Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Quo Vadis - Henryk Sienkiewicz

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #46
    T2 - Chương 42

    Vinixius chỉ kịp ra lệnh cho mấy tên nô lệ theo chàng, rồi nhảy vọt lên lưng ngựa, chàng lai đi giữa đêm thâu, qua những phố phường vắng ngắt của Anxium, về hướng Laurentum. Dưới tác động của cái tin kinh hoàng kia, chàng rơi vào trạng thái loạn trí và gần như hóa dại, đôi lúc chàng cũng không hiểu rõ lắm những gì đang xảy ra với chàng, chàng chỉ cảm thấy rằng nỗi bất hạnh cùng cưỡi trên một con ngựa với chàng, ngồi sau lưng, thét vào tai chàng "Roma đang cháy!", giục chàng thúc ngựa, lao tới các đám chay kia. Áp sát đầu trần vào cổ ngựa, chỉ mang trên mình một chiếc ái tunica chàng phóng bạt mạng, không hề để ý đến mọi vật trước mắt, đến những chường ngại mà chàng có thể va phải. Giữa tĩnh mịch, giữa đêm thanh yên bình đầy sao, chàng kỵ sĩ và con ngựa loàng ánh trăng trông như một cảnh mộng. Con ngựa giống xứ Iđumei, tai cụp xuống, cổ vươn ra, lao đi như tên bắn qua những hàng cây trắc bá bất đồng, những tòa biệt thự màu trắng ẩn trong bóng cây. Tiếng vó ngựa đập vào đát mát đường đánh thức lũ chó đây đó, chúng sủa theo cái hiện tượng lạ lùng kia, rồi sau đó, dường như bất an vì sự đột ngột của nó, chúng nghếch mõm về phía vầng trăng mà tru lên. Đám nô lệ đi theo sau Vinixius cưỡi những con ngựa tồi hơn, chẳng mấy chốc đã rớt lại phía sau. Còn chàng, như một cơn bão lướt qua Laurentum đang ngủ yên, ngoặt về phía Arđea, nơi mà giống như Aryxia, Bovinlae và Uxtrinum để có thể nhanh chóng vượt qua khoảng không gian chia cách Anxium với Roma trong khoảng thời gian ngắn nhất. Nhớ đến điều đó, chàng bắt ngựa phải dốc nốt chút sức lực cuối cùng. Qua Arđea, chàng cảm thấy bầu trời về phía đông bắc ưng ửng ánh hồng. Có thể đó là ánh rạng động, vì đêm đã muộn rồi, mà ngày tháng bẩy thì bắt đầu rất sớm. Song Vinixius không sao kìm nổi một tiếng kêu tuyệt vọng và điên dại, bởi chàng cho rằng đấy là quầng lửa của đám cháy. Chàng nhớ lại lời của Lekanius: "Cả thành phố là một biển lửa!" - và sốt hồi lâu chàng cảm thấy như mình sắp phát điên đến nơi rồi, bởi chàng mất hoàn toàn hy vọng có thể cứu được Ligia, thậm chí ngay cả hy vọng về đến nơi trước khi thành phố trở thành một đống tro tàn. Giờ đây, những ý nghĩ của chàng còn phi nhanh hơn vó ngựa, chúng lao đi trước mắt chàng như một đàn chim màu đen - những ý nghĩ tuyệt vọng và khủng khiếp. Chàng không rõ phần nào của thành phố bắt đầu cháy trước, song chàng nghĩ rằng khu phố Zatybre, khu phố đầy những ngôi nhà tồi tàn, các kho gỗ và những lều gỗ, nơi người ta bán nô lệ, sẽ là khu đầu tiên làm mồi ngon cho ngọn lửa. Ở Roma hỏa hoạn xẩy ra khá thường xuyên khi có cháy cũng thường kèm theo những trận xô xát và cướp bóc, nhất là tại những khi phố do dân nghèo và nửa man dã sinh sống. Vậy thì tại sao cháy không thể nổ ra ở Zatybre, cái tổ của đám tiện dân ô hợp từ khắp mọi miền thế giới dồn về? Đến đây, lướt nhanh qua óc Vinixius cái ý nghĩ về bác Urxux với sức mạnh siêu nhiên của bác, song liệu một con người, dù là một vị thần khổng lồ đi chăng nữa, có thể làm được gì để chống lại sức mạng hủy diệt của ngọn lửa? Nỗi sợ hãi một cuộc nổi dậy của nô lệ từ nhiều năm nay cũng là một cơn ác mộng đè nặng lên Roma. Người ta bảo rằng hàng trăm nghìn nô lệ vẫn đang mơ tới thời Xpatakux và chỉ chờ giây phút thuận lợi để cầm lấy vũ khí chống lại những kẻ áp bức, chống lại thành đô. Giây phút ấy đến rồi! Rất có thể trong thành phố giờ đây, bên cạnh đám cháy, đang sôi sục một lò sát sinh, một lò lửa chiến tranh. Thậm chí, rất có thể bọn lính cấm vệ hiện đang chém giết theo lệnh của chính hoàng đế. Đột nhiên, tóc Vinixius dựng ngược cả lên vì kinh hoàng. Chàng nhớ lại tất cả những cuộc trò chuyện về các đám cháy của những thành phố, mà từ một lúc nào đấy, với một sự kiên nhẫn đến lỳ lạ, người ta cứ kháo nhau trong cung đình của hoàng đế, chàng nhớ lại những lời than vãn của ngài, rằng ngài đang phải tả một thành phố bị cháy mà chưa được nhìn thấy một đám cháy nào, chàng nhớ lại câu trả lời đầy khinh miệt của ngài đáp lại Tygelinux, khi hắn xin được đốt cháy Anxium hoặc một thành phố giả bằng gỗ nào đó, rồi cuống cùng là lời chê trách của ngài đối với Roma và những ngõ ngách hôi hám của ngài đối với Roma và những ngõ ngách hôi hám của khu Xubura. Đúng rồi! Chính hoàng đế đã ra lệnh đốt cháy thành phố! Chỉ mỗi mình ngài dám làm chuyện ấy cũng như chỉ mỗi mình Tygelinux mới dám thi hành một mệnh lệnh như thế mà thôi. Và nếu Roma cháy theo lệnh của hoàng đế thì ai dám chắc là dân chúng sẽ không bị giết hại theo lệnh của ngài? Tên quái vật này có thể làm cả việc đó lắm. Vậy là hỏa hoạn, cuộc bạo động của nô lệ và cuộc tàn sát! Một sự hỗn loạn khủng khiếp, sự hoành hành của các hung thần hủy diệt và sự điên loạn của loài người - vậy mà Ligia đang ở trong đó! Tiếng rên rỉ của Vinixius hòa lẫn tiếng thở và tiếng rên rỉ của con ngựa đang cố gắng trút nốt chút sức cuối cùng lao nhanh trên con đường dốc mãi lên cao, dẫn tới Aryxia. Ai có thể giằng nàng ra khỏi cái thành phố đang cháy, ai có thể cứu sống nàng? Nghĩ tới đây, Vinixius gần như nằm ép sát vào cổ ngựa, tay bấu chặt bờm ngựa, vì quá đau đớn chàng chực cắn cổ ngựa. Nhưng cùng chính lúc ấy, một kỵ sĩ nào đó cũng đang phóng như gió lốc theo hướng ngược lại, về phía Anxium, khi lướt ngang qua bên cạnh chàng anh ta thét lên: "Roma đang chết" rồi lại lao vụt đi. Tai Vinixius chỉ nghe thấy tiếng kêu: "Hỡi các vị thần linh!" của anh ta, phần còn lại tiếng vó ngựa át đi. Nhưng tiếng kêu ấy cũng khiến chàng tỉnh lại. Các vị thần linh!...Đột nhiên, Vinixius ngẩng đầu vươn cả hai tay lên bầu trời đầy sao bắt đầu cầu nguyện! "Tôi không kêu gọi các người, hỡi những vị thần mà miếu thờ đang bị bốc cháy, tôi chỉ kêu cầu Đức Chúa!...Người đã từng chịu nạn, người duy nhất lòng lành! Người duy nhất thấu hiểu nỗi đau của con người! Chúa đến với thế gian để dạy cho con người tình yêu thường, giờ xin người hãy thể hiện tình yêu thương ấy! Nếu Chúa đúng như ông Piotr và Paven đã nói, xin Chúa hãy cứu lấy nàng Ligia cho con. Xin Chúa hãy mang nàng thoát khỏi ngọn lửa. Người có thể làm được điều ấy cơ mà! Xin hãy mang nàng về với con, con xin lầy máu mình dâng Chúa! Nếu Người không muốn làm điều ấy vì con, xin hãy làm vì nàng. Nàng kính yêu Chúa và tin tưởng ở Chúa. Người đã hứa hẹn cuộc sống và niềm hạnh phúc sau khi chết, song niềm hạnh phúc sau khi chết đâu có mất, có điều hiện nay nàng chưa muốn chết. Xin hãy cho nàng được sống. Xin Chúa hãy mang nàng thoát khỏi Roma. Người có thể, trừ phi Người không muốn…"
    Chàng chợt ngừng lời, bởi vì chàng cảm thấy rằng, lời cầu nguyện tiếp theo sẽ có thể biến thành một lời đe dọa: Chàng sợ sẽ xúc phạm đến Đức Chúa trong lúc chàng đang cần đến tình thương và ân huệ của Chúa. Chỉ nghĩ đến điều ấy chàng đã thấy e sợ và để tránh cho đầu óc khỏi bị ám ảnh dù chỉ là bóng đen của sự tức giận, chàng lại giục ngựa, hơn nữa những bức tường màu trắng của Aryxia, địa điểm nằm khoảng giữa đường đến Roma, đã hiện ra trước mắt chàng trong ánh trăng. Một lúc sau, chàng lai vút qua gần thần miếu Merkurơ nằm trong một khu rừng nhỏ ở trước thị trấn. Hẳn là ở đây người ta đã được biết tai họa, vì trước cửa thần miếu náo động khác thường. Vinixius thoáng thấy trên các bậc thềm và giữ những hàng cột những đám đông người đang len vào xin được sự che chở của thần. Đường đi không còn vắng vẻ và trống trải như quãng đường sau Arđea nữa. Thực ra, những đám đông đang rùng rùng kéo nhau theo những con đường rẽ nhánh vào rừng, nhưng trên đường chính vẫn còn những đám người ít đông đảo hơn, họ dạt vội ra trước người kỵ sĩ đang phóng gấp. Từ phía thị trấn vang lại hỗn âm của những tiếng người. Giống như một cơn lốc, chàng lao vào thị trấn, xô ngã và dày xéo lên mấy người trên đường. Lúc này, những tiếng kêu la vây quanh chàng: "Roma cháy rồi! Cả thành phố đang chìm trong lửa! Lạy các thần, hãy cứu lấy Roma!".
    Con ngựa bị vấp chân và bị một bàn tay mạnh mẽ ghì cương nên khuỵu hai chân sau ngay trước quan rượu, nơi Vinixius bố trí một con ngựa khác để thay thế. Bọn nô lệ, dường như dự cảm được rằng ông chủ sẽ đến, đang đứng trước quán và theo lệnh chàng, chúng đua nhau chạy đi dắt con ngựa mới ra. Vinixius nhìn thấy một toán lính gồm khoảng mươi tên vệ binh kỵ mã, bọn này chắc là đang mang tin từ thành đô tới Anxium, chàng liền nhẩy vọt đến gần hỏi:
    - Phần nào của thành phố bị cháy?
    - Người là ai? - Viên thập trưởng hỏi lại.
    - Vinixius, hộ dân quan quân sự và cận thần! Trả lời ngay, nếu người không muốn mất mạng!
    - Thưa ngài, đám cháy bùng ra từ các quán bán hàng cạnh đại hý trường. Lúc chúng tôi được phái đi, trung tâm thành phố đang chìm trong lửa.
    - Còn khu Zatybre?
    - Lửa chưa lan tới đấy, nhưng mỗi lúc náo tràn tới thêm những khu phố mới với một sức mạnh không sao kìm nổi. Dân chúng chết vì nòng, vì khói, không thể nào cứu nổi.
    Lúc ấy người ta dắt ra cho Vinixius con ngựa mới. Chàng hộ dân quan trẻ tuổi nhẩy lên lưng ngựa tiếp tục phóng đi.
    Giờ đây chàng hướng tới Anbanum, bỏ qua Anbalonga và cái hồ tuyệt vời của nó nằm về phía bên phải đường. Đường cái quan dẫn tới Aryxia là đường lên dốc núi, ngọn núi che khuất hoàn toàn đường chân trời và che khuất cả thị trấn Anbanum nằm ở phía bên kia. Tuy nhiên Vinixius biết rằng, lên đến đỉnh đèo chàng sẽ nhìn thấy không những chỉ Vovinlae và Uxtrinum, nơi nhwungx con ngựa mới đang chực sẵn đón chàng mà sẽ trông thấy cả Roma nữa, bởi vì phía sau Anbanum, trải dài hai bên đường cái Appia là vùng đồng bằng Kampania thấp và bằng phẳng, trên đó chỉ có những hàng cột đỡ của các đường máng nước chạy về phía thành đô, ngoài ra không có gì che mất tầm nhìn.
    - Trên đỉnh ta sẽ trông thấy ngọn lửa - Chàng tự nhủ.
    Và chàng lại thúc ngựa.
    Song trước khi lên đến đỉnh đèo, chàng đã calr thấy trên mặt có hơi gió và cùng với nó là mùi khói xộc vào mũi chàng.
    Và lúc đó, cả đỉnh núi cũng bắt đầu nhuốm màu vàng.
    "Quầng lửa!" - Vinixius nghĩ thầm.
    Nhưng đêm đã nhạt từ lâu, rạng đông chuyển thành ánh bình minh và trên tất cả những ngọn núi gần đấy cũng có những ánh hồng và ánh vàng chiếu rọi, những ánh sáng ấy có thể phát từ ngọn lửa mà cũng có thể là ánh mặt trời. Vinixius đã lên đến đỉnh và khi ấy, đập vào mắt chàng là một cảnh tượng thật khủng khiếp.
    Cả vùng đồng bằng bị trùm kín trong một làn khói mù mịt tựa như một đám mây khổng lồ nằm là là sát mặt đất, trong đó chìm ngập cả thành phố, cả những đường máng nước, những biệt thự, cây cối, còn tận tít cái mặt bằng xám xịt khủng khiếp kia là thành đô đang cháy trên những ngọn đồi.
    Tuy nhiên đám cháy không mang hình một chiếc cột lửa như thường có khi cháy một ngôi nhà riêng rẽ nào đó, dù rất đồ sộ đi chăng nữa. Đây là cả một đài lửa dài, giống như ráng trời.
    Bên trên dải lửa này cuồn cuộn bốc lên cả một bức tường khói, chỗ đen kịt, chỗ lại nhuốm màu hồng hoặc đỏ bầm, quyện vào nhau, trương phồng lên, đặc sệt, quằn quại như rắn, thót lại và phình ra. Chốc chốc bức tường kinh khủng ấy dường như lại che khuất cả dải lửa, khiến nó bị co hẹp lại như một dải băng, song chốc chốc dải lửa lại chieeys sang từ bên dưới nó hắt lên, biến những cuộn dưới đáy nó thành những làn sóng lửa. Cả hai thứ kéo dài từ đầu nọ tới đầu kia đường chân trời, che khuất nó, giống như đôi khi một dải rừng che khuất chân trời vậy. Hoàn toàn không trông thấy dẫy núi Xabin đâu nữa.
    Thoạt tiên Vinixius tưởng như đó không phải chỉ là một thành phố bị cháy mà toàn thế giới đang cháy và không một sinh linh nào có thể thoát khỏi cái đại dương của lửa và khói.
    Gió mỗi lúc một thổi mạnh từ phía đám cháy lại, mang tới mùi khét lẹt và tàn tro che khuất ngay cả những vật ở gần. Trời đã sáng rõ và mặt trời đang chiếu sáng những dẫy núi chung quanh hồ Anban. Song qua tàn tro những tia nắng vàng tím của buổi sớm dường như nhuốm màu hung hung đầy bệnh hoạn.
    Phi ngựa xuống núi hướng về phía Anbanum, Vinixius đi sâu vào đám khói mỗi lúc thêm dày đặc và mù mịt hơn. Cái trị trấn nhỏ nhoi này cũng hoàn toàn chìm trong khói. Dân chúng lo sợ lăn cả ra đường và thật kinh hoàng khi nghĩ tới những gì đang diễn ra tại Roma, khi mà ngay cả chốn này cũng khó mà thở nổi.
    Cơn tuyệt vọng lại xâm chiếm Vinixius, nỗi kinh hoàng khiến tóc chàng như dựng đứng cả lên. Nhưng chàng vẫn cố gắng tự trấn tĩnh đến mức có thể. "Không thể nào - chàng tự nhủ - toàn thành phố lại bùng cháy trong cùng một lúc. Gió thổi từ phía bắc và chỉ dồn khói về phía này mà thôi. Bên phía kia không có khói. Bị sông tách ra, khu Zatybre có thể hoàn toàn được sống sót, chí ít cũng đủ thì giờ cho bác Urxux cùng Ligia vượt cổng thành Janikum để thoát nguy. Cũng không thể nào toàn bộ cư dân trong thành đều bị chết hết, không thể nào cả cái thành phố đang làm bá chủ thế giới lại bị quét sạch sành sanh khỏi mặt đất vùng với tất thảy chúng dân của nó. Ngay cả trong những thành phố bị đánh chiếm, khi mà sự giết chóc và ngọn lửa cùng nhau hoành hành, bao giờ cũng vẫn còn một số người nào đó sống sót, vậy vì lý gì Ligia lại nhất thiết phải chết kia chứ? Đã có Đức Chúa, Người thắng được cả thần chết, canh giữ cho nàng!". Nghĩ vậy, chàng lại bắt đầu cầu nguyện và theo phong tục đã quen, chàng dâng lên Chúa Crixtux những lời thề nguyền lớn lao cùng những lời hứa hẹn sẽ tế hiến lễ vật. Băng qua Anbanum, nơi mà gần như tất thẩy dân cư đều ngồi trên mái nhà và trên cây để nhìn Roma, chàng thấy phần nào bình tâm lại. Chàng nghĩ rằng không chỉ riêng mình bác Urxux, ông Linux mà cả Sứ Đồ Piotr cũng lo lắng cho Ligia. Chỉ nghĩ tới điều ấy thôi, một niềm cổ vũ mới đã tràn ngập trái tim chàng. Đối với chàng, bao giờ ông Piotr cũng là một người không sao hiểu thấu, một người gần như siêu nhiên vậy. Kể từ khi nghe ông nói tại Oxtrianum, lòng chàng vẫn còn lưu lại một ấn tượng kỳ lạ mà ngay từ những ngày đầu ở Anxium chàng đã từng viết kể cho Ligia: Ấn tượng là mỗi lời cụ già kia đều là chân lý và phải trở thành sự thật. Sự quen biết gần gũi hơn với Đức Sứ Đô trong thời gian bệnh tật lại càng khiến cho cái ấn tượng ấy thêm củng cố, để rồi sau đó nó biến thanh một niềm tin không hề lay chuyển. Vậy một khi đức chúa Piotr đã ban phước cho tình yêu của chàng, đã hứa trao Ligia cho chàng, thì làm sao Ligia còn có thể bị chết thiêu trong lửa? Thành phố có thể bị cháy trụi mặc lòng, nhưng không một tàn lửa nào của đám cháy có thể rời vào trang phục của nàng. Dưới ảnh hưởng của một đêm không ngủ, của cuộc phi ngựa điên cuồng cùng những niềm xúc động, lúc này Vinixius lại rơi vào một tâm rạng phấn khích kỳ lạ, trong đó, đối với chàng, tất thảy mọi việc đều là có thể. Ông Piotr sẽ đẩy lùi ngọn lửa, chỉ cần một lời thôi, ông có thể bắt được nó dẹp phanh ra hai bên và họ sẽ bình an vượt qua con đường lửa đó. Thêm nữa, ông Piotr vốn biết rõ hậu vận, chắc hẳn ông sẽ biết trước có đám cháy và khi ấy lẽ nào ông không cảnh báo, không thể đưa thoát trước ra khỏi thành phố những tín đồ Thiên Chúa Giáo, trong đó có Ligia, cô gái mà ông yêu thương như con đẻ. Và mỗi lúc niềm hy vọng lại mạnh thêm lên trong trái tim chàng Vinixius. Chàng nghĩ rằng nếu họ thoát khỏi thành phố thì chàng rất có thể tìm thấy họ tại Bovilae hoặc gặp họ dọc đường. Rất có thể là chốc nữa thôi, khuôn mặt thân yêu kia sẽ hiện ra từ sau những ngôi nhà đang dàn trải mỗi lúc một rộng hơn trên khắp vùng đồng bằng Kampania.
    Đối với chàng điều ấy có vẻ là điều hiện thực, bởi vì trên đường chàng gặp mỗi lúc một nhiều người hơn, họ đang rời thành phố đi vào núi Anban tránh lửa, để rồi sau đó lại thoát ra khỏi phạm vi của khói. Chưa tới Uxtrinum chàng đã buộc phải chậm lại vì nghẽn đường. Bên cạnh những người bộ hành tay nải sau lưng, chàng còn gặp nào ngựa nào lừa thồ đồ đạc, những cỗ xe chất đầy của cải và rốt cuộc là những chiếc kiệu, trong đó đám dân cư giàu có đang được bọn nô lệ khiêng đi. Thị trấn Uxtrinum đầy nghẹt những người chạy trốn khỏi Roma, đến nỗi thật khó lòng len qua đám đông. Trên quảng trường chợ, dưới hàng cột của các thần miếu và trên các đường phố, nhung nhúc những người tản cư. Người ta bắt đầu dựng lều cho gia đình ẩn trú. Những kẻ khác thì hạ trại ngay ngoài trời, họ lêu là nguyền rủa các vị thần linh hay số phận. Trong nỗi kinh hoàng chung thật khó có thể hỏi thăm điều gì. Những người mà Vinixius hỏi, hoặc hoàn toàn không trả lời chàng hoặc ngước cặp mắt nửa phần ngây dại vì thảng thốt lên nhìn chàng mà đáp rằng cả thành đô lẫn thế giới đều đang sụp đổ. Từ phía Roma mỗi lúc một dồn về những đám người mới, đàn bà và trẻ con, khiến sự hỗn độn và cảnh thương tâm càng tăng thêm. Một số người bị lạc nhau trong đám đông đang chen lấn xô đẩy tuyệt vọng tìm kiếm nhau. Bọn khác choảng nhau tranh lều trại. Nhưng đám người nửa hoang dã từ Kampania kéo vào thị trấn vì hiếu kỳ hoặc để kiếm bằng trộm cắp nhờ những điều kiện mà cảnh loạn lạc tạo ra. Đây đó, những đám đông gồm bọn nô lệ thuộc đủ loại dân tộc và cả bọn đấu sĩ đang cướp phá những ngôi nhà và biệt thự của thành phố, đánh nhau với đám binh lình đứng ra bảo vệ dân chúng.
    Nguyên lão nghị viên Junius mà Vinixius nhận ra bên một tửu quán, giữa đám nô lệ người Batavi vây quanh, là người đầu tiên đã cung cấp cho chàng chút ít tin tức chính xác hơn về vụ hỏa tai. Quả thực lửa bùng ra trước tiên cạnh đại hý trường nơi tiếp giữa đồi Palatyn và đồi Caeliax, nhưng nó lan tràn với một tốc độ không hiểu nổi và bao trùm toàn bộ khu trung tâm thành phố. Từ thời Brennux đến nay chưa bao giờ các thành phố gặp phải một tai ương khủng khiếp nhường này. "Hý trường cháy trụi, tất cả các quầy hàng và nhà cửa chung quanh đây cũng thế - Junius nói - Đồi Aventyn và Caeliux chìm ngập trong khói lửa. Lửa vây quanh đồi Palatyn và đã lan lên tới đồi Karyny…"
    Nói tới đây, Julius - người vốn có một tòa biệt thứ chứa đầy kiệt tác nghệ thuật trên đồi Karyny, những tác phẩm mà ông hết lòng yêu chuộng - bốc một vốc bụi bẩn rắc lên đầu và rên rỉ một cách tuyệt vọng suốt giờ lâu.
    Nhưng Vinixius đã lắc lắc vai ông.
    - Nhà của tôi cũng ở trên đồi Karyny - chàng nói - nhưng một khi tất thảy mọi thứ đã mất đi thì cứ để cho cả nó cũng mất theo.
    Rồi chợt nghĩ ra rằng rất có thể Ligia sẽ theo lời chàng mà chuyển tới nhà ông bà Aulux chăng, chàng bèn hỏi:
    - Thế còn Vicux Patrixius?
    - Trong lửa - Junius đáp.
    - Còn khu Zatybre?
    Julius nhìn chàng ngạc nhiên:
    - Nói tới Zatybre làm gì - Ông ta đáp, tay bóp chặt hai thái dường đau nhức nhối.
    - Tôi quân tấm tới Zatybre hơn là tới Roma kia - Vinixius đột ngột thét lên.
    - Nếu vậy thì theo đường Via Portuenix anh có thể đến đấy được, bởi vì nếu đi qua gần Aventyn thì hơi nóng sẽ làm ngạt thở…Zatybre ư? …Tôi không rõ. Có lẽ lửa chưa thể lan tới đó được, nhưng bây giờ thì họa may chỉ có các thần mới biết được là nó đã lan đến đó hay chưa…
    Tới đây, Junius ngần ngừ một lúc rồi hạ giọng nói thêm:
    - Tôi biết là anh sẽ không phản tôi nên mới bảo anh hay điều này: Đây không phải là một vụ hỏa hoạn bình thường. Người ta không cho cứu hý trường…Chính tôi nghe thấy…Khi nhà cửa chung quanh bắt đầu bốc cháy, có tiếng hàng nghìn người hô to: "Hãy giết chết bọn đến cứu!". Có những kẻ nào đó chạy khắp thành phố ấn những bó đuốc đang cháy rừng rực vào các ngôi nhà…Một bên thì dân chúng nổi lọn và kêu lên rằng thành phố bị đốt cháy theo lệnh. Nhưng tôi chẳng dám nói thêm gì đâu. Thương thay cho thành phố, thương thay cho tất cả chúng ta, thương thay cho bản thân tôi! Ôi chuyện gì đang diễn ra ở đây thì ngôn ngữ loài người không sao tả xiết! Dân chúng chết thiêu trong lửa hoặc giết lẫn nhau trong đám hỗn loạn. Roma tận số mất rồi…!
    Tới đây, ông cứ lặp đi lặp lại: "Thương thay! Thương thay cho thành đố cùng lũ chúng ta!" - Nhưng Vinixius đã nhẩy vọt lên ngựa phóng tiếp theo con đường cái Appia.
    Nhưng thực ra lúc này là cả một sự chen lấn xô đẩy giữa dòng sông người và xe cộ đang đổ ra từ thành đô. Giờ đây thành đố đang nằm trước mắt Vinixius như ngay trong lòng bàn tà, chìm ngập trong đám cháy khủng khiếp. Từ phía cái biển lửa và khói toát ra một sức nóng hừng hực kinh người, tiếng huyên náo của con người cũng không sao át nổi tiếng réo rít và tiếng gầm gào của ngọn lửa.

    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #47
      T2 - Chương 43

      Vinixius càng tới tường thành càng rõ ra rằng đi đến được Roma còn dễ hơn nhiều so với việc lọt vào được bên trong thành phố. Đi theo đường cái Appia thì khó lòng chen lấn nổi vì nó đang đầy nghẹt những người là người. Nhà cửa, đồng ruộng, nghĩa địa, vườn tược và thần miếu nằm hai bên đường đều biến thành nơi hạ trại. Ở miếu thờ thần Marx nằm ngay sát cạnh Porta Appia, đám đông đã phá vỡ cửa để tìm chỗ trú đêm ở bên trong. Trên các nghĩa địa, người ta chiếm lấy các nhà mồ lớn, đánh nhau đổ cả máu để giành giật chúng. Với cả sự lộn xộn của mình, Uxtrinum mới chỉ cho biết mùi vị sơ sài của những gì đang diễn ra ngay sát cạnh tường thành phố mà thôi. Người ta không còn để ý chút gì tới luật lệ, chính quyền, quan hệ gia đình hay sự khác nhau về đẳng cấp nữa. Thấy cả cảnh bọn nô lệ đang tặng gậy cho các vị công dân. Đám đấu sĩ say khướt rượu vang cướp được ở Emporium tụ tập thành từng toán đông chạy nhông khắp các bãi trống ven đường, với những tiếng kêu la man rợ, dồn đuổi, đánh đập, cướp bóc mọi người. Vô số dân man rợ vốn bị bày bán trong thành phố, trốn thoát khỏi các nhà chứa nô lệ đem bán. Đối với chúng, hoả hoạn và sự diệt vong của thành phố vừa là sự kết thúc kiếp đời nô lệ, vừa là sự báo thù, nên khi đám dân chúng mới bị mất sạch tài sản trong ngọn lửa vừa tìm được chỗ ngồi yên là tuyệt vọng vươn tay lên kêu cầu các vị thần linh cứu giúp, thì bọn chúng lại hú hét lên vì sung sướng, lao vào đánh phá các đám đông, lột sạch quần áo họ và bắt cóc các thiếu nữ trẻ. Liên kết với chúng là đám nô lệ từ lâu đời phải phục dịch ở Roma, bọn khố rách áo ôm không có chút gì che thân ngoài một mảnh vải len che ngang háng, những bóng ma khủng khiếp của hang cùng ngõ hẻm, lũ người mà ban ngày gần như không bao giờ xuất hiện trên các đường phố và người ta khó ngờ rằng chúng tồn tại ở thành Roma. Đám người này, gồm cả người Á, người Phi, người Hi Lạp, người Tơrắc, người German và người Brytani, gào lên bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ của trái đất, hoang dã, cuồng nhiệt, điên lên vì nghĩ rằng đã tới giờ phút chúng được mặc sức đòi phần đền bù cho những năm tháng khổ đau và chịu đựng. Giữa đám người quay cuồng ấy, trong ánh ngày và ánh lửa đám cháy, thấp thoáng mũ trụ của bọn lính cấm vệ đang cố sức bảo trợ cho một nhúm dân chúng, tại nhiều nơi binh lính phải đánh nhau thật sự với đám vô lại đã bị thú dữ hoá. Trong đời mình, Vinixius đã từng trông thấy những thành phố bị công phá, nhưng mắt chàng chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng, trong đó sự tuyệt vọng, những giọt nước mắt, nỗi đớn đau, lời rên rỉ, niềm vui sướng man dại, cái điên loạn, cơn cuồng nộ và sự chặt xích cởi tròng lại trộn lẫn vào nhau thành một mớ hỗn loạn vô hạn độ nhường kia. Còn trên đầu đám người điên loạn nhấp nhô sóng này là một đám cháy đang gào thét, trên những ngọn đồi đang rực cháy cái thành phố vĩ đại nhất thế giới, phả hơi thở lửa của mình và quang cảnh náo động kia, nhả khói mù mịt, che phủ nó đến độ không còn nhìn thấy sắc xanh của bầu trời đâu nữa. Cố gắng hết sức, không kể gì đến nguy hiểm, mãi sau chàng hộ dân quan trẻ tuổi mới len vào tới cổng Appia, song tới đây, chàng mới nhận ra rằng chàng sẽ không tài nào vượt qua khu Porta Capena để vào thành phố, không những chỉ vì đám đông người, mà còn vì hơi nóng kinh khủng đang khiến cho cả bầu không khí ngay sau cổng thành cũng phải run rẩy. Thêm vào đó, chiếc cầu bên cạnh Porta Trigemina, đối diện với thần miếu Bonae Đeae không còn nữa, nên muốn vượt sông Tyber, chàng sẽ phải len đến tận cầu Palovy, nghĩa là sẽ phải đi ngang qua gần Aventyn, băng qua cả phần thành phố đang bị chìm ngập trong cả một biển lửa. Đó là điểu không thể làm nổi. Vinixius hiểu rằng không có cách nào khác, chàng phải quay trở lại hướng Uxtrinum, tại đó rẽ khỏi đường cái Appia, vượt sông ở phía bên dưới thành phố để tới Via Portuenxix, con đường dẫn thẳng tới khu Zatybre. Nhưng ngay cả việc đó cũng không phải là chuyện dễ dàng, vì mỗi lúc con đường Appia lại càng trở nên hỗn loạn hơn. Có lẽ phải dùng gươm để dẹp đường, nhưng Vinixius lại không mang theo vũ khí, bởi lẽ chàng rời Anxium nguyên trạng như lúc cái đám cháy đến chàng tại toà biệt thự của Hoàng đế. Song cạnh nguồn suối Mekury chàng chợt trông thấy một viên xentunion chỉ huy lính cấm vệ mà chàng quen, y đang dẫn vài mươi người ngăn không cho dân chúng tràn vào thần miếu; chàng bèn ra lệnh cho y đi theo; còn y, nhận ra chàng là một hộ dân quan và là cận thần nên không dám cưỡng lệnh.
      Vinixius tự mình nắm quyền chỉ huy đơn vị và lúc này chàng chợt quên đi giáo thuyết của ông Paven về tình yêu đối với những người anh em đồng loại để đẩy lùi và rã tách đám đông trước mặt với một sự vội vã mang cái chết đến cho kẻ nào không chịu tránh xa. Những lời nguyền rủa và những cơn mưa đá ném đuổi theo sau họ, nhưng chàng không thèm để ý gì đến, chàng chỉ cốt sao mau mau vượt ra được chỗ thưa người hơn. Tuy nhiên phải nỗ lực hết sức mới có thể tiến lên nổi. Những người đã dựng lều trại không muốn nhường đường cho binh lính, họ nguyền rủa thành lời cả Hoàng đế lẫn bọn lính cấm vệ. Nhiều chỗ đám đông phản ứng rất dữ dội. Tai Vinixius nghe thấy những tiếng nói lên án Nerô đã đốt cháy thành phố.
      Người ta công khai đe doạ sẽ giết chết cả Hoàng đế lẫn Poppea. Những tiếng kêu “Sanio!”, “Histrio!” (thằng hề, thằng diễn viên), “Thằng giết mẹ!” vang lên chung quanh. Một số người kêu gào đòi dìm Hoàng đế xuống sông Tyber, những người khác nói rằng La Mã chịu đựng thế là quá mức rồi. Rõ ràng, những lời đe doạ này sẽ có thể biến thành một cuộc khởi loạn thật sự, chỉ cần có người cầm đầu là nó sẽ bùng ra. Trong khi đó sự điên cuồng và tuyệt vọng của đám đông lại hướng về chống lại lính cấm vệ, bọn này sở dĩ chưa làm sao thoát khỏi đám đông còn do bị cảm trở bởi hàng đống đồ đạc được người ta vội vã mang theo lúc chạy hoả hoạn: những chiếc hòm và thùng đựng thực phẩm, các thứ đồ quý giá, bình lọ, cả nôi trẻ con, đồ lót, xe và kiệu khiêng tay. Đây đó xảy ra những cuộc đụng độ, nhưng bọn lính cấm vệ nhanh chóng dẹp yên đám quần chúng tay không tấc sắt. Vất vả vượt qua những con đường Latin, Numixi, Arđei, Lavini và Oxti, vòng qua các biệt thự, những khu vườn, các nghĩa địa và thần miếu, rốt cục Vinixius cũng đến được một thị trấn nhỏ có tên là Vicux Alecxanđri, sau đó chàng vượt qua sông Tyber. Chỗ này thưa người và loãng khói hơn. Qua những người chạy nạn, - đây chẳng thiếu gì bọn họ - chàng được hay rằng chỉ có một ít ngõ hẻm thuộc khu Zatybre là bị cháy, song chắc hẳn chẳng có thứ gì thoát khỏi sức mạnh khủng khiếp của ngọn lửa, bởi lẽ những bọn người cố tình châm lửa đốt nhà, đồng thời không để cho những người khác cứu hoả, chúng kêu lên rằng chúng thực hiện việc ấy theo mệnh lệnh. Giờ đây chàng hộ dân quan trẻ tuổi không còn nghi ngờ việc chính Hoàng đế đã ra lệnh đốt cháy thành Roma và chàng thấy rằng sự báo thù mà đám đông đang gào thét đòi hỏi là hợp lý và công bằng. Liệu Mitryđat hay một ai trong số những kẻ thù ghê gớm nhất của La Mã có thể làm được điều gì hơn thế nữa hay chăng? Quá mức rồi! Sự điên rồ đã trở nên quá đỗi ma quái, đứng trước nó, sự sống của con người trở nên không thể. Vinixius tin rằng giờ tận số của Nerô đã điểm, rằng những đống hoang tàn đổ nát của thành phố sẽ chôn vùi luôn tên hề ma quái cùng tất thẩy những tội ác của y. Giá như có một người nào đủ can trường đứng lên cầm đầu đám quần chúng đang tuyệt vọng kia thì điều ấy sẽ có thể trở thành sự thật trong vòng vài tiếng đồng hồ nữa thôi! Nghĩ tới đây, những ý nghĩ can đảm và đầy ý chí trả thù bắt đầu bay lượn trong đầu óc Vinixius. Nếu như chính chàng làm việc đó thì sao? Cho đến thời gian gần đây nhất, gia đình Vinixius đã từng có biết bao người làm chấp chính quan tối cao, nổi tiếng trong toàn cõi La Mã. Đám quần chúng chỉ cần một cái tên họ nào đó mà thôi. Phải chăng không từng có lần, chỉ vì bốn trăm nô lệ của viên quan Pađanius Xekunđa bị tội chết mà suýt nữa đã nổ ra bạo động và nội chiến đó sao; còn giờ đây cái gì sẽ nổ ra xứng với thảm hoạ khủng khiếp vượt xa mọi thảm hoạ khác mà La Mã từng nếm trải trong suốt tám thế kỷ vừa qua? Ai kêu gọi dân Quiryt cầm vũ khí (Vinixius nghĩ thầm), người ấy sẽ lật đổ Nerô và khoác áo tía cho bản thân. Vậy thì cớ sao chàng lại không thể làm việc đó cơ chứ? Chàng khoẻ hơn, can đảm hơn và trẻ tuổi hơn các cận thần khác… Quả thực Nerô đã ra lệnh cho ba mươi chiến đoàn canh giữ các bờ cõi quốc gia, nhưng ngay cả những chiến đoàn ấy cùng những viên chỉ huy kia có nổi dậy hay chăng khi nghe tin vụ đốt cháy thành Roma, cùng tất thẩy các thần miếu?… Và khi ấy, chính chàng, Vinixius, sẽ trở thành Hoàng đế. Trong đám cận thần người ta vẫn đồn đại rằng một gã thi sĩ nào đó đã từng tiên đoán sắc tía cho chàng Otho. Nhưng chàng có kém gì Otho? Có thể chính Đức Chúa Crixtux cũng sẽ phù hộ cho chàng bằng quyền lực chúa tể của người, và có thể đây chính là ý Chúa. “Cần được như thế!” - Vinixius thầm kêu lên trong lòng. Khi ấy, chàng sẽ trả thù Nerô vì sự đày đoạ đối với Ligia và nỗi bất an của chính chàng, chàng sẽ thiết lập nền trị vì của công bình và chân lý, chàng sẽ truyền bá giáo thuyết của Chúa Crixtux từ sông Euphrat đến tận những bờ bến mù sương của xứ Brytania, rồi chàng sẽ khoác chiếc áo màu tía cho cả Ligia và biến nàng thành bà chúa của trái đất.
      Song những ý nghĩ này, những ý nghĩ bừng lên trong trí óc chàng như một chùm tia lửa toé ra từ một ngôi nhà đang cháy cũng nhanh chóng lụi tàn đi như những tia lửa ấy. Trước hết, cần phải cứu Ligia thoát đã. Lúc này chàng mới được chứng kiến thật gần cái thảm hoạ gớm ghê, nên nỗi lo sợ lại chế ngự chàng một lần nữa; trước cái biển lửa và khói này, trước sự va chạm với thực tế phũ phàng, lòng tin mà chàng đặt vào việc đức Sứ đồ Piotr sẽ cứu thoát Ligia hoàn toàn tắt lặng trong tim chàng. Lần thứ hai, sự tuyệt vọng lại tóm được chàng; vậy nên khi lên được con đường Via Portuenxix dẫn thẳng đến khu Zatybre, tới ngay sát cổng thành chàng mới sực tỉnh khi nghe người ta lập lại với chàng cái điều mà dân lánh nạn đã nói trước kia, rằng phần lớn khu phố này chưa bị đám cháy lan tới, mặc dù tại một vài nơi lửa đã vượt được sang bên này sông.
      Tuy nhiên, khu Zatybre cũng đặc khói mù và chen chúc đám đông những người lánh nạn, khó lòng vượt qua những đám người này để tiến sâu hơn nữa vào khu phố, bởi lẽ ở đây người ta có nhiều thì giờ để cứu và mang theo nhiều đồ đạc. Tại nhiều chỗ, con đường chính Portava hoàn toàn bị tắc nghẽn bởi các thứ đồ đạc, đồ đạc chất thành từng đống to tại tại gần Naunuchia Augusta. Những ngõ phố chật hẹp đầy đặc khói mù hoàn toàn không thể len chân vào nổi. Hàng nghìn hàng nghìn cư dân cháy trốn thoát ra từ các ngõ phố ấy. Dọc đường, Vinixius trông thấy những cảnh tang thương. Nhiều lúc hai dòng sông người chảy từ hai hướng ngược nhau chợt va phải nhau trong một lối đi chật hẹp, họ dồn ép nhau, chen lấn nhau, đánh giết nhau. Người ta giết chết nhau và giày xéo lên nhau. Trong cảnh hỗn độn, gia đình ly tán, những bà mẹ tuyệt vọng gọi tên con. Tóc Vinixius như dựng đứng cả lên khi nghĩ tới những gì có thể diễn ra khi ngọn lửa tiến đến gần hơn nữa. Trong những tiếng kêu gào và những tiếng ồn ào ầm ĩ thật khó lòng hỏi thăm được chuyện gì, khó lòng hiểu nổi những tiếng gọi. Chốc chốc, từ bên kia sông lại tràn sang những đụn khói mới, đen kịt và nặng nề, chúng lặc lè lê sát mặt đất, nhấn chìm cả nhà cửa người ngợm cùng tất thẩy mọi vật, hệt như bóng đêm trùm phủ thế gian. Rồi ngọn gió do đám cháy tạo nên lại xua khói đi, và những khi ấy Vinixius mới có thể nhích thêm lại gần cái ngõ hẻm, nơi có ngôi nhà của ông Linux. Cái nồng nực của một ngày hè tháng bảy cộng thêm với hơi nóng dội về từ những khu phố đang cháy khiến cho nó trở nên không sao chịu nổi. Khói cay xè trong mắt, ngực ngạt hơi thở. Ngay cả những người hi vọng rằng ngọn lửa không thể vượt qua sông sang bên này, cho tới lúc này còn ở lại nhà, cũng bắt đầu rời nhà ra đi, và cứ thế, mỗi giờ đám người càng đông thêm mãi. Toán lính cấm vệ tháp tùng Vinixius đã rớt lại phía sau. Trong đám đông một kẻ nào đó đã dùng búa đánh bị thương con ngựa của chàng, nó lắc lư chiếc trán đẫm máu, đứng dựng lên và không chịu tuân lệnh người cưỡi nữa. Qua chiếc áo tunica sang trọng, người ta đã nhận ra chàng là một cận thần, và chung quanh lập tức dậy lên những tiếng kêu thét: “Giết chết Nerô và bọn châm lửa đốt nhà đi!”. Giây phút cực kỳ nguy nan đã tới, hàng trăm cánh tay vươn lại phía Vinixius, nhưng con ngựa hoảng sợ lồng lên, giày xéo vào đám người, và một làn sóng mới của những cuộn khói đen ngòm lại tràn đến, nhấn chìm ngõ phố vào bóng tối. Biết là không sao qua được, Vinixius bèn nhẩy vọt xuống đất và cắm đầu chạy bộ, nương theo các bức tường, thỉnh thoảng chàng phải dừng lại chờ cho đám người đang chạy trốn vượt qua. Chàng thầm nhủ rằng đây chỉ là những cố gắng vô ích. Có thể Ligia đã không còn ở trong thành phố nữa, lúc này đây nàng có thể đang chạy trốn thoát thân. Tìm một chiếc kim trên bãi biển còn dễ hơn tìm thấy nàng trong đám đông chật cứng và hỗn loạn này. Nhưng chàng vẫn muốn đến được nhà ông Linux, dù phải trả giá bằng tính mạng của chàng đi chăng nữa. Chốc chốc, chàng phải dừng lại lau mắt. Chàng giật đứt gấu áo tunica bịt chặt lấy mũi cùng miệng rồi chạy tiếp.
      Càng đến gần sông, cái nóng càng tăng lên dữ dội. Biết rõ ràng đám cháy bắt đầu từ Đại Hý Trường, thoạt tiên Vinixius cho rằng chắc đó là hơi nóng toả ra từ đám than hồng của Đại Hý Trường và Forum: Boarium cũng như Velabrium nằm ngay gần đây và hẳn là đã bị ngọn lửa nuốt chửng. Nhưng cái nóng mỗi lúc càng trở nên không sao chịu nổi. Một người nào đó đang chạy trốn, một ông lão thọt chân, người cuối cùng mà Vinixius được gặp, kêu lên: “Chớ lại gần cầu Xextius! Cả hòn đảo bị lửa bao trùm rồi!”. Quả thực không thể tự lừa mình lâu hơn nữa. Đến chỗ ngoặt sang Vicux Juđacorum, nơi có ngôi nhà ông Linux, chàng hộ dân quan trẻ tuổi nhìn thấy ngọn lửa đang uốn lượn giữa những đám mây khói. Không những chỉ riêng hòn đảo bốc cháy mà ngay cả khu Zatybre cũng thế, chí ít là đầu kia của cái phố mà Ligia đang ở đã bốc cháy rồi.
      Tuy nhiên, Vinixius vẫn còn nhớ rõ ràng ngôi nhà ông Linux có vườn bao quanh, bên ngoài vườn, về phía sông Tyber là một khoảng đồng không rộng lắm nhưng không hề có một công trình xây dựng nào cả. Ý nghĩ ấy đã cổ vũ chàng. Lửa có thể bị chận lại ở chỗ trống. Với niềm hi vọng ấy, chàng chạy tiếp, mặc dù lúc này mỗi làn gió mang đến không chỉ khói mà còn cả hàng nghìn tia lửa, chúng có thể gây nên đám cháy từ đầu phố bên kia và chận mất đường lui.
      Song, rốt cuộc, như qua một làn khói mù, chàng cũng trông thấy những cây trắc bá trong vườn nhà ông Linux. Những ngôi nhà nằm phía bên kia khoảng đồng không xây dựng đang cháy như những đống gỗ, nhưng cái biệt thự nhỏ bé của ông Linux vẫn đứng yên lành, chưa bị chạm tới. Lòng tràn ngập niềm biết ơn, Vinixius ngước nhìn lên trời, rồi chàng nhẩy vội đến cạnh ngôi nhà, mặc cho làn không khí nóng đã bắt đầu thiêu đốt. Cánh cổng khép, song chàng đẩy ra và lao vào bên trong.
      Khu vườn nhỏ không một bóng người, ngôi nhà hình như cũng hoàn toàn trống vắng.
      “Có thể họ đã bị ngất đi vì khói và vì nóng?” - Vinixius nghĩ thầm. Và chàng gọi:
      - Ligia! Ligia!
      Đáp lại chàng là một sự im lặng. Trong tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng gầm réo phía xa xa.
      - Ligia!
      Đột nhiên vọng đến tai chàng cái tiếng kêu buồn thảm mà đã có lần chàng nghe thấy tại chính khu vườn này. Chắc hẳn cái chuồng thú không xa thần miếu Exkulap trên hòn đảo cạnh đấy đã bốc lửa, trong chuồng, mọi loại thú - kể cả sư tử - bắt đầu gầm thét vì kinh hoàng. Một cơn rùng mình chạy từ chân lên đỉnh đầu Vinixius. Đó đã là lần thứ hai, vào lúc toàn bộ con người chàng đang tập trung trong ý nghĩ về Ligia, thì những tiếng kêu khủng khiếp kia lại vang lên, dường như báo trước những điều bất hạnh, một điềm báo kỳ lạ cho cái tương lai đầy đe doạ.
      Song đó chỉ là một ấn tượng ngắn ngủi, kéo dài trong chốc lát, vì tiếng réo ù ù của đám cháy còn kinh khủng hơn tiếng gầm của lũ thú dữ, nó bắt ta phải nghĩ tới chuyện khác. Ligia không đáp lại lời chàng gọi, nhưng rất có thể nàng vẫn đang có mặt trong ngôi nhà đang bị đe doạ này, có thể nàng đã bị ngất đi hoặc bị ngạt thở vì khói. Vinixius nhẩy vội vào nhà. Trong gian chính sảnh nhỏ trống rỗng và tối tăm vì khói mù, đưa tay sờ soạng tìm cánh cửa dẫn vào phòng ngủ, chàng chợt nhận ra một ánh đèn mờ ảo, tiến lại gần, chàng nhìn thấy bàn thờ gia thần, trên đó thay vì các gia thần lại là một chiếc thánh giá. Dưới thánh giá là một ngọn đèn đang cháy. Thoáng qua óc chàng trai mới học đạo như một ánh chớp cái ý nghĩ rằng chính cây thánh giá kia đã gửi đến cho chàng ngọn đèn nhỏ nọ, nhờ đó chàng có thể tìm thấy Ligia chăng; chàng bèn cầm lấy chiếc đèn và bắt đầu tìm kiếm các phòng ngủ. Tìm thấy một phòng, chàng gạt phắt tấm rèm che, giơ đèn soi sáng và nhìn vào bên trong.
      Ở đó không có một ai. Tuy thế, Vinixius vẫn tin chắc rằng chàng đã vào đúng phòng ngủ của Ligia, bởi lẽ trên những chiếc đinh đóng vào tường đang treo sống áo của nàng, trên giường là chiếc cappitium, loại áo dài bó chẽn mà phụ nữ mặc ở bên trong. Vinixius giật lấy chiếc áo áp vào môi, rồi vắt nó qua vai, chàng tiếp tục tìm kiếm. Ngôi nhà vốn nhỏ bé, nên chỉ trong một thời gian ngắn chàng đã sục khắp các buồng, thậm chí tìm cả dưới hầm nhà. Nhưng chàng chẳng thấy một ai. Đã quá rõ ràng rằng Ligia, ông Linux và bác Urxux đã cùng các cư dân khác của khu phố chạy tránh lửa. “Phải tìm họ trong đám người bên ngoài thành vậy” - Vinixius nghĩ thầm.
      Chàng cũng không mấy ngạc nhiên là đã không gặp họ trên đường Via Portuenxix, vì rất có thể họ đã thoát khỏi khu Zatybre theo lối ngược lại, về phía núi Vatycan. Dù sao, họ cũng đã thoát khỏi bị chết thiêu. Vinixius cảm thấy như có một tảng đá thôi đè lên ngực chàng. Mặc dù chàng đã được thấy cuộc chạy trốn kia gắn liền với những nỗi nguy hiểm ghê gớm ra sao, nhưng cứ nghĩ đến sức lực siêu nhiên của bác Urxux là chàng lại thấy lòng phấn chấn. “Bây giờ mình phải thoát khỏi chốn này (chàng nghĩ thầm), qua vườn Đomoxia đến vườn Agrypina. Tại đó mình sẽ tìm được họ. Ở đó khói không nhiều lắm, vì gió thổi từ hướng núi Xabin lại”
      Tuy nhiên, cũng đã đến lúc chàng phải nghĩ ngay đến việc tự cứu lấy thân, vì sóng lửa từ phía đảo mỗi lúc một tiến lại gần hơn, và những cuộn khói đã che phủ gần hết cái ngõ nhỏ. Cây đèn cầy mà chàng dùng để soi sáng gian nhà bị luồng không khí thổi tắt phụt. Nhào ra ngoài phố, giờ đây Vinixius chạy hết sức về phía Via Portuenxix, phía mà chàng đã đến, chàng cảm thấy rõ ràng ngọn lửa của đám cháy đang phả hơi thở bỏng rát của nó đuổi theo sau, lúc thì nó vây chàng trong những đám mây khói mới, lúc lại trùm lên khắp người chàng hàng nghìn tia lửa, chúng rơi lên tóc, lên cổ, lên quần áo chàng. Chiếc áo tunica trên người chàng bắt đầu ngừng cháy một vài chỗ, song chàng chẳng hề để ý đến chuyện ấy mà vẫn chạy thục mạng, sợ rằng khói có thể sẽ khiến chàng ngạt thở. Miệng chàng có vị khét cháy và mùi than tro, cổ họng và trong phổi chàng rát bỏng như có lửa đốt. Máu dồn mạnh lên đầu chàng, khiến đôi khi chàng nhìn mọi vật toàn một màu đỏ, ngay cả khói cũng có màu đỏ. Những khi ấy, chàng tự nhủ: “Đây thật là ngọn lửa có hồn(1)! Tốt nhất mình cứ lăn ra đất chịu chết cho rồi!” Việc chạy mỗi lúc một khiến chàng thêm mệt. Đầu, cổ và lưng chàng đầm đìa mồ hôi, thứ mồ hôi ấy khiến chàng xót như bỏng nước sôi, giá không có cái tên Ligia mà chàng thầm kêu lên trong óc, giá không có chiếc capinium của nàng mà chàng quấn quanh miệng, thì hẳn chàng đã gục ngã mất rồi. Vài giây sau, chàng không còn nhận ra được cái ngõ mà chàng đang chạy nữa. Trí giác dần dần rời bỏ chàng, chàng chỉ nhớ đinh ninh một điều là cần phải thoát, vì ngoài khoảng đồng trống Ligia đang chờ chàng, nàng Ligia mà Sứ đồ Piotr đã hứa sẽ mang đến cho chàng. Và đột nhiên, chàng có một lòng tin kỳ lạ nào đó, như mê như say, như một ảo ảnh trước khi lâm chung rằng chàng nhất định sẽ được gặp mặt nàng, sẽ cưới nàng, rồi sau đó sẽ chết ngay lập tức.
      Chàng chạy như một người say, chuệnh choạng từ bên này sang bên kia đường phố. Chính vào lúc ấy, đột nhiên có một thứ gì đó chợt đột biến trong ngọn lửa kinh khủng đang bao trùm cái thành phố khổng lồ. Chắc là tất thảy những gì cho đến lúc này chỉ cháy âm ỉ giờ cùng bùng lên thành một biển lửa, bởi vì gió không còn mang khói tới và đám khói bị tích tụ trong các ngõ hẻm bị một luồng không khí nóng bỏng điên cuồng xua tan đi. Luồng khí nóng ấy lúc này cuốn theo hàng triệu tàn lửa, Vinixius như đang chạy trong một đám mây lửa vậy. Ngược lại, chàng có thể nhìn thấy rõ hơn mọi thứ ở trước mắt, và chính lúc chàng sắp gục xuống thì chàng chợt trông thấy đầu ngõ. Cái đó tiếp thêm sức lực cho chàng. Vượt qua góc phố, chàng ra được cái phố dẫn tới Via Portuenxix và cánh đồng Kođetan. Những tàn lửa thôi không đuổi theo chàng nữa. Chàng hiểu rằng, nếu chạy đến được con đường Portova thì chàng sẽ thoát chết, cho dù có thể bị ngất xỉu ở đấy đi chăng nữa.
      Chợt chàng nhìn thấy ở cuối phố có cái gì như một đám mây đen che khuất mất lối thoát. “Nếu như đó là khói, - chàng nghĩ - thì chắc là mình không qua nổi”. Chàng chạy với chút sức cuối cùng còn sót lại. Dọc đường, chàng cởi bỏ chiếc áo tunica bị tàn lửa bén cháy đang thiêu đốt da thịt chàng như chiếc áo của Nexxux, và mình trần, chỉ quấn độc chiếc áo capitium của Ligia che đầu và bịt miệng, chàng lao đi. Chạy đến gần, chàng nhận ra rằng thứ mà chàng ngỡ là khói thực ra là một đám bụi mù mịt, từ trong đó vẳng ra tiếng nói và tiếng kêu la:
      “Bọn vô lại đang cướp của!” - chàng tự nhủ.
      Song chàng vẫn cứ chạy về hướng có tiếng người. Ở đó chắc hẳn có những người có thể giúp được chàng. Với niềm hi vọng ấy, trước khi chạy tới nơi, chàng đã ra sức kêu cứu. Song đó đã là nỗ lực cuối cùng của chàng. Trước mắt chàng màu đỏ càng sẫm hơn, phổi chàng hụt hơi, xương cốt chàng rã rời, chàng gục xuống.
      Nhưng người ta cũng đã nghe thấy tiếng kêu của chàng, đúng hơn, người ta nhận ra chúng, và hai người lao ra cứu chàng mang theo hai bình nước. Ngã xuống vì kiệt sức nhưng không bị mất tri giác, Vinixius ôm chầm lấy cả hai bình và uống cạn đến nửa.
      - Cảm ơn. - Chàng nói - Xin hãy dựng tôi dậy, tôi sẽ tự đi tiếp
      Người thợ thứ hai dội nước vào đầu chàng, rồi cả hai không những chỉ dựng chàng đứng dậy mà còn nhấc chàng lên, mang tới chỗ một đám người khác, những người này vây quanh chàng, ân cần xem xét thử chàng có bị thương nhiều hay chăng. Sự ân cần ấy khiến Vinixius ngạc nhiên.
      - Các người, - chàng hỏi - các người là ai?
      - Chúng tôi phá bớt nhà cửa để đám cháy không lan được tới đường Portova. - Một người thợ đáp.
      - Các người đã cứu tôi khi tôi ngã, xin cảm ơn các người.
      - Chúng tôi không thể không cứu ông. - Vài giọng nói đáp lời chàng.
      Lúc này Vinixius - người suốt từ sáng đã phải chứng kiến cảnh những đám đông hoá thành man dã, cảnh đánh nhau và cảnh cướp bóc - bèn ngắm kỹ hơn những khuôn mặt đang vây quanh chàng.
      - Cầu… Đức Chúa Crixtux ân thưởng cho các người!
      - Sáng danh Chúa! - Cả đám người đồng thanh đáp lại.
      - Ông Linux?… Vinixius hỏi.
      Song chàng không thể hỏi tiếp và cũng không hề nghe được câu trả lời, bởi vì qua xúc động và vì những nỗ lực vừa qua, chàng ngất đi. Khi tỉnh lại, chàng đang ở trên cánh đồng Kođetan, trong một khu vườn, có mấy người đàn bà và đàn ông vây quanh chàng, và lời đầu tiên mà chàng đủ sức thốt lên là:
      - Ông Linux đâu rồi?
      Một hồi lâu không có câu trả lời, sau đó một giọng nói mà Vinixius rất quen đột nhiên cất lên:
      - Ở bên ngoài cổng thành Nomentan; ông ấy đã đi Oxtrianum… từ hai ngày nay… Bằng an cùng người, hỡi quốc vương Ba Tư!
      Vinixius nhỏm người ngồi dậy, bất ngờ trông thấy lão Khilon đang đứng trước mặt.
      Lão già Hi Lạp nói:
      - Thưa ngài, ngôi nhà của ngài chắc là đã cháy sạch rồi, vì cả ngọn đồi Karyny chìm trong lửa, nhưng bao giờ ngài cũng giàu ngang với vua Midax! Ôi, bất hạnh thay! Hỡi con trai của Xerapix, các tín đồ Thiên chúa giáo đã bảo trước từ lâu rằng lửa sẽ thiêu huỷ thành phố kia mà… Còn ông Linux cùng cô con gái của thần Jupiter đang ở tại Oxtrianum… Ôi, bất hạnh thay, nỗi bất hạnh giáng xuống thành phố này mới lớn làm sao.
      Vinixius thấy như người chàng yếu hẳn đi:
      - Ngươi trông thấy họ ư? - chàng hỏi
      - Tôi trông thấy, thưa ngài… Xin họ hãy tạ ân Chúa vì tất thẩy các vị thần linh vì tôi đã có thể đền đáp lòng hảo tâm của ngài bằng một tin tức tốt lành. Còn tôi, thưa Ođyryx, tôi nguyện sẽ còn đền đáp ơn ngài nhiều nữa kia, thề có thành Roma đang cháy!
      Trời đã tối, nhưng trong khu vườn còn sáng như ban ngày, bởi lẽ đám cháy lúc này càng mạnh thêm lên. Hình như không phải từng khu phố riêng lẻ đang cháy nữa mà cả thành phố rộng mênh mông đang cháy. Bầu trời đỏ rực đến hút tầm mắt và thế gian bước vào một đêm màu đỏ.
      Chú thích:
      (1) Nguyên văn: đây là một ngọn lửa sống động

