau. Con Mai với thằng Phong nhà này lúc nào nhắc đến chú cũng xuýt xoa thương chú. Chúng nó bảo, nhà này chỉ chú có tình cảm với quê hương làng xóm nhất. Chúng nó bảo, chỉ thương chú ở một mình. Con Vy, cũng phải chăm cho gia đình riêng của nó chứ. Có tuổi rồi, bơ vơ đất khách quê người, tội lắm…

                        Nhìn đôi mắt bà Khiêm hoe đỏ, ông Vọng thấy bùi ngùi. Thời gian chẳng chừa một ai, kể cả người chị dâu mà ông cứ tưởng sẽ chẳng bao giờ già. Ngày mới thống nhất, ông ra Hà Nội, cô giáo Khiêm còn tươi tắn, đoan trang, vậy mà bây giờ, trông đã xơ xác, tóc bạc, da mồi. Cũng may ông Vỹ đắc địa cung thê. Văn chương nghèo kiết xác, lại tù tội, bệnh tật dề dề. Không có chị Khiêm chèo chống bươn chải, nuôi hai đứa con cùng tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm, thì không biết đời còn khốn nạn đến đâu?

                        - Sang năm em nghỉ hưu. Rồi sẽ tính. Có khi em về quê ở với cô Hậu. Trong nhà mình, chỉ cô Hậu là khổ nhất.

                        - Hồi con Trinh Mai lấy chồng, nhà tự nhiên rộng vung vinh. Bà cụ nhà tôi bảo về đón cô Hậu ra ở, nhưng cô ấy nhất định không đi.

                        - À, cháu Mai với cháu Phong thế nào? Nghe nói con Mai lấy chồng người Úc?

                        - Vâng. Cháu Mai làm ở Vietnam News. Chồng nó là chuyên gia dự án của FAO. Hai đứa về ở bên Úc rồi chú ạ. Còn cháu Phong, tốt nghiệp tin học Bách Khoa, đang chờ một suất học bổng đi Nhật.

                        - Em mừng cho anh chị. Qua cơn bĩ cực rồi - ông Vọng đưa lại phong bì cho chị dâu - Đợt về này em muốn bàn với các anh chị việc xây lại ngôi từ đường…

                        Ông Vỹ nói:

                        - Tốt lắm… Không phải bàn. Cứ thế mà làm.

                        Bà Khiêm, như chợt nhớ ra điều gì:

                        - Chú Vọng có người bạn nào ở Hà Nội tên là Lê Đoàn không nhỉ?

                        - Chị biết cậu ta à? Cậu ta ở đâu mà hôm vừa rồi em đi hỏi thăm khắp khu vườn hoa Tập Kèn, nhưng không ai nhớ.

                        - Lê Đoàn là bạn chí cốt với cậu Đào Phan Khánh nhà tôi. Cả một đại đội thanh niên Hà Nội ở Nông trường Quan Chi vào chiến trường Quảng Trị, chỉ có Đoàn và hai người nữa trở về. Hôm Đoàn mang về cho mẹ tôi những kỷ vật của cậu Khánh, mẹ tôi tưởng không sống nổi…

                        - Từ năm mười hai tuổi Đoàn đã nói tiếng Pháp làu làu. Em nhớ trước ngày em đi Nam, cậu ấy lấy trộm của bọn lính Lê Dương một khẩu Ru lô và 167 viên đạn, nói sẽ bắn chào mừng bộ đội về tiếp quản Hà Nội…

                        - Sau khi xuất ngũ, Lê Đoàn lấy cô vợ Hoa kiều ở phố Hàng Buồm và dạy tiếng Pháp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Nhưng rồi xảy ra sự kiện người Hoa, vợ chồng cậu ấy phải chạy sang Hồng Công. Rồi sang định cư ở Pháp… Mới đây cậu ấy về nước, đến nhà chơi. Cậu ấy hỏi thăm và xin địa chỉ chú…

                        - Vậy ư? Không ngờ cậu bé ghét cay ghét đắng thực dân Pháp ngày nào, giờ lại sang nương nhờ nước Pháp…

                        Ông Vọng buồn ngơ ngẩn. Ông bỗng nhớ lại cái ngày Lê Đoàn dẫn mình qua bãi phân bắc thối khắm ở gần khu Giảng Võ và khinh bỉ nói với ông về món hàng mà nước mẹ Đại Pháp kiếm được đóng thùng gửi về Mẫu quốc làm giàu cho những xưởng rượu nho ở Boocđô, ở Brơtanhơ… Về Hà Nội lần này, ông cố tìm lại khu bãi phân bắc ngày xưa. Nơi ấy, giờ đã mọc lên một khách sạn bốn sao…

                        Bà Khiêm xoay sang câu chuyện khác:

                        - Anh Ký Lạng và họ hàng nhà tôi ở Mỹ cũng mới về. Việt kiều hồi này được nhà nước đón tiếp như những thượng khách. À, mà chú biết tin gì về nhà văn Châu Hà chưa?

                        - Em cũng đang muốn gặp bác ấy, nhưng điện thoại đến báo Văn Chương, họ nói ông ấy chuyền công tác rồi.

                        - Đúng là chuyển công tác. Tổ chức điều ông ấy lên vị trí cao hơn. Nhà văn Châu Hà bây giờ thế mà sướng. Cơ quan mới này tám mươi tuổi mới phải về hưu…

                        - Có chuyện ấy ư? Anh Châu Hà thôi chức Tổng biên tập báo Văn Chương?

                        Ông Vỹ nghiêng bên tai lệnh, chăm chú. Rồi mắt ông bỗng loé lên như công tắc đèn vừa bật.

                        - Cái chức mới của Châu Hà chỉ là hữu danh vô thực… Thằng Văn Quyền tìm cách lật đổ để ngồi vào ghế Tổng biên tập báo Văn Chương. Nó khai man bốn tuổi, cưa sừng làm nghé… Châu Hà đi Mỹ là vào bẫy của nó. Nó gài người, chụp được ảnh Châu Hà nhận tiền của thằng Du San. Tiền nhuận bút hẳn hoi đấy chứ. Oan ở mấy trăm đồng thằng Du San nó gửi biếu tôi. Cái thằng nhà văn, khi biết mình phản bội, nó đau đớn lắm… Dẫu sao nó cũng là thằng bạn cũ. Thằng Châu Hà tránh sao được? Vậy mà phải dùng tới kế "điệu hổ ly sơn" với Châu Hà. Lừa cho nó đi để thay ngựa giữa đường… Văn nghệ mà lại. Đấu đá, tranh giành quyền chức, giải thưởng, thì… hết ý…

                        Nói chuyện một lúc, hình như não bộ của Vỹ mới vận hành suôn sẻ. Ông lại tỏ ra sắc sảo và hóm hỉnh đáo để. Hoá ra bộ phận Enter của ông bị trục trặc. Ông Vọng nghĩ thế.

                        ***

                        Ông Vọng lại mang chuyện xây nhà thờ bàn với ông Lợi.

                        Từ ngày nghỉ hưu, đồng chí Chiến Thắng Lợi hụt hẫng, như người đang ở trên cao bỗng rơi bịch xuống đất. Lẽ ra ông Lợi phải làm một khoá Trung ương nữa. Ông đã khai lại lý lịch, rút được ba tuổi, so với quy định, vẫn còn trong diện tái cử. Nhưng thói đời ghen ăn tức ở. Phe chống đối cuồng lên như hổ đói. Hết moi chuyện lý lịch khai man, không rõ ràng, lại đến chuyện quan hệ bất chính với bà Cam. Rồi đùng một cái, xảy ra chuyện bức tường Berlin sụp đổ. Lê Kỳ Chu, con ngoài giá thú của ông với bà Đào Thị Cam, được gửi sang Đông Đức học để làm luận án tiến sĩ, đã trốn sang Tây Đức. Ông Lợi bị loại hẳn khỏi chính trường: Thậm chí còn bị loại không được cơ cấu trong Ban soạn thảo Chiến lược năm 2000.

                        Về vườn với nỗi buồn của kẻ vẫn ưu thời mẫn thế, bị thải loài cộng với nỗi day dứt, đau đớn, hoang mang phe ta bị tan rã, ông anh cả, trụ cột, đầu tầu của cả hệ thống, như người khổng lồ, nhưng chân đất sét, bỗng biến khỏi mặt đất, không còn chút dấu vết.

                        Mấy tháng đầu, ông Lợi tham gia câu lạc bộ hưu trí Ba Đình cho khuây khoả. Hết cầu lông, cờ tướng, bóng bàn, bơi lội lại vào căng tin uống bia, đọc báo, bàn chuyện thời sự thế giới trong nước. Hai ông chung nhau một vại bia hơi, hoặc hai ông ba cốc. Vì ông nào cũng đái đường, huyết áp, tim mạch. Riêng tướng Quảng Lạc, chiều nào cũng bơi năm vòng, uống ba vại với một gói lạc rang. Càng uống, mặt càng tái, nói càng hăng. Ông Lợi thấy lạ cho cái ông tướng này, mồm như cái loa. Chuyện nhà, chuyện con cái, cứ bô bô giữa quán bia, quá vạch áo cho người xem lưng.

                        - Ông Lợi ơi, thằng Chu nó đang tìm cách nhập quốc tịch Đức cho vợ với con nó đấy ông ạ. Con Linh điện về hỏi ý kiến tôi tôi bảo, tốn kém gì cũng cứ nhập. Sinh sống ở đất người ta mà cứ bị coi là dân ngụ cư, dân hạng bét, thì thà về nhà mà làm ăn buôn bán. Mang đô la, mang DMác về đây mà mua đất kinh doanh bất động sản. Ở nước mình, có đô la tiêu bây giờ là sướng nhất… Ông Lợi ơi, vợ chồng thằng Chu nó đang tính về Nga mua lại cái chợ Vòm thành lập một siêu thị của người Việt. Con Linh, con dâu ông đấy ai ngờ lại giỏi kinh doanh hơn cả chồng. Ý định chuyển về Nga là do con Linh đề xuất đấy. Chúng nó có kế hoạch xây một nhà máy sản xuất mì ăn liền ở Mát. Hợp đồng liên doanh với công ty Hoa Sơn trong nước, coi như xong. Bọn trẻ bây giờ táo tợn thật. Rồi chúng nó sẽ thay thế chúng ta làm lại hết. Tôi thấy chán cho các ông. Sắp đi hầu các cụ Các Mác, Lê Nin đến nơi, mà mở mồm là lo diễn biến hoà bình, cách mạng vô sản thế giới lâm nguy. Tôi thì khoái nhất câu này của Mác: Không có gì lịch sử đặt ra mà con người không giai quyết được. Chúng ta đã làm xong việc của mình. Đừng áp đặt. Đừng như một ông bố bảo thủ, giáo điều sĩ diện hão khi thấy mình sai. Thế hệ trẻ nó khắc biết cách đưa nước ta hội nhập với thế giới…

                        Nghe tướng Quảng Lạc khoe con, bàn về thời cuộc, ông Lợi chỉ muốn chui xuống đất. Thật chả ra làm sao. Không còn lập trường tư tưởng gì sất. Trong khi con người ta ra mặt trận, thì con mình lủi, được gửi "cái gáo" sang Liên Xô, rồi lại được đào tạo bài bản, trở thành sĩ quan tên lửa. Đánh một vài trận đã được Đảng, nhà nước cho đi học đại học, rồi lại được cử đi tu nghiệp nước ngoài. Giờ chuồn sang nước tư bản. Đã vong ơn bội nghĩa còn không biết thẹn, thế mà ông bố cứ oang oang làm như con rể con gái mình thức thời, tài giỏi. Rác tai quá, chối quá, ông Lợi bỏ, không đến câu lạc bộ Ba Đình nữa.

