Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Quo Vadis - Henryk Sienkiewicz

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #61
    T2 - Chương 57

    Lúc ấy mặt trời đã ngả về tây và dường như tan chảy trong ráng chiều. Buổi biểu diễn đã kết thúc. Những đám người lần lượt nối nhau rời nhà hát qua các lối ra được gọi là vormitor nối với thành phố. Chỉ còn đám cận thần ở lại, chờ cho làn sóng người đi qua đã. Tất cả bọn họ đều rời chỗ ngồi, tụ tập chung quanh cái bục, nơi Hoàng đế lại xuất hiện để được nghe ca ngợi. Mặc dù khán giả không tiếc ngài những tràng vỗ tay sau khi bài ca kết thúc, nhưng ngài vẫn chưa lấy thế làm đủ, bởi ngài chờ đợi một nhiệt tình đến mức điên loạn kia. Giờ đây chỉ vô ích những bản tụng ca tán thưởng vang lên, chỉ vô ích đám ni cô đồng trinh xúm nhau hôn mãi bàn tay “thần thánh” của ngài, còn Rubria cúi sát đến nỗi mái đầu tóc hung hung của nàng chạm cả vào ngực ngài. Nerô không hài lòng và không giấu nổi điều đó. Đồng thời ngài ngạc nhiên và lo lắng vì ông Petronius vẫn giữ im lặng. Vào lúc này, những lời ca ngợi nào đó, nêu đúng được những ưu điểm của khúc ca, thốt từ miệng ông, sẽ là một niềm cổ vũ lớn đối với ngài. Cuối cùng, không kìm nổi, ngài gật đầu ra hiệu cho ông lại gần ngục và nói:
    - Khanh hãy nói xem…
    Ông Petronius đáp lạnh lùng:
    - Thần im lặng bởi không tìm ra lời. Hoàng thượng đã vượt lên bản thân mình.
    - Ta cũng cảm thấy như thế, nhưng sao dân chúng?…
    - Liệu người có thể đòi hỏi thần dân phải hiểu biết thi ca hay chăng?
    - Nghĩa là khanh cũng nhận thấy rằng chúng không cảm ơn ta như ta đáng được hưởng?
    - Bởi người chọn phải một thời điểm không hay.
    - Tại sao?
    - Tại vì những bộ óc nhiễm đầy mùi máu không thể nào lắng nghe chăm chú được.
    Nerô nắm chặt tay đáp lại:
    - Ôi, cái lũ Thiên chúa giáo này! Chúng đã thiêu cả Roma, giờ lại xúc phạm đến ta. Ta biết nghĩ ra cho chúng những hình phạt gì nữa đây?
    Petronius nhận thấy ông đã đi nhầm đường, những lời ông nói mang lại kết quả ngược hẳn những gì ông định đạt tới, nên muốn đánh lạc hướng sự chú ý của Hoàng đế, ông cúi lại gần Hoàng đế và thì thầm:
    - Bài ca của Người thật tuyệt vời, thần chỉ xin có mỗi một điều lưu ý nhỏ thôi: trong dòng thứ tư của khổ thứ ba, âm luật còn có thể hoàn thiện hơn chút nữa.
    Nerô đỏ mặt vì xấu hổ như bị bắt quả tang đang làm một việc nhục nhã, ngài hoảng hốt nhìn quanh và đáp lại cũng khẽ như thế:
    - Cái gì ngươi cũng nhận ra!… Ta biết!… Ta sẽ chữa lại!… Không ai khác nhận thấy chứ? Đúng không? Còn ngươi, nói có tình yêu kính các thần, chớ nói cho ai cả… nếu như… như ngươi còn muốn sống.
    Nghe thấy thế, ông Petronius nhíu mày đáp lại, dường như ông bùng nổ vì chán ngán và bất bình:
    - Tâu Thánh thượng, người có thể bắt thần phải chết, nếu thần làm phiền Người, nhưng xin đừng đem cái chết doạ thần, bởi các thần linh biết rõ thần có sợ tử thần hay chăng.
    Vừa nói, ông vừa nhìn thẳng vào mắt Hoàng đế, còn ngài, lát sau mới đáp lại:
    - Khanh đừng giận… Khanh biết là ta yêu khanh.
    “Dấu hiệu không lành” - ông Petronius nghĩ.
    - Ta định mời các ngươi dự tiệc hôm nay, - Nerô nói tiếp, - nhưng ta thà đóng cửa để chau chuốt cái dòng thơ khốn kiếp của khổ thứ ba kia còn hơn. Trừ ngươi ra lỗi của ta còn có thể bị cả Xeneka nhận ra, mà cũng có thể là cả Xekunđux Karynax nữa, nhưng ta sẽ trị chúng ngay bây giờ.
    Nói đoạn, ngài cho gọi ông Xeneka và bảo ông rằng, ngài ra lệnh cho ông cùng Akratux và Xekunđux Karynax đi Italia, đến tất cả các tỉnh trấn để thu tiền, số tiền mà ngài lệnh cho phải thu từ các thành phố, các làng quê, các thần miếu danh tiếng, nói tóm lại, từ tất cả những nơi nào có thể tìm được và bóp nặn được. Nhưng hiểu rằng người ta giao cho mình công việc của một kẻ bóp nặn, một kẻ phạm thánh và một tên ăn cướp, ông Xeneka bèn từ chối:
    - Tâu Hoàng thượng, thần phải trở về thôn quê, - ông nói. - và ở đó chờ cái chết đến, bởi lẽ thần già rồi, thần kinh thần có bệnh.
    Thần kinh xứ Iber của ông Xeneka còn mạnh hơn của lão Khilon, không thể có bệnh được, nhưng sức khoẻ của ông nói chung là yếu, trông ông như một chiếc bóng, và chỉ trong thời gian gần đây, đầu ông đã hoàn toàn bạc trắng.
    Nerô nhìn ông và nghĩ rằng quả thực rất có thể thần chết chẳng phải chờ đợi ông lâu nữa, ngài bèn nói:
    - Ta không muốn khanh phải nhọc nhằn đường xá khi khanh đau yếu, nhưng vì tình mến yêu đối với khanh, ta muốn khanh ở gần ta, vậy thì thay vì đi về thôn quê, khanh hãy đóng cửa ở tại nhà và sẽ không phải rời khỏi nhà nữa.
    Rồi ngài cả cười và bảo:
    - Nếu ta chỉ phái Akratux và Karynax đi thì chẳng khác nào phái chó sói đi tìm cừu. Ta biết đặt ai chỉ huy hai người này nhỉ?
    - Xin hãy cử thần, tâu Hoàng thượng! - Đomixius Apherơ nói.
    - Không, ta không muốn thần Merkury giận La Mã, người mà các ngươi sẽ xúc phạm đến bằng sự đánh cắp của các ngươi. Ta cần một người khắc kỷ nào đó như Xeneka hay như người bạn mới của ta, nhà triết học Khilon đây.
    Nói xong ngài nhìn quanh và bảo:
    - Lão Khilon ra sao rồi nhỉ?
    Sau khi đã tỉnh lại trong không khí mát mẻ, lão Khilon đã quay vào nhà hát nghe bài ca của Hoàng đế, lão bèn tiến ra và nói:
    - Thần đây, hỡi bào thai toả sáng của vầng thái dương và chị Hằng! Thần bị mệt, nhưng tiếng hát của Hoàng thượng đã khiến thần khoẻ lại
    - Ta phái ngươi đi Akhai, - Nerô bảo, - Ngươi phải biết rõ từng xu có trong mỗi thần miếu.
    - Xin hãy làm việc ấy, hỡi thần Zeux, các vị thần sẽ nộp cho Người một khoản tiền thuế mà họ chưa từng nộp cho ai nhiều đến thế.
    - Ta cũng muốn thế, nhưng lại không nỡ tước mất của ngươi cảnh tượng hội đấu.
    - Hỡi Baan!… Lão Khilon thốt lên.
    Đám cận thần vui mừng vì Hoàng đế đã phần nào vui vẻ, họ cười to và nói:
    - Chớ, chớ, tâu Hoàng thượng! Xin chớ tước mất của con người Hi Lạp can trường này những cảnh tượng của hội đấu.
    - Nhưng xin Người hãy tước đi hộ thần cảnh tượng những con ngỗng Kapiton hay kêu mà bộ óc của chúng có gom lại cũng chẳng đầy nổi một chiếc đĩa tí xíu. - Khilon đáp lại. - Hỡi vị con đầu của thần Apolon, thần sẽ xin viết một khúc thiều ca bằng tiếng Hi Lạp để dâng lên Người, và vì vậy thần muốn được rảnh rỗi vài ngày đến thần miếu của các thi thần để cầu xin thi hứng.
    - Ồ không! - Nerô kêu lên,- Ngươi muốn chuồn khỏi những buổi diễn sắp tới. Không được đâu!
    - Tâu Hoàng thượng, thần xin thề là đang viết thiều ca!
    - Vậy ngươi sẽ viết nó ban đêm. Hãy cầu xin Điana ban cho ngươi cảm hứng, nữ thần là chị ruột của Apolon mà.
    Lão Khilon cúi gục đầu, căm tức nhìn những người có mặt, họ lại phá lên cười. Hoàng đế quay sang phía Xenexion và Xuiliux Nerulinux nói:
    - Các ngươi hãy hình dung xem, ngày hôm nay chúng ta chỉ giải quyết được một nửa số tín đồ Thiên chúa dự định mà thôi.
    Nghe thấy thế, ông lão Akvilux Regulux, một người rất thành thạo về những việc có liên quan tới nhà hát liền lên tiếng:
    - Những buổi biểu diễn của những người sine armis et sine arte(1) kéo dài gần như nhau, nhưng ít hấp dẫn hơn.
    - Ta sẽ ra lệnh cấp khí giới cho chúng.- Nerô đáp.
    Song lão Vertynux mê tín chợt choàng tỉnh khỏi những điều suy tư và hỏi với giọng đầy bí mật:
    - Các người có thấy rằng bọn chúng nhìn thấy một cái gì đó trước khi chết không? Chúng nhìn lên trời và chịu chết như không hề đau đớn. Tôi chắc bọn chúng phải trông thấy một thứ gì…
    Nói đoạn lão ngước mắt nhìn lên lỗ trống của nhà hát, nơi nàng đêm đã kéo tấm velarium dầy đặc những vì sao của mình che phủ. Song những người khác chỉ cười cợt và đáp lại bằng những giả định chế giễu về những gì mà tín đồ Thiên chúa nhìn thấy trong giờ phút lâm chung. Lúc ấy Hoàng đế ra hiệu cho đám nô lệ cầm đuốc, rồi ngài rời khỏi nhà hát, theo sau là các ni cô đồng trinh, nguyên lão, quan chức và cận thần.
    Đêm sáng sủa và ấm áp. Trước cửa hý trường hãy còn tụ tập những đám người muốn ngắm cảnh Hoàng đế ra về, nhưng họ trầm mặc và nín lặng. Đây đó nổi lên vài tiếng vỗ tay nhưng lại tắt ngay. Từ spolarium, những cỗ xe kêu cót két vẫn chở mãi chở mãi những mảnh thây đẫm máu của các tín đồ Thiên chúa.
    Ông Petronius và Vinixius đi trong im lặng. Mãi đến gần biệt thự, ông Petronius mới hỏi:
    - Anh đã suy nghĩ về điều cậu nói với anh chưa?
    - Thưa đã, - Vinixius đáp
    - Không biết anh có tin rằng giờ đây ngay cả đối với cậu điều ấy cũng là vấn đề quan trọng bậc nhất? Cậu phải giải thoát cho nàng bằng được, ngược với ý muốn của Hoàng đế và Tygelinux. Đó như một trận chiến đấu mà cậu muốn chiếm bằng được thắng lợi, đó như một trò chơi mà cậu muốn được cuộc, dù phải trả bằng mạng sống…Ngày hôm nay càng khiến cậu quyết tâm hơn.
    - Cầu Chúa Crixtux đền đáp cho cậu!
    - Rồi anh sẽ thấy.
    Vừa trò chuyện như thế họ vừa dừng lại trước cổng biệt thự và bước xuống kiệu. Chính vào lúc ấy, một bóng đen tiến lại gần họ hỏi:
    - Đây có phải ngài Vinixius cao quý hay chăng?
    - Phải. - Chàng hộ dân quan đáp - Ngươi muốn gì?
    - Tôi là Nazarius, con trai bà Miriam, tôi từ nhà ngục đến mang cho ngài tin tức nàng Ligia.
    Vinixius đặt tay lên vai thằng bé và trong ánh đuốc chàng nhìn mãi vào mắt nó, không thể thốt nổi một lời, song Nazarius liền đoán ngay được câu hỏi đã hình thành trên môi chàng và đáp:
    - Cho tới nay nàng vẫn còn sống. Bác Urxux phái tôi đến gặp ngài để thưa với ngài rằng trong cơn sốt nóng nàng vẫn hằng cầu nguyện và gọi tên ngài.
    Vinixius trả lời:
    - Ngợi ca Chúa Crixtux, người sẽ có thể trả nàng về với ta.
    Rồi chàng đưa Nazarius vào thư viện. Lát sau ông Petronius cũng tới để được nghe câu chuyện của họ.
    - Bệnh tình đã cứu nàng thoát điều nhục nhã, bởi bọn đao phủ sợ lây. - cậu bé nói. - Ngày và đêm, bác Urxux cùng thầy thuốc Glaukox thức canh cho nàng.
    - Bọn canh ngục vẫn là bọn cũ chứ?
    - Vâng, thưa ngài, nàng đang ở trong phòng của bọn chúng. Những người tù sống trong hố giam đều bị chết cả vì sốt nóng hoặc ngạt thở.
    - Ngươi là ai? - ông Petronius hỏi.
    - Ngài Vinixius tôn kính biết cháu. Cháu là con trai bà goá mà nàng Ligia từng ở nhờ.
    - Và là tín đồ Thiên chúa?
    Cậu bé nhìn Vinixius dò hỏi, nhưng thấy lúc này chàng đang cầu nguyện, bèn ngẩng đầu và nói:
    - Thưa vâng.
    - Làm sao ngươi lại được tự do vào nhà ngục?
    - Thưa ngài, cháu được thuê mang thây những người chết ra ngoài, cháu cố tình làm việc ấy để có thể lui tới giúp đỡ những người anh em của cháu, mang đến cho họ những tin tức ngoài phố.
    Ông Petronius bắt đầu ngắm chăm chú hơn khuôn mặt dễ thương của cậu bé, đôi mắt xanh thẳm và làn tóc đen huyền rất dầy của cậu, rồi ông hỏi:
    - Hỡi tiểu đồng, cháu từ đất nước nào tới đây vậy?
    - Cháu người Galilei, thưa ngài.
    - Thế cháu có muốn Ligia được tự do không?
    Cậu bé ngước mắt nhìn lên:
    - Dù cho ngay sau đó cháu phải chết cũng cam lòng.
    Khi ấy Vinixius thôi cầu nguyện, chàng nói:
    - Em hãy nói với bọn gác ngục đặt nàng vào quan tài như đã chết. Em hãy chọn thêm người giúp sức, đêm đến họ sẽ cùng với em khiêng nàng ra. Ở gần những Hố Thối em sẽ gặp những người mang kiệu chờ sẵn và hãy đưa áo quan cho họ. Hãy nhân danh ta hứa với bọn canh ngục rằng ta sẽ cho chúng số vàng đủ cho mỗi tên mang đầy một chiếc áo choàng.
    Khi nói thế, mặt chàng mất đi vẻ thiếu sinh khí thường có, người lính trong chàng tỉnh thức, được niềm hi vọng trả lại nghị lực thuở trước.
    Còn cậu bé Nazarius tươi hơn hớn vì vui, cậu vươn cả hai tay kêu lên:
    - Cầu Đức Chúa Crixtux khiến nàng khoẻ lại, vì nàng sẽ được tự do.
    - Cháu nghĩ rằng bọn canh ngục sẽ đồng ý à? - ông Petronius hỏi.
    - Bọn chúng ư, thưa ngài? Chúng chỉ cần biết rằng sẽ không bị trừng phạt và nhục hình là đủ.
    - Đúng thế! - Vinixius nói. - Bọn canh ngục muốn đồng ý ngay cả với chuyện để nàng chạy trốn, chắc chắn chúng càng dễ cho phép mang nàng ra như một kẻ đã chết rồi.
    - Thực ra cũng có một người, - Nazarius nói - chuyên dùng sắt nung đỏ để kiểm tra xem những xác mà chúng cháu mang ra đã chết hay chưa. Nhưng hắn chỉ cần vài đồng xexterxi là đủ để không áp sắt nóng vào mặt người chết. Và chỉ cần một đồng aureux hắn sẽ chỉ chạm vào áo quan chứ không chạm vào xác.
    - Cháu hãy nói với hắn rằng hắn sẽ nhận được đầy một tráp những đồng aureux. - ông Petronius bảo. -Nhưng liệu cháu có biết chọn những người giúp việc tin cẩn không?
    - Cháu sẽ chọn được những kẻ vì tiền có thể bán ngay cả vợ con.
    - Cháu sẽ tìm bọn chúng ở đâu?
    - Ngay trong nhà ngục hoặc ngoài thành phố ạ. Bọn lính canh, một khi được trả tiền, sẽ đưa vào bất kỳ người nào cháu muốn.
    - Vậy em hãy đưa ta vào như một kẻ làm thuê. - Vinixius nói.
    Nhưng ông Petronius cả quyết can chàng đừng làm việc ấy. Bọn lính cấm vệ có thể nhận mặt chàng, dù chàng có cải trang đi nữa, và thế là sẽ hỏng mọi sự. “Không được đến nhà ngục, cũng không được tới Hố Thối - ông nói - Cần làm sao để tất cả bọn chúng, cả Hoàng đế lẫn Tygelinux, tin rằng cô gái chết thực, nếu không bọn chúng sẽ ra lệnh truy lùng ngay lập tức. Chúng ta chỉ có thể không gây nghi ngờ bằng cách ở lại Roma trong khi những người khác đưa nàng vào núi Anban, hoặc xa hơn nữa, đến tận Xyxilia. Một hoặc hai tuần sau đó, anh sẽ lâm bệnh và cho mời ngự y của Nerô, hắn sẽ khuyên anh nên đi lên núi nghỉ. Khi ấy, anh chị sẽ được gặp nhau, còn sau đó…”
    Đến đây, ông suy nghĩ một lúc rồi khoát tay và bảo:
    - Sau đó sẽ có thể là thời khác rồi.
    - Cầu Đức Chúa Crixtux rủ lòng thương nàng, - Vinixius nói, - vì trong khi cậu nói tới Xyxilia thì nàng đang ốm nặng và có thể chết mất.
    - Vậy thì chúng ta sẽ để nàng ở gần hơn. Chỉ cần chúng ta đưa được nàng thoát khỏi nhà ngục, thì ngay cả không khí cũng đủ chữa nàng khỏi bệnh. Anh không có đâu đó trong núi một tá điền đủ tin cẩn hay sao?
    - Đúng rồi! Có! Đúng rồi! - Vinixius vội đáp. - Ở gần Coriola, trong núi có một người tâm phúc đã từng bế cháu trên tay khi cháu hãy còn là đứa trẻ, người ấy cho đến nay vẫn thương yêu cháu.
    Ông Petronius đưa cho chàng tấm bảng con.
    - Anh hãy viết cho ông ấy và bảo ông ấy ngày mai có mặt ở đây. Cậu sẽ phái người chạy giấy đi tức khắc.
    Nói đoạn ông gọi viên nô lệ cai quản gian chính sảnh và ra cho anh ta những mệnh lệnh thích hợp. Vài phút sau, một nô lệ phi ngựa trong đêm đến Coriola.
    - Cháu muốn bác Urxux đưa nàng cùng đi. - Vinixius nói- Cháu sẽ cảm thấy yên lòng hơn.
    - Thưa ngài, - Nazarius nói - đó là một người sức khoẻ phi thường, bác ấy có thể bẻ gẫy chấn song sắt và trốn ra đi cùng nàng. Có một cửa sổ không có lính canh bên dưới, ở trên một bức tường cao, dựng đứng. Cháu sẽ mang cho bác Urxux một cuộn dây, còn lại bác ấy sẽ tự lo liệu được.
    - Thề có Herkulex! - ông Petronius lên tiếng - Nếu bác ta thích, cứ để bác ta vượt ngục, nhưng đừng có cùng với Ligia hoặc sau nàng hai ba ngày, vì bọn chúng sẽ lần theo bác ta và sẽ phát hiện ra nơi ẩn náu của nàng. Thề có Herkulex! Các người muốn làm mất mạng cả nàng lẫn bản thân phải không? Ta cấm các người không được nói gì với bác ta về Coriola, nếu không ta mặc các người đấy.
    Cả hai đều thừa nhận điều ông nói có lý và cùng nín lặng. Rồi Nazarius từ biệt, hứa là sáng sớm mai sẽ tới.
    Cậu bé định ngay tối nay sẽ thu xếp với bọn canh ngục, nhưng trước đó cậu muốn rẽ vào thăm mẹ, người mẹ không phút nào yên lòng vì con trong cái thời buổi phấp phỏng và khủng khiếp này. Sau khi suy nghĩ, cậu quyết định sẽ không tìm người trong phố làm kẻ trợ thủ, mà sẽ mua chuộc một trong những người vẫn cùng cậu mang tử thi ra khỏi nhà ngục.
    Nhưng ngay trước khi rời bước, cậu bé còn dừng lại, kéo Vinixius ra một bên thì thầm cùng chàng:
    - Thưa ngài, tôi sẽ không hé cho một ai ngay cả mẹ tôi biết việc này, nhưng ông Piotr hứa rằng từ nhà hát sẽ đến nhà chúng tôi, và tôi sẽ thưa cùng ông tất cả.
    - Trong nhà này em có thể cứ nói to. - Vinixius bảo. - Ông Piotr có mặt trong nhà hát cùng với người nhà ngài Petronius. Mà ta sẽ cùng đi với em.
    Rồi chàng ra lệnh mang cho mình một chiếc áo choàng nô lệ, cả hai ra đi.
    Ông Petronius thở một hơi dài.
    “Ta từng mong sao - ông nghĩ thầm - cô bé chết vì cơn sốt nóng ấy cho rồi, vì đối với Vinixius cách ấy còn ít khủng khiếp hơn. Nhưng giờ thì ta lại sẵn sàng hiến dâng Expulap chiếc giá ba chân bằng vàng ròng để đổi lấy cho nàng sức khoẻ… Ôi, hỡi ngươi, Ahenobarbux, ngươi muốn đem nỗi đau của một người yêu ra làm cảnh kịch!Hỡi người, Augusta, đầu tiên ngươi ghen với sắc đẹp của thiếu nữ, giờ ngươi lại muốn nhai sống nuốt tươi nàng, vì thằng bé Rufiux của ngươi đã thiệt mạng… Còn ngươi, Tygelinux, ngươi muốn giết nàng vì căm ghét ta!… Để rồi xem! Ta nói các ngươi hay rằng mắt các ngươi sẽ không được nhìn thấy nàng trên bãi đấu trường đâu, vì hoặc là nàng sẽ chết cái chết tự nhiên, hoặc ta sẽ giật nàng khỏi tay các ngươi như giật ra khỏi hàm lũ chó… Và ta sẽ giật nàng ra mà các ngươi không hề hay biết, để sau đó hễ cứ nhìn các ngươi là ta lại tự nghĩ thầm: đó là lũ xuẩn mà Petronius đã chơi cho một vố.”
    Và hài lòng với bản thân, ông bước sang phòng tiệc, cùng với nàng Eunixe ngồi vào bữa tối. Trong thời gian đó, viên xướng đọc ngâm những bài mục ca của Teokryt. Ngoài sân gió dồn mây từ phía núi Xorakte và một cơn giông bất thần khuấy động sự bình lặng của đêm hè yên ả. Chốc chốc, sấm lại rền vang trên bảy ngọn đồi, còn họ, nằm bên nhau cạnh bàn, nghe thơ thôn dã, người bằng thổ ngữ Đoryx đang du dương ca hát về tình yêu của chàng mục đồng, rồi sau đó, khi đã thoả mãn rồi, họ chuẩn bị để bước vào một giấc ngủ ngọt ngào.
    Tuy nhiên, trước đó Vinixius lại quay về. Biết chàng về, ông Petronius đến phòng chàng và hỏi:
    - Sao?… Các anh có thực hiện được điều gì mới nữa chăng và Nazarius đã vào nhà ngục chưa?
    - Vâng, - chàng trai vừa nói vừa vuốt làn tóc ướt đẫm nước mưa, - Nazarius đã đi thu xếp với bọn canh ngục, còn cháu, cháu được gặp ông Piotr, Người bảo cháu hãy cầu nguyện và tin tưởng.
    - Hay lắm! Nếu tất cả đều xuôi chiều, đêm mai có thể mang được nàng ra…
    - Người tá điền và gia nhân sẽ có mặt lúc rạng sáng.
    - Đường ngắn thôi mà. Anh đi nghỉ đi.
    Nhưng Vinixius quỳ gối trong buồng ngủ của chàng và bắt đầu cầu nguyện.
    Vào lúc mặt trời mọc, người tá điền Niger từ vùng gần Coriola đã đến, và theo lời dặn của Vinixius, ông mang theo mấy con la, một chiếc kiệu và bốn người tin cẩn được lựa chọn trong số những nô lệ Brytania, những người này ông đã sáng suốt để lại nhà trọ tại khu Xubura.
    Thức chờ suốt đêm, Vinixius bước ra đón họ; người tá điền cảm động khi nhìn thấy cậu chủ, hôn tay và mắt chàng rồi hỏi:
    - Thưa cậu chủ, cậu bị ốm hay những lo phiền đã hút kiệt máu ở gò má cậu, vì thoạt nhìn tôi không thể nhận nổi ra cậu?
    Vinixius đưa ông vào hàng cột bên trong, được gọi là ksystum, và ở đó chàng cho ông hay điều bí mật. Ông Niger chăm chú lắng nghe và trên nét mặt khoẻ mạnh, dãi dầu nắng gió của ông có thể nhận thấy một niềm xúc cảm lớn lao mà ông không thể kìm giữ nổi.
    - Vậy ra nàng là tín đồ Thiên chúa giáo? - ông kêu lên.
    Và ông nhìn vào mặt Vinixius với cái nhìn dò hỏi, chàng hiểu ngay điều mà mắt người nông phu muốn hỏi, chàng bèn đáp:
    - Và cả ta nữa cũng là tín đồ Thiên chúa…
    Mắt ông Niger ràn rụa lệ; ông nín lặng hồi lâu, rồi vươn cả hai tay lên trời, ông nói:
    - Ôi, cảm ơn Người, hỡi Chúa Crixtux, Người đã tháo bỏ màng che cho những đôi mắt thân yêu nhất trên đời của con!
    Rồi ông ôm lấy đầu Vinixius khóc nức lên vì sung sướng và hôn lên trán chàng.
    Lát sau ông Petronius bước đến, dẫn theo cậu bé Nazarius.
    - Những tin tốt lành! - Ông kêu lên từ xa
    Quả thực toàn tin tốt lành. Trước hết ông Glaukox thầy thuốc cam đoan rằng Ligia sẽ sống, cho dù nàng cũng bị mắc căn bệnh sốt nóng nhà ngục, căn bệnh đã khiến cho hàng trăm người chết mỗi ngày trong nhà tù Tulianum cũng như các nhà tù khác. Còn nếu nói về bọn canh ngục và người kiểm tra xác thực cái chết của tù nhân bằng sắt nung đỏ, thì không hề có khó khăn gì. Người trợ thủ tên là Altyx, cũng đã đồng ý.
    - Chúng cháu đã khoét nhiều lỗ trong áo quan để người ốm có thể thở được. - Nazarius nói. - Toàn bộ nguy hiểm là ở chỗ làm sao nàng đừng rên rỉ hoặc đừng lên tiếng lúc chúng cháu đi ngang qua gần bọn lính cấm vệ. Nhưng nàng yếu lắm và sáng nay nàng nằm, mắt nhắm nghiền. Thêm nữa ông Glaukox sẽ cho nàng một liều thuốc ngủ mà ông tự tay điều chế từ những thứ thuốc cháu mang ngoài thành phố vào. Nắp áo quan sẽ không đóng đinh. Các ngài sẽ dễ dàng nhấc nó lên và đưa người ốm sang kiệu, còn chúng cháu sẽ đặt vào quan tài một túi cát dài mà các ngài nhớ chuẩn bị sẵn cho.
    Nghe những lời ấy, Vinixius tái nhợt mặt mày, nhưng chàng vẫn lắng nghe với sự chú ý hết mức, đến nỗi dường như chàng đoán trước từng lời Nazarius sẽ nói.
    - Người ta có mang những xác chết nào khác ra khỏi ngục không? - ông Petronius hỏi.
    - Đêm hôm qua có khoảng hai mươi người chết, từ giờ đến chiều còn chết độ mươi người nữa, - cậu bé đáp, - chúng cháu sẽ phải đi cùng với một toán người khác, nhưng cháu sẽ tìm cách lần chần để rớt lại đằng sau. Đến chỗ ngoặt đầu tiên, người bạn cháu sẽ cố tình đi khập khiễng. Bằng cách ấy sẽ tụt lại sau những người khác rất xa. Các ngài hãy chờ cạnh cái miếu nhỏ thờ Libityna. Chỉ mong sao Chúa cho đêm thật tối trời vào.
    - Chúa sẽ ban cho, - Ông Niger nói. - Chiều qua sáng trời, nhưng rồi đột nhiên lại có giông. Hôm nay cũng đẹp trời nhưng ngay từ sáng sớm đã nóng bức. Bây giờ đêm thường có mưa và giông.
    - Các người đi có mang theo đèn đuốc gì không? - Vinixius hỏi.
    - Người ta chỉ mang đuốc đi dẫn đầu thôi. Dù sao cũng xin các ngài có mặt gần miếu Libityna ngay từ lúc trời tối, mặc dù thường thường phải trước nửa đêm chúng tôi mới khiêng xác chết ra.
    Họ cùng im lặng, chỉ nghe thấy nhịp thở dồn dập của Vinixius.
    Ông Petronius quay sang chàng.
    - Hôm qua cậu bảo rằng tốt nhất cả hai ta đều nên ở lại nhà, - ông nói, - nhưng giờ cậu thấy rằng ngay cả cậu cũng khó lòng mà ngồi yên được… Mà nói thật ra, giá như đây là một cuộc chạy trốn thì ta phải giữ mình thật cẩn thận, nhưng một khi nàng được mang ra như kẻ đã chết rồi, thì có lẽ không có kẻ nào nẩy ra ý nghi ngờ đâu nhỉ.
    - Vâng! Vâng! - Vinixius đáp. - Cháu phải có mặt ở đó. Chính cháu sẽ nhấc nàng ra khỏi áo quan.
    - Còn khi nàng đã đến được nhà tôi gần Coriola, tôi sẽ chịu trách nhiệm về nàng. - ông Niger nói.
    Cuộc chuyện trò kết thúc ở đó. Ông Niger đến quán trọ với những người nhà ông. Nazarius mang chiếc tráp đựng vàng dưới áo tunica quay trở lại nhà ngục. Đối với chàng Vinixius, bắt đầu một ngày đầy lo lắng, nóng ruột, sợ hãi và chờ đợi.
    - Việc tất phải thành công vì đã được cân nhắc kỹ - ông Petronius bảo chàng - Không thể nào sắp đặt mọi việc tốt hơn được nữa. Anh sẽ phải đóng vai một người sầu não mặc áo toga mầu thẫm vào. Nhưng đừng có bỏ các hý trường. Cứ để cho chúng thấy mặt anh… Mọi chuyện đều được suy tính kỹ lưỡng cả rồi, không thể nào hụt được. Này, nhưng anh có hoàn toàn tin chắc gã tá điền của anh không thế?
    - Đó là một tín đồ Thiên chúa. - Vinixius đáp
    Ông Petronius nhìn chàng kinh ngạc, rồi ông nhún vai và nói như với riêng mình:
    - Thề có Ponlukx! Thế mà nó vẫn cứ lan rộng! Nó vẫn giữ được lòng người!… Bị đe doạ đến thế này thì người ta đã từ bỏ ngay tất cả các vị thần linh La Mã, Hi Lạp, Ai Cập! Thật là kỳ lạ!… Thề có Ponlukx!… Giá mình tin rằng trên đời này có một thứ gì lệ thuộc vào các vị thần của chúng ta, ngay lúc này mình sẽ hứa hiến cho mỗi vị sáu con bò đực màu trắng, riêng Jupiter Kapiton mười hai con…Nhưng anh cũng đừng có tiếc lời hứa với Chúa Crixtux của anh nhé.
    - Cháu đã dâng cho Người linh hồn của cháu. - Vinixius đáp.
    Và họ chia tay. Ông Petronius quay trở lại phòng ngủ. Còn Vinixius ra đi để đứng từ xa nhìn nhà ngục, rồi từ đó chàng đi tới tận sườn đồi Vatykan, đến cái lều của người thợ đá, nơi chàng được chính tay đức Sứ đồ rửa tội. Chàng cảm thấy như chính tại ngôi nhà này Chúa Crixtux sẽ chóng nghe thấu lời chàng hơn bất cứ nơi nào khác, nên khi tìm ra, chàng liền lăn ra đất, dồn tất cả sức mạnh tâm linh đang đau đớn của mình vào sự cầu nguyện xin tình yêu thương, chàng tập trung cầu nguyện đến nỗi quên bẵng mình đang ở đâu và đang có chuyện gì xảy ra với chàng.
    Đến chiều, chàng chợt bừng tỉnh nhờ tiếng kèn vọng từ hý trường Nerô đến. Chàng bèn bước ra khỏi lều nhìn quanh với đôi mắt như vừa tỉnh giấc mơ. Thế gian nồng nực và yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng mới bị khuấy động bởi tiếng chuông và tiếng côn trùng rên rỉ triền miên. Không khí trở nên oi bức, bầu trời trên thành phố hãy còn xanh thẳm, nhưng phía núi Xabin đã tụ về những đám mây đen thấp ngang đường chân trời.
    Vinixius quay về nhà. Ông Petronius đang chờ chàng trong gian chính sảnh thông thiên.
    - Cậu vừa ở trên Palatyn. - ông bảo. - Cậu cố tình ló mặt ra ở đó, thậm chí cậu còn ngồi vào bàn chơi mạt chược nữa. Tối nay ở nhà Annixius có tiệc, cậu nói là chúng ta sẽ tới, nhưng mãi nửa đêm kia, vì trước đó cậu còn phải ngủ đã. Cậu sẽ có mặt, và giá cả anh cũng đến được thì tốt quá.
    - Có tin gì từ ông Niger hoặc từ Nazarius không ạ? - Vinixius hỏi.
    - Không. Đến nửa đêm chúng ta mới gặp họ. Anh có để ý là sắp có giông không?
    - Có ạ.
    - Ngày mai sẽ là cảnh đóng đinh tín đồ lên thập ác, nhưng có thể mưa sẽ làm hoãn lại chăng?
    Nói đoạn, ông lại gần, chạm tay vào vai Vinixius và nói:
    - Nhưng anh sẽ không thấy nàng trên cây thập tự đâu, mà ở Coriola kia. Thề có Kaxtor! Dẫu có đánh đổi lấy tất cả những viên ngọc chạm của La Mã, cậu cũng không muốn bỏ qua giây phút chúng mình giải phóng cho nàng. Gần tối rồi…
    Buổi tối đang xích lại, bóng đêm bắt đầu trùm lên thành phố sớm hơn thường lệ, vì mây đen đang bao phủ toàn bộ đường chân trời. Khi đêm đến, trời đổ một trận mưa lớn, nước bốc hơi từ những tảng đá bị hun nóng ban ngày khiến những đường phố tràn ngập một làn sương mờ. Rồi sau đó lúc tạnh, lúc lại có những cơn mưa ngắn.
    - Ta hãy nhanh chân lên thôi, - cuối cùng Vinixius nói, - do có mưa có thể người ta sẽ mang xác chết ra khỏi nhà ngục sớm hơn.
    - Đến lúc rồi! - ông Petronius đáp.
    Và khoác những manh áo choàng kiểu Gan có mũ trùm đầu, họ đi qua cổng nhỏ ở vườn để ra phố. Ông Petronius vẫn mang theo chiếc dao ngắn kiểu La Mã, được gọi là sica mà bao giờ ông cũng có bên mình trong những chuyến đi đêm.
    Vì cơn giông, thành phố vắng teo. Thỉnh thoảng chớp loé sáng rạch nát những đám mây, soi sáng những bức tường vừa mới dựng, những ngôi nhà vừa xây xong, và những phiến đá lát đường ướt đẫm. Trong ánh chớp, sau một thôi đường dài, mãi rồi họ cũng trông thấy một gò đất, trên đó là cái miếu bé nhỏ thờ nữ thần Libityna, bên gò là một toán la và ngựa.
    - Niger! - Vinixius gọi khẽ.
    - Tôi đây, thưa cậu. - một giọng nói cất lên trong mưa.
    - Sẵn sàng cả chưa?
    - Rồi ạ, cậu thân yêu! Trời vừa tối là chúng tôi đã có mặt ngay. Nhưng cậu và ông hãy ẩn xuống dưới hào chứ không thì ướt hết mất. Giông quá đi mất! Tôi đồ chừng sẽ có mưa đá nữa đấy.
    Quả thực nỗi lo của ông Niger trở thành hiện thực, vì một lúc sau trời bắt đầu trút mưa đá, thoạt tiên là những mẩu nhỏ, sau mỗi lúc một to và dày hơn. Không khí lạnh ngắt ngay lập tức.
    Họ đứng dưới hào ẩn tránh gió và những viên đạn băng giá, thấp giọng trò chuyện.
    - Dù ai trông thấy chúng ta, - ông Niger nói, - thì họ cũng chẳng nghi ngờ gì, nom chúng ta giống như một đám người chờ cho qua cơn giông vậy. Nhưng tôi lo không hiểu người ta có hoãn việc mang xác chết ra không?
    - Mưa đá chẳng kéo dài đâu. - ông Petronius bảo- Chúng ta phải chờ, dù là cho tới sáng.
    Họ chờ đợi, lắng nghe xem có tiếng của toán người đang đến không. Mưa đá ngừng, nhưng sau đó tiếp liền một trận mưa rào ào ạt. Chốc chốc, gió lại lặng đi, và từ phía Hố Thối bốc lên mùi thây người đang rã hôi kinh khủng, những cái thây mà người ta chôn quá nông và sơ sài.
    Đột nhiên ông Niger nói:
    - Tôi thấy có ánh lửa qua màn sương mù… Một, hai, ba… Đuốc rồi!
    Và ông quay lại phía người của ông:
    - Coi chừng không là lại kêu đấy!
    - Họ đến kìa! - ông Petronius nói.
    Ánh sáng mỗi lúc một hiện rõ hơn. Lát sau đã có thể phân biệt được những ngọn đuốc đang chao đảo trong gió.
    Ông Niger bắt đầu làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Trong khi đó, đám ma thê lương kia kéo tới mỗi lúc một gần và rốt cuộc đi qua ngang trước mặt miếu thờ Libityna thì dừng lại. Ông Petronius, Vinixius và ông Niger im lặng nép vào gò, không hiểu thế có nghĩa là thế nào. Nhưng bọn kia chỉ dừng lại để dùng giẻ bịt mũi và miệng tránh mùi hôi thối, mà ngay sát cạnh các hố puticuli thì quả không tài nào chịu nổi, rồi họ lại mang những chiếc cáng có tử thi đi tiếp.
    Chỉ có một chiếc quan tài dừng lại đối diện với thần miếu.
    Vinixius nhẩy ngay lại, sau chàng là ông Petronius, Niger và hai nô lệ Brytania khênh kiệu.
    Song trước khi họ đến nơi, trong bóng tối đã nghe giọng nói đầy đau đớn của Nazarius:
    - Thưa ngài, chúng nó chuyển nàng và bác Urxux đến nhà ngục Exquilin mất rồi… Chúng cháu khiêng một cái xác khác! Chúng nó bắt nàng đi trước lúc nửa đêm.
    Quay về nhà, ông Petronius âu sầu như cơn mưa và thậm chí không buồn an ủi Vinixius nữa. Ông hiểu rằng không thể mơ tới chuyện cứu Ligia thoát khỏi nhà ngục Exquilin ngầm dưới đất. Ông đoán rằng bọn chúng đưa nàng rời Tulianum để nàng không bị chết vì bệnh sốt nóng và để nàng không thể tránh khỏi cái nhà hát đã dành cho nàng. Nhưng đó lại chính là bằng chứng cho thấy chúng canh giữ và coi chừng nàng kỹ càng hơn những người khác. Ông Petronius thương Vinixius đến tận đáy lòng, nhưng ngoài ra, ông còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ: lần đầu tiên trong đời ông gặp một cái gì đó không thành công, lần đầu tiên ông bị thất bại.
    “Hình như thần tài Fortuna rời bỏ ta rồi - ông tự nhủ - nhưng các vị thần nhầm đấy nếu nghĩ rằng ta chịu sống một cuộc sống như hắn ta”
    Nghĩ đến đây, ông nhìn sang Vinixius, chàng cũng đang nhìn ông với đôi đồng tử nở rộng.
    - Anh làm sao thế? Anh bị sốt chăng? - ông Petronius hỏi.
    Chàng đáp lại bằng một giọng nói lạ lùng, gẫy khúc và chậm chạp, như tiếng một đứa trẻ ốm:
    - Nhưng cháu vẫn tin rằng Người sẽ mang nàng về cho cháu.
    Tiếng sấm cuối cùng của cơn giông lặng đi trên thành phố.
    Chú thích:
    (1) La tinh: Không có vũ khí và không có nghệ thuật
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #62
      T2 - Chương 58