      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #48
        T2 - Chương 44

        Quầng lửa của thành phố đang rực cháy lan khắp bầu trời rộng đến hết tầm mắt nhìn. Từ sau những ngọn đồi, vầng trăng rằm tròn ửng to tướng nhô lên, dường như bị ánh lửa hun nóng, nhuốm màu đồng nung và hình như ngơ ngác nhìn cái thành đô bá chủ thế giới đang bị thiêu huỷ. Trên khoảng mênh mông nhuốm hồng của bầu trời, long lanh những vì sao cũng màu hồng, song ngược với những đêm thông thường, đêm nay đất sáng hơn trời. Mang hình một đống lửa khổng lồ rực cháy, Roma soi sáng cả vùng Kampania. Trong ánh lửa đỏ bầm nhìn rõ cả những ngọn đồi xa hơn nữa của thành phố, những toà biệt thự, những thần miếu, những pho tượng và những đường máng dẫn nước từ những ngọn núi lân cận hướng về thành phố; trên những đường máng nước ấy nghìn nghịt những người là người. Họ đang tìm chỗ náu thân ở đó hoặc đến đó để nhìn đám cháy.
        Trong khi đó, hung thần lửa kinh khủng mỗi lúc lại chiếm lĩnh thêm những khu phố mới. Không còn nghi ngờ gì nữa, có những bàn tay tội ác nào đó đã đốt cháy thành phố, và mỗi lúc lại có thêm những đám cháy mới bùng lên ở những địa điểm cách trung tâm đám cháy chính rất xa. Từ những ngọn đồi, trên đó thành Roma được dựng lên, ngọn lửa như những làn sóng biển tràn xuống các vùng thung lũng, nơi dày sít những ngôi nhà năm sáu tầng, đầy nghẹt những nhà gỗ, những lều quán, những khán đài lưu động bằng gỗ được dựng lên cho thích ứng với những trò chơi đủ loại, và rốt cuộc là những kho chứa gỗ, dầu ô liu, ngũ cốc, hồ đào, quả thông mà hạt được dùng để nuôi sống đám dân nghèo, cùng những kho quần áo mà thảng hoặc khi các vị Hoàng đế muốn ban ơn, người ta lại đem phân phát cho đám tiện dân sinh sống trong các ngõ hẻm chật chội. Chính ở đó, ngọn lửa tìm được đủ chất cháy để biến thành hàng tràng tiếng nổ gần như liên tiếp, và với một tốc độ chưa từng thấy, nó ngốn trọn từng đường phố một. Những người đang hạ trại ở ngoại thành hoặc đang đứng trên các máng dẫn nước dựa theo màu lửa mà đoán được đang cháy thứ gì. Chốc chốc, hơi gió điên cuồng lại mang từ biển lửa, rừng rực tung lên cao hàng nghìn hàng triệu những quả hồ đào hạnh nhân đang cháy đỏ, chúng vọt lên trời như một đàn bướm rực rỡ đông không tính xuể, và vỡ toác ra với những tiếng kêu giòn giã trong không khí, hay cuốn theo chiều gió để rồi rơi xuống những khu phố mới, những đường máng nước hay những cánh đồng vây quanh thành phố. Mọi ý định cứu hoả đều có vẻ vô vọng, trong khi đó sự xao động mỗi lúc một tăng thêm, vì một bên đám thị dân đang chạy trốn cố vượt tất cả các cổng thành để ra ngoài, còn một bên thì đám cháy lại thu hút hàng nghìn người từ những vùng lân cận, những cư dân của những thị trấn nhỏ, những nông dân cùng các mục dân nửa phần hoang dã của vùng đồng bằng Kampania, bọn này thậm chí còn hi vọng cướp của nữa.
        Tiếng kêu la: “Roma đang tận số!” không rời khỏi miệng đám đông, mà sự tận số của thành đô, vào thời ấy, cũng đồng thời là sự tận số của quyền thống trị, sự tháo cởi của tất thẩy những giềng mối cho đến nay vẫn ràng buộc dân chúng thành một khối. Đám tiện dân, mà đa số là nô lệ và người tứ xứ kéo đến, không có lợi lộc gì trong sự thống trị của đế quốc La Mã, sự sụp đổ của nó đối với họ lại là sự giải thoát khỏi xiềng xích, nên đây đó họ trở thành mối đe doạ. Bạo lực và cướp bóc bắt đầu lan tràn. Dường như duy nhất chỉ còn cảnh thành phố bị thiêu huỷ là có thể thu hút sự chú ý của mọi người và có thể kìm hãm chưa thể nổ ra cuộc tàn sát, sẽ nổ ra ngay lập tức sau khi thành phố chỉ còn là đống tro tàn. Hàng trăm nghìn nô lệ chợt quên đi rằng ngoài các thần miếu và những bức tường thành La Mã còn hàng chục chiến đoàn đóng tại mọi vùng thế giới - dường như họ chỉ chờ có khẩu lệnh và thủ lĩnh là ra tay. Người ta nhắc đến tuổi Xpactakux. Xpactakux còn đâu nữa, các vị công dân bắt đầu tập họp và tự vũ trang bằng tất cả những gì họ kiếm được. Những tin tức kinh khủng nhất loan truyền khắp các cổng thành. Một số người khăng khăng bảo rằng chính thần Vunkan theo lệnh của thần vương Jupiter đang triệt phá thành phố bằng ngọn lửa lấy dưới âm ty; kẻ khác lại nói rằng đó là nữ thần Vexta trả thù về chuyện ni cô đồng trinh Rubria. Những người tin vào chuyện đó không muốn cứu chữa gì hết, họ chỉ vây quanh các thần miếu cầu xin các vị thần linh thương xót. Song loan truyền rộng rãi hơn cả là dư luận cho rằng chính Hoàng đế đã ra lệnh đốt cháy Roma để thoát khỏi mùi xú uế bay lên từ khu Xubura và để có thể dựng nên một thành đô mới mang tên Norônia. Ý nghĩ này khiến dân chúng sôi lên sùng sục. Vinixius nghĩ rằng, nếu như có lãnh tụ nào lợi dụng sự bùng nổ lòng căm thù này, thì giờ tận số của Nerô sẽ điểm sớm hơn nhiều năm.
        Người ta cũng đồn rằng Hoàng đế đã phát điên, ra lệnh cho lính cấm vệ và bọn đấu sĩ đánh vào quần chúng, tàn sát tất cả. Một số người viện cả thần thánh ra thề rằng theo lệnh của gã Râu Đỏ, thú dữ đã được thả sổng ra khỏi tất cả các chuồng thú. Người ta đã nhìn thấy trên phố những con sư tử với cái bờm rực cháy và những con voi điên, những con bò tót dày xéo lên dân chúng. Trong những điều đó cũng có một phần sự thật, vì tại một số nơi, trước cảnh đám cháy đang lan lại gần, lũ voi phá tan chuồng thú thoát ra ngoài và kinh hoàng chạy thục mạng về hướng ngược với ngọn lửa, như một cơn bão tàn phá tất cả mọi thứ dọc đường. Những tin tức công khai nói rằng hàng chục người chết cháy trong lửa. Quả thực người chết rất nhiều. Có những người mất toàn bộ gia sản hoặc mất hết những sinh linh thân yêu nhất, tuyệt vọng tự lao mình vào ngọn lửa. Những kẻ khác bị khói làm chết sặc. Ở trung tâm thành phố, một bên là đồi Kapiton, một bên là các ngọn đồi Quirynan, Viminan và Exquilin, cũng như vùng nằm giữa Palatyn và đồi Caelius, nơi có những đường phố sầm uất nhất, đám cháy bùng ra cùng một lúc tại nhiều địa điểm, đến nỗi hàng đám người chạy trốn lửa về một phía nào đấy bất ngờ gặp phải một bức tường lửa lan từ phía ngược lại, đành chịu chết kinh hoàng trong biển lửa.
        Trong nỗi kinh hoàng, hoang mang và lộn xộn, rốt cuộc người ta không còn biết phải chạy đi đâu. Đường nghẽn đầy đồ đạc, tại những chỗ vốn hẹp, đường hoàn toàn tắc nghẽn. Những người trốn lửa tại bãi chợ và những quảng trường, nơi về sau này sẽ xây dựng nhà hát Flavian, gần miếu thờ thần Đất, gần hàng hiên Livia và phía trên cao hơn nữa, chung quanh thần miếu Innon và Luxyna, cũng như giữa Clivux Vibriux và cổng thành Exquilin cũ, bị hàng rào biển lửa vây kín chung quanh đều bị chết hết vì nóng. Về sau, ngay tại những chỗ mà ngọn lửa không lan đến, người ta tìm thấy xác hàng trăm người bị hoá thành than, mặc dù đây đó những kẻ bất hạnh ấy đã nhổ bật các phiến đá hoặc tự chôn đến nửa người xuống đất để tránh cái nóng. Gần như không một gia đình nào ở trung tâm thành phố được cứu thoát hoàn toàn, vì vậy dọc theo các tường thành và bên tất cả mọi cổng thành, trên mọi nẻo đường đi, đều vang lên tiếng gào thét tuyệt vọng của đàn bà gọi tên những người thân yêu bị chết mất xác trong đám đông hay ngọn lửa.
        Và cứ thế, trong khi một số người cầu xin lòng thương hại của các vị thần thì những kẻ khác lại nhục mạ các thần trước thảm hoạ khủng khiếp này. Người ta thấy những cụ già quay về phía thần miếu Jupiter Xtator vung tay thét lên: “Người là đấng độ thế, hãy cứu vớt lấy bàn thờ của Người và thành đô đi!” Tuy nhiên, nỗi tuyệt vọng chủ yếu quay ngược trở lại chống các vị thần La Mã cổ xưa, những vị mà theo người ta quan niệm phải có trách nhiệm chăm lo chu đáo hơn đến thành phố so với các thần khác. Họ đã tỏ ra bất lực nên phải bị người ta nguyền rủa. Ngược lại, khi trên đường phố Via Arinavia xuất hiện một đoàn các tăng lữ Ai Cập rước pho tượng nữ thần Izyđa mà người ta cứu được trong cái thần miếu nằm cạnh Porta Caelimontan, thì dân chúng liền nhập vào đám rước, bám vào xe và đẩy nó đến tận cổng thành Appia, rồi nhấc tượng ra, rước vào đặt trong thần miếu thờ thần Marx, đồng thời nện cho các vị tăng lữ thờ thần Marx một trận khi họ định cưỡng lại. Tại những nơi khác người ta gọi tên các thần Xerapix, Baan hoặc Jehova. Đám tín đồ của các vị thần này sống đầy rẫy trong các ngõ hẻm thuộc địa hạt khu Xubura và Zatybre, khiến cho những cánh đồng nằm cạnh tường thành vang rền tiếng gào, tiếng kêu. Song trong những tiếng kêu ấy hình như vang lên thanh âm thắng lợi, nên khi có một đám người góp giọng vào dàn đồng ca ngợi ca vinh quang của đấng “Chúa tể thế gian” thì những người khác bực mình vì sự ồn ào vui vẻ kia liền dùng sức mạnh dập tắt nó đi. Đây đó vang lên những bài ca kỳ lạ và trang trọng do những người đàn ông tráng niên, đàn bà, trẻ con và những cụ già hát, người ta không hiểu được ý nghĩa của những bài ca đó cứ chốc chốc lại lặp lại những lời “Đang đến kìa vị quan toà trong cái ngày giận dữ và thảm thương”. Làn sóng người sôi động và không ngủ, như mặt biển nối sóng cồn, cứ thế quay cuồng mãi quanh cái thành phố đang cháy.
        Song không gì cứu vãn nổi, cả những lời thoá mạ, nỗi tuyệt vọng lẫn những bài ca. Thảm hoạ này dường như Định Mệnh, không sao cưỡng nổi, không thể van xin, một thảm hoạ hoàn toàn. Gần nhà hát Pompeius bốc cháy những kho chứa gai và dây chão mà người ta cần dùng rất nhiều cho các hý trường, các đấu trường và tất thẩy mọi loại máy móc được sử dụng trong các trò vui thế vận, bốc cháy cả những toà nhà lân cận, nơi chứa các thùng nhựa dùng để bôi trơn các dây chão kia. Suốt mấy giờ liền, toàn bộ phần thành phố nằm cạnh cánh đồng thần Marx được một ngọn lửa vàng tươi rực rỡ chiếu sáng, đến nỗi suốt một hồi lâu, những người xem nửa mê nửa tỉnh vì kinh hoàng ngỡ rằng trong cơn hoạn nạn chung này, ngay cả trật tự ngày đêm cũng bị đảo lộn, họ ngỡ như đang nhìn thấy ánh mặt trời. Song sau đó, một ánh sáng đỏ bầm màu máu đã át tất cả những màu lửa khác. Dường như có những vòi lửa và những cột lửa khổng lồ vọt lên bầu trời đã bị nung nóng bỏng, xoè rộng trên cao thành những chùm lông và hoa lửa, gió xé chúng ra biến thành những sợi chỉ vàng và những sợi tóc lửa, rồi mang mãi đi xa bên trên vùng đồng bằng Kampania, đến tận dẫy núi Anban. Đêm mỗi lúc một sáng thêm, ngay cả không khí không những chỉ chứa đầy ánh lửa mà thậm chí đầy những ngọn lửa. Sông Tyber chảy trôi đi như một dòng lửa sống động. Thành phố bất hạnh biến thành một địa ngục. Đám cháy mỗi lúc một chiếm lĩnh những khoảng không gian rộng lớn hơn, tấn công những ngọn đồi, tràn ngập vùng đồng bằng, nhận chìm các thung lũng, điên cuồng, gào thét và thiêu huỷ
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #49
          T2 - Chương 45

          Người thợ dệt Makrynux, chủ ngôi nhà mà người ta mang chàng Vinixius vào, rửa ráy, mặc quần áo cho Vinixius và cho chàng ăn, sau đó chàng hộ dân quan trẻ tuổi ấy lấy lại sức hoàn toàn, chàng tuyên bố rằng ngay trong đêm ấy chàng sẽ tiếp tục đi tìm ông Linux. Ông Makrynux, một tín đồ Thiên Chúa cũng khẳng định lại lời lão Khilon rằng cùng với thầy tu tuổi tác tên là Klemenx, ông Linux đã tới Oxtrianum, nơi Sứ đồ Piotr rửa tội cho một đám đông các tín đồ của giáo thuyết mới. Những người Thiên chúa giáo trong khu phố này được biết rằng ông Linux giao quyền quản lý nhà ông cho một người tên là Gaiux nào đó đã từ hai hôm nay. Đối với chàng Vinixius, điều đó là bằng chứng chứng tỏ rằng Ligia và bác Urxux không có mặt ở nhà và chắc chắn họ cũng đã cùng ông Linux đi tới Oxtrianum rồi.
          Ý nghĩ ấy khiến chàng nhẹ cả người. Là một người già nua tuổi tác, ông Linux khó có thể hàng ngày đi bộ từ khu Zatybre ra mãi khu vực bên ngoài cổng thành Nomentan, rồi từ đó lại trở về Zatybre, nên chắc hẳn mấy ngày đó ông đã lưu lại ở nhà một trong số các đạo hữu bên ngoài thành, và cùng với ông có cả Ligia và bác Urxux nữa. Nhờ vậy họ đã thoát được hoả hoạn, và đám cháy nói chung cũng không lan sang sườn bên kia của ngọn đồi Exquilin, Vinixius thấy như trong tất cả những sự việc đó có sự an bài của Chúa Crixtux; chàng cảm thấy sự bảo trợ của Người đối với chính bản thân chàng, và với trái tim tràn ngập hơn bao giờ hết lòng biết ơn, chàng thầm hứa với Người trong tâm tưởng rằng suốt đời chàng sẽ báo đền ơn Người trước những bằng chứng hiển nhiên của những ân phước kia.
          Tuy nhiên chính điều ấy càng khiến chàng nóng lòng muốn đi ngay tới Oxtrianum. Chàng sẽ tìm được Ligia, tìm được ông Linux, ông Piotr và sẽ đưa họ về một miền xa xôi nào đó, đến một mảnh đất nào đó của riêng chàng, thậm chí đến tận Xyxilia. Roma đang cháy và sau vài ngày nữa nó sẽ chỉ còn là một đống tro tàn, vậy họ còn ở lại đây làm gì trước thảm hoạ và đám người náo động? Nơi ấy họ sẽ sống giữa những đám nô lệ bị đày ải, nơi ấy họ sẽ được vây bọc giữa sự yên ả của làng quê và sẽ sống thanh bình dưới đôi cánh che chở của Chúa Crixtux, họ sẽ được ông Piotr ban phước lành. Chỉ cần tìm ra họ nữa mà thôi.
          Nhưng đó không phải là chuyện dễ. Vinixius vẫn còn nhớ rõ chàng đã phải vất vả thế nào mới lần được từ đường Via Appia tới khu Zatybre, chàng đã phải chật vật biết bao mới tới được con đường Portova, nên giờ đây chàng quyết định sẽ đi vòng thành phố theo phía bên kia. Đi theo đường Khải Hoàn, dọc theo sông, có thể đến được tận cầu Emilius, từ đó, bỏ qua Pinxiux, xuôi cánh đồng thần Marx, men theo các khu vườn Pompeius, Lukullo và Xaluxtius, có thể đến được Via Nomentan. Đó là con đường ngắn nhất, song cả ông Makrynux lẫn lão Khilon đều khuyên không nên đi theo đường ấy. Cho tới lúc này, ngọn lửa chưa lan tới khu này của thành phố, nhưng tất cả các bãi chợ và đường phố đều có thể bị tắc nghẽn vì người và các thứ đồ đạc của họ. Lão Khilon khuyên nên đi qua Ager Vatykanux đến tận Porta Flaminia, tới đó sẽ vượt sông, rồi tiếp tục đi dọc bên ngoài tường thành, bên ngoài khu vườn Axylius, về phía Porta Xalaria. Sau một lúc ngần ngừ, Vinixius đồng ý với lời khuyên ấy.
          Ông Makrynux phải ở lại để canh nhà, song ông đã cố tìm được hai con la mà họ có thể dùng để lên đường tiếp tục đi tìm Ligia. Ông cũng định cấp thêm cho một người nô lệ nữa đi cùng nhưng Vinixius từ chối, vì chàng nghĩ rằng đám quân cấm vệ đầu tiên mà chàng gặp được trên đường đi sẽ tuân theo lệnh chàng, giống như lần vừa rồi.
          Lát sau, cùng với lão Khilon, chàng lên đường vượt qua Pagux Janiculenxix về hướng đường Khải Hoàn. Ngay cả tại đây, những chỗ trống cũng đã biến thành khu hạ trại, tuy nhiên họ vẫn len qua được, ít vất vả hơn, vì phần lớn dân chúng chạy trốn theo đường Portova dồn về phía biển. Qua cổng Xeptymian họ đi dọc con đường nằm giữa dòng sông và những khu vườn Đomixia tuyệt đẹp, những cây trắc bá của nó bị đám cháy hắt ánh đỏ rực trông như nhuộm trong ráng chiều. Đường mỗi lúc một thoáng người hơn, chỉ thảng hoặc họ mới phải đương đầu với dòng dân quê đi ngược lại mà thôi. Vinixius thúc la đi nhanh hết sức, còn lão Khilon theo sau chàng suốt dọc đường cứ lầm bầm tự nhủ: ‘’Thế là đám cháy đã nằm lại phía sau và đang làm nóng rát lưng ta. Chưa bao giờ trên con đường này ban đêm lại sáng tỏ đến thế. Lạy thần Zeux! Nếu người không trút mưa rào xuống dập tắt đám cháy này thì điều đó có nghĩa là Người không còn yêu gì Roma nữa cả. Sức người không thể dập nổi đám cháy nhường kia. Cả một thành đô được cả Hi Lạp lẫn toàn thế giới phục sự kia mà! Ấy vậy mà giờ đây bất kỳ một tên Hi Lạp nào cũng có thể nướng đậu trong đám tro than của thành phố! Ai ngờ được chuyện ấy kia chứ!… Sẽ không còn Roma và sự thống trị của La Mã nữa rồi… Khi đám tro tàn này nguội đi, kẻ nào muốn dẫm lên và huýt sáo sẽ được bình an mà huýt sáo tuỳ thích. Lạy các thần linh! Huýt sáo giễu cả cái thành đô thống trị thế giới thế này. Kẻ nào trong đám dân Hi Lạp hay ngay cả bọn dân man rợ nữa lại có thể ngờ được điều ấy…Vậy mà hắn có thể cứ huýt sáo, bởi vì đám tro tàn dù là còn lại sau đống lửa của bọn mục đồng hay sau một thành phố đã bốc cháy thì cũng chỉ là một đống tro tàn, chóng hay chầy rồi gió cũng thổi tung hê đi hết mà thôi”
          Vừa lầm bầm, thỉnh thoảng lão lại vừa quay nhìn về phía sóng lửa với bộ mặt vừa vui mừng vừa dữ tợn. Rồi lão lại lẩm bẩm tiếp:
          “Nó đang chết! đang chết! Sẽ không còn có nó trên mặt đất nữa. Giờ thì thế giới biết gửi đi đâu ngũ cốc, ô liu và tiền bạc của mình kia chứ? Ai sẽ cướp bóc vàng và ép ra những giọt nước mắt của thế giới? Cẩm thạch tuy không cháy nhưng sẽ nát vụn ra trong lửa. Kapiton thành gạch vụn và Palatyn đang thành gạch vụn. Hỡi thần Zeux! Roma vốn là mục đồng mà các dân tộc khác như đàn cừu. Khi mục đồng đói lòng, hắn chọc tiết một con cừu, chén thịt nó và dâng lên Người tấm da, hỡi vị cha đẻ của tất thẩy các thần! Còn giờ đây, hỡi vị thần Dôn Mây Mù, ai sẽ chọc tiết cừu cho Người. Người biết trao chiếc roi chăn dắt vào tay ai đây? Bởi Roma đang cháy thưa cha, như chính Người đã dùng sét của Người thiêu cháy vậy”
          - Quàng lên, - Vinixius giục lão. - Ngươi làm gì thế?
          - Tôi đang khóc thương Roma, thưa ông chủ. - Lão Khilon đáp, - một thành đô thần vương như thế!(1)…
          Hồi lâu họ cứ đi trong im lặng, lắng nghe tiếng gầm réo của đám cháy và tiếng xao động của những cánh chim. Giống bồ câu vốn làm tổ hàng đàn hàng lũ trong những toà biệt thự và những thị trấn khắp vùng Kampania, cùng đủ loại chim đồng, từ biển và từ vùng núi lân cận, bay hàng đàn như đui như mù lao vào đám lửa, chắc hẳn chúng tưởng nhầm ánh lửa cháy là ánh sáng mặt trời.
          Vinixius là người đầu tiên phá vỡ im lặng:
          - Khi đám cháy bùng nổ, ngươi đang ở đâu?
          - Tôi đang đến thăm ông bạn Euryxius, thưa ông chủ, ông ta đang giữ một quầy hàng cạnh Đại Hý Trường. Tôi đang suy ngẫm về giáo thuyết của Đức Chúa Crixtux, thì vừa lúc người ta bắt đầu kêu lên: “Cháy!” Người ta tụ tập chung quanh hý trường vừa để cứu hoả vừa vì tò mò, nhưng đến khi ngọn lửa trùm lên cả hý trường, đồng thời lại xuất hiện ở một vài nơi khác, thì người ta phải nghĩ ngay tới chuyện tự cứu lấy bản thân.
          - Ngươi có trông thấy những kẻ ném đuốc đang cháy vào các nhà không?
          - Có gì mà mắt tôi không thấy, hỡi cháu nội của ngài Eneas! Tôi đã trông thấy người ta dùng gươm để dọn đường trong đám đông; tôi đã trông thấy những đám đánh nhau và gan ruột người bị dẫm đạp nhầy nhụa trên đường. Ôi, thưa ngài, giá ngài nhìn thấy cái đó hẳn ngài ngỡ rằng bọn man rợ đã chiếm lĩnh được thành phố và đang tàn sát. Bốn chung quanh người ta gào lên rằng đã tới hồi tận thế mất rồi. Một số kẻ hoàn toàn mất tinh thần, không còn muốn trốn chạy và chờ đợi một cách vô hồn cho đến khi ngọn lửa ngoạm lấy chúng. Bọn khác điên khùng lên, bọn khác nữa hú hét lên vì tuyệt vọng, song tôi cũng trông thấy cả những kẻ hú hét lên vì sung sướng, bởi vì, thưa ngài, trên đời này có biết bao kẻ đốn mạt, không hề biết đánh giá đúng cái tốt đẹp của sự thống trị an bình của chúng ta và của những quyền chính đáng, cho phép các ngài được tước đoạt hết của tất cả mọi người những gì họ có thể chiếm làm của mình. Loài người không biết sống hoà hợp với ý chí các vị thần linh!
          Quá bận tâm tới những ý nghĩ riêng tư, Vinixius không nhận thấy sự châm chọc rung ngân trong những lời của lão Khilon. Cơn rùng mình kinh hoàng chạy xuyên dọc suốt người chàng khi nghĩ rằng Ligia có thể rơi vào đám hỗn loạn đó, trên những phố xá kinh khủng đó, nơi người ta chà đạp lên ruột gan của con người. Vậy nên mặc dù đã tới mười lần chàng hỏi lão Khilon về tất thẩy những gì lão có thể biết, chàng vẫn còn quay lại hỏi lão lần nữa:
          - Vậy nhưng chính mắt ngươi đã trông thấy họ tại Oxtrianum chứ?
          - Tôi đã trông thấy, thưa con trai của nữ thần Venera, tôi đã trông thấy nàng trinh nữ, bác Ligi tốt bụng, ông Linux thánh thiện và đức Sứ đồ Piotr.
          - Trước khi có đám cháy chứ?
          - Trước đám cháy, hỡi Mitro!
          Song trong lòng chàng Vinixius lại nẩy sinh lòng ngờ vực, không hiểu lão Khilon có bịa chuyện không, chàng bèn kìm con la, nhìn lão Hi Lạp vẻ đầy đe doạ rồi hỏi:
          - Thế nhà ngươi làm gì ở đó?
          Lão Khilon bối rối. Mặc dù cũng giống như nhiều người khác, lão ngỡ rằng một khi Roma tiêu huỷ thì cũng chấm dứt sự thống trị của La Mã, nhưng lúc này lão đang đối mặt với Vinixius, lão chợt nhớ ra rằng chính chàng đã cấm lão dòm ngó những người Thiên chúa, đặc biệt là ông Linux và Ligia, với một lời đe doạ khủng khiếp nếu lão vi phạm.
          - Thưa ngài, - lão nói, - sao ngài lại không tin rằng tôi yêu mến họ? Chính thế, tôi có mặt tại Oxtrianum, bởi vì bản thân tôi đã nửa phần là tín đồ Thiên chúa, Piron đã dạy tôi phải đánh giá phẩm hạnh cao hơn triết lý, nên càng ngày tôi càng gắn bó với những con người đức hạnh. Ngoài ra, thưa ngài, tôi nghèo khó, và trong khi ngài, thưa thần Jupiter, đang chơi bời ở Anxium, thường khi tôi phải chịu đói lòng trên những trang sách, vậy nên tôi đành phải ngồi bên tường thành tại Oxtrianum, bởi lẽ những tín đồ Thiên chúa, mặc dầu bản thân họ cũng nghèo, nhưng bố thí nhiều hơn tất thẩy các công dân La Mã cộng lại.
          Đối với Vinixius, lý lẽ này hoàn toàn đủ nên chàng bèn hỏi tiếp với vẻ ít dữ tợn hơn:
          - Và ngươi không biết thời gian ấy ông Linux sống tại đâu chứ?
          - Đã một lần ngài trừng phạt tôi tàn khốc, thưa ngài, về tội quá tò mò.
          Vinixius im lặng tiếp tục đi.
          - Thưa ngài, - lát sau lão Khilon lên tiếng - ngài không thể tìm nổi nàng trinh nữ giá như không có tôi, vậy một khi ta tìm được nàng, ngài sẽ không quên nhà hiền triết nghèo khổ này chứ ạ?
          - Ngươi sẽ nhận được một ngôi nhà với vườn nho ở gần Ameriola, - Vinixius đáp.
          - Tạ ơn người, hỡi Herkulex! Với trại nho sao?…Cảm ơn người! Ồ, phải! Với trại nho!
          Lúc này họ băng qua ngọn đồi Vatykan đỏ rực trong ánh lửa, rồi sau khi qua Naumakhia họ rẽ phải để vượt qua cánh đồng Vatykan tiến đến bờ sông, và vượt qua sông đi tới Porta Flaminia. Đột nhiên lão Khilon ghìm con la lại và bảo:
          - Thưa ngài, tôi chợt nghĩ ra một ý hay!
          - Nói đi! - Vinixius bảo.
          - Ở giữa đồi Janikun và đồi Vatykan, bên kia khu vườn Agrypina có những hầm ngầm, nơi người ta khai thác đá và cát để xây dựng để xây dựng hý trường Nerô. Thưa ngài, xin ngài hãy nghe tôi! Thời gần đây, bọn Do Thái, mà như ngài biết đấy, chúng sinh sống rất đông ở khu Zatybre, bắt đầu rình mò gắt gao những người Thiên chúa giáo. Ngài chắc nhớ là từ thuở sinh thời Hoàng đế Klauđius hiển linh đã từng xẩy ra những vụ lộn xộn đến nỗi Hoàng đế buộc phải đuổi cổ bọn chúng ra khỏi Roma. Hiện nay một khi đã quay trở về và nhờ có thế lực của Augusta mà chúng cảm thấy được yên ổn, thì chúng lại càng quấy phá tín đồ Thiên chúa giáo dữ hơn. Tôi biết rõ chuyện đó lắm. Tôi trông thấy mà! Chưa có một đạo luật nào chống dân Thiên chúa được ban bố, nhưng chính bọn Do Thái đã kiện với ngài đô trưởng rằng dân Thiên chúa giết chóc trẻ con, thờ bọn lừa và truyền bá một thứ giáo thuyết chưa được Viện Nguyên lão công nhận, và chính bọn chúng đã đánh đập họ và tấn công vào các nhà nguyện của họ hung tợn đến mức dân Thiên chúa giáo buộc phải che giấu chúng những hoạt động của họ.
          - Nhưng nhà ngươi muốn nói điều gì? - Vinixius hỏi.
          - Rằng, thưa ngài, các khu nhà nguyện tồn tại công khai ở khu Zatybre, nhưng để tránh bị theo dõi, dân Thiên chúa giáo phải cầu nguyện một cách bí mật, họ tụ tập nhau lại trong các lều hoang ở ngoại thành hoặc trên các đấu trường bỏ trống. Những kẻ sinh sống ở khu Zatybre đã chọn đúng chỗ này, nơi được hình thành vì lí do xây dựng hý trường, cùng nhiều ngôi nhà khác nhau dọc sông Tyber. Giờ đây, khi thành phố đang bị tiêu huỷ, chắc hẳn các tín đồ của Chúa Crixtux đang cầu nguyện. Chúng ta sẽ tìm ra bọn họ, đông vô kể, trong các hầm ngầm dưới đất, vì thế tôi xin ngài, chúng ta sẽ rẽ vào đó trên đường đi.
          - Thế mà nhà ngươi lại nói rằng ông Linux đã rời tới Oxrtrianum! - Vinixius sốt ruột thốt lên.
          - Còn ngài thì hứa cho tôi một ngôi nhà có trại nho ở gần Ameriola, - lão Khilon đáp, - vậy nên tôi muốn tìm kiếm nàng trinh nữ khắp mọi nơi, những nơi mà tôi hi vọng tìm thấy nàng. Khi đám cháy bùng nổ họ có thể đã quay lại khu Zatybre… Có thể họ đã đi vòng quanh thành phố giống như chúng ta lúc này đang làm vậy. Ông Linux vốn có một nếp nhà, có thể ông ấy muốn được ở gần nhà hơn để nhìn xem đám cháy có lan tới khu này hay không. Nếu như họ quay trở về, thì tôi xin thề với Perxefon, thưa ngài, rằng chúng ta nhất định sẽ tìm thấy họ đang cầu nguyện trong hang ngầm, tệ nhất thì chúng ta cũng thu được những tin tức nào đó về họ.
          - Ngươi nói phải, vậy hãy dẫn đường đi! - Chàng hộ dân quan nói.
          Không ngần ngại, lão Khilon quành về bên trái, về hướng ngọn đồi. Hồi lâu sườn đồi che khuất đám cháy cho họ, nên mặc dù những chỗ cao gần đấy vẫn ngập trong ánh sáng, nhưng chính họ lại chìm trong bóng tối. Bỏ qua hý trường, họ rẽ sâu hơn nữa về bên trái và lọt vào một chốn giống như một khe núi, trong đó hoàn toàn tối đen. Nhưng trong bóng tối đó Vinixius trông thấy nhiều đèn lửa chập chờn.
          - Bọn họ đấy! - lão Khilon thốt lên - Hôm nay bọn họ sẽ đông hơn bao giờ hết, bởi vì những nhà nguyện khác đã bị thiêu huỷ hoặc đang dầy đặc khói giống như cả khu phố Zatybre.
          - Phải, ta có nghe tiếng hát, - Vinixius nói.
          Quả thực từ một lỗ hổng tối tăm bên trên vọng ra những giọng người đang hát, còn những ánh đèn lần lượt thay nhau mất hút vào trong ấy. Song từ những khe núi bên cạnh mỗi lúc một hiện ra những bóng người mới, và lát sau Vinixius cùng lão Khilon lọt vào giữa một đám đông người.
          Lão Khilon bước xuống la, gật đầu với một thiếu niên đang bước đi bên cạnh và bảo:
          - Ta là tăng lữ của Đức Crixtux, một giám mục. Ngươi hãy trông la cho chúng ta, ngươi sẽ được ta ban phước lành và rửa sạch mọi thứ tội lỗi.
          Rồi không chờ trả lời, lão ấn dây cương vào tay cậu bé và cùng với chàng Vinixius nhập vào toán người đang đi.
          Lát sau, họ đi vào hang ngầm dưới đất, lần mò theo ánh đèn mờ ảo chập chờn trong cái hành lang tối tăm cho đến khi tới được một cái vòm hang rộng rãi, nơi trước kia hẳn người ta đã khai thác đá, vì các vách hang được tạo thành từ những phiến đá với những vết toác mới tinh khôi.
          Ở đây sáng hơn trong hành lang, vì ngoài những cây đèn cầy và đèn nhỏ còn có các ngọn đuốc cháy rần rật. Trong ánh đuốc, Vinixius trông thấy một đám đông người đang quỳ gối vươn hai tay lên trời. Chàng chẳng thấy Ligia, sứ đồ Piotr và ông Linux đâu cả. Ngược lại, vây chung quanh chàng là những khuôn mặt trang trọng và đầy xúc động. Trên một số khuôn mặt hiện rõ vẻ chờ trông lo lắng và hi vọng. Ánh đèn lửa nhẩy nhót trong lòng trắng của những đôi mắt đang ngước nhìn lên, mồ hôi tuôn chảy trên những vừng trán nhợt nhạt như phấn, một số người đang ca hát, những kẻ khác thành tâm gọi cầu tên Chúa Jexux, một vài người đấm ngực thình thình. Có thể đoán được rằng người ta đang chờ trông một cái gì đó trọng đại sắp xẩy ra sau phút chốc nữa thôi.
          Đột nhiên những người hát im bặt và trên đầu đám người, trong một cái ô cửa hình thành sau khi lấy đi một phiến đá khổng lồ, chợt hiện ra khuôn mặt ông Kryxpux, quen thuộc với Vinixius, khuôn mặt gần như mê hoảng, tái nhợt, sùng tín và khắc nghiệt. Mọi cặp mắt đều hướng về ông, dường như chờ đợi những lời động viên và hi vọng, còn ông, sau khi chào đám người, bắt đầu cất tiếng nói vội vã, gần như những tiếng kêu la:
          - Các người hãy than tiếc đi cho những tội lỗi của các người, bởi giờ đã đến rồi! Đấy, Đức Chúa đã trút ngọn lửa huỷ diệt xuống cái thành phố tội ác và trác táng này như xuống một thành Babilon mới. Đã điểm rồi giờ phút xét xử, giận dữ và thảm hoạ… Chúa đã báo trước rằng Người sẽ đến và các ngươi sẽ được trông thấy Người. Nhưng Người sẽ không đến đây như Con Chiên đã từng hiến máu chuộc tội cho các ngươi, mà như một vị quan toà kinh khủng, nhân danh công lý của Người, dìm những kẻ có tội và bất tín vào vực thẳm… Thảm thương thay cho những kẻ có tội, vì đối với chúng sẽ không còn có lòng nhân từ nữa… Con đã thấy Người kia rồi, hỡi Chúa Crixtux! Những cơn mưa sao đang sa xuống mặt đất, vầng thái dương tối tăm đi, mặt đất há ra những vực thẳm khôn cùng, những hồn ma của những người đã quá cố thức dậy, và Người đi giữa tiếng kèn, giữa đoàn Thiên sứ, giữa tiếng sấm và làn chớp giật. Con đã thấy và đang nghe thấy tiếng Người kia, hỡi Chúa Crixtux!
          Ông chợt câm bặt và ngửa mặt lên dường như đang dõi nhìn một cái gì xa xôi và khủng khiếp. Và chính lúc ấy, trong cái hang ngầm chợt vang rền tiếng ầm ầm câm đặc, một, hai rồi mười tiếng. Đó là tiếng của hàng dãy những ngôi nhà cháy trụi đang sập đổ trong tiếng ầm ầm giữa một thành phố đang rừng rực cháy. Nhưng phần lớn những người Thiên chúa giáo xem tiếng động đó là tín hiệu báo rõ ràng giờ kinh khủng đã tới, vì trong số các tín đồ ấy, lòng tin vào sự xuất hiện lần thứ hai và nhanh chóng của Chúa Crixtux cùng với sự tận thế được truyền bá rất rộng, lúc này lòng tin ấy được củng cố thêm bởi hoả tai của thành đô. Vậy nên nỗi sợ Chúa Trời trùm lên đám người. Nhiều giọng nói lắp đi lắp lại: “Ngày phán xét!… Người đang đến kia rồi!” Nhiều người lấy tay che mặt vì tin rằng chỉ giây lát nữa thôi mặt đất sẽ rung lên dưới chân, và từ những vực thẳm của nó, những bầy thú dữ của địa ngục sẽ kéo ra để lao vào những kẻ có tội. Những kẻ khác kêu lên: “Lạy Chúa Crixtux, xin hãy thương tình. Hỡi Người chuộc tội, xin Người hãy nhân từ…” Còn một số người nữa lớn tiếng thú tội, và cuối cùng có những người ôm chặt lấy nhau, để có được bên mình những trái tim gần gũi trong giờ phút kinh khủng.
          Song cũng có những khuôn mặt chứa chan nụ cười thiên giới, thanh thản và không hề biểu lộ nỗi sợ hãi. Nhiều chỗ vang lên những lời bàn tán trong cơn cuồng tín, người ta bắt đầu kêu to những câu không ai hiểu nổi bằng những thứ ngôn ngữ khó hiểu. Từ một góc hang tối đen có ai đó kêu lên: “Hãy tỉnh dậy đi, kẻ nào còn đang ngủ!” Bên trên tất cả là tiếng kêu của ông Kryxpux: “Cẩn thận đấy! Cẩn thận đấy!”
          Tuy nhiên thỉnh thoảng im lặng lại bao trùm, dường như ai nấy đều nín thở chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Vào những lúc đó, có thể nghe rõ tiếng ầm ầm xa xa của những khu phố đang sụp đổ. Rồi lại vang lên tiếng rền rĩ, lời cầu nguyện, bàn tán và tiếng kêu cầu: “Hỡi người chuộc tội, xin Người hãy thương tình!” Chốc chốc ông Kryxpux lại lên tiếng, ông kêu lên: “Các ngươi hãy chối bỏ đi những của cải trần thế, bởi vì chỉ chốc nữa thôi sẽ không còn đâu mặt đất dưới chân các ngươi! Hãy chối bỏ đi những tình yêu trần thế, bởi Chúa sẽ không nhận những kẻ nào yêu vợ con hơn yêu Người! Thương thay cho kẻ nào yêu thương vật được sáng tạo hơn người sáng tạo! Đáng thương thay cho kẻ giàu! Đáng thương thay những kẻ xa hoa! Đáng thương thay những kẻ truỵ lạc! Đáng thương thay cho chồng, cho vợ, cho con!…”
          Đột nhiên, một tiếng rền mạnh hơn tất thẩy những tiếng động trước kia làm rung chuyển cả khu mỏ đá. Tất cả mọi người đều nằm lăn ra đất, giang tay thành hình chữ thập, mong dùng cái dấu hiệu này tự vệ trước những loài quỷ dữ. Im lặng bao trùm, trong đó chỉ nghe những hơi thở gấp gáp, những tiếng thì thầm đầy kinh hoảng: “Jexux, Jexux, Jexux!”, và đây đây có tiếng khóc trẻ thơ. Đúng vào lúc đó, bên trên cái biển người đang nằm rạp, chợt vang lên một giọng nói thật bình tĩnh:
          - Bằng an cùng các người!
          Đó là tiếng của Sứ đồ Piotr, người vừa mới bước vào hang. Nghe thấy tiếng ông, lập tức nỗi sợ hãi của mọi người qua đi, hệt như nỗi hãi hùng của đàn chiên con qua ngay khi người chăn chiên xuất hiện. Người ta nhổm dậy, những người ở gần nép vào chân ông, như tìm kiếm chỗ nương tựa dưới cánh ông, còn ông giơ đôi cánh tay lên đầu họ và nói:
          - Sao các người lại sợ hãi trong lòng? Ai trong các người có thể đoán trước được những điều gì sẽ đến với mình trước khi giờ phút điểm? Chúa đã dùng lửa trừng phạt thành Babilon, nhưng đối với các ngươi, những kẻ đã chịu lễ rửa tội, những kẻ đã được máu của chính Con Chiên chuộc cho mọi lỗi lầm, thì sẽ là lòng nhân từ của Người, các ngươi sẽ chết với tên Người trên môi. Bằng an cùng các ngươi!
          Sau những lời dữ tợn và thiếu lòng nhân của ông Kryxpux, những lời của ông Piotr đến với những người có mặt tựa như mật ngọt. Thay cho nỗi sợ Chúa, lòng yêu Chúa tràn ngập lòng người. Họ lại tìm thấy được một Đức Chúa Crixtux mà họ hằng yêu qua những lời kể của đức Sứ đồ, không phải là một vị quan toà chẳng chút nhân từ mà là một Con Chiên ngọt ngào và kiên nhẫn, mà lòng nhân trăm lần vượt quá sự dữ của nhân loại. Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm toàn bộ đám người, nỗi vui sướng cộng với lòng biết ơn đức Sứ đồ tràn ngập muôn trái tim. Nhiều giọng nói từ các phía khác nhau vang lên: “Chúng tôi là chiên con của Người, xin Người hãy chăn dắt chúng tôi!” Những kẻ được ở gần hơn thì nói: “Xin đừng bỏ chúng tôi trong ngày hoạn nạn!” Và họ quỳ quanh chân ông. Nhìn thấy thế, Vinixius tiến lại gần, nắm lấy mép chiếc áo choàng của ông, chàng cúi đầu nói:
          - Xin Người hãy cứu lấy con! Con tìm kiếm nàng trong khói của đám cháy cũng như trong đám người dày đặc, nhưng chẳng nơi đâu con tìm nổi nàng. Song con vẫn hằng tin rằng Người sẽ có thể mang nàng trả về cho con.
          Ông Piotr đặt tay lên đầu chàng:
          - Con hãy tin, - ông nói, - và hãy đi cùng ta.
          Chú thích:
          (1) Nguyên văn: một thành đô của Jupiter như thế!
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #50
            T2 - Chương 46