                        Có những đêm không ngủ, ông Lợi nằm chong mắt, nhìn mãi vào bức ảnh Bác Hồ. Đêm nào ông cũng thắp chiếc bóng đèn đỏ ba vôn thay cho ngọn nến trên bàn thờ Bác. Ngọn nến hắt thứ ánh sáng hồng rực, khiến ông Lợi cảm thấy ông Cụ như tiên ông giữa vừng hào quang. Có lúc đôi mắt ông Cụ nhìn ông Lợi đăm đăm. Ông nhắm mắt lại. Thấy hiển hiện những hình ảnh từ hồi chiến khu Việt Bắc, đến những lần được gặp Bác sau này. Đời đồng chí Chiến Thắng Lợi, diễm phúc lớn nhất là được gần gũi, thụ giáo trực tiếp từ Bác nhiều lần. Thánh nhân như ông Cụ trên đời chỉ có một. Phúc đức cho nước Việt có một vĩ nhân như ông Cụ. Nếu ông Cụ còn sống, phe mình, nước mình hẳn sẽ khác. Có khi mà Chủ nghĩa xã hội sẽ trụ lại được. Có khi mà tình hình tham nhũng, bè cánh phai nhạt lý tưởng, suy thoái đạo đức, chệch choạc. phương hướng sẽ được ngăn chặn? Xưa nay các vĩ nhân thường có những tác động quyết định làm thay đồi lịch sử. Ông Cụ đi rồi, tương lai đất nước giao vào tay bọn trẻ như thằng Chu thằng Nhất nhà ông, rồi sẽ ra sao?

                        Ông Lợi buồn dai dẳng về chuyện vợ chồng Chu bỏ sang Đức Có khác nào thằng em vong bản Nguyễn Kỳ Vọng của ông bỏ nước di tản sang Mỹ? Có lúc ông Lợi chợt lởn vởn ý nghĩ: Giá như ông không quá vội vàng tổ chức cái lễ nhận cha con họ hàng, lại đỡ day dứt. Vợ chồng thằng Chu nó làm cho cả ông và bà Cam như cùng đeo mo vào mặt…

                        Đã thế mấy mẹ con bà Là lại hùa nhau chống lại ông. Từ hồi thằng Nhất lấy vợ, bốn mẹ con về hẳn một phe. Họ công khai giễu ông là cổ hủ, lỗi thời. Mẹ con thường túm tụm nhau như buôn bạc giả. Ông cô độc như con hồ già trong vườn bách thú, mắt đầy gỉ, nhìn qua song sắt. Thì ra, trong khi ông âm thầm gặm nhấm nỗi đau thời thế, thì mẹ con họ đã làm những việc tày đình: Thằng Chiến Thống Nhất, vừa chân trong, vừa chân ngoài. Chân trong là do ông bố trí, gài cắm: Vừa tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông đã lo cho vào Bộ Kinh tế lo cho chân đảng viên, làm con rể ông Thứ trưởng thường trực rồi chỉ một năm đã lên trợ lý Tổng giám đốc Dự án TC 99. Vừa có tí máu mặt, ai ngờ anh chàng có vẻ ngờ nghệch phổi bò này lại xoạc ngay một chân ra ngoài, làm Phó giám đốc Công ty kinh doanh tổng hợp Đại Việt. Ông còn lạ gì cái công ty Đại Việt này. Có mà Đại Việt gian. Sân sau của bọn tham nhũng. Ông cảnh báo ngay: "Liệu liệu mà làm ăn. Buôn gian bán lận, móc ngoặc, tham nhũng là không xong với tôi!". Thằng Nhất đưa mắt cho vợ. Con Thuý vội hớt lẻo chồng: "Bố yên tâm đi. Ba con còn lo cho Nhất nhà con hơn cả bố". Ông Lợi định nói: "Chỉ sợ đến lúc ba con chúng mày vào nhà đá thì lại cầu cứu tao", nhưng lại thôi.

                        Nhà ông Lợi, trừ ông, bây giờ đang trở thành một "lò sản xuất" tiền. Cao thủ nhất, đúng hơn là siêu cao thủ, phải kể đến bà Là, vợ ông. Cái cô Ma Thị Là người dân tộc, hiền lành, thật thà như đếm ngày xưa, nào ngờ giờ đã ba đầu sáu tay, nổi tiếng trong giới kinh doanh địa ốc. Từ hồi nghỉ hưu, bà Là xoay ra công khai buôn đất, mua nhà. Tiền đâu ra? Chỉ có ăn cắp hay buôn hàng trắng, chứ tham ô tham nhũng đâu đến cái thá bà? Ông Lợi tra hỏi. Phải dùng thủ đoạn ép cung, mớm cung, doạ có người nói bà buôn thuốc phiện từ trên quê xuống, lại có người bảo bà ngủ với mấy thằng cha Tổng giám đốc. Cuối cùng bà Là sợ quá, vừa khóc, vừa khai tuồn tuột:

                        - Thương ông làm cán bộ cấp cao, lại giữ trọng trách, tôi không dám ỷ thế chồng để làm bừa. Tôi chỉ làm ăn cò con, lương thiện. Cũng là nhờ cái cửa hàng Tôn Đản mà ông đã xin cho tôi về đấy. Ở đâu thiếu đói chứ lọt vào đấy quá chuột sa chĩnh gạo. Sướng, nhưng tôi có tính lo xa, chịu khó nhặt nhạnh, ăn dè, tích cóp. Mua tem phiếu. Dồn từng gam, từng lạng tem phiếu khách mua thừa. Bớt xén bộ lòng, quả bồ dục, cân đường, gói mì chính, bìa đậu phụ… Mỗi tháng tôi lại đến bà Tài Tiến ở Hàng Đào, đổi thành vàng, cất đi. Ăn xẻn để dè hàng chục năm, được vài chục cây. Tôi cất vàng trong cái làn rẻ rách ở đáy tủ, ông toàn nghĩ chuyện đại sự, làm sao mà biết được. Cho đến khi ông có chân trong Ban đổi tiền Trung ương, biết được thông tin qua ông nói, sẵn vàng trong tay, tôi tung ra thu mua tiền cũ, rồi chuyền ngay thành vàng. Đến khi tiền mất giá thì trong cái làn rẻ rách của tôi, như có hàng trăm con gà đè trứng vàng. Tôi lại dùng vàng để đổi thành đất, thành nhà…

                        - Có thật thế không? - ông Lợi bàng hoàng.

                        - Tôi nói sai tôi chết. Chỉ thương cậu Ló, em ruột mẹ tôi. Bán mười hai con trâu để giành tiền làm nhà. Tin nhà nước, gửi tiết kiệm, sau đổi tiền, mười hai con trâu không mua nổi một con gà. Cậu Ló tiếc trâu quá, uất quá, ăn lá ngón tự tử… Giá biết cậu bán trâu, tôi đã đổi thành vàng cho cậu, thì đâu đến nỗi…

                        Thương ông cậu, bà Là khóc như mưa, làm ông Lợi phát hoảng. Như cậu học trò nhỏ vừa qua một giờ khai tâm, ông Lợi nằm úp thìa, vòng tay ôm vợ và nghĩ ngợi. Cái trí lự đàn bà ghê thật. Ông Lợi có xách dép cho vợ cũng không đáng. Rõ là làm ăn chân chính chứ còn gì nữa? Chi lợi dụng khe hở của chính Bách. Thiết thực mà không ảo tưởng hão huyền. Biết kinh doanh, xoay xở, biết chớp đúng thời cơ, là đã chuyển bại thành thắng. Bà Là chỉ là quân tốt đen, nhưng đã dám sang sông, dám luồn lách tránh được xe pháo mã đối phương để nhập cung bắt tướng.

                        Câu chuyện làm ăn của bà Là đã làm đầu óc ông Lợi sáng ra. Nó khai thông cho ông mọi bế tắc về lập trường quan điểm và những hệ thống lý luận cao siêu và rối rắm, mà ông như con nhện, bị cái bẫy của chính mình quấn vào. Ông thấy mình bỗng thoát xác khỏi nhà chính trị, trở thành một ông chồng yêu vợ cảm phục vợ tận đáy lòng. Không cần nói, bà Là cũng hiểu ông đang tự thú lỗi. Lâu lắm rồi, đêm ấy, bà mới gặp lại anh chàng Chiến Thắng Lợi đương trai.

                        ***

                        Cảm hứng của ông Lợi còn dư âm tới khi ông Vọng đến nhà.

                        Vừa thây ông Vọng ở cổng, ông Lợi đã chạy ra, chầm bập mừng rỡ. Ông chủ động kéo em trai về phía mình, ôm rất lâu, với tất cả nỗi xót xa, mừng tủi của tình cốt nhục bị xa cách, còn hơn cả cuộc chia ly rồi đoàn tụ thời chống Mỹ…

                        - Các anh ở Bộ Ngoại giao khen phong trào Việt kiều ở New Orleans và vai trò của chú lắm. Lần tôi sang thăm Cuba có ghé qua New York, nhưng không xuống chỗ chú được. Với lại dạo ấy nghe tin chú thím bỏ nhau, tôi chán quá… Chú thì tôi tin. Nhưng thím ấy sang bên đó, bập vào lối sống thực dụng kiểu Mỹ, khó giữ lắm…

                        Bà Là mang nho khô và hoa quả ra, thấy nét mặt ông Vọng không vui, vội đá vào chân chồng, nói:

                        - Hôm nay chú nhất định phải ở lại ăn cơm với anh. Lát nữa gọi điện thoại mời cả chú Vỹ thím Khiêm nữa. Anh chú từ hồi về hưu, hiền hẳn ra… À, phải khoe với chú. Cháu Chiến Huyền Ly được sang Mỹ du học rồi. Trường Hơ-vát hay Hu-vớt gì đó, nghe nói chỉ chuyên đào tạo cho con nhà giàu. Nhưng cháu chú thi đỗ, được học bổng chứ không phải đi du học tự túc như con em các ông Bộ, Thứ trưởng, Tổng giám đốc nhiều tiền. Còn cháu Nhất của chú hồi này tiến bộ lắm. Vợ chồng cháu mới có cái chòi hóng mát trên Hoà Lạc. Tối cháu nó đánh xe lên, anh em chú cháu nghỉ trên ấy cho thoáng…

                        - Em còn ở nhà lâu. Ăn uống lúc nào chả được - Vọng nói - Có chuyện này em băn khoăn quá, muốn trình bày với chị.

                        - Chuyện muốn về Việt Nam kiếm cô vợ nhỏ phải không? - ông Lợi nheo mắt cười tinh quái, như muốn nối tiếp câu chuyện vừa bỏ dở.

                        Bà Là lại véo chân chồng.

                        - Chuyện gì, ông cứ để chú nói. Chú Vọng bây giờ là ưu tiên nhất.

                        - Suốt mấy đêm nằm ở nhà thờ mà em không thể chợp mắt được.

                        - Thảo nào trông chú không được khoẻ - Bà Là nói - Hay là chú Cục, thím Nhi lại kể chuyện ma áo trắng trồng cây chuối? Thím Nhi bịa ra chuyện đổi tiền, tôi lạ gì. Nghe bà Tài Tiến nói thím ấy mang vàng ra gửi, tôi đã nghi ngay. Người như thím Nhi mà chịu mất trắng số vàng chú gửi lại để xây nhà thờ thì tôi chẳng tin…

                        - Một mất mười ngờ, chị ạ. Em tin thím Nhi nói. Chuyện cũ cho qua đi chị. Em muốn nói ngôi từ đường nhà mình sắp sập. Hồi cải cách, gia đình ông Cỏn phá hai gian bên, làm xiêu một phía hồi. Với lại từ hồi cụ nội, quan Đốc học Nguyễn Kỳ Đồng, cho dựng ngôi từ đường, tới nay đã gần một trăm năm mươi năm…

                        Ông Lợi bỗng giật mình.