      Trận mưa ba ngày liền, hiện tượng ngoại lệ ở Roma trong mùa hè, cũng như cơn mưa đá trái với quy luật của thiên nhiên, không chỉ giáng xuống ban ngày hay chiều tối mà thậm chí vào lúc nửa đêm, đã làm gián đoạn các buổi biểu diễn. Dân chúng bắt đầu lo sợ. Người ta tiên đoán mất mùa nho và khi mà một buổi chiều kia, sét đánh cháy pho tượng đồng của nữ thần Xerera trên đồi Kapiton, người ta bèn dâng lễ vật trong thần miều Jupiter Xanvator. Các tăng lữ thờ nữ thần Xerera loan tin rằng cơn giận của các vị thần linh trút xuống trừng phạt thành phố vì việc trừng phạt quá muộn màng những người Thiên Chúa giáo, thế là đám đông dân chúng lại bắt đầu đòi hỏi để được tiếp tục các hội thi đấu, bất kể cả thời tiết và niềm vui tràn ngập cả thành Roma khi rốt cuộc người ta loan báo rằng các cuộc ludus sẽ lại tiếp tục sau ba ngày tạm hoãn.
      Trong khi đó thời tiết lại đẹp. Từ sáng đến đêm nhà hát đầy nhong nhóc hàng nghìn người, ngay cả hoàng đế cũng đến sớm, cùng các ni cô đồng trinh và triều thần. Buổi biểu diễn được bắt đầu bằng cuộc chiến đấu giữa những người Thiên Chúa với nhau, họ được mặc giáp làm các đấu sĩ và được cung cấp loại vũ khí mà các kiếm thủ thường sử dụng để tấn công hoặc phòng thủ. Nhưng người ta đã thất vọng. Các tín đồ Thiên Chúa ném hết lưới, chúc giáo và gươm xuống mặt cát, thậm chí họ còn ôm chặt lấy nhau và cứ ôm nhau như thể bất chấp cả cực hình và cái chết. Khi ấy, công chúng bị xúc phạm sâu sắc và cực kỳ phẫn nộ. Người thì trách họ cố tình không muốn đánh nhau vì căm thù dân chúng và để tước đoạt niềm vui mà những cảnh tượng biểu thị lòng can trường thường đem đến cho mọi người. Cuối cùng, theo lệnh của hoàng đế, người ta cho các đấu sĩ thực thụ đánh vào bọn họ, bọn này trong nháy mắt đã giết sạch đám người không có vũ khí đang quỳ gối.
      Nhưng sau khi dọn sạch xác chết, buổi diễn thôi không còn là cuộc đấu nữa mà biến thành một chuỗi những cảnh tượng thần thoại theo sáng kiến của chính hoàng đế. Người ta được nhìn thấy cảnh Herkulex bị thiêu sống tên núi Oeta. Vinixius rùng mình khi nghĩ rằng người ta có thể bắt bác Urxux đóng vai Herkulex, nhưng rõ ràng là chưa tới lượt người nô bộc trung thành của nàng Ligia, vì trên dàn hỏa là một tín đồ Thiên Chúa giáo khác, hoàn toàn xa lạ với Vinixius, bị thiêu cháy. Ngược lại, ở cảnh tiếp theo, lão Khilon - người mà hoàng đế không muốn tha cho việc có mặt trong buổi biểu diễn - lại được gặp những người quen. Người ta trình diễn cái chết của Đeđan và Ikar(1). Trong vai Đeđan là ông lão Euryxius, cụ già mà hồi nào đã vẽ cho lão Khilon hình con cá, còn trong vai Ikar là cậu Quartux, con trai của cụ. Cả hai được một cái máy đặc biệt nhấc lên cao, sau đó người ta bất thần buông họ từ cái độ cao kinh người ấy xuống đấu trường. Cậu Quartux rơi xuống sát gần bục ngồi của hoàng đế đến nỗi máu không những chỉ bắn tóe lên những vật trang sức bên ngoài mà còn lên cả chỗ tựa trải lụa tía. Lão Khikon không nhìn thấy lúc rơi vì lão nhắm nghiền mắt lại, lão chỉ nghe tiếp thân người đập xuống trầm đục, rồi lát sau khi nhìn thấy máu ở ngay cạnh mình, lão suýt ngất đi lần nữa. Nhưng những cảnh diễn thay đổi nhanh lắm. Nhục hình ghê tởm của các trinh nữ bị làm nhục bởi bọn đấu sĩ mặc giả thú vật như làm vui lòng đám đông. Người ta được nhìn thấy các nữ tu sĩ Kibela và Xerera, thấy những nàng tiên Đanaiđa, thấy nàng Đirrxe và Paxifae, cuối cùng thấy cả những thiếu nữ chưa kịp lớn bị lũ ngựa hoang giằng xé. Dân chúng vỗ tay hoan hô những ý tưởng mỗi lúc một mới của hoàng đế, ngài sung sướng vì những ý tưởng đó thỏa mãn với những tràng vỗ tay nên không lúc nào ngài rời viên bích ngọc ra khỏi mắt, say ngắm những thân thể trắng nõn nã bị sắt xé rách nát cùng những cơn co giật trước khi chết của các nạn nhân. Người ta cũng trình diễn cả những cảnh tượng trích trong lịch sử thanh đô. Sau các trinh nữ, người ta thấy được Muxius Xevôla, một tay bị buộc chặt vào chiếc giá ba chân có lửa, khiến nhà hát tràn ngập mùi thịt bị cháy khét lẹt, nhưng cũng giống như Xevôla thật, nạn nhân vẫn đứng yên không hề rên rỉ, mắt người nhìn lên với những lời cầu nguyện lầm rầm trên đôi môi tím tái. Sau khi gỡ ông ra và kéo thây vào nhà xác, người ta nghỉ giải lao vào giữa trưa như lệ thường trong các buổi biểu diễn. Hoàng đế cùng các ni cô đồng trinh và đám cận thần rời nhà hát đến một cái lều màu đỏ thắm khổng lồ được cố ý dựng lên, trong đó đã chuẩn bị sẵn cho ngài và khách một bữa điểm tâm tuyệt diệu. Phần lớn đám công chúng cũng theo gương ngài rút ra bên ngoài, chia thành nhiều nhóm đủ màu sắc cạnh lều để cho tứ chi được nghỉ ngơi sau khi bị tê cứng suốt một hồi lâu ngồi xem, đồng thơi dùng các món ăn mà nhờ ơn hoàng đế lũ nô lệ mang đi phân phát rất dồi dào. Chỉ có những kẻ tò mò nhất, sau khi rời ghế ngồi liền bước xuống đấu trường, và vừa chạm tay vào lớp cát đẫm máu hãy còn đang dinh dính, họ vừa ra vẻ thành thạo hoặc say lê tán tụng về những gì vừa diễn ra và những gì sắp tới nữa. Tuy nhiên chẳng mấy chốc cả những vị lắm mồm này cũng bước ra ngoài để không trễ mất bữa tiệt, chỉ còn vài người đứng lại, không phải vì tò mò mà vì đồng cảm với các nạn nhân.
      Những người này ẩn trong các lô hoặc những chỗ thấp, trong khi đó người ta san phẳng lại bãi đấu trường và bắt đầu đào những cái hố liền nhau thành hàng khắp cả bãi, từ mép này đến mép kia, hàng cuối cùng chỉ cách bục ngồi của hoàng đế hơn chục bước. Từ phía bên ngoài hý trường vọng vào tiếng người ồn ào tiếng kêu và tiếng hoan hô, còn bên trong người ta vội vã chuẩn bị cho một khổ hình mới. Ngay sau đó người ta mở các hố nhốt người và từ tất cả các cửa thông ra mở các hố nhốt người và từ tất cả các cửa thông ra đấu trường, người ta bắt đầu lùa ra những đám tín đồ Thiên Chúa, trần truồng, vác những cây thập ác trên vai. Họ đứng đầy cả nhà hát. Những cụ già còng lưng dưới trọng lượng các dầm gỗ, bên cạnh đó là những đàn ông tráng niên, những phụ nữ xõa tóc cố che đi sự trần truồng của thân mình, những cậu thiết niên đang lớn và những em bé còn rất nhỏ tuổi. Đa phần các thập ác cũng như những nạn nhân đều được cài hoa. Đám phục dịch trong nhà hát không tiếc sức dùng roi bắt họ phải đặt cọc vào những cái hố đào sẵn và đứng thành hàng vào sát chân cột. Bằng cách này sẽ được chết, những người nào đầu tiên của hội đấu chưa kịp bị người ta đẩy vào mồm sư tử và các loài dã thú. Bây giờ đến lượt các nô lệ da đen túm lấy họ đặt nằm ngửa lên gỗ, bắt đầu đóng tay họ vào gióng ngang, hăng hái và nhanh nhẹn đến nỗi dân chúng hết giải lao quay trở vào thấy các cây thập tự phần lớn đã được dựng lên. Cả nhà hát ầm vang tiếng búa, tiếng búa vang đến những hàng ghế cao nhất và vang cả ra quảng trường vây quanh nhà hát, vang vào lều nơi hoàng đế đang thù tiếp các ni cô đồng trinh và đám bạn hữu của ngài. Nơi đó người ta nốc rượu nho, châm chọc lão Khilon và thì thầm những lời kỳ dị vào tai các ni cô đồng trinh của nữ thần Vexta, còn trên bãi đấu trường, công việc sục sôi, những chiếc đinh đóng phầm phập vào tay và chân các tín đồ Thiên Chúa, những lưỡi xẻng xoàm xoạp xúc đất lấp vào đầy hố đặt cọc
      Trong những nạn nhân đang chờ đến lượt có cả ông Kryxpux. Lũ sư tử không đủ thì giờ để cắn xé ông, người ta bèn dành cho ông cây thập ác, còn ông vốn sẵn sàng chờ chết nên sung sướng nghĩ rằng giờ phút của ông đã điểm. Hôm nay trông ông khác hẳn, vì cái thân thể khô khẳng của ông đã bị lột truồng hoàn toàn, chỉ còn một dải dây thưỡng xuân quấn quanh háng ông, đầu ông đội một vòng hoa hồng. Nhưng trong ánh mắt ông cũng vẫn ánh lên cái nghị lực không bao giờ cạn kiệt, mặt ông vẫn là khuôn mặt khắc nghiệt và cuồng tín, nhô ra dưới vòng hoa. Trái tim ông cũng không hề thay đổi, vì giống như hôm nào trong hầm chứa ông đã từng mang cơn thịnh nộ của Chúa ra đe dọa những người anh em bị khâu vào da thú, thì hôm nay ông cũng khủng bố họ, thay vì động viên.
      - Các người hãy tạ ơn Đấng Cứu Thế - Ông nói - Vì Người đã cho phép các ngươi được chết cái chết như Người. Có thể một phần tội lỗi các người vì thế sẽ được bỏ qua, tuy nhiên các ngươi hãy run lên đi, vì công lý được thực hiện và không thể có cùng một phần thưởng như nhau cho những kẻ xấu cũng như người tốt.
      Lời của ông được tiếng búa đóng đinh vào tay chân các nạn nhân họa theo. Mỗi lúc một thêm nhiều cây thập tự được dựng lên trên đấu trường, còn ông quay về phía đám đông những người còn đang đứng bên cây gỗ của mình nói tiếp:
      - Ta thấy bầu trời đang rộng mở, nhưng ta cũng thấy mở rộng cả vực thẳm…Ta cũng không biết sẽ thưa cùng Chúa ra sao đây về cuộc đới ta, mặc dù ta vẫn hằng tin, vẫn hằng căm thù sự ác, ta không sợ cái chết, mà là sự phục sinh, không sợ cực hình mà là tòa phán xét, vì ngày giận dữ đã tới rồi.
      Khi đó, từ những hàng ghế gần đó chợt vang lên tiếng của ai đó bình tĩnh mà trang trọng:
      - Không phải ngày thịnh nộ mà là ngày nhân ái, ngày giải thoát và phước lành, bởi ta nói cùng các anh em rằng Chúa Crixtux khao khát anh em, an ủi anh em và đặt anh em ngồi bên phải Người. Anh em hãy tin rằng bầu trời sẽ rộng mở đón anh em.
      Nghe những lời ấy mọi cặp mắt đều quay lại phía những hàng ghế, ngay cả những người đã bị treo lên thập ác cũng ngẩng những gương mặt tái nhợt mệt mỏi nhìn về phía người đang nói.
      Người ấy tiến lại cái vách ngăn vây quanh đấu trường và làm dấu thánh giá từ giã họ.
      Ông Kryxpux giơ tay về phía người kia dường như định đeo dọa, nhưng thấy mặt người ấy, ông bỏ ngay tay xuống, rồi hai đầu gối ông sụp xuống, miệng ông thì thào:
      - Đức Sứ Đồ Paven!...
      Trước sự ngạc nhiên của đám phục dịch hý trường, tất cả mọi người chưa bị đóng đanh câu rút đều quỳ gối, ông Paven xứ Tarxu hướng về phía ông Kryxpux và nói:
      - Kryxpux, ông đừng dọa họ, vì ngày hôm nay họ sẽ cùng ông lên thiên đường. Ông nghĩ rằng họ sẽ bị phê phán sao? ai sẽ phê phán họ? Chẳng lẽ Đức Chúa, người dâng cho họ chính con mình, lại làm việc đó chăng? Chẳng lẽ Chúa Crixtux, người đã chết để chuộc tội cho họ, giống như họ đang chịu chết vì sáng danh Người, lại làm thế chăng? Làm sao Người đang yêu thương lại có thể chê trách? Ai sẽ buộc tội kẻ mà Chúa lựa chọn? Ai sẽ dám gọi máu này là "đáng nguyền rủa"?
      - Thưa cha, tôi căm thù sự dữ - Vị thầy già đáp.
      - Chúa Crixtux dạy yêu thương con người hơn là căm thù sự ác, vì giáo thuyết của Chúa là tình yêu, chứ không phải là lòng căm thù.
      - Tôi đã phạm tội trong giờ lâm chung - Ông Kryxpux nói.
      Rồi đấm tay vào ngực.
      Lúc đó người quản hàng ghế tiến lại gần đức Sứ Đồ hỏi:
      - Người là ai mà nói chuyện với bọn tội nhân?
      - Công dân La Mã - Ông Paven bình thản đáp.
      Rồi quay lại phía ông Kryxpux, ông nói:
      - Ông hãy tin, vì đây là ân phước và hãy chết bình yêu, hỡi tôi đòi của Chúa.
      Hai người da đen lúc này đến gần ông Kryxpux để đặt ông nằm lên cây gỗ, nhưng ông còn nhìn quanh và kêu lên:
      - Hỡi các anh em của tôi, xin hãy cầu nguyện cho tôi!
      Và nét mặt ông mất đi vẻ khắc nghiệt thường ngày, những đường nét bằng đá mang vẻ thanh tĩnh và ngọt ngào. Tự ông dang tay ra dọc theo xà ngang của thập tự để giúp công việc thêm phần dễ dàng, mắt ông nhìn thẳng lên trời, ông bắt đầu nhiệt thành cầu nguyện. Dường như ông không cảm thấy gì nữa, vì khi những chiếc đinh xuyên sâu vào tay ông, thân thể ông không đau đớn, ông cầu nguyện tiếp khi người ta đóng đinh chân ông, ông vẫn cầu nguyện khi người ta dựng cây thập tự lên và lèn đất chung quanh gốc. Mãi tới khi những đám đông cười nói la hét bắt đầu tràn vào nhà hát, thì đôi lông mày của cụ già ấy mới nhíu lại như giận rằng dân ngoại đạo đã làm náo động sự im lặng và thanh tĩnh của cái chết ngọt ngào.
      Nhưng trước đó người ta dựng hết các thập tự lên khiến cho đấu trường trông như một khu rừng có người trên cây. Ánh mặt trời chiếu lên các gióng ngang của thập tự và xuống đầu những kẻ tử vì đạo, còn trên mặt đấu trường hình thành những cái bóng trông như những đường ô vuông rắc rối, giữa những đường kẻ đó sáng lên màu cát vàng. Đó là cảnh diễn, trong đó đối với dân chúng toàn bộ nỗi khoái lạc là được ngắm nhìn một cái chết từ từ, chậm chạp. Nhưng cho tới nay chưa bao giờ người ta được thấy một rừng dầy đặc thập tự như thế. Những cây thập tự lèn chặt đấu trường đến nỗi đám phục dịch vất vả lắm mới có thể len đi giữa các cột. Ngoài cùng phần lớn là phụ nữ, nhưng ông Kryxpux được coi là cầm đầu nên được dựng ngay trước bục ngồi của hoàng đế trên một cây thập tự khổng lồ, phía dưới có quấn dây leo. Chưa có ai trong số các nạn nhận bị chết, nhưng một vài người trong số bị đóng đinh trước nhất đã ngất đi. Không một ai rên rỉ và kêu xin. Một số người ngả đầu sang vai hoặc gục đầu xuống ngực dường như đang ngủ, một số người như đang suy tư, những người khác nhìn lên trời, môi khẽ động đậy. Trong khu rừng thập tự kinh khủng này, trong những người thân bị đóng đinh căng ra ấy, trong sự câm lặng của các nạn nhân, có một cái gì thật dữ dội. No nê và phè phỡn sau bữa tiệc, dân chúng bước vào hý trường với những tiếng kêu la, nhưng họ chợt lặng đi không biết nên dừng mắt ở thân người nào và không biết nên nghĩ gì. Sự trần truồng của những thân hình đàn bà bị căng ra không còn kích thích giác quan của dân chúng nữa. Người ta thậm chí không đánh cuộc với nhau như thường lệ xem người nào sẽ chết trước nhất, việc mà người ta vẫn làm khi trên đấu trường có một số lượng tội nhân. Hình như ngay cả hoàng đế cũng chán ngán, vì người quay đầu, bằng cử chỉ biếng nhác chữa lại chuỗi hạt quanh cổ, vẻ mặt ngái ngủ và uể oải.
      Chính lúc đó ông Kryxpux đang bị treo trước mặt ngài, người vừa nãy mắt nhắm nghiền như một kẻ đã bị ngất hay chết rồi, chợt mở bừng mắt và nhìn xói vào hoàng đế.
      Mặt ông lại mang vẻ không khoan nhượng, mắt ông cháy ngời ánh lửa, khiến cho đám cận thần bắt đầu thì thào và dùng tay trỏ ông, cuối cùng cả hoàng đế cũng chú ý tới ông và nặng nhọc đưa viên bích ngọc lên mắt.
      Im lặng hoàn toàn. Mắt khán giả dán chặt vào người ông Kryxpux, người đang cố gắng động đậy tay phải như muốn nhổ bật nó ra khỏi mặt gỗ.
      Ngực ông phồng lên, những chiếc xương sườn nhô ra, ông thét lớn:
      - Thằng giết mẹ! Đáng thương cho mày!
      Nghe thấy lời chửi rủa ghê gớm ném thẳng vào mặt vị chúa tể thế gian trước mặt đám đông, công chúng hàng nghìn người, các vị cận thần không dám thở nữa. Lão Khilon như chết lặng. Hoàng đế run lên, buôn rơi viên bích ngọc khỏi tay.
      Dân chúng cũng nín thở. Giọng ông Kryxpux vang rền mỗi lúc một mạnh mẽ, tràn ngập cả nhà hát:
      - Đáng thương cho mày, đồ giết vợ và em, đang thương cho mày, hỡi kẻ chống Chúa! Vực thẳm khốn cùng đang mở dưới chân mày, thần chết đang chìa tay bắt mày, nấm mộ đang đợi mày kia. Thương thay cho mày, hỡi cái thây đang sống, vì mày sẽ phải chịu chết trong nỗi hãi hùng và sẽ bị đời nguyền rủa!...
      Và không thể rứt nối tay bị đóng đinh vào thân gỗ, ông gắng hết sức căng người ra, một thân hình khủng khiếp, ngay từ lúc ống cũng đã giống một bộ xương, không khoan nhượng như định mệnh, ông rung rung bộ râu bạc phơ phía trên bục Nerô ngồi và lắc lác mái đầu làm rụng những cánh hoa hồng từ cái vòng hoa mà người ta khoác vào sọ ông.
      - Thương thay cho mày, hỡi kẻ giết người kia! Mày đã quá mức rồi, giờ chết của mày đang tiến gần!...
      Đến đây ông gồng người lên một lần nữa, suốt một hồi lâu người ta ngỡ rằng ông sẽ rứt được bàn tay ra khỏi cây thập tự và sẽ dữ tơn vung nó lên trên đầu hoàng đế, nhưng đột nhiên hai cánh tay gầy guộc của ông dài ra, thân mình ông dồn xuống phía dưới, đầu ông gục xuống ngực và ông qua đời.
      Trong khu rừng những cây thập tự, những người yếu sức hoan cũng bắt đầu giấc ngủ vĩnh hằng.
      Chú thích:
      (1) Theo truyền thuyết thì Đeđan bay được từ đảo Cret đến đảo Xyxilia, nhưng trong các nhà hát La Mã ông cũng bị chết như Ikar.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #63
        T2 - Chương 59