            Thành phố vẫn cháy triền miên. Đại hý trường đổ sụp thành một đống tro tàn, sau đó, tại những khu phố bị bốc cháy đầu tiên, từng dãy phố, từng ngõ phố cùng đổ sụp. Mỗi lần sụp đổ như thế, những cột lửa lại vọt lên cao đến tận trời. Gió đã đổi chiều và với một sức mạnh khó đo nổi thổi về từ phía biển, mang tới Caelinux, mang lên đồi Exquilinux và đồi Viminalix những sóng lửa, tàn lửa và trot han. Tuy nhiên, người ta cũng bắt đầu nghĩ tới việc cứu hỏa. Theo mệnh lệnh của Tygelinux - kẻ mãi ngày thứ ba mới từ Anxium chạy về - người ta bắt đầu phá sập các ngôi nhà trên đồi Exquilinux, để khi gặp phải chỗ trống ngọn lửa sẽ tự tắt đi. Song đó chỉ là một sự cứu chữa vô ích mà người ta cố công tiến hành để cứu lấy phần còn lại của thành phố, bởi vì đối với những gì đã cháy trụi đi rồi thì chẳng cần thiết phải nghĩ tới chuyện cứu chữa làm cho nữa. Ngoài ra, còn phải lo đối phó với những hậu quả tiếp theo sau thảm họa. Cùng với thành Roma, đã bị tiêu hủy vô vàn của cải, toàn bộ tài sản của các cư dân thành đô, khiến cho giờ đây chung quanh tường thành hàng trăm ngàn người cùng khổ phải sống trong cảnh lang thang màn trời chiếu đất.
            Ngay từ hôm thứ hai, cái đó đã bắt đầu đe dọa đám người đông nhung nhúc này, bởi lẽ những kho lương thực dự trữ đầy ắp trong thành phố bị thiểu hủy cùng với nó, mà trong cảnh hỗn loạn chung vè tình trạng rã rời của các quan chức, chưa một ai nghĩ tới chuyện chuyển số lương thực mới tới cung cấp. Mãi sau khi Tygelinux tới mới có những mệnh lệnh thích hợp được gửi tới Oxtia, song lúc này dân chúng đã bắt đầu trở nên mỗi lúc một hung tợn hơn.
            Ngôi nàh gần Aqua Appia, nơi Tygelinux tạm nương náu, bị bao vây bởi những đám đông đàn bà kêu gào từ sáng sớm đến đếm: "Bánh mì và nhà ở". Bọn lính cấm vệ được điều từ trại binh lớn nằm giữa Via Xafaria và Nomenta cố công nhung không sao duy trì được trật tự. Nhiều nơi người ta công khai dùng vũ khí chống lại chúng, nơi khác, những đám đông không một tấc sắt chỉ tay về phía thành phố đang cháy thét lên: "Với ngọn lửa kia chúng mày hãy cứ giết chúng tao đi!". Người ta nguyền rủa hoàng đế, đám cận thần, lính cấm vệ và mỗi giờ không khí lại sôi sục lại càng nóng bỏng thêm lên, đến nỗi ban đêm, khi nhìn hàng nghìn đám lửa vây quanh thành phố, Tygelinux tự nhủ thầm rằng đó chính là lửa của các trị binh kẻ thù vậy. Theo lệnh y, ngoài bột mì, người ta còn chở đến rất nhiều bánh mì đã nướng sẵn, không những chỉ từ Oxtia mà từ khắp các thị trấn và làng mạc trong vùng, nhưng khi chuyến hàng đầu tiên được chở tới Emporium, dân chúng đã phá cổng thành chính từ phía đồi Aventyn và chỉ trong chớp mắt đã cướp sạch sành sanh số lương thực ấy, gây ra một cảnh náo động kinh hoàng. Trong ánh lửa đỏ, người ta giật nhau, cướp từng ổ bánh mì, dẫm nát vô số khác dưới chân. Từ những bao bột mì bị rách, bột vung vãi như tuyết trắng phủ đầy khoảng không gian từ các kho ngũ cốc đến tận cổng vòm Đruxux và Germanik, cơn náo động kéo dài mãi cho tới khi bọn lính vât chặt các tòa nhà và dùng tên đạn xua đuối đám người. Kể từ khi xẩy ra cuộc tấn công của người Gali dưới sự thống lĩnh của Brennux, Roma chưa khi nào gặp phải một thảm họa tương tự. Và người ta cũng tuyệt vọng khi so sánh hai đám cháy ấy với nhau. Trước kia, dù sao quanh Kapiton là cả một vùng lửa rừng rực. Dù đá cẩm thạch không bị lửa đốt cháy, nhưng ban đêm, khi thỉnh thoảng những ngọn lửa bị gió thổi dạt ra, có thể trông rõ những hàng cột của đền thượng Jupiter bị nung đỏ và phát ra ánh sáng màu hồng giống như những hòn than cháy bỏng. Vả chăng, thời Brennux, Roma có một đám dân chúng có kỷ cương, thống nhất, gắn bó với thành đô và với với bàn thờ, còn giờ đây, bốn chung quanh bức tường thành của thành phố hừng hực cháy đang lang thang một đám người lang chạ đủ mọi thứ ngôn ngữ, mà phần đông là nô lệ và nô lệ giải phóng, náo động, vô cương và dưới tác dộng của sự bần hàn, sẵn sàng chỉa mũi nhọn chống lại cả chính quyền lẫn thành đô.
            Tuy nhiên, chính cái quy mô to lớn của đám cháy, khiến trái tim người tràn ngập hãi hùng, đã dẹp yên một phần nào đó đám tiện dân. Sau hỏa hoạn sẽ có thể tiếp đến nạn đói và bệnh tật, vì không may chính những ngày đó lại là những ngày tháng bẩy nóng nực vô chừng. Bị thiêu đốt bởi ngọn lửa và mặt trời, không sao thở được. Đêm không những không mang đến đối chút dễ chịu mà lại trở thành địa ngục. Còn ban ngày thì phơi bày ra một cảnh tượng kinh hoàng và dữ dội. Ở giữa trung tâm là thành đô khổng lồ trên các ngọn đồi đang biến thành một núi lửa phun, còn khắp bốn chung quanh, tới tận núi Anban, là một khu trại vô tận gồm những nhà, những lều, trại căng tạm, xe ngựa, càng, kiệu, những đống lửa, bị che khuất trong những đám khói, đám bụi mù mịt, được chiếu sáng bởi những tia nắng mặt trời hung hung đỏ vì xuyên qua đám cháy, đầy tiếng ồn ào, tiếng kêu la, lời đe dọa, nỗi hằn thù và sự sợ hãi, một đám quần hợp quỷ quái của những đàn ông, đàn bà và trẻ con. Giữa những người Quyrit là dân Hy Lạp, những cư dân mắt màu nhạt của phương Bắc, những người Châu Phi và Châu Á, giữa đám công dân là bọn nô lệ, nô lệ giải phóng, đấu sĩ, thương nhân, thợ thủ công, nông dân và binh lính, cả một biển người thực sự vây quanh hòn đảo lửa.
            Đủ loại tin tức khác nhau là xao động cái biển cả này như gió làm nổi lên những làn sóng. Những tin lành và những tinh không lành. Người ta kháo nhau về những kho vô vàn lương thực và quần áo đã được chở tới Emporium và sẽ được phát chẩn. Người ta còn nói rằng, theo lệnh của hoàng đế, các tỉnh trấn ở Châu Á và Châu Phi sẽ bị cướp sạch sành sanh tài sản của cải, số cướp được thu vào ngân khố sẽ đem chia cho dân chúng thành Roma, để mỗi người có thể tự xây dựng lại nhà ở cho chính mình. Song đồng thời người ta cũng truyền đi những cái tin, ví như nước trong đường máng đã bị đánh thuốc độc và Nerô muốn hủy diệt thành đô, triệt hết cư dân thành phố, để chuyến đến Ai Cập hoặc Hy Lạp và từ đó thống trị thế giới. Mỗi tin tức đều lan truyền nhanh như chớp và đều tìm thấy lòng tin trong đám tiện dân, gây nên những cơn bùng nổ hy vọng hay giận dữ, kinh hoàng hoặc điên khùng. Rốt cuộc hàng nghìn hàng nghìn con người lang thang ấy dường nhưu bị lên một cơn sốt nào đó. Lòng tin của các tín đồ Thiên Chúa giáo rằng ngày tận thế kết thúc bằng lửa đã đến gần, mỗi ngày thêm lan rộng giữa đám tín đồ thờ các vị thần. Người ta rơi vào cơn chán chường nhắm mắt đưa chân hoặc vào cơn điên loạn. Người ta trông thấy giữa những đám mây được quầng lửa chiếu sáng là những vị thần đương nhìn xuống sự hủy diệt trái đất, họ vươn tay lên cầu xin lòng thương xót, hoặc trỏ tay nguyền rủa các thần.
            Trong khi đó, với sự trợ lực của một số cư dân thành phố, binh lính vẫn tiếp tục phá dỡ nhà trên đồi Exquilin, trên đồi Caeliux, cũng như ở khu Zatybre, nhờ đó mà phần lớn khu này được cứu thoát. Nhưng giữa lòng thành phố đã cháy rụi nhiều kho báu vô kể được tích tụ qua bao thể kỷ chiến thắng, những tác phẩm nghệ thuật vô giá, những thần miếu tuyệt vời và những kỷ vật quý giá nhất của quá khứ và niềm vinh quang La Mã. Người ta đồ rằng cả thành phố chỉ cứu được vài khu phố nằm ngoài rìa và hàng trăm nghìn con người trở nên không có mái che thân. Một số người tuy vậy vẫn đồn rằng: Binh lính phá nhà không phải để kìm hãm ngọn lửa mà chính là để cho không còn một thứ gì của thành phố còn sót lại. Trong từng bức thư, Tygelinux đều cầu xin hoàng đế hãy trở về và dùng sự có mặt của người làm yên lòng đám dân chúng đang tuyệt vọng. Nhưng Nerô chỉ lên đường khi ngọn lửa đã chiếm lĩnh "domus transitoria"(1), ngài vội vã để không bỏ lỡ mất thời điểm khi đám cháy đạt tới sức mạnh khủng khiếp nhất.
            Chú thích:
            (1) Latinh : Nhà truyền ngôi
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #51
              T2 - Chương 47

              Trong khi ấy ngọn lửa đã lan đến Via Nomentan, từ đí cùng với gió đổi chiều, nó ngoặt về phía Via Lât và phía sông Tyber, vòng quanh đồi Kapiton, tràn xuống Forum Boarium và tàn phá tất thẩy những gì mà nó lướt qua trong đà cuốn đầu tiên, nó lại tiến đến gần Palatyn một lần nữa. Tập trung tất cả lực lượng quân cấm vệ, Tygelinux phái hết điệp sứ này đến điệp sứ khác đến báo tin cho hoàng đế đang tiến về, rằng sự tuyệt vời của cảnh tượng chưa bị mất mát chút gì hết, vì đám cháy đang ngày một mạnh thêm lên. Nhưng Nerô muốn đến vào lúc ban đêm để có thể chiêm ngưỡng cảnh thành phố đang bị hủy diệt một cách hoàn hảo. Nhằm mục đích đó, ngài dừng chân lại trong vùng Auqa Anbana rồi gọi diễn viên bi lịch Aliturux vào lều giúp ngài chuẩn bị thân hình, bộ mặt, cái nhìn. Ngài hằn học nhẩm những cử chỉ thích hợp, tranh luận sôi nổi với y xem khi nói những lời: "Ôi, thành đô thần thánh, những tưởng trường tồn hơn cả Iđa!" - ngài sẽ phải vươn cả hai tay lên trời hay một tay cầm cây đàn forminga để thõng dọc thân mình, còn tay kia giơ lên. Và đối với ngài, câu hỏi đó lúc này quan trọng hơn tất thảy mọi sự. Mãi đến xế chiều ngài mới lên đường và còn hỏi ông Petronius xem trong những vần thơ dành cho thảm họa có nên cài thêm vài lời chế giễu các thần minh và liệu những lời như thế xuất phát từ quan điểm nghệ thuật có phải là những lời tất yếu thốt ra từ miệng một con người bị mất quê hương, ở trong hoàn cảnh tương tự hay không.
              Gần nửa đêm, cũng với đám quần thần hùng mạnh của mình gồm các cận thần, nguyên lão, hiệp sĩ, nô lệ giải phóng, nô lệ, phụ nữ và trẻ con, ngài mới tiến đến gần tường thành. Mười sáu ngàn lính cấm vệ dàn thành đội hình chiến đấu ở dọc đường đi canh gác cho sự yên ổn và bảo đảm an toàn cho chuyến đi của ngài, đồng thời giữ một khoảng cách nhất định với đám dân chúng đang náo động. Tuy dân chúng quả thực có nguyền rủa, gào thét và huýt sáo khi nhìn thấy bóng dáng bầu đoàn thê tử của ngài, nhưng không dám tấn công. Nhiều nơi thậm chí còn vang lên những tiếng hoan hô do bọn vô lại phát ra, bởi bọn chúng chẳng có tí gì nên cũng chẳng hề bị mất mát gì trong đám cháy, chúng còn trông ngón một sự ban phát lương thực, ôliu, quần áo và tiền bạc hậu hĩnh hơn thường lệ. Và nói cho cùng, cả tiếng hoan hô lẫn tiếng huýt sáo và gài thét đều bị át đi trong tiếng kèn và tù và mà Tygelinux ra lệnh thổi. Sau khi vượt qua cổng thành Oxtia, Nerô dừng chân một lúc và thốt lên: "Vị chúa tể không nhà của đám dân chúng không nhà, biết đặt ở đâu cho qua đêm mái đầu bất hạnh của ta?", rồi đi theo đường Vlivus Đenphini, ngài bước lên những bậc thang chuẩn bị sẵn cho ngài leo lên đường máng nước Appia, theo sau là các cận thần và dàn đồng ca của các ca công mang theo thi cầm, đàn tranh và các nhạc cụ khác.
              Và tất cả mọi người đều nín thở chở xem ngài có nói ra những lời kỳ vĩ nào đó hay chăng, những lời mà họ cần phải nhớ để được an toàn cho bản thân mình. Nhưng ngài chỉ đứng, trang nghiêm, như mù lòa, khoác manh áo choàng màu đỏ thắm, đội một vòng lá nguyệt quế màu vàng, chăm chú ngắm nhìn sức mạnh cuồng bạo của ngọn lửa. Khi Terpnox trao cho ngài chiếc đàn luýt bằng vằng, ngài ngước mắt nhìn lên bầu trời ngập tràn ánh lửa, dường như chờ cảm hứng.
              Từ đằng xa dân chúng đưa tay chỉ trỏ ngài đang ngập trong ánh lửa đỏ. Phía x axa những con rắn lửa réo rít, đang cháy sáng những di tích vĩnh hằng thiêng liêng nhất, cháy thần miếu Herkulex do chính Evanđer dựng nên, thần miếu Jupiter Xtator và thần miếu Luna do Xrevius Tulius xây dựng, ngôi nhà của Numa Pomponius và di tích Vexta với những vị gia thần của dân chúng Roma, thỉnh thoảng trong đám bờm lửa hiện ra Kapiton, quá khứ và linh hồn của La Mã trong đám cháy, còn ngài, vị hoàng đế, thù đứng cầm chiếc đàn luýt trong tay, với bộ mặt của một gã diễn viên bi kịch và với ý nghĩ không phải là quê hương đang chết, mà về dáng vẻ và những lời trang trọng mà ngài có thể diễn tả tốt nhất sự kỳ vĩ của thảm họa, để gây nên sự thán phục to loén nhất và có được những tiếng hoan hô nồng nhiệt nhất.
              Ngài căm thù cái thành phố này, căm thù các cư dân của nó, ngài chỉ yêu có những khúc háy lời thơ của mình mà thôi, vậy nên trái tim ngài sung sướng hân hoan vì rốt cuộc ngài được chứng kiến cái bi kịch tương tự như cảnh mà ngài mô tả. Gã thợ vẫn cảm thấy hạnh phúc, tên xướng đọc cảm thấy hứng khởi, kẻ tìm kiếm xúc cảm mê mẩn bởi cảnh tượng kinh khủng và khoái chá nghĩ rằng ngay cả sự triệt phá thành Towrroa cũng chẳng là cái thá gì so với sự triệt phá thành đô khổng lồ này. Ngài còn có thể đòi hỏi điều gì hơn nữa? Kìa, thành Roma, thành Roma bá chủ thế giới đang bị cháy, còn ngài đang đứng trên những vòm cung của đường máng nước, với chiếc đàn tuýt bằng vàng trong tay, nổi bật, đỏ tươi, được kinh ngạc, đầy tuyệt vời và đầy thi tứ. Đâu đó tận phía dưới kia, trong bóng tối, dân chúng xôn xao và bạo loạn. Nhưng chúng nó cứ việc xôn xao đi! Nhiều thế kỷ sẽ trôi qua, hàng nghìn năm sẽ qua đi, nhưng người ta vẫn hằng nhớ và ngợi ca nhà thơ đã hát về sự triệt phá và về đám cháy thành Tơroa ngay trong một đêm như đêm nay. So với ngài, Homer là cái thá gì? Ngay cả thần Apolon với chiếc đàn forminga của thần cũng là cái thá gì? Đến đây, ngài vung tay lên, đập vào những sợi dây đàn và thốt lên những lời của vua Priam:
              - Ôi, tổ ấm của cha ông tan ôi cái nôi yêu dấu!...
              Trong không khí ngoài trời, bên tiếng gầm của đám cháy và tiếng ồn ã phía xa xa của đám đông hàng nghìn người, giọng của ngài có vẻ thảm hạo, run rẩy và nhỏ bé đến lạ lùng, còn những thanh âm họa theo vang lên như tiếng v ove của loài ruồi. Song những vị nguyên lão, các quan chức và cận thần đứng tụ tập trên đường máng nước đều cúi đầu lắng nghe trong niềm tán thưởng câm lặng. Còn ngài hát mãi và chỉnh giọng mỗi lúc một não lòng hơn. Những lúc ngài lặp lại vần thơ sau chót, rồi đó, bằng một cử chỉ học được của Aliturux, Nerô lại vứt bỏ khỏi vai chiếc "xyrma" bi thương, đập vào dây đàn và hát tiếp. Cuối cùng ngài cũng hát hết bài ca đã được soạn ra từ trước và bắt đầu ứng tác, tìm những sự so sánh kỳ vĩ trong cái quang cảnh đang trải ra trước mắt ngài. Mặt ngài bắt đầu biến đổi. Ngài không hề xúc động trước sự tàn phá của thành phố quê hương, nhưng ngài lại say sưa và xúc động bởi sự trang trọng của những lời thơ của chính ngài đến mức đột nhiên ngài buông cây đàn luýt rơi thành tiếng xuống chân, quấn mình trong chiếc xyrma, ngài đứng lặng yên như hóa đá, trông hệt như một trong những pho tượng Niobe trang trí cho sân trong cung điện Palatyn.
              Sau một giây im lặng, một tràng sấm hoan hô vang lên. Nhưng đáp lại chúng từ xa là tiếng hú hét của đám người. Giờ đây không còn ai nghi ngờ gì nữa là chính hoàng đế đã ra lệnh đốt cháy thành phố để dựng lên một quang cảnh và ca hát những bài ca trên cái phông ấy. Nghe thấy tiếng kêu gào đó của hàng trăm nghìn con người, Nerô bèn quay lại phía các cận thần với nụ cười buồn đầy tuyệt vọng của một con người bị xúc phạm và nói:
              - Đấy, dân Quiryt biết đánh giá ta và thi ca như vậy đấy!
              - Bọn khốn nạn! - Vatynius đáp - Xin người hãy ra lệnh cho lính cấm vệ đánh thẳng vào bọn chúng.
              Nerô quay sang Tygelinux.
              - Liệu ta có thể tin vào sự trung thành của binh lính chăng?
              - Vâng, thưa thánh thượng! - Viên chỉ huy quân cấm vệ đáp.
              Song ông Petronius nhún vai.
              - Tin được vào sự trung thành của chúng chứ không thể trông cậy vào số lượng của chúng đâu - Ông nói - Tạm thời xin người hãy ở lại đây, nơi người đang đứng, bởi đây là chỗ an toàn hơn cả, còn đám dân chúng kia thì chỉ cần phải làm yên đi đã.
              Cả ông Xeneka lẫn chấp chính quan Lixynius cũng cùng ý kiến như thế. Trong khi đó, phía dưới kia, sự sôi động tăng lên. Quần chúng tự vũ trang bằng những phiến đá, cọc chống lều, những miếng ván phá từ các cỗ xe và những chiếc cáng, cùng đủ các loại sắt thép khác nhau. Lúc sau, một vài viên chỉ huy toán vệ binh tiến lại báo rằng, bị đám quần chúng lấn ép, lính cấm vệ phải cố hết sức mới duy trì được đội hình chiến đấu và do không được lệnh tấn công nên chúng đang không biết phải làm thế nào.
              - Lạy các thần! - Nerô thốt lên - thật là một đêm khó tả! Một bên là đám cháy, một bên là biển người đang gào thét.
              Và ngài lại bắt đầu tìm những vần thơ khả dĩ có thể diễn tả một cách tuyệt vời nhất nỗi nguy hiểm của thời điểm ấy, song nhìn thấy chung quanh toàn những khuôn mặt tái nhợt và những cái nhìn không yên, bản thân ngài cũng đâm ra sợ.
              - Hãy đưa cho ta một chiếc áo choàng màu sẫm có mũ che! - Ngài kêu lên - Có thật sắp phải đánh nhau rồi hay chăng?
              - Tâu hoàng thượng - Tygelinux đáp với giọng không mấy chắc chắn - thần đã làm tất thẩy những gì có thể, nhưng mối nguy hiểm này thật đáng sợ…Xin người hãy lên tiếng đi, thưa hoàng thượng, xin hãy nói với mọi người và hãy hứa hẹn với bọn chúng.
              - Hoàng đế mà lại phải nói chuyện với bọn vô lại sao? Có ai nhân danh ta làm việc đó hay chăng? Ai nhận nào?
              - Thần ạ! - Ông Petronius bình thản đáp.
              - Đi đi nào, bạn ta! Khanh là kẻ trung thành với ta nhất trong lúc hoạn nạn…Đi đi, và chớ có tiếc lời hứa!
              Ông Petronius quay lại phía đoàn người tùy giá với vẻ mặt đầy khinh thị và giễu cợt.
              - Các vị nguyên lão có mặt tại đây, - Ông nói - Ngoài ra, cả ông Pizo, anh Nerva và Xenexio đi cùng với tôi.
              Rồi ông khoan thai bước xuống khỏi đường máng nước, những người được ông gọi đi theo sau ông không phải không ngần ngừ nhưng cũng được cổ vũ chút ít bởi sự bình tĩnh của ông. Xuống đến chân những vòm cung, Petronius ra lệnh đưa tới cho mình một con ngựa bạch, rồi ngồi lên lưng ngựa, ông dẫn đầu toán người đồng hành vượt qua những toán cấm binh dày đặc, hướng về đám tiện dân đen ngòm đang hú hét, không một tấc sắt, trong tay ông chỉ có một chiếc gậy mỏng manh bằng ngà voi mà ông thường dùng để chống.
              Ông tiến đến sát tận nơi, ngựa ông va cả vào đấm người. Chung quanh, trong ánh sáng của đám cháy, thấy rõ những cánh tay giơ cao cầm đủ mọi loại vũ khí, những đôi mắt cháy bỏng, những bộ mặt bóng nhẫy mồ hôi và những cặp môi ngầu bọt đang gào thét. Làn sóng điên loạn ấy lập tức vây chặt lấy ông và cả toán tùy tùng, phía sau trông rõ cả một biển những cái đầu, chuyển động, lắc lư, kinh khủng.
              Tiếng huyên náo càng tăng lên và biến thành tiếng rống gầm không giống tiếng người nữa, những chiếc gậy, đinh ba, thậm chí cả những thanh gươm nữa hoa lên trên đầu ông Petronius, những cánh tay thú dữ vươn ra muốn tóm lấy cương ngựa ông, muốn tóm cả ông nữa, nhưng ông vẫn cứ tiến vào mỗi lúc một sâu thêm, lạnh lùng, thản nhiên, khinh khi. Thỉnh thoảng, ông lại dùng gậy đập lên đầu những kẻ táo tợn nhất, ngỡ như ông đang dẹp đường cho mình trong một đám đông rất đỗi thường tình và chính sự tự tin của ông, sự bình tĩnh của ông khiến đám tiện dân đang náo động phải kinh ngạc. Mãi sau người ta bắt đầu nhận ra ông, nhiều giọng gào lên:
              - Petronius! Arbiter elegantiarum! Ngài Petronius!...
              - Petronius! Bốn phía đều vang rền tiếng gọi.
              Và càng nhắc tên ấy bao nhiêu, những bộ mặt chung quanh càng bớt dữ tợn đi bấy nhiêu, tiếng huyên náo càng đỡ phần gay gắt, bởi nhà quý tộc trang nhã này mặc dù chẳng bao giờ lấy lòng dân chúng song lại được người ta yêu mến. Người ta xem ông là một người nhiều nhân tính và hào phóng, ông đặc biệt nổi tiếng kể từ lúc có vụ án Peđanius Xekunđa, khi ông lên tiếng đòi giảm nhẹ bản án thảm khốc tử hình tất cả các nô lệ của viên quan nọ. Kể từ sau vụ đí, đám nô lệ lại đặc biệt ngưỡng mộ ông với một tình yêu mến không kìm hãm nổi, thứ tình yêu mà những con người bất hạnh và bị chà đạp thường dành cho những người biểu lộ cho họ dù chỉ chút ít đồng cảm. Ngoài ra, vào lúc này, người ta còn tò mò muốn biết vị sứ giả của hoàng đế sẽ nói điều gì, bởi không một ai nghi ngờ rằng hoàng đế đã cố ý phái chính ông.
              Còn ông cởi chiếc áo toga màu trắng có những đường viền đỏ thắm, giơ lên đầu vẫy vẫy ra hiệu muốn nói.
              - Im đi! Im đi kìa! - Khắp các phía người ta kêu lên.
              Một lúc sau người ta im lặng thực. Khi ấy, đứng thẳng người trên lưng ngựa, ông cất tiếng nói, giọng vang động nhưng bình tĩnh:
              - Hỡi các công dân! Những kẻ ai được nghe ta nói hãy lặp lại lời ta cho những kẻ đứng xa hơn, mọi người hãy cư xử cho ra hồn người chứ không phải như lũ thú dữ trong đấu trường.
              - Chúng tôi nghe đây! Chúng tôi xin nghe!...
              - Vậy thì hãy nghe đây. Thành phố sẽ được xây dựng lại. Các khu vườn Lukullo, Mexenax, Xedar và Agrypina sẽ mở rộng cửa đón các người. Từ ngày mai sẽ bắt đầu phát chẩn ngũ cốc, rượu vang và ôliu đến mức các người có thể tọng đầy đến tận họng. Sau đó hoàng đế sẽ tổ chức cho các người những hội vui mà cho đến nay thế gian chưa từng thấy bao giờ, trong đó các người sẽ được hưởng tiệc rượu và quà tặng. Sau đám cháy các người sẽ giàu có hơn trước đám cháy rất nhiều!
              Đáp lời ông là những tiếng rì rầm lan từ giữa ra khắp bốn chung quanh, hệt như những làn sóng lan trên mặt nước khi có ai đó ném xuống nước một hòn đá, đó là những người ở gần ông đã lặp lại cho kẻ xa hơn những lời ông vừa nói. Sau đó đôi chỗ vang lên những tiếng kêu la vẻ tức giận hay tán thưởng và rốt cuộc những tiếng đó biến thành một tiếng hô đồng thanh vang động.
              - Panem et circenses...(1)
              Ông Petronius quấn chặt người trong chiếc áo toga và đứng yên hồi lâu, trong bộ phục trang sắc trắng, nom ông hệt như một pho tượng cẩm thạch. Tiếng hò reo càng tăng thêm, át cả tiếng gầm của đám cháy, vang rộng khắp bốn phía, mỗi lúc một sâu hơn, song rõ ràng là vị sứ giả hãy còn điều gì đó muốn nói, bởi ông cứ đứng chờ.
              Mãi, sau giơ cánh ta ra lệnh im lặng, ông nói to:
              - Ta hứa với các người panem et circenses, còn bây giờ, các người hãy hò reo lên để chào đón hoàng đế, người đã nuôi các người ăn, cho các người mặc, rồi sau đó hãy đi mà ngủ đi, hỡi lũ vô lại, vì trời sắp sáng rồi kìa.
              Nói đoạn, ông quay ngựa lại và vừa dùng chiếc gậy đập nhẹ vào đầu, vào mặt những kẻ đứng chắn đường, ông khoan thai tiến về phía những hàng lính cấm vệ.
              Lát sau, ông đã đến dưới chân đường máng nước. Lên trên, ông gặp một cảnh tượng gần như hoảng loạn. Người ta không hiểu rõ tiếng hò reo: “Panem et circenses!“ và cho rằng lại bùng nổ một cơn cuồng nộ mới. Thậm chí người ta cũng không ngờ rằng ông Petronius lại có thể thoát thân, nên vừa thoáng trông thấy ông, Nerô đã chạy tới tận cầu thang, mặt nhợt nhạt vì xúc động, hỏi dồn:
              - Thế sao? Đằng ấy xảy ra chuyện gì thế? Đã đánh nhau rồi chăng?
              Petronius hít một hơi đầy phổi, thở ra thật mạnh và đáp:
              - Thề có Ponklux! Chúng nó nồng nặc mùi mồ hôi và xú khí. Ai đưa hộ cho tôi bình xông hương nào, tôi đến chết ngất mất thôi!
              Rồi ông quay sang hoàng đế.
              - Thần đã hứa hẹn với chúng nó ngũ cốc, ôliu, mở cửa các khu vườn và trò vui - Ông nói - Thế là chúng nó lại ca ngợi hoàng thượng và bằng những cặp môi sùi bọt, chúng lại gào lên chào đón người. Lạy các thần linh, lũ tiện dân này có cái mùi mới khó chịu làm sao!
              - Lính cấm vệ của tôi đã sẵn sàng - Tygelinux kêu lên - Và giá như ông không dẹp yên chúng thì bọn hò la kia sẽ phải ngậm miệng đời đời! Tâu hoàng thượng, thật đáng tiếc là hoàng thượng đã không cho phép thần dùng sức mạnh.
              Petronius nhìn kẻ đang nói, nhún vai và bảo:
              - Cũng chưa bị mất gì đâu. Ông có thể sẽ phải dùng sức mạnh vào ngày mai đấy.
              - Không, không! - Hoàng đế phán - Ta sẽ ra lệnh mở cửa các khu vườn và ban phát ngũ cốc cho chúng. Cảm ơn khanh, Petronius! Ta sẽ tổ chức những cuộc vui và ta sẽ công diễn bài ca mà hôm nay ta hát cho các khanh nghe.
              Nói đoạn ngài đặt tay lên vai ông Petronius, im lặng hồi lâu, cuối cùng, sau khi đã bớt xúc động, ngài mới hỏi:
              - Khanh hãy nói thật lòng nhé: Khanh thấy khi hát ta thế nào?
              - Hoàng thượng thật xứng với quanh cảnh này, cũng như quanh cảnh thật xứng với người - Ông Petronius đáp.
              Rồi ông quay lại phía đám cháy.
              - Song chúng ta hãy ngắm nhìn nữa đi - Ông nói - Và hãy vĩnh biệt thành Roma cũ.
              Chú thích:
              (1) Bánh mì và hội thi. - Trong thời kỳ đế quốc La Mã, đây là đòi hỏi chủ yếu của đám tiện dân và thường được chính quyền thỏa mãn phần lớn.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #52
                T2 - Chương 48

                Lời của đức Sứ đồ rót lòng tin vào tâm hồn những người Thiên chúa giáo. Lúc nào họ cũng vẫn nghĩ rằng ngày tận thế sắp tới rồi, song họ cũng đã bắt đầu tin rằng cuộc phán xét kinh khủng kia không phải sẽ diễn ra ngay tức khắc và trước đó có thể họ sẽ được thông thấy ngày tận số của triều đại Nerô, mà họ xem là triều đại của một tên chống Chúa, sẽ được thấy hình phạt của Chúa đối với những tội ác của ý đang kêu gọi phải được trả thù. Phấn chấn trong lòng, họ bắt đầu tản đi ra khỏi cái hang ngầm sau khi kết thúc cuộc cầu nguyện, trở về những nơi trú ngụ tạm bợ của mình, thậm chí quay trở về khu Zatybre, vì có tin báo rằng, tuy được châm tại mười mấy điểm, nhưng do gió đổi chiều, nên lửa quay lại phía sông, và tại những chỗ đã cạn sạch những gì có thể cháy được, lửa không còn lan rộng ra nữa.
                Sứ đồ, có sự tùy tùng của chàng Vinixius và lão Khilon đi theo sau, cũng rời khỏi hang. Chàng hộ dân quan trẻ tuổi không dám làm gián đoạn việc cầu nguyện nên lặng lẽ bước đi hồi lâu, chàng chỉ đưa mắt khẩn cầu tình thương và run lên vì lo lắng. Song còn nhiều người đến hôn tay và gấu áo của Sứ đồ, những người mẹ chìa cho ông những đứa trẻ, đám khác quỳ trong cái lối đi dài tối tăm, đưa cao đèn xin ông ban phước, những người khác nữa đi ngang qua và ca hát, nên không có lúc nào thuận tiện để có thể hỏi và đáp. Trong cái khe núi ấy cứ diễn ra như vậy. Mãi đến khi họ bước ra ngoài trời, nơi có thể nhìn thấy thành phố đang cháy, sau khi đã ba lần từ biệt đám tín đồ kia, Sứ đồ mới quay sang Vinixius và bảo:
                - Con đừng sợ! Gần đây là nhà của một người đào đá, tại đó chúng ta sẽ gặp Ligia cùng ông Linux và người nô bộc trung thành của nàng. Đức Chúa Crixtux, người đã ban nàng cho con, cũng là người đã gìn giữ nàng cho con đấy.
                Vinixius loạng choạng phải bíu tay vào một tảng đá. Con đường dài từ Anxium trở về, những va chạm gần tường thành phố, cuộc tìm kiếm Ligia trong đám khói nóng bỏng, cả đêm không ngủ và nỗi lo âu kinh khủng cho nàng đã khiến chàng kiệt sức, chút sức còn lại bị mất nốt bởi cái tin mái đầu thân yêu nhất của chàng trên đời này đang ở gần đây và chỉ lát nữa thôi là chàng được gặp. Chàng đột nhiên thấy sức người yếu hẳn đi, chàng để người tuột xuống chân đức Sứ đồ rồi ôm lấy đầu gối ông, chàng cứ quỳ nguyên như thế, không thể thốt nổi một lời.
                Đức Sứ đồ ngăn không cho chàng cảm ơn và bày tỏ lòng thành kính, ông nói:
                - Không phải ta, không phải ta, hãy cảm ơn Đức Chúa Crixtux kia!
                - Thật là một vị thần quảng đại! - từ phía sau vang lên tiếng lão Khilon. - Song tôi đang không biết phải làm gì với lũ la đang chờ ở đây kia.
                - Con hãy đứng dậy và đi cùng ta. - Ông Piotr nói và dìu tay chàng trai.
                Vinixius đứng dậy. Trong anh lửa sáng trông rõ những giọt lệ chảy dài trên khuôn mặt nhợt đi vì xúc động của chàng. Môi chàng run rẩy như đang cầu nguyện.
                - Ta đi. - Chàng nói.
                Nhưng lão Khilon lại hỏi một lần nữa:
                - Thưa ngài, tôi phải làm gì với lũ la đang chờ kia, có thể nhà tiên tri đáng kính đây muốn cưỡi la hơn đi bộ chăng?
                Vinixius cũng không biết trả lời ra sao, nhưng nghe ông Piotr bảo rằng nhà của thợ đào đá ở ngay cạnh đấy, chàng bèn đáp:
                - Ngươi hãy đưa la về chỗ ông Makrynux.
                - Xin hay thứ lỗi, thưa ngài, rằng tôi lại lưu ý ngài về ngôi nhà ở Ameriola. Trước một đám cháy khủng khiếp nhường này, thật dễ quên những chuyện vặt vãnh như thế.
                - Ngươi sẽ nhận được nó.
                - Hỡi cháu ruột của ngài Numa Pompillius, bao giờ tôi cũng vẫn tin chắc như thế, nhưng giờ đây, một khi cả vị Sứ đồ rộng lượng đây cũng được nghe lời hứa kia, thì tôi không phải nhắc thêm ngài rằng ngài đã hứa cho tôi cả trại nho nữa đấy. Pax vobiscum!(1) Tôi sẽ lại tìm được ngài, thưa ông chủ. Paxvobiscum!
                Họ bèn đáp lại:
                - Và cùng ngươi nữa!
                Rồi cả hai quay sang phải, bước về phía đồi. Dọc đường Vinixius nói:
                - Thưa cha! Xin người hãy dùng nước rửa tội cho con, để con có thể được gọi là một tín đồ thật sự của Đức Chúa Crixtux, bởi lẽ con yêu Người với tất cả sức mạnh tâm linh con. Xin hãy rửa tội cho con nhanh lên với, bởi trong tim con đã sẵn sàng rồi! Và con sẽ làm tất cả những gì Người khuyên con làm, nhưng xin Cha hãy nói cho con hay: con có thể làm được điều gì hơn thế nữa.
                - Hãy thương yêu mọi người như anh em, - đức Sứ đồ đáp, - bởi chỉ có bằng tình yêu thương con mới có thể phụng sự Người.
                - Vâng! Con cũng đã hiểu được và cảm thụ được điều đó. Khi còn là một đứa trẻ, con hằng tin vào các vị thần linh La Mã, nhưng không hề yêu bọn họ, nhưng con yêu Đức Chúa Duy Nhất kia đến nỗi con vui sướng hiến dâng vì Người cả cuộc sống.
                Rồi chàng ngước nhìn trời, thành tâm lặp đi lặp lại:
                - Bởi Người là duy nhất. Bởi Người duy nhất tốt lành và nhân ái! Vậy thì dù cho không chỉ riêng một thành phố này bị tiêu hủy mà toàn thế giới đi chăng nữa, còn cũng vẫn tuyên thệ và tin thờ mỗi một mình Người mà thôi!
                - Còn Người sẽ ban phước cho con và cho mái nhà của con. - Sứ đồ kết thúc.
                Lúc này họ rẽ vào một khe núi khác, ở cuối khe núi đó thấp thoáng một ánh đèn mờ tỏ. Ông Piotr chỉ tay về phía ngọn đèn bảo:
                - Kia là nhà người thợ đào đá đã cho chúng ta trú chân khi chúng ta từ Oxtrianum quay về, mang theo ông Linux bị ốm và không thể tới được khu Zatybre.
                Lát sau họ tới nơi. Cái nhà thực ra là một chiếc hang khoét vào mỏm núi, bên ngoài được chắn bởi một bức vách đắp bằng đất sét và lau sậy. Cửa ra vào khép kín, nhưng qua lỗ hổng dùng thay cửa sổ vẫn thấy bên trong sáng lửa.
                Một hình người đen sẫm khổng lồ nhổm dậy đón những người mới tới và hỏi:
                - Các ông là ai?
                - Tôi tớ của Chúa Crixtux. - Ông Piotr đáp lại. - Bằng an cùng bán, bác Urxux!
                Bác Urxux cúi xuống chân Sứ đồ, rồi sau khi nhận ra Vinixius, bác nắm lấy cổ tay chàng nâng lên miệng.
                - Cả ngài nữa ư? - Bác nói. - Cầu cho sáng danh Con Chiên vì niềm vui sướng mà ngài sẽ mang đến cho nàng Kalina.
                Nói đoạn bác mở cửa và họ cùng bước vào. Ông Linux ốm nằm trên những bó rơm, mặt gầy gò và chiếc trán vàng như ngà voi. Ligia ngồi bên đống lửa, cầm trong tay một xâu cá xâu bằng một sợi dây, hẳn là dùng cho bữa tối.
                Mải bận rút ra ra khỏi dây xâu và tin rằng người vào chỉ là bác Urxux, nàng không hề ngước mắt lên. Vinixius bèn tiến đến gần, gọi tên nàng và chìa tay cho nàng. Nàng bật ngay dậy: một ánh chớp nhạc nhiên và mừng rỡ thoáng qua khuôn mặt nàng, và không nói một lời nào, giống hệt như đứa trẻ sau những ngày dài lo âu và hãi hùng đã tìm lại được cha mẹ, nàng lao vào vòng tay rộng mở của chàng.
                Chàng ôm lấy nàng, ghì chặt hồi lâu vào ngực, nồng nhiệt như nàng vừa được cứu sống một cách thần kỳ. Rồi buông vòng tay, chàng ôm lấy thái dương nàng, hôn lên vầng trán, vào đôi mắt, rồi lại ôm ghì người nàng, nhắc mãi tên nàng, cúi xuống gối nàng, xuống lòng nàng, chào đón nàng, ngưỡng mộ và thành kính nàng. Nỗi vui sướng cũng như tình yêu và niềm hạnh phúc của chàng như vô bờ.
                Mãi sau chàng mới bắt đầu kể nàng nghe chàng đã lao từ Anxium trở về ra sao, đã tìm kiếm nàng ở gần tường thành và trong đám khói mù mịt, trong ngôi nhà ông Linux ra sao, chàng đã lo sợ cho nàng xiết bao, chàng đã đau đớn dằn vặt biết bao trước khi đức Sứ đồ chỉ cho chàng biết nơi trú ngụ của nàng.
                - Nhưng giờ đây, - chàng nói, - một khi đã tìm được nàng, tôi không thể nào để nàng ở lại nơi đây trước ngọn lửa và những người đang hóa rồi kia. Người ta giết nhau ngay sát tường thành phố, người ta nổi loạn và bắt cóc nô tỳ. Chỉ có Chúa họa chăng mới biết những tai họa nào nữa sẽ có thể trút xuống Roma. Nhưng tôi sẽ cứu nàng và tất cả các người. Ôi nàng thân yêu của tôi!... Các người có muốn đi cùng tôi đến Anxium chăng? Đến đó chúng ta sẽ xuống một chiếc tàu bơi ra đảo Xyxilia. Đất đâi của tôi sẽ là đất đai của các bạn, nhà cửa của tôi sẽ là nhà cửa của các bạn! Xin hãy nghe lời tôi! Ở Xyxilia, nàng sẽ tìm gặp lại ông bà Aulux, tôi sẽ trả nàng lại cho bà Pomponia, để rồi sau đó sẽ đón nàng từ chính tay bà. Nàng sẽ không bao giờ phải sợ tôi nữa đâu, hỡi carissima(2). Nước rửa tội chưa gột rửa tôi đâu, nhưng xin nàng hãy hỏi ông Piotr xem có phải vừa lúc nãy đây, trên đường tới gặp nàng, tôi đã chẳng nói cùng ông rằng tôi muốn trở thành một tín đồ chân chính của Chúa Crixtux, có phải tôi đã chẳng cầu xin ông hãy rửa tội cho tôi, dù là ngay trong ngôi nhà của người thợ đá này chăng nữa. Xin nàng hãy tin tôi, và xin tất cả các người hãy tin tôi!
                Ligia lắng nghe những lời này với nét mặt bừng sáng. Tất cả những người ở đây quả thực sống trong cảnh bấp bênh và lo sợ triền miên, hồi trước là vì sự theo dõi của bọn Do Thái, còn giờ đây là vì hỏa tai và sự lộn xộn do tai họa gây nên. Việc đi ra đảo Xyxilia thanh bình kia sẽ chấm dứt mọi nỗi lo, đồng thời cũng mở ra thời kỳ mới đầy hạnh phúc trong cuộc đời họ. Giá như Vinixius chỉ muốn mang mỗi một mình nàng theo, hẳn nàng sẽ từ chối sự cám dỗ kia, bởi không muốn bỏ Sứ đồ Piotr và ông Linux, nhưng Vinixius đã nói với bọn họ: “ Xin các bạn hãy đi với tôi! Đất đai của tôi sẽ là đất đai của các bạn, nhà cửa của tôi cũng sẽ là nhà cửa của các bạn!”.
                Vậy nên nàng cúi xuống hôn tay chàng biểu lộ sự ưng thuận rồi nàng nói:
                - Bếp lửa của chàng cũng là của em!
                Sau đó nàng xấu hổ vì đã nói ra lời mà theo phong tục La Mã thì chỉ các cô dâu mới nói ra trong đám cưới, nàng đỏ nhừ mặt, đứng im lặng trong ánh lửa, đầu cúi xuống, không rõ người ta có chê trách nàng chăng.
                Nhưng trong cái nhìn của Vinixius chỉ ánh lên lòng ngưỡng mộ vô bờ. Tiếp đó chàng quay sang ông Piotr và lại cất tiếng nói:
                - Roma bị cháy theo lệnh của Hoàng đế. Ngay từ lúc ở Anxium y đã than phiền là chưa bao giờ được trong thấy một đám cháy lớn. Nếu y đã không lùi trước một tội ác như thế, xin Cha hãy nghĩ xem, những gì còn có thể xảy ra tiếp nữa! Liệu có ai dám chắc là một khi đã kéo quân đội về đây, y lại không ra lệnh giết chóc dân chúng. Ai biết sẽ còn có những mật chỉ gì nữa, ai hay, liệu sau cơn hỏa hoạn lại chẳng tiếp đến nạn nội chiến, giết chóc và đói kém? Vậy xin các bạn hãy tự bảo vệ lấy bản thân và chúng ta cùng bảo vệ Ligia. Nơi ấy các bạn sẽ sống trong bình yên chờ cho qua cơn bão tố, và khi nó qua rồi, các bạn sẽ lại trở về gieo tiếp những hạt giống của các bạn.
                Bên ngoài, từ phía Ager Vaticanux, dường như để khẳng định những điều lo lắng của Vinixius, vang lên những tiếng kêu xa xôi nào đó đầy điên cuồng và hãi hùng. Chính vào lúc đó người thợ đá, chủ của căn nhà, bước vào, vội vã đóng sập cửa lại và kêu lên:
                - Người ta đang giết nhau cạnh hý trường Nerô! Bọn nô lệ và đấu sĩ tấn công các công dân.
                - Các bạn đã nghe thấy chưa - Vinixius nói.
                - Hết mức rồi, - Sứ đồ lên tiếng - và tai họa sẽ như biển cả vô biên.
                Rồi quay sang Vinixius ông trỏ tay chỉ Ligia và nói:
                - Con hãy mang cô gái mà Chúa đã dành cho con ra đi, cứu lấy nàng, còn ông Linux đang đau ốm và bác Urxux cũng hãy ra đi cùng hai trẻ.
                Song Vinixius, người yêu mến đức Sứ đồ với toàn bộ sức mạnh tâm linh không bao giờ kìm hãm nổi của chàng, kêu lên:
                - Xin thề với người, hỡi thầy của con, con không thể để thầy ở lại đây chịu chết!
                - Và Đức Chúa sẽ ban phước cho con vì lòng tốt ấy, - Sứ đồ đáp, - nhưng con không nghe thấy rằng chính Chúa Crixtux đã ba lần nhắc lại cho ta lúc ở trên hồ: “ Ngươi hãy chăn đàn chiên con của ta!” đó sao?
                Vinixius nín lặng.
                - Vậy nếu như con, vốn không được ai giao phó việc chăm lo cho ta, còn nói rằng sẽ không để ta lại đây chịu chết, thì lẽ nào còn lại muốn rằng ta bỏ đàn chiên con của ta mà chạy thoát thân trong ngày tai ương? Khi bão nổi trên hồ, khi chúng ta run sợ trong lòng, Người đã không bỏ rơi chúng ta, vậy làm sao ta, kẻ nô bộc của Người, lại không đi theo gương của Chúa ta?
                Khi ấy ông Linux ngẩng khuôn mặt gầy guộc của mình lên và hỏi:
                - Vậy sao tôi lại không được bước theo gương của Người, hỡi vị thuộc hạ của Đức Chúa?
                Vinixius lấy tay xoa đầu, dường như chàng đâu đấu tranh với bản thân hoặc đang suy nghĩ lao lung, rồi nắm chặt tay Ligia, chàng thốt lên với giọng nói vang lên nghị lực của một người lính La Mã:
                - Xin hãy nghe tôi, hỡi Piotr, Linux và nàng nữa, hỡi Ligia! Tôi đã thốt ra những gì mà trí óc người thường của tôi bảo tôi phải nói, nhưng các người có một thứ trí óc khác, trí óc ấy không nhìn đến sự an toàn của bản thân mình mà theo những lời răn của Đấng Cứu thế. Phải! Tôi đã không hiểu nổi điều đó và đã lầm lạc, bởi mắt tôi chưa được tháo bỏ lớp màng, và cái bản chất xưa kia lại lên tiếng trong lòng tôi. Nhưng bởi tôi yêu mến Chúa Crixtux và muốn được làm một kẻ tôi tớ của Người, nên dù ở đây tôi không chỉ lo đến cái đầu của mình, tôi vẫn quỳ xuống đây trước mặt các người xin thề rằng, cả tôi nữa cũng sẽ làm theo lời răn yêu thương và sẽ không bỏ những người anh em tôi trong ngày hoạn nạn.
                Nói đoạn chàng quỳ xuống, và trong một niềm phấn khích đột ngột, chàng ngước mắt và vươn tay lên trời kêu lên:
                - Phải chăng con đã hiểu được Người, hỡi Chúa Crixtux? Phải chăng con đã xứng đáng với Người?
                Tay chàng run rẩy, mắt chàng long lanh lệ, thân thể chàng cồn lên những cơn rùng mình của lòng tin và tình yêu thương; còn đức Sứ đồ Piotr cầm lấy chiếc bình nước bằng đất lại gần chàng và long trọng cất lời:
                - Ta rửa tội cho con nhân danh Cha và Con và Thánh thần, amen!
                Lúc đó, niềm hứng khởi tôn giáo tràn ngập lòng những người có mặt. Họ ngỡ như ngôi nhà bừng sáng một thứ ánh hào quang thiên giới nào đó, họ ngỡ như đang nghe thấy một thứ âm nhạc thiên giới nào đó, chiếc hang đá như mở ra trên đầu họ, và từ trời cao bay xuống hàng đàn thiên sứ, còn tít trên cao họ như trông thấy cây thánh giá và hai bàn tay bị đinh xuyên thủng đang ban phước lành cho họ.
                Trong lúc ấy bên ngoài vẫn vang động tiếng kêu của những kẻ đang đánh nhau và tiếng gầm gừ của ngọn lửa thiêu đốt thành phố.
                Chú thích:
                (1) Bằng an cùng các người
                (2) La tinh: Nàng thân yêu
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #53
                  T2 - Chương 49