                        - Đã lâu thế kia à? Vốn cổ đấy. Tôi biết quanh Hà Nội có ngôi nhà cụ Phí ở Hương Ngải là cổ nhất, hơn hai trăm năm, bên văn hoá xếp hạng nhà cổ, đang có dự án tôn tạo. Hồi còn mồ ma thầy, ông cụ vẫn bảo ba chữ Nguyễn Kỳ Viên là chữ của cụ Tam nguyên Yên Đổ… - Đang nói, ông Lợi bỗng ngẩn ra, cố moi trong trí nhớ - Còn bức hoành phi viết ba chữ đại khảm trai trên ban thờ, cũng nghe nói của nhà thơ Nguyễn Khuyến, là chữ gì, chú có nhớ không?

                        - Dạ, Dưỡng Nhất Chân. Đấy là ý lấy trong hai câu thơ của Danh y Lê Hữu Trác viết trên đường từ Hương Sơn ra kinh đô Thăng Long: "Độn thế tòng y dưỡng nhất chân. Bất tri vi phú khởi tri ban".

                        - Các cụ thâm nho thật - ông Lợi gật gù - Trốn đời theo nghề thuốc để giữ cái thuần nhất của mình. Không cần biết đến sự giàu thì có sá chi cái sự nghèo. Câu ấy có phải dịch như thế không?

                        - Dạ, đúng vậy. Cụ Tam Nguyên có ý nói chi họ Nguyễn Kỳ nhà ta sẽ có người theo nghề y, việc này quả ứng ngay với thầy mình.

                        - Cả với ông lang trĩ Nguyễn Kỳ Vỹ của chúng ta nữa chứ? - Ông Lợi bỗng bật cười khục khục. Lâu lắm mới thấy ông cười - Mà này, bức hoành phi ấy, nghe nói nhà Cón tháo xuống làm ván chắn chuồng lợn. Bậy quá, bức ấy là bảo vật quốc gia đấy nếu còn thì vô giá…

                        Ông Vọng bỗng thở dài. Nhìn ông anh hả hê, khoáng hoạt, ông chợt nhớ tới nhân vật Quỷ Vương trong "Tây du ký", bắt Đường Tăng định ăn thịt, rồi lại giả làm thiếu nữ để đánh lừa Trư Bát Giới. Ông anh trai của ông thời cải cách ruộng đất từng là Quỷ Vương, đoàn phó cải cách ở Thái Bình, ký lệnh giết oan bao địa chủ, giờ lại phủi tay như kẻ vô can…

                        Chuyện xây lại ngôi nhà thờ, không ngờ được ông Lợi ủng hộ nhiệt liệt.

                        - Chú đứng ra làm là hợp lẽ nhất. Tôi nghĩ mãi rồi, việc này phải chú làm cầu đường. Lâu lắm, sau ngày nghỉ hưu tôi mới về làng, có thời gian thăm thú. Hoá ra sức sống của một ngôi làng Việt nó trường tồn hơn anh em mình tưởng nhiều. Đã đi vợi nửa làng ra Hà Nội, lên Nghĩa Lộ, vào Lâm Đồng, Bình Phước, sang cả Nga, Tiệp, Pháp, Mỹ, Canada… làm đủ nghề, khoác đủ màu cờ sắc áo để kiếm kế sinh nhai, mà giờ cái làng mình lại sinh sôi, phát triển, lại trù phú, đông đúc hơn cả ngày xưa. Tốc độ đô thị hoá nhanh quá chú ạ. Cái rãnh trước cửa đình anh với các chú vẫn bơi hồi bé, vẫn tranh nhau leo cầu phao đốt pháo ngày Tết, giờ lấp hết, biến thành một dãy phố sầm uất. Ngôi đình các cụ mới dựng, còn to hơn cả đình Đụn ngày xưa. Riêng các ngôi nhà thờ mấy họ Hoàng, họ Trần, họ Phan làng ta thì đua nhau xây cất khiếp quá. Đợt này chú cho cải tạo lại Nguyễn Kỳ Viên nhà mình cũng phải… Tôi trao toàn quyền cho chú về bàn với chú Quặc họp xin ý kiến các vị cao niên trong họ, rồi lên kế hoạch tiến hành…

                        - Dạ, có ý kiến chỉ giáo của anh, em sẽ cố gắng hết sức…- ông Vọng rưng rưng nắm mãi bàn tay ông Lợi. Tự nhiên ông thấy ân hận vì lâu nay chưa hiểu đúng anh trai mình.

                        Trước lúc tiễn ông Vọng về, ông Lợi ghé tai nói nhỏ:

                        - Lẽ ra, tôi là anh trưởng, lại là trưởng chi, tôi phải đứng ra quán xuyến công việc. Nhưng dầu sao tôi cũng là anh cán bộ cách mạng tiền khởi nghĩa…, đứng ra không tiện. Còn chuyện đóng góp… Biết là chú có tiền, nhưng không thể để mình chú. Chú Vỹ với chú Cục thì không nói làm gì. Vợ chồng tôi, cán bộ hưu trí, chẳng giàu có gì, nhưng sẽ góp cùng với chú.

                        - Chuyện này, anh cứ để em lo. Em tự nguyện mà…

                        - Không được. Chú phải để tôi góp phần. Nhà tôi với cháu Nhất hồi này làm ăn được… Với lại, cái nhà của chú trong Sài Gòn…

                        - Em đã quên ngôi nhà ấy rồi… Trước khi đi em đã sang tay cho Khuất Sỹ Hào.

                        - Cái thằng cha Hào ấy với cái cô Xoan nhân tình của nó là lũ lưu manh. Nó lừa chú để cướp không ngôi biệt thự ấy. Sau khi chú đi, tôi phải bay vào ngay. May cho nó, tôi thương tình không tống nó ngồi tù. Người của tôi bắt Hào với cô Xoan khai đã lợi dụng chú để chiếm đoạt tài sản người vượt biên như thế nào… Tôi đã cho tịch thu sung công ngôi nhà. Tất nhiên các anh ở thành phố sau này đã bố trí cho tôi một căn nhà khác.

                        Ông Vọng toát hết mồ hôi hột. Không ngờ ông anh của ông mưu ma chước quỷ khôn lường.

                        - Cái lộc của ngôi nhà ấy, tôi cũng chẳng ăn một mình - ông Lợi nói tiếp - Trả chú thì đời nào chú lấy. Tôi đã bàn với bà nhà tôi góp vài vạn gạch để chú xây nhà thờ. Chuyện này chỉ nói riêng chú biết, chú cũng không cần phải tuyên bố với ai…

                        Trên đường ngồi taxi về nhà ông Vỹ, ông Vọng cứ nghĩ mãi về câu chuyện với ông Lợi vừa rồi. Chẳng còn một chút tính cách nào của tông anh cả Nguyễn Kỳ Khôi ngày xưa.

                        - Chẳng còn gì… Ông Vọng lẩm bẩm mãi.

                        Đến khi anh lái xe hỏi, đi về đâu, ông mới ngẩn ra. Ông đã quên béng tên đường phố, số nhà của Vỹ.

                        - Thôi, chú cứ cho đi lòng vòng quanh Hà Nội, đường nào tuỳ chú, coi như một cuộc dạo chơi thòi mà. Hà Nội hồi này thay đổi nhiều quá. Đi một lúc, có khi tôi lại nhớ ra phố nhà ông anh tôi…

                        ***

                        Phải đến lần về nước tiếp theo, khi ông Vọng hoàn tất cảc thủ tục nghỉ hưu tại Mỹ, việc xây dựng Nguyễn Kỳ Viên mới vào kỳ nước rút.

                        Suốt hai năm, khu đất bẩy nghìn mét vuông đầu làng Động như một đại công trường. Cái xưởng mộc của Đinh Mạn ở cổng đình, chỉ giữ lại một vài thợ làm cầm chừng, còn máy móc chuyển hết vào khu từ đường, sản xuất và lắp ráp luôn tại chỗ.

                        Mạn thuê hẳn một kíp thợ lành nghề trên Sơn Đồng, Thạch Thất chuyên làm các chi tiết kỹ, mỹ thuật tinh vi: lọng, vuốt, chạm, trổ. Nhóm thợ này do ông thợ cả có cụ nội từng đứng đầu hiệp thợ tu tạo chùa Tây Phương, tác giả của những pho tượng La Hán bất hủ. Nhóm thợ thứ hai gồm những chuyên gia mộc nổi tiếng làng Đồng Kỵ, chuyên về khung nhà với nóc, câu đầu, xà gồ, quá giang, trụ, đấu… mà giữa các bộ phận gắn với nhau chỉ bằng các hãm, chốt, con trỏ, tuyệt không dùng tới một cái đinh sắt nào. Đây là nhóm thợ vừa hoàn thành khu nhà Thái học ở Văn miếu Quốc Tử giám, Hà Nội.

                        Phần nề, sử dụng xi măng Hoàng Thạch mác 400, cát vàng Kim Bôi, sản phẩm đất nung thượng hạng của Bát Tràng và Giếng Đáy, bao gồm ngói mũi hài, gạch đỏ lát nền, gạch hoa văn trang trí… Phần gạch xây đại trà, ước tính vài chục vạn viên, được sản xuất tại chỗ. Một lò gạch nung theo kiểu Triều Tiên dựng ngay trong vườn, đất vượt hồ được đưa lên để sản xuất gạch mộc.

                        Nếu như ông Vọng là tổng công trình sư của Nguyễn Kỳ Viên, thì kiến trúc sư trẻ tuổi Nguyễn Kỳ Tác là giám sát kỹ thuật, bà Nhi làm thủ quỹ, kiêm giám đốc hậu cần, còn ông Cục chỉ như người chuyên để sai vặt. Visa của ông Vọng chỉ có thời hạn ba tháng mỗi lần, ông không thể thường xuyên về Việt Nam. Vì thế, người có vai trò cực kỳ quan trọng, miệng nói tay làm, lo đủ các khâu từ vật tư đến tiến độ công trình, tuy không chính danh, nhưng thực chất là giám đốc điều hành, đó là Đinh Mạn, chồng cô Hợp.

                        Bà Nhi quả là có con mắt xanh khi chọn chồng cho con gái. Hồi Đinh Mạn bị thương ở mặt trận Hà Giang, về phục viên, cô Hợp cứ chê ỏng chê eo. Cái vết chạm trổ ở cánh tay Mạn hình trái tim có mũi tên xuyên qua khiến Hợp thành kiến với anh chàng ngay từ ngày chạm mặt. Người thế ắt phải yêu hàng tạ cô. Cằm vuông, mũi tẹt, lầm lì, ít nói, cục phải biết. Khéo mà lại giống ông Kều, chồng chị Đất, đánh vợ như két.

                        Hợp chê Mạn, vì khi ấy đang tơ tưởng đến anh chàng đẹp trai con ông tiệm vàng trên thị trấn. Bà Nhi phải ngọt nhạt, tỉ tê mãi, đến khi anh chàng tiệm vàng lấy con gái ông phó chủ tịch huyện, Hợp mới chịu hạ tiêu chuẩn. Hợp kiêu cũng phải thôi. Cô nàng đẹp nhất làng Động. Dáng cao, da trắng, mũi thẳng, môi hồng, như đầm lai. Nếu đỗ đại học, ra tỉnh, thì Hợp chẳng chịu lấy Mạn đâu. Nhưng duyên số trời định, tránh sao cho thoát.

                        Ai ngờ, lấy Mạn hơn một năm, Hợp đã thành bà chủ xưởng mộc. Vừa khai trương mấy tháng, xưởng mộc của Mạn đã hút hết khách trong vùng. Mạn trúng liền mấy hợp đồng đóng bàn ghế cho các trường học, làm khung cửa, cầu thang cho các nhà cao tầng ở Hà Nội. Bí quyết làm ăn của Mạn: Uy tín, chất lượng lên hàng đầu. Và, lại quả cho các đối tác thật hậu hĩnh.

                        Vào ngày cất nóc gian chính điện thì Chiến Thống Nhất lái chiếc BMW đen bóng, cùng bà Là và cô vợ Thanh Thuý xinh đẹp con ông Thứ trưởng, về làng.