        Tâu hoàng thượng - lão Khilon nói - lúc này biến giống như dầu ô lia và song dường như đang ngủ…Ta hãy đi Akhai! Nơi ấy đang chờ hoàng thượng, niềm vinh quang của Apoplon, nơi ấy đang chờ hoàng thượng những vòng chiến thắng, khúc khải hoàn, nơi ấy chúng dân ngưỡng mộ người như một vị thần, còn các vị thần sẽ tiếp đón người như một vị khách sánh ngang cùng họ, còn nơi đây, tâu hoàng thượng….
        Nhưng lão chợt ngừng lời, bởi môi dưới của lão bắt đầu run rẩy đến nỗi những lời lão nói biến thành những thanh âm không hiểu nổi.
        - Chúng ra sẽ đi sau khi kết thúc hội thi - Nerô đáp - Ta biết rằng đã có nhiều kẻ gọi bọn Thiên Chúa giáo là innoxia corpora(1). Nếu ta đi nữa thì tất cả mọi người đều lặp lại tên gọi đó. Ngươi sợ gì hả đồ nấm thối kia?
        Nói thế, ngài nhíu mày, những bắt đầu nhìn lão Khilon bằng cái nhìn dò hỏi như đang chờ ở lão một lời giải thích, vì thực ra ngài chỉ giả vờ bình tĩnh mà thôi. Trong buổi diễn gần đây, chính ngài cũng sợ những lời ông Kryxpux và khi quay về nhà, ngài không sao ngủ được vì căm tức và xấu hổ, đồng thời còn vì sợ nữa. Khi ấy, lão Vextynux mê tín, kẻ vẫn lặng lẽ nghe câu chuyện của họ, bèn nhìn quanh và nói với một giọng bí mật:
        - Xin người hãy nghe lão già này, tâu hoàng thượng: Ở bọn Thiên Chúa giáo có cái gì đó thật lạ lùng…Chúa của chúng cho chúng được chết nhẹ nhàng, nhưng cũng rất có thể hay trả thù.
        Nerô bèn đáp vội vàng:
        - Không phải ta bày ra các cuộc thi đấu. Tygelinux đấy chứ!
        - Vâng! Chính hạ thần - Tygelinux đáp lại kho nghe thấy câu trả lời của hoàng đế - Chính thần và thần dám cười mỉa tất cả các vị thần linh Thiên Chúa. Tâu hoàng thượng, Vextynux chỉ còn là một cái bong bóng chứa đầy những chuyện mê tín, còn người Hy Lạp ca trường này sẵn sàng chết vì hãi khi trông thấy một ả gà mái xù lông bảo vệ lũ gà con.
        - Được rồi - Nerô nói - Nhưng ngươi hãy ra lệnh cắt lưỡi hoặc bịt miệng bọn Thiên Chúa lại kể từ nay trở đi nghe chưa.
        - Lão sẽ bịt miệng chúng lại, tâu thánh thượng.
        - Thương thay thân ta chưa! - Lão Khilon rên lên.
        Nhưng hoàng đế được lòng tự tin ngạo mạn của Tygelinux cổ vũ, đã cất tiếng cười và vừa trỏ tay vào lão già Hy Lạp và nói:
        - Các ngươi nhìn kìa, hậu duệ của chàng Asinlex đấy!
        - Quả tình, nom lão Khilon thật khủng khiếp. Những sợi tóc lơ thơ còn sót lại trên sọ lão trắng phớ cả ra, mặt lão mang một nỗi lo sợ, hãi hùng và dằn vặt vô biên nào đó. Nhiều lúc nom lão như người mất hồn. Lão thường không trả lời câu hỏi, nhưng cũng thường nổi giận và trở nên táo tợn, vì thế đám cận thần thấy tốt nhất là không nên chọc lão làm gì.
        Lúc này cũng mà một lúc như thế.
        - Các người muốn làm gì tôi cũng được, nhưng tôi sẽ không đi dự hội thi nữa đâu! - Lão tuyệt vọng kêu lên, gõ gõ những ngón tay vào nhau.
        Nerô nhìn lão hồi lâu rồi quay sang Tygelinux, ngài bảo:
        - Ngươi hãy làm sao để lúc ở trong vườn, gã khắc kỷ này đứng gần ta. Ta muốn được thấy những ấn tượng mà các ngọn đuốc của chúng ta gây ra đối với gã.
        Tuy nổi đóa nhưng lão Khilon chợt run sợ trước mối đe dọa rung lên trong giọng nói của hoàng đế.
        - Tâu hoàng thượng - Lão nói - Thần sẽ không thấy gì cả, vì ban đêm chàng không nhìn được.
        Hoàng đế đáp lại với một nụ cười đáng sợ:
        - Đêm sẽ sáng như ban ngày.
        Rồi ngài quay sang các cận thần khác và bắt đầu trò chuyện với họ về những cuộc đua mà ngài định tổ chức vào cuối hội thi.
        Ông Petronius lại gần lão Khilon và chạm vào vai lão, ông nói:
        - Ta đã báo trước mà! Ngươi không chịu nổi.
        Lão trả lời:
        - Tôi muốn uống thật say…
        Rồi lão chìa tay run rẩy mấy một cốc rượu nho, nhưng không sao đưa nổi lên miệng, nhìn thấy thế Vextynux giằng lấy cái cốc, rồi len qua sát gần, y hỏi với vẻ mặt háo hức và hãi hùng:
        - Các thần Furie theo đuổi lão hả? Sao?...
        Lão già há hốc miệng nhìn y hồi lâu dường như không hiểu câu hỏi, rồi hấp háy mắt.
        Vextynux lặp lại:
        - Furie theo đuổi lão phải không?
        - Không - Khilon đáp - Nhưng trước mặt tôi là đêm tối.
        - Sao lại đêm?...Cầu các thần rủ lòng thương ngươi! Sao lại là đêm?
        - Đêm tối kinh khủng và đen đặc, trong đó có cái gì đó cục cựa, có cái gì đó đang tiến lại phía tôi. Tôi không rõ là cái gì và tôi sợ.
        - Bao giờ tôi cũng tin chắc rằng đó là bọn phù thủy. Lão có mơ thấy gì không?
        - Không, bởi tôi không ngủ. Nhưng tôi đâu có biết rằng người ta trừng trị họ đến mức đó.
        - Lão có thương họ không?
        - Tại sao các người lại làm đổ ngần kia máu? Ông có nghe ông già ấy nói từ trên cây thập tự không? Đáng thương cho chúng ta!
        - Tôi có nghe - Vextynux đáp khẽ - Nhưng đó là bọn đốt nhà kia mà.
        - Không đúng!
        - Bọn thù địch của loài người.
        - Không đúng!
        - Bọn đánh thuộc độc nước uống.
        - Không đúng!
        - Và bọn giết chóc trẻ em...
        - Không đúng!
        - Sao lại thế? - Vextynux ngạc nhiên hỏi - Chính lão nói thế và nộp bọn họ cho Tygelinux kia mà!
        - Vì thế đêm tối mới vây quanh tôi và thần chết đang tới cùng tôi... Đôi khi tôi ngỡ như tôi đã chết rồi, cả các người cũng thế.
        - Không! Bọn chúng chết, còn chúng ta đang sống. Nhưng lão hãy nói cho tôi hay: Khi chết bọn chúng trông thấy gì thế?
        - Chúa Crixtux...
        - Đó là vị thần của chúng à? Thần ấy có mạnh không?
        Song lão Khilon đáp lại cũng bằng một câu hỏi:
        - Những ngọn đuốc mà người ta sẽ đốt trong vườn là thế nào vậy? Ông có nghe hoàng thượng vừa nói không?
        - Có nghe và tôi biết. Người ta gọi như thế là sarmenticil và semaxil(2)… Người ta mặc cho họ những chiếc áo tunica tẩm nhựa, buộc vào cột và châm lửa... Cầu sao vị thần của bọn họ đừng trút lên thành phố tai họa gì khác...Semaxil! Đó là một hình phạt khủng khiếp.
        - Tôi thà thấy cảnh ấy còn hơn, vì sẽ không có máu - Lão Khilon đáp - Ông hãy bảo thằng nô lệ nào đó đưa cốc lên môi hộ tôi với. Tôi muốn uống, nhưng cứ làm đồ rượu nho, bởi tay tôi run rẩy vì tuổi tác...
        Trong lúc đó, những người khác cũng đang trò chuyện về người Thiên Chúa giáo. Lão già Đomixius Afer chế nhạo họ:
        - Chúng nó nhiều đến nỗi - Lão nói - Có thể gây ra nội chiến đấy, các ông có nhớ đã từng có người sợ rằng chúng sẽ chống cự chăng? Thế mà chũng nó chịu chết như những con cừu.
        - Chúng cứ thử cách khác mà xem! - Tygelinux nói:
        Nghe thấy thế ông Petroniux liền lên tiếng:
        - Các vị nhầm rồi. Bọn họ vẫn chống cự.
        - Bằng cách nào kia?
        - Bằng sự nhẫn nại.
        - Cách mới nhỉ!
        - Dĩ nhiên. Nhưng liệu các vị có thể nói rằng bọn họ chết như những tên tội phạm bình thường? Không! Họ chết cứ như tội phạm chính là những kẻ đã khiến họ phải chết, đó là chúng ta và toàn thể dân chúng Roma.
        - Nói gì bậy bạ thế! - Tygelinux kêu lên.
        - Hic abdera(3) - Ông Petronius đáp lại.
        Nhưng những người khác bị tác động bởi sự chính xác trong điều nhận xét của ông bắt đầu kinh ngạc nhìn nhau và lặp lại:
        - Đúng rồi! Có cái gì khác lạ và ngược đời trong cái chết của họ.
        - Tôi đã bảo các ông rằng họ nhìn thấy vị thần của mình mà! - Vextynux đứng bên cạnh kêu lên.
        Vài vị cận thần quay lại phía lão Khilon:
        - Này, lão già, ngươi hiểu rõ bọn họ, hãy nói chúng ta biết xem bọn họ nhìn thấy gì?
        Lão Hy Lạp nhổ toẹt ngụm rượu nho ra áo tunica đáp lại:
        - Sự phục sinh!...
        Và lão bắt đấu run lên, khiến cho những vị khách ngồi cạnh phải phá lên cười.
        Chú thích:
        (1) Latinh: Đám người vô lại
        (2) Latinh: Quấn dây leo và trói vào cột
        (3) Thành ngữ Latinh có nghĩa: Đây là thằng ngốc nhất trong những thằng ngốc (chú thích của tác giả).
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #64
          T2 - Chương 60

          Đã mấy ngày nay Vinixius qua đêm không về nhà. Ông Petronius nghĩ rằng có thể chàng lại đang vạch một kế hoạch mới để giải thoát Ligia khỏi nhà ngục Exquilin, nhưng ông không muốn hỏi chàng điều gì để khỏi mang chuyện chẳng hay đến cho kế hoạch của chàng. Dưới một khía cạnh nào đấy, con người hoài nghi quý phái này cũng đã trở nên mê tín, hay nói đúng hơn, kể từ khi ông không thành công trong việc cứu cô gái ra khỏi ngục Mamertyn ngầm dưới đất, ông không còn tin vào ngôi sao chiếu mạng của mình nữa.
          Giờ đây ông cũng không tin những công cuộc của Vinixius sẽ đem lại kết quả tốt đẹp. Nhà ngục Exquilin mà người ta lập ra nhanh chóng từ tầng hầm của những ngôi nhà đã bị phá sập để ngăn lửa, không đến nỗi kinh khủng như ngục Tulianum gần đồi Kapiton, ngược lại được canh phòng trăm lần cẩn mật hơn. Ông Petronius hiểu rất rõ rằng người ta chuyển Ligia đến đấy cốt để nàng thoát chết vì bệnh mà sẽ không tránh được phải ra nhà hát, ông dễ dàng hiểu chính vì thế người ta sẽ phải canh giữ nàng như con ngươi trong mắt(1).
          "Rõ ràng - ông tự nhủ - Hoàng đế cùng Tygelinux định dùng nàng cho một buổi diễn đặc biệt nào đó, kinh khủng hơn tất cả các buổi, và Vinixius sẽ mất mạng trước khi cứu được nàng ra".
          Thực ra Vinixius cũng đã mất hi vọng cứu được nàng. Giờ đây chỉ mỗi mình Chúa Crixtux có thể làm nổi điều đó. Chàng hộ dân quan trẻ tuổi chỉ muốn tìm cách vào thăm nàng trong nhà ngục mà thôi.
          Từ một lúc nào đấy chàng cứ vẩn vơ mãi với cái ý nghĩ là Nazarius vào được nhà ngục Mamertyn làm người chuyên chở xác chết thuê, chàng quyết định sẽ thử theo hướng này.
          Bị mua chuộc bởi một số tiền rất lớn, viên quản các Hố Thối rốt cuộc cũng nhận chàng vào danh sách các thuộc hạ mà đêm đêm hắn phái vào các nhà ngục chuyên chở xác chết. Nỗi nguy hiểm của việc Vinixius bị nhận mặt thực ra rất nhỏ. Chàng được che chở bởi đêm tối, bộ quần áo nô lệ và điều kiện chiếu sáng rất kém trong nhà ngục. Vả chăng kẻ nào rỗi hơi nghĩ tới chuyện một vị quý tộc, cháu con của các vị chấp chính quan tối cao lại có thể xuất hiện trong đám phu mộ, chịu hít thở hơi hôi hám của các nhà ngục và các Hố Thối, chịu nhận một việc làm mà thường khi chỉ có kiếp nô lệ và cảnh bần hàn cùng cực mới đẩy người ta vào.
          Còn chàng, khi buổi tối mong ngóng đã tới, chàng sung sướng che ngang háng và bịt đầu bằng một mảnh dẻ hôi hám có tẩm dầu thông, rồi với trái tim đập dập dồn, chàng đi cùng một toán người đến Exquilin.
          Bọn lính cấm vệ canh gác không hề cản trở, vì tất cả mọi người đều có một loại thẻ thích hợp được viên xenturion xem xét trong ánh đèn. Lát sau, những cánh cửa sắt khổng lồ mở ra trước họ, và họ bước vào.
          Vinixius trông thấy trước mặt một tầng hầm rộng có trần, từ đó thông sang một loạt hầm khác. Những chiếc đèn cầy le lói soi bên trong đầy nghẹt những người là người. Một số người nằm sát tường, chìm đắm trong giấc ngủ hoặc cũng có thể đã chết rồi. Những người khác vây quanh một chiếc thùng to đựng nước đặt ở chính giữa, họ uống như những người đang bị cơn sốt hành hạ; những kẻ nữa ngồi ngay trên mặt đất, cùi chỏ chống gồi, đầu đỡ trong hai lòng bàn tay; đây đó lũ trẻ con đang ngủ, nép vào người mẹ. Chung quanh nghe toàn những tiếng rên rỉ và tiếng thở rất to của những người ốm, lúc thì tiếng khóc, tiếng thì thầm cầu nguyện, lúc thì những bài ca được ngân nga khe khẽ, lúc lại tiếng nguyền rủa của bọn cai ngục. Trong hầm nồng nặc mùi xác chết và đám đông. Trong các hõm sâu tối tăm lúc nhúc những hình người đen sẫm, khi đến gần, trong ánh đèn nhập nhoạng mới thấy những khuôn mặt nhợt nhạt, kinh khủng, gầy vêu vao và đói khát, với những đôi mắt đã tắt ngấm hoặc đang hừng hực cơn sốt, những đôi môi tím tái, những dòng mồ hôi ròng ròng trên trán và những mái tóc ướt át dính bết. Trong các góc, những người ốm mê sảng rất to, kẻ khác kêu xin nước, người kia đòi mang đi chết cho rồi. Mà đó còn là nhà ngục ít kinh khủng hơn nhà ngục cũ Tulianum. Chân Vinixius như quỵ xuống trước cảnh tượng này, ngực chàng tức thở. Cứ nghĩ rằng chính Ligia cũng đang ở trong cảnh cơ hàn và cùng cực này, tóc trên đầu chàng dựng đứng, ngực chàng nghẹn một tiếng kêu tuyệt vọng. Nhà hát, nanh thú dữ, thập tự- tất thẳy hãy còn tốt hơn những hầm ngầm khủng khiếp đầy hơi người chết này, nơi từ khắp các góc vẳng ra những giọng kêu xin:
          - Các người hãy mang chúng tôi đi giết cho rồi!
          Vinixius bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay, bởi chàng cảm thấy yếu sức hẳn đi và mất tri giác đến nơi. Tất cả những gì chàng đã phải trải qua, cả tình yêu và nỗi đau trong chàng đều biến thành một nỗi khát khao được chết.
          Lúc ấy bên chàng vang lên giọng của viên quản các Hố Thối:
          - Hôm nay các anh có mấy xác?
          - Sẽ chừng một tá, - viên cai ngục đáp, - nhưng tới sáng sẽ còn nhiều hơn, vì cạnh tường đang có mấy đứa hấp hối kia kìa.
          Rồi hắn bắt đầu kêu ca những người phụ nữ đã giấu bọn trẻ con bị chết để giữ chúng bên mình thêm chút nữa, chứ không chịu giao cho người ta mang tới Hố Thối. Mãi đến khi xác chết có mùi mới nhận ra, vì thế bầu không khí vốn đã kinh tởm lắm rồi lại càng hôi thối hơn nữa. "Tôi thà chịu kiếp nô lệ ở các ngục khổ hình thôn quê, - hắn nói, - còn hơn canh giữ những con chó hôi thối ngay từ khi đang sống thế này". Viên quản Hố Thối an ủi hắn, bảo rằng công việc của y cũng chẳng nhẹ nhõm gì hơn. Trong lúc đó, Vinixius dần dần định thần lại, quay về với thực tế và chàng bắt đầu nhìn quanh trong hầm, chàng hoài công đưa mắt dõi tìm Ligia và nghĩ rằng rất có thể chàng sẽ không còn được gặp nàng khi nàng còn sống. Có tới mười mấy cái hầm nối với nhau bằng những đường hào mới đào, nhưng phu mộ chỉ vào những hầm nào có xác người chết cần mang ra, nên chàng sợ rằng điều mà chàng đã đạt được bằng ngần ấy công lao, có thể sẽ chẳng được tích sự gì hết.
          May thay người chỉ huy của chàng đã kịp thời trợ giúp.
          - Xác chết phải mang ra ngoài ngay, - y nói, - vì bệnh dịch lan tràn mạnh nhất qua xác chết. Nếu không, cả các anh lẫn bọn tù đều chết hết.
          - Chỉ có mỗi mười mống chúng tôi canh tất cả các hầm, - viên cai ngục đáp lại, - mà chúng tôi cũng phải ngủ chứ.
          - Vậy tôi sẽ để lại cho các anh bốn người của tôi, ban đêm họ sẽ đi tới các hầm nhìn xem có đứa nào chết không.
          - Nếu anh đảm nhận việc ấy, ngày mai chúng tôi sẽ khao rượu anh. Chỉ cần mang xác chết đi khám nghiệm, vì đã có lệnh đâm cổ người đã chết rồi sau đó mang ngay ra hố.
          - Được rồi, nhưng chúng ta sẽ uống ra trò đấy nhé! - viên quản nói.
          Sau đó, y cắt ra bốn người, trong đó có Vinixius, những người còn lại bắt tay vào việc đặt các xác chết lên cáng
          Vinixius thở một hơi dài. Chàng tin rằng chí ít giờ đây chàng cũng sẽ tìm gặp được Ligia.
          Rồi chàng bắt đầu chăm chú xem xét gian hầm đầu tiên. Chàng ngó vào tất cả góc tối, nơi ánh đèn hầu như không rọi tới, chàng xem mặt những hình người nằm ngủ dọc tường dưới tấm che, chàng nhìn những người ốm nặng được người ta lôi ra một góc biệt lập, song chàng chẳng thấy Ligia đâu cả. Trong gian hầm thứ hai và thứ ba, cuộc tìm kiếm của chàng cũng không mang lại chút kết quả nào.
          Trong khi đó, đêm đã khuya, người ta đã mang hết xác chết ra ngoài. Bọn cai ngục ngả mình trong những hành lang nối liền các hầm cũng đã ngủ say, trẻ con khóc mãi quá mệt cũng hầu im tiếng, trong các nhà hầm chỉ còn nghe tiếng thở nặng nhọc và đâu đây có tiếng thì thầm cầu nguyện.
          Cầm chiếc đèn cầy, Vinixius bước tới căn hầm thứ tư, nhỏ hơn rất nhiều, và giơ cao đèn, chàng bắt đầu nhìn quanh hầm.
          Bỗng nhiên chàng run lên, vì hình như chàng thấy bên dưới cái lỗ chấn song sắt trên tường là thân hình khổng lồ của bác Urxux.
          Thổi tắt phụt ngay ngọn đèn, chàng tiến lại sát bên bác và hỏi:
          - Bác Urxux đấy có phải không?
          Người khổng lồ quay đầu lại.
          - Ông là ai?
          - Bác không nhận ra tôi sao? - chàng trai hỏi.
          - Ông tắt mất đèn, làm sao tôi có thể nhận ra ông được?
          Song chính lúc ấy Vinixius đã trông thấy Ligia đang nằm trên một chiếc áo khoác cạnh tường, không nói gì thêm, chàng quỳ sụp xuống bên nàng.
          Bác Urxux cũng đã nhận ra chàng, thốt lên:
          - Ngợi ca Đức Chúa Crixtux! Nhưng xin đừng đánh thức nàng, ngài nhé!
          Vinixius cứ quỳ đó ngắm nàng qua hàng lệ. Mặc dù bóng tối, chàng vẫn nhìn thấy gương mặt nàng, khuôn mặt nhợt như màu vải, cùng đôi vai gầy guộc. Thấy cảnh ấy chàng chợt cảm thấy một tình yêu thương giống như nỗi đau xé ruột, xáo động tâm hồn đến tận chốn thẳm sâu, và đồng thời chan chứa tình thương xót, thành kính và ngưỡng mộ, đến nỗi chàng cúi mặt xuống, đưa lên môi mép chiếc áo choàng trên đó mái đầu yêu quý hơn tất cả mọi thứ trên đời của chàng đang nghỉ.
          Bác Urxux cứ lặng im nhìn chàng hồi lâu, cuối cùng bác kéo kéo áo chàng:
          - Thưa ngài, - bác hỏi, - làm thế nào ngài vào được đây, có phải ngài đến cứu nàng không?
          Vinixius ngước lên và một hồi lâu dường như chàng còn phải cố nén nỗi xúc động.
          - Bác hãy chỉ cho tôi cách cứu với! - chàng nói.
          - Tôi cứ nghĩ rằng ngài sẽ tìm được, thưa ngài. Tôi chỉ nghĩ được có mỗi một cách thôi…
          Nói đến đây, bác hướng mắt nhìn vào lỗ cửa có chấn song, rồi như tự trả lời cho chính mình, bác cất tiếng:
          - Phải!… Nhưng ngoài kia là bọn lính…
          - Cả một bách cấm quân. - Vinixius đáp.
          - Nghĩa là… ta không qua nổi!
          - Không!
          Bác người Ligi đưa tay vuốt trán và hỏi lại:
          - Làm sao ngài vào được đây?
          - Tôi có thẻ của viên quản Hố Thối…
          Đột nhiên chàng ngắt giữa chừng như có một ý nghĩ nào đó chợt loé trong đầu.
          - Thề có những khổ hình của Đấng Cứu thế! - chàng nói gấp gáp. - Tôi sẽ ở lại đây, còn nàng sẽ cầm thẻ của tôi, quấn đầu vào mảnh giẻ, phủ đôi vai bằng manh áo khoác, và sẽ thoát ra ngoài. Trong đám phu mộ cũng có vài đứa tiểu đồng, nên bọn lính cấm vệ không thể nhận ra nàng được đâu, và một khi nàng tới được nhà ông Petronius thì nàng sẽ được cứu sống!
          Nhưng bác người Ligi gục đầu xuống ngực mà đáp:
          - Nàng sẽ không đồng ý thế đâu, vì nàng yêu ngài, hơn nữa nàng lại đang ốm và không thể tự mình đứng vững nữa kia.
          Rồi lát sau bác nói thêm:
          - Nếu như ngài và ngài Petronius cao quý không cứu nổi nàng thoát khỏi ngục tù thì còn ai cứu nổi nàng kia chứ?
          - Chỉ mình Chúa Crixtux!…
          Rồi cả hai cùng im lặng. Với trí óc chất phác của mình, bác người Ligi nghĩ thầm: “Người đã có thể cứu sống tất cả mọi người kia chứ, nhưng nếu Người đã không làm điều ấy thì hẳn là đã đến thời thống khổ và chết chóc rồi đây”. Bác sẵn sàng chịu đựng nhưng bác thương tiếc đến tận đáy lòng đứa trẻ kia, người đã lớn lên trên chính đôi tay của bác, người mà bác yêu thương hơn cả cuộc đời mình.
          Vinixius lại quỳ bên Ligia. Qua lỗ cửa bịt chấn song, ánh trăng len vào hầm và soi sáng gương mặt nàng rõ hơn ngọn đèn cầy duy nhất đang bập bùng trên cửa ra vào.
          Vừa lúc Ligia chợt mở mắt, và đặt đôi bàn tay nóng bỏng của mình lên hai tay Vinixius, nàng thốt lên:
          - Em trông thấy chàng… em biết là chàng sẽ tới.
          Chàng lao vào tay nàng, đưa tay nàng đặt lên trán rồi lên trái tim, sau đó đỡ nàng ngồi dậy trên tấm trải, đặt nàng tựa vào ngực mình.
          - Tôi đã tới, nàng thân yêu. - Chàng thốt ra. - Cầu Chúa Crixtux trông coi và cứu sống nàng, hỡi Ligia yêu quý!…
          Chàng không nói được gì hơn, bởi trái tim chàng kêu lên vì nỗi đau đớn và tình yêu thương, nhưng chàng không muốn để lộ cho nàng thấy nỗi đớn đau.
          - Em đang ốm, chàng Marek, - Ligia trả lời, - và hoặc trên đấu trường, hoặc ở nơi đây, trong nhà ngục, em phải chết… Nhưng em hằng cầu nguyện để được gặp chàng trước khi chết, và chàng đã đến đây rồi, Đức Chúa Crixtux đã nghe thấu lời em!
          Và trong khi chàng chưa thể thốt nổi nên lời mà chỉ ghì chặt nàng vào ngực, nàng nói tiếp:
          - Em thường nhìn thấy chàng qua cửa sổ ở Tulianum, em biết là chàng muốn vào lắm. Giờ đây Đấng Cứu thế cho em tỉnh lại một lúc để chúng mình có thể từ biệt nhau. Em sắp đến với Người đây, Marek ạ, nhưng em yêu chàng và sẽ yêu chàng mãi mãi.
          Vinixius cố gắng hết sức, bóp nghẹt nỗi đau đớn trong lòng và nói bằng giọng mà chàng đã gắng tạo ra vẻ bình tĩnh:
          - Không đâu, nàng yêu dấu! Nàng sẽ không chết! Đức Sứ đồ đã dặn phải tin, Người đã hứa sẽ cầu nguyện cho nàng. Người quen Đức Chúa Crixtux, Chúa yêu mến Người và sẽ không từ chối Người một điều gì hết… Nếu như nàng phải chết, đức Piotr hẳn đã không bảo tôi phải tin, thế mà người lại bảo tôi: “Con hãy tin!”. Không, Ligia ơi! Chúa Crixtux sẽ rủ lòng thương tôi… Chúa không muốn nàng phải chết, Chúa sẽ không cho cái chết đến… Tôi xin thề cùng nàng nhân danh Đấng Cứu thế rằng ông Piotr đang cầu nguyện cho nàng!
          Im lặng. Ngọn đèn duy nhất treo trên cửa đã tắt, nhưng ánh trăng lại tràn vào qua cả lỗ cửa. Một đứa trẻ nào nằm trong góc đối diện của hầm chợt khóc thút thít rồi lại nín. Bên ngoài chỉ có tiếng bọn cấm vệ vọng vào, sau khi hết phiên canh chúng lại chơi trò đoán ngón tay ăn tiền ở cạnh tường…
          - Ôi Marek! - Ligia đáp - Chính Đức Chúa Crixtux xưa từng kêu cùng Chúa Cha: “Xin hãy cất cho con cốc đắng cay này”, nhưng Người cũng vẫn tự mình chịu hết. Chúa Crixtux đã chịu chết trên thánh giá, giờ đây vì Người, có hàng nghìn người đang chết, vậy tại sao Người lại tiếc một mình em? Em là gì hở chàng Marek? Em từng nghe đức Piotr nói rằng rồi Người cũng sẽ chết một cái chết khổ hình, còn em là gì so với Người kia chứ? Khi bọn lính cấm vệ đến bắt, em sợ chết và nhục hình, nhưng bây giờ em chẳng còn sợ gì nữa cả. Chàng nhìn xem, cái nhà ngục đã khủng khiếp chưa, còn em sẽ được lên trời. Chàng nghĩ mà xem, nơi đây có Hoàng đế, còn nơi kia là Đấng Cứu thế tốt lành và nhân từ. Và không hề có cái chết. Chàng yêu em, xin chàng hãy nghĩ xem em sẽ hạnh phúc biết bao. Ôi, Marek thân yêu, hãy nghĩ rằng chàng sẽ đến đó cùng em!
          Đến đây nàng im lặng để hít hơi vào lồng ngực ốm yếu của mình rồi nàng đưa tay chàng lên môi:
          - Marek!
          - Sao hở nàng thân yêu?
          - Chàng đừng khóc em và hãy luôn nhớ rằng chàng sẽ đến đó cùng em. Em sống ngắn, nhưng Chúa đã ban cho em linh hồn chàng. Vậy nên em muốn thưa cùng Chúa Crixtux rằng, mặc dù em đã chết rồi và chàng đã được chứng kiến cái chết của em, chàng phải sống trong nỗi tiếc thương, nhưng chàng sẽ không hành động ngược với ý chí của Người và sẽ kính yêu Người mãi mãi. Còn chàng sẽ kính yêu Người và sẽ kiên nhẫn gánh chịu cái chết của em, phải không?… Bởi khi ấy Người sẽ cho chúng ta gặp nhau, mà em thì yêu chàng và muốn được sống cùng chàng…
          Nói đến đây nàng lại hụt hơi và nàng kết thúc với giọng phải cố lắm mới nghe thấy:
          - Chàng hãy hứa cùng em thế đi, Marek!
          Vinixius ôm chặt nàng bằng đôi tay run rẩy và đáp:
          - Tôi xin thề trên mái đầu thiêng liêng của em!…
          Và lúc đó, trong ánh sáng buồn bã của vầng trăng, khuôn mặt nàng chợt sáng lên. Nàng đưa tay chàng lên môi một lần nữa và thì thầm:
          - Em là vợ chàng!…
          Bên ngoài tường, bọn lính cấm vệ đang chơi trò đoán ngón tay và cãi nhau ỏm tỏi, còn họ quên hết ngục tù, quên cả trái đất, và cảm thấy ở nhau linh hồn thiên sứ, họ bắt đầu cất tiếng nguyện cầu.
          Chú thích:
          (1) Nguyên văn: như đôi mắt trên đầu
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #65
            T2 - Chương 61