                  Những lều trại con người dàn trải khắp các khu vườn thượng uyển tuyệt vời của hoàng đế, trước kia được gọi là vườn Đomixxia và Agrypina, khắp cánh đồng thần Marx, trong những khu vườn Poppeius, Xaluxtius và Mexenax. Người ta chiếm lấy hàng cột những tòa nhà dùng để phơi phóng, những ngôi nàh nghỉ mùa hè xinh xắn và cả những nhà gỗ được dựng lên dành cho bọn súc vật. Lũ công, hồng hạc, thiên nga và đà điều, lũ nai vàng và linh dương của Phi châu, lỹ hươu và hoẵng dùng để trang điểm cho các khu vườn, đều làm mồi cho lưỡi dao của đám tiện dân. Lương thực bắt đầu được chuyển từ Oxtia đến nhiều đến nỗi người ta có thể vượt từ bờ này sông Tyber sang bờ kia qua các bè và tàu thuyền đủ loại đậu san sát, như bước qua cầu. Người ta bán rộng rãi ngũ cốc với giá rẻ chưa từng thấy là ba xexterxi, còn đối với người nghèo thì hoàn toàn cấp không. Người ta mang về đây không biết cơ man rượu vang, ooliu và hồ đào, từ vùng núi hàng ngày người ta lùa về hàng đàn bò và cừu. Đám dân nghèo, trước đám cháy thường ẩn náu trong những ngõ hẻm của khu Xubura và bình nhật thường chết đân chết mòn vì đối, nay sống sung sướng hơn trước. Bóng ma đói đã bị đẩy lùi hẳn, ngược lại khó lòng chống lại nạn cướp bóc và tham nhũng. Cuộc sống lang thang ngoài trời khiến cho bọn kẻ cắp không bị trừng trị, nhất là khi chúng tự tuyên bố là những kẻ nhiệt thành ủng hộ hoàng đế và không hề tiếc người những tràng vỗ tay, dù người xuất hiện ở bất cứ nơi nào. Thêm nữa, do tình hình thực tế, chính quyền hoàn toàn mất hiệu lực, đồng thời thiếu lực lượng vũt rang tại chỗ có thể ngăn chặn sự lộng hành, nên trong thành phố, nơi cả cái thế giới ấy sinh sống hỗn độn, xẩy ra biết bao chuyện vượt quá sức tưởng tượng của con người. Đêm đêm lại xẩy ra những vụ đánh nhau, những vụ giết người, bắt cóc phụ nữ và trẻ con. Cạnh cổng Porta Mugionĩ, chỗ dừng chân của những đàn súc vật được dồn từ núi Anban xuống, thường xẩy ra những vụ đánh nhau chết hàng trăm người. Cứ sáng sáng hai bờ sông Tyber lại đầy những xác người trôi, chẳng được ai chôn cất, những cái xác rữa ra nhanh chóng do tiết trời cực nóng nực cộng thêm với cái nóng của đám cháy, khiến không khí tràn ngập mùi hôi thối kinh tởm. Trong các lều trại, bệnh tật phát sinh thường xuyên và những người hay sợ hãi đoán trước là sẽ xẩy ra bệnh dịch.
                  Thành phố vẫn bốc cháy triền miên. Ngày thứ sáu, ngọn lửa gặp phải một khoảng trống trải trên đồi Exquilin, nơi người ta đã cố ý phá đi rất nhiều nhà cửa, nên bắt đầu yếu dân. Song những đám than hồng rừng rực vẫn chiếu sáng mạnh đến nối dân chúng không tin rằng tai họa đã chấm dứt. Quả tình đến đêm thứ bẩy đám cháy lại bùng lên với một sức mạnh mới trong những tòa dinh thự của Tygelinux, tuy nhiên do thiếu chất cháy nên nó kéo dài chẳng mấy đỗi. Đây đó chỉ còn những ngôi nhà đã bị cháy trụi thỉnh thoảng lại sụp đổ, ném lên không trung những lưỡi lửa uốn éo và những chùm tia lửa. Song dần dần những đống đổ nát - dẫu hãy còn cháy bỏng dưới sâu - cũng đã bắt đầu xám đén lại trên bề mặt. Sau lúc mặt trời lặn, bầu trời không còn cái quầng lửa đỏ bầm chiếu sáng nữa, chỉ trong đêm, trên cái hoang mạc đen thẫm mênh mông, mới leo heo những lưỡi lửa xanh lè thoát lên từ các đống than.
                  Trong số mười bốn khu phố của Roma chỉ còn lại mỗi bốn khu, kể cả khu Zatybre, những khu kia đã bị ngọn lửa nuốt chửng. Mãi tới khi những đống than đã hóa thành tro tàn mới thấy rằng, kể từ bờ sông Tyber đến tận đồi Equilin là cả một khoảng không gian mênh mông màu xám xịt, buồn thảm, chết chóc, trên đó nhô lên dàng dẫy ống khói mang hình các hàng mộ chí trên nghĩa địa. Giữa những hàng cột ấy, ban ngày thường rải rác những đám người đang tìm kiếm các đồ vật quý giá hay xương cốt những người thân. Đêm đến, lũ chó tru trên đống tro tàn và đổ nát của những ngôi nhà xưa.
                  Toàn bộ sự hào phóng và trợ giúp mà hoàng đế biểu lộ cho dân chúng vẫn không ngăn nổi những lời nguyền rủa và phẫn nỗ. Chỉ có bọn ăn cướp, bọn kẻ cắp và những kẻ bần cùng vô gia cư là hài lòng, vì chúng có thể được ăn, được uống và được cướp bóc tùy thích. Còn những người đã bị mất đi những sinh linh thân yêu nhất cùng của cải tài sản không thể hài lòng, bất chấp việc mở cửa các khu vườn thượng uyển, phát chẩn lương thực, những lời hứa hẹn về hội thi và quà tặng. Nỗi bất hạnh quá lớn lao và chưa từng có. Những người trong lòng còn le lói một đốm lửa nào đó của tình yêu thành phố quê hương thì tuyệt vọng bởi cái tin: Tên cũ "Roma" sẽ biến mất hoàn toàn khỏi mặt đất và hoàng đế định xây dựng trên đống tro tàn một thành phố mới với cái tên Nerôpolix(1). Làn sóng phản kháng cồn dậy và lớn lên hàng ngày, bất kể những lời tán tụng của đám cận thần, bất kể những lời dối trá của Tygelinux, Nerô vốn nhậy cảm hơn tất thảy các hoàng đế trước ngài đối với lòng dân, vẫn lo sợ khi nghĩ rằng, trong cuộc chiến đấu một mất một còn thầm lặng mà ngài đang tiến hành chống lại giới quý tộc và viện nguyên lão, rất có thể ngài sẽ thiếu đi chỗ dựa. Chỉnh bản thân các vị cận thần cũng không kém phần lo lắng, bởi lẽ mỗi một sáng mai đều có thể mang tới cho họ sự diệt vọng. Tygelinux nghĩ tới việc đưa vài chiến đoàn từ Tiểu Á trở về. Vatynius, kẻ cười ngay cả khi bị người ta tát vào mặt, mất cả cui. Vitelius ăn mất ngon.
                  Ngững người khác bàn nhau tìm cách đối phó với nỗi nguy hiểm, vì chẳng một ai không biết rằng, một khi cơn bùng nổ kia quét đi hoàng đế, thì có thể ngoại trừ mỗi mình ông Petronius, còn không một ai trog đám cận thần có thể thoát chết. Bởi lẽ người ta cho rằng sự điên rồ của Nerô là do ảnh hưởng của bọn họ, tất cả những tội ác mà ngài phạm là do những lời sám tấu của bọn họ. Lòng căm thù dành cho bọn họ thậm chí có thể còn lớn hơn cả lòng căm thù hoàng đế.
                  Vậy nên họ cố nặn óc tìm cách trút bỏ khỏi mình trách nhiệm về việc đốt cháy thành phố. Nhưng muốn trút bỏ trách nhiệm cho bản thân, cần phải tẩy rửa cho cả hoàng đế tránh khỏi những lời dị nghị, bằng không chẳng một ai có thể tin rằng họ không phải là thủ phạm gây nên tai hạo. Nhằm mục đích ấy, Tygelinux thương nghi với Đomixius Apher, thậm chỉ cả với ông Xeneka, mặc dù y căm ghét ông. Poppea cũng hiểu được rằng cái chết của Nerô đồng thời cũng sẽ là bản án dành cho ả, nên ả tìm lời khuyên nhủ của đám bạn tâm giao thân hữu cùng các tăng lữ Hebrai, vì mọi người cho rằng, đã từ vài năm nay, ả gửi lòng tin vào đấng Jehova. Còn Nerô thì tự mình tìm ra phương sách, thường là những phương sách kinh khủng, nhưng nhiều hơn là những phương sách rất hề, do vậy lúc thì ngài rơi vào nỗi hãi hùng, lúc thì lại đùa vui như trẻ con, song trước hết ngài thường hay trình diễn những điều suy nghĩ của ngài.
                  Một lần nọ, tại ngôi nhà Teberius còn nguyên vẹn sau đám cháy, đã diễn ra một cuộc bàn luận kéo dài và không chút kết quả. Ông Petronius cho rằng để tránh những điều phiền toái nên đi Hy Lạp, rồi từ đó đến Ai Cập và Tiểu Á. Cuộc hành trình được dự liệu đã lâu, lần lừa mãi mà làm gì, trong khi đó ở lại Roma vừa chán ngán vừa nguy hiểm.
                  Hoàng đế nghe lời bàn một cách hăm hở, nhưng sau khi suy nghĩ hồi lâu, ông Xeneka nói.
                  - Đi thì dễ, nhưng sau đó khó mà trở về.
                  - Thề có Heraklex! - Ông Petronius đáp - có thể trở về dẫn đầu các chiến đoàn Châu Á được lắm chứ!
                  - Ta sẽ làm như thế! - Nerô thốt lên.
                  Song Tygelinux bắt đầu chống lại. Bản thân y không thể tìm ra được một phương sách gì và giá như phương sách của ông Petronius mà là của y, chắc chắn y sẽ trình bày nó như một giải pháp hữu hiệu, song y không muốn để ông Petronius lại là người duy nhất biết giải cứu mọi cái cho mọi người trong những giờ phút khó khăn.
                  - Xin thánh thượng hãy nghe thần! - Y nói - Lời tâu khuyên ấy là con đường chết! Trước khi người kịp đi tới Oxtia thì đã nổ ra nội chiến, ai cũng biết chắc là liệu có kẻ nào đó trong số những họ hàng con cháu của hoàng đế Auguxt thần thánh lại chẳng tự xưng danh hoàng đế và khi ấy chúng ta biết làm gì, nếu các chiến đoàn đó ngả sang phía y?
                  - Chúng ta sẽ thực hiện việc đó - Nerô đáp lại - và trước hết chúng ta sẽ cố gắng để không còn một hậu duệ nào của Auguxt nữa. Bọn chúng cũng chẳng còn mấy mồng, nên việc giải quyết chúng cũng dễ thôi.
                  - Có thể làm điều đó, nhưng đâu phải chỉ có bọn chúng? Những người của thân, mới hôm qua đây chứ chẳng lâu la gì, nghe thấy đám đông người ta báo rằng, lẽ ra phải là một người như Tradeas làm hoàng đế mới phải.
                  Nerô cắn môi. Nhưng lúc sau ngài ngước mắt lên trời và thốt ra ra:
                  - Bọn người không bao giờ thỏa mãn và vô ơn! Chúng nó đã có đủ bột mì và than để nướng bánh, chúng nó còn muốn gì hơn nữa kia chứ?
                  Tygelinux bèn đáp:
                  - Cần báo thù!
                  Im lặng bao trùm. Đột nhiên hoàng đế đứng dậy, giơ tay lên trời và đọc:
                  Những trái tim đòi báo thù
                  Sự báo thù đòi những vật hy sinh
                  Rồi quên hết mọi chuyện, ngài kêu lên với khuôn mặt rạng ngời:
                  - Hãy đưa cho ta bảng và bút đây, để ta ghi lại dòng thơ này! Lukan chưa bao giờ đặt được một câu thơ như thế! Các ngươi có thấy ta tìm ra nó trong một chớp mắt hay không?
                  - Ôi, thật khôn sánh! - Vài giọng nói vang lên.
                  Nerô ghi câu thơ rồi nói:
                  - Phải! Sự báo thù đòi những vật hy sinh!
                  Sau đó ngài dõi cái nhìn lướt qua những người có mặt:
                  - Thế nếu như phao tin rằng chính Vatylius ra lệnh đốt thành phố và hy sinh hắn ta cho cơn thịnh nộ của dân chúng thì sao?
                  - Ôi thánh thượng! Thần có là cái thớ gì đâu? - Vatynius kêu lên.
                  - Phải rồi! Cần một kẻ nào đó to hơn ngươi!...Vitenlius chăng?
                  Vitelius tái người, song lại bắt đầu cười:
                  - Mỡ của thần - hắn đáp - rất có thể sẽ lại làm bùng lên một đám chay mới.
                  Nhưng thực sự Nerô nghĩ tới một kẻ thù khác, bởi ngài thầm tìm kiếm một vật hy sinh quả thực có thể thỏa cơn giận dữ của dân chúng.
                  - Tygelinux - lát sau ngài nói - chính ngươi đã đốt cháy Roma!
                  Một cơn rùng mình chạy suốt lượt những người có mặt. Họ hiểu rằng lần này hoàng đế không đùa nữa và giây phút chứa đầy những sự biến đã đến rồi.
                  Mặt Tygelinux nhăn nhúm lại như mõm con chó sẵn sàng cắn.
                  Thần đã đốt cháy Roma theo lệnh của hoàng thượng - y nói.
                  Và họ bắt đầu gờm gờm nhìn nhau như hai con quỷ dữ. Im lặng bao trùm, đến nỗi có thể nghe thấy cả tiếng vo ve của những con ruồi bay qua gian chính sảnh.
                  - Tygelinux này - Nerô lại lên tiếng - khanh có yêu ta chăng?
                  - Người cũng biết đấy, tâu hoàng thượng.
                  - Vậy khanh hãy hy sinh vì ta.
                  - Tâu thánh thượng - Tygelinux đáp - sao người lại đưa cho thần thứ nước ngọt ngào mà thần không được phép đưa lên môi? Dân chúng đang xôn xao và nổi loạn, phải chăng người còn muốn cả quân cấm vệ cũng bắt đầu nổi loạn nữa chăng?
                  Cảm giác bị đe dọa bóp chặt trái tim những người có mặt. Tygelinux là tổng quản quân cấm vệ và những lời của hắn mang ý nghĩa của một lời đe dọa. Bản thân Nerô cũng hiểu điều đó và mặt ngài trắng nhợt đi.
                  Đúng lúc đó Epaphođyt, nô lệ giải phóng của hoàng đế, bước vào nói rằng Auguxta thánh hậu muốn được gặp Tygelinux, vì ở chỗ hoàng hậu đang có mặt những người mà quan tổng quan cần gặp.
                  Tygelinux cúi chào hoàng đế và bước ra với bộ mặt bình thản và khinh mạn. Đấy, khi người ta muốn đánh hắn, hắn đã nhe nanh, đã tỏ cho người ta biết hắn là ai và vì hiểu rõ tính hèn nhát của Nerô, hắn tin chắc rằng vị chúa tể thế gian này khong bao giờ dám giơ tay chống lại hắn.
                  Còn Nerô ngồi im lặng một hồi lâu, song thấy những người có mặt đang chờ ngài nói một lời gì đó, ngài thốt lên:
                  - Ta đã nuôi rắn độc trong lòng!
                  Ông Petronius nhún vai như muốn nói rằng thật dễ dàng dứt đứt đầu một con rắn như thế.
                  - Khanh muốn nói gì? Hãy nói đi, hãy khuyên ta với! - Nerô kêu lên khi nhìn thấy cử chỉ của ông - Ta chỉ tin mỗi một mình khanh, bởi lẽ khanh nhiều trí tuệ hơn tất cả bọn chúng và khanh yêu ta.
                  Ông Petronius chực nói: "Xin hãy phong thần làm tổng quản cầm quân, thần sẽ nộp Tegelinux cho dân chúng và chỉ trong một ngày thần sẽ làm yên thành phố!". Nhưng sự lười nhác bẩm sinh đã thắng. Làm tổng quản cũng có nghĩa là phải gánh trên vai bản thân hoàng đế và hàng nghìn công việc xã hội khác. Ông cần gì đến những việc vất vả ấy kia chứ? Phải chăng tốt hơn là nên đọc thơ trong cái thư viện dễ thương, ngắm những chiếc bình cổ hoặc ôm vào lòng thân thể thần thánh của nàng Eunixe, luồn tay vào mớ tóc vàng của nàng và chìa môi đón đôi môi đỏ như san hô của nàng?
                  Ông bèn nói:
                  - Thần khuyên nên đi Akhai.
                  - A - Nerô trả lời - ta chờ ở ngươi một cái gì hơn thế. Viện nguyên lão căm thù ta. Một khi ta đã ra đi, ai có thể đảm bảo rằng bọn chúng không nổi loạn chống ta và không tuyên cáo một kẻ khác làm hoàng đế? Hồi trước, dân chúng trung thành với ta, nhưng bây giờ họ sẽ theo bọn chúng…Thề có Hađex! Giá như nguyên lão viện và đám dân chúng kia chỉ có một cái đầu duy nhất…
                  - Xin thánh thượng hãy cho thần được nói rằng muons duy trì được Roma cần phải giữ được dù chỉ vài cái đầu Roma chứ ạ - Ông Petronius nói với một nụ cười.
                  Song Nerô bắt đầu ca thán:
                  - Ta cần gì Roma và dân Roma! Ngay cả ở Akhai người ta cũng sẽ lắng nghe ta. Chốn này chỉ có sự phản bội vây quanh ta. Tất cả đều bỏ rơi ta. Và cả các người cũng sẵn sàng phản bội ta. Ta biết, ta biết rõ điều đó!...Các ngươi không hề nghĩ đến những điều mà những thế kỷ mai này sẽ nói, một khi các người rời bỏ một nghệ sĩ như ta.
                  Nói tới đây đột nhiên ngài đập vào trán kêu lên:
                  - Đúng rồi!...Mải lo những chuyện ấy, ta quên bẵng mất ta là ai.
                  Đoạn ngài quay sang ông Petronius với nét mặt đã hoàn toàn rạng rỡ.
                  - Này Petronius - ngài nói - dân chúng đang xôn xao, nhưng nếu ta cầm lấy cây đàn luýt và bước ra cánh đồng thần Marx, nếu ta hát cho chúng nghe bài ca mà ta hát cho các khanh nghe khi còn đám cháy, thì theo khanh liệu ta có thể khiến được chúng xúc động bằng tiếng hát của ta như chàng Orfeus xưa kia từng khiến lũ dã thú phải xúc động hay chăng?
                  Nghe thấy thế Tulius Xenexio, kẻ đang nóng lòng muốn được quay về với lũ nô tỳ mà y mang từ Anxium về, liền nói:
                  - Tâu hoàng thượng, không nghi ngờ gì nữa, chỉ cần chúng nó để cho người được lên tiếng.
                  - Vậy thì chúng ta hãy đi Hellađa! - Nerô chán nản thốt lên.
                  Nhưng chính vào lúc ấy Poppea bước vào, cùng với hoàng hậu là Tygelinux. Mắt của những người có mặt bất giác đều hướng về phía hắn, bởi chưa một người chiến thắng nào tự hào tiến lên đồi Kapiton như hắn khi dừng bước trước mắt hoàng đế.
                  Rồi hắn bắt đầu nói, khoan thai và đĩnh đạc, với giọng nói dường như vang lên tiếng loảng xoảng của sắt thép:
                  - Xin hãy nghe thần nói, tâu hoàng thượng, thần có thể nói cùng hoàng thượng rằng: Thần đã tìm được rồi! Dân chúng đang đòi báo thù và vật hy sinh, nhưng không phải một vật mà hằng trăm hằng nghìn. Đã có khi nào người nghe nói đến Crextox, kẻ đã bị Ponxius Pilat đóng đinh lên thập tự là ai hay chưa? Người có biết bọn Thiên Chúa giáo là ai không? Phải chăng thần đã không trình lên hoàng thượng những tội ác và những cuộc hành lễ vô luôn cùng những điều tiên đoán của bọn chúng, rằng chính lửa sẽ mang đến ngày tận thế? Dân chúng căm ghét và nghi ngờ bọn chúng. Không một ai thấy mặt chúng tại các thần miếu, bởi chúng xem các vị thần của chúng ta là quỷ dữ. Hoàng thượng không gặp chúng ở sân vận động, bởi chúng khinh bỉ các cuộc đua. Chưa bao giờ bàn tay của một tên Thiên Chúa giáo nào vỗ để tán thưởng người. Không một tên nào thừa nhận hoàng thượng là thần. Chúng là kẻ thù của người. Dân chúng đang xôn xao chống lại người, nhưng đâu phải người, thưa hoàng thượng, đã ra lệnh cho thần đốt cháy thành Roma, cũng như không phải thần đã đốt cháy thành đô…Dân chúng khao khát báo thù, vậy hãy cho chúng được rửa hận. Dân chúng nghi ngờ người, hãy để cho sự nghi ngờ của chúng quay sang phía khác.
                  Thoạt tiên Nerô nghe hắn với vẻ ngạc nhiên. Nhưng càng nghe những lời của Tygelinux, bộ mặt diễn viên của ngài càng biến đổi, mang những nét giận dữ, tiếc thương, đồng cảm, phần nộ thay nhay. Đột nhiên ngài đứng bật dậy, dứt bỏ chiếc áo toga, để cho nó tuột dài xuống chân, vươn cả hai tay lên trời và đứng dậy, im lặng hồi lâu.
                  Mãi sau ngài mới cất giọng một diễn viên bi kịch mà rằng:
                  - Hỡi các thần Zeux, Apolon, Hera, Atena, Perxefona, hỡi tất cả các vị thần linh bất tử, tại sao các người không giáng thể cứu giúp chúng tôi? Cái thành đô bất hạnh này đã làm gì lũ người bạo tàn kia để chúng đốt cháy nó một cách bất nhân đến thế?
                  - Chúng nó là kẻ thù của loài người và của hoàng thượng - Poppea nói.
                  Những người khác cũng bắt đầu kêu lên:
                  - Xin người hãy thực hành công lý! Hãy trị tội lũ đốt nhà! Chính các thần cũng đang đòi được trả thù!
                  Hoàng đế ngồi xuống, gục đầu xuống ngực và lại im lặng, dường như sự vô sỉ mà ngài vừa nghe nói đã khiến ngài bị xúc động mạnh. Song lát sau ngài vung vẩy hai tay thốt lên:
                  - Có hình phạt nào, có nỗi đớn đau nào tương xứng với tội ác này chăng? Song các thần đã tiếp sức cho ta và nhờ những sức mạnh của Tatar, ta sẽ hiến cho chúng dân của ta những cảnh trí huy hoàng đến nỗi nhiều thế kỷ sẽ còn nhắc đến ta với lòng biết ơn.
                  Một đám mây đen bỗng như bao phủ vầng trán ông Petronius. Ông nghĩ đến nỗi nguy hiểm đang treo trên đầu Ligia, Vinixius, người mà ông yêu mến, cũng như những người khác, mà dù có từ chối giáo thuyết của họ, ông vẫn tin chắc vào sự vô tội của họ. Ông cũng nghĩ rằng sắp diễn ra một cảnh cuồng hoan đẫm máu mà cặp mắt một nhà duy mỹ như ông không thể chịu đựng nổi. Song trước hết ông tự nhủ: "Ta phải cứu Vinixius, kẻ chắc chắn sẽ phát điên nếu cô gái kia bị hại" và cái quan điểm này chiến thắng mọi ý nghĩ khác. Bởi lẽ Petronius hiểu rất rõ rằng ông sắp bắt đầu một trò chơi nguy hiểm chưa từng có trong đời.
                  Tuy nhiên ông vẫn bắt đầu nói một cách phóng túng và khinh thị như thường lệ, khi ông phê phán hay cười chê những ý tưởng không mấy thẩm mỹ của hoàng đế và các cận thần:
                  - Thế là các ngươi đã tìm thấy vật hy sinh! Hay lắm! Các người có thể ném chúng ra đấu trường hoặc mặc cho chúng những chiếc áo "tunica đau đớn". Đều hay cả, những xin hãy lắng nghe tôi nói. Các người có chính quyền, có lính cấm vệ, các người có sức mạnh, vậy xin các người chí ít cũng hãy thành thật một chút khi không có kẻ nào nghe lỏm các người. Các người đánh lừa dân chúng, nhưng xin chớ đánh lừa ngay cả chính mình. Các người cứ việc đưa bọn Thiên Chúa giáo cho dân chúng, các người cứ việc kết tội chúng phải chịu những cực hình nào các người nào các người muốn, song xin các người hãy can đảm mà tự nhận với mình rằng: Không phải bọn họ đã đốt cháy Roma…Phải! Các người gọi tôi là arbiter elegantiarum nên tôi xin tuyên bố cùng các người rằng: Tôi không chịu nổi những tên diễn viên kịch xoàng xĩnh! Phải! Ôi sao mà tất cả trò này khiến tôi nhớ đến cá nhà hát tồi tàn gần Porta Asinaria đến thế, nơi đó các diễn viên đong vai các thần linh và các vị hoàng đế để mua vui cho đám hạ lưu ngoại thành, để rồi sau khi biểu diễn sẽ được nhắm hành sống với rượu vang chua loét hoặc bị nện nhừ tử. Xin các người hãy làm những vị thần linh và những hoàng đế thật sự, bởi tôi xin phép thưa với các người răng, các người có thể cho phép mình làm việc đó. Còn nếu nói về người, thưa hoàng thượng, người đã mang sự xét xử của tòa án những thế kỷ ngày mai ra dọa chúng thần, song xin người hãy nghĩ thêm rằng, những tòa án ấy cũng sẽ tuyên án cả cho người nữa đấy. Lạy Klio thần thánh! Nerô chúa tể thế giới, Nerô thần thánh, người đã đốt cháy thành Roma bởi trên mặt đất người hùng mạnh như thần Zeux trên núi Olimpơ. Nerô thi sĩ yêu thi ca đến độ dám dâng hiến thi ca cả tổ quốc của mình. Từ thưở khai nguyên thế giới chưa có một ai hành động tương tự, chưa một ai dám làm một việc tương tự. Thề có chín vị thần Libetryđa, thần xin hoàng thượng chớ từ bỏ một vinh quang như thế, vì khi ấy những bài ca về người sẽ vang ngân đến tận cùng muốn thế kỷ. Bên cạnh người, vua Priam, Agamenon, Asilex sẽ là cái thớ gì, ngay cả các vị thần linh nữa cũng có ra gì? Chẳng cần biết việc đốt cháy thành Roma có là việc tốt hay không, nhưng đó là một hành động vĩ đại và phi thường. Thêm vào đó, thần xin nói với hoàng thượng rằng dân chúng không hề giơ một cánh tay nào chống lại hoàng thượng cả! Đó là một điều không đúng! Xin người hãy can đảm! Hãy coi chũng những hành động không xứng đáng với người, bởi người chỉ bị đe dọa bởi mỗi một điều thôi, đó là những thế kỷ ngày mai sẽ có thể nói rằng: "Nerô đã đốt cháy thành Roma, nhưng y là một hoàng đế non gan, một thi sĩ non gan, y đã chối một hành động vĩ đại vì sợ hãi, đã đổ lỗi cho những người vô tội".
                  Lời của ông Petronius thường gây những ấn tượng mạnh đối với Nerô, song lần này chính ông Petronius cũng không hề có ảo tưởng, bởi ông hiểu rõ rằng điều mà ông nói là biện pháp cuối cùng, trong trường hợp may mắn lắm nó mới có thể cứu nổi những người Thiên chúa giáo, song nó cũng có thể làm ông mất mạng như bỡn. Tuy nhiên ông đã không ngần ngại vì ông lo cho tính mạng Vinixius, người mà ông yêu thương, đồng thời đây là cuộc đỏ đen ông đang chơi. "Quân bài đã quật xuống rồi - ông tự nhủ - ta hãy xem xem ở loài khỉ nỗi lo sợ cho tính mạng lớn hơn bao nhiêu so với lòng yêu chuộng vinh quang".
                  Và trong thâm tâm ông không hề nghi ngờ rằng dù sao nỗi lo sợ kia vẫn chiếm phần thắng.
                  Lần này, tiếp theo sau lời ông là một sự im lặng bao trùm. Poppea và tất cả những kẻ có mặt đều nhìn chăm chăm vào mắt Nerô như nhìn ánh cầu vồng, còn ngài thì đang nhướng môi trên lên gần sát lỗ mũi như ngài vẫn thường làm khi chưa biết cư xử ra sao. Sau cùng, vẻ bối rối và sự ác cảm hiện rõ trên mặt ngài.
                  - Tâu hoàng thượng - Tygelinux kêu to khi nhìn thấy thế - xin hãy cho phép thần được ra đi, vì một khi người ta muốn đưa chính bản thân hoàng thượng ra thách đố, hơn nữa lại dám gọi người là một hoàng đế non gan, một nhà thơ non gan, là kể đốt nhà và là một diễn viên hài kịch, thì tai của thần đây không thể nào nghe nổi những lời như thế.
                  "Ta thua rồi" - Ông Petronius nghĩ thầm.
                  Song ông vẫn quay lại nhìn Tygelinux và cái nhìn đầy khinh miệt của một ông chủ vĩ đại và một con người quý phái dành cho một kẻ cùng đinh mạt hạng, rồi ông nói:
                  - Tygelinux, chính ngươi mới là kẻ mà ta gọi là diễn viên hài kịch, bởi vì thậm chí ngay cả lúc này đây ngươi vẫn đang đóng kịch.
                  - Phải chăng vì ta không muốn nghe những lời nhục mạ của ông?
                  - Vì ngươi đóng giả một tình yêu vô bờ bến đối với hoàng thượng, ấy thế mà mới một lát trước đây thôi, chính ngươi đã mang quân cấm vệ ra dọa người, điều mà tất thảy chúng ta và cả người đều hiểu rõ.
                  Tygelinux không ngờ răng ông Petronius dám ném những là bài như thế lên mặt bàn, hắn tái cả người, bối rối và không thốt ra lời nào. Song đó là thắng lợi cuối cùng của arbiter elegantiarum trước đối thủ, bởi chính lúc đó Poppea lên tiếng:
                  - Hoàng thượng ơi, sao người có thể cho phép một ý nghĩ như thế nảy sinh trong đầu óc của bất cứ kẻ nào, hơn nữa ai đó lại dám lớn tiếng tuyên bố nó ngay trước mặt người kia chứ?
                  - Xin hãy trừng trị kẻ táo gan! - Vitelius kêu to.
                  Nerô lại nhướn nhướn môi trên lên gần lỗ mũi, rồi quay đôi mắt thủy tinh cận thị của ngài sang nhìn ông Petronius, ngài nói:
                  - Ngươi đáp lại tinh thần thân hữu mà ta vốn dành cho ngươi như thế đó sao?
                  - Nếu như thần có lầm, xin hoàng thượng hãy chỉ cho thần được rõ - Ông Petronius đáp - Nhưng xin người hãy biết cho rằng thần nói những điều mà chính tình yêu hoàng thượng lệnh cho thần phải nói.
                  - Xin hãy trừng trị kẻ táo gan! - Vitelius lặp lại.
                  - Xin hãy trừng trị! - Vài giọng nữa họa theo.
                  Trong gian chính sảnh thông thiên ồn ào và náo động, bởi lẽ mọi người bắt đầu tránh xa ông Petronius. Tránh xa ông ngay cả Tulius Xenexio, người bạn thường xuyên của ông trong chốn cung đình và cả chàng trai trẻ tuổi Nerva, người cho đến nay vẫn dành cho ông một mối tình thân hữu cao nhất. Lát sau ông Petronius còn lại mỗi một mình ở phía trái gian chính sảnh, với một nụ cười trên môi, ông dùng tay vuốt lại những nếp gấp của chiếc áo toga và chờ xem hoàng đế sẽ nói hoặc là gì tiếp nữa.
                  Song hoàng đế nói:
                  - Các khanh muốn ta trừng phạt y, nhưng đó là kẻ thân hữu và người bạn của ta, nên dẫu y có làm đau đớn trái tim ta, hãy cứ để cho y biết rằng, đối với bạn bè, trái tim ấy chỉ mang lòng vị tha mà thôi.
                  "Ta đã thua cuộc và chết" - Ông Petronius nghĩ thầm.
                  Vừa lúc đó hoàng đế đứng dậy, cuộc nghị bàn kết thúc.
                  Chú thích:
                  (1) Latinh: Neropolius - Thành phố Nerô
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #54
                    T2 - Chương 50