                        Dân làng Động đã mấy lần lác mắt vì những cái xe con cửa Chiến Thống Nhất, nhưng lần này mắt còn lác nhiều hơn vì cô vợ của Nhất quá đẹp, không khác gì hoa hậu. Trẻ con trong làng rồng rắn chạy theo xe, có đứa hét lên: "Hoa hậu chúng mày ơi. Đẹp đéo chịu được".

                        Thanh Thuý đỏ bừng mặt, cười đắc ý, nhưng lại lầm bầm: "Đồ mất dạy".

                        Bà Là sung sướng ra mặt. Không ngờ cơ ngơi xây dựng bề thế quá. Chú Cục lờ khờ thế mà tuyển được toàn thợ khéo tay.

                        Chiến Thống Nhất và cô vợ giống hoa hậu, ban đầu cũng tấm tắc khen, nhưng sau một hồi đi quanh làng, nhìn thấy mấy ngôi từ đường của họ Trần, họ Đặng, họ Hoàng cũng vừa xây xong, thì bỗng thay đổi ý kiến.

                        Nhất bị choáng ngợp bới ngôi nhà thờ của họ Đặng, lừng lững như Thiên An Môn, Bắc Kinh, với một ngôi mộ lớn như mộ Tào Tháo ngay cổng vào, có bia công đức cụ thượng tổ, tạc trên tấm đá xanh nguyên khối cỡ bằng cầu môn sân bóng đá. Còn chiếc cổng của nhà thờ họ Hoàng mới vĩ đại làm sao! Không kém gì cổng thành Cửa Bắc, Hà Nội. Đến như hai cái ao sen mắt rồng của nhà thờ họ Trần, thì khó tính như Thanh Thuý cũng phải xuýt xoa, trầm trồ. Nàng như trở lại tuổi thơ, vội xắn quần lội xuống bậc cầu ao, xoài người ra định hái một búp sen. Búp chân nõn nà làm anh chàng đang đi xe đạp bị hút hồn, đâm sầm cả người và xe vào gốc cây phượng vỹ.

                        - Phải dỡ xuống làm lại thôi chú Quặc ạ - Sau khi đứng ngắm nghía, nheo đôi mắt sau cặp kính dày như đít chai, đo lường cự li, tầm cao, bộ khung ngôi chính điện, Nhất tuyên bố xanh rờn.

                        Những ai biết Nhất hơn chục năm trước, hẳn là sẽ rất ngạc nhiên về anh chàng có biệt danh là Pie Bêdukhốp này.

                        Từ một cậu học sinh phổ thông chậm chạp và có phần ngờ nghệch thật thà, từ ngày lấy được cô con gái ông Thứ trưởng, làm trợ lý Tổng giám đốc, rồi Phó giám đốc công ty Đại Việt, Nhất bỗng biến đổi tính nết, tự tin thái quá, trở nên kênh kiệu rởm đời, nói năng hách dịch.

                        - Anh Nhất bảo sao? - ông Cục chưa kịp hiểu mô tê gì, chưa kịp phản ứng, Mạn đã đến bên, yểm trợ cho bố vợ.

                        - Tao không nói chuyện với chú - Nhất phẩy tay, như không muốn nói chuyện với trẻ con, nhưng lại nhìn ông Cục - Phải dỡ xuống làm lại.

                        - Chú chưa hiểu ý anh - ông Cục ngơ ngác - Dỡ xuống tức là thế nào?

                        - Tức là dỡ xuống chứ còn thế nào. Chú chậm hiểu quá. Tức là không đạt yêu cầu. Phải làm lại!

                        Mọi người dồn mắt về phía ông con đích tôn của chi họ Nguyễn Kỳ. Ông phó ngoã, nhìn mấy ông thợ mộc lắc đầu.

                        Hầu hết người làng Động, dù biết ông Chiến Thắng Lợi có con ngoài giá thú là Lê Kỳ Chu, anh trai của Nhất, nhưng người ta vẫn cho đó là con không chính thức. Anh Chiến Thống Nhất này mới chính hiệu là đích tôn.

                        Mạn đã nóng mặt, mắt vằn những tia máu:

                        - Anh nói úp mở mãi. Vì sao phải làm lại? Làm lại chỗ nào? Nói toạc ra đi.

                        - Em Mạn nó nói đúng đấy. Chú cũng không hiểu phải làm lại chỗ nào? - ông Cục phụ hoạ.

                        - Thì nói toạc nhé - Nhất khoát tay về phía trước - Tôi đề nghị ngôi nhà chính điện kia phải thêm hai gian, thánh bẩy. Không ai làm nhà thờ họ năm gian. Phải bẩy hoặc chín gian mới. bề thế.

                        - Sao ông anh không có ý kiến với ông Ba Vọng từ hồi vẽ mẫu thiết kế? - Mạn cười khẩy, bĩu môi. Tưởng ông anh hợm của thắc mắc về kỹ thuật, chứ việc này thì vô tư đi. Mạn chẳng thèm tranh cãi cho phí nhời. Cứ theo ý bác Vọng mà làm. Nghĩ thế, nên Mạn búng móng tay đánh tách, toan bỏ đi.

                        - Ai cho tôi xem bản vẽ? Các người quá coi thường cái thằng đích tôn này.

                        - Thì ai có cái quyền ấy, ngoài ông Việt kiều yêu nước Ba Vọng? - Mạn vẫn thủng thẳng nói chơi.

                        - Chú Vọng ở đây tôi cũng đề nghị làm lại. Chứ ai lại như cái trò trẻ con thế kia. Xem mấy nhà từ đường trong làng của người ta đấy, vừa hoành tráng vừa vĩ đại. Làm kiểu này, thì họ Nguyễn Kỳ mình hèn quá, lép vế quá.

                        - Nhưng người ta nhiều tiền. Họ Đặng có những năm Việt kiều ở Mỹ, Canada và Úc. Họ Trần, riêng con ông trưởng họ, làm chức tổng gì to lắm, cung tiến ba tỷ. Họ Hoàng, to nhất làng có cô con gái họ lấy chồng Thuỵ Điển, xin cung tiến một trăm ba mươi ngàn Eurô, nhưng họ chê nữ nhi ngoại tộc, gạt phắt. Cuối cùng bổ đầu đinh, mỗi suất hai triệu rưởi - ông Cục chậm rãi giảng giải cho ông cháu.

                        - Họ mình ít Việt kiều thì tôi chi. Bố con tôi chi. Cứ dỡ ra làm lại! Hết bao nhiêu tiền tôi chịu tất - Nhất nói oang oang, tay vung chém vào không khí, như ngay tắp lự muốn giật đổ năm gian khung nhà đang đứng chênh vênh như bộ khung xương.

                        - Điên. Đồ điên! - Mạn nhổ một bãi nước bọt, bỏ đi.

                        - Ai điên hả cháu? - Lúc ấy bà Là và cô con dâu cũng vừa ra nghĩa địa thắp hương về. Thấy con to tiếng, bà Là hoảng quá, chạy lại.

                        - Thằng này láo. Nó là cái thá gì ở cái nhà này? - Nhất giơ nắm đấm lên.

                        - Mẹ xin - Bà Là chắp tay - Có chuyện gì con phải ôn tồn nói chứ, ai lại thế?

                        - Nhưng con không chịu xây kiểu cò con thế này. Con là trưởng tộc.

                        - Bậy nào - Bà Là nói khẽ với con trai - Còn anh Chu con nữa chứ. Anh Chu con mới là trưởng đích tôn con ạ.

                        - Đã thế thì con sẽ điện cho anh Chu về…

                        Nhất làu bầu một hồi, doạ sẽ báo với chính quyền cho ngừng thi công, rồi cùng mẹ và vợ lên xe về Hà Nội.

                        ***

                        Đó mới là khúc dạo đầu.

                        Mấy tháng sau, không biết có phải Nhất điện sang bên Nga cho anh trai không, mà vừa xuống sân bay Nội Bài, Chu đã bảo phải về gấp làng Động.

                        Lê Kỳ Chu, trước khi sang học ở Cộng hoà Dân chủ Đức, đã làm thủ tục xin thay đổi họ. Năm 1985, bước chân ra khỏi biên giới, lý lịch, hộ chiếu của anh mang tên mới: Nguyễn Kỳ Chu.

                        Chỉ còn một năm nữa Chu sẽ lấy cái bằng tiến sĩ điện tử, thì bức tường Berlin sụp đồ. Lẽ ra anh sẽ về nước làm tiếp luận văn, hoặc xin chuyển tiếp sinh sang một nước khác. Nhưng Chu bỏ luôn bằng cấp, học vị, cùng hứa hẹn một chân trợ giảng ở Đại học Bách khoa, một hàm giáo sư tương lai. Chu chuồn sang Tây Đức, tình nguyện vào trại tị nạn chính trị. Đó là những ngày cực kỳ gian khổ. Anh có thể mất hết: Bố mẹ, gia đình, vợ con, danh dự, nghề nghiệp, và, tất nhiên cả Tổ quốc. Nhưng anh quyết phải tìm đường thoát khỏi cái nghèo. Thoát khỏi những tem phiếu và những cuộc họp lê thê vô bổ để chỉ bàn những chuyện trời ơi đất hời. Chu tin, ở Đức anh sẽ tìm ra lối thoát, bởi người Đức, sau tội ác man rợ của Hitle, họ biết cách làm lành với thế giới, bởi đây là nơi sản sinh ra Các Mác, nhưng họ biết ông ta chỉ là khoảnh khắc của lịch sử… Sau này nghe Linh kể lại, cả hai ông bố đẻ và bố vợ vừa biết tin Chu xin tị nạn, đều gầm lên phỉ nhổ đứa con phản Đảng, phản bội Tổ quốc. Ông Lợi ân hận vì trót làm lễ nhận cha, con. Bà Cam, bỏ ăn ba ngày, suýt uống seduxen tự tử. Linh bị trường cho nghỉ dạy. Bè bạn, anh em xa lánh hết. Ông tướng Quảng Lạc, thỉnh thoảng lại mở khẩu K54, vung lên, bảo gặp thằng con rể ông sẽ bắn vỡ sọ.

                        Ra khỏi trại tị nạn, Chu đi làm thuê, bốc vác, quét tuyết, dọn nhà xí… thượng vàng hạ cám, miễn kiếm ra tiền. Rồi Chu tập hợp bạn bè, lập một đường dây buôn áo da, áo bay, buôn thuốc tây chuyển qua Nga về nước. Có những chuyến đánh xe luồn rừng, băng qua Tiệp, Ba Lan, bị cảnh sát và lính biên phòng đuổi bắt, suýt bỏ mạng. Cho đến khi có một gian hàng, trụ được ở Dresden, thì Chu móc nối cho vợ con qua đường đây du lịch lậu từ Hungary sang. Rồi Linh kéo thêm anh em họ hàng, Chu đưa ông cậu Quách Liêu cùng anh em dây mơ rễ má ở Mường Bi sang, lập thành một làng người Việt ở Đức. Mô hình một doanh nghiệp bắt đầu manh nha hình thành.

                        Cho đến khi hai vợ chồng chuyển hướng kinh doanh về Nga, thì Chu nổi lên như một thế lực mới của người Việt trong thương trường và cả trong các hoạt động xã hội. Làm chủ được khu chợ Vòm, khống chế được cả một hệ thống buôn bán của người Việt trên lãnh thổ toàn Nga và các nước Đông Âu.

                        Bạn bè đặt cho Chu biệt danh Tavarits Trâu (Đồng chí Trâu), do âm Chu, tiếng miền Trung, chỉ con trâu. Tavarits Trâu nổi lên như một Bố già, làm bọn đầu trọc Nga cũng phải kiêng nể.