            Suốt ba ngày, hay đúng hơn là ba đêm, không gì xáo động sự yên tĩnh của họ. Khi những công việc thường nhật của nhà tù - phân biệt người đã chết với người còn sống, người bị ốm nặng với người còn khoẻ hơn - đã kết thúc, khi bọn canh ngục mệt mỏi đặt mình xuống nghỉ ngơi trong các hành lang, Vinixius lại bước vào gian hầm nơi Ligia đang ở, và chàng ở lại đấy cho đến khi ánh bình minh chiếu qua song sắt cửa sổ. Nàng ngả đầu lên ngực chàng, họ khe khẽ trò chuyện cùng nhau về tình yêu và cái chết. Trong ý nghĩ và trong câu chuyện, thậm chí ngay cả trong những nỗi khát khao và niềm hi vọng, cả hai bất giác ngày càng tách rời cuộc đời và mất dần cảm giác về nó. Đôi trẻ giống như những người lên tàu rời đất liền, không còn trông thấy bờ đâu nữa và dần dần nhập vào sự vô biên. Cả hai biến dần thành những linh hồn trầm mặc, yêu thương nhau, yêu thương Chúa Crixtux và sẵn sàng cất cánh bay lên. Chỉ đôi khi trong trái tim chàng trai chợt bật dậy nỗi đau như một cơn lốc, thỉnh thoảng lại bừng lên như ánh chớp một niềm hi vọng nẩy sinh từ tình yêu và niềm tin vào lòng nhân từ của Đức Chúa Bị Đóng Đinh Câu Rút, nhưng càng ngày chàng càng tách rời mặt đất để ngả về phía cái chết. Sáng sáng, khi bước ra khỏi nhà ngục, chàng nhìn thế gian, nhìn thành đô, nhìn những người quen và mọi việc của cuộc đời như qua giấc mộng. Tất thẩy đối với chàng đều xa lạ, cách trở, trống rỗng và nhỏ bé đến thảm hại. Ngay cả nỗi đe doạ cực hình cũng không còn khiến chàng sợ hãi, bởi chàng có cảm giác rằng đó là một điều có thể trải qua khi tập trung suy tư, mắt nhìn chăm chú vào một cái gì khác. Cả hai tưởng như đã bị sự vĩnh hằng thâu nhận. Họ trò chuyện về tình yêu, về việc họ sẽ được yêu nhau và được sống cùng nhau, nhưng chỉ ở phía bên kia nấm mồ, và nếu như đôi khi ý nghĩ của họ có quay về những việc trần gian, thì cũng chỉ như những người sửa soạn lên đường đi một chuyến viễn du trò chuyện với nhau về những sự để chuẩn bị lên đường mà thôi. Vả chăng vây quanh họ là một sự tĩnh mịch hệt như sự tĩnh mịch vây quanh hai chiếc cột đứng cô đơn đâu đó trong hoang vu và quên lãng. Họ chỉ lo sao Chúa Crixtux đừng chia rẽ họ, và mỗi giây phút càng củng cố lòng tin ấy trong lòng họ, họ say mê Người như say mê cái mắt xích sẽ nối liền họ lại với nhau, như say mê hạnh phúc vĩnh hằng, một sự bình yên mãi mãi. Bụi đất còn đang rơi dần từ họ về với đất. Linh hồn họ trở nên trong sạch như nước mắt. Dưới bóng đen đe doạ của cái chết, trong cảnh bần hàn và đau khổ, trên cái ổ hôi hám của nhà tù, đã mở ra cho họ một bầu trời bởi nàng đã cầm lấy tay chàng dắt đi - dường như nàng đã được siêu thoát và thánh thiện - đến nguồn suối vĩnh hằng của cuộc đời.
            Còn ông Petronius ngạc nhiên khi thấy trên nét mặt Vinixius ngày càng nhiều bình tĩnh cùng những ánh sáng kỳ lạ nào đó mà trước kia ông không nhận thấy. Đôi khi trong óc ông nảy sinh dự đoán là Vinixius đã tìm được một cách nào đó để cứu, và ông phật ý vì chàng không cho ông can dự vào bí mật của chàng.
            Rốt cuộc, không thể kìm nổi, ông bảo chàng:
            - Giờ đây nom anh khác lắm, vậy chớ giữ bí mật với cậu, bởi cậu muốn và có thể có ích cho anh: anh lại sắp đặt chuyện gì rồi phải không?
            - Cháu có sắp đặt, - Vinixius đáp, - nhưng cậu không thể giúp ích cho cháu được. Sau khi nàng chết cháu sẽ tự nhận mình là tín đồ Thiên chúa và sẽ đi theo nàng.
            - Nghĩa là anh không còn hi vọng?
            - Không, cháu hi vọng. Chúa Crixtux sẽ trả nàng cho cháu và chúng cháu sẽ không bao giờ bị chia cắt nữa.
            Ông Petronius bắt đầu đi lại trong gian chính sảnh, mặt lộ vẻ thất vọng và sốt ruột, lát sau ông bảo:
            - Nếu chỉ có thế thì không cần đến Chúa Crixtux của các anh, vì Tanatox(1) của chúng ta cũng có thể phục vụ anh việc đấy.
            Vinixius mỉm cười buồn bã và nói:
            - Không đâu, thưa cậu, có điều cậu không muốn hiểu điều ấy.
            - Cậu không muốn và không thể. - ông Petronius trả lời. - Giờ không phải là lúc để tranh luận nhưng anh có nhớ anh đã nói gì khi chúng ta thất bại trong việc cứu nàng khỏi ngục Tulianum hay chăng? Cậu đã mất hết hi vọng nhưng anh vẫn nói thế này lúc chúng ta quay về nhà: “Còn cháu tin rằng Chúa Crixtux sẽ có thể mang nàng về với cháu”. Vậy thì ông ấy cứ trả nàng về đi! Một khi cậu ném chiếc cốc quý xuống biển, không một kẻ nào trong đám thần linh của chúng ta có thể lấy lên trả lại cậu, và nếu như vị Chúa của các anh cũng không hơn, thì cậu cũng không rõ tại sao cậu lại phải thờ kính ông ta hơn những vị trước kia cả.
            - Chúa sẽ trả nàng về với cháu! - Vinixius đáp.
            Ông Petronius nhún vai:
            - Anh có biết rằng ngày mai các tín đồ Thiên chúa sẽ bị thắp sáng vườn thượng uyển của Hoàng đế không? - ông hỏi.
            - Ngày mai ư? - Vinixius hỏi lại
            Và trước cái thực tế kinh khủng đã cận kề, trái tim chàng vẫn run lên nỗi đớn đau và hãi hùng. Chàng nghĩ rằng đêm nay có thể là đêm cuối cùng chàng được ở bên Ligia, nên từ biệt ông Petronius, chàng đến ngay chỗ viên quản các Hố Thối để nhận thẻ của chàng.
            Nhưng nơi đây chàng bị thất vọng, vì viên quản không muốn cấp thẻ cho chàng nữa.
            - Xin hãy thứ lỗi, thưa ngài, - y nói - tôi đã làm cho ngài những gì có thể làm được, nhưng tôi không thể liều mạng. Đêm nay người ta sẽ mang bọn Thiên chúa giáo đến vườn Hoàng đế. Trong nhà ngục sẽ đầy lính và quan lại. Nếu như họ nhận ra ngài, tôi và các con tôi sẽ chết.
            Vinixius hiểu rằng có cố ép nữa cũng vô ích. Nhưng chàng chợt loé lên một tia hi vọng rằng bọn lính mấy ngày trước vẫn trông thấy chàng có thể để chàng được vào không cần thẻ, vậy nên chờ khi đêm đến, chàng mặc chiếc áo tunica của phu mộ như thường lệ, đầu quấn mảnh giẻ, rồi đi tới cửa nhà ngục.
            Nhưng ngày hôm ấy người ta kiểm tra thẻ ra vào gắt gao hơn thường lệ, và tệ hơn nữa, viên bách trưởng Xevinux, một người lính khắc nghiệt và tận tuỵ với Hoàng đế bằng cả tâm hồn, đã nhận ra Vinixius.
            Nhưng hẳn là trong lồng ngực bịt sắt của y vẫn còn âm ỉ một chút lửa tình thương nào đó trước nỗi bất hạnh của con người, nên thay vì đập ngọn giáo vào khiên ra hiệu bạo động, y lại dắt Vinixius ra một bên và bảo chàng:
            - Thưa ngài, xin ngài hãy quay về nhà. Tôi đã nhận ra ngài, nhưng không muốn ngài bị thiệt mạng, tôi sẽ im lặng. Tôi không thể để cho ngài vào, nhưng ngài hãy quay về và cầu các vị thần mang tới cho ngài nguồn an ủi.
            - Ngươi không thể để ta vào, - Vinixius nói, - nhưng hãy để ta đứng đây nhìn những người bị đưa đi.
            - Mệnh lệnh tôi nhận được không hề cản trở việc ấy. - Xevinux đáp.
            Vinixius đứng trước cổng và chờ cho đến khi người ta đưa các tội nhân ra. Mãi gần nửa đêm cổng nhà ngục mới mở rộng và hiện ra cả một toán tù nhân: đàn ông, đàn bà, trẻ con bị những toán quân cấm vệ vũ khí lăm lăm vây quanh. Đêm rất tỏ, trăng rằm, nên có thể nhận ra không những chỉ hình thù mà cả nét mặt của những người bất hạnh. Họ đi hàng đôi, thành một đám rước sầu bi kéo dài, và trong sự tĩnh lặng của đêm chỉ có tiếng giáp trụ của binh lính lanh canh. Người ta đưa đi nhiều đến nỗi có thể ngỡ như tất cả các hầm đều được vét sạch.
            Ở cuối đoàn người, Vinixius nhận rõ ông Glaukox thầy thuốc, nhưng cả Ligia lẫn Urxux đều không có mặt trong số những người bị tử hình.
            Chú thích:
            (1) Tanatox - Thần chết (Chú thích của tác giả)
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #66
              T2 - Chương 62

              Màn đêm chưa buông mà những làn sóng người đầu tiên đã tràn tới những khu vườn của Hoàng đế. Những đám đông ăn mặc như ngày lễ, đội những vòng hoa, hào hứng và hát ca, một phần say sưa đến đây để được ngắm nhìn một cảnh tượng mới mẻ và tuyệt diệu. Tiếng kêu: “Semaxi! Sarmenticii” vang trên đường Via Tecta, trên cầu Emilius và từ phía bên kia sông Tyber, trên đường Khải Hoàn gần hý trường Nerô, mãi cho tới đồi Vatykan. Trước kia tại Roma người ta cũng đã được trông thấy những người bị thiêu chết trên cọc nhưng chưa bao giờ lại có một số lượng tội nhân nhiều đến như thế. Hoàng đế và Tygelinux muốn thanh toán với Thiên chúa giáo, đồng thời muốn tránh bệnh dịch đang từ các nhà ngục loang ra mỗi lúc một rộng trong thành phố, đã ra lệnh khoắng sạch các hầm giam, chỉ để lại chừng vài mươi người dành cho buổi kết thúc hội thi. Cũng vì thế, bước qua cổng vườn, đám đông lặng đi vì kinh ngạc. Tất cả các đường đi chính và phụ chạy giữa các rặng cây um tùm, chung quanh các nội cỏ, các lùm cây, các hồ ao, khu ươm cây và nhà trồng hoa, đều trồng đầy các cột tẩm nhựa mà người ta đã trói các tín đồ Thiên chúa vào. Từ những nơi cao không bị cây cối che mất tầm nhìn có thể trông thấy những hàng cột và thân người được cài hoa, lá sim thơm và dây thường xuân, kéo dài mãi vào sâu, băng qua những gò đống và đồng bằng, xa mãi, đến nỗi những cây cột ở gần trông như những cột nhà, còn những cây cột ở xa trông chỉ như những chiếc thần trượng hay chiếc thương nhiều màu cắm xuống đất. Số lượng người vượt quá sự mong đợi của dân chúng. Có thể nghĩ rằng cả một dân tộc nào đó bị trói vào cọc để mua vui cho Roma và Hoàng đế. Đám đông dừng chân trước từng chiếc cọc nếu thích thú điều gì ở hình hài, tuổi tác hoặc giới tính của nạn nhân, ngắm những khuôn mặt, những vòng hoa, những tràng hoa dây quấn bằng cành thường xuân, rồi lại đi tiếp, tự đặt ra cho mình những câu hỏi đầy kinh ngạc: “Vậy ra lại có thể có tới ngần kia kẻ có tội?”, hoặc “Làm sao những đứa trẻ vừa mới chập chững biết đi lại có thể đốt cháy Roma được?”. Và nỗi ngạc nhiên ấy dần dần biến thành sự lo lắng.
              Trong khi ấy đêm trùm xuống, và trên bầu trời loé sáng những vì sao đầu tiên. Bên cạnh mỗi tội nhân liền có một tên nô lệ đứng sẵn với ngọn đuốc rừng rực cháy trong tay, và khi tiếng kèn đồng vang lên tại nhiều nơi khác nhau của các khu vườn báo hiệu khai mạc cảnh diễn, chúng lập tức châm đuốc vào chân cọc.
              Rơm rạ có tẩm sẵn nhựa được giấu dưới hoa bừng lên thành ngọn lửa sáng, mỗi lúc một bừng to lên, vặn theo những vòng dây thường xuân, nhô dần lên cao và liếm vào chân nạn nhân. Dân chúng nín bặt, những khu vườn chỉ còn vang rền tiếng kêu la và rên rỉ đau đớn. Tuy vậy, một số nạn nhân vẫn ngẩng đầu nhìn lên bầu trời sao cất tiếng hát ca ngợi Đức Chúa Crixtux. Dân chúng lắng nghe. Song ngay cả những trái tim sắt đá nhất cũng tràn ngập nỗi kinh hoàng khi từ những chiếc cọc thấp bé, những tiếng gọi xé lòng của lũ trẻ con vang lên: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” và ngay cả những khán giả say rượu cũng phải rùng mình khi nhìn thấy những mái đầu và khuôn mặt trẻ thơ nhăn nhúm vì đau đớn hoặc ngất đi trong làn khói bắt đầu khiến các nạn nhân ngạt thở. Ngọn lửa cứ vươn lên, vươn lên cao mãi, mỗi lúc lại thiêu đốt thêm những vòng hoa hồng và dây thường xuân mới. Đại lộ chính và các đường nhánh cháy rực, những khóm cây và những nội cỏ sáng rực, những nhà trồng hoa cũng thế, loang loáng sáng nước trong các vườn ươm cây và các ao hồ, những chiếc lá trên các cây cối trong vườn đều hồng rực lên, tất cả sáng bừng như ban ngày. Hơi khét của da thịt người bị cháy tràn ngập cả khu vườn, nhưng cũng lúc này bọn nô lệ bắt đầu rắc nhựa thơm và nhựa lô hội và các bình xông hương được chuẩn bị sẵn từ trước đặt giữa các cọc. Trong đám người xem đây đó vang lên những tiếng kêu, không hiểu vì đồng cảm hay vì mãn nguyện và sung sướng, tiếng kêu mỗi lúc một cồn lên cùng với ngọn lửa đang bao trùm các cọc, leo lên đến ngực của các nạn nhân, phả hơi thở nóng bỏng làm xoăn tóc lên đầu họ, giăng một tấm màn lửa trên những khuôn mặt đỏ bừng bừng của họ, và cuối cùng vọt mãi lên cao dường như đến với sự chiến thắng của sức mạnh đã ra lệnh đốt nó lên.
              Ngay từ đầu buổi diễn, Hoàng đế đã xuất hiện giữa đám dân chúng trên một cỗ xe đua, thắng bốn con ngựa nòi sắc trắng, mặc bộ quần áo đua xe với màu của phái Xanh Lục, phái mà cả Ngài cùng đám triều thần của Ngài đều là thành viên. Đi theo sau Ngài là những cỗ xe khác chở đầy triều thần, trong những bộ trang phục tuyệt vời, các nguyên lão, tăng ni và các nữ tế thần rượu trần truồng chỉ đội mỗi vòng hoa trên đầu và cầm bình rượu nho trong ấy, một phần đã ngà ngà say, hét lên những tiếng kêu man dã. Bên họ là các nhạc công, mặc giả thần đồng nội và dương thần, chơi đàn tranh, đàn forminga, thổi sáo và tù và. Trên những cỗ xe khác là các mệnh phụ và trinh nữ Roma, cũng say sưa và nửa trần truồng. Bên cạnh các cỗ xe, bọn nhào lộn rung tít những thần tượng buộc các tua rua, bọn khác nện trống, bọn nữa rải hoa. Cả một đám rước tuyệt mỹ vừa đi vừa gào lên: “Evoe!” trên con đường rộng nhất, giữa làn khói mù và những ngọn đuốc người. Hoàng đế, mang theo bên mình Tygelinux và lão Khilon, kẻ mà người muốn được vui cười với sự kinh hãi của hắn, tự mình dong ngựa đi diễu, khoan thai ngắm nhìn những thân người đang cháy, lắng nghe tiếng kêu la của dân chúng. Đứng trên cỗ xe bằng vàng ngất nghểu, giữa một làn sóng người vây quanh, làn sóng đang rạp xuống chân ngài, trong ánh lửa rừng rực, đội vòng lá vàng của người thắng cuộc đua, ngài cao vượt hẳn trên đầu đám quần thần và dân chúng, có vẻ như một vị khổng lồ. Những cánh tay ma quái của ngài đang vươn ra cầm cương ngựa tưởng như ngài đang ban phước cho dân chúng. Trên khuôn mặt và trong đôi mắt nheo lại của ngài ẩn chứa một nụ cười, ngài bừng sáng trên đám người như mặt trời hay như một vị thần kinh khủng nhưng tuyệt vời và hùng mạnh.
              Chốc chốc, ngài dừng xe để ngắm kỹ hơn một trinh nữ nào đấy mà bụng đang bị cháy xèo xèo trong ngọn lửa, hoặc một khuôn mặt trẻ thơ nhăn nhúm trong cơn dãy chết, rồi ngài lại đi tiếp, kéo theo sau cả đoàn diễu hành điên loạn và náo động. Chốc chốc, ngài lại chào dân chúng, rồi lại ngả người ra phía sau, kéo căng những sợi dây cương vàng và trò chuyện với Tygelinux. Cuối cùng ngài tới một đài phun nước khổng lồ giữa hai đường phố giao nhau, ngài bước xuống xe, gật đầu với những người đồng hành rồi đi lẫn vào đám đông.
              Người ta chào đón ngài bằng tiếng kêu và những tiếng vỗ tay. Các nữ tế thần rượu, các tiên nữ, nguyên lão, cận thần, tăng ni, thần đồng nội, dương thần và binh lính vây quanh ngài cùng với vòng người điên loạn, còn ngài, một bên là Tygelinux, bên kia là lão Khilon, ngài đi vòng quanh đài phun nước, nơi đang có hàng chục ngọn đuốc sống cháy rừng rực, dừng lại trước mỗi ngọn, nhận xét về từng nạn nhân hoặc chế giễu lão già Hi Lạp, kẻ mà nét mặt đang hiện rõ sự tuyệt vọng vô bờ bến.
              Sau rốt, họ dừng chân trước một cây cột cao quấn dây thường xuân được vòng thành từng cuộn. Những lưỡi lửa đỏ rực đã vươn tới tận đầu gối nạn nhân, nhưng không sao nhìn thật rõ mặt, vì những cành cây tươi khi cháy toả khói mù mịt che đi mất. Lát sau, cơn gió đêm nhè nhẹ chợt xua tan khói, để lộ ra đầu một cụ già với bộ râu cằm bạc phơ chảy dài xuống ngực.
              Nhìn thấy người ấy, đột nhiên lão Khilon gập người lại như một con bò sát bị trúng thương, miệng lão bật ra một tiếng kêu giống tiếng quàng quạc hơn là giống tiếng người:
              - Glaukox! Glaukox!…
              Quả thực, thầy thuốc Glaukox đang nhìn lão từ trên chiếc cột rừng rực cháy.
              Ông cụ hãy còn sống. Mặt cụ đau đớn nghiêng xuống, dường như muốn nhìn một lần cuối cùng tên đao phủ đã từng phản bội, đã từng khiến cụ mất vợ, mất con, đã từng thuê người giết cụ, rồi khi nhân danh Chúa Crixtux tất cả những điều đó đã được bỏ qua, hắn lại một lần nữa nộp cụ vào tay bọn cầm quyền. Chưa bao giờ một con người lại gây cho con người khác những điều xúc phạm kinh khủng và đẫm máu hơn thế. Thế mà giờ đây nạn nhân đang bị thiêu sống trên một chiếc cột tẩm dầu, còn tên đao phủ lại đứng ngay dưới chân cột. Đôi mắt cụ Glaukox không rời khỏi mặt lão già Hi Lạp. Chốc chốc khói lại che mờ đôi mắt ấy, nhưng khi hơi gió xua khói đi, lão Khilon lại nhìn rõ đôi đồng tử đang dán chặt vào lão. Lão nhổm bật dậy định chạy trốn, nhưng không thể. Đột nhiên lão cảm thấy như hai chân lão bằng chì và có một bàn tay vô hình nào đó giữ chặt lão lại trước chiếc cột này bằng một sức mạnh siêu nhiên. Lão như hoá đá. Lão chỉ còn cảm thấy rằng trong người lão có gì đó đã đầy tràn, có gì đó gẫy vỡ, lão cảm thấy đã quá đủ những cực hình và máu, cảm thấy cái kết cục của cuộc đời đã đến và tất cả chung quanh đều biến mất: cả Hoàng đế, triều thần, cả những đám đông, vây bọc lão chỉ còn là một khoảng trống vô đáy, kinh khủng, đen ngòm, trong đó trông rõ đôi mắt kia của con người tử vì đạo, đôi mắt đòi lão ra trước toà án. Còn ông cụ mỗi lúc cúi thêm thấp đầu xuống và vẫn nhìn hoài nhìn mãi. Những người có mặt đoán rằng giữa hai con người này đang diễn ra một cái gì đó, song nụ cười chết lặng trên môi họ, bởi trên mặt lão Khilon có gì đó thật khủng khiếp: một nỗi hãi hùng cùng một nỗi đau đớn vô chừng khiến cho nó nhăn nhúm lại, dường như những lưỡi lửa kia đang thiêu đốt chính thân xác lão. Đột nhiên, lão loạng choạng vươn hai tay lên trời và kêu bằng một giọng kinh khủng xé lòng người:
              - Ông Glaukox! Nhân danh Chúa Crixtux! Hãy tha thứ!…
              Chung quanh vắng lặng. Cơn rùng mình chạy dọc thân những người có mặt và tất thẩy các đôi mắt bất giác đều ngẩng nhìn lên.
              Mái đầu của con người tử vì đạo khẽ động đậy, rồi người ta nghe từ trên đỉnh cột một giọng nói giống như một tiếng rên:
              - Ta tha thứ!…
              Lão Khilon gục mặt xuống rú lên như một con thú, hai tay bốc đầy đất rắc lên đầu. Trong lúc ấy, những ngọn lửa đã vọt lên cao ôm lấy lồng ngực và khuôn mặt ông cụ Glaukox, làm sổ tung vòng lá sim thơm đội trên đầu cụ, và leo lên tận đỉnh cột, cây cột đang bừng bừng toả ra cả một vừng ánh sáng khổng lồ và rạng rỡ.
              Lát sau lão Khilon nhổm dậy với nét mặt biến đổi đến nỗi đám cận thần tưởng như đang nhìn thấy một con người khác. Mắt lão sáng lên những ánh không bình thường, từ vừng trán nhăn nheo toả ra nỗi say mê: lão già Hi Lạp vô năng vừa nẫy giờ trông như một vị tăng lữ vừa trông thấy thần linh, đang muốn phát hiện ra những chân lý chưa từng biết.
              - Hắn ta làm sao thế? Điên à? - vài giọng nói cất lên.
              Còn lão quay lại phía đám đông giơ tay phải lên, bắt đầu kêu to, hay nói đúng hơn là thét lên vang động, để cho không chỉ đám cận thần mà cả những kẻ tiện dân cũng có thể nghe thấy:
              - Hỡi dân chúng Roma! Tôi xin lấy cái chết ra thề rằng những người vô tội đang phải chết, còn kẻ đốt nhà chính là - tên kia!…
              Lão chỉ thẳng ngón tay vào Nerô.
              Im lặng bao trùm một hồi lâu. Đám triều thần lặng người. Lão Khilon vẫn đứng đó với cánh tay run rẩy vươn ra và ngón tay chỉ thẳng vào Hoàng đế. Đột nhiên náo động cả lên, như một làn sóng bị cơn gió lốc cuộn lên, dân chúng tràn tới gần lão già để nhìn lão được rõ hơn. Đây đó vang lên những tiếng kêu: “Giữ hắn lại!”, chỗ khác lại kêu: “Khổ cho chúng ta rồi!”. Trong đám đông vang lên tiếng huýt sáo và tiếng xôn xao: “Ahenobarbux! Thằng giết mẹ! Kẻ đốt nhà!”. Mỗi lúc càng thêm lộn xộn. Bọn nữ tế thần rượu hét toáng lên, chạy nấp vào các cỗ xe. Đột nhiên, mấy chiếc cột đã bị cháy rụi bị đổ sập xuống, làm bắn ra chung quanh những tàn lửa, càng khiến cho cảnh hỗn loạn tăng thêm. Làn sóng dân chúng mù loà, hỗn độn cuốn phăng cả lão Khilon và lôi lão vào sâu trong khu vườn.
              Khắp nơi những chiếc cột bắt đầu cháy hết và đổ xuống ngang đường, khiến cho đường phố ngập tràn khói, những tia lửa đỏ, tàn tro và mùi mỡ người cháy. Những ánh sáng xa gần dần tắt. Trong vườn tối đen. Những đám đông hoang mang, lo sợ và sầu thảm chen nhau ra cổng. Tin tức từ việc xẩy ra truyền từ miệng người này sang miệng người khác, biến đổi đi và phóng đại lên. Người thì nói rằng Hoàng đế ngất xỉu đi, kẻ khác lại nói chính Hoàng đế tự thú nhận là đã ra lệnh đốt cháy thành Roma, người thứ ba bảo rằng Hoàng đế lâm bệnh nặng, còn những người khác thì nói ngài được chở đi như đã chết rồi trên một cỗ xe. Đây đó vang lên những giọng đồng cảm với người Thiên chúa: “Không phải họ đốt cháy Roma, vậy để làm gì ngần kia máu, cực hình và bất công. Liệu các vị thần có trả thù cho những người vô tội, và biết dùng những đồ tế hiến gì để lại cầu xin các thần lần nữa?”. Những tiếng “innoxia corpora” được lặp lại mỗi lúc một nhiều hơn. Đám phụ nữ thương xót những đứa trẻ đã bị người ta vứt nhiều đến ngần ấy cho thú dữ, bị đóng đinh lên thập tự hoặc bị thiêu trong những khu vườn đáng rủa nguyền kia. Rốt cuộc lòng thương xót biến thành lời nguyền rủa Hoàng đế và Tygelinux. Nhưng cũng có những người chợt dừng lại, tự đặt cho mình hoặc đặt cho người khác câu hỏi: “Các vị thần đã cho người ta ngần ấy sức lực để chịu đựng cực hình và cái chết kia là ai vậy?”. Và người ta quay về nhà trong suy tư.
              Lão Khilon hãy còn lang thang mãi trong khu vườn, không biết đang đi tới đâu và sẽ quay trở về đâu. Giờ đây lão lại cảm thấy mình là một ông lão kiệt sức, thiểu năng và ốm yếu. Chốc chốc lão lại vấp phải những cái xác cháy dở, những đầu cây gỗ còn âm ỉ cháy toé hàng nghìn chùm tia lửa sau chân lão, chốc chốc lão lại ngồi xuống nhìn quanh bằng cái nhìn vô hồn. Khu vườn đã trở nên gần như hoàn toàn tối đen, chỉ còn có ánh trăng yếu ớt xao động giữa những hàng cây, toả ánh sáng mờ ảo xuống đường lối đi, những cây cột xám đen đổ vật ngang đường và những mẩu thây người chưa cháy hết đã bị biến mất hình thù. Nhưng lão già Hi Lạp lại cảm thấy như trong ánh trăng có khuôn mặt cụ Glaukox và đôi mắt cụ đang nhìn lão trừng trừng, lão ẩn mình tránh ánh sáng.. Tuy vậy cuối cùng lão cũng bước ra khỏi bóng tối và bất giác như bị xô đẩy bởi một sức mạnh nào đó không rõ, lão lại hướng về phía đài nước phun, nơi ông Glaukox đã trút linh hồn.
              Chính vào lúc ấy, có một bàn tay chạm vào vai lão:
              Lão già ngoảnh lại và nhìn thấy trước mặt mình một bóng người xa lạ, lão thảng thốt kêu lên:
              - Ai đó? Ông là ai?
              - Sứ đồ, Paven xứ Tarxu.
              - Tôi là một kẻ đáng nguyền rủa!… Ông muốn gì nữa?
              Đức Sứ đồ đáp:
              - Tôi muốn giải tội cho ông.
              Lão Khilon tựa vào một thân cây.
              Chân lão run rẩy, hai tay buông dọc thân người.
              - Đối với tôi, không thể có cách nào giải tội nữa! - lão nói bằng giọng khô khốc.
              - Thế ông không nghe thấy rằng Chúa đã tha tội cho tên vô lại hối hận trên cây thánh giá hay sao? - ông Paven hỏi.
              - Thế ông biết tôi đã làm những gì không?
              - Tôi đã nhìn thấy nỗi đau đớn của ông và tôi đã nghe thấy ông đưa ra lời chứng cho sự thật.
              - Ôi ngài!…
              - Và một khi kẻ tôi tớ của Chúa Crixtux tha tội cho ông trong giờ cực hình và chết chóc, lẽ nào Chúa Crixtux lại chẳng thể tha thứ cho ông?
              Lão Khilon lấy hai tay ôm ghì đầu như hoá dại:
              - Tha thứ! Tha thứ cho tôi!…
              - Đức Chúa của chúng tôi là Đức Chúa Nhân Từ. - Sứ đồ đáp.
              - Ngay cả đối với tôi? - Lão Khilon hỏi lại.
              Rồi lão rên lên như một người kiệt sức không thể chống nổi nỗi đau đớn và khổ sở. Ông Paven nói:
              - Hãy tựa vào tôi và hãy đi cùng tôi.
              Rồi ông đỡ lấy lão, đi cùng lão tới chỗ những đường phố giao nhau, hướng theo tiếng đài phun nước dường như đang than khóc trong sự tĩnh mịch của đêm trường trên những thi thể đã bị dày vò đến thế.
              - Chúa chúng tôi là Chúa nhân từ, - Sứ đồ lặp lại. - Nếu ông đứng trên biển ném một hòn đá xuống nước, làm sao có thể ném chạm chốn thẳm sâu của biển. Tôi xin nói cùng ông rằng sự nhân từ của Chúa Crixtux cũng giống như biển cả, còn tội lỗi của con người chìm trong đó như đá chìm trong lòng biển thẳm sâu. Tôi xin nói với ông, Chúa như vòm trời trùm khắp núi đồi, đất liền và biển cả, vì Người ở khắp nơi, không có giới hạn, không có chỗ tận cùng. Ông đã đau khổ bên cột hành hình cụ Glaukox và Chúa Crixtux thấy nỗi đau của ông. Ông đã nói mà không cần biết những chuyện gì sẽ xảy đến với ông ngày mai: “Đây là kẻ đốt nhà!” và Chúa Crixtux nhớ những lời ông nói. Bởi vì đã qua rồi sự dữ và điều dối trá của ông, trong tim ông chỉ còn một nỗi tiếc nuối vô biên. Ông hãy đi cùng tôi và hãy nghe những điều tôi nói: chính tôi cũng đã từng căm ghét Người và tróc nã những kẻ được Người lựa chọn. Tôi cũng đã từng không muốn tin vào Người cho đến khi Người hiển hiện và vẫy gọi tôi. Từ đó Người là tình yêu của tôi. Giờ Người mang tới cho ông nỗi ưu tư, lo hãi và đau đớn để gọi ông đến cùng Người. Ông đã từng căm thù Người, nhưng Người lại yêu mến ông. Ông đã bán tín đồ của Người, khiến họ phải chịu cực hình, nhưng Người vẫn muốn tha thứ và cứu rỗi cho ông.
              Lồng ngực của lão già bắt đầu rung lên nức nở, trong lòng lão, linh hồn bị động chạm đến tận chốn thắm sâu; ông Paven đỡ lấy lão, khiến lão bình tĩnh lại và dìu lão đi như người lính dắt một tù nhân.
              Lát sau, ông lại nói tiếp:
              - Hãy đi cùng tôi, tôi sẽ đưa ông tới cùng Người. Có lí do gì khác nữa chăng mang tôi đến với ông? Nhưng Người đã bảo tôi phải cứu vớt linh hồn con người nhân danh tình yêu, nên tôi phải thực hiện việc phụng sự Người. Ông nghĩ rằng ông là kẻ đáng bị nguyền rủa, nhưng tôi xin nói cùng ông: xin hãy tin nơi Người, sự cứu rỗi đang chờ ông đấy. Ông nghĩ rằng ông bị người đời căm thù, nhưng tôi xin nhắc lại cùng ông rằng Người yêu thương ông. Hãy nhìn tôi đây! Giá không có Người, tôi sẽ chẳng có gì hết trừ sự dữ ở trong tim, nhưng giờ đây, tình yêu của Người đủ thay thế cho tôi cả cha cùng mẹ, cả sự giàu sang cùng quyền vương bá. Chỉ duy nhất ở Người có đường thoát, chỉ mình người tính đến từng nỗi tiếc thương của ông, nhìn thấy sự cùng khổ của ông, cởi bỏ cho ông nỗi hãi hùng và nâng ông tới cùng Người.
              Vừa nói thế ông vừa dìu lão tới đài phun nước, mà ngay từ xa những dòng nước bạc đã lóng lánh trong ánh trăng. Chung quanh tĩnh mịch và vắng vẻ vì bọn nô lệ phục dịch đã dọn xong những cột hoá thành than cùng thi thể những người tử vì đạo nơi đây.
              Lão Khilon rên lên, quỳ sụp xuống, úp hai tay vào mặt và cứ quỳ bất động như thế, còn ông Paven ngước mặt lên các vì tinh tú bắt đầu cầu nguyện.
              - Hỡi Chúa, hãy nhìn con người khốn khổ này, hãy trông nỗi hối hận, những giọt lệ và nỗi đớn đau của ông ta. Hỡi Chúa Nhân, Người đã đổ máu vì những tội lỗi của chúng tôi, bằng những nỗi cực hình của Người, bằng cái chết và phục sinh, xin hãy tha thứ cho ông ta!
              Rồi ông im lặng, nhưng vẫn tiếp tục nhìn lên những vì sao và cầu nguyện hồi lâu.
              Đột nhiên, dưới chân ông bật lên những tiếng kêu nghe như tiếng rên rỉ:
              - Hỡi Chúa Crixtux!… Lạy Chúa Crixtux!… Hãy tha tội cho tôi!…
              Lúc ấy, ông Paven tiến đến đài nước phun, vốc nước vào lòng bàn tay, rồi quay lại con người khốn khổ đang quỳ gối.
              - Hỡi Khilon! Tôi rửa tội cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh thần! Amen!
              Lão Khilon ngẩng đầu, giang hai tay và bất động. Mặt trăng chiếu ánh sáng vằng vặc xuống những sợi tóc bạc trắng cùng khuôn mặt cũng màu trắng, bất động, dường như chết rồi hoặc tạc bằng đá của lão. Thời gian trôi đi, trong những chuồng chim khổng lồ ở trong vườn Đomixia bắt đầu vẳng tới tiếng gáy của lũ gà sống, lão vẫn cứ quỳ, giống như một pho tượng bên mồ.
              Cuối cùng, lão mở mắt, đứng dậy, quay sang phía Sứ đồ và hỏi:
              - Tôi phải làm gì trước khi chết, thưa cha?
              Paven cũng vừa sực tỉnh khỏi cơn suy tư về cái thế lực vô biên có thể đè bẹp cả những linh hồn như linh hồn của lão già Hi Lạp kia, ông đáp:
              - Ông hãy tin và hãy làm chứng cho sự thật!
              Rồi họ cùng bước ra. Ở cổng vườn, Sứ đồ ban phước cho lão già lần nữa và họ chia tay, vì chính lão Khilon yêu cầu như thế khi lão thấy trước rằng, sau chuyện vừa xẩy ra, Hoàng đế và Tygelinux sẽ ra lệnh tróc nã lão.
              Quả thực, lão đã không lầm. Quay về nhà, lão thấy ngôi nhà đã bị bọn lính cấm vệ vây kín, chúng bắt lão ngay, và dưới sự chỉ huy của Xevinux, chúng đưa lão vào cung điện Palatyn.
              Hoàng đế đã đi nghỉ, nhưng Tygelinux vẫn chờ, khi trông thấy lão già Hi Lạp bất hạnh, hắn chào lão với vẻ mặt bình tĩnh nhưng dữ tợn…
              - Ngươi đã mắc trọng tội phạm thượng, - hắn nói với lão, - ngươi sẽ không thể thoát khỏi bị trừng phạt. Nhưng nếu ngày mai, tại nhà hát, ngươi tuyên bố rằng ngươi đã say và đã điên, còn những thủ phạm của trận hoả tai chính là bọn tín đồ Thiên chúa thì hình phạt đối với ngươi sẽ chỉ là đánh đòn và đi đày mà thôi.
              - Tôi không thể, thưa ngài! - lão Khilon khẽ trả lời.
              Tygelinux tiến lại gần lão với những bước chân chậm rãi, và bằng giọng nói cũng khẽ khàng, nhưng đáng sợ, hắn hỏi:
              - Sao ngươi không thể, hả đồ chó Hi Lạp kia? Lẽ nào ngươi không say và không hiểu nổi cái gì đang chờ ngươi hay sao? Nhìn kia kìa!
              Nói đoạn hắn trỏ tay vào góc gian chính sảnh, nơi đó, bên cạnh một chiếc ghế dài bằng gỗ, có bốn tên nô lệ người Trak đang đứng im lìm trong bóng tối, với dây thừng và kìm sắt trong tay.
              Lão Khilon vẫn đáp:
              - Tôi không thể, thưa ngài!
              Tygelinux bắt đầu nổi khùng nhưng vẫn cố nén:
              - Ngươi đã thấy bọn Thiên chúa phải chết như thế nào chưa? - hắn hỏi, - Ngươi cũng muốn chết thế chăng?
              Lão già ngẩng khuôn mặt nhợt nhạt lên, môi lão động đậy hồi lâu, rồi lão đáp:
              - Tôi cũng tin vào Đức Chúa Crixtux!…
              Tygelinux nhìn lão kinh hoàng:
              - Đồ chó, mày điên thật rồi!
              Và đột nhiên, cơn tức tối dồn nén trong ngực hắn phá tung đập chắn. Hắn nhẩy xổ đến bên lão Khilon, dùng hai tay túm chặt bộ râu cằm của lão, giật lão ngã lăn ra đất, rồi bắt đầu đạp túi bụi, vừa đạp mồm vừa sùi bọt lắp đi lắp lại:
              - Mày sẽ phải cải chính! Mày sẽ phải cải chính!
              - Tôi không thể! - lão Khilon đáp lại từ mặt đất
              - Tra tấn nó đi!
              Nghe lệnh, bọn người Trak tóm lấy lão già, đặt nằm lên ghế, rồi sau khi dùng dây trói chặt lão vào ghế, chúng bắt đầu dùng kìm kẹp nghiến những cẳng chân gầy guộc của lão. Nhưng khi chúng trói lão, lão nhẫn nhục hôn tay chúng, rồi sau đó lão nhắm nghiền mắt lại, trông như đã chết.
              Tuy thế lão vẫn còn sống, vì khi Tygelinux cúi xuống lão một lần nữa và hỏi: “Mày sẽ cải chính chứ?”, đôi môi khẽ nhợt nhạt của lão khẽ động đậy và từ đó thoát ra một lời thì thào chỉ vừa đủ nghe thấy:
              - Tôi không… thể!…
              Tygelinux sai dừng nhục hình và đi đi lại lại lồng lộn trong chính sảnh với nét mặt biến đổi hẳn đi vì tức giận và bất lực. Cuối cùng, hẳn là hắn nghĩ ra được một ý mới nào đó, hắn quay lại phía bọn người Trak ra lệnh:
              - Rứt đứt lưỡi nó đi!
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #67
                T2 - Chương 63