                    Ông Petronius đi về nhà, còn Nerô và Tygelinux đi sang gian chính sảnh thông thiên của Poppea, nơi những người mà trước đó viên tổng quản cấm quấn vừa trò chuyện đang chờ.
                    Ở đó có hai vị thầy cả(1) từ khu Zatybre tới, khoác những chiếc áo choàng trọng thể, với những nhành sim thơm trên đầu, một viên ký lục trẻ tuổi là trợ thủ của họ và lão Khilon. Nhìn thấy hoàng đế, các vị tăng lữ tái người đi vì xúc động, cùng giơ hai tay lên cao bằng vai, đầu cúi xuống tận bụng.
                    - Xin kính chào vị quân vương của các quân vương, vua của các nhà vua - Vị già hơn lên tiếng - Xin kính chào người chúa tể của trái đất, người bảo trợ cho chúng dân và hoàng đế, sư tử giữa đàn người mà sự trị vì như ánh sáng mặt trời tỏa rạng, như cây bách hương xứ Liban, như nguồn suối, như bóng cọ và như nhựa thơm Jerokhon!...
                    - Thế các ngươi không gọi ta là thần linh sao? - Hoàng đế hỏi.
                    Hai vị tăng lữ còn tái người hơn nữa, vị cao niên hơn lại lên tiếng:
                    - Lời của người, tâu hoàng thượng, ngọt ngào như chùm nho gốc và như trái chín mọng, bởi lẽ Đức Jehoha đã khiến cho trái tim người chứa đầy sự tốt lành. Song ngay cả vị tiền nhân của cha người, hoàng đế Kaius, dẫu là một người tàn bạo, mà các sứ giả của chúng thần không gọi là thần linh, đặt cái chết của bản thân cao hơn sự báng bổ dòng tu.
                    - Và Kaligula đã ra lệnh ném bọn chúng cho sư tử phải không?
                    - Không đâu, tâu hoàng thượng! Hoàng đế Kaius vẫn sợ cơn giận của Đức Jehova.
                    Và họ ngẩng đầu, bởi cái tên Đức Jehova hùng mạnh đã tiếp thêm can đảm cho họ. Tin vào sức mạnh của Jehova, họ đã dám can đảm hơn nhìn vào mắt Nerô.
                    - Có phải các ngươi muốn kết tội bọn Thiên Chúa giáo đã đốt cháy thành Roma? - Hoàng đế hỏi.
                    - Tâu hoàng thượng, chúng thần khi kết rằng chúng là kẻ thù của dòng tu, kẻ thù của loài người, kẻ thù của Roma và kẻ thù của chính người, rằng đã từ lâu chúng đem lửa ra đe dọa thành đô và thế giới. Còn lại, hoàng thượng sẽ nghe con người này nói, người mà miệng lưỡi chưa hề phạm điều dối trá, bởi lẽ trong huyết quản của mẹ ông ta luôn chảy dòng máu của một dân tộc thanh cao(2).
                    Nerô quay sang lão Khilon:
                    - Ngươi là ai?
                    - Là kẻ ngưỡng mộ người, hỡi Ozyryx, ngoài ra là một nhà khắc kỷ khốn khó…
                    - Ta căm thù lũ khắc kỷ - Nerô nói - Ta căm ghét Trazeas, căm ghét Muzonius và Kornutux. Ta kinh tởm ngôn ngữ của chúng, sự báng bổ nghệ thuật của chúng, sự nghèo khổ tự nguyện của chúng và sự rách rưới của chúng.
                    - Tâu hoàng thượng, thầy học của người, ngài Xeneka, có đến nghìn gốc cam quýt. Nếu người muốn, thần sẽ có gấp đôi. Thần làm một người khắc kỷ theo nhu cầu. Hỡi vầng thái dương, xin người hãy cài chủ nghĩa khắc kỷ của thần vào vòng hoa hồng của người và đặt trước mặt nó một bình rượu nho, nó sẽ hát những khúc ca của Anakeontơ và ngay lập tức át hẳn tiếng tất cả các môn đệ của phái Epikurơ.
                    Rất khoái trí với tên gọi "vầng thái dương", Nerô mỉm cười và bảo:
                    - Người vừa ý ta đấy.
                    - Người này cân nặng bao nhiêu thì đáng giá bấy nhiêu vàng đấy ạ! - Tygelinux kêu lên.
                    Lão Khilon đáp lại:
                    - Tâu hoàng thượng, xin người hãy cho thêm vào số cân nặng của thần sự hào phóng của người, nếu không gió sẽ thổi bay mất số tiền người ban thưởng đấy ạ.
                    - Đúng thế, có thể ngươi không nặng bằng Vitelius - Hoàng đế cắt ngang.
                    - Ơ hơ, hỡi vị thần có cây cung bạc, sự hài hước của thần đâu có bằng chì.
                    - Ta thấy rằng dòng tu của ngươi không cấm được ngươi gọi ta là thần.
                    - Hỡi vị thần linh bất tử! Dòng tu của thần nằm ở chính người, lũ Thiên Chúa giáo đang chống lại dòng tu ấy và vì thế thần căm thù chúng.
                    - Ngươi biết những gì về dân Thiên Chúa?
                    - Người có cho phép thần được khóc không, tâu hoàng thượng?
                    - Không - Nerô nói - Cái đó khiến ta chán ngán.
                    - Và người có lý đến ba lần vì cặp mắt nào đã từng được thấy người sẽ phải khô lệ mãi mãi. Tâu hoàng thượng, xin hãy che chở thần tránh khỏi lũ nghịch thù.
                    - Hãy nói về bọn Thiên Chúa giáo đi - Poppea nói với vẻ hơi sốt ruột.
                    - Sẽ nói, một khi người đã ra lệnh, hỡi nữ thần Izyđa! - Lão Khilon đáp - Ngay từ những năm tuổi trẻ, thần đã hiến dâng đời mình cho triết học, thần tìm tòi chân lý. Thần đã tìm nó ở các vị thánh hiền linh hiển xa xưa, tại hàn lâm viện ở Aten và tại Xerapeum ở thành Alekxanđria. Khi nghe nói đến những người Thiên Chúa giáo, thần nghĩ rằng đó là một trường phái mới, trong đó thần có thể tìm thấy vài hạt chân lý, và thế là thần làm quen với bọn chúng. Bất hạnh thay cho thần! Tên Thiên Chúa giáo đầu tiên mà số phận chẳng lành đã xui khiến thần tiếp xúc là lão Glaukox, một thầy thuốc ở Neapon. Chính nhờ hắn ta dần dần thần được biết rằng bọn chúng thờ phụng một gã Crixtux nào đó, kẻ đã hứa với chúng sẽ tiêu diệt hết con người và triệt phát tất cả các thành phố trên mặt đất, còn chúng thì y sẽ để cho được sống nếu chúng giúp y trong việc tiêu diệt những cháu con của Đekalion. Chính vì thế mà, tâu hoàng thượng, bọn chúng căm thù con người, vì thế mà chúng đánh thuốc độc cái đài phun nước, vì thế mà trong các cuộc tụ họp chúng trút bao lời nguyền rủa lên thành Roma và tất thảy các thần miếu nơi người ta thường bày tỏ lòng thành kính lên các vị thần của chúng ta. Tên Crixtux đã bị đóng đinh lên thập tự, nhưng y cũng đã hứa với chúng rằng khi nào thành Roma bị lửa thiêu thì y sẽ tái sinh một lần nữa và khi ấy y sẽ mang đến cho bọn chúng quyền thống trị thế giới…
                    - Giờ thì dân chúng sẽ hiểu tại sai thành Roma lại bị đốt cháy - Tygelinux ngắt lời.
                    - Nhiều người đã hiểu, thưa ngài - Lão Khilon đáp - Bởi vì tôi đã đi khắp các khu vườn, qua cánh đồng thần Marx và dạy bảo mọi người. Song nếu như các ngài vui lòng nghe tôi nói hết các ngài sẽ hiểu được những lý do khiến tôi phải căm thù chúng. Thoạt tiên lão thầy thuốc Glaukox không để lộ cho tôi biết rằng giáo thuyết của bọn chúng dạy phải căm thù loài người. Ngược lại, lão bảo tôi rằng Crixtux là một vị thần tốt bụng và cơ sở học thuyết của y là tình yêu thương. Trái tim đầy tình âu yếm của tôi không thể cưỡng nổi những chân lý ấy. Thế là tôi đâm mến yêu lão Glaukox và tin ở lão ta. Tôi xẻ chia cùng lão từng mẩu bánh mì, từng đồng xu một, ấy thế mà ngài có biết lão đã trả ơn tôi ra sao không? Trên đường từ Neapon đi Roma lão đã thọc cho tôi một nhát dao, còn vợ tôi, nàng Berenika trẻ trung và xinh đẹp của tôi, thì lão bán cho bọn buôn nô lệ. Nếu Xofoklex biết được chuyện đời tôi…Nhưng tôi nói gì vậy nhỉ! Đang có người còn hơn cả Xofoklex lắng nghe tôi kia.
                    - Thật là một con người đáng thương! - Poppea nói.
                    - Ai đã từng được nhìn thấy dung nhan nàng Afrođyta sẽ không bao giờ là kẻ đáng thương, tâu lệnh bà, mà chính lúc này thần đây đang được chiêm ngưỡng nàng. Nhưng hồi ấy thần đi tìm an ủi trong triết học. Đến được Roma, thần cố tìm mọi cách lọt được tới những bậc cao niên trong giới Thiên Chúa giáo, để có thể giành lại công lý đối với Glaukox. Thần nghĩ rằng có thể sẽ buộc lão trả vợ cho thần…Thần được biết một viên đạo trưởng của chúng, thần quen với tên đạo trưởng thứ hai, tên là Paven, trước kia từng bị giam giữ ở đây những sau đó được tha, thần làm quen với con trai của Debeđeus, thần biết rằng lão Linux, Kletux và nhiều kẻ khác nữa. Thần biết rõ chúng nó cư ngụ nơi đâu trước đám cháy, biết chúng hay lui tới những đâu, thần có thể chỉ ra một cái hang ngầm trong đồi Vatykan cùng một nghĩa địa ở bên ngoài cổng thành Nomentan, nơi chúng hay tiến hành những cuộc lễ vô luôn của chúng. Tại đó thần đã trông thấy Sứ Đồ Piotr, đã thấy lão Glaukox lúc lão đang giết trẻ con để Sứ Đồ có cái mà vẩy lên đầu những người có mặt, thần cũng đã nhìn thấy nàng Ligia, con nuôi của bà Pomponia Grexyna, nàng ta khoe khoang rằng tuy khong mang máu trẻ con đến, nhưng đã mang đến cái chết của một đứa hài nhu vì đã dùng bùa ám tiểu Auguxta, công chú của người đấy, thưa Ozyryx và cả của người, thưa Izyđa!
                    - Người đã nghe thấy chưa, thưa thánh thượng! Poppea thốt lên.
                    - Có thể nào lại thế được chăng? - Nerô kêu lên.
                    - Thần có thể bỏ qua những điều xúc phạm tới bản thân - Lão Khilon nói tiếp - Nhưng khi nghe nói đến các người, thần muốn đâm ngay cho ả một nhát dao. Tiếc thay, ngài Vinixius thanh cao, kẻ yêu mến ả, đã ngăn cản thần.
                    - Vinixius? Thế sao con kia lại chạy trốn hắn ta?
                    - Ả chạy trốn, chàng ta đi tìm ả, vì không thể sống thiếu ả. Để kiếm mấy đồng tiền mọn, thần đã giúp hắn tìm ả và đã trỏ cho hắn ngôi nhà nơi ả đang ẩn náu giữa bọn Thiên Chúa ở khu Zatybre. Chúng thần cùng nhau đi tới đó, cùng đi có cả vị đô vật của hoàng thượng là ngài Kroton, người mà Vinixius thuê để thêm phần an toàn. Song tên Urxux, nô lệ của Ligia, đã bóp chết tươi Kroton. Đó là một người có sức khỏa thật kinh hồn, tâu hoàng thượng, hắn có thể dễ dàng vặn gãy cổ bò tót như người khác bẻ gẫy một cây thuốc phiện vậy. Ông bà Aulux và Pomponia yêu mến hắn chính vì lẽ đó.
                    - Thề có Herkulex! - Nerô thốt ra - Kẻ phàm trần(3) đã bóp chết Kroton thật xứng đáng được tạc tượng tại Forum. Nhưng này lão già, lão nhầm lẫn hoặc bịa đặt sao ấy chứ, vì Kroton bị lưỡi dao của Vinixius đâm chết kia mà!
                    - Con người thường lừa dối các vị thần linh như thế đấy. Ôi tâu thánh thượng, chính thần đã nhìn thấy những chiếc xương sườn của Kroton gẫy vụn trong tay Urxux như thế nào, tiếp đó hắn quật ngã cả Vinixius. Chắc hẳn hắn sẽ giết tươi chàng ta nếu không có Ligia. Sau đó Vinixius ốm rất lâu, còn bọn kia lại chăm sóc chàng ta với hy vọng vì yêu, chàng ta sẽ trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo. Và rốt cuộc hắn đã trở thành tín đồ Thiên Chúa thực.
                    - Vinixius?
                    - Chính thế.
                    - Có thể cả Petronius nữa chăng? - Tygelinux háo hức hỏi.
                    Lão Khilon bắt đầu vặn vẹo, cọ cọ hai tay vào nhau và nói:
                    - Tôi thán phục sự sáng suốt của ngài lắm tháy! Ôi…Có thể! Có thể lắm!
                    - Giờ thì thần đã hiểu tại sao hắn lại bênh vực cho bọn Thiên Chúa giáo đến thế.
                    Nhưng Nerô bật cười.
                    - Petronius mà là tín đồ Thiên Chúa giáo! Petronius mà lại là kẻ thù của cuộc sống và lạc thú! Các người đừng có là bọn ngốc và cũng đừng có mong ta tin vào chuyện đó, nếu không ta sẵn sàng không tin vào chuyện gì nữa cả.
                    - Nhưng chàng Vinixius cao quý đã thành tín đồ Thiên Chúa giáo rồi, thưa thánh thượng! Thần xin thề trên ánh sáng phát ra từ hoàng thượng rằng thần nói sự thật và không có gì khiến thần kinh tởm như sự dối trá. Bà Pomponia là tín đồ Thiên Chúa, cậu Aulux là tín đồ Thiên Chúa, cả Ligia và Vinixius nữa. Thần đã trung thành phục vụ hắn ta, vậy mà để trả công thần, hắn ta đã ra lệnh đánh đòn thần, mặc dù thần già cả, ốm đau và đói khát. Và thần đã thề với Hađex rằng sẽ ghi nhớ với hắn ta chuyện đó. Hoàng thượng ôi, xin người hãy trả thù chúng cho những điều thần bị xúc phạm, còn thần sẽ nộp cho người cả sứ đồ Piotr, lẫn lão Linux, cả Kleutx lẫn lão Glaukox và lão Kryxpux, toàn một lũ già, cả Ligia lẫn Urxux, thần sẽ chỉ cho hoàng thượng bọn chúng, hàng trăm, hàng nghìn đứa sẽ chỉ những nhà nguyện, các nghĩa địa, tất cả những nàh ngục của ngài không đủ chỗ chứa bonuj chúng đâu! Không có thần các người không thể tìm nổi bọn chúng! Cho tới nay, trong những nỗi cơ cực của mình thần chỉ đi tìm niềm an ủi ở triết học, xin để giờ đây thần sẽ tìm niềm an ủi ở triết học, xin để giờ đây thần sẽ tìm trong những ân huệ sẽ rót xuống người thần. Thần già rồi, nhưng chưa từng biết đời sống là gì, xin hãy để cho thần được nghỉ ngơi.
                    - Ngươi muốn trở thành một nhà khắc kỷ ngồi trước cái đĩa đầy tú hụ phải không? - Nerô lên tiếng.
                    - Kẻ nào phục vụ hoàng thượng, chính kẻ đó sẽ được phần đầy.
                    - Ngươi không lầm đâu, hỡi nhà triết học!
                    Song Poppea vẫn chưa thôi nghĩ đến những kẻ thù của mình. Quả tình, lòng say mê của ả đối vwois Vinixius cũng chỉ là một ham muốn nhất thời, phát sinh dưới ảnh hưởng của lòng ghen, cơn giận và lòng tự ái bị tổn thương. Nhưng sự lạnh lùng của chàng quý tộc trẻ tuổi đã xúc phạm ả một cách sâu sắc, khiến lòng ả tràn đầy một niềm ác cảm cay cú. Chỉ nguyên việc chàng dám đặt một người phụ nữ khác lên cao hơn ả, đối với ả đã là một hành vi đáng được báo thù. Còn nếu nói đến Ligia,a r căm nàng ngay từ giây phút đầu tiên, lúc sắp đẹp của đóa hoa huệ phương bắc ấy khiến ả lo lắng. Ông Petronius, người đã gièm về cái hông quá hẹp của cô gái, có thể khiến cho hoàng đế nhầm tưởng thế nào không biết, chứ chẳng thể đánh lừa nổi hoàng hậu. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, ả Poppea sành sỏi đã hiểu ngay rằng trong toàn cõi La Mã chỉ mỗi mình Ligia có thể địch với ả, thậm chí thắng cả ả. Và kể từ lúc ấy, ả đã thể phải diệt nàng bằng được.
                    - Tâu thánh thượng! - Ả lên tiếng - Xin người hãy báo thù cho con của chúng ta!
                    - Xin các ngài hãy mau chân lên - Lão Khilon kêu lên - Xin hãy nhanh chân lên với! Nếu không, Vinixius sẽ giấu cô gái mất. Thần sẽ chỉ ngôi nhà mà họ quay về sau hỏa hoạn.
                    - Ta sẽ cho mười người đi, đi ngay đi - Tygelinux bảo.
                    - Thưa ngài! Ngài chưa được thấy cảnh Kroton nằm trong tay gã Urxux, nếu ngài cho năm mươi người, tôi chỉ dám chỉ ngôi nhà từ đằng xa. Còn nếu các ngài không bỏ tù luôn cả Vinixius thì tôi chết mất.
                    Tygelinux nhìn Nerô.
                    - Tâu thánh thượng, có phải là điều tốt hay chăng nếu chúng ta giải quyết luôn một lần cả cậu lẫn cháu?
                    Nerô nghĩ một lúc rồi đáp:
                    - Không! Chưa phải lúc!...Người ta sẽ không tin nếu như cứ cố tình bảo họ rằng Petronius, Vinixius hoặc mụ Pomponia Grexyna đốt cháy Roma. Bọn họ có những ngôi nhà quá đẹp. Hôm nay cần những vật hiến tế khác, sau này sẽ tới lượt bọn kia.
                    - Vậy xin hoàng thượng hãy cấp cho thần binh mính để chúng bảo vệ thần - Lão Khilon nói.
                    - Tygelinux sẽ nghĩ tới chuyện ấy.
                    - Tam thời nhà người hãy trú ở chỗ ta -Viên tổng quản cấm quân nói.
                    Nỗi vui sướng bắt đầu nở trên mặt lão Khilon.
                    - Thần sẽ khai tất cả bọn chúng! Chỉ cần các ngài nhanh chân lên! Hãy nhanh chân lên! - Lão kêu lên, giọng khàn đặc.
                    Chú thích:
                    (1) Nguyên văn: Rabbi (La tinh).
                    (2) Nguyên văn: Một dân tộc được lựa chọn.
                    (3) Nguyên văn: Kẻ không bất tử
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #55
                      T2 - Chương 51

                      Từ chỗ Hoàng đế ra, ông Petronius ra lệnh cáng về ngôi nhà của ông trên đồi Karyny, ngôi nhà ba mặt có vườn bao quanh, còn mặt trước kề với tiểu Forum Xexyli nên trong thời gian có hoả hoạn nó là ngôi nhà duy nhất còn sót lại.
                      Cũng vì lý do đó, những cận thần khác, bị mất sạch nhà cửa với bao thứ tài sản khác và các tác phẩm ở bên trong, thường gọi ông Petronius là người may mắn. Mà nói cho cùng, đã từ lâu người ta đồn rằng ông là con trai cả của nữ thần Fortuna, và tình thân ngày càng tha thiết mà thời gian gần đây Hoàng đế biểu lộ với ông hình như cũng khẳng định sự đúng đắn của ý kiến đó.
                      Song giờ đây, đứa con đầu tiên của thần tài Fortuna ấy có thể phải suy nghĩ về sự đổi thay của bà mẹ đẻ, hay nói cho đúng hơn, về sự giống nhau giữa nữ thần với thần Eronox, kẻ đã xé xác con đẻ của chính mình.
                      "Giá như nhà của ta cũng bị cháy trụi - ông tự nhủ - cùng với tất thẩy những viên ngọc chạm, những chiếc bình Etrux, đồ pha lê Alekxanđria và đồ đồng Koryntơ của ta, có thể Nerô sẽ quên đi điều xúc phạm kia. Thề có Ponlukx! Cứ nghĩ thử xem, nhẽ ra chỉ còn phụ thuộc vào ta, vào quyết định của ta, để lúc này đây ta đã là tổng quản cấm quân! Ta sẽ tuyên bố rằng Tygelinux là kẻ đã đốt thành phố, mà thực ra chính là hắn chứ ai, ta sẽ mặc cho hắn chiếc tunica đau đớn, sẽ giao hắn cho dân chúng, sẽ bảo vệ được những tín đồ Thiên chúa và sẽ xây dựng lại Roma. Biết đâu những người trung thực lại chẳng được dễ chịu hơn lên. Nhẽ ra ta phải làm việc đó, dù chỉ vì mỗi mình Vinixius mà thôi! Nếu như công việc quá nhiều, ta sẽ nhường cho cháu ta quyền tổng quản - và Nerô sẽ không hề phản đối việc ấy… Rồi sau đó mặc sức Vinixius muốn rửa tội cho tất thẩy đám lính cấm vệ, cho ngay cả Hoàng đế nữa càng hay, ta có thiệt gì đâu cơ chứ. Một Nerô kính Chúa, một Nerô phẩm hạnh và nhân từ - thật là một điều đáng mừng, dù cho y có điều bộ đến mấy đi nữa"
                      Và sự vô lo của ông lớn đến nỗi ông bất giác mỉm cười, song chỉ giây lát sau, ý nghĩ của ông đã hướng về một phía khác. Ông ngỡ như đang còn ở Anxium và ông Paven xứ Tarxu đang nói với ông:
                      "Các ngài gọi bọn chúng tôi là kẻ thù của cuộc sống, nhưng thưa ngài Petronius, xin ngài hãy trả lời tôi: nếu như Hoàng đế lại là một tín đồ Thiên chúa và hành động theo giáo thuyết của chúng tôi, thì có phải cuộc sống của các ngài sẽ trở nên chắc chắn và yên ổn hơn chăng?"
                      Nhớ đến những lời ấy, ông lại tự nhủ:
                      "Thề có Kaxtor! Nơi đây người ta đã tàn sát biết bao tín đồ Thiên chúa, vậy mà Paven lại tìm được ngần ấy tín đồ mới; nếu như thế gian không thể đứng nổi trên sự đểu giả, thì ông ta nói có lý… Nhưng biết đâu nó sẽ đứng được cũng nên, một khi nó vẫn đang đứng được đấy thôi. Chính bản thân ta, mặc dù học hành đã nhiều, nhưng vẫn chưa học nổi cách trở thành một thằng đểu giả cỡ bự, vì vậy ta sẽ phải tự mở phanh mạch máu ra thôi… Sự thể rồi sẽ phải kết thúc bằng cách ấy, mà nếu như không bằng cách ấy thì cũng sẽ phải kết thúc bằng cách khác. Ta chỉ thương Eunixe và tiếc cho chiếc bình quý xứ Miren của ta, mà Eunixe đã là người tự do, còn chiếc bình sẽ đi theo ta kia mà. Dù thế nào đi nữa, Ahenobarbux cũng không thể nhận được chiếc bình ấy! Ta cũng thương cho Vinixius. Mà nói cho cùng, mặc dù thời gian gần đây ta thấy ít buồn chán hơn trước kia, nhưng ta cũng vẫn sẵn sàng. Mọi vật trên thế gian đều tươi đẹp, nhưng đại đa số con người thì lại dung tục đến nỗi chẳng đáng tiếc chi cuộc sống. Kẻ nào biết sống, kẻ đó hẳn sẽ biết chết. Và dù rằng ta nằm trong đám cận thần, ta vẫn là một con người tự do hơn chúng nó có thể tưởng nhiều lắm."
                      Nghĩ tới đây ông nhún vai:
                      "Chúng nó có thể nghĩ rằng lúc này đây đầu gối ta đang run rẩy và nỗi sợ hãi khiến tóc trên đầu ta dựng ngược cả lên, còn ta, khi trở về nhà, ta sẽ tắm trong nước ngâm hoa đồng thảo, rồi Nàng Tóc Vàng của ta sẽ đích thân xoa dầu thơm cho ta, và khi ăn chúng ta sẽ bảo chúng hát thật to bản tụng ca dâng thần Apolon mà Antemiox đã soạn. Ngày trước có lúc ta đã từng nói:"Không cần nghĩ đến cái chết vì không có chúng ta góp sức thì tự nó cũng vẫn nghĩ đến chúng ta". Song dù sao cũng thật đáng ngạc nhiên nếu như quả có thực những Cánh đồng Elize nào đó, nơi có những bóng ma… Nếu vậy thỉnh thoảng Eunixe sẽ đến với ta và chúng ta sẽ cùng nhau lang thang trên những nội cỏ mọc đầy hoa lan nhật quang. Ta sẽ tìm ra được những người bạn bè tốt đẹp hơn ở chốn này. Một lũ hề! Một lũ làm xiếc, một đám thường dân dung tục chẳng có lấy một chút thị hiếu văn hoá nào! Có đến mười vị arbiter alegantiarum cũng chẳng thể cải biến nổi bọn Trymalkhion ấy thành những người đứng đắn. Thề có nữ thần Perxefona! Ta ngán chúng quá thể!"
                      Song tiếp đó, ông bắt đầu cân nhắc tình thế. Nhờ sự sáng suốt của mình, ông hiểu rằng cái chết đe doạ ông ngay tức thời. Nerô đã lợi dụng một giây phút thích hợp để nói vài lời đẹp đẽ, cao vọng về tình bằng hữu, về sự tha thứ, và chính vì thế hắn tự ràng buộc bởi những lời nói đó. Giờ đây hắn sẽ phải tìm cớ, và trước khi hắn tìm ra, có thể cũng phải mất khối thời gian. "Trước tiên, hắn còn phải tổ chức cuộc hội thi với những người Thiên chúa giáo đã - ông Petronius tự nhủ - rồi sau đó hắn mới nghĩ tới ta, và nếu đúng thế thì chẳng cần chi phải lo lắng và thay đổi nếp sống. Vinixius bị đe doạ bởi những mối nguy sát sườn hơn!…"
                      Từ lúc đó, ông chỉ nghĩ tới Vinixius, người mà ông quyết định phải cứu bằng được.
                      Đám nô lệ khiêng chiếc kiệu đi nhanh giữa những đống phế tích, tro tàn và những ống khói đang còn đầy rẫy trên đồi Karyny, song ông ra lệnh cho chúng phải chạy thật nhanh để có thể mau chóng về đến nhà. Vinixius đang ở nhà ông vì toà biệt thự của chàng bị cháy và may thay, chàng đang có mặt ở nhà.
                      - Hôm nay anh có gặp Ligia không? - ông Petronius hỏi mào đầu
                      - Cháu vừa từ chỗ nàng quay về.
                      - Hãy nghe cậu nói đây, và đừng có hỏi thêm mà phí mất thời gian. Hôm nay, ở chỗ Hoàng đế người ta đã quyết định trút tội đốt cháy Roma cho dân Thiên chúa. Họ sẽ bị truy nã và sẽ chịu cực hình. Cuộc săn lùng sẽ bắt đầu ngay bây giờ đấy. Anh hãy mang Ligia đi trốn ngay tức khắc, sang bên kia dẫy Anpơ hay đến tận Phi Châu cũng được! Nhanh chân lên, vì từ Palatyn tới khu Zatybre gần hơn từ đây.
                      Vinixius vốn là một người lính, chàng không để mất thì giờ hỏi những câu thừa. Chàng lắng nghe ông nói, đôi lông mày cau lại, nét mặt chăm chú và dữ dội, nhưng không hề run sợ. Rõ ràng, trước mối nguy, cảm giác đầu tiên thức dậy trong con người này là ý muốn chiến đấu và tự vệ.
                      - Cháu đi đây. - Chàng nói.
                      - Một lời nữa thôi: hãy mang theo tráp đựng vàng, mang theo khí giới và một ít người trong số tín đồ Thiên chúa của anh. Nếu cần, đánh tháo!
                      Vinixius đã ra đến cửa gian chính sảnh.
                      - Hãy cho cậu biết thông tin qua một tên nô lệ. - Ông Petronius còn gọi với theo người ra đi.
                      Và còn lại một mình, ông bắt đầu đi dạo dọc những hàng cột được trang trí trong gian chính sảnh, suy nghĩ về những gì vừa xảy ra. Ông biết rằng sau khi đám cháy tắt, Ligia và ông Linux lại quay về ngôi nhà cũ, ngôi nhà - cũng như phần lớn khu Zatybre - còn sống sót, và đó là một điều bất lợi, vì nếu không thì khó lòng tìm nổi họ trong đám đông dân chúng. Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng rằng không một kẻ nào trong cung điện Palatyn biết nơi họ ở, nên thế nào Vinixius cũng sẽ đến trước bọn lính cấm vệ. Ông cũng nghĩ rằng, muốn ra tay một lần bắt được thật nhiều tín đồ Thiên chúa, hẳn Tygelinux sẽ phải chăng lưới trên toàn thành Roma, mà điều đó cũng có nghĩa là hắn sẽ phải chia lính cấm vệ thành từng toán nhỏ. Nếu như có không quá mười tên đến bắt nàng - ông nghĩ - thì chỉ cần một mình chàng khổng lồ xứ Ligi cũng đủ bẻ gẫy xương bọn chúng, huống hồ lại có thêm Vinixius đến giúp sức nữa. Nghĩ thế, ông hởi lòng hởi dạ. Thực ra, dùng vũ khí chống lại lính cấm vệ cũng gần như đồng nghĩa với việc mở đầu cuộc chiến tranh chống Hoàng đế. Petronius cũng hiểu rõ rằng, nếu Vinixius trốn tránh cuộc trả thù của Nerô, thì sự trả thù ấy rất có thể sẽ giáng xuống đầu ông, nhưng ông chẳng lo lắng nhiều về điều ấy. Ngược lại, ý nghĩ về việc đảo lộn, quấy rối Nerô và Tygelinux khiến ông vui lên. Ông quyết định sẽ không tiếc cả tiền của lẫn người để làm việc đó, và vì rằng hồi ở Anxium, ông Paven xứ Tarxu đã cải đạo cho đa số nô lệ của ông, nên ông có thể hoàn toàn tin rằng: trong việc bảo vệ cô nàng nữ tín đồ Thiên chúa ông có thể tin vào sự sẵn sàng hi sinh của bọn họ.
                      Eunixe bước vào làm gián đoạn những dòng suy nghĩ của ông. Nhìn thấy nàng, tất thẩy những lo lắng và ưu tư của ông tan biến không còn một mảy may. Ông quên cả Hoàng đế, cả tình trạng thất sủng mà ông vừa rơi vào, cả lũ cận thần khốn nạn, cả cuộc truy quét đang đe doạ những người Thiên chúa, cả Vinixius cùng Ligia, ông chỉ còn biết ngắm nàng với cặp mắt của một nhà duy mỹ đang say mê những đường nét tuyệt vời, và với cặp mắt của một người tình đang hít thở hương tình ái toát ra từ những đường nét đó. Mặc một chiếc áo dài màu hoa cà trong suốt thường được gọi là Coa Vestis, qua đó trông rõ thân thể hồng hào của nàng, nàng quả đẹp như một nữ thần. Thêm nữa, cảm thấy mình đang được ngưỡng mộ, lại yêu ông với cả tâm hồn, lúc nào cũng khao khát những ve vuốt của ông, nàng ửng hồng vì sung sướng, dường như nàng không phải là một tỳ thiếp mà là một nàng trinh nữ ngây thơ.
                      - Nàng sẽ nói điều gì cùng ta đấy, hỡi tiên nữ Kharyta? - ông Petronius vươn cả hai tay đón nàng.
                      Nàng cúi mái tóc vàng của nàng lại gần ông và nói:
                      - Thưa ông chủ, ngài Antemiox cùng các ca công đã đến và hỏi ông chủ có muốn nghe ngài hát hôm nay chăng?
                      - Anh ta cứ đợi đấy đã nhé. Anh ta sẽ hát cho chúng ta nghe bản thiều ca dâng thần Apolon trong bữa trưa. Chung quanh hãy còn đầy đổ nát và tro tàn, còn chúng ta sẽ nghe thiều ca dâng lên Apolon! Thề có những khu rừng Barfox! Cứ nhìn nàng trong chiếc áo Coa vestis này ta lại ngỡ như chính nữ thần Afrođyta đã vén riềm trời xuống đây đứng trước mặt ta vậy.
                      - Ôi ông chủ! Eunixe thốt lên.
                      - Hãy lại đây, hỡi Eunixe, hãy ôm chặt ta trong vòng tay em và cho ta uống đôi môi em… Em yêu ta chứ?
                      - Em yêu ông chủ hơn cả thần Zeux nữa!
                      Nói đoạn nàng áp môi nàng vào môi ông, nàng run lên vì sung sướng trong vòng tay ông.
                      Lát sau, ông Petronius nói:
                      - Nhưng nếu như chúng ta phải lìa nhau?…
                      Eunixe nhìn ông với nỗi kinh hoàng trong mắt:
                      - Sao lại thế, thưa ông chủ?…
                      - Nàng đừng sợ… Nàng thấy không, biết đâu ta sẽ phải lên đường vào một cuộc hành trình xa thẳm.
                      - Xin hãy mang em theo với…
                      Ông Petronius đột nhiên thay đổi câu chuyện và hỏi:
                      - Nàng hãy nói ta hay, trên các thảm cỏ ngoài vườn có hoa lan nhật quang hay chăng?
                      - Ngoài vườn cả trắc bá lẫn thảm cỏ đều vàng úa đi vì đám cháy, những cây sim thơm cũng trút hết lá, cả khu vườn trông như đã chết rồi.
                      - Cả thành Roma cũng như đã chết rồi, và chẳng mấy chốc nữa nó sẽ là một nghĩa địa thực sự. Nàng có biết là đã có mật lệnh chống lại dân Thiên chúa giáo và sẽ bắt đầu cuộc khủng bố bọn họ, trong đó hàng nghìn người sẽ mất mạng?
                      - Người ta trừng phạt họ vì tội gì cơ, thưa ông chủ? Đó là những người rất tốt và hiền lành cơ mà?
                      - Chính vì tội ấy!
                      - Vậy chúng ta hãy đi về vùng biển. Đôi mắt thiên thần của ông chủ vốn không thích trông thấy máu.
                      - Được rồi, nhưng bây giờ ta phải tắm đã. Nàng hãy tới xoa dầu cho ta với nhé. Thề có chiếc thắt lưng của nữ thần Kapryđa! Chưa bao giờ ta thấy nàng đẹp đến thế. Ta sẽ ra lệnh làm cho riêng nàng một bể tắm có hình trai ngọc, và nằm trong đó, nàng sẽ giống như một viên ngọc trai quý giá… Đến nhé, Tóc Vàng của ta!
                      Rồi ông bước ra, và một giờ sau, cả hai đầu đội những vòng hoa hồng, với đôi mắt mơ màng, nằm trước chiếc bàn đầy những bát đũa bằng vàng. Những tiểu đồng phục dịch họ đều mặc giả các thiên đồng ái tình, họ vừa uống rượu nho bằng những chiếc cốc quý giá quấn dây thường xuân vừa nghe bản thiều ca dâng lên thần Apolon được hát lên có đàn hạc đệm theo dưới sự điều khiển của Antemiox. Họ có cần biết chi đến việc chung quanh toà biệt thự đang nhô lên từ đống hoang tàn những chiếc ống khói của những ngôi nhà và gió đang mang tro tàn của thành phố Roma bị thiêu cháy đi rải khắp nơi. Họ chỉ cảm thấy hạnh phúc và chỉ nghĩ đến tình yêu, thứ tình yêu đã biến cuộc đời họ thành một giấc mơ thiên giới.
                      Nhưng trước khi bản thiều ca kết thúc, tên nô lệ quản gian chính sảnh đã bước vào.
                      - Trình ông chủ, - hắn nói với một giọng nói trong đó run lên nỗi lo sợ, một viên xentunion cùng một toán lính cấm vệ đang đứng trước cổng mang theo mệnh lệnh của Hoàng thượng muốn được gặp ngài.
                      Tiếng ca và những thanh âm của đàn hạc ngừng hẳn. Nỗi lo lắng lan ra khắp tất cả những người có mặt, bởi vì trong quan hệ với những người bạn, Hoàng đế không bao giờ sử dụng đến lính cấm vệ, và trong thời buổi ấy, việc chúng đến nhà chẳng báo hiệu điều gì tốt lành cả. Chỉ mỗi mình ông Petronius không tỏ một chút xúc động nào, ông nói như người đã quá chán ngán những lời mời mọc triền miên:
                      - Ít nhất chúng cũng phải để cho ta được yên ổn dùng xong bữa trưa đã chứ?
                      Rồi ông quay sang viên quản gian chính sảnh:
                      - Cho vào!
                      Người nô lệ biến đi sau bức trướng che; một lát sau có thể nghe thấy những bước chân nặng nề vang lên và viên bách trưởng Aper mà ông Petronius quen, bước vào, giáp trụ đầy người và chiếc mũ chiến bằng sắt trên đầu.
                      - Thưa quý ngài, - y nói - đây là thư của Hoàng thượng.
                      Petronius uể oải đưa bàn tay trắng nuốt cầm lấy chiếc bảng lướt mắt nhìn qua rồi hoàn toàn bình thản đưa nó cho Eunixe.
                      - Tối nay Người sẽ đọc một khúc ca mới trong thiên "Thành Tơroa", ông nói, - và Người mời ta đến dự.
                      - Tôi chỉ được lệnh trao thư cho ngài, - Viên bách trưởng lên tiếng.
                      - Phải, sẽ không có thư trả lời đâu. Nhưng này bách trưởng, anh có thể nghỉ ngơi chốc lát với chúng tôi và dốc cạn một cốc rượu nho hay chăng?
                      - Xin cảm ơn quý ngài. Tôi sẽ rất vui lòng uống cạn cốc rượu nho chúc sức khoẻ ngài, nhưng tôi không thể nghỉ được vì đang làm công vụ.
                      - Sao người ta lại giao cho người đưa thư thay vì gửi nô lệ mang đến?
                      - Tôi không rõ, thưa ngài. Cũng có thể nhân tiện tôi được phái tới khu vực này vì một việc khác.
                      - Ta biết, - ông Petronius nói, - việc chống dân Thiên chúa.
                      - Đúng thế, thưa ngài.
                      - Cuộc truy quét đã bắt đầu lâu chưa?
                      - Một số đơn vị đã được phái đến khu Zatybre ngay trước ngọ.
                      Nói đoạn, viên bách trưởng gẩy từ cốc một ít rượu vang dâng chiến thần Marx, sau đó uống cạn rồi nói:
                      - Xin các vị thần linh hãy ban cho ngài những gì ngài muốn, thưa ngài.
                      - Ngươi hãy cầm chiếc cốc ấy về! - ông Petronius bảo.
                      Rồi ông ra hiệu cho Antemiox hát nốt bản thiều ca dâng Apolon
                      "Râu Đỏ bắt đầu đóng trò với ta và Vinixius đây - ông nhủ thầm khi những chiếc đàn hạc lại vang lên - Ta đoán được ý định của hắn. Gửi lời mời qua viên xentunion, hắn muốn ta phải hoảng sợ. Tối nay chúng sẽ hỏi viên bách trưởng xem cách thức ta nhận thư ra sao. Chớ, chớ! Chớ có vội mừng, hỡi con rối độc ác và hà khắc kia! Ta biết là ngươi không quên lời nhục mạ đâu, ta biết rằng cái chết không bỏ qua ta, nhưng nếu ngươi nghĩ rằng ta sẽ nhìn vào mắt ngươi với vẻ van xin, rằng ngươi sẽ nhìn thấy trên nét mặt ta nỗi sợ hãi và luồn cúi, thì ngươi nhầm đấy."
                      - Hoàng đế viết rằng: "Các khanh hãy đến dự nếu các khanh muốn", - Eunixe nói - Vậy người có đi không, thưa ông chủ?
                      - Ta đang ở trong một tâm trạng rất tuyệt và ta có thể nghe ngay cả thơ của Người, - ông Petronius đáp, - Vậy ta sẽ đi, thêm nữa còn vì Vinixius không tới dự được.
                      Sau bữa trưa và sau khi đi tản bộ theo lệ thường ông để cho các nô tỳ chải tóc và xếp nếp áo, rồi một giờ sau, đẹp như một thiên thần, ông ra lệnh cáng đến đồi Palatyn. Giờ đã muộn, buổi tối yên tĩnh, ấm áp, mặt trăng chiếu sáng đến nỗi những tên lampađaria(1) đi trước kiệu tắt đuốc đi. Trên các đường phố và giữa những đám tro tàn lang thang những toán người đã nốc say rượu nho, quấn đầy dây thường xuân và những loài dây dại, mang trên tay những cành sim thơm và nguyệt quế hái trong các khu vườn thượng uyển của Hoàng đế. Sự dồi dào của lương thực và niềm hi vọng sẽ không có những hội vui vĩ đại khiến lòng người tràn ngập niềm vui. Đây đó người ta hát vang những bài ca ca ngợi "Đêm thần thánh" và tình yêu, đây đó người ta nhẩy múa trong ánh trăng; mấy lần liền, đám nô lệ phải hét lên yêu cầu nhường đường cho "ngài Petronius tôn kính", và những khi ấy đám đông vừa tránh ra vừa gào lên chào con người mà họ kính mến.
                      Còn ông cứ nghĩ hoài về Vinixius và ngạc nhiên vì không nhận được một tin tức gì từ chàng cả. Ông là người theo chủ nghĩa hưởng lạc và là một người ích kỷ, nhưng tiếp xúc với ông Paven xứ Tarxu, với Vinixius và hàng ngày được nghe về những người Thiên chúa giáo, ông đã thay đổi ít nhiều, mặc dù bản thân ông cũng không nhận thấy chuyện ấy. Có một làn gió nào đó thổi từ họ vào người ông, mang đến cho tâm hồn ông những hạt giống lạ. Ngoài bản thân mình, ông bắt đầu lưu ý đến những người khác, còn riêng đối với Vinixius thực ra ông đã gắn bó từ lâu, vì ngay từ thời thơ ấu ông đã rất yêu mẹ chàng, chị ruột của ông, nên giờ đây tham dự vào việc của chàng, ông theo dõi nó căng thẳng như thể theo dõi một vở bi kịch.
                      Ông vẫn không mất hi vọng rằng Vinixius sẽ đến trước khi bọn lính cấm vệ tới, và chàng đã trốn thoát cùng Ligia, hoặc trong trường hợp cần thiết, chàng đã đánh tháo cho nàng. Nhưng ông muốn biết thật chắc, vì ông thấy trước là sẽ phải trả lời đầy đủ các thứ câu hỏi, tốt nhất là cần chuẩn bị trước.
                      Dừng trước dinh thự Tyberius, ông bước ra khỏi kiệu và chỉ lát sau ông đã vào gian chính sảnh đầy các cận thần. Những người bạn hôm qua, mặc dù ngạc nhiên vì ông vẫn được mời, song vẫn xa lánh ông, còn ông bước vào giữa bọn họ, tươi đẹp, khoáng đạt, vô tư và tự tin như chính ông mới là người có thể ban phát ân sủng. Một số kẻ thấy ông như vậy đâm ra lo lắng trong dạ, không biết có phải họ đã biểu lộ với ông quá sớm sự dửng dưng hay chăng?
                      Tuy nhiên Hoàng đế vờ như không trông thấy ông và không đáp lại cái cúi chào của ông, giả vờ là đang bận nói chuyện. Ngược lại, Tygelinux tiến đến gần ông và nói:
                      - Xin chào vị arbiter alegantiarum! Có phải bao giờ ngài cũng vẫn khẳng định rằng bọn Thiên chúa giáo không phải là người đã đốt cháy Roma?
                      Ông Petronius nhún vai, vỗ vào đùi hắn như đối với một tên nô lệ mới giải phóng và đáp lại:
                      - Ông cũng hiểu rõ như tôi cần phải nghĩ về chuyện ấy thế nào.
                      - Tôi đâu dám sánh với sự thông thái của ngài.
                      - Và vô hình trung ông nghĩ có lý đấy, bởi vì nếu thế thì khi Hoàng thượng đọc cho chúng ta nghe một khúc ca mới trong bản "Thành Tơroa", thay vì việc kêu quang quác như một lũ công, ông sẽ phải nói được một câu cho đúng chỗ.
                      Tygelinux cắn môi. Hắn không vui vẻ gì với chuyện Hoàng đế quyết định hôm nay sẽ đọc một khúc ca mới, vì điều đó lại mở ra một lĩnh vực trong đó hắn không thể đọ sức nổi với ông Petronius. Quả thực, trong khi xướng đọc, Nerô theo thói quen cũ bất giác vẫn đưa mắt nhìn ông Petronius, chăm chú quan sát xem có thể đọc được qua nét mặt ông điều gì chăng. Còn ông, khi nghe ông nhướng mày lên, đôi chỗ ông gật gù, đôi chỗ căng tai chú ý như muốn kiểm tra lại cho rõ xem ông nghe có đúng không. Rồi sau đó, chỗ thì ông khen, chỗ thì ông chê, đòi sửa lại hoặc trau chuốt thêm một số câu thơ. Bản thân Nerô cảm thấy rằng, trong những lời ca tụng bốc trời, những kẻ khác chỉ quan tâm đến bản thân mà thôi, riêng mỗi mình con người này quan tâm đến thi ca chỉ vì thi ca, rằng chỉ mỗi mình ông hiểu, và nếu như ông có khen ngợi điều gì thì có thể tin chắc rằng những dòng thơ ấy xứng đáng được ca ngợi. Dần dần ngài bắt đầu thảo luận cùng ông, đôi co với ông, và cuối cùng khi ông Petronius nêu nghi ngờ của ông về sự chính xác của một cách diễn đạt, thì ngài bảo ông:
                      - Khanh sẽ thấy ở khúc ca cuối cùng vì sao ta lại dùng nó.
                      "À, - ông Petronius nghĩ thầm. - Vậy là ta vẫn chờ được đến khúc ca cuối cùng".
                      Nghe thấy thế, không chỉ một kẻ tự nhủ:
                      "Khổ thân ta chưa! Có nhiều thời gian, Petronius có thể lại quay về với ân sủng và sẽ đánh bại cả Tygelinux"
                      Rồi bọn họ lại bắt đầu nhích tới gần ông. Song kết cục của buổi tối ít may mắn hơn, bởi vì lúc ông Petronius từ biệt ngài, Hoàng đế bỗng nheo mắt hỏi ông với nét mặt vừa nanh ác vừa vui mừng:
                      - Mà sao Vinixius lại không đến?
                      Nếu như ông Petronius biết chắc Vinixius và Ligia đã ở bên ngoài cổng thành, hẳn ông đã đáp lại: “Được phép Người, y đã cưới vợ và ra đi rồi”. Nhưng trông thấy nụ cười lạ lùng của Nerô ông đáp:
                      - Tâu thánh thượng, lời mời của Người đến vào lúc hắn không có mặt ở nhà.
                      - Bảo với hắn rằng ta rất vui sướng được gặp hắn, - Nerô trả lời, - và nhân danh ta bảo hắn đừng có bỏ qua cuộc đấu, trong đó bọn Thiên chúa giáo sẽ đăng đàn.
                      Những lời ấy khiến ông Petronius lo lắng, vì ông thấy hình như chúng đề cập trực tiếp đến Ligia. Ngồi vào kiệu, ông bảo đưa thẳng về nhà và giục đi nhanh hơn cả ban sáng. Song đó không phải là chuyện dễ. Trước dinh thự Tyberius tụ tập một đám đông dầy đặc và huyên náo, cũng say sưa như lúc trước nhưng không ca hát nhẩy múa mà hình như đang phẫn nộ. Từ xa vang lại những tiếng người kêu la mà ông Petronius không hiểu được ngay lập tức, những tiếng kêu to dần lên, tăng mãi lên để cuối cùng trở thành một tiếng hò la man dã vang động:
                      - Ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử!
                      Những chiếc kiệu xinh xắn của các cận thần trôi đi giữa đám người đang gào thét. Từ lòng sâu của những dãy phố cháy trụi dồn về thêm bao đám người nữa, nghe tiếng kêu họ cũng lặp lại. Người ta truyền khẩu nhau tin cuộc tróc nã đã bắt đầu từ trưa, rằng đã tóm được hàng lũ bọn đốt nhà, và thế là chẳng mấy chốc trên những đường phố mới vạch và những đường phố cũ, trong những ngõ hẻm chỉ còn là phế tích, chung quanh đồi Palatyn, trên tất cả những ngọn đồi và khu vườn, vang rền những tiếng hò la điên cuồng hơn nữa, rộng và dài như thành Roma:
                      - Ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử!
                      - Bọn súc vật! - ông Petronius khinh bỉ nhắc lại, - dân chúng thật xứng với Hoàng đế.
                      Và ông bắt đầu nghĩ rằng cái thế giới dựa trên bạo lực, trên sự dã man mà ngay cả những tộc người man rợ cũng không hề sánh nổi, trên những tội ác và sự trác táng đến điên loạn, cái thế giới ấy sẽ không thể tồn tại được. Roma là bá chủ thế giới và là cái ung nhọt của thế giới. Từ đó đang toát ra mùi tử thi. Bóng đen của cái chết đã đổ xuống cuộc sống thối tha này. Đã nhiều lần người ta nói đến điều đó, ngay cả trong đám cận thần, nhưng chưa bao giờ ông Petronius thấy rõ cái sự thật, rằng cỗ xe vinh quang, trên đó Roma ngồi chĩnh chệ như một người ca khúc khải hoàn, kéo theo sau một đàn các dân tộc bị dày xéo, đang đi tới bờ vực thẳm. Ông thấy như cuộc sống của cái thành phố bá chủ thế giới này là một đám rước của lũ hề, một cuộc sống cuồng hoan nhất định sẽ phải chấm dứt.
                      Giờ đây ông hiểu ra rằng chỉ có những người Thiên chúa giáo có được những cơ sở khác để sống, nhưng ông nghĩ chẳng mấy chốc nữa các tín đồ Thiên chúa cũng sẽ chẳng còn lấy một chút dấu vết nào. Và khi ấy sẽ là cái gì?
                      Cuộc diễu hành của lũ hề đang tiếp tục với sự chỉ huy của Nerô, nhưng nếu như Nerô có biến đi thì lại có một kẻ khác hệt như y hay tồi tệ hơn, vì với một đám dân chúng thế kia, một đám quý tộc thế này thì không có lý do gì để có được kẻ khác tốt đẹp hơn. Sẽ lại là một cuộc cuồng hoan mới, thêm nữa, càng dung tục và đáng tởm hơn.
                      Mà cuồng hoan thì không thể kéo dài được, sau đó cần phải đi ngủ, chí ít cũng vì kiệt sức.
                      Nghĩ về điều đó, ông Petronius cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Có đáng sống hay chăng trong sự bấp bênh của ngày mai, chỉ để mà nhìn một trật tự tương tự của thế gian? Thần chết đâu có kém đẹp đẽ hơn thần ngủ và cũng mang đôi cánh trên vai kia mà?
                      Kiệu dừng lại trước cửa nhà, người canh cửa tỉnh ngủ mở cửa ngay tức khắc.
                      - Ngài Vinixius cao quý đã về chưa? - ông Petronius hỏi y.
                      - Vừa mới về xong, thưa ông chủ. - Người nô lệ đáp.
                      “Vậy là hắn ta không đánh tháo được cho nàng” - ông Petronius nghĩ thầm.
                      Và cởi vội chiếc áo toga, ông chạy vào gian chính sảnh. Vinixius đang ngồi trên chiếc ghế ba chân, đầu cúi sát xuống gần gối, hai tay ôm đầu; nghe tiếng bước chân, chàng ngẩng lên với bộ mặt đã hoá đá, trên đó chỉ có đôi mắt phát ra những tia nóng bỏng.
                      - Anh đến quá muộn sao? - ông Petronius hỏi.
                      - Vâng, chúng bắt nàng từ trưa.
                      Im lặng bao trùm.
                      - Anh đã gặp nàng chưa?
                      - Đã.
                      - Ở đâu?
                      - Trong nhà ngục Mamertyn
                      Ông Petronius rùng mình nhìn Vinixius dò hỏi.
                      Chàng hiểu ngay.
                      - Không, - chàng nói, - chúng không ném nàng vào Tullianum mà cũng không đưa vào ngục giữa. Cháu đã đưa tiền mua chuộc một tên gác ngục để hắn nhường phòng hắn cho nàng. Bác Urxux nằm ở ngưỡng cửa canh cho nàng.
                      - Sao Urxux không bảo vệ nàng?
                      - Chúng phái tới những năm chục tên lính cấm vệ. Mà cũng vì ông Linux cấm bác ấy.
                      - Thế ông Linux đâu?
                      - Ông Linux sắp chết. Vì thế chúng không bắt ông.
                      - Anh định thế nào?
                      - Cứu thoát nàng hoặc chết cùng nàng. Cháu cũng tin Chúa Crixtux.
                      Vinixius nói với vẻ như bình thản, nhưng trong giọng nói của chàng có cái gì đó xé lòng, khiến trái tim ông Petronius rung lên một tình thương chân thành.
                      - Cậu hiểu cháu, - ông nói, - nhưng cháu muốn cứu nàng bằng cách nào?
                      - Cháu mua chuộc bọn gác ngục trước nhất để tránh cho nàng khỏi bị làm nhục, sau nữa để chúng không cản trở nàng khi trốn.
                      - Khi nào chuyện ấy sẽ xẩy ra?
                      - Bọn chúng bảo rằng không thể trả nàng ngay cho cháu bởi vì chúng sợ trách nhiệm. Bao giờ nhà ngục đầy người và người ta không còn nắm nổi con số tù nhân, chúng sẽ giao nàng cho cháu. Nhưng đó là phương sách cuối cùng! Còn trước tiên chính cậu sẽ cứu nàng và cháu! Cậu là bạn thân của Hoàng đế. Chính Hoàng đế đã ban nàng cho cháu. Xin cậu hãy đến gặp ngài và cứu lấy cháu!
                      Thay vì đáp lại, ông Petronius gọi một người nô lệ và ra lệnh cho y mang đến hai chiếc áo khoác màu sẫm và hai thanh gươm, rồi ông mới quay sang Vinixius:
                      - Dọc đường cậu sẽ nói anh nghe, - ông bảo, - còn bây giờ anh hãy mặc áo, cầm vũ khí và chúng ta sẽ tới nhà ngục. Đến đó, anh sẽ đưa cho lũ gác ngục một trăm nghìn xexterxi, đưa cho chúng gấp đôi hoặc gấp năm cũng được, miễn là chúng thả Ligia ngay lập tức. Nếu không sẽ quá muộn.
                      - Ta đi thôi. - Vinixius nói
                      Lát sau, cả hai đã ra ngoài phố.
                      - Bây giờ nghe cậu nói đây. - ông Petronius lên tiếng. - Cậu không muốn phí thì giờ. Lúc này cậu đang bị thất sủng. Tệ hơn nữa cậu chắc là Hoàng đế sẽ làm ngược với điều cậu yêu cầu. Nếu không thế đời nào cậu lại khuyên anh đi trốn cùng Ligia hoặc đánh tháo cho nàng. Vì một khi anh trốn thoát thì cơn thịnh nộ của Hoàng đế sẽ quay lại trút lên đầu cậu. Nhưng bây giờ thì y thà làm điều gì đó theo yêu cầu của anh hơn là yêu cầu của cậu. Song chẳng nên tính đến chuyện ấy làm gì. Anh hãy chuộc nàng ra khỏi nhà tù và trốn đi! Chẳng còn cách nào khác đâu. Nếu không thành công, lúc ấy sẽ có thời giờ tìm cách khác. Anh nên biết là chúng bắt Ligia không phải chỉ vì nàng tin vào Chúa Crixtux, mà cơn tức giận của Poppea đang đe doạ cả anh lẫn nàng. Anh có nhớ rằng chính anh đã xúc phạm tới Auguxta vì đã từ chối ả hay không? Ả biết là anh từ chối ả vì Ligia, người mà ả căm ghét ngay từ cái nhìn đầu tiên. Hồi trước ả đã cố tình giết nàng bằng cách vu cho nàng làm chết con ả. Trong chuyện vừa xảy ra có bàn tay của Poppea! Nếu không làm sao anh có thể giải thích nổi tại sao Ligia là người đầu tiên bị bắt? Kẻ nào có thể chỉ nhà ông Linux? Cậu xin nói anh hay rằng chúng đã theo dõi nàng từ lâu rồi! Cậu biết là cậu đang làm tan nát lòng anh và đang tước đoạt của anh chút hi vọng cuối cùng, nhưng cậu cố tình nói cho anh biết, bởi vì nếu anh không giải thoát cho nàng trước khi chúng nó nghĩ rằng anh có thể làm chuyện ấy, thì cả hai sẽ chết.
                      - Vâng, cháu đã hiểu.
                      Vì đêm đã khuya, những đường phố vắng tanh, song câu chuyện của họ bị gián đoạn bởi một tên đấu sĩ say khướt đi ngược lại, hắn lăn vào ông Petronius, bíu tay vào vai ông, phả vào mặt ông hơi thở sặc mùi rượu vang và gào lên bằng giọng khê nặc:
                      - Ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử!
                      - Này gã Mirmilon, - ông Petronius bình thản bảo, - ngươi hãy nghe lời khuyên và xéo theo đường của ngươi!
                      - Nhưng kẻ say lại dùng nốt tay kia túm lấy vai ông:
                      - Mày phải kêu lên cùng với tao, nếu không tao sẽ vặn gẫy cổ mày: ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử!
                      Nhưng thần kinh của ông Petronius đã chịu đựng quá đủ những tiếng gào la ấy. Kể từ lúc rời khỏi Palatyn, chúng như một cơn ác mộng khiến ông ngạt thở, chúng xé rách cả màng tai ông, nên khi nhìn thấy nắm đấm của tên khổng lồ vung lên trên đầu mình, ông hết chịu đựng nổi.
                      - Này anh bạn, - ông nói, - anh sặc mùi vang thối và anh lại xúc phạm đến ta.
                      Nói đoạn ông thọc thanh đoản kiếm mà ông tự vũ trang khi ra khỏi nhà vào ngực hắn, ngập đến tận chuôi, rồi nắm lấy tay Vinixius, ông nói tiếp như chẳng có chuyện gì xẩy ra:
                      - Hôm nay Hoàng thượng bảo cậu: “Hãy nhân danh ta nói với Vinixius phải có mặt ở võ hội, lúc bọn Thiên chúa giáo lên võ đài”. Anh có hiểu điều đó có nghĩa gì không? Bọn chúng muốn được xem nỗi đớn đau của anh đấy. Việc ấy đã được xếp đặt rồi. Cũng có thể vì thế cho tới nay chúng chưa bắt anh và cậu. Nếu anh không cứu thoát nàng ngay bây giờ, thì… cậu cũng chẳng biết nữa! có thể Akte sẽ đứng ra bênh vực anh, nhưng liệu cô ấy có được tích sự gì không?… Đất đai của anh ở đảo Xyxilia cũng có thể hấp dẫn Tygelinux đấy. Cứ thử xem!
                      - Cháu sẽ dâng cho hắn tất cả những gì cháu có. - Vinixius đáp.
                      Từ đồi Karyny đến Forum không xa lắm, nên chỉ lúc sau họ đã tới nơi. Đêm đã bắt đầu rạng dần và những bức tường của lâu đài nhô ra rõ nét từ bóng đêm.
                      Đột nhiên, khi họ rẽ về phía nhà ngục Mamertyn, ông Petronius đứng dừng ngay lại và bảo:
                      - Lính cấm vệ!… Muộn mất rồi!
                      Quả thực hai hàng lính đang vây quanh nhà ngục. Ánh rạng đông rát bạc lên những chiếc mũ trụ bằng sắt và những ngọn thương của chúng.
                      Mặt Vinixius tái nhợt như đá cẩm thạch.
                      - Ta đi thôi. - chàng nói.
                      Lát sau họ dừng lại trước hàng quân. Ông Petronius, người có trí nhớ phi thường, ông nhớ không phải chỉ các chỉ huy mà gần như tất cả lính cấm vệ, nên trông thấy viên chỉ huy toán quân quen mặt, ông vẫy anh ta lại:
                      - Có chuyện gì thế, Niger? - ông hỏi, - Các anh được lệnh phải canh giữ nhà ngục à?
                      - Đúng vậy, thưa ngài Petronius tôn kính. Ngài tổng quản lo rằng chúng nó sẽ đánh tháo cho bọn đốt nhà.
                      - Các ngươi có lệnh giữ không cho bất cứ ai vào không? - Vinixius hỏi
                      - Không, thưa ngài. Những người thân có thể thăm tù nhân, bằng cách ấy chúng ta sẽ tóm được nhiều bọn Thiên chúa giáo hơn.
                      - Vậy hãy để cho ta vào. - Vinixius nói.
                      Rồi siết chặt tay ông Petronius, chàng nói với ông:
                      - Cậu hãy đến gặp Akte, cháu sẽ về để xem nàng trả lời cậu ra sao.
                      - Về nhé! - ông Petronius đáp.
                      Chính lúc đó từ dưới đất và từ sau những bức tường dầy chợt vang lên tiếng hát. Bài hát, thoạt tiên trầm đục và bị chặn lại, mỗi lúc một to lên. Giọng đàn ông, đàn bà và trẻ con hoà vào nhau thành một dàn đồng ca thống nhất. Trong sự yên tĩnh của buổi rạng đông, cả nhà ngục cùng cất tiếng hát như một chiếc đàn hạc. Nhưng nó không phải là âm điệu não nùng và tuyệt vọng. Ngược lại, trong bài ca vang ngân niềm vui lẫn sự khải hoàn.
                      Binh lính kinh ngạc nhìn nhau. Trên bầu trời xuất hiện những ánh hồng và ánh vàng đầu tiên của buổi bình minh.
                      Chú thích:
                      (1) La tinh: Nô lệ soi đường
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #56
                        T2 - Chương 52