                        Kiếm tiền ở Nga dưới thời Tổng thống Bôrit Enxin thật dễ dàng. Dân Nga suốt bẩy mươi năm dưới chính thể Xã hội chủ nghĩa, lớ ngớ như gà công nghiệp. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh trống trơn. Bao nhiêu nồi áp suất, bàn là, dây may so, tủ lạnh Saratop… đã bị dân đầu đen cuỗm sạch. Các cựu chiến binh vệ quốc mang hàng rổ huân chương, đồ kỷ niệm đi bán để lấy vài rúp mua bánh mỳ. Dân đầu đen Việt Nam được ví như Do Thái phương Đông chăn dắt gà công nghiệp bằng những gói mì sợi Vị Hương, bằng quần áo may sẵn, đồ nhựa, dệt kim và đủ thứ thực phẩm hàng hoá Việt Nam, Thái Lan, Hồng Công, Trung Quốc…

                        Bây giờ, Tổng công ty liên doanh của vợ chồng Chu mang tên Thắng Lợi, do Nguyễn Kỳ Chu làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Quản Thị Linh làm Tổng giám đốc, là một doanh nghiệp đa ngành, liên quốc gia, có trụ sở tại Nga, Đức, Việt Nam. Công ty Đại Việt của Chiến Thống Nhất là một thành viên, chuyên về kinh doanh ô tô, nhập thiết bị phụ tùng, sản xuất vật liệu xây dựng. Đón trước xu thế hội nhập, Việt Nam vào WTO, Chu vừa có một quyết định chiến lược: Chuyển vốn về quê kinh doanh bất động sản, khách sạn du lịch và sản xuất thép. Một tổ hợp trung tâm giao dịch, văn phòng cho thuê và siêu thị, gồm một tháp đôi ba mươi sáu tầng đang hoàn thiện thủ tục để xây dựng tại khu Mỹ Đình. Các nhà chuyên môn nhận định, khoảng dăm năm nữa, Liên doanh Thắng Lợi của Chu sẽ ở trong tốp 10 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu Việt Nam, ngang với Hoàng Anh Gia Lai, Gạch Đồng Tâm Long An, Hoà Phát Hà Nội, Cà phê Trung Nguyên, Dệt Thái Tuấn, May Việt Tiến, Thuỷ sản Minh Phú, ô tô Trường Hải, Gốm sứ Minh Long v.v…

                        Hai anh em, cùng bố khác mẹ, mang hai cái họ lạ hoắc Chiến, Lê, lại hợp tính nhau, quý nhau hết sảy. Nếu như cái thế của ông bố đẻ Chiến Thắng Lợi, cái quyền lực của ông bố vợ Thứ trưởng Bộ Kinh tế, cái sắc đẹp và sự quyến rũ của cô vợ Thanh Thuý khôn ngoan, ranh mãnh cho Nhất những lợi thế trong quan hệ, giao tiếp thì Nguyễn Kỳ Chu lại cho em trai mình những kinh nghiệm vô giá về kinh doanh nơi thương trường. Ngược lại, có thêm Nhất làm phó cho mình tại Việt Nam, Liên doanh của Chu như mọc thêm hàng trăm vòi bạch tuộc, thâm nhập sâu vào các chính sách kinh tế vĩ mô, các lĩnh vực kinh doanh, các khu chế xuất… mà các công ty nước ngoài và các liên doanh khác không thể có.

                        - Ông bố vợ em vừa tiết lộ, đề nghị của Bộ giao thông và Bộ Kinh tế cho tăng thuế nhập khẩu xe con lên tám mươi phần trăm để tránh ách tắc giao thông đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ đồng ý rồi - Nhất thông báo ngay với ông anh khi hai anh em trên đường về làng Động - Anh phải giải quyết sớm vụ nhập hai trăm chiếc Mercedes, đế đưa hàng về cảng Sài Gòn trước tháng tám. Các anh Hai Nam Bộ giờ đang lắm tiền, toàn thích xài sang. Em đã làm việc với hải quan xong rồi.

                        - Yên tâm đi. Anh sẽ điện cho cậu Quách Liêu lo vụ này. Mai anh với chú phải lên chỗ tay Hoạt. Hắn đã ra giá. Mỗi đầu xe phải chi ba phần trăm. Rồi còn chỗ tay Từ, mụ Oanh nữa… Chi phí vụ nhập xe này không dưới hai triệu USD. Trực tiếp anh với chú phải đi giải ngân…

                        Đó chỉ là một trong những câu chuyện làm ăn của hai anh em. Thường thì trên xe, họ ít bàn về công việc. Lái xe đường trường, chỉ chuyện tiếu lâm, chuyện bù khú mới đỡ buồn ngủ.

                        - Tối qua, chú có ưng em Xônhia không? Thằng Pêtukhin bạn anh, nó bảo atlittrờna(*), số một đấy.

                        Nhất biết ông anh đang nhắc tới vụ tươi mát ở khách sạn Thiên Nga Trắng, bên Hồ Tây. Nguồn hàng mới từ chính quốc do đường dây của bạn ông anh điều sang. Ba thằng, một chai Smirrnov, hai chai Whysky Wall Street vuông và ba cô gái Nga vừa tốt nghiệp phổ thông trung học. Sướng hơn lên thiên đường.

                        - Về nhà Thuý nhà em bảo toàn ngửi thấy mùi Tây, cứ thấy gây gây, ghê ghê. Cô nàng tinh ra phết. Em đã tắm kỹ trước khi ra khỏi khách sạn, mà sao vẫn biết. Em phải nói dối là cùng với anh đi uống rượu với mấy thằng một-go Chả là hồi học phổ thông, vợ em toàn đọc Igo là một-go, Iran, Irắc là một răng, một rắc. Trêu thế cho cô nàng buồn cười, quên đi cái mùi gái Nga.

                        - Sao chú không nói trước? Sáng nay Thuý hỏi, anh cứ ngớ ra.

                        - Anh giết em rồi. Anh nói với Thuý thế nào?

                        - Mãi rồi anh cũng đoán ra. Anh bảo, anh có việc bận. Chú Nhất đi với thằng Pêtukhin và mấy thằng mới sang.

                        Nhất cười khì khì.

                        - Hú vía. Chị Linh dễ, chứ Thuý nhà em dữ như cọp cái. Nó mà biết em "ăn phở" là nó xé xác. À, anh chưa biết khu nghỉ mát Thuỷ Tiên nhỉ? Nước hơi đục, nhưng tươi mát cực kỳ. Mới khai trưởng, giá rẻ bất ngờ. Anh có biết bao nhiêu không? Tám mươi nghìn trọn gói từ A đến Z. Tuần vừa rồi bọn em đánh một xe sáu tên giặc lái xuống. Toàn loại "rau sạch" mười tám mười chín, tha hồ chọn. Kỳ nhất là tự dưng thấy một ông già ngoài bẩy mươi ngồi ở phòng đợi. Cụ Khốt này đến đây làm gì nhỉ? Đợi ai? Hay là nhân viên phục vụ? Em phân vân định hỏi, nhưng lại sợ ông cụ ngượng. Một lúc thấy bà chủ quán gọi với ra: "Ông tóc bạc kia vào đi. Có phòng rồi đấy!". Em tá hoả. Té ra cũng dân làng chơi như mình. Lát sau thấy một thằng cha đeo sợi dây vàng ở cổ như cái xích chó đến ngồi cạnh, bắt chuyện: "Ông bố đẻ tôi đấy. Mẹ tôi mất từ năm tôi mười hai tuổi, ông cụ quyết ở vậy nuôi con. Vượt biên sang Hồng Công, rồi Canada, suốt bao nhiêu năm tôi chỉ nghĩ đến chuyện làm sao báo hiếu được bố. Kỳ này về nước, tôi quyết đưa ông cụ vào đời…"

                        Hai anh em cười đến vỡ xe.

                        - Hay là chuyến này anh em mình mời chú Vọng xuống Thuỷ Tiên đãi chú một chầu? - Chu gợi ý - Anh thấy thương chú Vọng. Ông chú chắc cũng chay tịnh hàng chục năm nay?

                        - Đừng dại. Ăn mắng đấy. Chú Vọng còn Bôn sệt hơn cả bố mình. Gặp chú, mình chỉ bàn chuyện sửa lại khu Nguyễn Kỳ Viên thôi…

                        - Để về xem công trình thế nào đã…

                        - Còn xem gì nữa. Theo em phải dỡ ra xây cất lại. Mồ mả ông cha, nhà thờ tổ họ mà không chăm sóc, hương khói cho chu đáo, làm ăn chỉ có lụn bại. Em vừa xuống xem khu từ đường của ông bố vợ em dưới Hải Dương. Không kém gì Di Hoà Viên ở Bắc Kinh anh ạ. Nhà mình rộng hơn bẩy nghìn mét vuông, có thể chở đất đồi về làm hòn giả sơn, rồi trồng cỏ Mỹ. Cái hồ phải khơi rộng gấp bốn, xung quanh làm đường đi dạo. Rồi ít ra cũng phải xây một khách sạn mini cỡ 5 sao để anh em mình làm khu nghỉ cuối tuần, tiếp đối tác, bạn bè. Phải có một khu ẩm thực anh ạ. Cứ mộc tồn với thịt vịt đặc sản Phương Đình là hết ý. Xây kiểu chú Vọng đang làm, vẫn theo lối cò con, cổ hủ lắm.

                        - Đợt này anh có mang tiền về góp thêm với chú Vọng. Coi như chú Vọng ứng trước, rồi anh sẽ thanh toán hết. Anh muốn chứng tỏ cho thiên hạ biết thằng con rơi này sẽ làm rạng danh tổ tiên, làm vẻ vang dòng họ Nguyễn Kỳ. Chứ để riêng chú Vọng gánh là dã man. Chú Vỹ chú Cục không nói làm gì, chứ ông bô chúng mình mà cũng giả ngây điếc, thì rồi thiên hạ người ta ỉa vào mặt. Tiếng là Việt kiều Mỹ, nhưng chú ấy cũng phải làm ăn chắt bóp mấy chục năm mới được ít vốn liếng. Chỉ bằng anh với chú làm một phi vụ.

                        - Cả em cũng đóng góp, để lấy phúc lộc… Nghĩ mà thương chú Vọng. Em hỏi, chú kiếm bằng cách nào mà có tiền mang về xây nhà thờ? Chú xoè tay, tính với em: "Bí quyết của đời chú là tiết kiệm. Sống khắc khổ, giản dị với bản thân nhưng lại rộng rãi với mọi người. Từ ngày di cư vào Sài Gòn, đến khi sang Mỹ, chỉ một thói quen đi làm bằng xe buýt, nhường xe con cho vợ, cho con đi học. Chú có thói quen đến sở từ 6 giờ sáng, vừa không kẹt đường, vừa có thời giờ sắp xếp công việc trong ngày. Đi làm thường mang theo hai gamen cơm, một cho bữa lót dạ, một cho bữa trưa, nên ít khi dùng đến tiền bạc. Thử tính xem. Một người Mỹ trung lưu ăn sáng hết 5 USD, ăn trưa hết 8 USD, vậy là chú tiết kiệm được 13 USD một ngày. Nhân 15 năm, sẽ tính ra một khoản tiết kiệm của chú.

                        - Thế mới biết anh em mình kiếm tiền dễ gấp mấy ở Mỹ. Vụ ô tô này mà trót lọt, cũng bằng chú Vọng kiếm cả đời…

                        - Anh là trưởng, em không dám vượt quyền. Phần em, em xin góp một tỷ. Tiền này để dành xây cái cổng và khai lại cái hồ. Em vẫn cú cái cổng lắm. Phải xoay lại hướng. Ngày trước cụ Nhiêu Biểu bảo cái cổng nhà mình ở hướng ấy, anh em sẽ lục đục với nhau suốt. Chú Vọng bảo ông nội mình ngày trước dạy: Anh em như thể chân tay. Câu chữ Hán là thế nào anh nhỉ?

                        - Huynh đệ như thủ túc. Thê thiếp như y phục.