                Thường thường khi diễn vở bi kịch Aurelux trong nhà hát hay nhà hát vòng, người ta thường bố trí sao cho có thể mở ra và tạo nên hai cảnh riêng biệt. Nhưng sau buổi biểu diễn trong khu vườn của Hoàng đế, người ta chán cách thông thường ấy, bởi người ta chỉ muốn sao cho nhiều người nhất có thể được tận mắt trông thấy cái chết của tên nô lệ bị đóng đinh lên thập tự, mà trong kịch sẽ bị gấu xé xác. Trong các nhà hát, vai gấu thường do diễn viên khoác bộ da gấu đóng, nhưng lần diễn này sẽ là gấu thực. Đó chính là ý mới của Tygelinux. Thoạt tiên, Hoàng đế bảo trước là Ngài sẽ không tới dự, nhưng do sự vật nài của kẻ đang được sủng ái, ngài lại thay đổi ý định. Tygelinux giải thích cho ngài, rằng sau chuyện xảy ra trong vườn, ngài lại càng cần phải xuất hiện trước chúng dân, đồng thời hắn cũng cấm đoán rằng tên nô lệ bị đóng đinh câu rút sẽ không thể nhục mạ Hoàng đế như ông Kryxpux đã làm. Dân chúng đã phần nào bão hoà và mệt mỏi với việc đổ máu, người ta bèn báo trước rằng sẽ phát một đợt vé xổ số mới và tặng quà, đồng thời sẽ có tiệc đêm vì buổi diễn sẽ được tổ chức vào buổi tối, trong nhà hát được chiếu sáng với dày đặc đèn nến.
                Quả thực ngay lúc sẩm tối toàn bộ toà nhà đã đầy nghẹt người. Tất cả các cận thần, đứng đầu là Tygelinux, đều có mặt đông đủ, không phải để xem diễn, mà chủ yếu là để bày tỏ cùng Hoàng đế lòng trung thành của mình sau chuyện vừa xẩy ra, và để trò chuyện với nhau về lão Khilon, người mà toàn thành Roma đang nói đến.
                Người ta thì thầm vào tai nhau rằng sau khi ở vườn về, Hoàng đế giận điên lên, ngài không sao chợp mắt nổi, ngài bị những cơn hãi hùng và những giấc mơ kinh dị, cho nên ngay ngày hôm sau, ngài liền tuyên bố sắp lên đường đi Akhai. Mặc dù những người khác bác lại, khẳng định rằng giờ đây ngài sẽ lại càng nghiệt ngã hơn nữa đối với dân Thiên chúa giáo. Cũng không thiếu những kẻ hèn nhát thấy trước rằng lời buộc tội mà lão Khilon đã ném vào mặt Hoàng đế trước đám đông có thể sẽ dẫn đến những hậu quả tồi tệ nhất. Rốt cuộc, cũng có những người yêu cầu Tygelinux chấm dứt những cuộc khủng bố, xuất phát từ lòng nhân đạo.
                - Các ngài hãy xem các ngài đang đi tới đâu. - Barkux Xoranux nói. - Các ngài muốn làm dân chúng thoả nỗi hận thù và khiến họ tin rằng hình phạt đã giáng xuống những kẻ có tội, vậy mà kết quả hoàn toàn ngược lại.
                - Đúng thế! - Antyxlius Verux thêm, - hiện nay tất cả mọi người đều xì xào rằng bọn họ là những người vô tội. Nếu như đó mà lại là sự khéo léo thì lão Khilon quả đã có lý khi nói rằng bộ óc của các ngài không đựng đầy nổi một chiếc đĩa tí xíu.
                Tygelinux quay về phía họ và nói:
                - Người ta cũng còn thì thầm với nhau rằng, cô con gái Xervilia của ông, hỡi Barkux Xoranux, và bà vợ của ông, hỡi Antyxlius, đã che giấu bọn nô lệ Thiên chúa của mình trước công lý của Hoàng thượng.
                - Đó là điều xằng bậy! - Barkux lo lắng kêu lên.
                - Chính các mụ li dị chồng của các người muốn giết hại vợ tôi vì ghen tức với phẩm hạnh của nàng! - Antyxlius Verux nói với vẻ không kém phần lo lắng.
                Còn những người khác lại trò chuyện về lão Khilon.
                - Lão làm sao thế nhỉ? - Epriux Marxenlux nói. - Chính lão đã nộp họ vào tay Tygelinux, từ một kẻ khốn cùng lão đã trở nên giàu có, lão có thể yên ổn sống nốt những ngày còn lại của mình, có được một đám ma tuyệt vời và một nấm mồ xinh xắn, vậy mà không! Lão lại muốn mất sạch sành sanh trong chớp mắt và cả mạng nữa. Quả thực, chắc lão điên!
                - Lão không điên mà đã trở thành một tín đồ Thiên chúa! - Tygelinux bảo.
                - Lẽ nào lại thế được! - Vitelius cất tiếng.
                - Tôi đã bảo từ trước mà! - Vextynux xen vào - Các vị cứ giết hết bọn tín đồ Thiên chúa đi, nhưng xin hãy tin tôi, chớ có đánh nhau với vị thần của bọn họ. Chuyện này không đùa được!… Các vị hãy nhìn xem đang diễn ra những gì nào! Tôi không đốt cháy Roma, nhưng nếu như Hoàng thượng cho phép, tôi sẽ dâng đồ tế hiến sống cho vị thần của bọn họ. Và tất cả mọi người lẽ ra đều phải làm như vậy mới phải, bởi vì tôi xin nhắc lại: không thể đùa với ông ta được đâu! Xin các vị nhớ cho là tôi đã báo trước cho các vị như thế!
                - Còn tôi lại nói khác. - ông Petronius nói - Tygelinux cười khi tôi bảo rằng họ đang chống cự, còn giờ đây tôi sẽ nói thêm: bọn họ đang chiếm lĩnh nữa kia!
                - Sao thế? Sao thế? - vài giọng hỏi lại
                - Thề có Ponlukx!… Bởi nếu như ngay cả lão Khilon còn không cưỡng nổi họ, thì ai có thể cưỡng lại nổi? Nếu như các ngài nghĩ rằng sau mỗi một buổi diễn lại không có thêm những tín đồ Thiên chúa mới, thì với toàn bộ sự am hiểu Roma của mình, các ngài sẽ trở thành gã thợ nồi hoặc các ngài bắt đầu đi cạo râu cằm đi là vừa, vì khi ấy các ngài sẽ thấy rõ hơn dân chúng đang nghĩ gì, và trong thành phố đang có gì diễn ra.
                - Ông ta nói đúng quá, thề có chiếc áo peplum của nữ thần Điana - Vextynux kêu lên.
                Nhưng Barkux quay sang ông Petronius:
                - Ông muốn đưa đến đâu?
                - Tôi muốn kết thúc ở chỗ mà các ngài bắt đầu: quá đủ máu rồi.
                Tygelinux nhìn ông châm chọc và nói:
                - Ê! Thêm chút xíu nữa thôi!
                - Nếu như ông thiếu cái đầu, thì hẵng còn cái thứ hai ở chót gậy ấy! - ông Petronius đáp.
                Cuộc trò chuyện cắt ngang vì Hoàng đế đến, ngài ngồi vào chỗ của mình, có Pitagorax tuỳ tòng. Ngay sau đó, người ta bắt đầu diễn vở Aureolux, mà người ta thực cũng không để ý xem lắm vì còn mải nghĩ tới lão Khilon. Dân chúng, đã quá quen với cực hình và máu, cũng chán ngán, họ xuỵt, họ phát ra những tiếng kêu không tán thưởng đối với triều thần và đòi mau tới cảnh diễn có gấu, cảnh hấp dẫn nhất. Nếu không có hi vọng được nhìn lão già bị trị tội và không có quà tặng, thì chỉ độc cảnh diễn thôi không thể giữ nổi đám đông.
                Cuối cùng, giây phút chờ đợi đã tới. Trước hết các tiểu đồng phục dịch nhà hát khiêng ra một cây thập tự bằng gỗ, khá thấp, để gấu có thể chồm đến ngực kẻ chịu xử tội, tiếp đến, hai người nữa dẫn- mà đúng hơn là kéo - lão Khilon ra, vì xương chân gẫy nát nên lão không thể tự đi được. Người ta đặt lão và đóng lên gỗ nhanh đến nỗi những vị cận thần tò mò không kịp nhìn cho thật rõ, mà mãi tới khi cây thập ác được cố định và cái hố đã chuẩn bị sẵn, mọi cặp mắt đều dồn vào lão. Nhưng hiếm ai có thể nhận ra lão Khilon ngày trước ở ông cụ già trần truồng này. Sau những cực hình mà Tygelinux ra lệnh tra tấn lão, trên mặt lão không còn lấy một giọt máu, và chỉ trong bộ râu cằm trắng bạc mới thấy có vết đỏ của máu đọng lại khi lão bị dứt đứt lưỡi. Qua làn da trong suốt gần như có thể nhìn thấy rõ từng chiếc xương của lão. Lão có vẻ già hơn trước rất nhiều, gần như lụ khụ. Ngược lại, trước kia mắt lão bao giờ cũng ném ra những cái nhìn vĩnh hằng, bất an và đầy dữ dội, bộ mặt nhạy cảm của lão hồi trước bao giờ cũng phảng phất vẻ lo lắng và phấp phỏng triền miên, giờ đây, mặt lão lộ vẻ đau đớn, nhưng lại ngọt ngào và bình thản, như mặt những người đang ngủ say hay đã chết. Có thể trí nhớ về tên vô lại trên thập tự được Chúa Crixtux xá tội đã cấp thêm cho lão lòng tin, cũng có thể lão nói thầm với vị Chúa nhân từ rằng: “Chúa ơi, tôi đã từng đốt Người như một con sâu độc, nhưng suốt cả cuộc đời tôi là một kẻ bần hàn, đói khát; người ta chà đạp tôi, đánh tôi và áp bức tôi. Chúa ơi, tôi là kẻ nghèo hèn và vô cùng bất hạnh, giờ đây họ đang bắt tôi phải chịu cực hình và đóng đinh tôi lên cây thập tự, vậy xin Người hỡi Chúa Nhân Từ, chớ đạp bỏ tôi trong giờ chết”. Và hẳn là sự bình an đã thâm nhập vào trái tim nhỏ nhoi của lão. Không ai cười, vì trong con người bị đóng đinh câu rút này có gì đó thật khẽ khàng, lão già yếu, không chút sức tự vệ, như cầu xin lòng thương hại bằng sự nhẫn nhục của mình, đến nỗi bất giác mỗi người đều tự hỏi, lẽ nào có thể hành hạ và đóng đinh câu rút những kẻ không cần việc ấy cũng chết đến nơi rồi? Đám đông câm lặng. Giữa đám cận thần, Vertynux nghiêng người sang trái sang phải, thì thào bằng giọng kinh hoàng: “Các vị hãy nhìn xem họ chết ra sao kia kìa!”. Những kẻ khác chờ con gấu xuất hiện, lòng chỉ cầu mong cho buổi diễn kết thúc thật nhanh.
                Rốt cuộc, con gấu cũng nặng nề bò ra đài diễn, lắc lư về hai bên cái đầu cúi thấp, nó hé mắt nhìn chung quanh, dường như đang suy nghĩ hay tìm kiếm điều gì. Cuối cùng nó nhìn thấy cây thập tự, trên đó là một thân hình trần truồng, nó bèn tiến lại gần, nhổm dậy, nhưng rồi sau đó lại thả hai chân trước xuống đất và ngồi ngay dưới chân cây thập tự bắt đầu gầm gừ, dường như tình thương hại cũng lên tiếng ngay trong trái tim thú dữ của nó trước mảnh thân người này.
                Những tiếng kêu khích lệ vang ra từ miệng bọn phục dịch nhà hát, nhưng dân chúng vẫn câm lặng. Trong khi đó lão Khilon chậm chạp ngước đầu, và một hồi lâu, lão lướt mắt nhìn qua những người xem. Cuối cùng, cái nhìn của lão dừng lại ở đâu đó trên những dẫy ghế cao nhất của nhà hát, ngực lão bắt đầu phập phồng gấp gáp hơn, và lúc ấy chợt xảy ra cái điều khiến người xem thán phục và kinh ngạc. Đó là khuôn mặt của lão chợt rạng rỡ một nụ cười, vầng trán lão như có ánh hào quang bao phủ, trước lúc chết, mắt lão ngước lên nhìn trời, và lát sau hai giọt nước mắt to tướng, tràn ra dưới mi, chậm chạp lăn trên mặt lão.
                Rồi lão qua đời.
                Và khi ấy một giọng đàn ông dõng dạc kêu lên ở phía trên cao, dưới tấm che trần:
                - Bằng an cho những người tử vì đạo!
                Một sự im lặng nặng nề trùm lên cả nhà hát.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #68
                  T2 - Chương 64

                  Sau cảnh diễn trong khu vườn thượng uyển của hoàng đế, những nhà ngục rỗng đi trông thấy. Thực ra người ta cũng bắt thêm và cầm tù được những nạn nhân mới bị nghi ngờ là tin theo cái giáo phái phương đông, nhưng những cuộc truy quét cung cấp họ cho nhà tù mỗi lúc một ít hơn, chỉ vừa đủ để dùng cho những biểu diễn tiếp theo, thực ra cũng đã tới hồi mãn cuộc. Đã no máu người, dân chúng càng ngày càng thể hiện sự chán ngán và mỗi lúc một thêm lo lắng vì các xử sự chưa từng gặp của những người bị xử tử. Những nỗi lo sợ của anh chàng Vettynux mê tín chế ngự hàng nghìn tâm hồn. Trong đám dân chúng, người ta kháo nhau những chuyện mỗi lúc một kỳ dị hơn về tính thù hằn của vị thần Thiên Chúa. Bệnh sốt thương hàn của nhà ngục lan tràn trong thành phố lại càng khiến cho nỗi lo sợ chung tăng thêm. Người ta thường gặp những đám ma và thì thầm vào tai nhau rằng cần có những lễ vật giải hạn mới để cầu khẩn vị linh thần chưa tường nọ. Trong các thần miếu, người ta dâng lễ vật lên thần Jupiter và nữ thần Libityna. Cuối cùng, mặc mọi cố gắng của Tygelinux và đồng đảng, nhưng ngày càng lan rộng ý kiến cho rằng thành phố bị đốt cháy theo lệnh của chính hoàng đế, còn những tín đồ Thiên Chúa phải chịu oan.
                  Song cũng chính vì vậy cả Nerô lẫn Tygelinux đều không ngừng những cuộc khủng bố. Để làm thỏa mãn dân chúng, người ta ban bố thêm những quy định mới về việc ban phát lương thực, rượu nho và dầu ôliu, người ta công bố những quy chế để dễ dàng hơn cho việc tái thiết nhà cửa, đầy những điều khoản giảm nhẹ cho chủ nhà, cùng những quy chế khác liên quan tới độ rộng của đường phố và những loại vật liệu cần dùng trong xây cất, để trong tương lai tránh được hỏa tai. Chính hoàng đế cũng thường tới dự những cuộc họp bàn của viện nguyên lão cùng các bậc "cha ông" thảo luận về quyền lợi của chúng dân và thành phố, ngược lại đối với những tội nhân, ngài không ban cho một chút ân phước nào. Vị chúa tể thế giới lo lắng trước hết đến việc cấy sâu vào đầu dân chúng niềm tin rằng chỉ có những kẻ thật sự có tội mới đáng chịu những sự trừng phạt không khoan nhượng như thế. Tại viện nguyên lão không hề có tiếng nói nào cất lên ủng hộ tín đồ Thiên Chúa, vì không một ai muốn chạm đến hoàng đế, thêm vào đó, những người có tầm nhìn xa hơn về tương lai khẳng định rằng, trước cái tín ngưỡng mới kia, những nền tảng của quốc gia La Mã không thể tồn tại.
                  Người ta chỉ trả lại cho gia đình những kẻ đang hấp hối cùng những người đã chết, vì luật La Mã không trả thù những người chết. Đối với Vinixius cũng là điều nhẹ nhõm khi chàng nghĩ rằng, một khi Ligia qua đời, chàng sẽ chôn nàng vào mộ của gia đình và rồi sẽ được an nghỉ cạnh nàng. Chàng không còn một chút hy vọng nào có thể cứu nàng thoát chết, bản thân chàng, đã tách rời khỏi cuộc đời phân nửa, cũng chỉ hoàn toàn dâng cho Chúa Crixtux, không mơ ước tới một mối liên hệ nào khác ngoài liên hệ vĩnh hằng. Lòng tin của chàng trở nên sâu thẳm, đến nỗi trước lòng tin ấy, chàng thấy sự vĩnh hằng kia là một cái gì còn thực tế và chân chính hơn kiếp tồn tại tạm thời mà chàng vẫn sống cho tới nay. Trái tim chàng tràn ngập một niềm say mê rất tập trung. Chàng biến thành một sinh linh gần như không có thân xác, sinh linh ấy chỉ khao khát sự giải thoát hoàn toàn cho bản thân mình và cho linh hồn thương yêu thứ hai nữa mà thôi. Chàng hình dung thấy khi ấy, cùng với Ligia, chàng sẽ tay nắm tay bay lên trời, nơi Chúa Crixtux sẽ ban phước cho cả hai và cho họ được sống trong một thế giới bình yên và rộng lớn như ánh sáng mặt trời. Chàng chỉ cầu xin Chúa Crixtux để Người tránh cho Ligia khỏi phải chịu nhục hình trong hý trường, vì chàng cảm thấy hoàn toàn chắc chắn rằng chính chàng sẽ cùng chết với nàng. Chàng nghĩ rằng, trước cái biển máu đã đổ ra kia, chàng không có quyền chờ đợi rằng một mình nàng sẽ được cứu sống. Chàng nghe ông Piotr và Paven nói rằng ngay cả họ nữa cũng sẽ phải chết như những người tử vì đạo. Hình ảnh lão Khilon trên cây thập tự khiến chàng tin rằng, cái chết, ngay cả cái chết khổ hình, cũng có thể ngọt ngào, chàng thầm mong nó đến cho cả hai, như một sự biến đổi đang khát khao từ kiếp sống dữ dằn, buồn thảm và nặng nề sang một cuộc sống tốt đẹp hơn.
                  Thỉnh thoảng, chàng đã nếm mùi vị cuộc sống của thế giới bên kia. Nỗi buồn dâng lên từ hai linh hồn của chàng và nàng mất dần vị đắng cay bỏng rát xưa kia và biến dần thành một sự tân hiến bình an ngoại giới nào đó cho ý chí của Chúa. Trước kia, Vinixius vất vả bơi ngược dòng, chàng phải chống cự và mệt mỏi, giờ đây chàng thả người xuôi theo sóng, tin rằng nó ẽ mang chàng tới chốn yên tĩnh vĩnh hằng. Chàng đoán rằng, cũng như chàng, Liogia sửa doạn để được chết, rằng mặc dù những bức tường nàh tù ngăn cách họ, nhưng họ sẽ được cùng đi và chàng mỉm cười với ý nghĩ này như với chính niềm hạnh phúc.
                  Quả thực, họ cùng bước nhịp nhàng, dường như hàng ngày họ được cùng nhau chia xẻ những ý nghĩ của nhau rất lâu vậy. Ở Ligia cũng không còn một khát vọng nào, một hy vọng nào, ngoài niềm hy vọng về cuộc đời ở thế giới bên kia. Đối với nàng, cái chết không những chỉ là sự giải thoát khỏi những bức tường nhà giam khủng khiếp, khỏi tay hoàng đế và Tygelinux, không những chỉ là sự cứu rỗi, mà còn là lúc được cưới Vinixius. Đứng trước sự tin chắc rằng không hề lay chuyển này, tất thẩy những niềm tin khác mất hết sức nạng. Sau cái chết với nàng sẽ bắt đầu niềm hạnh phúc nhuốm màu trần thế nữa, vì vậy nàng chờ cái chết như vị hôn thê đón chờ phút hôn lễ.
                  Và dòng tin tưởng vô biên này, dòng nước cuộn tách khỏi cuộc đời mang sang thế giới bên kia hàng nghìn tín đồ đầu tiên, cũng cuốn theo các bác Urxux nữa. Ngay cả bác, suốt một thời gian dài, cũng không lòng nào đồng ý với cái chết của Ligia, song một kho hàng ngày qua những bức tường nhà tù lọt vào tin tức về những gì diễn ra ở các nhà hát và các khu vườn, nơi cái chết trở thành một nỗi khổ hình chung không sao tránh khỏi của tất cả những người Thiên Chúa, đồng thời lại là điều tốt đẹp của họ, cao hơn tất thẩy những khái niệm trần thế về hạnh phúc, thì rốt cuộc bác cũng không dám nguyện cầu Đức Chúa Crixtux để Người lấy đi của Ligia niềm hạnh phúc kia, hoặc hoãn nó lại cho nàng sau những tháng năm dài dằng dặc. Trong tâm linh chất phác hoang dã của mình, bác còn nghĩ rằng lẽ ra vị công chúa con thủ lĩnh của những người Ligi cần được hưởng nhiều hơn và sẽ được nhận nhiều những niềm lạc thú thiên giới kia, hơn cả đám tiện dân như bác, rằng trong niềm vinh quang cực lạc, nàng sẽ được ngồi gần con chiên hơn những kẻ khác. Quả tình bác cũng từng nghe rằng những kẻ khác. Quả tình bác cũng từng được nghe rằng, đứng trước Chúa mọi người đều thấy bình đẳng, nhưng trong tận đáy sâu tâm hồn vẫn còn ầm ĩ niềm tin tưởng rằng công chúa con thủ lĩnh, lại là vị thủ lĩnh của tất thẩy những người dân Ligi, thì không thể giống như một nữ nô lệ bất kỳ được. Bác cũng chờ mong Đức Chúa Crixtux sẽ để cho bác được tiếp tục hầu hạ nàng. Còn đối với bản thân, bác chỉ có một niềm khát khao được giấu kín, là làm sao bác sẽ có thể được chết như con chiên, trên cây thánh giá. Nhưng bác thấy hình như đó là một hạnh phúc lơn lao quá đỗi, nên mặc dù biết rằng ở Roma người ta đã từng đóng đinh câu rut ngay cả những tên tội phạm tồi tệ nhất, bác vẫn không dám cầu nguyện xin được chết như thế. Bác nghĩ rằng chắc chắn người ta sẽ bắt bác phải chết dưới nanh thú dữ và điều đó trở thành nỗi lo lắng nội tâm của bác. Ngay từ nhỏ, bác đã sống trong những khu rừng hoang rậm rịt bạt ngàn, trong những cuộc đi săn thú triền miên và nhờ có sức khỏe hơn người, bác đã nổi tiếng trong những người Ligi từ khi chưa thành người lớn. Săn thú đã trở thành công việc ý thích của bác, đến nỗi sau này, ở Roma khi phải từ bỏ nó, nhưng bác vẫn thường lui tới các chuồng thú và nhà hát để được nhìn những con thú quen hoặc không quen. Hình ảnh của chúng làm dậy lên trong lòng bác ý muốn chiến đầu và giết chết chúng, nên giờ đây bác lo lắng trong dạ, rằng một khi phải đương đầu với chúng trong nhà hát, bác sẽ sa vào những ý nghĩ ít xứng đáng với tín đồ Thiên Chúa giáo. Người lẽ ra phải chịu chết sùng kín và nhẫn nại. Nhưng ngay cả trong việc ấy, bác cũng gửi gắm vào Chúa Crixtux và sự an ủi bằng những ý nghĩ khác ngọt ngào hơn. Bác nghe nói rằng con chiên đã tuyên chiến chống lại những lực lượng địa ngục và loài quỷ dữ, mà tín ngưỡng Thiên Chúa tính gộp vào đó tất cả những vị thần linh ngoại đạo, bác nghĩ rằng, trong cuộc chiến tranh kia, bác sẽ là người trợ thủ đắc lực đang kể cho con chiên, bác sẽ biết cách phụng sự Người giỏi hơn những kẻ khác, vì bác không sao có thể thừa nhận rằng linh hồn bác sẽ không mạnh hơn linh hồn của những kẻ tử vì đạo khác. Vả chăng bác cầu nguyện suốt những ngày dài, phục vụ các bạn tù, giúp đỡ bọn canh ngục và an ủi công chúa của mình những khi nàng than tiếc rằng trong cuộc đời quá ngắn ngủi này nàng chưa thể thực hiện được nhiều công tích như nàng Thabita lừng danh đã từng thực hiện, người mà hồi trước ông Piotr từng kể cho nàng nghe. Ngay cả trong ngục tối, bọn canh ngục cũng kinh sợ sức lực khủng khiếp của người khổng lồ này, vì trước cái sức lực nhường kia, không có song sắt nào đủ vững, song rốt cuộc chúng lại yêu mến bác vì tính tình đôn hậu của bác. Nhiều lần, ngạc nhiên vì sự ôn hòa của bác, chúng hỏi bác nguyên nhân vì sao, bác bèn trả lời chúng với một niềm tin chắc không lay chuyển về cuộc sống đang chờ đợi bác sau khi chết, khiến chúng kinh ngạc lắng nghe, bởi lần đầu tiên chúng thấy được hạnh phúc có thể xuyên thấy vào hầm ngầm, nơi ngay cả ánh mặt trời cũng không lọt tới nơi. Và khi bác thuyết phục chúng hãy tin vào con chiên, không chỉ một tên nhận ra công việc của hắn chỉ là công việc của một thằng nô lệ, còn cuộc sống là một kẻ khốn cùng, không chỉ một tên đâm ra suy ngẫm về nỗi thống khổ của bản thân mình chỉ có cái chết mới chấm dứt nổi.
                  Có điều, chính cái chết lại khiến chúng sợ hãi và chúng chẳng thể hứa hẹn gì cho bản thân sau khi nó đến, trong khi đó người khổng lồ xứ Ligi này cùng cô thiếu nữ trông tựa như một đóa hoa bị ném vào ổ rơm nhà ngục kia, lại bước tới với cái chết sung sướng như đón hạnh phúc trở về.
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #69
                    T2 - Chương 65