                        Tiếng kêu: “Ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử” vang lên triền miên khắp các khu của thành phố. Thoạt tiên, không những không một ai nghi ngờ rằng các tín đồ Thiên chúa giáo không phải là thủ phạm gây ra thảm họa, mà thậm chí cũng chẳng ai muốn nghi ngờ làm gì, vì việc trừng trị họ đồng thời cũng là một trò giải trí tuyệt vời cho dân chúng. Nhưng người ta đồn loang ra rằng thảm hoạ đã không đạt tới tầm cỡ như vậy nếu như không có cơn tức giận của các vị thần linh, và thế là tại các thần miếu người ta dâng hiến piacula tức là lễ vật giải hạn. Theo sách Xybili, viện nguyên lão tổ chức các cuộc lễ và những buổi cầu nguyện công cộng các thần Vunkan, Xerera và Prozerpina. Các bà mẹ dâng lễ vật lên nữ thần Zunon, cả đám rước đi đến bên bờ biển lấy nước để vẩy vào tượng nữ thần. Những cô gái đã có chồng sửa soạn các bữa tiệc dâng các thần và những cuộc canh đêm. Cả thành Roma tẩy rửa tội lỗi, dâng cống lễ vật và cầu xin các vị thần bất tử. Trong lúc ấy người ta vạch ra những đường phố mới rộng rãi giữa những đống tro tàn. Đây đó đã đặt móng cho những toà nhà, những lâu đài và những thần miếu tuyệt vời. Tuy nhiên, trước tiên người ta gấp rút xây dựng với tốc độ chưa từng thấy những nhà hát khổng lồ bằng gỗ, nơi các tín đồ Thiên chúa sẽ chịu tội hình. Ngay sau cuộc bàn bạc tại dinh thự Tyberius, các vị thái thú đã nhận được lệnh phải cung cấp dã thú. Tygelinux vét sạch chuồng thú của tất cả các thành phố Italia, không trừ những trấn nhỏ bé. Tại Phi châu, theo lệnh hắn, người ta tổ chức những cuộc đi săn khổng lồ, trong đó tất cả dân chúng địa phương đều phải tham gia. Người ta mang về đây voi và hổ từ châu Á, cá sấu và hà mã từ sông Nin, sư tử vùng núi Atlax, chó sói và gấu từ núi Pirene, loài chó điên từ vùng Hibernia, chó khổng lồ từ Epirơ, trâu và những con bò rừng khổng lồ dữ tợn từ Germania. Về số lượng tù nhân, cuộc hội sẽ có độ lớn vượt tất cả những gì mà người ta được chứng kiến từ xưa đến nay. Hoàng đế muốn nhấn chìm kí ức về đám cháy trong máu đỏ và dùng máu đỏ để làm say Roma nên chưa bao giờ việc đổ máu lại được hứa hẹn là sẽ tuyệt vời đến thế.
                        Đám dân chúng được kích thích giúp bọn vigin và lính cấm vệ trong việc săn đuổi những người Thiên chúa giáo. Đó cũng không phải là việc khó, vì hàng đám đông tín đồ, vốn dựng trại chung với các cư dân khác trong các khu vườn, công khai thừa nhận tín ngưỡng của mình. Khi bị bao vây, họ quỳ xuống và hát vang những bài ca và để cho chúng bắt đi mà không hề chống cự. Song sự cam chịu của họ chỉ càng làm tăng thêm cơn thịnh nộ của dân chúng, vốn không hiểu nổi cội nguồn của sự cam chịu ấy, lại coi nó là tính quyết liệt và chai sạn của họ trước tội ác. Cơn điên cuồng trùm lên những người bị khủng bố. Đã xẩy ra chuyện đám đông giằng những tín đồ Thiên chúa ra khỏi tay binh lính rồi dùng tay xé xác họ; đàn bà bị người ta túm tóc lôi vào nhà ngục, trẻ con bị đập đầu vào đá. Ngày cũng như đêm, hằng nghìn người hú hét chạy khắp các đường phố. Người ta sục tìm nạn nhân trong đám hoang tàn, trong các ống khói và trong các đường hầm. Trước nhà ngục, bên những đống lửa, vây quanh là những thùng rượu nho, người ta tổ chức những tiệc tế thần rượu và nhẩy múa. Đêm đêm, người ta say sưa lắng nghe những tiếng gầm rống tựa như tiếng sấm vang động khắp cả thành phố. Các nhà ngục chật cứng hàng nghìn con người, và cứ mỗi ngày, đám dân chúng cùng lính cấm vệ lại dồn tới những nạn nhân mới. Tình thương tắt ngấm. Ngỡ như người ta quên cả nói, và trong cơn điên cuồng hoang dã, người ta chỉ còn nhớ có mỗi một tiếng kêu: “Ném bọn Thiên chúa giáo cho sư tử!” mà thôi. Đó là những ngày nồng nực đến lạ kỳ và những đêm ngột ngạt chưa từng thấy trước đó bao giờ. Ngay cả không khí hình như cũng thấm đẫm cơn điên, máu và tội ác.
                        Đáp lại cái mức độ tràn đầy của sự dã man ấy là mức độ tràn đầy của lòng khao khát tử vì đạo. Các tín đồ của Chúa Crixtux tự nguyện đi tới cái chết, thậm chí đi tìm cái chết, cho đến khi những mệnh lệnh nghiêm khắc của các bậc trưởng lão ngăn cấm chuyện ấy. theo lời khuyên của các bậc ấy, họ bắt đầu chỉ tụ tập nhau ở ngoại thành, trong các hang ngầm trên đường Appia và trong các trại nho ngoại thành thuộc quyền sở hữu của các nhà quý tộc là tín đồ Thiên chúa, mà cho tới nay chưa một ai trong số này bị bắt. Ở Palatyn người ta biết rõ rằng cả Flavius, cả Đomitylia, cả bà Pomponia Grexyna, cả ông Kornelius Puđenx lẫn Vinixius đều là tín đồ Thiên chúa. Nhưng chính Hoàng đế sợ sẽ không thuyết phục nổi dân chúng rằng những người như thế lại đốt cháy Roma, mà trước tiên cần phải chiếm được lòng tin của dân chúng; vậy nên người ta đành tạm hoãn hình phạt và sự báo thù tới những ngày say này. Những kẻ khác lại tưởng rằng chính ảnh hưởng của nàng Akte đã cứu các vị quý tộc đó. Ý nghĩ ấy thật sai lầm. sau khi chia tay với Vinixius, ông Petronius quả có đến gặp Akte để tìm cách cứu Ligia, nhưng nàng chỉ có thể cho ông được những giọt lệ mà thôi, bởi lẽ nàng đang sống trong lãng quên và đau đớn, càng đau đớn hơn vì phải che giấu trước Poppea và Hoàng đế.
                        Tuy vậy nàng cũng đến thăm Ligia trong nhà ngục, mang cho cô quần áo và thức ăn, và trước tiên là bảo vệ cô gái khỏi bị làm nhục bởi bọn cai ngục mặc dù bọn này đã bị Vinixius mua chuộc.
                        Dầu sao đi nữa, Petronius vẫn không thể quên được rằng giá như không có ông, không có ý định của ông bắt Ligia phải rời khỏi gia đình ông bà Aulux, thì hẳn giờ đây nàng không phải sa vào cảnh ngục tù, thêm vào đó, ông còn muốn thắng Tygelinux trong cái trò đỏ đen này, nên ông không tiếc thì giờ vào những cuộc chạy vạy. Chỉ trong vòng có mấy ngày ông đã đến gặp ông Xeneka, Đomixius Afer, Kryxpinilla - qua ả ông muốn đến với Poppea, - gặp Terpnox và Điođor, gặp chàng Pitagorax xinh đẹp, và rốt cuộc, gặp Alitulux và Paryx, những người mà Hoàng đế chẳng hề từ chối điều gì. Nhờ sự giúp đỡ của nàng Khoryzotemix, hiện đang là tình nhân của Vatynius, ông muốn được hỗ trợ, và đối với hắn cũng như đối với người khác ông không hề tiếc cả lời hứa hẹn lẫn bạc tiền.
                        Song tất thẩy những cố gắng đó đều không kết quả. Xeneka, không tin chắc ở ngày mai của bản thân, bắt đầu thuyết ông rằng thậm chí nếu những người Thiên chúa giáo quả thực không đốt cháy Roma đi nữa thì họ cũng bị lên án vì quyền lợi của thành phố, nói tóm lại ông ta biện hộ cho cuộc giết chóc sắp tới bằng cái lý của tình thế. Terpnox và Điođor lấy tiền nhưng chẳng làm gì cả. Vytanius mách Hoàng đế rằng người ta đang cố sức mua chuộc hắn. Chỉ mỗi mình Aliturux, thoạt tiên rất căm ghét dân Thiên chúa giáo, nhưng bây giờ đâm ra thương họ, là dám nhắc Hoàng đế về cô gái đang bị giam, đồng thời xin cho nàng, nhưng cũng chẳng xin được gì ngoài câu trả lời:
                        - Thế ngươi tưởng rằng tâm hồn ta hẹp hòi hơn cả Brutux, người đã không tiếc cả con đẻ của mình vì quyền lợi của La Mã hay chăng?
                        Khi anh ta nhắc lại những lời này cho ông Petronius, ông nói:
                        - Một khi ngài đã so sánh với Brutux thì chẳng còn cách nào cứu nữa.
                        Song ông vẫn thương Vinixius và lo sợ khi nghĩ rằng chàng rất có thể sẽ liều thân. "Giờ đây, - ông tự nhủ - anh chàng vẫn được nâng đỡ bởi các cuộc chạy chọt đang tiến hành để cứu nàng thiếu nữ, bởi vẫn được trông thấy nàng và bởi bản thân nỗi đau khổ, nhưng một khi tất cả các phương sách đều thất bại và tia hi vọng cuối cùng tắt đi, thì lạy Kaxtor! Anh chàng không thể sống thiếu nàng và sẽ lao người vào mũi kiếm". Ông Petronius thậm chí hiểu được rằng, có thể kết thúc như thế còn hay hơn là cứ yêu thương và chịu đựng. Trong khi ấy, Vinixius làm tất cả những gì chàng có thể nghĩ ra để cứu Ligia. Chàng lui tới thăm các vị cận thần, và trước kia vốn tự hào đến thế, giờ đây chàng đi ăn mày sự trợ giúp của họ. Qua Vitelius, chàng hứa dâng cho Tygelinux đất đai của chàng ở đảo Xyxilia và tất cả những gì mà hắn đòi hỏi. Nhưng chắc không muốn chạm đến Auguxta nên Tygelinux từ chối. Việc gặp thẳng Hoàng đế, ôm lấy đầu gối y mà van xin cũng chẳng đưa đến điều gì. Thực ra, Vinixius những muốn làm cả việc ấy nữa, nhưng ông Petronius nghe ý định ấy của chàng đã hỏi lại:
                        - Thế nếu ngài từ chối, nếu ngài đáp lại bằng một câu đùa cợt hay một lời đe doạ vô luân, thì anh sẽ làm gì?
                        Nghe hỏi, nét mặt Vinixius co rúm lại vì đau đớn và phẫn nộ, răng chàng nghiến ken két.
                        Nhưng Vinixius cố nén, và đưa tay vuốt vầng trán đẫm mồ hôi lạnh, chàng nói:
                        - Không! Không! Cháu là tín đồ Thiên chúa.
                        - Và anh sẽ quên đi điều đó như vừa mới quên. Anh có quyền tự sát nhưng không có quyền mang cái chết đến cho nàng. Hãy nhớ con gái Xeyan đã phải chịu điều gì trước khi chết.
                        Khi nói thế ông không hoàn toàn thành thật, vì thực ra ông lo cho Vinixius nhiều hơn cho Ligia. Nhưng vì hiểu rằng không có gì kìm giữ chàng khỏi liều mạng tốt hơn là nói cho chàng hay rằng bằng việc ấy chàng có thể mang cái chết không tránh khỏi đến cho Ligia. Và thực ra ông có lý, vì tại cung điện Palatyn người ta cũng đã nghĩ đến khả năng chàng hộ dân quan trẻ tuổi sẽ tới và đã tiến hành những biện pháp đề phòng. Nhưng khổ ải của Vinixius vượt quá những gì mà sức lực con người có thể chịu đựng. Kể từ khi Ligia bị tống ngục, khi nàng có cơ bị tử vì đạo, không những chàng chỉ yêu nàng trăm lần hơn lên, mà trong tâm hồn, chàng bắt đầu thành kính nàng với một thứ tình cảm gần như tôn giáo, như đối với một siêu linh siêu nhiên nào đó. Và bây giờ khi nghĩ rằng sinh linh thân yêu vừa thiêng liêng kia sẽ phải lìa đời, không những thế còn có thể sẽ phải trải qua những cực hình khủng khiếp hơn cái chết, thì máu trong huyết quản chàng dường như đông lại, tâm linh chàng như biến thành một tiếng kêu rên, trí óc chàng như hoá dại. Đôi khi chàng cảm thấy như trong sọ chàng chứa đầy một thứ lửa hừng hực nào đó, nó sẽ thiêu rụi đầu óc hoặc sẽ làm vỡ tung sọ não ra. Chàng không còn hiểu nổi những gì đang xảy ra, không hiểu nổi vì sao Chúa Crixtux, Đức Chúa từ thiện nhường kia lại không thể giáng thế cứu những tín đồ của Người, vì sao những bức tường đẫm máu của cung điện Palatyn không bị chôn vùi luôn xuống đất, cùng với nó cả Nerô, ũ cận thần, trại cấm binh và cái đô thành tội ác này. Chàng nghĩ rằng không thể và nhất thiết không thể nào khác được, rằng tất thẩy những gì mắt chàng trông thấy, những gì khiến trái tim chàng rên xiết, khiến tâm hồn chàng tan nát, chỉ là một giấc mơ mà thôi. Song tiếng gầm rống của lũ dã thú bảo chàng rằng đó là hiện thực, tiếng chan chát của những chiếc rìu đang dựng nên võ đài bảo chàng rằng đó là sự thực, và khẳng định thêm điều ấy là tiếng hú hét của dân chúng cùng những nhà ngục chật ních. Khi ấy lòng tin của chàng vào Chúa Crixtux giảm đi, và sự suy giảm ấy lại là một nỗi khổ ải mới nữa, có thể là nỗi khổ ải kinh khủng nhất trong số tất cả những nỗi khổ của chàng.
                        Thế mà bây giờ ông Petronius lại còn nói với chàng:
                        - Hãy nhớ đến cái mà trước khi chết con gái Xeyan còn phải trải qua.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #57
                          T2 - Chương 53

                          Và mọi việc đều hỏng cả. Vinixius hạ mình đến mức chàng tìm chỗ víu ngay cả bọn nô lệ giải phóng và nô tỳ của cả hoàng đế lẫn của Poppea, mua chuộc chúng bằng những lời hứa hẹn và những món quà tặng đắt tiền, những mong được lòng chúng. Chàng tìm đến người chống đầu tiên của hoàng hậu, Rufiux Kryxpinux và được y viết cho một bức thư, chàng tặng tòa biệt thự tại Anxium của chàng cho đứa con trai của ả trong cuộc hôn nhân đầu tiên, cũng tên Rufiux, nhưng điều đó chỉ càng khiến cho hoàng đế - kẻ vốn căm ghét đứa con riêng của vợ - thêm tức giận mà thôi. Nhân có một điệp sứ, chàng viết thư cho chồng thứ hai của Poppea là Otho tận Tây Ban Nha, hứa sẽ dâng toàn bộ của cải và cả bản thân mình nữa, mãi cho đến khi chàng chợt nhận ra rằng chàng chỉ là trò chơi của mọi người và giá chàng giả vờ rằng việc bỏ tù Ligia chẳng quan hệ mấy tới chàng, thì có khi bọn họ lại chóng tha nàng hơn.
                          Cả ông Petronius cũng nhận ra điều ấy. Trong khi đó, ngày nối nhau trôi đi. Các nhà hát đã hoàn thành. Người ta đã phân phát các tesser, tức là các vé vào cửa dự lundus maturium(1). Nhưng lần này, do số lượng tội nhân nhiều chưa từng thấy, hội đấu "sáng" có thể sẽ kéo dài hàng ngày, hàng tuần thậm chí hàng tháng. Người ta không còn biết nhốt dân Thiên Chúa vào đâu nữa. Các nhà ngục đã chật ních và trong đó bắt đầu phát sinh dịch sốt nóng. Các puticuli tức là các hố nhốt người, nơi người ta chứa bọn nô lệ, cũng bắt đầu chật cứng. Sợ rằng bệnh dịch sẽ lan tràn ra khắp thành phố, người ta quyết định sẽ tổ chức gấp hội thi đấu.
                          Và tất cả những tin tức ấy đập vào tai Vinixius khiến những tia hy vọng cuối cùng trong lòng chàng tắt nốt. Khi còn thời gian, chàng còn có thể ảo vọng rằng sẽ kiếm được cách nào đó, nhưng bây giờ thì ngay cả thời gian cũng không còn. Đã sắp bắt đầu các cuộc biểu diễn rồi. Chỉ vài ngày nữa thôi, Ligia sẽ có mặt trong các phòng chứa của hý trường, từ đó chỉ còn một lối là bước ra đấu trường mà thôi. Vinixius không biết ố phận và sự tàn bạo của bạo lực sẽ ném nàng vào đâu, chàng tới khắp các hý trường, mua chuộc bọn canh cửa và những người quản thú dữ, đặt ra cho họ những đòi hỏi mà họ không thể nào thực hiện được. Nhiều khi chàng nhận ra rằng chàng chỉ còn biết tìm cách làm cho cái chết của nàng bớt phần thảm khốc hơn thôi và những khi ấy chàng cảm thấy trong sọ chàng thay cho bộ óc là những hòn than cháy bỏng.
                          Chàng cũng không hề nghĩ đến chuyện sống tiếp mà không có nàng, chàng quyết định sẽ cùng chết với nàng. Song chàng nghĩ rằng nỗi đau có thể sẽ thiêu rụi sự sống trong người chàng trước khi cái thời hạn kinh khủng kia tới. Bạn bè chàng và ông Petronius cũng nghĩ là chẳng bao lâu nữa trước mắt chàng sẽ mở ra vương quốc của các hồn ma. Mặt Vinixius xám lại, trở nên giống như mặt nạ bằng sáp mà chàng đặt trên bàn thờ gia thần. Trên nét mặt chàng ngưng đọng một nỗi ngạc nhiên, dường như chàng không sao hiểu nổi có chuyện gì xảy ra và có thể xảy ra. Khi có người nào đó nói với chàng, chàng máy móc đưa cả hai tay lên đầu bóp chặt lấy thái dương, nhìn người nói với cái nhìn kinh hoàng và dò hỏi. Đêm đêm, cùng bác Urxux, chàng nằm canh cửa cho Ligia trong nhà ngục, còn nếu nàng bảo chàng phải về nhà nghỉ, thì chàng đến chỗ ông Petronius và cứ đi đi lại lại trong gian chính sảnh cho tới tận sáng. Đám nô lệ thường gặp chàng đang quỳ giơ hai tay lên đầu hoặc nằm úp mặt xuống đất. Chàng cầu nguyện Chúa Crixtux, bởi đó là niềm hy vọng cuối cùng của chàng. Tất cả mọi cách đều hỏng cả rồi, họa chăng thì chỉ có một điều kỳ diệu mới có thể cứu nổi Ligia, vì thế Vinixius đập đầu vào những phiến đá cầu xin sự kỳ diệu đó.
                          Nhưng chàng cũng còn đủ tỉnh táo để hiểu rằng lời cầu nguyện của ông Piotr có nghĩa hơn của chàng, ông Piotr đã hứa mang lại Ligia cho chàng. Ông Piotr đã rửa tội cho chàng, chính ông Piotr cũng biết làm những điều kỳ diệu, vậy hãy để ông mang tới cho chàng sự cứu rỗi và trợ giúp.
                          Và một đêm, chàng đi tìm ông. Hiện giờ, những người Thiên Chúa giáo ít ỏi còn sót lại ẩn náu ngay cả đối với nhau, để nếu có kẻ nào đó kém tinh thần cũng không thể vô tình hay hữu ý phản bội họ được. Trong cơn hỗn loạn và sự khủng bố chung, lại hoàn toàn bận tâm về việc tìm cách cứu Ligia khỏi nhà tù. Vinixius mất liên lạc với ông Piotr và kể từ khi được rửa tội, chàng chỉ được gặp ông mỗi một lần, từ trước khi bắt đầu cuộc tróc nã. Nhưng khi đến gặp người thợ đá, chủ ngôi nhà mà chàng được chịu lễ rửa tội, chàng được ông cho hay rằng, tại trại nho nằm ngoài cổng Porta Xalaria, thuộc về tài sản của ông Kornilius Puđenx, sẽ có một cuộc tụ họp của các tín đồ Thiên Chúa. Người thợ đá nhận dẫn Vinixius đến nơi, ông cam đoan với chàng rằng họ sẽ tìm được ông Piotr tại đó. Sẩm tối, họ lên đường ra ngoài thành, tiếp đó đi theo những hóm đồi mọc đầy lau sậy, họ tới cái trại nho nằm biệt lập và hơi lạ lùng. Cuộc tụ họp diễn ra trong căn lều thường làm nơi ép nho. Thoạt tiên, vọng đến tai Vinixius tiếng cầu nguyện lào xào, khi bước vào, trong ánh sáng mờ mờ của đèn dầu, chàng thấy vài mươi người đang quỳ gối chìm trong cầu nguyện. Họ đọc kinh cầu theo kiểu xướng họa, dàn đồng ca của những giọng đàn ông cùng đàn bà chốc chốc lại lặp lại: "Xin Chúa Crixtux, xin hãy rủ lòng thương!". Trong những giọng kêu cầu ấy rung lên một nỗi buồn thương sâu thẳm, xé lòng người.
                          Ông Piotr đang có mặt. Ông quỳ ở phía trước, dưới một cây thánh giá bằng gỗ đóng vào vách lều và đang cầu nguyện. Từ xa, Vinixius nhìn rõ những sợi tóc bạc và đôi cánh tay ông đang vươn lên. Ý nghĩ đầu tiên của chàng quý tộc trẻ là băng qua đám người, quỳ xuống chân đức Sứ Đồ và kêu lên: "Hãy cứu lấy con". Nhưng không rõ sự trang trọng của cuộc cầu nguyện hay sự kiệt sức khiến hai đầu gối chàng khuỵu xuống, chàng bèn quỳ ngay ở cửa ra vào, xiết chặt hai nắm tay và rên lên, lặp đi lặp lại: "Lạy chúa Crixtux, xin hãy rủ lòng thương!". Giá như chàng tỉnh táo, chàng có thể hiểu ra rằng, không chỉ trong lời cầu của chàng vang lên tiếng rên rỉ, không chỉ riêng chàng mang tới đây nỗi đớn đau, niềm thương tiếc và sự sợ hãi của mình. Trong cuộc tụ họp này không có một linh hồn nào không bị mất đi những sinh linh yêu dấu và khi mà những tín đồ mộ đạo và dũng cảm nhất đã bị cầm tù, khi mà từng giờ từng phút đều mang tới thêm những tin tức mới về nỗi tủi nhục và cực hình mà người ta gât ra cho họ trong ngục tù, khi mà tầm cỡ của tai ương vượt quá tất cả mọi điều dự đoán, khi mà chỉ còn lại một nhúm người bé nhỏ ngần kia, thì trong bọn họ chẳng có trái tim nào không hoảng sợ trong niềm tín ngưỡng của mình, không nghi ngờ tự hỏi: Vậy Chúa Crixtux đâu rồi? Tại sao Người lại để cho sự dữ mạnh hơn cả Chúa Trời?
                          Nhưng lúc này họ đang hãy còn tuyệt vọng cầu xin Người hãy nhân từ, bởi vì trong mỗi linh hồn vẫn còn le lói một tia hy vọng rằng Người sẽ tới, quét sạch sự dữ, đẩy Nerô vào vực thẳm và sẽ ngự trị thế gian…Họ hãy còn đang ngước nhìn lên trời, hãy còn đang lắng nghe, hãy còn run rẩy mà cầu nguyện. Vinixius cũng thế, càng lặp lại nhiều lần câu cầu nguyện: "Lạy Chúa Crixtux, xin Người rủ lòng thương!". Chàng lại càng thấy niềm hứng khởi tựa như hồi nào trong nhà người thợ đá. Người ta đang gọi Chúa từ nơi sâu thẳm của nỗi đạu, từ đáy vực thẳm. Ông Piotr cũng đang gọi Chúa kia, vậy thì chỉ chốc lát nữa thôi, bầu trời sẽ tách ra, đất sẽ rung lên dưới chân và Chúa sẽ giáng thế, trong vầng hào quang chói lói với những vì sao dưới chân, đầy nhân từ song cũng đầy lòng giận dữ, Người sẽ nâng đỡ những ai trung thành và ra lệnh cho vực thẳm nuốt chửng những kẻ khủng bố.
                          Vinixius đưa hai tay che mặt và áp mặt xuống đất. Đột nhiên, sự im lặng vây lấy chàng, dường như nỗi sợ đã trói chặt những lời kêu cầu trong miệng những người có mặt. Chàng ngỡ như rốt cuộc phải có một điều gì đó xảy ra, giây phút kỳ diệu sẽ phải đến. Chàng tin chắc rằng khi nhổm dậy, mở mắt ra, chàng sẽ nhìn thấy một vừng ánh sáng khiến những đôi mắt phàm trần bị chói và sẽ nghe một giọng nói khiến những trái tim xúc động lịm đi.
                          Nhưng im lặng vẫn kéo dài triền miên. Cuối cùng, một tiếng nức nở của phụ nữ phá tan bầu không khí im lặng.
                          Vinixius nhổm dậy và ngơ ngác nhìn.
                          Trong căn nhà gỗ, thay vì ánh hào quang thiên giới, vẫn le lói những ánh đèn dầu và nhập nhoạng ánh trăng chiếu qua một lỗ thủng trên mái. Những người đang quỳ cạnh Vinixius ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn thánh giá, đôi chỗ vang lên những tiếng nức nở khác, từ bên ngoài vọng vào tiếng huýt sáo thận trọng của những người gác. Khi ấy, ông Piotr đứng dậy, quay lại phía đám người và nói:
                          - Các con ta, hãy dâng trái tim lên Đấng Cứu Thế của chúng ta và hiến cho người những giọt lệ của các con.
                          Rồi ông nín lặng.
                          Đột nhiên, từ trong đám người đang tụ tập vang lên một giọng đàn bà, đầy hàm ý kêu ca thắm thiết và đau đớn vô hạn:
                          - Tôi là đàn bà góa, chỉ có mỗi một đứa con trai nuôi tôi…Hãy trả nó về cho tôi, hỡi Chúa!
                          Rồi im lặng một giây lâu. Ông Piotr đứng trước đám người đang quỳ gối, già nua, sầu não và họ thấy như vào giây phút này, ông dường như là biểu tượng của sự già yếu và bất lực.
                          Rồi lại vang lên giọng ca thán thứ hai:
                          - Bọn đao phủ làm nhục con gái tôi mà Chúa Crixtux vẫn cho phép chúng làm chuyện đó!
                          Sau đó giọng thứ ba:
                          - Tôi chỉ có một thân một mình với đàn con thơ, nếu bọn chúng bắt tôi đi, ai sẽ cho chúng bánh mì và nước uống?
                          Rồi giọng thứ tư:
                          - Ông Linux, trước bọn chúng không thèm bắt, giờ lại bắt đi chịu nhục hình rồi, Chúa ơi!
                          Và giọng thứ năm:
                          - Một khi chúng tôi trở về nha, bọn cấm vệ sẽ bắt ngay. Chúng tôi biết trú ngụ nơi đâu bây giờ?
                          - Thương thay lũ chúng ta! Ai sẽ cho chở chúng ta đây?
                          Và cứ thế, trong sự tĩnh mịch của đêm thâu, lời ca thán nối lời ca thán. Người lão ngư nhắm mắt, lắc lắc mái đầu bạc trên những nỗi đau và niềm lo của con người. Im lặng lại bao trùm, bên ngoài lều chỉ có cirngs huýt gió khe khẽ của những người đang gác.
                          Vinixius lại một lần nữa định bật dậy để băng qua đám đông đến với Đức Sứ Đồ đòi ông phải cứu, đột nhiên chàng ngỡ như thấy trước mặt mình một vực thẳm, hình ảnh ấy khiến thân chàng đờ ra. Sẽ ra sao đây nếu như Sứ Đồ thừa nhận sự bất lực của ông, nếu ông khẳng định hoàng đế La Mã mạnh hơn Crixtux Nazaen? Ý nghĩa ấy khiến tóc chàng như dựng đứng trên dầu, chàng cảm thấy rằng, khi ấy sẽ rơi nhào xuống cái vực thẳm kia không những mảnh hy vọng còn sót lại của chàng, mà cả chàng, cả Ligia của chàng, cả tình yêu của chàng đối với Chúa Crixtux, cả lòng tin của chàng và tất thảy những gì mà chàng dùng để sống, chỉ còn lại cái chết và đêm đen thẳm như biển cả tràn bờ.
                          Trong khi ấy, ông Piotr cất tiếng nói, thoạt đầu khẽ khàng đến nỗi chỉ vừa đủ nghe thấy:
                          - Các con ta! Trên núi Gongot ta đã trông thấy chúng đóng đinh Đức Chúa lên thánh giá. Ta nghe thấy tiếng búa, ta nhìn thấy chúng dựng cây thập ác lên để chúng dân có thể nhìn thấy cái chết của Con đẻ nhân loại...
                          - ...Và ta nhìn thấy chúng mổ sườn Chúa, thấy Chúa qua đời. Và khi ấy, từ thành giá quay về, trong niềm đau, ra đã kêu lên như các con vừa kêu: “Thương thay! Thương thay! Thầy ơi! Người là Đức Chúa! Sao người lại để cho chúng làm thế, sao Người lại chết đi, sao Người để trái tim chúng con tan nát, chúng con, những kẻ hằng tin rằng rồi sẽ đến vương quốc của Người?”
                          Còn Người, chủ của chúng ta và Chúa của chúng ta, ngày thứ ba đã sống dậy, đã đứng giữa chúng tôi, trước khi đi về vương quốc của Người trong một vùng ánh sáng rực rỡ....
                          Còn chúng tôi, nhận ra lòng tin của mình nhỏ bé, chúng tôi củng cố trong lòng và gieo hạt giống của Người từ ấy....
                          Đến đây, ông quay về phía phát ra tiêng ca thán đầu tiên và bắt đầu nói với giọng mạnh hơn:
                          - Tại sao các con lại ca thán? Chính Chúa từng chịu nhục hình và cái chết, vậy mà các con lại muốn Người che chở các con trước những điều ấy hay sao? Hỡi những con người kém lòng tin! Vậy ra các con đã thấm nhuần giáo thuyết của Người như thế đấy, vậy ra Người chỉ hứa hẹn cho các con một cuộc sống này thôi sao? Người đang đến và nói với các con: “Hãy theo con đường ta đi”. Người nâng các con lên gần Người, vậy mà các con dùng cả hai tay bắm chặt lấy mặt đất mà kêu lên: “Chúa ơi, cứu lấy con!”. Ta chỉ là một hạt bụi trước Chúa, nhưng với các con ta là Sứ Đồ và tổng quản của Chúa, nhân danh Chúa Crixtux, ta nói cùng các con: Trước mắt các con không phải là cái chết mà là cuộc sống, không phải là đớn đau mà là nỗi sung sướng vô bờ, không phải lời than van và nước mắt mà là tiếng ca hát, không phải kiếp nô lệ mà là sự ngự trị! Ta, Sứ Đồ của Chúa, nòi cúng con, hỡi người vợ góa: Con của con không chết, mà nó được sinh trong sự ngợi ca trên cuộc sống vĩnh hằng và con cũng sẽ được gắn bó với nó! Còn con, người cha có đứa con gái bị bọn đao phủ vấy bẩn, ta hứa rằng con sẽ được gặp lại cháu trong trắng hơn những đóa hoa huệ xứ Hebron! Còn các con, hỡi những bà mẹ sẽ bị bắt đi, bỏ lại những đứa trẻ mồ côi, các con, những kẻ mất cha, các con, những kẻ đang ca thán, các con, những kẻ sẽ phải tận mắt trông thấy cái chết của những người thân yêu, các con những kẻ ưu phiền, bất hạnh, lo hãi và các con, những kẻ sẽ phải chịu tội chết, nhân danh Chúa Crixtux, ta xin nói rằng, các con sẽ được tỉnh dậy như vừa ngủ một giấc say, như từ đêm sang bình minh của Chúa. Nhân danh Crixtux, cầu cho màng che mắt các con được cất đi và cầu cho trái tim của các con được hâm nóng!
                          Nói đoạn ông giơ bàn tay như ra lệnh, còn họ cảm thấy như có một dòng máu mới chảy trong huyết quản, đồng thời như có một cơn rùng mình trong xương cốt, vì đứng trước họ không còn là một ông lão lụ khụ và âu lo nữa, mà là một người hùng mạnh đã nâng tâm hồn của họ từ bụi đất và hãi hùng lên cao.
                          - Amen! - Vài giọng nói vang lên.
                          Còn ông, mắt ông mỗi lúc một tỏa sáng hơn, toàn thân ông toát ra sức mạnh, sự tôn nghiêm, thiêng liêng. Những mái đầu cúi xuống trước ông và khi những tiếng “Amen” lặng đi, ông nói tiếp:
                          - Các con hãy gieo hạt trong than khóc để gặt hái trong ngày vui. Tại sao các con sợ hãi sức mạnh của sự dữ? Trên trái đất, trên toàn La Mã, trên những bức tường thành đô, có Chúa ta ngự trị, Người ở trong lòng các con. Đã thấm ướt nước mắt, cát ngấm đẫm máu đào, những cái hố sâu đầy nghẹt xác người, nhưng ta nói cùng các con rằng: Các con sẽ chiến thắng! Chúa đang đến để công phá cái thành phố tội ác, áp bức và xa hoa này, các con là những chiến đoàn của Người! Chính Người đã bằng cực hình và máu của mình để chuộc tội cho toàn thế giới. Người muốn các con cũng bằng cực hình và máu của mình chuộc tội cho cái tổ vô luôn này!...Đó là chính Người qua miệng ta nói với các con điều ấy!
                          Rồi ông giang tay, mắt ngước lên đăm đắm nhìn trời, tim họ gần như ngừng đập trong lồng ngực, bởi vì họ cảm thấy ông đang trông thấy cái điều mà những con người trần thế của họ không sao thấy được.
                          Nét mặt ông biến đổi và sáng bừng lên, một lúc lâu ông cứ nhìn đăm đăm trong im lặng, dường như ông không thể thốt nên lời vì ngưỡng mộ, rồi sau đó họ nghe thấy tiếng ông:
                          - Người đã đến, Chúa ơi và chỉ cho tôi con đường phải đi!...Sao lại thế, hỡi Crixtux?...Không phải ở Jeruzalem mà tại chính cái thành phố này của quỷ Sa Tăng. Người muốn lập thủ đô của Người sao? Tại nơi đây, nơi hôm nay Nerô đang ngự trị, sẽ dựng nên vương quốc vĩnh hằng của Người sao? Chúa ôi, Chúa ôi! Người bảo những con người đang run sợ này lấy xương họ xây nên nền móng thế giới, còn linh hồn tôi Người dạy phải cai quản họ và loài người trên mặt đất sao? Và đây kia, Người đang rót lòng sức cho những kẻ yếu để họ được mạnh lên, Người bảo tôi từ nay phải chăn đàn chiên của Người cho đến khi đủ vòng thế kỷ...Ôi, xin được ngợi ca trong những phán quyết của Chúa, Người ra lệnh chiến thắng: Hosanna! Hosanna!
                          Những người vừa mới đây run sợ đứng bật dậy, những kẻ vừa mới đây nao núng như được cấp thêm lòng tin. Một số giọng đồng thành thốt lên: “Hosanna!”, những giọng khác: “Pro Christo!”(2) rồi sau đó lại im lặng. Những tia chớp mùa hè lóe lên chiếu sáng bên trong căn nhà gỗ và những khuôn mặt đang tái đi vì xúc động.
                          Ông Piotr vẫn dõi mắt đăm đăm nhìn sự hiển hiện và cầu nguyện mãi sau, rốt cuộc như sực tỉnh, quay lại đám người với khuôn mặt chan hòa ánh sáng, đầy hứng khởi và nói:
                          - Chúa đã chiến thắng sự nghi ngờ trong lòng ta, các con hãy đi và chiến thắng như Người, nhân danh Chúa!
                          Và mặc dù biết chắc rằng họ sẽ chiến thắng, biết chắc những gì sẽ mọc lên từ máu và nước mắt của họ, nhưng giọng ông vẫn run run xúc động khi làm dấu thánh giá từ biệt họ, ông nói:
                          - Còn bây giờ ta ban phước cho các con, các con của ta, trước cái chết và sự vĩnh hằng!
                          Nhưng họ quỳ xuống quanh ông và kêu lên: “Chúng con đã sẵn sàng, nhưng còn Người, bộ óc của hội thánh, xin Người hãy trốn đi, vì Người là đấng tổng quản thay mặt Chúa để cai quản những người Thiên Chúa kia mà!”. Và vừa nói thế, họ vừa bám lấy áo ông, ông đặt tay lên đầu họ, từ biệt từng người một, như người cha già từ giã đàn con sắp lên đường vào một cuộc viễn du.
                          Rồi họ bắt đầu rời khỏi căn nhà gỗ, vì họ rất nóng lòng muốn trở về nhà, từ đó họ sẽ vào nhà ngục rồi lên đấu trường. Tâm tưởng họ đã rời khỏi trái đất, linh hồn họ đã bay tới chốn vô cùng, họ bước đi như trong mộng hay trong một cơn mê đắm đuối, cưỡng chống lại sức mạnh vốn tồn tại trong lòng họ, chống lại bạo lực và sự tàn bạo của bọn “thú dữ”.
                          Đức Sứ Đồ được Nereus, một đầy tớ của ông Puđenx dễn đi theo một đường mòn ẩn trong vườn nho đến nhà mình. Nhưng trong đêm sáng vằng vặc, Vinixius bước theo sau họ và khi họ đến được túp lều của Nereus, chàng đột ngột quỳ xuống chân Sứ Đồ.
                          Nhận ra chàng, ông hỏi:
                          - Con muốn gì kia, hở con?
                          Nhưng sau những gì được nghe trong căn nhà gỗ, Vinixius không dám van xin ông điều chi nữa, chàng chỉ dùng hai tay ôm lấy chân ông, ghì chặt trán mình vào đó, vừa nức nở và bằng cách thức không lời ấy chàng muốn khẩn cầu tình thương.
                          Ông nói:
                          - Ta biết rồi. Chúng nó bắt mất người con gái mà con yêu thương. Vậy hãy cầu nguyện cho nàng.
                          - Người ơi! - Vinixius nức lên, càng ghì chặt hai chân Đức Sứ Đồ hơn nữa - Người ơi! Con chỉ là loài sâu bọ hèn mọn, còn Người quen biết Chúa Crixtux, xin hãy khẩn cầu Chúa, xin Người hãy bênh vực con với!
                          Và run lên như một chiếc lá cây vì nỗi đớn đau, chàng đập trán xuống đất, chàng biết khả năng của Đức Sứ Đồ và hiểu rằng chỉ mỗi mình ông mới có thể mang nàng về cho chàng mà thôi.
                          Chính nỗi đau đớn kia khiến ông Piotr động lòng. Ông nhớ lại rằng chính Ligia, hồi nào bị ông Krypxpux mắng, cũng đã từng làm như thế này dưới chân ông để khẩn cầu tình thương. Ông nhớ là chính ông đã đỡ nàng dậy và an ủi nàng, nên giờ đây ông bèn đỡ Vinixius dậy.
                          - Con của ta - Ông nói - Ta cũng cũng sẽ cầu nguyện cho nàng, nhưng con hãy nhớ những điều ta đã nói với những kẻ ngờ vực kia, rằng chính Đức Chúa đã tự mình trải qua nỗi đau bị đóng đinh câu rút và hãy nhớ rằng, sau cuộc đời này sẽ bắt đầu một cuộc sống khác, vĩnh hằng.
                          - Con hiểu!...Con đã được nghe - Vinixius đáp, đôi môi tái nhợt của chàng hớp hớp không khí - Nhưng Người thấy đấy...Con không thể: Nếu cần máu, Người hãy xin Chúa Crixtux lấy máu của con đây...Còn là người lính. Hãy cho con phải gấp đôi, gấp ba những khổ hình dành cho nàng, con sẽ chịu được, nhưng xin hãy cứu giúp lấy nàng! Người ôi, nàng hãy còn là một đứa trẻ, mà Đức Chúa lại mạnh hơn cả hoàng đế, con tin! Người mạnh hơn! Chính Người cũng yêu thương nàng! Chính Người đã ban phước cho chúng con! Đó hãy còn là một đứa trẻ vô tội!....
                          Rồi chàng lại cúi xuống dụi mặt vào đầu gối ông Piotr, lặp đi lặp lại:
                          - Người quen biết Chúa Crixtux! Người quen! Chúa sẽ chiều theo ý Người! Xin Người hãy bênh vực nàng!
                          Ông Piotr nhắm nghiền mắt lại và cầu nguyện khẩn thiết.
                          Những ánh chớp mùa hè lại rạch sáng bầu trời. Vinixius nhìn đăm đăm vào miệng Đức Sứ Đồ trong ánh chớp, chờ đợi lời phán quyết sống hay chết. Trong sự tĩnh mịch, nghe rõ tiếng những con chim cun cút gọi nhau trong vườn nho và tiếng vọng trầm đục xa xa của nhwungx cno đường nằm gần Via Xalaria.
                          - Vinixius - Mãi sau Sứ Đồ hỏi - Vậy con có tin không?
                          - Thưa người, nếu không sao con lại tới đây? - Vinixius đáp.
                          - Vậy thì hãy gắng tin cho đến chót, vì lòng tin có thể lay chuyển cả núi. Dù cho con có trông thấy nàng thiếu nữ ấy ở dưới thành gươm hay trong hầm sư tử, hãy tin rằng Chúa Crixtux vẫn có thể cứu được nàng! Hãy tin và cầu nguyện lên Người, còn ta sẽ cầu nguyện cùng con.
                          Rồi ngước mặt lên trời, ông nói to:
                          - Hỡi Đức Chúa Crixtux nhân từ, xin hãy nhìn xuống trái tim đang đau đớn này và an ủi! Hỡi Đức Chúa Crixtux nhân từ, hãy thổi gió vào lòng chiên! Hỡi Đức Chúa Crixtux nhân từ, Người đã từng cầu xin Chúa Cha bỏ cốc đắng cay ra khỏi miệng Người, xin hãy bỏ cốc ấy khỏi miệng kẻ tôi tớ này đây của Người! Amen!
                          Còn Vinixius vươn cả hai tay len phái những vì sao, rên rỉ thốt lên:
                          - Hỡi Đức Chúa Crixtux! Con là của Người! Xin hãy cho con được chiun thay nàng!
                          Đằng đông, trời bắt đầu rạng sáng.
                          Chú thích:
                          (1) Latinh: Hội thi đấu.
                          (2) Latinh: Vì Chúa Crixtux
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #58
                            T2 - Chương 54