                        - Đúng rồi, anh em như đầu với chân tay. Vợ như áo quần. Áo quần có thể thay lúc nào cũng được, còn anh em ruột thịt, không thể tay này chặt tay kia.

                        - Cho nên anh với chú phải đùm bọc lấy nhau, phải gánh vác phần việc bố chúng mình còn dở…

                        - Thế hệ các ông bô bà bô chúng mình đáng cho lên bàn thờ cả rồi. Em còn nghĩ đến hướng mở tour du lịch làng quê về Nguyễn Kỳ Viên nhà ta nữa anh ạ.

                        - Thì về nhà anh em cùng bàn. Nếu gặp được chú Vọng thì hay quá…

                        ***

                        Trước khi về làng Động, hai anh em rẽ vào thị trấn Phương Đình đánh chén một chầu thịt vịt đặc sản. Về đến nhà mặt mũi còn đỏ lênh láng như hai ông Trương Phi.

                        Vợ chồng ông Cục vừa nhìn thấy chiếc Camry xanh lục, đã đon đả chạy ra. Đây là lần thứ hai Chu về làng. Lần đầu, sau đám giỗ ông Cử Phúc và lễ nhận anh em họ hàng ở nhà ông Lợi. Lần ấy Chu cho cả vợ và con về, mời cả ông tướng bố vợ về cùng.

                        - Cả nhà cùng mong anh trưởng đỏ cả mắt - Bà Nhi nói đỡ chồng, khi thấy ông Cục cứ lóng ngóng đứng nhìn Chu với ánh nhìn rất khó tả. Từ ngày biết Chu là con ông Lợi, ông Cục thấy đặc biệt cảm tình với ông cháu trưởng.

                        Ông Cục nhận quà từ tay Chu, xuýt xoa vì cảm động. Một gói quà rất to, có cả quần áo, kẹo bánh, đường sữa mà tự tay bà Cam đã chuẩn bị sẵn cho Chu khi biết anh về làng.

                        - Đợt này anh về lâu, thể nào cũng gặp bác Vọng - ông Cục nói - Bác Vọng điện từ Mỹ về, đã lo xong giấy tờ để có thể về nước lâu dài. Tuần sau là bác ấy bay về đấy.

                        Chu nhìn ông chú từ đầu đến chân, vẻ đầy thương hại và quí mến, tựa như người chủ nhân quí tộc trà tuổi phiêu bạt đi rất xa, nay về gặp lại người gia nô của ông nội mình. Ở ông Cục vừa có nét của người xuất thân từ một dòng họ có thế lực bị sa sút, vừa có dáng dấp của một nô bộc trung thành, luôn bằng lòng với thân phận của mình. Rõ ràng khác hẳn với phong thái của chú Vỹ, chú Vọng, ở chú Cục có nét gì đó thiếu tự tin, nhưng mộc mạc chân chất, và rất vị tha. Từ ngày nhận chú cháu họ hàng, Chu chưa có dịp nào trò chuyện với ông Cục nhưng nghe mẹ anh nói, thì đây là một người rất tuyệt vời Chi họ Nguyễn Kỳ này, còn giữ được gốc gác, nề nếp gia phong, gắn kết, anh em được đến bây giờ là nhờ ông con nuôi tật nguyền này. Mẹ bảo Chu: "Con đừng cho chú ấy là con nuôi con đòi mà đối xử hách dịch. Ngày trước, mỗi lần đến làm việc với ông nội con, mẹ vẫn cho hai anh em Vện, Cục quà đấy! Mẹ thấy có cảm tình và thương chú Cục. Con có điều kiện thì nên giúp thêm cho chú thím ấy…" Lạ thật, Chu thấy khi nào nhắc đến chú Cục, mẹ cũng dành cho chú những tình cảm rất đặc biệt.

                        Lần đầu nhìn thấy ngôi từ đường và các phần phụ trợ đã lên hình hài, với toà ngang dãy dọc mái ngói đỏ au, với hồ nước, khuôn viên, tường rào bao quanh… Chu không khôi choáng ngợp. Cái thằng Nhất chỉ phổi bò. Nghe nó điện sang, thì đến phải về dỡ ra làm lại. Nào là nhà thờ chính điện thấp tè bé như cái chuồng gà. Nào là cái ao trước cửa choen hoẻn như vũng trâu đầm. So với các họ trong làng mà xấu hổ… Nói thế là không công bằng. May mà Nhất hăng máu vịt, đùng đùng như cháy nhà rồi xẹp luôn. Không xáy ra kiện tụng, xô xát. Công bằng mà nói, thiết kế tồng thể một khu từ đường dòng họ như thế này là quá hoành tráng. Công chú Vọng với vợ chồng chú Cục đáng tạc bia đá.

                        Hai chú cháu đang trò chuyện, thăm hỏi nhau thì Chu bỗng thấy cô Hậu chạy đến kéo tay anh, miệng ú ở điều gì. Rồi nghe tiếng Nhất oang oang như cãi nhau ngoài chỗ thợ đang đổ bê tông phía cổng:

                        - Tao đã nói là không để cái cổng hướng này. Hướng này là hướng sát chủ. Ông thầy tao đã nói rồi. Với lại, cổng nhìn thắng ra bãi tha ma, lại bị chắn bởi cái rãnh nước thối, có ngửi được không? Ngu hết chỗ nói.

                        - Ông bảo ai ngu? - Đinh Mạn vừa đi uống rượu đâu về, mặt tái mét, sấn đến vung nắm tay lên. Rõ ràng là Mạn từ lúc nhìn thấy mặt Nhắt, đã cố ý sinh sự - Bố con thằng này ngu nên mới đứng ra xin làm mõ cái nhà này.

                        - Làm mõ nhà này là phúc bẩy mươi đời. Tao nói cho chú mày biết, mày là thằng em rể, là thằng làm thuê, đừng có rỡn mặt chủ.

                        - Muốn là chủ thì bỏ tiền đây. Nghe nói bố mẹ ông góp được năm vạn gạch. Chỉ đủ xây cái hố xí, nhá. Đừng có lên mặt rởm! Thối lắm.

                        - Đ. mẹ, cái thằng chó. Mày bảo ai xây hố xí? Ai chỉ góp vài vạn viên gạch?

                        - Thì ông đi mà gặp ông Vọng. Làng này người ta biết ai là người bỏ công bỏ của ra xây cơ ngơi này. Bố con tôi chỉ biết làm theo lệnh ông Vọng.

                        - Tao chỉ biết mày chỉ đạo thi công. Mày dừng ngay cái cồng lại cho tao. Phá đi, làm sang chỗ kia, thẳng ra đường bêtông.

                        - Đừng có chỉ tay năm ngón với thằng này. Mấy năm trời bạc mặt, thủng đũng quần, sao không thấy thằng nào về mà chỉ đạo?

                        - Thì bây giờ ông anh trưởng tao về đây. Tao về đây. Anh em tao là trưởng…

                        - Cái ông anh phát vãng kia ấy hả? Con rơi, con vãi, đâu đáng mặt trường…

                        - Đ. mẹ cái thằng mất dạy. Mày bảo ai con rơi? Anh Chu ơi, phải cho thằng này ra bã.

                        Nhất sấn đến, túm lấy cổ áo Mạn.

                        Mạn xé đánh soạt, chiếc áo rách toang, để lộ vết trổ trên cánh tay có mũi tên xuyên qua và mảng ngực với hai con rồng xoắn lấy nhau. Bằng một thế võ, Mạn vung một quả đấm trời giáng vào quai hàm Nhất. Cặp kính cận bay vèo, vỡ tan.

                        Thấy Nhất gọi, nhanh như cắt, Chu tiến đến, túm tóc Mạn lẳng một phát. Nhưng Mạn quá khoẻ, chỉ chúi xuống rồi lại trụ vững, tung một cú song phi, một trúng gáy Chu, một trúng vai Nhất đang lồm cồm bò dậy.

                        Hăng máu, Nhất khua tay tìm kính và bỗng vớ một cục gạch gần đấy. Nhưng Mạn còn nhanh hơn, nhảy tránh được, thuận tay vớ chiếc xẻng huơ lên.

                        - Nhất cúi xuống! - Chu gầm lên, liếc mắt thấy thanh gỗ bên cạnh, liền lẳng một phát bay vút về phía chiếc xẻng.

                        Một tiếng hét rợn óc. Ông Cục ôm đầu gục xuống. Thì ra ông Cục nhảy vào can, vừa lúc thanh gỗ lao tới.

                        Bà Nhi kêu hét lên, ôm lấy ông Cục đang nằm gục trên vũng máu.

                        - Ối làng nước ôi! Cứu lấy ông Cục nhà tôi… Anh trưởng Chu giết chết ông Cục rồi…ôi… ồi…



                        Chú thích:

                        (1) Tiếng Nga: Tuyệt vời, số một.

                        Comment


                        • #27
                          Chương 29


                          Người mẹ Việt



                          Bức ảnh mà chuẩn tướng Trương Phiên tặng nhà văn Châu Hà mang về nước đã góp một chi tiết quan trọng để bổ sung cho cuốn sử của sư đoàn K bộ đội Miền Đông Nam Bộ đang được gấp rút hoàn thành. Các nhà sử học quân đội đã tìm ra mũi trinh sát thâm nhập thị xã An Lộc gồm sáu chiến sĩ, do thượng sĩ Nguyễn Kỳ Công làm nhóm trưởng. Thoát cảnh bị máy ủi cán đầu, đêm ấy họ tìm cách đào thoát, nhưng không thành. Cả sáu chiến sĩ và Tám Báu đều hy sinh, sau khi Công kịp thông tin về chỉ huy sở. Tư lệnh mặt trận biết kế hoạch bị lộ, đã quyết định bất ngờ tấn công ào ạt vào thị xã, đề phòng đối phương tìm cách ngăn chặn. Và cuộc bao vây An Lộc mười tám ngày đêm đã kết thúc thắng lợi. Toàn bộ sư đoàn 5 bộ binh, lực lượng tăng viện của các sư đoàn 25, 18, 21 bộ binh quân lực Cộng hoà và lực lượng tại chỗ của chuẩn tướng Trương Phiên, người vừa được Chính quyền Sài Gòn thăng cấp tốc từ đại tá lên chuẩn tướng để khích lệ tinh thần tử thủ, bị đại bại. Cửa tử quốc lộ 13 được khai thông từ Lộc Ninh xuống tới Chân Thành, Bến Cát…

                          Mũi trinh sát của công đã góp Công lớn vào chiến thắng An Lộc. Liệt sĩ Nguyễn Kỳ Công được lập hồ sơ để truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang.

                          Những thông tin trên bà Cam biết được từ chuyến đến thăm đột ngột của nhà văn Châu Hà. Sau khi bị miễn nhiệm chức Tồng biên tập báo Văn Chương, nhà văn Châu Hà được điều lên làm Chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị thay vị Chủ tịch cũ vừa mất. Trong thời gian chờ nhận bàn giao công việc, ông đã đến nhiều nơi, từ các cơ quan Bộ Quốc phòng, tới các quân đoàn, quân khu, sư đoàn có liên quan, dồn hết tâm sức để làm rõ sự thật về bức ảnh bẩy chiến sĩ suýt bị máy ủi hành hình trước cuộc tấn công vào thị xã An Lộc.

                          - Ảnh gốc tôi đã nộp cho Tổng cục Chính trị. Đây là bức ảnh chụp lại.

                          Bà Cam lặng đi khi nhận ra đứa cháu nội của mình cao vọt lên trong số bẩy chiến sĩ bị chôn sống.

                          - Cấp trên đã xác định được chàng trai Nguyễn Kỳ Công này là con ông Nguyễn Kỳ Quặc ở làng Động, cháu ruột nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ và ông Chiến Thắng Lợi - Châu Hà nói - Nếu không có gì thay đổi, danh sách tuyên dương Anh hùng sẽ được công bố vào Quốc khánh 2 tháng 9.