                    Một tối nọ, nguyên lão nghị viện Xevinux đến thăm ông Petronius và trò chuyện rất lâu với ông về cái thời buổi nặng nề mà cả hai đang sống, cũng như về hoàng đế. Ông ta nói công khai đến nỗi mặc dù là bạn của nhau, ông Petronius cũng bắt đầu dè chừng. Ông ta thẫn thờ rằng thế giới đi theo đường cong queo điên loạn và tất cả những thứ này gộp lại nhất thiết sẽ phải kết thúc bằng một tai họa khủng khiếp hơn cả đám cháy thành Roma. Ông ta nói rằng ngay cả đám cháy thành Roma. Ông ta nói rằng ngay cả các cận thần cũng hết sức thích thú. Fenius Rufux, viên tổng quản cấm quân thứ hai, bắt buộc phải chịu đựng sự chuyên chế tởm lợm của Tygelinux và cả họ Xeneka bị dồn đến chỗ bước phải lên án hoàng đế, kể cả vị thầy tuổi tác lẫn chàng Lukan. Cuối cùng, ông ta nêu lên sự không hài lòng dân chúng, thậm chí của lính cấm vệ mà phần lớn có cảm tình với Fenius Rufux.
                    - Sao ông lại nói chuyện ấy? - Petronius hỏi ông ta.
                    - Vì lo lắng cho hoàng thượng - Xevinux đáp - Tôi có một người bà con xa trong đám cấm quân, tên gọi Xeninux, giống như tên tôi và qua anh ta tôi cũng biết được những gì đang diễn ra trong trại quân…Sự chán ghét lớn lên ngay cả tại đó…Ông thấy không, Katigula cũng điên cuồng và hãy xem đã xẩy ra chuyện gì! Nẩy sinh ra Kaxius Serea…Đó là một hành động kinh khủng mà chắc chắn trong đám chúng ta không một ai ca ngợi, thế nhưng chính Serea đã giải thoát cho thế gian tránh khỏi một con quái vật.
                    - Nghĩa là - Ông Petronius đáp lại - Ông nói thế này: "Tôi không ca tụng Serea, nhưng đó là một con người tuyệt vời và cầu sao các thần linh cho chúng ta thật nhiều người như thế".
                    Nhưng Xevinux đã thay đổi cầu nguyện và đột nhiên ông ta bắt đầu ca ngợi Pizon. Ông ngợi ca dòng họ anh ra, sự cao quý của anh ta, tình gắn bó của anh ta đối với vợ và cuối cùng là trí óc, sự bình tĩnh và khả năng cảm hóa mọi người một cảm hóa mọi người một cách kỳ lạ của anh ta.
                    - Hoàng đế không có con - Ông nói - Và tất cả mọi người đều thấy Pizon là người nối ngôi. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả đều sẽ hết lòng giúp anh ta lên nắm chính quyền. Fenius Rufux yêu mến anh ta. Plauxius Lateranux và Tulius Xenexio vì anh ta mà sẵn sàng lao vào lửa. Cả Natalix và Xubrius Flavius cả Xulpius Axper lẫn Afranius Auinxianux, thậm chí cả đến Vextynux cũng thế.
                    - Cái con người cuối cùng kia sẽ chẳng mang lại gì nhiều nhặn cho Pizon đâu - Ông Petronius đáp - Vextynux sợ ngay cả bóng của hắn.
                    - Vextynux sợ các cơn mộng mị và ma quỷ - Xevinux nói - nhưng đó là một người kiên nghị mà người ta đã rất có lý khi định phong làm chấp chính quan. Còn chuyện trong thâm tâm ông ta chống lại việc truy nã tín đồ Thiên Chúa thì cũng không nên trách ông ta, vì ngay cả ông nữa cũng mong sao những sự điên rồ kia chấm dứt cho rồi.
                    - Không phải tôi mà là Vinixius - Ông Petronius nói - Vì Vinixius, tôi muốn cứu sống một người thiếu nữ nhưng không thể, bởi tôi hết được hưởng những ưu ái của Ahenobarbux.
                    - Sao lại thế? Thế ông không nhận thấy rằng hoàng đế đã xích lại gần ông và bắt đầu trò chuyện cùng ông đó sao? Tôi xin nói tại sao. Đó là vì ngày sửa soạn đi Akhai, nơi ngài sẽ hát những bài ca Hy Lạp do chính ngài soạn. Ngài nóng lòng muốn ra đi thực hiện chuyến viễn du này, nhưng ngài lại run khi nghĩ tới tính ưa châm chọc của người Hy Lạp. Ngài hình dung rằng hoặc là ngài gặp một thắng lợi huy hoàng nhất, hoặc sẽ gặp một thất bại đau đớn nhất. Ngài cần có lời khuyên tốt và ngài hiểu rằng không ai có thể hơn ông trong việc cho ngài những lời khuyên ấy cả. Đó là lý do vì sao ông lại được ưu ái.
                    - Lukan có thể thay tôi.
                    - Râu đỏ căm ghét chàng ta và trong thâm tâm đã ghi cho chàng bản án tử hình. Ngài chỉ còn tìm cớ, vì bao giờ ngài cũng tìm cớ. Lukan cũng hiểu rằng phải nhanh chân lên.
                    - Thề có Kaxtor! - Ông Petronius nói - Có thể là thế. Nhưng tôi còn một cách khác nữa để nhanh chóng lại được ưu ái hơn.
                    - Cách gì?
                    - Đó là lặp lại với râu đỏ những điều mà ông vừa nói vùng với tôi.
                    - Tôi có nói gì đâu! - Xevinus lo lắng kêu lên.
                    Nhưng ông Petronius đã đặt tay lên vai ông ta:
                    - Ông đã gọi hoàng đế là thằng điên, ông đã thấy trước sự kế vị của Pizon và chính ông đã nói: "Lukan hiểu rằng phải nhanh chân lên". Các vị muốn vội vàng làm gì thế, thưa carissme?
                    Xevinux tái người đi và một hồi lâu cả hai người nhìn chăm chăm vào mắt nhau.
                    - Ông sẽ không lặp lại đâu!
                    - Thề có bộ đùi của nữ thần Kipryđa! Ông hiểu tôi lắm! Không! Tôi sẽ không lặp lại đâu! Tôi chẳng nghe thấy gì hết mà cũng chẳng hề muốn nghe gì cả…Ông hiểu chứ? Cuộc sống quá ngắn ngủi để có thể nhọc công lo lắng chuyện gì. Tôi chỉ xin ông, ngày hôm nay hãy đến thăm Tygelinux và trò chuyện với hắn về bất cứ chuyện gì ông muốn, chỉ cần cũng lâu bằng thời gian trò chuyện cùng tôi.
                    - Để làm gì?
                    - Để khi Tygelinux bảo tôi: "Xevinux đã tới thăm ông!" tôi có thể đáp lại hắn: "Cùng ngày hôm ấy ông ta cũng đến chỗ ông đấy thôi!".
                    Nghe thấy thế, Xevinux bẻ gẫy chiếc gậy bằng ngà voi mà ông ta đang cầm trong tay, rồi đáp:
                    - Cầu cho vận rủi rơi vào cây gậy này. Hôm nay tôi sẽ tới thăm Tygelinux, rồi dự tiệc ở nhà Nerva. Cả ông nữa cũng sẽ tới đó. Dù sao cũng xin tạm biệt, lại gặp nhau vào ngày kia ở nhà hát, nơi những người Thiên Chúa giáo còn sống sót sẽ ra mắt!...Tạm biệt.
                    - Ngày kia - Còn lại một mình, ông Petronius nhắc lại - Không còn thì giờ để phí nữa. Quả thực Ahenobarbux cần ta tại Akhai, rất có thể hắn sẽ lưu ý tới ta.
                    Và ông quyết định sẽ thử đến phương sách cuối cùng.
                    Quả thực, trong bữa tiệc tại nhà chàng Nerva, hoàng đế yêu cầu ông Petronius nằm đối diện với ngài, bởi ngài muốn được trò chuyện cùng ông về Akhai và về những thành phố mà ngài có thể biểu diễn với hy vọng thu được thành công lớn nhất. Ngài lo nhất là những người Aten mà ngài vẫn sợ. Các vị cận thần khác lắng nghe câu chuyện, cố nắm bắt vài mẩu ý kiến của ông Petronius, để sau này nhét nó vào lời của mình.
                    - Ta cảm thấy cho tới nay ta chưa hề sống - Nerô nói - Và ta sẽ được chào đời ở Hy Lạp.
                    - Hoàng thượng sẽ được sinh ra để đón nhận niềm vinh quang mới cùng sự bất tử - Ông Petronius đáp.
                    - Ta tin rằng sẽ xảy ra đúng như thế và thần Apolon sẽ không tỏ ra ghen tỵ. Nếu ta quay về với niềm vinh quang, ta sẽ dâng lên thần những vật tế hiến mà chưa từng có vị thần nào được hưởng từ trước đến nay.
                    Xevinux bắt đầu lặp lại lời thơ của Horaxius:
                    Sic te diva potens Cypri
                    Sic fratres Helenae, lucida sedera
                    Ventorumque regat pater…(1)
                    - Tầu đã đỗ ở Neapolix - Hoàng đế nói - Ta muốn ra đi ngay ngày mai…
                    Nghe thấy thế, ông Petronius nhổm dậy, nhìn thẳng vào mắt Nerô nói:
                    - Tâu thánh thượng, xin người cho phép thần tổ chức một tiệc cưới mà trước tất cả những người khác, thần kính mời hoàng thượng tới tham dự.
                    - Tiệc cưới à? Của ai? - Nerô hỏi.
                    - Vinixius cưới công chúa của vua người Ligi và là con tin của người. Mặc dù hiện nay nàng còn đang ở trong ngục, nhưng trước hết là một con tin, nàng lẽ ra không phải chịu giam giữ, hai nữa chính người đã cho phép Vinixius cưới nàng, mà những lời phán quyết của người, giống như phán quyết của chính Zeux, là không thể rút lại được, vậy nên người sẽ ra lệnh thả nàng ra khỏi ngục và trả nàng lại cho vị hôn phu.
                    Dòng máu lạnh và sự bình tĩnh cả tin vào bản thân thể hiện khi ông Petronius nói đã đã chế ngự Nerô, kẻ luôn luôn bị chế ngự những khi ông nói với hắn theo cách ấy.
                    - Ta biết - Ngài đáp, mắt cụp xuống - Ta vẫn nghĩ đến nàng và tên khổng lồ đã bóp chết Kroton.
                    - Vậy thì cả hai sẽ được sống - Ông Petronius bình thản đáp.
                    Nhưng Tygelinux đã đến cứu ông chủ của hắn.
                    - Cô ta bị giam theo mệnh lệnh của hoàng thượng, mà chính ông, hỡi Petronius, đã nói rằng, lời phàn quyết của người là không thể rút lại được.
                    Tất cả những người đang có mặt, biết chuyện Vinixius và Ligia, nên hiểu rằng đang đề cập đến việc gì, vậy nên họ thấy đều nín lặng tò mò chờ xem câu chuyện sẽ kết thúc ra sao.
                    - Cô ta bị giam là do sơ xuất của ông, do ông kém hiểu biết luật lệ các dân tộc, ngược với ý chí của hoàng thượng - Ông Petronius quật lại, cố ý nhấn mạnh - Tygelinux hỡi, ông là một kẻ ngây thơ, nhưng chắc ông cũng sẽ không thể khẳng định rằng cô ta đã đốt cháy Roma, vì nói cho cùng, dù ông có khẳng định như thế, hoàng thượng cũng chẳng tin.
                    Nhưng Nerô đã kịp trấn tĩnh và đang hấp háy đôi mắt cận thị với một vẻ cáu kỉnh vô chừng.
                    - Petronius nói đúng - Lát sau ngài phán.
                    Tygelinux nhìn ngài ngạc nhiên.
                    - Petronius nói đúng - Nerô lặp lại - Ngày mai cổng nhà tù sẽ mở ra cho cô ta, còn về bữa tiệc cưới thì chúng ta sẽ bàn vào ngày kia tại nhà hát.
                    "Ta lại thua cuộc rồi" - Ông Petronius nghĩ thầm.
                    Và quay trở về nhà ông tin chắc rằng thế là chấm hết cuộc đời Ligia và ngày kia ông sẽ phái một người nô lệ giải phóng tới nhà hát để thỏa thuận với viên quản xác về việc trả lại xác nàng, bởi ông muốn mang xác nàng về cho Vinixius.
                    Chú thích:
                    (1) Latinh: Chính nữ vương thần kỳ đảo Síp
                    "Chị em của Helena, sáng láng tinh cầu
                    Mà nổi gió đẩy thuyền đi…"
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #70
                      T2 - Chương 66

                      Kể từ thời Nerô, những buổi biểu diễn đêm, cả ở hý trường cũng như nhà hát, mới đi dần vào phong tục, chứ trước kia chúng rất hiếm hoi và chỉ được tổ chức như những ngoại lệ. Đám cận thần thì thích các buổi biểu diễn ban đêm, vì thường thường sau đó lại có những bữa tiệc và cuộc rượu say sưa kéo dài đến tận sáng. Mặc dù dân chúng đã quá bão hòa với chuyện đổ máu, những khi loan truyền tin là hội thi đã đến lúc chót và những người Thiên Chúa giáo cuối cùng sẽ được chết trong buổi diễn đêm, thì những đám đông hàng bao người liền kéo nhau tới nhà hát. Đám cận thần đủ mặt không thiếu một ai vì tất cả đều hiểu rằng đây sẽ không phải là một biểu biểu diễn bình thường và hoàng đế đã nhất quyết sẽ bày cho mình một cảnh bi kịch từ nỗi đau của Vinixius. Tygelinux giữ bí mật về loại khổ hình sẽ dành cho vị hôn thê của chàng hộ dân quan trẻ tuổi, nhưng chính điều đó chỉ càng làm tăng thêm sự háo hức chung mà thôi. Những người trước kia từng được gặp Ligia ở nhà ông bà Plauxius giờ đây kể lại những điều huyền thoại về sắc đẹp của nàng. Những người khác quan tâm trước nhất đến câu hỏi: Liệu hôm nay có thực họ sẽ được trông thấy nàng trên võ đài không, vì nhiều người trong bọn họ được nghe câu hoàng đế trả lời ông Petronius ở nhà chàng Nevra đã giải thích nó theo hai cách khác nhau. Một số người cho rằng hoàng đế sẽ trả hoặc thậm chí đã trả nàng trinh nữ cho Vinixius, người ta nhắc lại cho nhau rằng nàng là một con tin, hơn nữa luật các dân tộc không cho phép trừng phạt nàng.
                      Nỗi phấp phỏng, sự chờ đợi và háo hức chế ngự tất cả người xem. Hoàng đế đến sớm hơn thường lệ và cùng với ngài đến, người ta bắt đầu thì thầm với nhau rằng nhất định sẽ diễn ra một điều gì khác thường, vì ngoài Tygelinux và Vatynius, hoàng đế còn có Kasius tùy tùng, đó là một viên Xenturion có thân hình khổng lồ và sức lực khổng lồ mà hoàng đế chỉ đem theo những khi cần một vệ sĩ bên mình, như những khi ngài muốn tiến hành những chuyến vi hành ban đêm ở khu Xubura, nơi ngài thường diễn trò chơi được gọi là Sagatio, tức là trò tung những người phụ nữ bắt được trên đường lên không trong những chiếc áo choàng binh sĩ. Người ta cũng nhận ra rằng, ngay trong nhà hát cũng đã bố trí những biện pháp đề phòng. Bọn lính cấm vệ canh gác được tăng thêm, còn chỉ huy chúng không phải là một viên Xenturion, mà chính là hộ dân quan Xubrius Flavius nổi tiếng xưa nay vì gắn bó một cách mù quáng với Nerô. Khi ấy, người ta hiểu rằng, bằng mọi cách hoàng đế muốn được bảo hiếm chống lại sự bùng nổ cơn tuyệt vọng của Vinixius và thế là sự háo hức càng tăng thêm.
                      Mọi cái nhìn đều chăm chú hướng về chỗ chàng hôn phu bất hạnh đang ngồi. Chàng nhợt nhạt vô cùng, trán đọng những giọt mồ hôi và giống như những người xem khác, chàng cũng phấp phỏng, những lo lắng đến tận đáy lòng. Bản thân ông Petronius cũng không biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nên khi từ nhà Nerva quay về, ông không nói gì mà chỉ hỏi chàng có sẵn sàng chịu đựng mọi thứ hay chưa và sau đó, hỏi chàng có đến dự buổi diễn không. Vinixius chỉ trả lời cả hai câu hỏi bằng lời đáp: "Có". Nhưng thực ra khi ấy chàng bị kiến bò khắp người, bởi chàng đoán được rằng không phải vô cớ mà ông Petronius lại hỏi thế. Suốt thời gian gần đây, bản thân chàng cũng sống như chỉ bằng nửa cuộc đời, bản thân chàng cũng đã chìm vào cái chết và đã cam chịu với cái chết của Ligia, vì đối với họ, cái chết vừa là sự giải thoát vừa là lễ cưới, song lúc này đây, chàng hiểu rằng nghĩ trước về giây phút cuối cùng như một sự yên tĩnh thiếp đi là một chuyện, còn đi để tận mắt nhìn những nỗi cực hình của sinh linh thân yêu hơn cả cuộc đời mình lại là chuyện khác. Tất thảy những nỗi đau đớn mà chàng trải qua từ trước tới nay đều lên tiếng trong lòng chàng một lần nữa. Nỗi tuyệt vọng đã yên đi rồi nay lại gào thét trong lòng chàng và hệt như ngày xưa, chàng lại muốn cứu Ligia bằng mọi giá. Ngay từ sáng sớm, chàng đã muốn lọt vào hầm giam người để biết có Ligia trong ấy hay chăng, nhưng bọn lính cấm vệ canh gác tất cả mọi lối vào và người ra những mệnh lệnh nghiêm khắc đến nỗi binh lính - ngay cả những người quen biết - cũng không dám nhượng bộ chàng. Dù chàng đã dùng đến cả vàng lẫn những lời cầu khẩn. Vinixius tưởng như sự phấp phỏng hồi hộp này sẽ giết chàng chết trước khi chàng trông thấy cảnh diễn. Đâu đó trong chốn sâu thẳm của trái tim chàng vẫn trăn trở nỗi hy vọng rằng có thể Ligia không có mặt trong nhà hát và tất thẩy những mối lo âu kia chỉ là vớ vẩn. Chốc chốc chàng lại gắng hết sức bám víu vào niềm hy vọng này. Chàng thầm nhủ rằng: Đức Chúa Crixtux rất có thể đã cứu nàng thoát khỏi nàh ngục, nhưng dù sao cũng không thể cho phép nàng phải chịu nhục hình trong hý trường. Trước đây chàng buông thả mọi việc theo ý Chúa, giờ đây, khi bị xua đuổi khỏi cửa phòng giam, phải quay trở về chỗ ngồi của mình trong nhà hát, khi mà qua những cái nhìn tò mò của mọi người đang hướng về phía chàng, chàng nhận ra rằng những điều dự cảm kinh khủng nhất có thể sẽ thành sự thật, chàng lại bắt đầu thầm cầu khẩn Người trong lòng với một nỗi nhiệt thành gần như đe dọa, xin Người hãy cứu lấy nàng. "Chúa có thể cứu nàng cơ mà!" - Chàng lặp lại, tay xiết chặt một cách đau đớn. "Chúa có thể:". Trước kia chàng không hề nghĩ rằng giây phút ấy trở thành sự thật, nó sẽ kinh khủng đến thế. Giờ đây, không còn hiểu nổi những gì đang xẩy đến với mình, nhưng chàng vẫn có cảm giác rằng, nếu phải trông thấy những cực hình của Ligia, lòng kính yêu của chàng có thể sẽ biến thành lòng căm thù, lòng tin của chàng có thể sẽ thành nỗi tuyệt vọng. Đồng thời chàng lại sợ hãi trước cảm giác ấy, bởi chàng sợ sẽ xúc phạm đến Chúa Crixtux, người mà chàng đang khẩn cầu tình thương và một điều kỳ diệu. Chàng không còn dám cầu xin cuộc sống của nàng, mà chỉ muốn nàng được chết trước khi chúng mang nàng ra đấu trường và từ vực thẳm không cùng của nỗi đau; chàng thầm nhắc đi nhắc lại trong lòng: "Dù sao xin Chúa cũng chớ từ chối tôi điều ấy, tôi sẽ yêu kính Chúa hơn đã kính yêu Người từ trước đến nay". Cuối cùng những ý nghĩ của chàng hỗn loạn như những làn sóng bị một cơn gió lốc đuổi xua. Thức đậy trong lòng chàng sự thèm khát được trả thù và đòi máu. Chẳng những muốn lao vào Nerô và bóp cổ hắn trước mặt tất cả những người xem, song đồng thời chàng lại cảm thấy khát vọng kia xúc phạm Đức Chúa Crixtux và vi phạm những điều răn của Chúa. Chốc chốc, lướt qua đầu chàng những ánh chớp của niềm hy vọng, rằng tất thẩy những gì đang khiến cho tâm hồn chàng run rẩy sẽ bị một bàn tay toàn năng và nhân ái lật ngược lại, song những ánh chớp ấy lại tắt ngấm ngay lập tức trong một nôi tiếc hận vô bờ, rằng chính Đức Crixtux - Người mà chỉ cần dùng một lời thôi cũng có thể phá tan tành hý trường này và cứu thoát Ligia - Đã bỏ mặc nàng, dù chàng đã từng tin tưởng và kính yêu Người với tất cả sức mạnh của trái tim trong sạch của mình. Và chàng nghĩ tiếp rằng nàng đang nằm trong cái hố giam tăm tối kia, yếu ớt, không chút vũ khí tự vệ, bị bỏ mặc cho bọn cai gục đã thú hóa, rất có thể nàng đang trút hơi thở cuối cùng, trong lúc ấy chàng phải chờ đợi một cách bất lực trong cái nhà hát khủng khiếp này, không hiểu bọn chúng đã nghĩ ra cho nàng nỗi khổ hình nào mà lát nữa chàng mới được trông thấy. Rốt cuộc, giống như một người đang rơi vào vực thẳm cố bám víu lấy tất thẩy những gì mọc quanh miệng vực, chàng cũng cô sức níu chặt ý nghĩ rằng chỉ duy nhất lòng tin mới cứu nổi nàng. Và thực ra cũng chỉ còn có cách ấy thôi! Chính ông Piotr chẳng đã từng nói rằng lòng tin có thể lay chuyển cả trái đất đó sao!
                      Do vậy chàng cố gắng tập trung tư tưởng, bóp chết trong lòng nỗi ngờ vực, toàn bộ con người mình được chàng gói trọn trong một lời thôi: "Tôi tin!" và chàng chờ phép mầu nhiệm.
                      Nhưng cũng giống như dây đàn căng quá phải đứt, sự nỗ lực đã khiến chàng kiệt sức. Màu trắng nhợt nhạt của xác chết bao phủ mặt chàng, cơ thể chàng cứng đờ ra. Chàng chợt nghĩ rằng lời cầu khẩn của chàng đã được nghe thấu, bởi chàng đang được chết. Chàng ngỡ như Ligia đã chết rồi và bằng cách ấy. Chúa Crixtux đã mang họ đến cùng nha. Võ đài, những tà áo toga màu trắng của những người xem đông không kể xiết, ánh sáng của hàng ngàn ngọn đèn và bó đuốc, tất thẩy đều biến khỏi mắt chàng.
                      Nhưng sự kiệt sức ấy không kéo dài lâu. Lát sau chàng tỉnh dậy, hay nói đúng hơn, tiếng dẫm chân vì sốt ruột của khán giả đã đánh thức chàng.
                      - Anh ốm mất rồi - Ông Petronius bảo chàng - Hãy bảo chúng nó khiêng anh về nhà đi thôi!
                      Và không cần để ý hoàng đế sẽ nói gì về việc ấy, ông đứng dậy cho Vinixius tựa vai và bước ra cùng chàng. Trái tim ông tràn ngập tình thương xót, hơn nữa điều khiến ông không sao chịu nổi là hoàng đế nhìn chằm chằm qua viên bích ngọc vào Vinixius, khoái chí theo dõi nối đớn đau của chàng, có thể là để sau này sẽ mô tả lại trong những khổ thơ thống thiết được công chúng hoan hô.
                      Vinixius lắc đầu. Chàng có thể chết ngay tại nhà hát này, nhưng chàng không thể bỏ nó mà đi. Vả chăng buổi biểu diễn cũng chỉ còn vài phút nữa sẽ bắt đầu.
                      Chính vào lúc ấy, viên đô trưởng ném mạnh chiếc khăn đỏ xuống trước mặt, thấy hiệu lệnh đó, chiếc then cửa đối diện với bục ngồi của hoàng đế rít lên ken két và bác Urxux từ một vực thẳm tối tăm bước ra đấu trường được chiếu sáng rực.
                      Người khổng lồ hấp háy mắt, chắc hẳn bác bị chói bởi ánh sáng của đấu trường, rồi bác bước tới chính giữa, nhìn khắp bốn chung quanh dường như muốn tìm hiểu xem mình sẽ phải đương đầu với thứ gì. Tất cả các vị cận thần và phần lớn khán giả đều biết rằng chính con người này đã bóp chết Kroton, nên trông thấy bác, tiếng xì xào lan khắp các hàng ghế. Ở Roma không thiếu chi những võ sĩ to lớn vượt xa kích thước bình thường của con người, nhưng mắt dân Quiryt chưa từng được trông thấy một cơ thể lực lưỡng nhường kia! Bên cạnh người đàn ông Ligi này, Kasius đứng trên bục phía sau lưng hoàng đế có vẻ như một người nhỏ bé. Các vị nguyên lão, các ni cô đồng trinh, hoàng đế, đám cận thần và dân chúng đều ngắm con người này với sự thán phục của những kẻ sành sỏi và những người hâm mộ, họ ngắm hai cái đùi khổng lồ to như thân cây, ngắm lồng ngực tựa như của chàng Herkulex. Tiếng trầm trồ mỗi lúc một lớn. Đối với những đám người này, hình như không thể có khoái lạc nào lớn hơn là được nhìn những bắp thịt kia trong cuộc đấu, trong trò chơi, trong sự đọ sức. Tiếng xì xào biến thành những tiếng kêu và những câu hỏi nóng nẩy, xem bộ lạc đã sản sinh ra những người khổng lồ nhường kia sinh sống tại đâu, còn bác, đứng giữa nhà hắt, trần truồng, giống như một pho tượng khổng lồ bằng đá hơn giống người, với nét mặt của một người dân man dã vừa căng thẳng vừa đượm buồn và khi nhìn thấy cái đấu trường trống rỗng, bác đưa cặp mắt xanh thẳm như trẻ con của mình, lúc nhìn người xem, lúc nhìn hoàng đế, lúc lại nhìn song sắt của các hầm giam, nơi mà bác chờ đợi sẽ xuất hiện những tên đao phủ.
                      Lúc bước ra đấu trường, trái tim chất phác của bác vẫn hãy còn rung lên lần cuối bởi nỗi hy vọng sẽ có cây thập tự đang chờ bác, nhưng khi không nhìn thấy cây thập tự, không nhìn thấy cái hố đào sẵn, bác nghĩ rằng mình hẳn là không xứng với cái ân huệ kia và bác sẽ phải chết một cách khác, chắn hẳn là chết bởi dã thú. Không có vũ khí trong tay, bác quyết định sẽ chịu chết cho xứng với một tín đồ của con chiên, bình thản và nhẫn nại. Lúc này bác còn muốn được cầu nguyện Đấng Cứu Thế, nên bác bèn quỳ xuống đấu trường, vòng tay và ngước mắt nhìn lên các vì sao đang nhấp nháy qua lỗ thông thiên của hý trường.
                      Dáng điệu ấy không vừa mắt người xem. Người ta xem đã quá no mắt những tín đồ Thiên Chúa chết như những con cừu rồi. Người ta hiểu rằng, nếu người khổng lồ kia không muốn tự vệ, thì chẳng còn cảnh tượng gì hay ho nữa cả. Đây đó vang lên tiếng xuỵt. Một số người bắt đầu gọi đám đốc chiến, bọn này có nhiệm vụ đánh đòn những đấu sĩ không chịu chiến đấu. Tuy nhiên một lúc sau tất cả lại ắng đi vì chưa biết điều gì đang chờ người khổng lồ và liệu bác ta có muốn chiến đấu chăng, một khi phải đương đầu với cái chết.
                      Quả thực, người ta chẳng phải chờ lâu. Đột nhiên tiếng kèn đồng váng óc vang lên và cùng với hiệu lệnh ấy, cánh cửa có song sắt đối diện với bục ngồi của hoàng đế mở ra và trong tiếng hò reo của bọn canh thú, một con bò rừng xứ Germania lao ra đấu trường, mang trên đầu một thân hình phụ nữ trần truồng.
                      - Ligia! Ligia! - Vinixius thét lên.
                      Rồi chàng đưa cả hai bàn tay tóm chặt lấy tóc quanh thái dương, người cuộn gập lại, giống như một kẻ chợt cảm thấy mũi giáo đâm trúng vào mình và chàng lặp đi lặp lại mãi bằng một giọng khàn đặc không còn giống tiếng người nữa:
                      - Con tin! Con tin!...Hỡi Đức Chúa Crixtux! Phép mầu!...
                      Thậm chí chàng không nhận thấy rằng đúng vào lúc ấy ông Petronius dùng tà áo toga phủ lấy đầu chàng. Chàng ngỡ như cái chết hay nỗi đau đớn đã che lấy mắt chàng. Chàng không nhìn, không thấy gì hết. Chàng chỉ cảm thấy một cảm giác trống rỗng đến kinh hoàng. Đầu óc chàng không còn một ý nghĩ nào nữa, chỉ có môi chàng cứ lặp đi lặp lại như hóa dại:
                      - Con tin! Con tin! Con tin! Con vẫn tin!....
                      Nhà hát câm lặng. Đám cận thần đứng bật hết cả dậy, vì trên đấu trường xẩy ra một chuyện phi thường. Bác đàn ông người Ligia vừa nhẫn nhục và sẵn sàng chờ chết kia, khi trông thấy công chúa của bác trên cặp sừng con thú dữ, bật ngay dậy như phải bỏng và cắm đầu chạy tắt ngang đón đầu con vật đang nổi cơn điên.
                      Tất cả các lồng ngực đều bật ra một tiếng kêu kinh ngạc, rồi sau đó im phăng phắc. Trong khi ấy, chỉ trong nháy mắt, người đàn ông Ligia đã xông vào tóm chặt đôi sừng con bò tót đang lồng lên.
                      - Nhìn kìa! - Ông Petronius kêu lên, giật phăng tà áo toga ra khỏi đầu Vinixius.
                      Chàng chồm dậy, ngả về sau khuôn mặt nhợt nhạt như màu vải mộc của mình và nhìn lên đầu trường với một cái nhìn như bằng thủy tinh không hồn.
                      Tất cả các lồng ngực ngừng thở. Trong nhà hát có thể nghe cả tiếng một con ruồi bay ngang qua. Người ta không còn tin vào mắt mình nữa. Roma mặc Roma, chứ chưa bao giờ người ta trông thấy cảnh tượng giống thế này.
                      Người đàn ông Ligi vẫn ghì chặt lấy sừng con vật. Chân bác ngập trong cát đến trên mắt cá, lưng bác gồng lên như một dây cung đã căng hết mức, đầu bác chìm giữa hai ụ vai, những bắp thịt nổi cuồn cuộn trên hai cánh tay đến mức làn da như sắp bị toạc ra dưới sức căng của chúng, song bác đã ghìm được con bò tót đứng im một chỗ. Cả người lẫn vật đều đứng im bất động, khiến những người đang nhìn ngỡ như họ đang trông thấy một bức tranh diễn tả chiến công của dũng sĩ Herkulex hay chàng Tezeux, hoặc một nhóm tạc tượng bằng đá. Nhưng trong thế đứng yên ấy có thể thấy rõ sự căng thẳng đến kinh khủng của hai sức mạnh ấy đang chọi nhau. Con bò tót, cũng giống như người, chân ngập sâu vào cát, thân mình đầy lông lá bờm xờm màu tối sẫm của nó co cuộn lại trông giống như một quả cầu khổng lồ. Kẻ nào sẽ kiệt sức trước đây, kẻ nào sẽ gục ngã trước đây - đó là câu hỏi mà vào giây phút này đối với những khán giả say mê những trận đấu kia còn quan trọng hơn chính số phận của họ, quan trọng hơn toàn bộ La Mã cùng sự thống trị của nó đối với toàn thế giới. Người đàn ông Ligi kia đối với họ giờ đây là một vị nửa thần thánh đáng thờ kính và tạc tượng. Chính hoàng đế cũng đứng dậy. Khi nghe kể về sức lực của con người này, ngài cùng với Tygelinux đã cố sắp đặt cảnh chiến đấu kia và giễu cợt bảo nhau: "Hãy để cho kẻ đã giết chết Kronton chiến thắng con bò tót mà chúng ta đã chọn cho hắn". Giờ đây cả hai bàng hoàng nhìn bức tranh đang bày ra trước mắt, dường như không thể tin được rằng đó lại là sự thật. Trong nhà hát có thể thấy những người giơ cả hai tay lên trời rồi cứ để nguyên trong tư thế ấy. Mồ hôi ướt đẫm trên vừng trán những người khác, dường như chính họ đang ghìm nhau với con vật. Cả hý trường chỉ còn nghe tiếng réo phù phù của ngọn lửa trong các đèn thắp sáng và tiếng xào xạc khe khẽ của những tro than rơi từ những bó đuốc. Tiếng nói chết lặng trên môi khán giả, trái tim họ đập trong ngực như muốn phá bung nó ra. Tất thẩy mọi người ngỡ rằng cuộc chiến đấu này kéo dài hàng thế kỷ.
                      Còn người và vật cứ đứng như thế trong một sự gắng sức kinh khủng, dường như cả hai đều bị chôn chặt vào đất vậy.
                      Đột nhiên một tiếng trống trầm đục tự như tiếng rên rỉ bật lên từ đấu trường, tiếp theo là một tiếng kêu bật ra từ tất cả mọi lồng ngực, rồi im lặng hoàn toàn. Người ta ngỡ như đang nằm mơ, vì kia cái đầu quái đản của con bò tót bắt đầu xoay dần đi trong hai cánh tay thép của người dân man dã.
                      Cả mặt, cả cái cổ và đôi vai của người đàn ông Ligi đỏ tía như màu lụa tím, lưng bác cong cồng lại hơn nữa. Rõ ràng bác đang thu nốt chút sức cuối cùng trong cái sức mạnh siêu nhiên của mình, nhưng sức lực ấy chẳng còn kéo dài được bao lâu nữa.
                      Tiếng rống của con bò tót mỗi lúc một trầm đục hơn, khàn khàn hơn và đau đớn hơn, hòa với tiếng thở như rít lên của lồng ngực người khổng lồ. Đầu con vật mỗi lúc một thêm vặn đi, từ mồm nó thè ra chiếc lưỡi dài đầy bọt.
                      Một lúc sau, vọng tới tai những khán giả ngồi gần như có tiếng xương bị bẻ gẫy, rồi con vật đổ lăn ra đất với cái cổ bị vặn gẫy.
                      Khi ấy, người khổng lồ trong nháy mắt tháo sợi dây thừng ra khỏi đôi sừng của nó và đỡ lấy nàng trinh nữ trên tay, bác bắt đầu thở dốc.
                      Mặt bác tái nhợt, tóc dính bết mồ hôi, cổ và vai ướt rượt như bị té nước. Bác đứng một lúc như nửa tỉnh nửa mê rồi sau đó ngước mắt lên nhìn công chúng.
                      Nhà hát như hóa điên.
                      Những bức tường của tòa nhà bắt đầu rung lên bởi tiếng gào thét của hàng vài chục nghìn người xem. Từ khi bắt đầu các cuộc thi đấu, người ta chưa từng thấy nhiệt tình như thế bao giờ. Những người ngồi ở các hàng ghế trên rời bỏ ghế của mình để len xuống dưới, chen chúc nhau ở những lối đi giữa các ghế ngồi để được ngắm gần hơn nữa chàng lực sĩ. Khắp nơi rền vang những giọng nói say sưa, bưởng bỉnh đòi tha cho bác, những tiếng nói này nhanh chóng chuyển thành một tiếng kêu đồng thanh. Người khổng lồ ấy đã trở thành một kẻ thân yêu và là nhân vật số một của Roma đối với đám dân chúng vốn chuộng sức mạnh cơ bắp kia.
                      Bác cũng hiểu được rằng đám đông đang đòi người ta tha chết và trả lại tự do cho bác, nhưng rõ ràng bác không chỉ lo cho bản thân mình. Bác nhìn quanh một lúc, rồi tiến lại gần bục hoàng đế ngồi và vừa lắc lư thân thể cô gái trên đôi cánh tay vươn ra, bác vừa ngước mắt đầy những lời cầu khẩn van lơn, dường như bác muốn nói:
                      - Xin các người hãy rủ lòng thương nàng với! Xin hãy cứu lấy nàng! Tôi làm điều ấy chính vì nàng!
                      Khản giả hiểu rất rõ điều bác yêu cầu. Cảnh tượng cô gái đang ngất trông như một đứa trẻ con bên cạnh thân hình lực lường của người đàn ông Ligi đã khiến cho đám đông xúc động, ngay cả các vị hiệp sĩ và nguyên lão. Thân hình nhỏ bé của nàng, trắng như một dải lụa, sự ngất xỉu của nàng, nỗi nguy hiểm kinh khủng mà bác khổng lồ kia vừa cứu nàng thoát khỏi và cuối cùng là sắc đẹp của nàng cùng sự gắn bó của bác đã rung động những trái tim. Một số người nghĩ rằng đó là người cha đang cầu xin lòng thương xót cho con mình. Tình thương bỗng bùng lên như ngọn lửa. Người ta đã quá chán ngán máu, chết chóc và những cực hình. Những tiếng nói nghẹn ngào nước mắt bắt đầu kêu lên xin tha cho cả hai người.
                      Trong khi ấy bác Urxux đi vòng quanh đấu trường và vừa đu đưa cô gái trên đôi cánh tay, bác cầu khẩn mạng sống cho cô gái bằng cử chỉ và ánh mắt. Vinixius đột ngột bật lên khỏi chỗ ngồi, nhảy vọt qua hàng rào ngăn cách những chỗ ngồi đầu tiên với đấu trường, chạy đến bên Ligia và dùng manh áo toga che cho tấm thân lõa lồ của nàng.
                      Rồi chàng xé toạc chiếc áo tunica trên ngực, phô ra các vết sẹo còn lưu lại sau những vết thương mà chàng đã chịu đựng trong cuộc chiến tranh Acmenia và chàng chìa hai tay cho dân chúng.
                      Khi ấy nỗi nhiệt tính của đám đông vượt hết mọi khuôn khổ mà người ta thường gặp trong các nhà hát. Đám tiện dân bắt đầu dẫm chân và hú lên. Những tiếng đòi tha biến thành lời đe dọa. Dân chúng đã ủng hộ không chỉ người lực sĩ mà đứng ra bảo vệ cả nàng trinh nữ, chàng chiến sĩ và tình yêu của họ. Hàng nghìn khán giả quay về phía hoàng đế với những ánh giận dữ lóe lên trong mắt và những cái nắm tay xiết chặt. Hoàng đế vẫn do dự và lần chần. Thực ra, ngài không căm ghét gì Vinixius và cũng chẳng lợi lộc gì trong cái chết của Ligia, nhưng ngài muốn được trông thấy thi thể cô gái bị đôi sừng của con bò tót xuyên thủng qua, hay bị xé nát bởi nanh vuốt của thú dữ. Cá tính dã man, cùng trí tưởng tượng đồi bại và những nỗi khát khao đồi bại của ngài tìm được một nỗi khoái lạc nào đó trong những cảnh tượng như thế. Nghĩ thế, cơn giận chợt hiện ra trên bộ mặt đã phát phì của ngài. Lòng tự ái không cho phép chiều theo ý muốn của công chúng, đồng thơi do tính hèn nhát bẩm sinh ngài cũng không dám cưỡng lại ý muốn ấy.
                      Cho nên ngài bắt đầu đưa mắt nhìn xem chí ít trong đám cận thần có thấy một ngón tay nào quay ngược xuống đất ra dấu chết chóc hay chăng. Nhưng ông Petronius giữ bàn tay hướng lên trên, hơn nữa ông nhìn thẳng vào mặt ngài như thách thức. Vextynux mê tín nhưng lại ngả theo những nhiệt tình, kẻ sợ ma quỷ nhưng lại không sợ con người, cũng đang ra hiệu tha thứ. Nguyên lão nghị viên Vinixius cũng thế, chàng Nerva cũng thế, Tulius Xexenio cũng thế, vị thủ lĩnh tuổi tác và lừng danh Oxtorius Xkapula cũng thế, cùng thế cả Kryxpinux, cả Minuxius Termux, cả Ponxius Telezynux và cả Trazeas người nghiêm trang nhất và được dân chúng thành kính cũng thế. Nhìn cảnh ấy, hoàng đế bỏ viên bích ngọc ra khỏi mắt với vẻ khinh mạn và bị xúc phạm, còn Tygelinux, kẻ chỉ muốn chơi khăm vì căm ghét ông Petronius, cúi xuống và nói:
                      - Tâu thánh thượng, xin người chớ lùi bước, chúng ta còn có quân cấm vệ kia mà!
                      Nerô bèn quay về phía Xubrius Flavius, viên chỉ huy cấm binh, người vốn hà khắc và trung thành với ngài hết lòng, và ngài trông thấy một chuyện lạ lùng. Nét mặt của viên hộ dân quan tuổi tác trông dữ tợn, nhưng lại chan chứa nước mắt và bàn tay ông giơ lên trời ra dấu tha thứ.
                      Trong khi đó những đám đông bắt đầu nổi cáu. Bụi bốc lên mù mịt dưới những gót chân đang dẫm mạnh, che mờ cả nhà hát. Giữa những tiếng kêu, vang lên giọng thét: "Ahenobarbux! Thằng giết mẹ! Kẻ đốt nhà!".
                      Nerô hoảng hồn. Trong hý trường dân chúng là người chủ toàn quyền. Những vị hoàng đế tiền nhiệm, đặc biệt là Kaligula, thỉnh thoảng cũng tự cho phép mình đi ngược lại ý muốn của dân chúng, nhưng điều ấy bao giờ cũng gây nên bạo động, thậm chí dẫn tới đổ máu. Song Nerô đang ở trong một tình thế khác hẳn. Trước hết, vốn là một diễn viên và ca sĩ, ngài cần được lòng dân chúng, thứ hai, ngài muốn dân chúng đứng về phía ngài chống lại nguyên lão viện và giới quý tộc, và sau nữa, sau vụ đốt cháy thành Roma, ngài đang cố tìm mọi cách để thu phục lòng dân và hướng cơn giận của dân chống lại tín đồ Thiên Chúa giáo. Rốt cuộc, ngài hiểu rằng cưỡng lại lâu hơn nữa có thể sẽ nguy hiểm. Cuộc bạo động khởi đầu trong hý trường có thể lẩn toàn thành phố và kéo theo những hậu quả không lường trước được.
                      Ngài còn đưa mắt nhìn viên Xenturion Xubrius Flavius một lần nữa, nhìn Xevinux, vị nguyên lão có họ với ngài, nhìn binh lính và khi trông thấy khắp nơi là những hàng lông mày cau lại, những nét mặt xúc động và những cặp mắt đang dán chặt vào ngài, ngài làm dấu hiệu tha thứ.
                      Khi ấy, một tràng sấm hoan hô vang động từ trên xuống dưới. Dân chúng tin chắc rằng những tội nhân kia sẽ được sống, vì từ lúc này trở đi, họ đã được dân chúng bảo trợ và ngay cả hoàng đế cũng không dám truy đuổi họ lâu hơn nữa với sự thù hằn của ngài.
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #71
                        T2 - Chương 67