                            Từ biệt đức Sứ Đồ, Vinixius đến nhà ngục với trái tim được niềm hy vọng tái sinh. Đâu đó sâu thăm thẳm trong tâm hồn chàng hãy còn tiềm ẩn nỗi tuyệt vọng và kinh hãi, nhưng chàng cố dập đi trong lòng những tiếng nói đó. Chàng nghĩ không lẽ nào sự bênh vực của vị tổng quản thay mặt Chúa và sức mạnh của lời cầu nguyện của ông lại không mang lại kết quả gì. Chàng sợ thiếu mất niềm hy vọng, chàng sợ nghi ngờ. "Ta sẽ tin vào lòng nhân từ của Chúa - chàng tự nhủ - ngay cả khi nhìn thấy nàng nằm trong hàm sư tử". Và nghĩ như thế, mặc dù tâm linh chàng run lên và thái dương chàng toát mồ hôi lạnh, chàng thấy tin tưởng. Giờ đây mỗi nhịp đập của trái tim chàng như một lời cầu nguyện. Chàng bắt đầu hiểu được rằng lòng tin có thể dời núi, bởi chàng cảm thấy trong lòng có một sức mạnh kỳ lạ mà trước đây chàng chưa hề cảm thấy. Chàng ngỡ như mình có thể làm nổi những việc chỉ mới hôm qua đây thôi còn vượt quá sức của chàng. Đôi khi chàng có cảm tưởng rằng điều dữ đã đi qua. Và khi nỗi tuyệt vọng lại lên tiếng rên rỉ trong tâm hồn, chàng nhớ lại cái đêm hôm ấy và mái đầu tóc bạc thiêng liêng đã ngước lên nhìn trời cầu nguyện. "Không! Đức Chúa Crixtux sẽ không từ chối con người vừa là môn đồ số một của Chúa vừa là kẻ chăn đàn con chiên! Chúa Crixtux sẽ không từ chối Người, còn ta sẽ không bao giờ nghi ngờ gì cả".
                            Chàng chạy đến nhà ngục như một sứ giả mang tin tức mới.
                            Nhưng tại đây, chàng gặp phải một sự bất ngờ.
                            Gần như tất cả bọn lính cấm vệ thay nhau canh gác nhà ngục mamertyn đều quen mặt chàng và thường chúng không hề gây cho chàng một khó khăn nào cả, nhưng lần này sợi dây xích sắt không mở ra, ngược lại viên bách trưởng tiến đến gần chàng và bảo:
                            - Xin hãy tha lỗi, thưa ngài hộ dân quan cao quý, hôm nay chúng tôi được lệnh không cho một ai vào cả.
                            - Lệnh à? - Vinixius tái mặt hỏi lại.
                            Người lính nhìn chàng thông cảm và đáp:
                            - Vâng, thưa ngài. Lệnh của hoàng thượng. Trong nhà ngục có rất nhiều người ốm, có thể người ta sợ rằng những người đến thăm sẽ mang bệnh dịch lây cho thành phố.
                            - Nhưng người vừa nói rằng lệnh chỉ cho riêng ngày hôm nay thôi mà?
                            - Đến trưa sẽ đổi gác.
                            Vinixius nín lặng và bỏ mũ, vì chàng cảm thấy chiếc mũ pileolus mà chàng đang đội trên đầu nặng như chì.
                            Lúc đó người lính tiến sát lại hạ giọng nói:
                            - Xin ngày hãy bình tâm. Lính cánh và cả bác Urxux đang trông giữ nàng.
                            Nói đoạn anh ta cúi xuống và nhanh như chớp dùng kiếm dài kiểu Gan của mình vạch lên phiến đá hình một con cá.
                            Vinixius liếc nhanh nhìn anh ta.
                            - Và ngươi lại là cấm quân?
                            - Cho tới khi nào tôi còn chưa bị nhốt vào trong kia - Người lính vừa đáp vừa trỏ vào nhà ngục.
                            - Cả ta cũng kính Chúa Crixtux.
                            - Cầu cho sáng danh Người! Thưa ngài, tôi biết chứ! Tôi không thể để ngài vào ngục được, nhưng nếu ngài viết thư, tôi sẽ chuyển cho bọn cai ngục hộ.
                            - Xin cảm ơn người anh em.
                            Chàng xiết chặt tay người lính rồi bước đi. Chiếc mũ pileolus thôi không đè nặng như chì lên đầu chàng nữa. Mặt trời buổi sớm lên cao bên trên tường nhà ngục và cùng với ánh mặt trời sáng chiếu, một niềm cổ vũ lại len vào tim Vinixius. Người lính là tín đồ Thiên Chúa này với chàng như một bằng chứng mới về sự hùng mạnh của Chúa Crixtux. Lát sau, chàng dừng lại, dán mắt vào những đám mây màu hồng đang lơ lửng trên đồi Kapiton cùng thần miếu Xtator và thốt lên:
                            - Hôm nay con không được gặp nàng, Chúa ôi, nhưng con tin vào sự nhân từ của Chúa!
                            Ở nhà, ông Petronius đang đợi chàng, như thường lẹ, ông “lấy đếm làm ngày’ và vừa mới trở về. Song ông cũng đã kịp tắm và xoa dầu để chuẩn bị đi ngủ.
                            - Cậu có tin mới dành cho anh đây - Ông nói: Hôm nay cậu vừa ở chỗ Tulius Xexenion, có mặt cả hoàng đế tại đó nữa. Không rõ tại sao hoàng hậu lại nẩy ra ý định mang thằng bé Rufiux theo...Có thể là để dùng sắc đẹp của thằng bé làm mềm lòng hoàng đế cũng nên. Không may, đứa bé buồn ngủ và thiếp đi trong lúc đọc thơ, giống như Vexpazian dạo nọ, trông thấy thế, Ahenobarbux ném ngay cốc rượu vào thằng bé, khiến nó bị thương nặng, Poppea ngất xỉu, tất cả mọi người đều nghe hoàng đế thốt: “Quá đủ đứa con thêm này rồi!”, mà anh biết đấy, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết.
                            - Cơn giận dữ của Chúa đang treo trên đầu hoàng hậu - Vinixius đáp - nhưng sao cậu lại kể cho cháu nghe chuyện ấy?
                            - Cậu kể vì cả anh lẫn Ligia đều bị cơn giận của Poppea theo đuổi, bây giờ bị vướng nỗi bất hạnh của chính mình có thể ả không muốn trả thù nữa và có thể lấy được lòng ả cũng nên. Tối nay cậu sẽ gặp và nói chuyện với ả.
                            - Cảm ơn cậu, cậu mang cho cháu một tin tốt lanh.
                            - Anh đi tắm rửa rồi nghỉ ngơi đi. Môi anh tím tái, anh chỉ còn là một cái bóng thôi đấy.
                            Nhưng Vinixius lại hỏi:
                            - Thế người ta không báo bao giờ bắt đầu cuộc ludus matutimus đầu tiên sao?
                            - Mười ngày nữa. Nhưng người ta sẽ lấy các nhà ngục khác trước. Chúng ta càng còn nhiều thời gian càng tốt. Chưa phải mọi thứ đều hỏng cả đâu.
                            Ông nói thế nhưng là nói những điều chính ông cũng không còn tin nữa, bởi ông biết rõ rằng, một khi hoàng đế đã tìm được một lời đáp tuyệt vời chứa đầy ngụ ý để trả lời điều khẩn cầu của Aliturux, trong đó người tự so sánh với Bratux, thì ông còn cách nào cứu nổi Ligia. Vì thương hại, ông cũng giấu đi điều mà ông nghe được tại nhà Xexenion, rằng hoàng đế và Tygelinux đã quyết định sẽ chiếm lấy cho mình và cho đám bạn bè những trinh nữ Thiên Chúa giáo xinh đẹp nhất để làm nhục trước khi họ chịu khổ hình, số còn lại sẽ ban cho bọn lính cấm vệh và quản thú trong ngày bắt đầu hội thi.
                            Biết rằng Vinixius không khi nào muốn sống khi Ligia đã chết, ông cố tình gieo niềm hy vọng trong tim chàng, trước hết vì đồng cảm với chàng, sau nữa, con người duy mỹ này cũng muốn rằng một khi phải chết, Vinixius sẽ chết đẹp đẽ, chứ không phải với bộ mặt xám xịt đã bị nỗi đau đớn và mất ngủ hủy hoại.
                            - Hôm nay cậu sẽ nói với Auguxta - Ông bảo - Ít nhiều như thế này: “Người hãy cứu lấy Ligia cho Vinixius, còn tôi sẽ cứu Rufiux cho người”. Và cậu sẽ suy nghĩ về việc đó thật đấy. Đối với Ahenobarbux, chỉ cần một lời được nói vào giây phút thích hợp, cũng có thể cứu sống hoặc giết chết một mạng người. Mà chí ít thì chúng ta cũng kéo dài được thời gian.
                            - Cảm ơn cậu - Vinixius lặp lại.
                            - Tốt nhất anh hãy cảm ơn cậu một khi đã được ăn và được nghỉ. Thề có Atena! Ngay cả trong nỗi bất hạn lớn nhất, Ođyxe cũng vẫn nghỉ đến chuyện ăn và ngủ. Chắc suốt cả đêm anh thức trong tù?
                            - Không - Vinixius trả lời - Vừa rồi cháy định đến nhà ngục, nhưng đã có lệnh không cho một ai vào. Xin cậu, thưa Petronius, cậu hãy tìm hiểu xem chỉ có lệnh cho ngày hôm nay hay cho đến tận hôm hội thi đấu.
                            - Đêm nay cậu sẽ tìm hiểu và sáng sớm mai sẽ nói cho anh hay lệnh ấy có giá trị đến bao giờ và tại sao lại được ban bố. Còn bây giờ, dù cho vì buồn phiền thần Heliox có lặn xuống đất nước Kimeri đi chăng nữa, cậu cũng phải đi ngủ đã, còn anh hãy làm theo gương cậu.
                            Và họ chia tay, nhưng Vinixius lại tới thư viện và bắt đầu viết cho Ligia một bức thư.
                            Viết xong, chàng tự tay mang đến giao cho người gác trưởng là tín đồ Thiên Chúa, người ấy lập tức mang thư vào nhà ngục. Lát sau, anh ta quay lại với lời chúc sức khỏe của Ligia và hứa rằng ngay trong ngày hôm nay anh ta sẽ mang cho chàng thư trả lời của nàng.
                            Song Vinixius không muốn quay về, chàng ngồi xuống một phiến đá đợi thư Ligia. Mặt trời đã lên cao trên bầu trời và như thường lệ, những đám đông người băng qua Clivux Argentariux đổ dồn về Forum. Bọn mua đi bán lại rao mời những món hàng của chúng, đám thầy coi bói xin được phục vụ những người đi qua, các vị công dân dậm những bước chân trang trọng đến các diễn đàn công cộng để nghe các diễn giả qua đường hoặc kể lại cho nhau nghe những tin tức sốt dẻo nhất. Khi cái nóng thiêu đốt mạnh hơn, những đám đông vô công rồi nghè lại nấp dưới những hàng cột của các thần miếu, từ trong đó chốc chốc lại bay vù ra hàng đàn bồ câu với tiếng đập cánh ồn ã, lông trắng lóng lánh trong sắc sáng láng và thẳm xanh của vòm trời.
                            Dưới tác dụng của ánh sáng quá chói, của tiếng ồn ào, của sự ấm áp và sự mỏi mệt quá đỗi, mắt Vinixius bắt đầu díp lại. Tiếng kêu đơn điệu của những chú bé đang chơi trò đoán ngón tay ở bên cạnh và những bước chân đều đặn của binh lính ru đưa chàng vào giấc ngủ. Chàng còn ngẩng đầu dậy vài lần đưa mắt nhìn nhà ngục, rồi tựa đầu vào tảng đá, thở dài như một đứa trẻ ngủ thiếp đi sau một hồi lâu kêu khóc, chàng thiếp đi.
                            Và chàng mơ những giấc mơ. Chàng thấy như giữa đêm thâu chàng bế Ligia đi qua một khu vườn nho lạ, trước chàng là bà Pomponia Grexyna cầm cây đèn trong tay để soi đường. Một giọng nói nào đó, chừng như tiếng ông Petronius gọi từ đằng xa sau lưng chàng: “Quay lại đi!”. Nhưng chàng không để ý gì đến tiếng gọi đó, cứ bước tiếp theo sau bà Pomponia, chơ tới lúc họ đến một chiếc lều, trên ngưỡng cửa là Sứ Đồ Piotr đang đứng. Khi ấy chàng trỏ vào Ligia và nói: “Chúng con vừa thoát khỏi đấu trường, thưa Người, nhưng không sao đánh thức nàng nổi, xin Người hãy làm nàng tỉnh dậy”. Nhưng ông Piotr trả lời: ”Chính Đức Chúa Crixtux sẽ đến để đánh thức nàng dậy!”.
                            Rồi những cảnh tượng bắt đầu lẫn lộn. Trong giấc mơ chàng thấy Nerô và Poppea đang bế trong tay cậu bé Rufiux với cái trán đẫm máu mà ông Petronius đang lau, gã Tygelinux đang rắc tro lên chiếc bàn bày đầy những món ăn đắt tiền, Vitelius đang ngốn những món ăn ấy, bao nhiêu cận thần nữa đang ngồi trong tiệc. Còn chính chàng đang nằm bên cạnh Ligia, nhưng giữa các bàn là lũ sư tử đang dạo bước, máu đang chảy ròng ròng từ những chiếc mõm màu vàng hoe của chúng. Ligia cầu xin chàng hãy đưa nàng ra ngoài, nhưng chàng không thể nhích nổi chân tay. Rồi những giấc mơ của chàng là một sự hỗn độn khốn cùng và rốt cuộc tất cả chìm trong một bóng đen dày đặc.
                            Chàng tỉnh khỏi giấc ngủ say sưa khi cái nóng của mặt trời và những tiếng kêu vang lên ngay cạnh chỗ chàng ngồi đánh thức chàng. Vinixius dụi mắt, đường phố đông đặc những người là người, hai kẻ dẹp đường, mặc áo tunica màu vàng, vừa dùng chiếc sào dài gạt xô đám đông vừa kêu lên dẹp đường cho một chiếc kieeun tuyệt đẹp do bên tên nô lệ người Ai Cập lực lường khiêng đi.
                            Trong kiệu có một người nào đó mặc ào dài màu trắng đang ngồi, không trông rõ mặt người ấy vì y đang giữ một cuốn giấy chỉ thảo ngay trước sát gần mắt chăm chú đang đọc.
                            - Dẹp chỗ cho ngài cần thần tôn quý! - Bọn dẹp đường thét lên.
                            Nhưng đường phố đang đông chật người khiến chiếc kiệu phải dựng lại một lát. Khi ấy vị cận thần nóng ruột buông cuộn giấy xuống, nhô đầu ra ngoài gọi:
                            - Đuổi ngay bọn khốn kia đi cho ta! Mau!
                            Đột nhiên, nhận ra Vinixius, y thụt đầu vào và đưa vội cuộn giấy lên che mắt.
                            Vinixius đưa tay lên trán, ngỡ như chàng vẫn đang nằm mơ.
                            Trong kiệu, lão Khilon đang ngồi.
                            Lúc ấy bọn dẹp đường đã dẹp xong và những người Ai Cập sắp tiến lên, đột nhiên chàng hộ dân quan trẻ tuổi, người chỉ trong giây lát đã hiểu ra được nhiều điều trước kia chàng không sao hiểu nối, tiến đến sát chiếc kiệu.
                            - Xin chúc sức khỏe ngài Khilon! - Chàng nói.
                            - Hỡi chàng trai trẻ! - Lão Hy Lạp đáp với vẻ trịnh trọng và tự hào, cố tạo ra nét bình thản, điều mà trong lòng lão không có nổi - Xin Chào, nhưng chớ có giữ ta lại bởi ta đang vội đi gặp bạn ta ngài Tygelinux cao quý.
                            Vinixius nắm lấy mép kiệu, cúi lại phía lão, nhìn thẳng vào mặt lão, hạ giọng nói:
                            - Có phải chính ngươi đã bán rẻ Ligia?
                            - Hỡi người khổng lồ của Menmon! - Lão Khilon kinh hoàng kêu lên.
                            Nhưng trong mắt Vinixius không có anh đe dọa nên cơn sợ hãi của lão già Hy Lạp nhanh chóng qua đi. Lão nghĩ rằng lão được sự che chở của Tygelinux và của chính hoàng đế, những thế lực mà tất thảy mọi người đều phải run sợ và lão đang được những nô lệ tráng kiện vây quanh, còn Vinixius đứng trước lão, không một tấc sắt, với nét mặt hốc hác và dáng người còng xuống vì đau đớn.
                            Nghĩ thế, sự táo tợn quay trở lại với lão. Trừng đôi mắt có đường viền đỏ quạnh nhìn Vinixius, lão thì thào đáp lại:
                            - Còn ngươi, khi ta đang chết đói, chính ngươi đã ra lệnh đánh đòn ta.
                            Một giây lâu, cả hai cùng nín lặng, rồi giọng trầm đục của Vinixius cất lên:
                            - Tôi đã xúc phạm đến lão, Khilon à!...
                            Lão Hy Lạp bèn ngẩng cao đầu và đập ngón tay vào nhau, động tác mà ở La Mã là dấu hiệu của sự xem thường và khinh miệt, rồi lão cao giọng đáp cho mọi người đều nghe thấy:
                            - Anh bạn này, nếu như anh có điều gì khẩn cầu ta, hãy tới nhà ta trên đồi Exquilin vào buổi sáng, vào giờ đó sau khi ta tắm ta sẽ tiếp khách và khách hàng.
                            Rồi lão gật đầu ra hiệu cho bọn Ai Cập nhấc chiếc kiệu lên, đám nô lệ mặc áo tunica màu vàng lại bắt đầu vừa gào lên vừa vung vẩy chiếc roi dài:
                            - Tránh đường cho kiệu ngài Khilon Khiloniđex cao quý! Dẹp đường! Dẹp đường!...
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #59
                              T2 - Chương 55

                              Ligia vĩnh biệt Vinixius trong một bức thư dài viết vội. Nàng được biết rằng không ai được vào nhà ngục nữa và nàng chỉ còn có thể được trông thấy Vinixius khi lên đấu trường. Do vậy, nàng xin chàng hãy có mặt ở đấu trường, vì trước khi chết nàng còn muốn được trông thấy chàng một lần nữa. Trong thư của nàng không hề thấy sợ hãi. Nàng viết rằng nàng cũng như những người khác mong ngóng được ra đấu trường, bởi lẽ tại đó họ sẽ được giải phóng khỏi kiếp ngục tù. Đoán rằng ông bà Aulux và Pomponia sẽ về, nàng cầu xin cả ông bà cũng đến dự. Trong từng lời lẽ của nàng đều thấy có niềm hứng khởi và sự tách ly khỏi đời sống mà tất cả các tù nhân đang sống, đồng thời thấy cả lòng tin không lay chuyển, rằng những lời được hứa sẽ thành hiện thực bên kia nấm mồ. “Hoặc Chúa Crixtux (nàng viết) giải phóng cho em bây giờ, hoặc sẽ giải thoát cho em sau khi chết, nhưng qua miệng đức Sứ Đồ, Người đã hứa ban em cho chàng, vậy thì em là của chàng”. Và nàng khẩn cầu chàng đừng tiếc nàng và đừng để cho nỗi đau khổ chế ngự. Cái chết đối với nàng không phải là sự gián đoạn những lời thề nguyền. Với lòng tin của trẻ thơ, nàng cam đoan với Vinixius rằng, ngay sau khổ hình và đấu trường, àng sẽ thưa cùng Chúa Crixtux rằng ở Roma đang còn vị hôn phu của nàng, Chàng Marek, người nhớ thương nàng bằng cả tấm lòng. Và nàng nghĩ rằng có thể Chúa Crixtux sẽ cho phép linh hồn nàng quay về với chàng một lúc để báo chàng hay rằng nàng vẫn đang sống, nàng không còn nhớ gì đến những cực hình và nàng vô cùng sung sướng. Cả bức thư của nàng tràn đầy một niềm hạnh phúc và một hy vọng to lớn. Trong đó duy nhất chỉ có một điều liên quan với những chuyện trần thế: Nàng yêu cầu Vinixius đưa xác nàng từ sporliatam(1) về và chôn nàng như vợ của chàng trong nhà mộ, nơi mà một khi nào đó chàng cũng sẽ yên nghỉ.
                              Chàng đọc bức thư ấy, lòng tan nát, song chàng vẫn thấy không thể nào Ligia lại chịu chết trong nanh thú dữ mà không được Đức Chúa đoái thương. Chính trong đó tiềm ẩn niềm hy vọng và lòng tin. Quay trở về nhà, chàng viết trả lời rằng hàng ngày chàng sẽ đến đứng chờ bên tường nhà ngục Tulianum cho tới khi nào Đức Chúa Crixtux phá tan những bức tường để trả nàng về với chàng. Chàng khuyên nàng hãy tin vào Chúa, rằng ngay trong hý trường. Người cũng vẫn có thể trả nàng về, rằng chính Đại Sứ Đồ đã cầu xin Chúa điều ấy và giờ phút giải phóng đã gần kề. Viên Xenturion đã được cải hóa sẽ mang cho nàng bức thư này vào sáng mai.
                              Nhưng ngày hôm sau, khi Vinixius đến nhà ngục, viên gác trưởng rời hàng ngũ tiến lại gần chàng và nói:
                              - Xin ngài hãy lắng nghe tôi. Đức Chúa Crixtux mà ngài hẵng tin đã ban ân huệ mà Người dành cho ngài. Đêm qua các nô lệ giải phóng của hoàng đế và ngài tổng quản tới đây để chọn các tỉnh nữ Thiên Chúa giáo cho họ làm nhục, chúng hỏi đến người ngào yêu mến, nhưng Đức Chúa đã gửi đến cho nàng một cơn sốt nóng, bệnh sốt đã khiến cho các tù nhân bị chết tại ngục Tulianum và thế là chúng không muốn bắt nàng đi nữa. Chiều hôm qua nàng đã bất tỉnh, cầu cho được sáng danh Đấng Cứu Thế, vì cơn bệnh đã cứu nàng thoát điều nhục nhã cungx có thể sẽ cứu nàng thoát chết.
                              Vinixius tỳ tay len vai người lính để khỏi bị ngã, anh ta nói tiếp:
                              - Ngài hãy tạ ơn Chúa. Bọn chúng đã lôi ông Linux đi chịu tội nhưng thấy ông ấy sắp chết, chúng lại trả ông về. Cũng có thể bây giờ chúng sẽ trả nàng cho ngài và Chúa Crixtux sẽ lại cho nàng sức khỏe.
                              Chàng hộ dân quan trẻ tuổi đứng hồi lâu, cúi đầu, rồi sau chàng ngẩng lên và bảo:
                              - Phải rồi, hỡi gác trưởng! Chúa Crixtux, Người đã cứu nàng thoát điều nhục nhã sẽ giải thoát nàng cả cái chết.
                              Rồi chàng ngồi bên tường nhà ngục cho đến tận chiều, sau đó chàng trở về nhà, phái người đi đón ông Linux và ra lệnh mang ông về một trong các biệt thự của chàng ở ngoại thành.
                              Biết những chuyện ấy, ông Petronius quyết định hành động tiếp tục. Lần trước ông đã đến gặp hoàng hậu, lần này ông lại tới tìm ả một lần nữa. Ông gặp ả đang ở bên giường cậu bé Rufiux. Cậu bé bị vỡ đầu đang mê sảng trong cơn sốt, còn người mẹ thì cứu chữa cho con với nỗi tuyệt vọng và lo sợ trong lòng khi nghĩ rằng, nếu như cứu được nó đi chăng nữa thì, có thể chỉ là để chẳng bao lâu nữa nó sẽ bị chết thảm thương hơn mà thôi.
                              Bận bịu với nỗi đau của riêng mình, thậm chí ả không thèm nghe nói tới Vinixius và Ligia, nhưng ông Petronius đe ả: “Thế là người đã xúc phạm đến một vị thần mới rồi đấy” - Ông bảo ả - Thưa hoàng hậu, người hình như thờ Đức Jehova của người Do Thái, mà các tín đồ Thiên Chúa giáo thì bảo rằng Crixtux là con đẻ của ông ta. Vậy xin ngươi hãy nghĩ xem cơn giận của người cha kia có trút lên người hay chăng? Biết đâu điều vừa xảy ra lại chẳng phải là sự trả thù của họ va mạng sống của Rufiux lại chẳng lệ thuộc vào hành động của người.
                              - Thế ông muốn ta phải làm gì? - Poppea hoảng sợ hỏi.
                              - Tạ lỗi vị thần chưa biết ấy.
                              - Bằng cách nào?
                              - Ligia đang ốm. Hãy tác động đến hoàng đế hoặc Tygelinux để trả cô ta cho Vinixius.
                              Ả hỏi một cách tuyệt vọng:
                              - Ông nghĩ là ta có thể làm việc ấy ư?
                              - Vậy người có thể làm việc khác. Nếu như Ligia khỏe lại, cô ta sẽ phải chết. Người hãy đến đền thờ Vexta và đòi Virgo Magna(2) phải làm như tình cờ có mặt gần ngục Tulianum vào lúc người ta bắt đầu đưa tù nhân ra chịu chết và phải ra lệnh giải phóng cô gái ấy. Đại ni cô đồng trinh sẽ không từ chối người việc ấy đâu.
                              - Còn nếu Ligia chết vì sốt nóng thì sao?
                              - Tín đồ Thiên Chúa nói rằng Đức Chúa Crixtux hay báo thù nhưng lại rất công mình. Người có thể cầu xin ông ta tha thứ bằng chính sự thành tâm của mình.
                              - Chỉ cần ông ta cho ta thấy một dấu hiệu gì chứng tỏ nhất định ông ta cứu được Rufiux.
                              Ông Petronius nhún vai:
                              - Tôi đến đâu phải là sứ giả của ông ta, hỡi thiên hậu, tôi chỉ khuyên người rằng: Tốt hơn cả là nên sống hòa thuận với tất cả các vị thần La Mã cũng như ngoại đạo.
                              - Ta sẽ đi! - Poppea nói với giọng bị khuất phục.
                              Ông Petronius thở một hơi thật dài.
                              “Rốt cuộc mình cũng đạt được chút gì!” - Ông nghĩ thầm. Rồi quay về với Vinixius, ông bảo chàng:
                              - Anh hãy cầu xin Đức Chúa của anh đừng để cho Ligia bị chết vì cơn sốt, vì nếu nàng không chết thì đại ni cô đồng trinh sẽ ra lệnh phóng thích nàng. Chính hoàng hậu sẽ yêu cầu cô ta làm việc ấy.
                              Vinixius nhìn ông với cặp mắt long lanh và trả lời:
                              - Nàng sẽ được Chúa Crixtux giải thoát.
                              Còn Poppea, kẻ sẵn dàng thiêu lễ vật tế hiến tất cả các vị thần linh trên thế giới để cứu sống Rufiux, ngay chiều hôm đó lên Forum, đến gặp các ni cô đồng trinh, giao đứa trẻ ốm lại cho bà nhũ mẫu trung thành là Xynvia, người trước kia đã từng bú mớm chỉnh ả.
                              Nhưng bản án dành cho đứa bé đã được ban ra tại Palatyn. Kiệu của hoàng hậy vừa khuất sau Đại môn, thì liền có hai nô lệ giải phóng của hoàng đế tiến vào buồng cậu bé Rufiux đang nằm, một người lao tới bị miệng bà Xynvia, người kia tóm ngay pho tượng Xfinkx bằng đồng giáng cho bà một cái.
                              Rồi chúng tiến lại gần Rufiux. Đứa bé đang mê và bị cơn sốt dày vò không hề biết chuyện gì đang xẩy ra bên mình, nó nhoẻn cười cới chúng và hấp háy đôi mắt tuyệt đẹp dường như cố nhận ra chúng. Song chúng đã lột chiếc thắt lưng được gọi là cinggulum của người nhũ mẫu, choàng quay quanh cổ thằng bé và xiết lại. Đứa bé chỉ kịp gọi mẹ mỗi một lần rồi chết ngay. Sau đó, chúng quấn thằng bé vào khăn trải giường, nhảy lên lưng con ngựa đang chực sẵn, phóng vội đến tận Oxtia, nơi chúng quăng cái thây xuống biển.
                              Khong gặp được đại ni cô đồng trinh bởi nàng cũng các ni cô đồng trinh khác đang ở chỗ Vatinius. Poppea vội quay trở về Palatyn. Trông thấy cái giường trống không và cái xác đã lạnh giá của Xynvia, ả ngất xỉu, sau khi được người ta cứu hồi lại, ả bắt đầu kêu thét, những tiếng kêu la hoang dại của ả vang lên suốt đếm ấy và cả ngày hôm sau.
                              Song đến ngày thứ ba, hoàng đế ra lệnh cho ả phải tới dự tiệc, ả bèn mặc chiếc áo tunica màu ngọc tím tới dự, ngồi với bộ mắt đá, tóc vàng hoe, câm lặng, tuyệt đẹp và dữ dội như thần chết.
                              Chú thích:
                              (1) Latinh: Nhà chứa xác chết trong đấu trường.
                              (2) Latinh: Đại ni cô đồng trinh
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #60
                                T2 - Chương 56