                          Bà Cam hơi cúi xuống như đang chặn một cơn đau tim. Nước mắt bà trào ra. Không phải vì cơn đau mà vì quá thương tiếc tự hào. Đúng là thằng Công, con trai cả của Cục, cháu nội bà. Nó xung phong đi bộ đội để trả thù cho mẹ nó bị máy bay Mỹ giết hại, khi chưa đầy mười bẩy tuổi. Tiếp đến là hai em nó, Nguyễn Kỳ Cải, rồi Nguyễn Kỳ Cách. Hai thằng anh nằm lại chiến trường. Chi mình thằng Cách trở về. Nguyễn Kỳ Cải đã có giấy báo tử. Còn Nguyễn Kỳ Công, biền biệt từ ấy may mà bây giờ mới biết tin tức.

                          - Để tôi nhắn ông Lợi báo tin về làng Động cho ông Cục biết - Bà Cam nói và cứ băn khoăn không hiếu sao Châu Hà lại báo tin này với mình.

                          - Chắc ông Lợi cũng biết tin này rồi - Châu Hà nói - Tôi đến thăm, nhân tiện kể với chị về tắm ảnh, mà người tặng tôi, cũng là người gửi tặng chị món quà tôi mang theo đây. Không hiếu sao tôi cứ có linh cảm ông ta phải có một mối quan hệ bí ẩn nào đó với liệt sĩ Nguyễn Kỳ Công. Chính ông ta cũng bảo: "Tôi giữ mãi bức ảnh này vì nhìn ảnh, tôi cứ nghĩ, cậu ta hình như là con trai mình, cháu ruột mình. Suýt nữa thì tôi lại giết một người ruột thịt…"

                          Châu Hà đưa chiếc hộp đá chạm cho bà Cam.

                          - Ai gửi cho tôi? Món quà gì thế này?

                          - Thì chị thử mở ra xem.

                          Châu Hà lặng lẽ theo dõi phản ứng và tâm lý của bà Cam, với cái nhìn và óc phán đoán của nhà tiểu thuyết. Quả nhiên, vừa nhìn thấy chiếc dây thánh giá bạch kim có khắc chìm hai chữ TP, thì sắc mặt bà Cam tái dại, hai khoé mép bà run rẩy.

                          - Tôi không nhận đâu. Sao anh lại chuyển cho tôi món quà này? Chắc có sự nhầm lẫn…

                          - Tôi cũng định không nhận, vì lỡ chị từ chối… Nhưng ông ta nài nỉ tha thiết quá. Ông ta nói đây không phải là một món quà tặng mà là biểu hiện của lời cầu chúc, là sự ăn năn, sám hối…

                          Đôi mắt bà Cam đau đáu như nhìn sâu vào cõi xa xăm nào của quá khứ.

                          - Hồi anh gặp tôi ở Đại hội Chiến sĩ thi đua để viết bài, tôi vẫn chưa kể hết với anh. Vì sao tôi đến chùa Phổ Hướng? Vì sao tôi lại trở thành Ni cô Đàm Hiên?

                          - Có một khoảng trống đầy bí ẩn ở chị mà hồi ấy tôi không tiện hỏi. Bây giờ chắc là lúc chị có thể kể…

                          - Là người giàu óc tưởng tượng như nhà văn các anh, chắc cũng không thể nghĩ đời tôi lại có nỗi truân chuyên đến thế…

                          - Con người mà anh gặp, đã đẩy tôi phải tìm đến cái chết. May mà Đức Phật đã ra tay cứu giúp… - Bà Cam dừng hồi lâu, cố nén những tiếng thở dài. Rồi đột ngột hỏi - Các anh sang bên Mỹ, lão Trương Phiên và bọn phản động lưu vong có làm khó dễ nhiều không?

                          - Ở New Orleans, ngày đầu có một vài nhóm biểu tình. Nhưng sau lại rất thân ái. Chuẩn tướng Trương Phiên chủ động nhờ người giới thiệu đến gặp chúng tôi. Ông ấy ân hận và muốn được tha thứ…

                          - Rồi tôi sẽ kể với anh… Cả về bức ảnh anh bộ đội giải phóng sắp được tuyên dương anh hùng này… Nhưng bây giờ chưa phải lúc… - Tránh cái nhìn như mũi dao săm soi của nhà tiểu thuyết, bà Cam lim dim mắt như nhìn vào chính đáy tâm hồn mình.

                          Bà nghe có tiếng vang từ đâu đó, như những chuỗi câu hỏi, âm âm trong đầu: Vậy thì đến bao giờ? Bao giờ vết thương mới vỡ bung ra? Sự thật của đời ta phải được phơi bày. Nhưng khi nào? Hôm nay? Ngày mai? Hoặc không bao giờ?

                          - Kìa ông ơi, bà cháu… - Cô cháu gái nãy giờ vẫn đứng lảng vảng canh chừng, bỗng nhảy bổ lại - Bà cháu có bệnh tụt huyết áp…

                          - Chị ơi. Chị mệt lắm phải không? - Châu Hà hốt hoảng khi thấy mặt bà Cam tái nhợt, đang muốn xỉu đi. Ông bảo cô gái đi lấy dầu xoa và cốc nước trà gừng rồi đưa bà vào giường nằm.

                          Lúc sau, bà Cam tỉnh dần.

                          - Tôi đau đầu quá. Tôi con nợ nhà văn và nợ mọi người… - Bà Cam thều thào nói trước khi Châu Hà ra về.

                          ***

                          Cái tin Cục đi cấp cứu bệnh viện. Và người suýt gây ra án mạng, lại là Chu, khiến bà Cam đột quỵ. Một tuần trong bệnh viện, nhiều lúc bà Cam hôn mê sâu, phải thở bằng máy. Chu phải huỷ kế hoạch bay sang Nga để ở lại chăm sóc mẹ.

                          - Ông Cục sao rồi hả con? - Đó là những tiếng thều thào duy nhất mỗi lần bà Cam hồi tỉnh. Bà hỏi Chu, nhưng lại nhìn anh như trách móc.

                          - Vẫn đang nằm ở không cấp cứu hồi sức bệnh viện tỉnh. Nhưng chú ấy tỉnh rồi mẹ ạ. Mảng sọ bên trái bị rạn. Não bị tụ máu. Mấy hôm đầu tưởng không qua khôi… Lỗi tại con. Con không có ý đánh chú ấy mà chỉ cứu em Nhất. Nếu con không gạt lưỡi xẻng của Mạn thì em Nhất đi rồi…

                          Bà Cam muốn nói điều gì, nhưng không thể diễn tả nổi. Trong đầu bà âm u như một buổi chiều đầy sương mù. Tất cả chỉ một màu tro xám. Văng vẳng đâu đây như có tiếng gió rít từng hồi, tiếng những bụi tre kẽo kẹt. Tiếng con chim lợn buông mấy tiếng rợn người. Rồi lờ mờ hiện ra một gò ông Đống đầy những bụi tầm xuân. Con chim lợn vô cánh bay quạt theo cơn gió lạnh tử thần. Rồi tiếng trẻ con bỗng khóc ré. Tiếng khóc như xé màng nhĩ. Bà Cam bỗng hốt hoảng giật bắn người, vã hết mồ hôi.

                          - Kìa mẹ. Mẹ thấy trong người thế nào? Chu cúi xuống, ôm ghì lấy mẹ. Anh thấy như chính mình đau đớn mỗi khi mẹ cựa mình. Suốt mười mấy năm phiêu bạt xứ người, những lúc anh yếu đuối nhất, lo lắng nhất là khi nghe tin mẹ ốm, hay có sự cố gì xảy ra với mẹ.

                          Chu lấy khăn lau nước mắt cho mẹ. Cứ lần nào nhìn thấy Chu là nước mắt mẹ lại giàn giụa. Mẹ thương Chu hay có điều gì muốn nói với anh?

                          - Con điện cho Linh đưa hai cháu về thăm mẹ rồi. Nhà con đang thu xếp công việc. Cậu Quách Liêu nghe tin mẹ ốm nặng cũng đòi về. Riêng cháu Liên của bà có khi không về được vì đang mắc kỳ thi cuối khoá…

                          Bà Cam gật đầu.

                          - Mấy hôm nay bao nhiêu người đến thăm mẹ, mẹ có biết không? Tất cả những cô dì hồi làm ở Hội Phụ nữ với mẹ, không thiếu một ai. Ban Tổ chúc Trung ương, Mặt trận Tổ Quốc, Văn phòng Quốc hội, Uỷ ban tỉnh Sơn Minh đều đến thăm và có quà cho mẹ này. Bố con và dì Là, em Nhất ngày nào cũng vào viện. Rồi bố mẹ vợ con, chú Vỹ, thím Khiêm. Chú Vọng mới ở Mỹ về cũng đến ngay… Trong quê thì không thiếu một ai. Cả Mường Bi, cả làng Động… Đủ hết thành phần. Mẹ cố khoẻ, mẹ nhé…

                          Chu nghẹn giọng. Mắt ướt nhoè. Anh có cảm giác như mọi người đến để tiễn biệt mẹ anh lần cuối.

                          Bà Cam quay mặt vào tường. Giữa cơn mơ chập chờn, bà lại nghe có tiếng trẻ khóc ở trong búi tầm xuân gò ông Đống giữa đồng. Có rất nhiều tiếng chí choé của đàn chuột đồng, nhiều tiếng quạ như xé nát màn sương. Rồi lào rào như tiếng gió tiếng lá khô bị xô đẩy. Đó là dấu hiệu hành quân của kiến. Đàn kiến lửa đông tới triệu triệư con, nối đuôi nhau, đỏ như một vệt máu đông di động… Tiếng trẻ bỗng kêu thét lên, tựa hồ như cùng một lúc, bọn chuột, bầy quạ và đàn kiến cùng nhất tề tấn công thằng bé.

                          Bà Cam ú ớ, đưa tay chới với như bắt chuồn chuồn.

                          Chu hốt hoảng vội gọi bác sĩ.

                          - Tôi cảm thấy mẹ tôi có những biểu hiện bệnh lý lạ. Xin các bác sĩ cho hội chẩn để tìm nguyên nhân - Chu gặp bác sĩ trưởng, nài nỉ. Anh cũng không quên đưa chục chiếc phong bì cho một bác sĩ quen để nhờ lo liệu công việc.

                          Bốn ngày sau, bác sĩ trưởng gọi Chu vào phòng riêng và báo:

                          - Lần đầu tiên trong đời làm bác sĩ, tôi mói thấy một bệnh nhân có biểu hiện bệnh lý kỳ lạ thế này.

                          Chu run bắn người.

                          - Dạ xin bác sĩ cứ nói. Mẹ tôi…

                          - Anh phải hết sức bình tĩnh. Tôi biết anh rất yêu mẹ… Nhưng chúng ta phải dám nhìn thẳng vào sự thật. Tiến triển bệnh của bà cụ rất lạ. Hôm đầu vào viện chúng tôi đã chiếu chụp toàn bộ, nhưng không hề thấy dấu hiệu gì ở gan. Vậy mà, bây giờ, tình hình đã khác hẳn. Khối u của bà cụ phát triển rất nhanh…

                          - Thưa bác sĩ, mẹ tôi đã… - Chu bật khóc - Các bác sĩ đã cho làm sinh tiết chưa? Có cần gửi sang bệnh viện K không, thưa bác sĩ?