                        Bốn người Bitvni thận trọng khiêng Ligia về nhà ông Petronius, Vinixius và bác Urxux đi bên cạnh, vội vã để có thể nhanh chóng giao nàng cho vị lương y người Hy Lạp. Họ bước đi trong im lặng, vì sau những điều đã phải trải qua ngày hôm ấy, họ không thể cất thành lời. Cho đến lúc này, Vinixius vẫn như nửa tỉnh nửa mê. Chàng lặp lại với mình rằng Ligia đã được cứu sống, không còn đe dọa nàng cả ngục tù lẫn cái chết trong hý trường, rằng nỗi bất hạnh của họ đã kết thúc vĩnh viễn, rằng chàng đang mang nàng về nhà để không bao giờ chịu cách chia nữa. Và chàng ngỡ như đó là sự bắt đầu một cuộc sống nào khác chứ không phải là thực tại. Chốc chốc chàng lại cúi người xuống chiếc kiệu để hở ngắm nhìn khuôn mặt yêu dấu dường như đang ngủ trong ánh trăng và chàng tự lặp lại trong ý nghĩ: "Đó là nàng! Chúa Crixtux đã cứu nàng!". Chàng cũng nhớ lại rằng một vị thầy thuốc không quen biết nào đó đã bước vào gian nhà chứa xác nơi chàng và bác Urxux mang Ligia vào, ông cam đoan với chàng rằng cô gái vẫn còn sống và sẽ sống. Nghĩ tới điều ấy, niềm vui tưng bừng lồng ngực chàng, đến nỗi chốc chốc, chàng thấy người yếu hẳn đi, phải tựa vào vai bác Urxux, không thể tự bước đi. Còn bác Urxux nhìn lên bầu trời đầy đặc sao và cầu nguyện.
                        Họ đi vội vã giữa những đường phố, nơi những ngôi nhà màu trắng mới dựng lên đang sáng rõ trong toán nhỏ người quấn dây thường xuân, hát và múa trước các hàng cột, trong tiếng sáo, tranh thủ một đêm tuyệt vời và dịp lễ kéo dài từ đầu các cuộc hội thi đến nay. Mãi cho tới khi đã về tới gần nhà, bác Urxux mới thôi cầu nguyện và nói khẽ như sợ đánh thức Ligia:
                        - Thưa ngài, chính Đấng Cứu Thế đã cứu nàng thoát chết. Khi tôi trông thấy nàng trên cặp sừng bò tót, tôi chợt nghe trong lòng một tiếng nói: "Hãy bảo vệ nàng!" và đó chính là tiếng của con chiên. Ngục tù đã gặm mòn sức khỏe tôi, nhưng Người đã trả lại sức cho tôi trong giờ phút ấy mà và chính Người đã khiến đám dân chúng hạ tàn kia phải xúc động để bênh vực nàng. Xin ý chí của Người được thực hiện!
                        Vinixius đáp:
                        - Cầu cho tên của Người được hằng thành kính!...
                        Nhưng chàng không thể nói được gì hơn, vì bỗng nhiên chàng cảm thấy một cơn khóc dâng tràn trong ngực. Chàng có một ý muốn không sao kìm hãm nổi là lăn ra đất và tạ ơn Đấng Cứu Thế lòng lành đã ban cho điều kỳ diệu kia.
                        Trong khi đó họ đã về tới nhà. Được một tên nô lệ cử về báo trước, gia nhân kéo cả ra đón họ. Hồi ở Anxium, ông Paven xứ Tarxu đã cải đạo cho phần lớn những người này. Họ biết rõ những nỗi bất hạnh của Vinixius nên niềm vui của họ thật vô biên khi nhìn thấy những nạn nhân được giằng khỏi sự dữ của Nerô, niềm vui càng lớn thêm lên khi lương y Teoklex sau khi thăm bệnh cho Ligia đã nói rằng nàng không bị thương tích gì đáng kể và lúc cơn yếu mệt còn lại sau trận sốt trong tù qua đi, nàng sẽ khỏe lại.
                        Ngay trong đêm hôm ấy nàng tỉnh lại. Thức tỉnh trong một phòng ngủ tuyệt vời được những chiếc đèn xứ Kotynơ chiếu sáng, trong hương mã tiên thảo, nàng không biết mình đang ở đâu và có chuyện gì đang xẩy ra với nàng. Nàng chỉ còn nhớ lúc chúng buộc nàng vào sừng con bò tót bị quàng xích sắt, còn giờ đây nàng trông thấy mặt Vinixius đang ở trên đầu, được ánh sáng có màu sắc dịu dàng soi rọi, nàng nghĩ rằng có lẽ họ không còn trên mặt đất nữa. Nhưng ý nghĩ còn hỗn độn trong bộ óc hãy đang yếu của nàng, nàng ngỡ rằng chắc là cả hai đang dừng lại nghỉ đâu đó trên đường lên trời vì nàng yếu và mệt. Song không cảm thấy đau đớn, nàng mỉm cười với Vinixius và muốn hỏi chàng xem họ đang ở đâu, nhưng từ môi nàng chỉ thoát ra một lời thì thầm khe khẽ mà cố lắm Vinixius mới có thể nhận ra được tên chàng.
                        Chàng bèn quỳ xuống bên nàng, nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nàng và nói:
                        - Đức Chúa Crixtux đã cứu thoát nàng và trả về cho tôi!
                        Đôi môi nàng lại thều thào một lời thì thầm không sao hiểu nổi, song lát sau mắt nàng nhắm lại, ngực nàng thở ra một hơi nhè nhẹ rồi chìm vào một giấc ngủ say sưa mà ông Teoklex đang chờ, giấc ngủ mà theo ông nói thì sau đó nàng sẽ khỏe lại.
                        Vinixius còn quỳ mãi bên nàng đắm chìm trong cầu nguyện. Linh hồn chàng tan ra trong một tình yêu vô biên, khiến chàng quên đi tất thẩy. Ông Teoklex vài lần bước vào buồng ngủ, mái đầu tóc vàng của nàng Eunixe hiện ra mấy lần từ sau chiếc rèm được hé, cuối cùng lũ sếu được nuôi trong vườn bắt đầu kêu lên báo hiệu một ngày mới đến, nhưng chàng vẫn còn đang ôm chân Đức Chúa Crixtux trong tâm tưởng, không nghe và không thấy những gì đa diễn ra chung quanh, với con tin đã biến thành một ngọn lửa tận hiển đầy hàm ơn, say sưa trong lòng ngưỡng mộ, khiến chàng còn sống mà như đã được lên trời nửa phần.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #72
                          T2 - Chương 68

                          Sau khi Ligia được giải thoát, không muốn làm Hoàng đế thêm chạm nọc, ông Petronius đi cùng với ngài và các cận thần khác lên đồi Palatyn. Ông muốn nghe xem họ sẽ nói những gì ở đấy, nhất là muốn biết xem Tygelinux có nghĩ ra cách gì mới để hại cô gái nữa chăng. Thực ra cả nàng lẫn bác Urxux đều đang được dân chúng bảo trợ và không kẻ nào giờ đây có thể vung tay lên đánh họ mà không gây nên những cơn bạo động, tuy nhiên, vốn hiểu rõ sự hằn học mà viên tổng quản toàn quyền của quân cấm vệ dành cho ông, nên Petronius nghĩ rằng, vì không thể chạm nổi đến ông, tên này sẽ cố tìm mọi cách trả thù cháu ông.
                          Nerô giận dữ và cáu kỉnh, vì buổi diễn đã kết thúc mà hoàn toàn khác với điều ngài mong muốn. Thoạt tiên, ngài hoàn toàn không thèm nhìn ông Petronius, nhưng ông không bị mất bình tĩnh, tiến lại bên ngài với sự thoải mái hoàn toàn của vị arbiter elegantiarum, ông nói với ngài:
                          - Tâu Thánh thượng, Người có biết thần vừa chợt nghĩ ra điều gì chăng? Người hãy viết một bài ca về nàng trinh nữ mà lệnh của vị chúa tể thế giới đã cứu thoát khỏi đôi sừng con bò tót hoang dã, để trả về với người nàng yêu. Dân Hi Lạp vốn có những trái tim nhạy cảm và thần đoán rằng một bài ca như thế sẽ hoàn toàn chinh phục bọn chúng.
                          Mặc dù đang cáu, nhưng cái ý nghĩ kia thật hợp với gu Nerô, mà lại hợp những hai lần: trước hết, với tư cách một đề tài cho bài ca, sau nữa, ngài có thể tự ca ngợi mình trong bài ca đó như một vị chúa tể đầy đại lượng của thế gian. Ngài bèn nhìn ông Petronius hồi lâu rồi nói:
                          - Phải đấy! Có thể ngươi nói có lý! Nhưng ta ca hát về lòng tốt của mình có được chăng?
                          - Hoàng thượng không cần nêu tên. Vì mọi người ở Roma đều đoán được nói về ai, mà từ Roma tin tức sẽ lan truyền khắp thế giới.
                          - Và ngươi chắc là cái đó sẽ được ưa chuộng ở Akhai chứ?
                          - Thề có Ponlukx! - ông Petronius kêu lên.
                          Và ông hài lòng lui bước, vì giờ đây ông tin chắc rằng Nerô, kẻ mà cả cuộc đời chỉ là một sự vận dụng thực tế vào những ý đồ văn học, sẽ không muốn làm hỏng mất chủ đề, chính điều ấy sẽ trói tay Tygelinux. Tuy nhiên, điều đó không khiến ông thay đổi ý định sẽ bảo Vinixius rời khỏi Roma ngay sau khi sức khoẻ Ligia không còn là trở ngại. Vậy nên ngày hôm sau, khi trông thấy chàng, ông nói:
                          - Anh hãy mang nàng ra Xyxilia. Đã xảy ra một chuyện khiến cho về phía Hoàng đế sẽ không có điều gì đe doạ anh chị, nhưng gã Tygelinux vẫn sẵn sàng dùng tới thuốc độc như thường, nếu không phải vì căm ghét anh chị, thì cũng vì thù tôi.
                          Vinixius mỉm cười và đáp:
                          - Nàng đã từng nằm trên sừng bò tót, vậy mà Đức Chúa Crixtux vẫn cứu được nàng.
                          - Vậy thì hãy cứ dâng lễ vật cho ông ta, - ông Petronius đáp với một thoáng sốt ruột, - nhưng chớ có bắt ông ấy phải cứu nàng lần nữa… Anh có nhớ thần gió Eon đã đón tiếp chàng Ôđyxeus ra sao khi chàng quay lại cầu xin thần làm gió thuận một lần nữa? Các vị thần thường không ưa chuyện lặp lại đâu.
                          - Một khi nàng khoẻ lại, - Vinixius đáp, - cháu sẽ mang nàng về với bà Pomponia Grexyna.
                          - Và anh làm như thế càng phải lắm, vì bà Pomponia đang ốm. Antyxtius, người có họ với ông Aulux, vừa cho cậu hay tin ấy. Còn nơi đây sẽ diễn ra những chuyện khiến cho người ta quên bẵng anh chị, mà ở thời buổi này, hạnh phúc nhất là những kẻ bị người ta quên lãng. Cầu thần tài Fortuna sẽ là vầng dương trong ngày đông, sẽ là bóng mát trong tháng hạ với anh chị.
                          Nói đoạn, ông để Vinixius ở lại với niềm hạnh phúc của chàng, còn ông đến gặp Teoklex để tìm hiểu về sức khoẻ và sự sống của Ligia.
                          Nhưng nàng không còn bị mối nguy đe doạ nữa. Nếu như ở trong hầm giam, trong cơn kiệt sức sau khi bị bệnh sốt nhà tù, nàng chắc sẽ bị bầu không khí thối rữa và sự thiếu tiện nghi giết chết, nhưng giờ đây nàng được vây trong một sự săn sóc ân cần nhất, không những chỉ đủ mà còn xa hoa nữa. Theo lệnh ông Teoklex, sau hai ngày, nàng bắt đầu được mang ra khu vườn vây quanh biệt thự và nghỉ ngơi ở đó hàng giờ liền. Vinixius trang trí kiệu của nàng bằng hoa thu mẫu đơn, và nhất là bằng hoa diên vĩ, để khiến nàng hồi tưởng lại gian chính sảnh nhà ông Aulux. Nhiều lần, ẩn mình trong bóng mát của đám cây cối um tùm, họ trò chuyện cùng nhau, tay trong tay, về những nỗi đau đớn và nỗi lo sợ ngày xưa. Ligia nói chàng hay rằng chính Đức Chúa Crixtux đã cố ý dắt chàng đi qua nỗi đau khổ để biến đổi tâm linh chàng và nâng chàng lên gần với Người, chàng cảm thấy điều ấy quả đúng như thế, trong lòng chàng không còn giữ lại chút gì của con người quý tộc xưa kia, kẻ không thừa nhận một thứ luật lệ nào khác ngoài những ham muốn của bản thân. Nhưng trong những câu chuyện ôn lại ấy không hề có chút gì cay đắng. Cả hai cảm thấy dường như bao năm tháng đã tràn qua đầu họ và cái quá khứ kinh khủng kia đã nằm lại xa tít phía sau lưng. Còn giờ đây, vây quanh họ là sự yên bình mà họ chưa từng bao giờ được hưởng. Một cuộc đời mới nào đó, đầy say đắm đang tiến đến với họ, cuốn họ vào với mình. Ở Roma, Hoàng đế có thể cứ điên khùng và khiến cho thế giới phải kinh hãi, nhưng còn họ, cảm thấy trên đầu có một nguồn bảo trợ trăm lần hùng mạnh hơn, họ không còn sợ sự dữ cùng những cơn điên loạn của y, dường như y không còn là chúa tể nắm giữ mạng sống và cái chết của họ. Một lần, vào lúc hoàng hôn, họ nghe tiếng rống của sư tử và các loài dã thú khác từ phía xa vọng lại. Hồi trước, những thanh âm kia đã từng khiến cho Vinixius hãi hùng như thể nghe một điềm báo gở. Giờ đây cả hai nhìn nhau mỉm cười, rồi họ cùng ngước mắt nhìn lên ánh ráng chiều. Thỉnh thoảng Ligia - hãy còn rất yếu và chưa thể tự đi lại - ngủ thiếp đi trong sự thanh tĩnh của khu vườn, còn chàng ngồi thức canh cho nàng, và ngắm khuôn mặt đang ngủ say sưa của nàng, bất giác chàng nghĩ rằng đó không còn là nàng Ligia mà chàng đã từng gặp ở nhà ông bà Aulux nữa. Ngục tù và bệnh tật đã làm tắt đi một phần vẻ đẹp của nàng. Lúc chàng gặp nàng ở nhà ông bà Aulux và khi chàng tới nhà bà Miriam để cướp lại nàng, nàng xinh đẹp như một pho tượng và như một đoá hoa; giờ đây nét mặt nàng gần như hoá thành trong suốt, tay nàng gầy guộc, thân mình nàng nhỏ bé lại do bệnh tật, môi nàng nhợt đi và mắt hình như cũng có vẻ kém thẳm xanh hơn hồi trước. Nàng Eunixe tóc vàng, người thường mang hoa tới cho nàng và những tấm vải quý để nàng ủ chân, trông cứ như một nữ thần đảo Sip khi ở bên nàng vậy. Nhà duy mỹ Petronius hoài công cố tìm ở nàng vẻ hấp dẫn xưa kia, và ông nhún vai nghĩ thầm, rằng cái bóng trở về từ những cánh đồng Elizei kia không xứng với ngần ấy những lo toan, những nỗi đau và khổ hình, chút nữa đã hút cạn sức sống của Vinixius. Nhưng chàng Vinixius, người mà giờ đây yêu tâm hồn của nàng, lại càng yêu thương nàng hơn, và những khi thức canh cho nàng ngủ, chàng ngỡ như mình đang thức canh cho toàn thế giới.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #73
                            T2 - Chương 69