                                Trước khi Flavius dựng lên Koloseum, các nhà hát ở Roma được xây dựng phần lớn bằng gỗ, vì vậy gần như tất cả đều bị cháy trụi trong thời gian hoả hoạn. Để tổ chức những hội thi như đã hứa, Nerô lại ra lệnh dựng lên vài nhà hát mới, trong đó có một nhà hát khổng lồ mà ngay sau khi lửa tắt, người ta bắt đầu chở theo đường biển và đường sông Tyber những cây gỗ to tướng chặt trên những sườn núi Atlax để xây dựng. Vì các hội thi này phải vượt xa tất cả các hội thi trước kia về sự tuyệt vời cũng như số lượng vật hi sinh, người ta làm thêm nhiều phòng rộng để chứa người và thú. Hàng nghìn thợ làm ngày làm đêm trên công trường xây dựng. Người ta xây dựng và trang trí không một phút ngơi tay. Dân chúng kể cho nhau nghe những chuyện phi thường về những chỗ tựa được khảm đồng, hổ phách, ngà voi, ngọc trai và vẩy đồi mồi. Dọc theo những ghế ngồi là các mương dẫn nước lạnh giá từ trên núi về để duy trì cái mới mẻ, dễ chịu bên trong nhà, ngay cả khi thời tiết nóng nực nhất. Một tấm velarium màu tía khổng lồ che những tia nắng mặt trời. Giữa các hàng ghế ngồi, người ta bố trí các lò xông hương để đốt các loại hương liệu Ả Rập. Trên trần, người ta đặt các dụng cụ để vẩy nước hoa mã tiên thảo và kỵ phù lam cho người xem. Xeverux và Xeder, những nhà xây dựng lừng danh, đã mang tất cả tài nghệ của mình dựng lên một nhà hát không gì sánh nổi, có thể chứa được một số người hâm mộ mà chưa một nhà hát nổi danh nào từ xưa tới nay từng chứa nổi.
                                Cũng vì vậy, trong ngày khai mạc ludus matutinus, đám tiện dân chờ từ rạng sáng đợi người ta mở cổng, khoái chí lắng nghe tiếng rống của lũ sư tử, tiếng gầm của hùm beo và tiếng hú của chó. Đã hai ngày nay, người ta không cho bọn thú dữ ăn, mà chỉ kéo qua trước mặt chúng những miếng thịt đẫm máu để càng khiến cho chúng thêm điên cuồng và đói khát. Chốc chốc, một cơn bão những tiếng gầm rú man dã ấy lại khiến cho những người đứng trước hý trường không sao nói chuyện nổi với nhau, còn những kẻ nhát gan thì tái người vì sợ. Nhưng đúng lúc mặt trời lên, trong các gian phụ của hý trường bắt đầu vang lên tiếng hát lảnh lót, nhưng bình thản: người ta lắng nghe tiếng hát ấy với vẻ kinh ngạc, nhắc đi nhắc lại với nhau: “Bọn Thiên chúa! Bọn Thiên chúa đấy!”. Quả thực nhiều toán tín đồ đông đảo đã bị đưa tới nhà hát ngay từ lúc còn đêm, không phải chỉ từ một nhà ngục như ý định ban đầu mà từ tất cả các nhà ngục, mỗi nơi một ít. Đám đông biết rằng hội thi sẽ kéo dài hàng tuần hàng tháng, nhưng họ cãi nhau xem với phần tín đồ Thiên chúa dự liệu cho ngày hôm nay, liệu có thể kết thúc trong vòng một ngày hay chăng. Những giọng đàn ông, đàn bà, trẻ con đang hát bài thánh ca buổi sáng nghe đông đến nỗi những kẻ hiểu biết cấm đoán rằng dù mỗi lần có mang ra một hay hai trăm người đi chăng nữa lũ thú dữ cũng sẽ mệt, no nê tới chiều và không thể nào cắn xé tất cả. Những người khác lại khẳng định rằng, nếu số người đã bị đưa ra đấu trường quá nhiều một lúc thì sẽ khiến cho sự chú ý bị phân tán và không cho phép thưởng thức đầy đủ các cảnh tượng. Càng dần tới giờ phút mở các hành lang dẫn vào bên trong - được gọi là vomitor - dân chúng càng sôi động, vui vẻ, càng cãi nhau hăng về hàng nghìn thứ liên quan tới cảnh tượng sẽ được trông thấy. Người ta bắt đầu chia thành các phe phái, cho rằng sư tử hoặc hổ thành thạo hơn trong việc cắn xé con người. Đôi chỗ người ta đánh cuộc với nhau. Những người khác thì lại bàn cãi về các đấu sĩ sẽ biểu diễn trên đấu trường trước người Thiên chúa, và lại hình thành các phe phái ủng hộ bọn Xamnit, bọn Gan, bọn Mirmilon, bọn Trak hoặc bọn lưới thủ. Sáng sớm nay, những toán đấu thủ các loại, nhiều hay ít, dưới sự chỉ huy của các võ sư được gọi là lanista, đã kéo tới nhà hát. Không muốn mệt nhọc trước giờ vào cuộc, bọn họ đi không vũ khí, thường khi hoàn toàn trần truồng, cầm trong tay những cành lá xanh hoặc những vòng hoa, trẻ trung, xinh đẹp trong ánh bình minh, và tràn dâng sức sống. Thân thể họ bóng nhoáng dầu ô liu, to lớn, dường như được làm bằng đá cẩm thạch, khiến đám dân chúng quen thưởng thức những đường nét của con người trầm trồ thán phục. Nhiều kẻ trong bọn họ được người ta biết tên, và chốc chốc lại vang lên những tiếng gọi: “Xin chào Furniux! Chào Leo! Chào Makxymux! Xin chào Điomeđex” Các thiếu nữ trẻ ngước những đôi mắt chan chứa tình yêu nhìn họ, còn họ cố tìm xem nàng nào xinh đẹp nhất và đùa cợt đáp lại, dường như không hề vướng bận nỗi lo lắng nào, họ gửi những chiếc hôn gió hoặc gọi to: “Hãy ôm nhau đi nào, trước khi cái chết ôm lấy ta!”. Rồi họ biến mất vào sau cổng, cánh cổng mà bao kẻ vĩnh viễn không bao giờ còn được bước ra. Mỗi lúc càng nhiều những đám diễu hành, khiến đám đông phải chú ý. Theo sau các đấu sĩ là đám đốc chiến, được gọi là mastygofor, đó là những người được vũ trang bằng roi dài, có nhiệm vụ đốc thúc vầ cổ vũ những người đang đấu nhau. Sau đó, lũ la kéo về phía spolarium hàng dẫy xe, trên chở hàng chồng quan tài bằng gỗ. Nhìn thấy cảnh ấy dân chúng sung sướng lắm, họ căn cứ vào đó để tính tầm cỡ của hội vui. Phía sau kéo đi một dẫy những kẻ có trách nhiệm giết chết hẳn những người bị thương, họ ăn vận giống như lão già Kharon hoặc thần Merkury, tiếp đến là những người giữ trật tự trong hý trường, xếp chỗ ngồi; theo sau là các nô lệ mang thức ăn cùng nước giải khát, và cuối cùng là đám cấm vệ mà mỗi Hoàng đế bao giờ cũng phải có sẵn để trù bị trong các hý trường.
                                Sau cùng, người ta cũng mở cổng và đám đông lao vào trong nhà. Nhưng dân chúng tụ tập đông đến nỗi dòng người cứ chẩy mãi, chẩy mãi vào trong mất hàng tiếng đồng hồ chưa hết, đến nỗi người ta ngạc nhiên sao nhà hát lại có thể chứa được nhiều người đến thế. Ngửi thấy hơi người tiếng gầm rống của dã thú lại càng vang động. Trong khi chiếm chỗ ngồi, dân chúng ồn ào như những làn sóng trong cơn bão tố.
                                Sau rốt, ngài đô trưởng thành phố đến, trong đám virgin vây quanh, kéo theo sau là một dẫy dài vô tận những chiếc kiệu của các vị nguyên lão nghị viện, chấp chính quan, pháp quan, quan thị chính, các chức dịch nhà nước và chức dịch cung đình, các võ quan chỉ huy lính cấm vệ, đám quý tộc và những phụ nữ quyền quý. Một số kiệu có những tên liktor cầm rìu bó trong những bó chổi đi trước, những kiệu khác lại có một đám nô lệ dẫn đầu. Lấp lánh trong ánh mặt trời những chỗ dát vàng của các kiệu, những tà áo trắng và áo dài loè loẹt, những chùm lông, những vòng tai, đồ trang sức, lưỡi thép của những chiếc rìu chiến. Từ trong hý trường vang ra tiếng reo hò mà chúng dân dùng để chào đón các vị quan chức cao cấp. Thỉnh thoảng lại có những toán quân cấm vệ kéo tới thêm
                                Các tăng lữ của đủ mọi thứ thần miếu đến chậm hơn một ít, sau họ, người ta kiệu theo các trinh nữ thiêng liêng của nữ thần Vexta có đám liktor đi trước. Để khai mạc hội thi, người ta chỉ còn chờ mỗi mình Hoàng đế, Người không muốn dân chúng phải chờ đợi quá lâu, đồng thời lại muốn dùng sự vội vã của mình để thu phục thêm lòng dân, nên Người tới ngay, có Hoàng hậu và các cận thần tuỳ tùng.
                                Ông Petronius ở giữa đám cận thần, trong kiệu của ông là chàng Vinixius. Chàng biết rằng Ligia đang ốm và đang mê man, nhưng những ngày gần đây việc ra vào nhà ngục được canh phòng vô cùng nghiêm mật, bởi lẽ đám gác ngục cũ đã bị thay thế bằng một bọn mới, bọn này không được trò chuyện với lính canh cũng như không được trao đổi tin tức gì với những người đến thăm hỏi tù nhân, do vậy chàng không biết chắc liệu nàng có mặt trong đám nạn nhân được phân bổ cho ngày đầu tiên hay không. Đối với lũ sư tử, người ta có thể ném cả người ốm, thậm chí người đang bất tỉnh kia mà. Nhưng vì lẽ các nạn nhân bị khâu vào trong các tấm da thú và được đẩy hàng loạt ra đấu trường nên không một khán giả nào có thể kiểm tra xem có thêm hay bớt đi một kẻ nào trong đám nạn nhân ấy, và không ai có thể nhận ra ai. Đám gác và toàn bộ những người phục dịch trong nhà hát đều đã bị mua chuộc, chàng cũng đã ngoặc được với bọn canh thú dữ: chúng sẽ giấu Ligia vào một góc tối tăm nào đó của nhà hát và đến đêm sẽ giao cho một người làm thuê của Vinixius, người này sẽ đưa ngay nàng vào dãy núi Anban. Được cho biết điều bí mật ấy, ông Petronius khuyên Vinixius đi cùng ông tới nhà hát một cách công khai, sau khi lọt qua cửa, chàng sẽ len lẫn vào đám đông và tìm đến gian hầm ngầm, nơi chàng sẽ đích thân chỉ Ligia cho bọn gác, để tránh trường hợp nhầm lẫn.
                                Bọn gác để chàng lọt qua những cánh cửa nhỏ chỉ có chúng được qua lại. Một tên trong bọn, tên là Xyrux, dẫn ngay chàng tới gặp những người Thiên chúa giáo. Dọc đường, y nói:
                                - Thưa ngài, không rõ ngài có tìm thấy người cần tìm không. Chúng tôi đã hỏi dò về cô gái mang tên Ligia nhưng chẳng một ai trả lời chúng tôi, có thể bọn họ không tin chúng tôi chăng?
                                - Họ có đông không? - Vinixius hỏi.
                                - Thưa ngài, nhiều người sẽ phải chờ đến mai.
                                - Trong bọn họ có người nào ốm không?
                                - Không có kẻ nào tự động đi được.
                                Nói đoạn, Xyrux mở một cánh cửa và họ cùng bước vào một gian phòng rộng lớn, nhưng thấp lè tè và tối tăm, bởi lẽ ánh sáng chỉ lọt vào đây qua những cái lỗ có chấn song ngăn cách với đấu trường. Thoạt tiên, Vinixius không thể nhận ra vật gì, chàng chỉ nghe trong phòng ồn ào giọng nói và tiếng kêu la của dân chúng vang từ nhà hát vào. Nhưng chỉ lát sau, khi mắt đã quen với bóng tối, chàng trông thấy một đám đông hình hài kỳ lạ, giống chó sói và gấu. Đó chính là các tín đồ Thiên chúa bị khâu vào da thú. Một số người trong bọn họ đang đứng, số khác đang quỳ và cầu nguyện. Đây đó, những làn tóc chẩy dài trên bộ lông thú, có thể đoán được rằng nạn nhân này là phụ nữ. Những bà mẹ, trông giống những con sói cái, bế trên tay những đứa trẻ cũng bị khâu vào da thú. Nhưng từ dưới bộ da lộ ra những khuôn mặt trong sáng, trong bóng tối mắt chúng ánh lên niềm vui và cơn sốt. Rõ ràng phần đông đám người này đều có chung một ý nghĩ, biệt lập và thiên giới, khiến họ ngay khi còn sống đã không còn cảm thấy những gì đang xẩy ra chung quanh, những gì có thể sẽ đến với họ. Một vài người được Vinixius hỏi về Ligia nhìn chàng với đôi mắt dường như vừa tỉnh cơn mơ, không hề đáp lại câu hỏi; những người khác mỉm cười với chàng, đặt tay lên môi hoặc trỏ vào những gióng cửa sắt, qua đó những chùm ánh sáng lọt vào. Chỉ lũ trẻ cất tiếng khóc đây đó, chúng sợ tiếng gầm rống của dã thú, tiếng hú gào của lũ chó, tiếng huyên náo của dân chúng và những hình hài giống như thú dữ của chính cha mẹ chúng. Đi bên người gác Xyrux, Vinixius nhìn vào từng khuôn mặt, tìm kiếm, hỏi thăm, chốc chốc chàng lại vấp phải thân mình những người bị ngất đi trong đám đông chật chội, trong hơi người và cái nóng, chàng len vào góc tối của căn phòng rộng như cả một nhà hát.
                                Đột nhiên chàng đứng sững lại vì chàng nghe như cạnh chấn song có tiếng ai quen quen đang gọi chàng. Nghe ngóng hồi lâu, chàng len qua đám đông, nhích về phía tiếng gọi. Luồng ánh sáng rọi và đầu người đang nói, và trong ánh sáng ấy Vinixius nhận ra khuôn mặt gầy gò, không khoan nhượng của ông Kryxpux dưới một tấm da gấu.
                                - Các người hãy than khóc cho tội lỗi của mình, - ông Kryxpux nói, - vì giờ phút đã đến đây rồi. Nhưng những kẻ nào nghĩ rằng bằng cái chết có thể chuộc lại lỗi lầm, kẻ đó lại phạm thêm lỗi mới, và sẽ bị đẩy vào ngọn lửa vĩnh hằng. Mỗi một tội lỗi của các ngươi phạm phải khi sống đều khiến Chúa phải chịu cực hình một lần nữa, vậy sao các ngươi lại dám nghĩ rằng khổ hình đang chờ các ngươi có thể chuộc được? Ngày hôm nay, người chân chính và kẻ có tội cùng chết một cái chết giống nhau, nhưng Đức Chúa sẽ chọn ra những người của Chúa. Đáng thương thay cho các ngươi, vì mặc dù răng nanh lũ sư tử sẽ xé nát thân xác các ngươi, nhưng không xé nổi những lỗi lầm của các ngươi, cùng sự thanh toán với Chúa. Chúa đã tỏ ra quá đỗi nhân từ khi để cho mình bị đóng đinh lên thánh giá, nhưng từ đây Người sẽ chỉ là quan toà, không bỏ qua một lỗi lầm nào không có hình phạt. Vậy, những kẻ nào nghĩ rằng bằng khổ hình các người có thể xoá mờ đi những tội lỗi của mình, thì chính các ngươi đã dám khinh nhờn chống lại công lý của Chúa Trời, và vì thế các ngươi lại càng đắm mình hơn nữa. Lòng nhân từ đã chấm dứt, đã tới hồi thịnh nộ của Chúa. Chỉ lát nữa đây thôi, các ngươi sẽ đứng trước toà phán khủng khiếp mà chỉ có những người vô cùng đức hạnh may ra mới có thể trụ nổi. Các ngươi hãy than khóc đi cho những tội lỗi của các ngươi, vì vực thẳm của địa ngục đang há hoác ra kia; thảm thương thay cho các ngươi, những chồng và vợ, thảm thương thay cho các ngươi, những cha mẹ và con cái!
                                Và cái bàn tay xương xẩu của ông giơ cao, rung rung trên những mái đầu đang cúi gục của họ, không run sợ nhưng cũng không hề khoan nhượng ngay cả trước cái chết mà chỉ lát nữa đây thôi tất cả các tội nhân đều phải đón nhận. Sau những lời ông nói dậy lên nhiều tiếng kêu: “Chúng con tiếc cho những tội lỗi của chúng con” rồi im lặng bao trùm, chỉ còn nghe tiếng khóc trẻ thơ và tiếng đấm tay vào ngực. Vinixius cảm thấy như máu thôi chảy trong huyết quản. Là người đặt cả lòng tin vào sự nhân từ của Chúa Crixtux, giờ đây chàng lại nghe nói rằng ngày giận dữ đã đến rồi và ngay cả cái chết trên đấu trường cũng không thể cầu xin nổi lòng nhân từ. Trong đầu óc chàng thoáng qua ý nghĩ cũng nhanh và sáng rực như ánh chớp, rằng đức Sứ đồ Piotr chắc sẽ nói cách khác với những người phải chết kia. Tuy nhiên những lời đe doạ cuồng tín của ông Kryxpux, cái gian phòng tối tăm sau song sắt kia, trong lúc bên ngoài là mảnh đất khổ hình, sự tiếp xúc gần gũi với những khổ hình cùng đám đông đầy nghẹt những nạn nhân mà cái chết đã lựa chọn khiến lòng chàng tràn đầy hãi hùng và kinh sợ. Tất cả những thứ ấy gộp lại đối với chàng thật kinh khủng, trăm lần kinh khủng hơn những trận chiến đấu đẫm máu nhất mà chàng đã từng tham dự. Hơi người và cái nồng nực bắt đầu khiến chàng ngộp thở. Mồ hôi lạnh vã đầy trán chàng. Chàng sợ sẽ bị ngất đi như những thây người mà chàng vấp phải khi tìm vào sâu trong phòng, nên vừa chợt nghĩ rằng cửa song sắt có thể mở ra vào bất cứ lúc nào, chàng lên tiếng gọi to Ligia và bác Urxux, với hy vọng nếu không họ thì cũng có ai đó biết họ trả lời chàng.
                                Quả thực, ngay tức khắc có một người khoác da gấu kéo áo toga của chàng và nói:
                                - Thưa ngài, họ vẫn còn trong ngục. Tôi là người cuối cùng bị dẫn ra, tôi vẫn nhìn thấy nàng đang ốm nằm trên giường.
                                - Ông là ai? - Vinixius hỏi.
                                - Thợ đá, tại nhà tôi đức Sứ đồ đã rửa tội cho ngài đó, thưa ngài. Chúng đã bắt tôi ba ngày nay, và hôm nay tôi sẽ chết.
                                Vinixius thở dài. Bước chân vào đây, chàng cầu mong tìm thấy Ligia, nhưng lúc này chàng sẵn sàng cảm ơn Chúa Crixtux là nàng không có ở đây, và chỉ nguyên điều đó cũng đủ cho chàng thấy lòng nhân từ của Người.
                                Người thợ đá kéo áo toga của chàng một lần nữa và nói:
                                - Thưa ngài, ngài có nhớ rằng chính tôi đã đưa ngài tới trại nho của ông Kornelius, nơi đức Sứ đồ rao giảng trong căn lều gỗ hay chăng?
                                - Ta nhớ. - Vinixius đáp
                                - Sau đó tôi còn được gặp Người một lần vào hôm trước ngày chúng bắt tôi. Người ban phước cho tôi và bảo rằng Người sẽ đến nhà hát để từ biệt những người chịu chết. Tôi muốn lúc chết được trông thấy Người và dấu thánh giá, khi ấy tôi sẽ dễ dàng hơn. Vậy nêu ngài biết Người đang ở đâu, xin ngài hãy nói lại với Người điều ấy.
                                Vinixius hạ giọng đáp:
                                - Người đang ở trong đám người nhà của ngài Petronius, đóng giả làm nô lệ. Ta không rõ Người chọn chỗ nào, nhưng ta sẽ quay lại hý trường và sẽ tìm. Ngươi hãy nhìn ta khi bước ra đấu trường, ta sẽ nhổm dậy và nhìn vào chỗ họ. Khi ấy ngươi sẽ thấy được Người.
                                - Xin cảm ơn ngài và bằng an được cùng ngài!
                                - Cầu Đấng Cứu thế nhân từ đối với ngươi!
                                - Amen!
                                Vinixius bước ra khỏi phòng và lần ra nhà hát, nơi chàng đã có chỗ ngồi cạnh ông Petronius, trong đám cận thần.
                                - Có chứ? - ông Petronius hỏi chàng.
                                - Không có. Nàng ở lại trong nhà ngục.
                                - Này, cậu vừa nẩy ra một ý nữa. Nhưng vừa nghe cậu nói vừa nhìn Nigiđia để chúng tưởng ta đang trò chuyện về cách chải tóc của ả nhé… Tygelinux và Khilon đang nhìn chúng ta kia kìa… Anh nghe nhé: ban đêm bảo họ cho Ligia vào quan tài, khiêng ra khỏi ngục như người chết, phần còn lại anh nghĩ nốt xem.
                                - Vâng. - Vinixius đáp.
                                Câu chuyện bị gián đoạn bởi Tulius Xenexio, y nghiêng người sang phía họ, hỏi:
                                - Các vị có biết liệu người ta có cấp vũ khí cho bọn Thiên chúa không nhỉ?
                                - Không rõ. - ông Petronius đáp.
                                - Tôi muốn cứ cấp cho bọn chúng - Tulius nói, - nếu không đấu trường sẽ nhanh chóng biến thành nơi giống như phản hàng thịt. Song cái nhà hát mới tuyệt vời làm sao chứ!
                                Quả thực, cảnh trí thật tuyệt vời. Những hàng ghế phía dưới, đầy những áo toga, trắng như tuyết. Hoàng đế ngồi trên một chiếc bục dát vàng, mang chuỗi hạt kim cương quanh cổ, với vòng hoa bằng vàng trên đầu, bên cạnh ngài là Auguxta, tuyệt đẹp và u sầu; hai bên là các ni cô đồng trinh, các quan chức lớn, các nguyên lão mặc những chiếc áo khoác có viền, các võ quan trong những bộ giáp phục, nói tóm lại, tất thẩy những gì là hùng mạnh, tuyệt vời và giàu có của La Mã đều tập trung ở đây. Các vị hiệp sĩ ngồi ở những hàng ghế xa hơn, còn trên nữa, đen kịt một biển những đầu người, nhô lên những chiếc cột treo những tràng hoa bện bằng hoa hồng, huệ, xaxauka, dây thường xuân và dây nho.
                                Dân chúng trò chuyện ầm ĩ, gọi nhau, ca hát, chốc chốc lại nổ ra một tràng cười đáp lại một lời hài hước nào đó mà người ta gửi cho nhau từ dãy này sang dãy khác, họ dậm chân vì nóng ruột mong mau mau biểu diễn.
                                Rốt cuộc tiếng chân dẫm trở thành mạnh như tiếng sấm rền và không dứt. Khi ấy, viên đô trưởng, trước đó đã cùng một đoàn tuỳ tùng sang trọng diễu một vòng quanh đấu trường, giơ khăn tay ra hiệu, cả nhà hát đáp lại bằng một tiếng: “Aaa…” đồng thanh bật ra từ hàng nghìn lồng ngực.
                                Thông thường cuộc diễn mở đầu bằng cảnh săn bắt một loài dã thú nào đó do các cư dân dã man phía bắc và phía nam đảm nhiệm; nhưng lần này thú vật quá nhiều, nên người ta bắt đầu bằng các andabat, tức là những người đội những chiếc mũ sắt không có lỗ khoét cho mắt, và do vậy họ giết nhau như một lũ mù. Mươi tên ra đấu trường cùng lúc, bắt đầu vung kiếm trong không khí. Đám đốc chiến dùng những chiếc đòn chĩa dài đẩy họ lại gần nhau để có thể gặp nhau. Những khán giả sang trọng nhìn cảnh tượng này một cách khinh bỉ và không chút hứng thú, nhưng dân chúng khoái chí trước những động tác vụng về của các kiếm sĩ; những khi tình cờ họ va lưng vào nhau, dân chúng lại cười ồ lên kêu thét: “Sang phải!”, “Sang trái!”, “Tiến thẳng!”, và thường cố ý đánh lừa các đấu thủ. Tuy nhiên, vài đôi vẫn bám được nhau và cuộc đấu bắt đầu đẫm máu. Các đấu thủ hăng máu hơn ném khiên đi, đưa tay trái cho nhau nắm để không bị lạc mất nhau, còn tay phải đánh nhau sống chết. Kẻ nào ngã xuống lại giơ những ngón tay lên trời xin tha mạng, nhưng vào đầu hội đấu khán giả thường đòi giết chết những kẻ bị thương, nhất là đối với các andabat, vì bọn này bị bịt kín mặt nên họ không rõ là ai. Dần dần, số người đấu giảm đi trông thấy, rốt cuộc chỉ còn lại có hai, họ lao thẳng vào nhau mạnh đến nỗi khi gặp nhau cả hai cùng lăn ra cát và cùng đâm chết nhau. Khi ấy, giữa những tiếng kêu “Gục rồi!”(1), đám phục dịch dọn đi các xác chết, còn bọn tiểu đồng hót những vũng máu trên đấu trường, rồi dùng những túm lá kỵ phù xoá chúng đi.
                                Bây giờ sẽ đến lượt một trận đấu quan trọng hơn, làm thích thú không chỉ đám tiện dân mà ngay cả những người sang trọng. Trong cuộc đấu ấy các cậu công tử quý tộc nhiều khi đánh cuộc rất to, nạo nhau sạch túi mới thôi. Người ta truyền nhau những chiếc bảng nhỏ ghi tên các đấu sĩ mà họ ưa chuộng, đồng thời với số xexterxi và mỗi người đặt cuộc cho người mình chọn. Các spectali - tức các đấu sĩ - thường xuất hiện trên đấu trường và đã từng giành chiến thắng có nhiều người hâm mộ hơn cả, song trong đám đặt cược cũng có những kẻ đặt những số tiền khổng lồ cho các đấu sĩ mới và hoàn toàn chưa có chút danh tiếng gì, với hi vọng rằng, một khi họ thắng cuộc, những người này sẽ thu được một món lợi khổng lồ. Ngay cả Hoàng đế, các tăng lữ, các ni cô đồng trinh, các nguyên lão nghị viện và các hiệp sĩ cũng đánh cuộc như dân chúng. Đám tiện dân khi bị thiếu tiền, thường dùng ngay sự tự do của bản thân để đặt cược. Do vậy, người ta hồi hộp, thậm chí lo sợ chờ đợi sự xuất hiện của các kiếm sĩ và nhiều người lớn tiếng cầu các vị thần, xin họ phù hộ cho những người mình ưa chuộng.
                                Khi tiếng kèn đồng inh tai vang lên, cả nhà hát lặng im chờ đợi. Hàng nghìn cặp mắt đổ dồn vào cái chốt cửa khổng lồ, có một người mặc giả làm Kharon(2) đang tiến lại gần và trong sự yên lặng toàn thể, y dùng búa gõ ba lần vào đó, dường như gọi những người đang náu phía sau cánh cửa ra chịu chết. Hai cánh cửa từ từ mở, để lộ một vực thẳm đen ngòm, từ trong đó các đấu sĩ lần lượt tản ra khắp đấu trường sáng sủa. Họ đi thành từng toán hai mươi lăm người, người Trak riêng, người Mirmilon riêng, người Xamnit riêng, người Gan riêng, tất cả đều võ trang nặng trịch, và cuối cùng là đám retiarii một tay cầm lưới, một tay cầm đinh ba. Nhìn thấy họ, những tiếng vỗ tay vang lên đây đó trong các hàng ghế ngồi, chúng nhanh chóng biến thành một cơn bão rầm rập và kéo dài. Từ trên xuống dưới chỉ thấy những bộ mặt đỏ ửng, những bàn tay vỗ, những cái miệng há hốc bật ra những tiếng kêu. Các đấu sĩ đi vòng quanh đấu trường với nhịp bước đều đặn và rắn chắc, trang bị và các thứ vũ khí đắt tiền lấp lánh, rồi họ đứng dừng lại trước bục ngồi của Hoàng đế, đầy tự hào, bình thản và tuyệt vời. Một tiếng tù và vang động át cả tiếng vỗ tay, các đấu sĩ giơ cánh tay phải lên trời, mắt hướng về Hoàng đế, kêu to lên, hay nói đúng hơn là hát bằng một giọng kéo dài:
                                Ave, caesar imperator!
                                Morituri te salutant!(3)
                                Rồi họ nhanh chóng tản ra chiếm lấy những vị trí khác nhau ở rìa đấu trường. Họ sẽ đánh nhau từng toán, nhưng trước tiên, người ta cho phép những kiếm sĩ lừng danh đấu với nhau một số trận tay đôi, trong đó họ có thể chứng tỏ rõ rệt nhất sức mạnh, sự khéo léo và lòng can đảm trước các đối thủ. Cho nên trong số những người Gan tách ra một đấu thủ rất nổi tiếng đối với những người hâm mộ nhà hát dưới biệt danh “Đồ tể” (Lanio), người đã thắng trong nhiều hội đấu. Trong chiếc mũ trụ khổng lồ đội trên đầu, trong bộ giáp phục che đằng trước và đằng sau bộ ngực đồ sộ của chàng, dưới ánh sáng trên nền cát vàng của đấu trường, nom chàng y hệt như một con bọ sừng khổng lồ bóng nhoáng. Viên retiarius tên là Kalenđio, kẻ cũng không kém phần nổi tiếng, tiến ra đứng đối diện với chàng.
                                Trong đám khán giả người ta bắt đầu đặt cược.
                                - Năm trăm xexterxi cho tên Gan!
                                - Năm trăm cho Kalenđio!
                                - Thề có Herkulex! Một nghìn!
                                - Hai nghìn đấy!
                                Trong khi ấy chàng Gan bước vào giữa đấu trường rồi bắt đầu lùi lại chĩa gươm và hạ thấp đầu, qua khe hở trong vành mũ sắt, chàng chăm chú nhìn vào đối thủ, còn chàng retiarius, hoàn toàn trần truồng trừ một dải bịt ngang bộ hạ, người nhẹ nhõm, với những đường nét đẹp như tượng, cứ vòng vòng quanh địch thủ, hoa hoa chiếc lưới một cách duyên dáng, chĩa ngọn đinh ba xuống hoặc nâng nó lên trời, và hát vang bài ca thông dụng của những tay “lưới thủ”:
                                Tao không muốn bắt mày, tao đi tìm cá
                                Sao mày lại chạy trốn, hở thằng Gan!(4)
                                Nhưng chàng xứ Gan không chạy trốn, vì lát sau chàng đứng lại tại chỗ, chỉ quay người chút ít để lúc nào địch thủ cũng ở trước mặt. Trong dáng dấp chàng và trong cái đầu to một cách kỳ dị giờ đây có cái gì đó thật đáng sợ. Khán giả hiểu rõ rằng cái thân hình nặng nề bọc đồng kia đang chuẩn bị bất ngờ lao tới để có thể phân thắng bại của trận đấu. Trong khi đó, chàng cầm lưới lúc thì sáp vào, lúc thì nhẩy lùi ra, sử dụng chiếc đinh ba linh hoạt đến nỗi mắt người khó lòng theo dõi kịp. Tiếng răng đinh ba đập vào khiên vang lên đã mấy lần, chàng xứ Gan vẫn không hề chao đảo, chứng tỏ chàng có sức lực thật gớm ghê. Toàn bộ sự chú ý của chàng hình như không tập trung vào chiếc lưới đang quay tròn trên đầu chàng như một con chim hung tợn. Khán giả nín thở theo dõi trò chơi bậc thầy của các đấu sĩ. Rốt cuộc, chọn được thời cơ thích hợp, Lanio lao vào địch thủ, nhưng nhanh như cắt, chàng kia đã tránh được lưỡi gươm và cánh tay đang vung lên, đứng thẳng người dậy và bủa lưới.
                                Chàng xứ Gan quay người tại chỗ, đưa khiên đỡ lưới, rồi cả hai cùng nhẩy lùi. Nhà hát vang ầm lên tiếng hò reo: “Macte!”(5) và ở những hàng ghế thấp người ta bắt đầu đánh cuộc lại. Ngay cả Hoàng đế, đầu tiên mải trò chuyện với ni cô đồng trinh Rubria và cho tới lúc này không thật để mắt đến đấu trường, giờ đây cũng quay mặt lại nhìn trường đấu.
                                Còn hai đấu sĩ vẫn tiếp tục chiến đấu thành thạo và chính xác trong từng động tác, đến nỗi nhiều khi dường như họ không quan tâm đến sự sống và cái chết, chỉ cố gắng biểu diễn sự khéo léo của mình mà thôi. Lanio, đã hai lần thoát khỏi lưới, lại bắt đầu lùi ra mép võ đài một lần nữa. Khi ấy, những kẻ đặt cược chống lại chàng không muốn chàng được nghỉ ngơi, liền kêu lên: “Đâm đi!”. Chàng xứ Gan nghe lời và đâm một nhát. Vai của chàng lưới thủ bỗng toé máu, chiếc lưới rũ xuống. Lanio co người nhẩy tới định đâm cho địch thủ đòn cuối cùng. Nhưng đúng vào lúc ấy, Kalenđio, người chỉ vờ như không làm chủ được chiếc lưới nữa, đột ngột ngả người sang bên tránh cú đâm và xỉa đinh ba vào giữa đầu gối địch thủ, quật ngã địch thủ xuống đất.
                                Chàng Gan định đứng dậy, nhưng chỉ trong nháy mắt chàng đã bị bọc trong những sợi dây tai ác mà mỗi cử động lại khiến chân tay chàng bị quấn chặt hơn. Trong khi đó chiếc đinh ba liên tiếp ghìm chàng xuống đất. Cố hết sức lần cuối, chàng chống tay nhổm lên định đứng dậy, nhưng quá muộn rồi! Chàng đưa cánh tay đã đuối sức không còn cầm nổi thanh gươm lên đầu rồi ngã ngửa ra. Kalenđio dùng đinh ba chẹn cổ chàng xuống đất, rồi ghì cả hai tay ghìm cán, chàng quay nhìn về phía Hoàng đế ngồi.
                                Cả hý trường rung động bởi những tràng vỗ tay và tiếng hò reo. Đối với những người đã đặt cược cho Kalenđio, lúc này chàng còn vĩ đại hơn cả Hoàng đế, song cũng chính vì thế mà họ hết cay cú chống lại Lanio, người bằng máu của mình đã khiến họ được đầy túi. Do vậy, nguyện vọng của dân chúng chia thành hai phe. Trên các hàng ghế ngồi, một nửa ra hiệu đòi giết chết, còn một nửa xin tha thứ, song người lưới thủ chỉ nhìn vào lô của Hoàng đế và các ni cô đồng trinh, chờ điều họ phán xét.
                                Không may, Nerô không thích Lanio, vì trong mấy hội đấu gần đây, được tổ chức trước hoả tai, ngài đã đặt cược chống lại chàng, song ngài bị thua Lixynus một số tiền đáng kể, ngài bèn chìa tay ra và quay chúc ngón cái xuống đất.
                                Các ni cô đồng trinh cũng làm theo ngài ngay tức khắc. Kalenđio bèn quỳ xuống ngực chàng Gan, rút chiếc dao ngắn đeo ở thắt lưng, hé bộ giáp phục gần cổ địch thủ, đâm lưỡi dao hình tam giác vào họng chàng Gan, ngập đến tận cán.
                                - -Peractum est(6)! - tiếng người vang động trong nhà hát.
                                Lanio còn rùng mình một lát nữa như con trâu bị đâm, chân đạp tung cát, rồi chàng ưỡn thẳng người và bất động.
                                Người mặc giả thần Merkury không cần dùng sắt nung đỏ để thử xem chàng còn sống hay không. Chàng được dọn đi ngay và tiếp đến những đôi mới, sau cùng mới sôi động trận chiến đấu của cả toán. Dân chúng tham gia vào trận đấu bằng cả tâm hồn, trái tim và đôi mắt: họ rú, họ gào, họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ cười sằng sặc, họ cổ vũ những người tham chiến, họ điên lên. Trên đấu trường, hai toán đấu sĩ được phân chia đánh nhau với sự điên cuồng của dã thú: ngực đập vào ngực, những thân mình bện chặt vào nhau trong một cơn ghì gớm ghê, chân tay kêu răng rắc, những lưỡi kiếm ngập sâu trong ngực và trong bụng người, những cái mình xám ngoét ốc máu ra mặt cát. Mươi chàng đấu sĩ non nớt, cuối hiệp đấu sợ hãi quá đến nỗi, đến nỗi vùng ra khỏi đám hỗn chiến tìm cách chạy trốn, nhưng bọn đốc chiến dùng những chiếc roi dài bịt chì đuổi họ trở lại cuộc chiến. Trên mặt cát hình thành những đám màu thẫm to tướng; mỗi lúc thêm nhiều những thân hình trần truồng hoặc có giáp phục nằm ngổn ngang thành đống. Những kẻ còn sống chiến đấu trên thây những người đã chết. Họ đánh nhau bằng vũ khí, nện nhau bằng khiên, làm đổ máu những đôi chân giáp phục tả tơi, rồi ngã gục. Dân chúng không thể ngồi yên chỗ vì vui sướng, say mê thưởng thức cái chết, hít thở nó, nhìn nó đến no mắt và khoái chí hít vào buồng phổi hơi thở của nó.
                                Rốt cuộc hầu như tất cả những kẻ bị chinh phục đều gục ngã. Chỉ còn vài người bị thương quỳ ở giữa đấu trường, chìa tay hướng về khán giả xin tha chết. Người ta phát phần thưởng cho những người chiến thắng, những vòng lá, những vòng cành ô liu, và tiếp đến là giờ giải lao mà theo lệnh của vị Hoàng đế bá chủ được biến thành một bữa tiệc. Người ta đốt hương liệu trong các bình. Đám vẩy nước thơm hiến cho dân chúng những cơn mưa nước kỵ phù lam và đồng thảo. Người ta mang ra phân phát nước mát, thịt nướng, bánh ngọt, rượu nho, quả ô liu và các loại quả khác. Dân chúng nhai ngấu nghiến, trò chuyện và gào lên ca tụng Hoàng đế, để bằng cách ấy vòi Người phải hào phóng hơn nữa. Và khi người ta đã thoả mãn cơn đói khát, hàng trăm nô lệ khiêng ra những sọt đầy quà tặng, còn các tiểu đồng mặc giả thần ái tình lấy từ đó đủ thứ vật dụng khác nhau và dùng cả hai tay ném tung vào giữa các dẫy ghế. Vào lúc người ta phát vé xổ số diễn ra một trận ẩu đả thực sự: dân chúng chen lấn, ngã lên nhau, kẻ nọ dẫm lên người kia, kêu la cầu cứu, nhảy vọt qua những hàng ghế ngồi và đè nhau ngạt thở trong đám đông hỗn loạn kinh khủng, bởi vì ai vớ được con số may mắn có thể trúng cả một ngôi nhà có vườn, một nô lệ, bộ quần áo sang trọng hoặc những con thú hiếm mà sau đó họ lại bán cho các nhà hát. Vì lẽ nảy sinh một cảnh hỗn loạn đến nỗi nhiều lần bọn cấm vệ phải lập lại trật tự, và sau mỗi lần ban phát, người ta lại mang ngay ra khỏi phòng khán giả những người bị gẫy tay, gẫy chân hoặc bị dẫm chết trong đám đông.
                                Những kẻ giàu hơn không tham gia cuộc tranh cướp vé. Trong khi đó, đám cận thần đang thích thú với lão Khilon và chế giễu những nỗ lực vô vọng của lão cố chứng tỏ cho mọi người thấy lão cũng có thể nhìn cuộc chiến đấu và cảnh đổ máu như những người khác. Lão già Hi Lạp bất hạnh hoài công nhíu mày, cắn môi và nắm chặt tay đến nỗi những chiếc móng đâm sâu vào lòng bàn tay. Cả bản chất Hi Lạp lẫn sự hèn nhát của lão không chịu đựng nổi những cảnh tượng thế kia. Mặt lão tái nhợt, trán tháo mồ hôi hột, môi tím ngắt, mắt hõm vào, răng bắt đầu đánh lập cập, thân mình run cả lên. Sau khi cuộc đấu kết thúc, lão định thần phần nào, nhưng một khi người ta dùng lưỡi chế giễu lão, lão bỗng nổi cơn giận dữ bất ngờ và đáp trả một cách tuyệt vọng:
                                - -Này, lão Hi Lạp. Lão không chịu nổi cảnh người ta bị sầy da! - Vatynius vừa nói vừa kéo bộ râu cằm của lão.
                                Lão Khilon nhe hai chiếc răng vàng khè cuối cùng của lão đáp lại:
                                - -Cha ta không phải thằng thợ giầy, nên ta không biết cách vá da.
                                - -Macte! Habet - vài giọng kêu lên.
                                Nhưng những người khác tiếp tục giễu:
                                - -Đâu phải lỗi của lão, một khi thay vì trái tim, trong ngực lão lại là một mẩu phomat! - Xenexio kêu lên.
                                - -Ngươi cũng không có lỗi khi thay vì cái đầu ngươi lại là một cái bong bóng rỗng tuếch. - Khilon trả miếng.
                                - -Lão có thể trở thành một đấu sĩ được đấy! Nhìn lão cầm lưới vung trên võ đài thì tuyệt!
                                - -Giá ta dùng lưới tóm được ngươi, ta sẽ chỉ được một cái đít thối hoẵng.
                                - -Thế còn với bọn Thiên chúa giáo thì sao? - Fertux xứ Liguria hỏi. - Lão có muốn thành chó để cắn xé bọn chúng không?
                                - -Ta không muốn thành anh ngươi đâu.
                                - -Mày là thằng hủi mắt cừu!
                                - -Mày là đồ lừa Liguria!
                                - -Chắc là da mày đang ngứa, nhưng chớ có dại xin tao gãi hộ cho nhé!
                                - -Mày gãi cho mày ấy, nếu mày gãi phải mụn ghẻ, mày sẽ diệt mất cái tốt đẹp nhất của mày đấy!
                                Cứ thế, người ta tấn công lão, còn lão đánh trả một cách quyết liệt giữa tiếng cười của mọi người. Hoàng đế vỗ tay, lặp đi lặp lại “Macte” và ngài cổ vũ thêm. Song lát sau ông Petronius tiến lại gần, dùng chiếc gậy nhỏ khảm ngà voi chạm vào vai lão già Hi Lạp và lạnh lùng bảo:
                                - Hay lắm, hỡi nhà triết học, nhưng ngươi chỉ lầm mỗi một điều thôi: các thần linh tạo ra ngươi là một thằng ăn cắp, thế mà ngươi lại thành quỷ ác, và vì thế ngươi sẽ không chịu đựng nổi đâu!
                                Lão già dương đôi mắt đỏ quạch nhìn ông, lần này lão không tìm được một lời thoá mạ nào cả. Lão im lặng giây lâu, rồi đáp lại như với một sự cố sức nào đó:
                                - -Ta sẽ chịu được!…
                                Nhưng lúc này kèn báo hiệu giờ giải lao đã chấm dứt. Người ta bắt đầu rời khỏi các ngăn đã tụ tập đến để trò chuyện và cho đỡ chồn chân. Lại bắt đầu cảnh nhộn nhạo chung và những cuộc cãi cọ thường tình nhằm chiếm lại cái ghế mà mình đã ngồi từ trước. Các vị nguyên lão và quý tộc đi về chỗ của mình. Tiếng ồn ào lắng dần, nhà hát trật tự trở lại. Trên đấu trường xuất hiện một đám người để hót đi những chỗ cát còn đọng máu đây đó.
                                Đã đến lượt những người Thiên chúa giáo. Nhưng đối với dân chúng, đấy là một cảnh tượng mới, và không một ai biết sẽ phải cư xử ra sao, mọi người đều chờ đợi họ với một nỗi tò mò. Không khí chung của đám đông là tập trung chú ý, vì người ta chờ những cảnh tượng phi thường, nhưng thù địch. Chính những người sắp xuất hiện giờ đây là những kẻ đã đốt cháy Roma cùng những kho của vĩnh hằng của thành đô. Bọn chúng chính là những kẻ sống bằng máu hài nhi, những kẻ đánh thuốc độc nước uống, những kẻ rủa nguyền toàn thể loài người và sẵn sàng phạm những tội ác gớm ghê nhất. Không có hình phạt nào dù hà khắc đến đâu thoả mãn nổi lòng căm thù bị kích động và nếu như có nỗi lo ngại nào bóp chặt trái tim, thì chỉ là cho rằng những cực hình không xứng với những kẻ tội nhân dữ tợn này.
                                Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh sáng của nó chiếu qua tấm che trần mầu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập tràn màu máu. Cát nhuốm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, trên những khuôn mặt người cũng như trong cái trống trải của bãi đấu trường mà chỉ lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của con người và sự điên cuồng của dã thú, chợt có cái gì thật kinh khủng. Ngỡ như trong không khí có sự đe doạ và cái chết đang lơ lửng. Đám đông dân chúng thường khi vẫn vui nhộn, giờ đây, dưới tác động của chí căm thù, lại im lặng. Những bộ mặt lộ vẻ quyết liệt.
                                Viên đô trưởng ra hiệu: khi ấy liền xuất hiện lão già mặc giả Kharon đã gọi các đấu sĩ đi chịu chết, lão khoan thai bước ngang qua đấu trường, và giữa không khí im phắc như tờ, lão lại dùng búa gõ ba lần vào cánh cửa.
                                Toàn nhà hát vang lên tiếng rì rầm:
                                - -Bọn Thiên chúa! Bọn Thiên chúa!
                                Những song sắt rít lên trong những cái hốc tối tăm, vang lên những tiếng kêu thường nhật của bọn đốc chiến: “Đi ra mặt cát!” và chỉ trong một thoáng, võ đài đã đầy một đám người trông như những hình nộm khoác da thú. Tất cả đều chạy nhanh, hơi nóng nẩy, và đến giữa vòng tròn họ quỳ xuống bên nhau, tay vươn cả lên. Dân chúng cho rằng đó là lời cầu khẩn lòng thương hại, họ bực mình với sự hèn nhát ấy và bắt đầu dẫm mạnh chân, huýt sáo, ném những bình rượu nho đã rỗng, những khúc xương đã gặm sạch và rống lên: “Thú dữ! Thả thú dữ ra đi!”… Nhưng đột nhiên xảy ra một điều hoàn toàn không ngờ. Đó là giữa đám người ma quái kia chợt cất lên những giọng hát, và ngay phút ấy vang rền bài ca mà lần đầu tiên người ta được nghe trong các hý trường La Mã:
                                Christus regnat!(7)
                                Nỗi kinh ngạc bao trùm xuống dân chúng. Những tội nhân ca hát với đôi mắt ngước nhìn lên tấm che trần, người ta nhìn thấy những bộ mặt nhợt nhạt nhưng dường như tràn đầy cảm xúc. Mọi người đều hiểu ra rằng những con người này không khẩn cầu tình thương hại, dường như họ không trông thấy cả hý trường, cả dân chúng, cả nguyên lão viện lẫn Hoàng đế. “Christus regnat” vang lên mỗi lúc một to hơn, và trong những hàng ghế mãi tít phía trên gần tới nóc kia, những hàng người xem không phải chỉ một người tự đặt cho mình câu hỏi: cái gì vậy nhỉ, là ai thế cái ông Crixtux, người trị vì trên môi những người sẽ phải chết kia? Nhưng lúc ấy người ta đã lại mở ra những gióng cửa sắt mới nữa và cả một đàn chó tràn ra đấu trường với một đà phóng điên dại và tiếng sủa man dã: những con chó khổng lồ màu hoe vàng xứ Peloponeđơ, những con chó vện xứ Perene và những con chó kunđen giống sói xứ Hibernia, bị cố tình bỏ đói, với hai bên sườn hóp vào và những đôi mắt ngầu máu. Tiếng hú và tiếng sủa tràn ngập cả nhà hát. Sau khi kết thúc bài thánh ca, những người Thiên chúa giáo quỳ bất động, dường như đã hoá đá, chỉ lắp đi lắp lại như một dàn đồng ca rên xiết: “Pro Christo! Pro Christo!”. Lũ chó tuy cảm thấy có người trong những bộ da thú, nhưng ngạc nhiên vì sự bất động của họ, không dám lao vào họ ngay lập tức. Một số con trèo lên tường lô như muốn tới chỗ khán giả, một số con khác chạy vòng quanh, sủa inh ỏi như đang đuổi theo một con thú vô hình nào đó. Dân chúng bực mình. Hàng nghìn giọng người kêu lên, một số khán giả giả tiếng rống của súc vật, kẻ khác sủa ông ổng như chó, bọn khác nữa xuỵt chó bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ. Nhà hát ồn ào đủ mọi loại tiếng huyên náo. Lũ chó bị kích động bắt đầu lao vào những người đang quỳ gối, rồi lại lùi lại, nhe nanh; mãi đến khi một con chó khổng lồ bập răng vào cổ một người đàn bà đang quỳ ở hàng đầu và lôi đi.
                                Khi ấy hàng chục con lao ngay vào giữa như vượt qua lỗ thủng hàng rào. Đám đông ngừng kêu la để chăm chú nhìn. Trong tiếng chó rú và tiếng nhai rau ráu, còn nghe thấy những tiếng kêu thê thảm của đàn ông và đàn bà: “Pro Christo! Pro Christo!”, nhưng trên võ đài chỉ còn thấy một đống hỗn độn run rẩy những thân chó lẫn với thân người. Bây giờ máu phun ra như suối từ những thây người bị xé rách. Lũ chó giằng giật nhau từng cái chân tay người đẫm máu. Mùi máu và mùi ruột gan bị rách nát át hẳn những hương thơm Ả Rập, tràn ngập cả hý trường. Cuối cùng đây đó chỉ còn lại những hình người cô độc đang quỳ gối, rồi ngay tức khắc họ cũng bị một đám đông vừa hú hộc vừa di động trùm lên.
                                Vinixius, người đã đứng dậy vào lúc những tín đồ Thiên chúa chạy ra, và đúng như lời chàng hứa với người thợ đá, chàng quay người về phía ông Piotr đang ẩn trong đám người nhà ông Petronius, lúc này lại ngồi thụp xuống và ngồi lặng với nét mặt của một người đã chết đang giương cặp mắt thuỷ tinh không hồn nhìn cái cảnh tượng đẫm máu kia. Thoạt tiên, nỗi sợ hãi rằng người thợ đá có thể nhầm lẫn và Ligia đang ở trong đám nạn nhân kia khiến chàng mất hồn, nhưng khi chàng nghe những tiếng kêu: “Pro Christo!”, khi chàng nhìn thấy cực hình của ngần ấy nạn nhân đang chịu chết mà vẫn tuyên cáo chân lý và Đức Chúa của mình, lòng chàng tràn ngập một cảm giác khác hẳn, cũng nhói như một nỗi đau kinh khủng nhất, nhưng là một cảm giác không gạt bỏ nổi, rằng một khi Chúa Crixtux đã phải chết trong cực hình, một khi hàng nghìn con người đang chết theo Người đây kia, một khi hằng biển máu đã đổ ra, thì thêm một giọt nữa cũng chẳng nghĩa lý gì hết, và thật tội lỗi nếu cầu xin lòng từ thiện. Ý nghĩ ấy từ bãi đấu trường đến với chàng, xuyên thấu qua hồn chàng cùng với tiếng rên rỉ của những người đang hấp hối, cùng với mùi máu tươi của họ. Vậy mà chàng vẫn cầu nguyện và lắp bắp với đôi môi đã khô cong: “Hỡi Đức Chúa Crixtux, hỡi Chúa Crixtux, ngay cả vị Sứ đồ của Người cũng đang cầu nguyện cho nàng! ”. Rồi chàng mất tri giác, không còn nhớ gì nữa, chỉ cảm thấy rằng máu trên võ đài cứ nhiều lên, nhiều lên mãi, cao vồng lên, rồi chảy tràn từ hý trường ra toàn thành Roma. Chàng không nghe thấy gì hết, không nghe tiếng chó hú, không nghe tiếng người ồn ào, không nghe cả giọng của đám cận thần đột nhiên kêu to lên:
                                - -Lão Khilon xỉu rồi!
                                - -Khilon ngất rồi! - ông Petronius lặp lại và quay về phía lão già Hi Lạp.
                                Quả thực, lão đã ngất đi, lão ngồi đó, trắng nhợt như màu vải, đầu ngật về phía sau, mồm há hoác, trông giống hệt một thây ma.
                                Chính lúc ấy, người ta lại bắt đầu xô đẩy một đám nạn nhân mới, cũng bị khâu trong da thú, ra đấu trường.
                                Những người này cũng quỳ xuống ngay lập tức như những người trước, nhưng lũ chó mệt nhoài không còn muốn cắn xé họ nữa. Chỉ có vài con lao tới những người quỳ gần chúng nhất, những con khác nằm tại chỗ, ngước những cái mõm đẫm máu tươi lên trời, dũi dũi hai bên sườn và ngáp dài nặng nhọc.
                                Khi ấy, bồn chồn trong dạ, nhưng đã say máu người và điên cuồng lên, dân chúng bắt đầu gào lên bằng giọng kinh khủng:
                                - -Sư tử! Sư tử! Thả sư tử ra!…
                                Sư tử nhẽ ra được giữ lại cho những ngày sau, nhưng trong nhà hát dân chúng thường bắt tất cả mọi người, ngay cả Hoàng đế, phải tuân theo ý chí của họ. Chỉ mỗi mình Hoàng đế Kaligula táo tợn và hay thay đổi trong những cơn ham thích của y, là dám cưỡng lại, thậm chí có lần y ra lệnh dùng gậy nện vào dân chúng, nhưng thường khi y cũng vẫn chiều theo lòng dân. Nerô, kẻ mà tiếng vỗ tay hoan hô quý hơn tất cả mọi thứ trên đời, không khi nào cưỡng lại, nhất là lúc này đây, ngài càng không muốn chống đối, vì ngài đang mong vỗ về xoa dịu những đám dân chúng đang điên tiết sau vụ hoả hoạn và đang muốn trút tội gây ra thảm hoạ ấy cho những người Thiên chúa.
                                Ngài bèn ra hiệu cho người ta mở các gian hầm cuniculum. Thấy thế, dân chúng yên ngay tức khắc. Tiếng cửa sắt rít lên ken két, sau những song sắt đó là lũ sư tử. Nhìn thấy chúng, lũ chó dồn lại thành một đám phía bên kia vòng tròn, sủa khe khẽ, còn bọn sư tử nối nhau đi ra võ đài, to lớn, lông hoe vàng, với những cái đầu khổng lồ, lông lá xồm xoàm. Ngay cả Hoàng đế cũng quay bộ mặt chán chường của mình nhìn về phía chúng và ngài đưa viên bích ngọc lên mắt để nhìn rõ hơn. Các vị cận thần đón chào chúng bằng tiềng vỗ tay; đám đông dân chúng bấm đốt ngón tay tính số sư tử và thèm thuồng theo dõi những ấn tượng mà chúng gây ra đối với những người Thiên chúa giáo đang quỳ ở giữa vòng tròn, họ bắt đầu lặp lại những lời mà nhiều kẻ không hiểu nhưng khiến tất thẩy đều cáu bẳn: “Pro Christo! Pro Christo!”
                                Lũ sư tử tuy bị bỏ đói nhưng cũng không vội lao vào nạn nhân. Ánh đỏ chiếu trên đấu trường khiến chúng khó chịu, chúng nheo nheo mắt như bị chói, nhiều con lười nhác duỗi thân hình vàng hoe, những con khác ngoác mồm ngáp, dường như chúng muốn cho người xem thấy những chiếc răng nanh khủng khiếp của mình. Nhưng sau đó, mùi máu và những mảnh thây người rách tướp đang nằm ngổn ngang trên đấu trường bắt đầu tác động đến chúng. Những động tác của chúng liền trở nên nóng nảy, bờm chúng xù ra, mũi thèm thuồng hít hít không khí. Một con lao tới thây người đàn bà có cái mặt bị cào nát, quỳ hai chân trước đè lên xác chết, đưa chiếc lưỡi đầy gai lởm chởm liếm những giọt máu đông, con thứ hai tiến lại gần người đàn ông Thiên chúa giáo đang bế một đứa trẻ khâu trong da hươu non trên tay.
                                Đứa bé kêu khóc giãy dụa, cuống quít ôm chặt lấy cổ cha, người cha cố muốn kéo dài thêm dù chỉ giây lát thôi sự sống của con, cố giằng tay con ra khỏi cổ để đưa nó cho những người đang quỳ ở phía xa hơn. Nhưng tiếng kêu khóc và sự cử động đã kích thích con sư tử. Nó đột ngột gầm lên một tiếng cụt lủn, đứt đoạn, rồi vả một cái làm đứa bé dập nát và ngoạm đầu người cha vào cái hàm khủng khiếp của nó, cắn vỡ vụn trong một chớp mắt.
                                Nhìn thấy thế, tất cả những con khác liền lao vào đám người Thiên chúa giáo. Vài người phụ nữ không kìm nổi một tiếng kêu kinh hoàng, nhưng lại bị dân chúng át đi trong những tiếng vỗ tay hoan hô, rồi những tiếng vỗ tay cũng lặng đi, vì người ta muốn được nhìn ngắm cho thoả mắt. Người ta trông thấy những cảnh tượng thật kinh khủng: những cái đầu người biến mất hoàn toàn trong vực thẳm của hàm thú, những bộ ngực bị rạch dọc toang hoác bằng những nhát cào của những vuốt sắc, những trái tim buồng phổi bị dứt đứt; người ta nghe tiếng xương gẫy răng rắc trong những hàm răng. Có những con sư tử ngoạm vào sườn hoặc vào lưng nạn nhân nhảy những bước chồm chồm điên loạn lôi đi khắp đấu trường, như tìm một chỗ kín để có thể ăn thịt người. Những con khác, trong cuộc tranh giành mồi, chồm lên nhau, dùng chân ôm nhau như các đô vật và gầm vang nhà hát. Người ta đứng bật dậy. Nhiều người bỏ chỗ ngồi lần xuống những hàng ghế dưới thấp để nhìn cho rõ hơn, họ chen nhau đến chết bẹp. Tưởng như rốt cuộc cả cái đám đông đang háo hức kia sẽ lao ra đấu trường và bắt đầu cùng với lũ sư tử xé xác người. Chốc chốc lại vang lên những tiếng kêu la không còn giống tiếng người, chốc chốc lại có tiếng vỗ tay, chốc chốc lại tiếng gầm, tiếng rống, tiếng răng đập vào nhau côm cốp, tiếng hú của lũ chó, đôi khi chỉ nghe thấy những tiếng rên rỉ.
                                Giữ viên bích ngọc kề bên mắt, lúc này Hoàng đế đang chăm chú xem. Vẻ mặt ông Petronius toát lên sự tởm ghét và khinh bỉ. Lão Khilon đã được người ta khiêng ra khỏi hý trường từ trước.
                                Nhưng từ các hầm chứa người ta lại đẩy ra mỗi lúc thêm nhiều nạn nhân mới.
                                Sứ đồ Piotr nhìn xuống bọn họ từ hàng ghế cao nhất trong nhà hát. Không một ai nhìn ông, bởi lẽ tất cả những mái đầu đều đang nhìn xuống đấu trường, ông cứ đứng vậy, và giống như hồi nào trong trại nho của Kornelius ông ban phước trước cái chết và sự vĩnh hằng cho những người mà ông biết tên, giờ đây ông làm dấu thánh giá từ biệt những người đang hy sinh dưới nanh vuốt dã thú, máu của họ, những cực hình của họ, cùng linh hồn họ đang bay lên từ mặt cát sũng máu. Một số nạn nhân ngước mắt lên, nhìn ông, và khi ấy mặt họ rạng ngời, họ mỉm cười khi nhìn thấy trên đầu họ, tít mãi trên cao, dấu thánh giá. Còn ông đứng đó, với trái tim đau xé, thốt lên: “Hỡi Chúa! Xin ý Chúa được thực hiện, bởi đàn chiên con của tôi đang chết cho sự sáng danh của Người, để làm chứng cho chân lý! Chúa đã bảo tôi phải chăn dắt họ, vậy xin hiến Chúa, xin Người hãy đếm lấy, hãy đón lấy họ, hãy làm lành cho họ những vết thương, hãy làm dịu cho họ cơn đau, và hãy ban cho họ nhiều phước phận hơn những cực hình mà họ phải chịu nơi đây!”
                                Và cứ thế, ông từ biệt họ, người khác tiếp theo người khác, đám này tiếp đám khác, với tình yêu thương bao la như thể họ chính là con cái của ông mà ông trao thẳng vào tay Chúa Crixtux. Đúng lúc ấy, không hiểu vì nhớ lại hay vì muốn cho hội đấu này phải vượt xa tất thẩy những hội thi mà người ta được trông thấy ở Roma từ trước đến nay, Hoàng đế chợt thì thầm vài lời vào tai viên đô trưởng, y rời bục đi tức khắc vào hầm chứa. Và dân chúng chợt ngạc nhiên khi lại trông thấy những cánh cửa sắt mở ra lần nữa. bây giờ người ta thả ra đủ mọi loại thú dữ: hổ xứ Eufrat, báo xứ Numiđi, gấu, chó sói, linh cẩu lông vằn và lang núi. Cả đấu trường như bị bao trùm bởi một làn sóng sống động những bộ da vằn vện, vàng khè, hoe hoe bạc, đen sẫm, nâu nâu và lốm đốm. Hỗn loạn cả lên, khiến mắt người không thể phân biệt nổi cái gì, trừ một cuộc nhào lộn và chồng đống lên nhau những cái bờm dã thú. Cảnh tượng mất đi cái bề ngoài thực tại, để biến thành gần như một cuộc cuồng hoan của máu, một giấc mơ khủng khiếp, một cảnh tượng ma quái của đầu óc người điên. Quá mức rồi! Giữa những tiếng rống, tiếng gầm, tiếng sủa, từ trên các hàng ghế khán giả vang lên đây đó những tiếng cười sằng sặc điên loạn rợn người của phụ nữ, những kẻ không còn sức chịu đựng nữa. Người ta bắt đầu thấy sợ. Những bộ mặt nhăn nhúm. Nhiều giọng gào lên: “Đủ rồi! Quá đủ rồi”
                                Nhưng thú dữ thả thì dễ mà lùa vào thì khó. Tuy nhiên Hoàng đế cũng tìm ngay ra được cách khử chúng khỏi đấu trường, đồng thời cũng là một trò giải trí mới cho dân chúng. Giữa những hàng ghế ngồi trong tất cả các ông chợt xuất hiện những toán người Numiđi da đen, cài lông chim và đeo vòng tai, tay cầm cung. Dân chúng đoán được chuyện gì sẽ xẩy ra nên đón chào họ bằng một tràng hò la tán thưởng. Còn họ bắt đầu tiến lại gần bờ ngăn, đặt tên vào dây cung và bắn vào đám thú dữ. Quả thực, đó lại là một cảnh tượng mới. Những thân hình đen thui thon thả ngả người về phía sau, căng dây cung và bắn đi hết phát tên này đến phát tên khác. Tiếng dây bật và tiếng veo véo của những mũi tên lông vũ, hoà với tiếng rống của thú dữ và tiếng kêu thán phục của khán giả. Chó sói, gấu, hổ, báo và những người còn sống sót nằm sõng sượt cạnh nhau. Đây đó, một con sư tử cảm thấy tên cắm vào sườn, đột ngột quay phắt cái hàm nhăn nhúm lại vì điên giận để ngoạm lấy và cắn nát mũi tên. Những con thú khác rên rỉ vì đau đớn. Những loài thú nhỏ hoảng hốt chạy như mù quanh đấu trường đập đầu vào gióng sắt, trong lúc những mũi tên cứ réo lên vun vút, vun vút cho đến khi tất cả những gì còn sống đều phải nằm thẳng cẳng trong những cơn co giật dãy chết.
                                Khi ấy, hàng trăm nô lệ phục dịch nhà hát bèn túa ra đấu trường, mang theo mai, xẻng, chổi, cáng, sọt để đựng lòng ruột và những túm cát. Họ đua nhau tràn ra khắp vòng tròn đấu trường, ra sức làm việc. Chẳng mấy chốc người ta đã dọn sạch hết xác chết, máu và phân, đã sàng lọc, san bằng và xới lộn một lớp cát mới. Sau đó các thiên đồng rải những cánh hoa hồng, hoa huệ cùng đủ loại hoa khác. Người ta đốt những lò sông hương mới và cất bỏ tấm che trần vì mặt trời đã xuống thấp lắm rồi.
                                Đám đông nhìn nhau ngạc nhiên và hỏi nhau xem còn cảnh nào chờ đợi họ trong ngày hôm nay nữa hay chăng?
                                Và họ đã chờ đợi để xem một cảnh mà không một ai ngờ trước. Đó là Hoàng đế, ngài rời bục ngồi một thời gian, đột nhiên xuất hiện trên đấu trường rắc hoa, mặc một chiếc áo choàng màu đỏ thắm và đội vòng hoa vàng. Mười hai ca công với thi cầm trong tay xuất hiện sau lưng ngài, còn ngài, ôm chiếc đàn luýt bằng bạc, trang trọng bước từng bước ra chính giữa, cúi chào khán giả mấy lần, ngước mắt nhìn trời và cứ đứng lặng như thế một lúc như đợi chờ thi hứng.
                                Rồi người gẩy dây đàn và cất tiếng hát:
                                Hỡi người con rực rỡ của Leto
                                Chủ nhân xứ Kila, Khơryza,Teneđ
                                Chính Người vẫn là vị thần bảo trợ
                                Cho toà thành thiêng liêng của Ilion
                                Nỡ lòng nào Người ném nó cho cơn cuồng điên của người Akhip
                                Nỡ nào người đành lòng nhìn máu dân Tơroa
                                Bắn toé lên cả chiếc bàn thờ thiêng liêng
                                Nơi ngọn lửa thờ phụng Người hằng sáng
                                Đang chìa tay xin Người kia, những cánh tay run rẩy của cụ già
                                Hỡi vị thần có cây cung bạc
                                Gọi tên Người những giọng đầy nước mắt
                                Của mẹ hiền, từ sâu thẳm nỗi đớn đau
                                Van xin Người xót thương con trẻ
                                Lời than khóc kia khiến cả đá cũng mềm lòng
                                Mà Người vẫn trơ trơ hơn cả đá, hỡi Xmintei
                                Trước nỗi đau của con người!…
                                Bài ca chuyển dần thành một khúc bi thương tang tóc, chan chứa nỗi đau. Hý trường im lặng. Lát sau, chính Hoàng đế cũng xúc động, ngài cất tiếng hát tiếp:
                                Người có thể dùng tiếng nhạc của chiếc đàn forminga thần kỳ
                                Át đi lời than khóc của trái tim và tiếng kêu xé ruột
                                Khi đến hôm nay mắt kia còn ứa lệ,
                                Như giọt sương trên những đài hoa
                                Nghe thanh âm của bài hát thảm sầu này
                                Vẳng lên từ tro than và cát bụi
                                Của hoả hoạn, của tai ương, của ngày tuyệt diệt
                                - Hỡi Xmintei, người khi ấy ở nơi đâu?
                                Hát đến đây, giọng ngài run lên và mắt ngài nhoà lệ. Hàng mi của các ni cô đồng trinh long lanh nước mắt, dân chúng im lặng lắng nghe hồi lâu trước khi bùng lên cơn bão kéo dài không ngớt của những tiếng vỗ tay.
                                Trong khi đó, từ phía ngoài, qua những lối thông để ngỏ, gió đưa vào tiếng kẽo kẹt của những cỗ xe, trên đó người ta xếp lên những mảnh thây đẫm máu của các tín đồ Thiên chúa, đàn ông, đàn bà và trẻ con để chở tới những chiếc hố khủng khiếp được gọi là puticuli.
                                Còn ông Piotr đưa hai tay ôm ghì mái đầu bạc phơ run rẩy của mình và kêu thầm trong dạ:
                                “Chúa ơi! Chúa ơi! Người giao cho ai quyền sinh sát thế gian này? Phải chăng chính Người muốn dựng thủ đô của Người ở chính cái thành phố đây chăng?”
                                Chú thích:
                                (1) Peractum est! (Chú thích của tác giả)
                                (2) Kharon: người lái đò chở hồn qua sông Xtykx hoặc Akhêrôn ở cõi âm đến xứ sở Hadex.
                                (3) Kính chào, Hoàng đế quân vương.
                                (4) No te peto, piscem peto.
                                Quid me fug is, Galle (La tinh, chú thích của tác giả)
                                (5) La Tinh: Cao thủ.
                                (6) La Tinh: Gục rồi
                                (7) La Tinh: Đấng Crixtux ngự trị
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X