                          - Chúng tôi đã gửi sinh tiết sang bên K. Đã mời bác sĩ đầu ngành ở K đến hội chẩn. Và chúng tôi đã cùng thống nhất trong bệnh án…

                          Chu như đổ sụp xuống ghế. Anh không thể kìm mình được. Anh khóc tức tưởi. Con đau quá mẹ ơi. Vì con mà mẹ chịu trăm bề cơ cực. Con là một đứa bé bơ vơ, côi cút của Mường Bi. Tuổi thơ của con tưởng chừng như vắng bóng mẹ. Con là đứa trẻ mồ côi, bao nhiêu năm khát tình cha mẹ. Rồi con dần hiểu ra. Con biết mẹ phải hy sinh tình cảm mẹ con để phụng sự cho một sự nghiệp lớn lao hơn… Cho đến khi con có mẹ và có cha, thì mẹ lại chịu biết bao thua thiệt. Con biết, khi viết lá đơn xin ra khỏi tổ chức, xin gửi lại hết huân chương, bằng khen, danh hiệu… mẹ đã đau đớn biết nhường nào… Mẹ không phải là kẻ phản bội lý tưởng, phản bội con đường đã lựa chọn. Nhưng vì con, mẹ đành chịu mất mát lớn, chịu những thương tổn mà với một người như mẹ, là vượt quá sức, là đau đến tận cùng… Con biết mẹ vẫn chưa hết nỗi đau. Mẹ vẫn giấu con một cái gì. Đó là nỗi đau gì hả mẹ?

                          Chu muốn gào lên. Muốn hỏi trời xanh. Anh loạng choạng bước ra khỏi phòng bác sĩ, nhưng lại đâm bổ vào thành cửa.

                          Bệnh tình bà Cam trở nên rất nguy kịch.

                          ***

                          Chu quyết định đưa mẹ sang Singapore hay Trung Quốc. Nhưng các bác sĩ khuyên anh nên cân nhắc kỹ. Bởi bà Cam không chịu đựng nồi một cuộc di chuyển đường dài, dù trên một chuyến chuyên cơ đặc biệt.

                          Sau mấy tuần xạ trị, tóc bà Cam rụng hết. Bà chỉ càn như một bộ khung xương nằm thoi thóp trong căn phòng dịch vụ trắng toát của bệnh viện.

                          Một sáng tinh mơ, bà Cam bỗng gượng dậy, đưa mắt hê nhìn.

                          - Ôi mẹ, mẹ tỉnh lại rồi! Cả Chu và Linh đều reo lên - Con Linh đây. Con dâu và hai cháu nội của mẹ, Nguyễn Kỳ Châu, Nguyền Thu Liên của bà đã về đây.

                          - Đầy đủ cả rồi à? - Bà Cam nhìn quanh, như tìm kiếm một ai đó - Thế chú Quặc đâu?

                          - Dạ chú Cục đã ra viện rồi mẹ ạ. Nhà nước vừa công bố tên em Nguyễn Kỳ Công trong danh sách truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang đợt này. Chú Cục và cả họ, cả làng Động phấn khởi lắm…

                          Nụ cười trên môi bà Cam méo xệch. Lâu lắm rồi Chu mới thấy mẹ cười.

                          - Mẹ muốn gặp chú Quặc. Muốn được mừng cháu Công anh hùng…

                          Bà Cam một mực đòi về nhà. Vợ chồng Chu đành thu xếp cho bà ra viện.

                          Căn nhà đã được tu sửa, quét vôi sáng trắng để đón bà Cam.

                          Từ hôm đó, bà Cam như khoé lại. Bà gượng ngồi tựa lưng hàng giờ. Bà đòi được tắm rửa, mặc quần áo mới.

                          Chu biết, ngày hệ trọng của đời mẹ sắp đến.

                          Hôm ấy, theo lời dặn của mẹ, Chu đã mời đông đủ anh em chú bác chi họ Nguyễn Kỳ: ông bà Chiến Thắng Lợi, ông bà Nguyễn Kỳ Vỹ, ông Nguyễn Kỳ Vọng, ông bà Nguyễn Kỳ Quặc, cùng cậu Quách Liêu và tướng Quảng Lạc, thông gia của bà Cam. Một người ngoài gia tộc duy nhất mà bà Cam dặn phải mời đến là nhà văn Châu Hà.

                          Ai cũng lặng lẽ như bước vào một lễ cầu siêu.

                          Bà Cam nằm, mảnh chăn mỏng đắp ngang người, như ngủ. Gương mặt đã bị thời gian và bệnh tật tàn phá chỉ còn là bộ khung xương, với hai hốc mắt trũng sâu, tuy vậy, vẫn thấp thoáng những đường nét của một thời xuân sắc. Riêng mảnh khăn nâu mà cô cháu gái đã khéo che cái đầu rụng tóc khiến cả ông Lợi và nhà vãn Châu Hà vừa bước vào đã giật mình, cùng nghĩ tới ni sư Đàm Hiên chùa Phổ Hướng năm nào.

                          Nằm yên đó, nhưng dường như bà Cam biết hết. Bà như cảm nhận được ánh mắt của ông Lợi đang nhìn mình. Bà biết tiếng bước chân hơi lệch của ông Quặc đang đi đến bên cạnh, ngay sát bên Chu.

                          Khi mọi người đã tề tựu đông đủ quanh giường bệnh, bà Cam gượng chống tay ngồi dậy. Chu, Linh rồi bà Nhi, bà Khiêm, bà Là cùng xúm lại, người đỡ vai, người xốc nách.

                          - Tôi cám ơn mọi người đã đến - Bằng một giọng trầm, nhỏ, nhưng khúc triết đến không ngờ, bà Cam mở đầu - Tôi biết mình không còn được ở với mọi người lâu nữa, nên bảo vợ chồng cháu Nguyễn Kỳ Chu tổ chức cuộc gặp này. Người xưa nói, con chim trước lúc chết thì cất tiếng kêu thương. Con người trước khi chết thì cất lời nói thật. Có phải thế không chú Châu Hà nhỉ?

                          - Dạ, đây là câu trong Luận Ngữ. Tăng Tử bị ốm nặng, đã nói với Mạnh Tử Kính như vậy - Châu Hà nói.

                          - Nay tôi mời mọi người đến đây để chứng kiến cho một lời nói thật. Điều này tôi tưởng sẽ phải đem theo xuống mồ. Nhưng tôi không thể…

                          Nước mắt bà Cam chan hoà, chảy thành dòng theo gò má.

                          Chu khóc nấc lên, ôm lấy mẹ. Những người đàn bà đều thút thít.

                          - Đừng khóc…- Bà Cam lại nói - Anh Quặc đâu, Chu đâu, đưa tay cho mẹ.

                          Linh cảm điều gì từ lúc đến, ông Cục quỳ xuống bên giường.

                          Bà Cam cầm tay Chu đặt vào tay Cục.

                          - Chu con. Đây là anh trai của con. Giọt máu của mẹ sinh ra. Con hãy thương yêu anh Quặc con, hai anh em hãy thương yêu nhau như hai nhánh cây cùng một nguồn cội. Xin mọi người hãy chứng giám cho hai đứa con của tôi. Chúng có hai người cha, hai kẻ thù ở hai phía, nhưng chúng lại được sinh ra từ một người mẹ lương thiện nhưng khốn khổ và chồng chất những bi kịch. Ông Khôi ơi, nếu ông khinh bỉ tôi, coi tôi như đồ chung chạ, như người đàn bà hư hông, thì tôi cũng đành chịu. Thời cuộc sinh ra thế. Đất nước chúng ta từng trải qua những khúc nhôi bi đát thế. Chúng ta đều là những đứa con khốn khổ của mẹ Việt Nam. Mẹ Việt không chối bỏ đứa con nào. Vậy thì hai con tôi có tội tình gì mà bao nhiêu năm tôi phải chối bỏ? Tôi sẽ không xứng đáng là người mẹ, nếu tôi không dám thừa nhận rằng chính tôi đã sinh ra chúng, không dám đối diện với những lầm lỗi, không vượt qua được sự ích kỳ, giả dối, hèn nhát… Mọi thứ trên đời sẽ còn có ý nghĩa gì, khi hai đứa con của tôi không biết rằng chúng là anh em cốt nhục. Quặc ơi, con có một cái bớt màu tro ở dưới rốn, đúng không? Suýt nữa thì mẹ đã giết chết người bố của một anh hùng. Con Kỳ Quặc tới mức cha thế, mẹ thế, mà đẻ ra được Anh hùng. Con phải cám ơn nhà văn Châu Hà đã mang từ nước Mỹ về tấm ảnh của cháu Công để Nhà nước có chứng cứ truy tặng cháu danh hiệu cao quý nhất. Nhân đây tôi cám ơn chú Nguyễn Kỳ Vọng. Giờ thì chú và mọi người có mặt ở đây có cho phép tôi làm chị dâu của chú, con dâu của họ Nguyễn Kỳ không? Tôi vẫn nhớ mãi hai anh em Vện, Cục, như hai đứa trẻ sinh đôi của ông bà Cử Phúc… Chú Vọng đã cứu cháu Công khỏi rơi đầu từ lòng hận thù mù quáng của ông nội nó… Bây giờ cháu Công đã trở thành Anh hùng. Nhưng cả tôi và cháu, cùng hàng triệu người ngã xuống, không được chứng kiến cái ngày phong tặng danh hiệu thiêng liêng ấy. Dòng họ Nguyễn Kỳ hãy nhận niềm vinh quang… Hãy xoá bỏ hận thù để thương yêu đùm bọc lấy nhau… Quặc ơi, từ nước Mỹ, đất nước mà một thời đã gây cho chúng ta biết bao đau khổ, chú Châu Hà mang về cho con cái này. Đây là bằng chứng của sự sám hối, là lời cầu xin tha thứ…

                          Bà Cam luồn tay dưới gối, lấy ra sợi dây thánh giá bạch kim, đặt vào tay Cục.

                          Từ lúc nào, Cục cũng đã cầm sẵn trên tay chiếc vòng bạc có vuốt hổ. Ông đặt kỷ vật mà ông đã cất giữ bao nhiêu năm, vào tay bà Cam. Và gào lên:

                          - Mẹ… mẹ… mẹ…! Mẹ ơi!

                          Tiếng gọi mẹ đầu tiên của Cục, cũng là tiếng khóc tiễn cuối cùng của đứa con sau sáu mươi mốt năm mới được nhận mặt người đẻ ra mình.

                          Khắp người bà Cam đã lạnh giá. Bà buông xuôi tay, đầu ngật hẳn vào vai Chu, trên môi thoáng một nụ cười. Nụ cười mãn nguyện của người mẹ trước lúc ra đi.

                          Hà nội 16h16 ngày 1.6.2008.

                          (Khởi thảo thảo 2005, viết tại Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Nha Trang, Bình Phước. TP Hồ Chí Minh)


                          HOÀNG MINH TƯỜNG

                          Lời cuối sách

                          Cuốn tiểu thuyết "Thời của Thánh Thần" viết về một gia đình làng quê châu thổ sông Hồng, được tác giã nuôi dưỡng trong âm hướng sử thi của Nước Việt suốt nửa sau thế kỷ vì thế, nhiều sự kiện, nhiều nhân vật, có bóng dáng như ở đâu đó như giống ai đó…


                          Thực ra, không gian và nhân vật đều là hư cấu tiểu thuyết, tác giả không ám chỉ một ai, một nơi nào trong đời thực. Vì thế, bạn đọc hãy vui lòng thể tất mọi điều…


                          Viết "Thời của Thánh Thần", tác giả đã nhận được sự ủng hộ của Hội Nhà văn Việt nam, sự chỉ giáo và chia sẻ của các văn nghệ sỹ, các nhà khoa học: Hoàng Yến, Nguyễn Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Bùi Đức Hợp, Nguyễn Quang Thân, Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Quang Hà, Hiền Phương, Đức Hậu, Quang Khải, Trịnh Thanh Sơn, Trần Hoài Dương, Tô Đức Chiêu, Trần Nhương, Vũ Nho, Đoàn Chấn, Nguyễn Việt Hưng, Lê Cao Đoàn, Nguyễn Vũ Tiềm…


                          Xin gửi lời tri ân và biết ơn tới các bậc cao niên, bạn bè, cũng như sự cảm thông và chia sẻ của bạn đọc.


                          TÁC GIẢ

                          Comment

                          Working...
                          X