                            Tin tức về sự cứu thoát Ligia một cách kỳ diệu nhanh chóng loan ra trong những người Thiên chúa giáo còn sót lại, cho tới nay vẫn tránh được cuộc khủng bố. Tín đồ bắt đầu lui tới đển ngắm nhìn nàng thiếu nữ đã được hưởng ân huệ hiển nhiên của Chúa Crixtux. Cậu bé Nazarius cùng bà Miriam là những người đến đầu tiên, cho tới nay Sứ đồ Piotr vẫn ẩn náu tại nhà họ, tiếp theo là những người khác nữa. Tất cả mọi người cùng với Vinixius, Ligia và những nô lệ là tín đồ Thiên chúa của ông Petronius chăm chú lắng nghe câu chuyện kể của bác Urxux về giọng nói cất lên trong tâm linh bác, ra lệnh cho bác phải chiến đấu với con vật hoang dã, và tất thẩy mọi người đều ra về với niềm cổ vũ và hi vọng rằng dù sao Đức Chúa Crixtux cũng không để cho người ta tiêu diệt đến người cuối cùng trong số tín đồ Thiên chúa, trước khi ngày phán xét kinh khủng kia tới. Và niềm hi vọng đã giữ vững trái tim cho họ, vì cho tới lúc này, cuộc khủng bố vẫn chưa ngừng. Chỉ cần dư luận công chúng báo một người nào đó là tín đồ Thiên chúa, thì ngay lập tức, người đó sẽ bị bọn vigin bắt giam vào nhà ngục. Thực ra số nạn nhân đã ít đi, vì nói chung các tín đồ đều đã bị bắt và bị hành hạ, số còn lại, hoặc đã rời khỏi Roma về các tỉnh trấn xa xôi chờ qua cơn bão tố, hoặc cố gắng tự giấu mình, không dám tụ tập lại để cầu nguyện cùng nhau tại một nơi nào khác ngoài các đấu trường nằm bên ngoài thành phố. Tuy nhiên họ vẫn bị theo dõi, và mặc dù các hội đấu thực sự đã chấm dứt, người ta giam giữ họ chờ dịp tiếp theo hoặc xử ngay lập tức. Mặc dù dân chúng Roma không còn tin rằng những tín đồ Thiên chúa là thủ phạm vụ đốt cháy thành phố, nhưng người ta vẫn tuyên bố rằng bọn họ là kẻ thù của nhân loại cũng như của quốc gia và chỉ dụ chống lại họ vẫn còn giữ nguyên hiệu lực.
                            Rất lâu, Sứ đồ Piotr không dám xuất hiện ở nhà ông Petronius, cuối cùng một buổi tối kia, cậu bé Nazarius báo tin ông sẽ tới. Ligia đã tự đi được, cùng Vinixius chạy ra đón ông, họ cùng ôm lấy chân ông, còn ông chào họ càng cảm động hơn, bởi chẳng còn được mấy con chiên trong đàn chiên con mà Chúa Crixtux đã giao cho ông chăn dắt, đàn chiên mà giờ đây trái tim vĩ đại của ông đang than khóc cho số phận của họ. cho nên khi Vinixius thưa cùng ông: “Thưa cha! Chính nhờ cha mà Đấng cứu thế mới mang nàng trở về cho con đấy!” thì ông bèn đáp lại: “Người mang trả nàng về cho con vì lòng con hằng tin và để không lặng đi tất cả những đổi mới hằng gọi tên Người!” Và hẳn là khi ấy ông nghĩ tới hàng nghìn đứa con của mình đã bị thú dữ xé xác, nghĩ tới những cây thập ác chen chúc đầy chật bãi đấu trường, nghĩ tới những cột lửa trong các khu vườn “Dã thú”, bởi lẽ ông nói điều ấy dường như với một nỗi niềm thương tiếc bao la. Vinixius và Ligia cũng để ý thấy rằng tóc ông đã hoàn toàn bạc trắng, cả dáng người khom xuống, nét mặt biết bao buồn thương và chịu đựng, dường như chính ông đã trải qua những nỗi đau đớn và cực hình mà các nạn nhân của sự hung dữ và điên khùng của Nerô đã phải chịu đựng. Nhưng đôi trẻ đã hiểu được rằng khi mà chính Đức Chúa Crixtux tự mình dấn thân vào cực hình và cái chết, thì không một kẻ nào có thể tránh được. Tuy vậy, trái tim họ như bị cứa rách khi nhìn thấy đức Sứ đồ đang bị còng xuống dưới gánh nặng của tuổi tác, của cực nhọc và đau đớn. Vì vậy Vinixius, người định vài ngày nữa sẽ mang Ligia đi Neapolix, nơi họ sẽ được gặp bà Pomponia, rồi sau đó sẽ đi Xyxilia, bắt đầu cầu xin ông hãy cùng họ rời khỏi Roma.
                            Nhưng Sứ đồ đặt tay lên đầu chàng đáp lại:
                            - Ta đang nghe trong tâm linh lời của Chúa nói cùng ta trên hồ Tyberiad: “Khi ngươi còn trẻ, ngươi đi kiếm ăn và chu du bất cứ nơi nào ngươi muốn, nhưng một khi ngươi đã già, ngươi sẽ chìa hai bàn tay mình ra và kẻ khác sẽ cho ngươi ăn, dắt ngươi đi đến nơi nào ngươi không muốn”. Vậy nên ta phải đi theo đàn chiên của ta.
                            Và khi thấy họ im lặng không hiểu điều ông nói, ông bèn thêm:
                            - Nỗi nhọc nhằn của ta sắp hết, nhưng ta sẽ chỉ được hưởng lòng mến khách và được nghỉ ngơi trong nhà của Chúa mà thôi.
                            Rồi quay sang phía họ, ông nói: “Hãy nhớ tới ta, bởi ta hằng yêu mến các con, như người cha yêu thương những con trẻ của mình, và dù trong đời các con có làm điều gì, thì hãy làm vì sự ngợi ca Đức Chúa”.
                            Vừa nói ông vừa giơ hai bàn tay già nua run run của mình lên trên đầu họ ban phước cho cả hai, còn họ nép sát vào ông, cảm thấy rằng đây là lần cuối cùng họ được bàn tay ông ban phước.
                            Tuy nhiên, định mệnh còn cho họ được gặp ông một lần nữa. Vài ngày sau đó, ông Petronius mang về từ Palatyn những tin dữ. Người ta phát hiện ra rằng một nô lệ giải phóng của chính Hoàng đế là tín đồ Thiên chúa và tìm thấy ở chỗ anh ta những bức thư của các Sứ đồ Piotr và Paven xứ Tarxu, cùng những thư từ của Jakup, Juđa và Jan. Trước đó, Tygelinux cũng đã được biết rằng Sứ đồ Piotr đến Roma, nhưng hắn nghĩ rằng ông đã bị thiệt mạng cùng với hàng nghìn tín đồ khác. Giờ đây mới vỡ lẽ rằng hai vị thủ lĩnh của giáo phái mới vẫn đang còn sống và đang có mặt tại thành đô, người ta bèn quyết định sẽ tìm ra họ và bắt bằng được họ, dù phải trả bằng mọi giá, bởi người ta cho rằng chỉ khi nào trừ khử được họ mới có thể tróc sạch những cội rễ cuối cùng của thứ đạo bị căm ghét kia. Ông Petronius nghe Vextynux nói rằng đích thân Hoàng đế ra lệnh là trong vòng ba ngày ông Piotr và ông Paven xứ Tarxu phải bị nhốt vào nhà ngục Marmetyn, và người ta đã phái đi những đơn vị cấm binh để sục tung tất cả các ngôi nhà ở khu Zatybre.
                            Nghe tin ấy, Vinixius quyết định đến báo trước cho Sứ đồ. Tối đến, cùng với bác Urxux, chàng khoác chiếc áo choàng xứ Gan che kín mặt, đi tới nhà bà Miriam, nơi ông Piotr thường lui tới, nằm ở tận rìa ngoài cùng của phần thành phố thuộc khu Zatybre, dưới chân đồi Janykun. Dọc đường, họ trông thấy những ngôi nhà bị binh lính vây kín, bọn lính được những kẻ nào đó không quen mặt dẫn đi. Khu phố náo động, đôi chỗ tụ tập những đám đông người tò mò. Đây đó, những viên xenturion tra hỏi các tù nhân bị bắt về ông Piotr Xymeon và ông Paven xứ Tarxu.
                            Tuy nhiên, Vinixius và bác Urxux vẫn đến trước bọn lính và may mắn tới được nhà bà Miriam; họ gặp tại đó ông Piotr, có một đám nhỏ tín đồ vây quanh, Tymoteus, trợ thủ của ông Paven xứ Tarxu và ông Linux cũng có mặt bên đức Sứ đồ.
                            Nghe tin nỗi nguy đang đến gần, Nazarius dẫn mọi người theo một lối đi bí mật ra tới cổng vườn, rồi sau đó tới những mỏ đá đã bị bỏ không, chỉ cách cổng thành Janykun chừng vài trăm bước. Bác Urxux phải bế ông Linux đi, bởi những chiếc xương bị gẫy khi chịu đòn tra tấn cho đến nay vẫn chưa liền lại được. Nhưng một khi đã vào tới hang ngầm, họ lại cảm thấy được an toàn, và trong ánh đèn cầy mà cậu bé Nazarius châm lên, họ bắt đầu bàn bạc khe khẽ, tìm cách cứu lấy mạng sống của vị Sứ đồ vô cùng quý giá đối với họ.
                            - Thưa cha, - Vinixius bảo ông, - xin hãy để Nazarius rạng sáng mai đưa cha rời thành phố vào dãy núi Anban. Ở đó con sẽ tìm cha và đưa cha tới Anxium, nơi đang có một chiếc tàu chờ sẵn để chở chúng con tới Neapolix rồi Xyxilia. Hạnh phúc thay cái ngày và cái giờ phút cha bước vào nhà con và ban phước cho bếp lửa chúng con.
                            Những người khác vui sướng nghe chàng nói, và họ năn nỉ đức Sứ đồ, họ nói:
                            - Hỡi người chăn chúng con, xin Người hãy trốn tránh đi, bởi Người không thể nào ở lại Roma được nữa. Xin hãy cất giấu cái chân lý hằng sống để nó khỏi mất đi cùng với chúng con và Người. Xin hãy chấp thuận lời chúng con, những kẻ đang cầu khẩn Người như một người cha.
                            - Xin Người hãy làm điều đó, nhân danh Chúa Crixtux! - những người khác cũng vừa kêu lên vừa níu lấy tà áo ông.
                            Ông đáp lại:
                            - Các con ta! Ai biết được khi nào Đức Chúa vạch đường chấm dứt cuộc đời.
                            Nhưng ông cũng không nói rằng sẽ không rời Roma, vì chính ông cũng phân vân không biết nên làm gì, khi mà đã từ lâu len vào tâm hồn ông nỗi phấp phỏng, thậm chí cả nỗi lo âu. Đàn chiên của ông đã bị tan tác, sự nghiệp đã bị phá nát. Trước đám cháy thành phố, nhà thờ phát triển như một cái cây tuyệt vời, thế mà bạo lực của “Dã thú” đã biến nó thành tro bụi. Không còn gì cả trừ nước mắt, không còn gì cả trừ những hồi ức, trừ nhục hình và chết chóc. Mùa gieo hạt đã cho vụ lúa tốt tươi, nhưng quỷ Sa tăng đã chà đạp nó xuống đất. Hàng đoàn thiên sứ đã không xuống cứu giúp những người hấp hối, và kia Nerô vẫn đang ngồi ngang nhiên trong sự ngợi ca trên thế gian, còn kinh khủng và hùng mạnh hơn bao giờ hết, chúa tể của tất thẩy biển cả và đất liền. Hơn một lần, người lão ngư thánh thiện, trong nỗi cô đơn, đã chìa tay lên trời mà hỏi: “Chúa ơi! Tôi biết làm gì đây? Làm sao tôi trụ được? làm sao một lão già kiệt sức như tôi có thể chống nổi cái sức mạnh vô biên kia của Sự Dữ mà Người đã cho phép nó nắm quyền thống trị và chiến thắng?”
                            Và cứ yêu cầu như thế từ chốn sâu thẳm của nỗi đau khốn cùng, ông tự nhủ lòng: “Người đâu còn đàn chiên con mà Chúa đã bảo tôi chăn dắt, đâu còn nhà thờ của Người, trống trải và tang thương ở cái thủ đô của Người, vậy giờ đây Người bảo tôi phải làm gì nữa? Tôi sẽ phải ở lại đây hay đưa dắt đàn chiên con còn sót lại trốn đến một miền xa xôi nào đó bên kia biển cả để âm thầm ca ngợi tên Người?”
                            Ông phân vân. Ông tin rằng chân lý chân lý đầy sức sống không thể chết và nhất định chiến thắng, nhưng đôi khi ông nghĩ rằng có thể chưa đến thời, thời sẽ đến khi nào Đức Chúa giáng thế xuống trái đất trong ngày phán xét, trong niềm vinh quang và sức mạnh trăm lần hùng hậu hơn sức mạnh của Nerô.
                            Ông thường cảm thấy rằng nếu ông rời Roma, những người trung thành sẽ đi theo ông, ông sẽ đưa họ tới tận những khu rừng gai góc của xứ Galilei, tới bờ nước thanh bình của biển Tyberiađ, đến với những người mục dân hiền hoà như đàn bồ câu hoặc như những con cừu mà chính họ chăm nơi ấy, giữa đám xương bồ và cam tùng. Và mỗi ngày, niềm mong muốn được yên tĩnh và nghỉ ngơi càng lớn lên, mỗi ngày niềm nhớ nhung cái hồi và vùng Galilei một tăng thêm chiếm lấy trái tim người đánh cá, mỗi ngày thường thêm nhiều giọt lệ chắt ra từ đôi mắt già nua.
                            Nhưng một khi đã lựa chọn xong, đột nhiên ông lại thấy lo lắng không yên. Làm sao ông có thể rời bỏ cái thành phố nơi ngần kia máu tử vì đạo đã ngấm sâu đến thế vào đất, nơi ngần kia đổi mới của những người đang chịu chết đã từng làm chứng cho chân lý? Lẽ nào mỗi mình ông trốn tránh điều ấy hay chăng? Ông biết nói gì cùng Chúa, khi nghe thấy những lời này: “Họ đã chết vì lòng tin của họ, còn ngươi thì lại chạy trốn.”
                            Ngày và đêm trôi đi với ông trong nỗi lo âu phiền não. Sau giây phút chịu cực hình, những người bị sư tử xé xác, những người bị đóng đinh lên thập tự, những người bị chết thiêu trong vườn Hoàng đế đều được ngủ yên trong Chúa, còn ông không thể nào chợp mắt, ông cảm thấy một nỗi cực hình lớn hơn tất cả những gì bọn đao phủ đã nghĩ ra cho các nạn nhân. Ánh rạng đông đã bắt đầu nhuộm trắng mái các ngôi nhà, mà ông hãy còn một lần nữa kêu lên từ chốn thẳm sâu của một trái tim đang chua xót:
                            - Chúa ơi, phải chăng không phải chính Người đã bảo tôi phải tới đây để dựng nên thủ đô của Người trong cái ổ Dã Thú này?
                            Suốt ba mươi tư năm ròng từ khi Chúa qua đời, ông không biết thế nào là nghỉ ngơi. Với chiếc gậy trong tay, ông đã đi khắp thế gian để thuật lại cái “tin lành” kia. Sức khoẻ của ông đã bị cạn kiệt đi trong những chuyến đi và những nỗi lao lung, và rốt cuộc, khi tại thành phố này, thành phố đầu não của thế giới, ông đã củng cố được công trình của Thầy, thì chỉ một hơi thở lửa của sự dữ đã thiêu trụi nó đi, để ông lại phải bắt đầu cuộc chiến đấu từ đầu. Mà cuộc chiến đấu thế nào kia chứ? Một bên là Hoàng đế, viện Nguyên lão, dân chúng, những chiến đoàn đang đóng vành đai sắt trên toàn thế giới, những thành quách nhiều không tính xuể, những đất nước nhiều không đếm xiết, thế lực mà mắt người chưa từng thấy; còn bên kia là ông, bị tuổi tác và lao lung đè trĩu đến nỗi đôi bàn tay run rẩy của ông chỉ còn đủ sức cầm chiếc gậy đi đường.
                            Vì vậy đôi khi ông tự nhủ rằng ông không phải là địch thủ của Hoàng đế La Mã, rằng sự nghiệp kia chỉ có chính Đức Chúa mới thực hiện nổi mà thôi.
                            Giờ đây, tất cả những ý nghĩ ấy lướt qua mái đầu đầy ưu tư của ông khi ông nghe những lời cầu khẩn của một nhúm tín đồ cuối cùng còn sót lại, còn họ vây quanh ông thành một vòng tròn mỗi lúc một chặt hơn, lặp đi lặp lại với giọng van lơn:
                            - Xin Người hãy trốn tránh đi, thưa rabbi, và đưa chúng con thoát khỏi bạo lực của Dã Thú.
                            Sau cùng, ông Linux cũng cúi xuống trước ông mái đầu mệt mỏi của mình:
                            - Thưa cha, - ông nói,- Đấng Cứu thế đã ra lệnh cho cha chăn dắt đàn chiên con của mình, nhưng ở đây không còn đàn chiên nữa, hoặc ngày mai sẽ không còn, vậy xin Cha hãy đi về những nơi nào có thể tìm ra đàn mới. Lời Chúa vẫn hằng sống ở Jeruzalem, ở Antiokhia, ở Eferơ và bao thành phố khác nữa. Còn ở lại Roma phỏng cha sẽ làm được thêm điều gì? Một khi Người ngã xuống sẽ chỉ càng làm cho chiến thắng của bọn Dã Thú lớn hơn mà thôi. Chúa đã không hạn định cuộc đời Sứ đồ Jan; Sứ đồ Paven là một công dân La Mã và người ta sẽ không thể xử tội ông ta nếu không lập toà án, nhưng thưa thầy, nếu như sức mạnh của địa ngục thắng Người, thì những kẻ đã ngã lòng sẽ hỏi: “Vậy thì còn ai mạnh hơn Nerô nữa chăng?”. Người là nền móng để dựng nên nhà thờ của Chúa. Hãy cho chúng tôi được chết, nhưng đừng cho một kẻ chống Chúa chiến thắng Đấng tổng quản thay mặt Chúa, và xin Cha chớ quay trở lại nơi này, trước khi Chúa chưa trị tội kẻ đã khiến máu vô tội phải đổ ra”.
                            - Xin Người hãy trông nước mắt chúng con! - Tất thẩy những người có mặt đều kêu lên
                            Lệ chảy ròng ròng trên mặt ông Piotr, nhưng lát sau ông ngẩng lên chìa tay ra trên đầu những người đang quỳ và nói:
                            - Cầu cho tên tuổi của Chúa được hằng thờ phụng, xin ý chí của Người được thực hiện.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #74
                              T1 - Chương 70

                              CHƯƠNG 70
                              Mờ sáng hôm sau, hai bóng đen di động trên đường cái Appia về phía đồng bằng Kampania.
                              Một trong hai người là cậu bé Nazarius, người kia là Sứ đồ Piotr đang rời khỏi Roma, rời những tín đồ đã quá đỗi mỏi mệt nơi đó. Phương đông, bầu trời đang phảng phất một sắc xanh lá mạ, bên dưới dần dần mỗi lúc một rõ hơn, nhuốm màu hoa kỵ phù lam. Từ trong bóng đêm nhô dần ra những cây cối với lá màu bạc, làn đá cẩm thạch trắng ngần của các toà biệt thự và vòm cung cong của những đường máng dẫn nước chạy vắt ngang qua bình nguyên về phía thành phố. Sắc xanh lục của bầu trời cứ rạng dần ra, mỗi lúc một ngả sang ánh vàng. Rồi rạng đông bắt đầu nhuộm hồng và soi sáng dẫy núi Anban đang phô ra với màu lam tím tuyệt mỹ, dường như gồm toàn những tia sáng gộp lại.
                              Ánh bình minh phản chiếu trong những giọt sương xao động lung linh trên lá cây. Màn sương mù loãng dần để hiện ra mỗi lúc một rộng hơn phong cảnh vùng đồng bằng với những ngôi nhà, nghĩa địa, các thị trấn và những khu rừng cây nhỏ, trong đó thấp thoáng dáng trắng mờ những hàng cột của các thần miếu.
                              Đường phố hãy còn vắng lặng, dân quê thường chở rau vào thành phố hẳn còn chưa kịp thắng xe. Tiếng những đôi guốc gỗ mà hai người bộ hành mang ở chân gõ vào những phiến đá đường cái chạy mãi vào dãy núi xa xa, lan ra trong sự tĩnh mịch.
                              Sau đó mặt trời từ sau những hẻm núi ló ra, đồng thời, một hình ảnh kỳ lạ cũng chợt đập vào mắt Sứ đồ. Ông như trông thấy một vòng tròn màu vàng rực từ trên những ngọn núi tuột xuống và lăn trên đường, thay vì nhô lên mỗi lúc một cao trên bầu trời.
                              Ông Piotr ngừng bước và cất tiếng hỏi:
                              - Con có trông thấy vừng sáng đang tiến lại chúng ta kia không?
                              - Con chẳng thấy gì cả. - Nazarius đáp.
                              Song một lúc sau ông Piotr lấy tay che mắt và lại lên tiếng hỏi:
                              - Một bóng người nào đó đang đi lại phía chúng ta trong ánh mặt trời.
                              Song không hề có tiếng bước chân ai vang tới tai họ. Chung quanh hoàn toàn im lặng. Nazarius chỉ trông thấy phía xa xa cây cối đang rung động dường như bị ai lay, ánh bình minh toả xuống vùng đồng bằng mỗi lúc một rộng hơn.
                              Cậu bé kinh ngạc nhìn Sứ đồ:
                              - Rabbi! Người làm sao thế? - cậu bé lo lắng gọi.
                              Chiếc gậy đi đường từ tay ông Piotr chợt rơi xuống đất, đôi mắt ông nhìn bất động phía trước mặt, miệng ông há ra, nét mặt tràn ngập nỗi kinh ngạc, niềm vui sướng và sự thành kính.
                              Đột nhiên, ông quỳ sụp xuống, chìa hai tay ra trước mặt và môi ông bật lên tiếng kêu:
                              - Crixtux! Crixtux!
                              Và ông mọp trán xuống đất, dường như để hôn bàn chân ai đó.
                              Im lặng kéo dài giây lâu, rồi trong bầu không khí tĩnh mịch chợt vang lên tiếng ông bị những tiếng nức nở làm gián đoạn:
                              - Quo Vadis, Domine?…(1)
                              Nazarius không nghe thấy câu trả lời, nhưng vọng đến tai ông Piotr là một giọng nói buồn bã và ngọt ngào:
                              - Khi ngươi rời bỏ dân ta, ta phải đến Roma để cho người ta lại đóng đinh ta lên cây thập tự lần thứ hai.
                              Sứ đồ nằm lăn ra đất, mặt ngập trong bụi đường, không động đậy cũng không nói một lời. Khi cậu bé Nazarius ngỡ là ông đã ngất đi hay đã qua đời, thì bỗng nhiên ông nhổm dậy, hai tay run rẩy cầm cây gậy đi đường lên, và không nói một lời, ông quay về phía bẩy ngọn đồi của thành phố.
                              Thấy vậy, người tiểu đồng lặp lại như một tiếng vang:
                              - Quo Vadis, Domine?…
                              - Về Roma. - Sứ đồ khẽ đáp.
                              Rồi ông quay trở lại.
                              Các ông Paven, Jan, Linux và tất cả các tín đồ đón ông đầy ngạc nhiên và lo lắng, nỗi lo sợ càng tăng thêm, vì chính vào mờ sáng hôm ấy, ngay sau lúc ông vừa ra đi, bọn lính cấm vệ vây chặt nhà bà Miriam và sục tìm Sứ đồ tại đó. Còn ông, để trả lời những câu hỏi của họ, ông chỉ đáp lại với vẻ mặt đầy sung sướng và bình thản:
                              - Tôi đã được gặp Đức Chúa!
                              Ngay chiều hôm ấy, ông lại đến nghĩa địa Oxtrianum để rao giảng và rửa tội cho những người muốn được tắm mình trong dòng nước sống.
                              Rồi từ đấy, hôm nào ông cũng đến đó, theo sau ông là những đám người ngày càng đông đảo hơn. Dường như một giọt nước mắt tử vì đạo lại nẩy sinh ra những tín đồ mới, mỗi tiếng kêu thét trên đấu trường được đáp lại bằng tiếng vang trong hàng nghìn lồng ngực. Hoàng đế tắm trong máu, Roma cùng cả thế giới ngoại đạo nổi cơn điên. Còn đối với những người đã quá chán ngấy sự điên loạn cùng tội ác, những người bị chà đạp, những người phải chịu sống trong cảnh nô lệ và áp bức, tất cả những ai buồn đau, tất thẩy những người bất hạnh, đều tụ tập đến đây để nghe những câu chuyện kỳ lạ về Đức Chúa, Người mà vì tình yêu con người đã chịu đóng đinh lên cây thập tự để chuộc bớt tội lỗi cho họ.
                              Tìm được một vị Chúa mà họ có thể kính yêu, họ đã tìm thấy điều mà cho tới nay thế giới này không thể mang lại cho bất cứ một ai: hạnh phúc trong tình yêu thương.
                              Và ông Piotr hiểu ra rằng, Hoàng đế cùng tất cả các đạo quân của y cũng không thể thắng nổi chân lý đầy sức sống kia, cả nước mắt lẫn máu tươi đều không thể nhấn chìm nổi chân lý đó, rằng giờ đây mới là lúc chân lý đó bắt đầu chiến thắng. Ông cũng hiểu được vì sao Đức Chúa đã khiến ông quay trở lại giữa đường: chính cái thành phố của xa hoa, tội ác, truỵ lạc và bạo lực này đã bắt đầu biến thành thành phố của ông, trở thành một thủ đô hai lần thủ đô, từ thủ đô ấy sẽ trào tuôn ra thế giới sự ngự trị của cả thể xác lẫn linh hồn.
                              Chú thích:
                              (1) La Tinh: Thưa Đức Chúa, Người đi đâu?
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #75
                                T2 - Chương 71

                                Rốt cuộc thời gian của hai vị Sứ Đồ cũng hết. Nhưng dường như để kết thúc sự nghiệp, vị ngư ông thánh thiện còn vớt thêm hai linh hồn ngay cả trong nhà ngục. Hai người lính Proxexxux và Martynianux canh giữ ông trong nhà ngục Mamertyn đã chịu lễ rửa tội. Sau đó là giờ phút khổ hình. Lúc ấy, Nerô không có mặt tại Roma. Bản án đó Heliux và Politetex, hai nô lệ giải phóng mà hoàng đế giao cho quyền trị vì Roma trong thời gian ngài vắng mặt, phán quyết. Chúng bắt đức Đại Sứ đồ trước tiên phải chịu đòn theo đúng luật lệ quy định, rồi hôm sau chúng mang ông ra tường thành, tới đồi Vatykan, nơi ông sẽ chịu xử đóng đinh câu rút. Binh mính ngạc nhiên trước đám đông người tụ tập ngay trước cổng nhà ngục, vì theo ý chúng, cái chết của một kẻ tiện dân, hơn nữa lại là một tên ngoại quốc, không đáng phải quan tâm nhiều đến thế, bởi bọn chúng không hiểu rằng đám người kia không phải là những người tò mò mà chính là các tín đồ muốn đưa tiễn đại Sứ Đồ đến nơi hành hình. Sau giờ ngọ, cổng nhà ngục mở và ông Piotr hiện ra giữa một toán lính cấm vệ. Mặt trời đã hơi ngả về phía Oxtia, hôm ấy là một ngày thanh tĩnh và đẹp trời. Vì tuổi tác, ông Piotr bị bắt phải vác cây thập tự, người ta nghĩ rằng ông không thể mang nổi, ông cũng không bị chọc nạng vào cổ để khỏi làm ông khó đi. Ông bước đi khoan thai và các tín đồ có thể nhìn ông rất rõ. Khi giữa đám mũ trụ bằng sắt của binh lính hiện ra mái đầu bạc trắng của ông, đám đông òa lên khóc, nhưng tiếng khóc lặng đi ngay lập tức, vì nét mặt cụ già xiết bao bình thản và sáng lên một niềm sướng vui, khiến cho tất cả mọi người đều hiểu rằng đó không phải là một nạn nhân đến nơi chịu hành hình mà là một người chiến thắng đang ca khúc khải hoàn.
                                Và quả đúng như thế. Vị lão ngư thường ngày vẫn nhẫn nhục và còng lưng, lúc này bước thẳng người, tầm vóc hơn đám binh lính, đầy vẻ trang trọng. Chưa bao giờ người ta thấy ở ông ngần ấy vẻ uy nghi. Ngỡ như đó là một vị quốc vương đang đi giữa chúng dân và binh lính. Từ mọi phía đều bang lên những tiếng nói: "Thánh Piotr đang đi gặp Đức Chúa kia kìa!". Tất thẩy mọi người dường như quên bẵng rằng nhục hình và cái chết đang chờ ông. Họ bước đi trong sự chăm chú trọng thể, nhưng cũng trong nỗi yên lòng bởi họ cảm thấy rằng từ khi có cái chết trên đồi Gongota đến nay, chưa từng có điều gì vĩ đại hơn và nếu cái chết kia chuộc tội cho toàn thế giới, thì cái chết này sẽ chuộc tội cho thành đô.
                                Dọc đường, mọi người dừng bước ngạc nhiên nhìn cảnh cụ già nọ, còn các tín đồ thì đặt tay lên vai họ và nói bằng giọng bình tĩnh: "Các người hãy trông Đức Chúa Crixtux và đã từng truyền bá tình yêu thương trên thế gian". Mọi người trầm ngâm suy nghĩ rồi họ bước đi và tự nhủ thầm: "Phải lắm, con người này không thể là kẻ không công minh".
                                Dọc đường, những tiếng huyên náo và kêu gọi của đường phố lặng đi. Đám rước đi giữa những ngôi nhà vừa dựng, giữa những hàng cột trắng phau của các thần miếu, bên trên là vòm trời xanh thẳm, đắm say và cao vợi. Họ bước đi trong im lặng, thỉnh thoảng chỉ lách cách tiếng vũ khí của binh lính hoặc tiếng những lời cầu nguyện thì thầm. Ông Piotr lắng nghe tiếng cầu nguyện và mặt ông, mỗi lúc một sáng bừng lên niềm vui sướng, vì đôi mắt ông cố lắm mới có thể nhìn trọn được hàng nghìn những tín đồ mới kia. Ông cảm thấy rằng ông đã hoàn thành sứ mệnh của đời mình và biết rằng cái chân lý mà suốt đời ông truyền bá như một làn sóng đã trùm lên tất cả, không một thứ gì có thể kìm hãm nó được nữa rồi. Nghĩ thế, ông ngước mắt nhìn lên trời và nói: "Chúa ơi, Người bảo tôi phải chiếm lĩnh cái thành phố bá chủ thế gian này, tôi đã chiếm lĩnh nó. Người bảo tôi phải đặt nơi đó thủ đô của Người, vậy tôi đã đặt. Chúa hỡi, giờ đây nó đã là thành phố của Người, còn tôi đang đến cùng Người đây, bởi tôi đã làm việc quá mệt rồi".
                                Đi qua cạnh các thần miếu ông bảo chúng: "Các người sẽ là thánh đường của Đức Chúa Crixtux". Nhìn thấy những đám người đông đúc di động trước mắt, ông nói cùng họ: "Con Cháu của các người sẽ là tôi tớ của Đức Chúa Crixtux". Ông bước đi với cảm giác của một sự nghiệp đã hoàn thành, ý thức được công sức của mình, ý thức được lực lượng, thỏa mãn và vĩ đại. Binh lính đưa ông qua cầu khải hoàn(1) và vô tình họ cho ông bằng chứng của một cuộc khải hoàn, rồi đi xa nữa về phía Naumakhia và hý trường. Đám tín đồ từ khu Zatybre nhập vào đoàn người và đám rước của dân chúng đông đến nỗi rốt cuộc viên Xenturion chỉ huy toán cấm vệ cũng hiểu ra rằng y đang đưa một vị đại tăng lữ nào đó có đám tín đồ vây quanh, y đâm ra lo lắng bởi số binh lính quá ít ỏi. Nhưng không hề có một tiếng kêu phẫn nộ hay tức tối nào vang lên trong đám đông. Những nét mặt bị chế ngự bởi sự lớn lao của thời khắc, trang trọng và đầy chờ mong, vì một số tín đồ nhớ lại rằng khi Đức Chúa qua đời, mặt đất nứt nẻ cả ra vì kinh hoàng, những người chết từ dưới mồ choàng dậy, họ nghĩ rằng có thể giờ đây cũng sẽ xuất hiện những dấu hiệu rõ ràng nào đó giống như thế, những dấu ấn sẽ khiến cho cái chết của vị Sứ Đồ không bị những thế kỷ mai sau xóa nhoà đi. Thậm chí những người khác nữa còn bảo rằng: "Biết đâu Đức Chúa lại chẳng chọn đúng giờ chết của ông Piotr để giáng thế từ trên trời cao như Người đã hứa và lập toàn phán xét thế gian". Và với tâm tư ấy, họ cầu nguyện lòng nhân từ của Đấng Cứu Thế.
                                Nhưng bốn chung quanh vẫn yên tĩnh. Đồi núi hình như đang sưởi ấm và nghỉ ngơi trong ánh nắng mặt trời. Cuối cùng, đám rước dừng lại khoảng giữa hý trường và đồi Vatykan. Binh lính lúc này bắt đầu đào hố, một số tên khác đặt cây thập tự, búa và đinh xuống đất chờ, còn đám đông lúc nào cũng im lặng và tập trung thì quỳ cả xuống bốn chung quanh.
                                Với mái đầu ngập trong ánh sáng và những tia màu vàng, đức Sứ Đồ quay lại nhìn thành phố lần cuối cùng. Từ xa, hơi thấp xuống phía dưới, có thể trông thấy dòng sông Tyber sáng lấp lánh, bờ bên kia là cánh đồng thần Marx, cao hơn nữa là lăng của Auguxt, thấp phía dưới là các nhà tắm mà Nerô bắt đầu dựng lên, thấp hơn nữa là nhà hát Pomponius, phía sau chúng, chỗ trông thấy chỗ bị khuất sau những công trình xây dựng khác là Xaepta Julia, vô sô các hàng hiên, thần miếu, hàng cột, những tòa nhà chống chất lên nhau, và cuối cùng, tận tít phía xa, là những ngọn đồi mọc đầy nhà cửa, cái tổ khổng lồ con của con người mà biên giới của nó đã bị khuất trong làn sương mù màu xanh lơ, cái tổ của tội ác nhưng cũng của sức mạnh, tổ của sự điên cuồng, nhưng cũng của trật tự, nó là đầu não của thế giới và tai ách của thế giới, nhưng đồng thời cũng là luật lệ và sự yên hòa của thế giới, hùng mạnh vô song, bất khả chiến bại và vĩnh hằng.
                                Còn ông Piotr, có binh lính vây quanh, nhìn thành phố như vị chúa tể, một quốc vương nhìn di sản của mình. Và ông nói: "Đó là thành phố của tôi và đã được chuộc tội". Và không một ai, không riêng gì những người trong đám binh lính đang đào hố chôn cây thập tự, mà ngay cả trong đám tín đồ, đoán được rằng quả thực vị chúa tể của thành phố kia đang đứng giữa bọn họ, rằng bao hoàng đế qua đi, bao làn sóng những kẻ dã man sẽ tràn qua, nhiều thế kỷ cũng qua, nhưng cụ già kia vẫn không ngừng trị vì ở chốn này.
                                Mặt trời ngả hơn nữa về phía Oxtia, trở thành to tướng và đỏ rực. Toàn bộ phương trời tây cháy lên một ráng đỏ vô biên. Binh lính tiến lại gần ông Piotr để cởi quần áo ông.
                                Ông vừa cầu nguyện vừa vươn thẳng người lên và đột ngột giơ cao tay phải. Những kẻ hành hình sững lại như bị thôi miên bởi hình dáng ông, các tín đồ cũng nín thở, họ ngỡ rằng ông muốn nói điều chi, im lặng bao trùm.
                                Còn ông, đứng trên một mô đất cao, giơ tay phải làm dấu thánh ban phước trong giờ lầm chung:
                                - Urbi et orbi!(2).
                                Cũng chính vào buổi chiều tuyệt vời ấy, một toán lính khác đưa ông Paven xứ Tarxu theo đường cái Oxtia đến chỗ được gọi là Aquae Sanvia. Theo sau ông cũng có một đám tín đồ, những người đã được ông cải đạo và khi nhận ra những người quen, ông dừng lại trò chuyện cùng họ, vì vốn là một công dân La Mã, ông được bọn lính đối xử ưu ái hơn nhiều. Ra khỏi cổng thành Tergemin, ông gặp nàng Plautynia, con gái của tổng quản Flavius Xabinux và khi thấy khuôn mặt trẻ trung của nàng chan chứa lệ, ông bảo: "Hỡi Plautynia, con gái của Cứu Rỗi Đời Đời, hãy yên tâm mà đi. Con chỉ cần cho ta mượn tấm choàng mạng để người ta bịt mắt ta lúc lên đường dến với Đức Chúa". Rồi cầm lấy tấm mạng, ông bước tiếp, mặt chan chứa niềm vui sướng, như người thợ đã lao động cật lực cả một ngày đang trở về nhà. Những ý nghĩ của ông cũng như những ý nghĩ của ông Piotr hoàn toàn bình tĩnh và ôn hoà hệt như bầu trời chiều hôm ấy. Mắt ông đăm chiêu ngắm nhìn vùng đồng bằng trải dài trước mặt, nhìn núi Anban đang ngập trán ánh sáng. Ông nghĩ miên man về những chuyến đi, về công việc và những cuộc chiến đấu mà ông đã thắng, về những ngôi nhà thờ mà ông đã dựng nên trên tất thảy những vùng đất và vùng biển, và ông nghĩ rằng ông xứng đáng được nghỉ ngơi. Ông cũng đã hoàn thành sứ mệnh. Ông cảm thấy gió dữ đã không thổi tung được những hạt giống ông gieo. Ông ra đi với niềm tin vững chắc rằng trong cuộc đấu tranh mà chân lý của ông đã được tuyên bố cho toàn thế giới hay, cái chân lý kia sẽ chiến thắng và lòng ông tràn ngập một niềm yên tĩnh vô biên.
                                Con đường đến chỗ hành hình khá xa và chiều đang xuống. Những ngọn núi ngả sau màu đỏ tía, chân núi từ từ chìm vào bóng đêm. Những đàn súc vật đang quay trở về nhà. Đây đó đang bước đi những toán nô lệ mang dụng cụ trên vai. Bọn trẻ con đang đùa chơi trước những ngôi nhà hai bên đường, tò mò nhìn toán lính đi ngang qua. Trong buổi chiều này, trong bầu không khí vàng rực trong suốt kia, không những chỉ có sự bình lặng và đắm say mà dường như còn có một hòa âm nào đó đang từ mặt đất dâng cao lên bầu trời. Ông Paven lắng nghe hòa âm ấy và trái tim ông tràn ngập niềm vui sướng khi nghĩ rằng ông cũng đã từng góp được vào nhạc âm kia một thanh âm chưa từng có từ trước đến nay, thiếu thanh âm ấy, cả trái đất sẽ chỉ như "một tiếng trống vang" mà thôi.
                                Và ông nhớ lại, ông đã từng răn dạy con người tình yêu thương, ông đã nói cho họ hay rằng dù họ có ban phát tài sản cho những người nghèo, dù họ có nắm được mọi thứ tiếng cùng mọi điều bí mật, mọi học thuyết của cõi đời này, họ sẽ cũng chẳng là gì nếu không có tình yêu thương, một tình yêu thương rộng lượng nhẫn nại, không gây điều xấu, không cầu người ta phải thờ kính, chịu đựng tất cả mọi chuyện, tin tưởng tất cả mọi người, bao dung tất cả, trường tồn tất cả.
                                Những năm tháng đời ông đã trôi đi trong việc dạy dỗ mọi người cái chân lý ấy. Giờ đây ông tự nhủ: "Có sức mạnh nào bẻ gục được nó, có thứ gì thắng nổi nó không? Làm sao hoàng đế có thể bóp nghẹt nó được, dù y có số chiến đoàn gấp hai ngần ấy những thành phố và biển cả, đất nước và tộc người?".
                                Và như một người chiến thắng, ông đi nhận phần mình.
                                Cuối cùng, đám rước bỏ đường lớn rẽ về hướng đông theo một con đường hẻm tới nguồn suối Xanvia. Vầng mặt trời đỏ rực đã chìm trong lau lách. Đến bên nguồn suối, viên Xenturion cho lính dừng lại, vì đã đến lúc rồi.
                                Ông Paven vắt chiếc mạng của Plautynia qua vai, chiếc chàng mạng mà ông sẽ dùng bịt mắt mình, để lần cuối cùng ông ngước đồng tử tràn ngập một nỗi bình thản vô biên nhìn ráng chiều vĩnh viễn và cầu nguyện. Phải! Giờ phút đến kia rồi, nhưng ông đang trông thấy trước mắt con đường lớn bằng ánh ráng chiều dẫn thẳng lên trời, ông tự nhủ thầm trong lòng những lời mà trước đây, với cảm giác mình đã hoàn thành và cái kết cục đang tới gần, ông đã từng viết: "Tôi đã từng vấp một cái vấp tốt lành, lòng tin tôi vẫn gìn giữ, sự nghiệp đã hoàn thành, và cuối cùng cũng dành cho tôi là vòng hoa công lý".
                                Chú thích:
                                (1) Pons Triumphalis (Latinh - chú thích của tác giả).
                                (2) Latinh: Thành phố (tức Roma) và thế giới! - Lời ban phước trọng thể nhất của các giáo hoàng, thường chỉ được nói ra tại nhà thờ lớn mang tên thánh Piotr ở Vatykan.
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X