Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Quo Vadis - Henryk Sienkiewicz

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    T1 - Chương 15

    Petronius gửi Vinixius:
    “Qua tay một tên nô lệ tin cẩn, cậu gửi cho anh lá thư này từ Anxium và mặc dù tay anh vốn quen với thanh gươm và ngọn giáo hơn cây bút, cậu vẫn nghĩ rằng qua chính tên sứ giả này, anh sẽ viết thư trả lời cậu mà không quá lần chần.
    Để anh ở lại trên những dấu vết tốt lành và đầy hy vọng, cậu đồ chừng rằng, hoặc là anh đã được thỏa mãn những khát vọng ngọt ngào của mình trong vòng tay của nàng Ligia, hoặc là anh sẽ được thỏa mãn chúng trước khi ngọn gió đông thật sự tràn từ đỉnh Xorakte xuống vùng Kapania. Ôi, Vinixius của cậu! Cầu cho nữ thần vàng đảo Sip sẽ là người bảo trợ cho anh, còn anh hãy là vị thần linh của ngôi sao mai xứ Ligi, ngôi sao đang lẩn trốn vầng dương tình ái. Song hãy luôn nhớ rằng ngay cả thứ đá cẩm thạch quý giá nhất tự nó cũng chưa là gì cả, nó sẽ chỉ có được giá trị chân chính khi bàn tay người nghệ sĩ điêu khắc biến nó thành tuyệt phẩm. Hãy là một người nghệ sĩ điêu khắc như thế cháu thân yêu! Yêu không thôi chưa đủ còn cần phải biết yêu và phải biết dạy yêu thương nữa. Ngay cả loài rêu cỏ và loài vật cũng biết cảm nhận khoái lạc, nhưng con người chân chính khác với chúng chính là ở chỗ biết biến lạc thú thành một thứ nghệ thuật cao quý và vừa hưởng thụ nó vừa hiểu được điều đó, khắc họa được toàn bộ chân giá trị thiên giới của nó vào tư tưởng, qua đó không chỉ thân xác mà cả linh hồn cũng được thỏa mãn. Nhiều lần, ở nơi đây, khi nghĩ về sự trống rỗng, sự bấp bênh cùng nỗi ngán ngẩm của đời sống chúng ta, cậu chợt nhận ra rằng có thể chính anh đã có một sự lựa chọn đứng đắn hơn, rằng không phải cung đình Hoàng đế, mà chính chiến chinh và tình ái mới là hai thứ duy nhất đáng để cho người ta sinh ra và sống.
    Trong chiến tranh anh đã là người may mắn, vậy thì anh hãy là người may mắn cả trong ái tình, còn nếu anh muốn biết những chuyện gì đang diễn ra ở chốn cung đình Hoàng đế thì thỉnh thoảng cậu sẽ báo tin cho anh hay. Hiện nay chúng tôi đang ngồi ở Anxium và chăm chút cho cái giọng hát thiên thần của chúng tôi, tuy vậy lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy căm ghét Roma, còn mùa đông thì chúng tôi quyết định chuyển về Baiae để công diễn tại Neapolix nơi mà các cư dân vốn là người Hi Lạp sẽ biết cách đánh giá chúng tôi hơn là cái bộ lạc mọi rợ sinh sống dọc sông Tyber. Từ Baiae, từ Pompeo, từ Puteola, từ Cumae và từ Xtabia người ta sẽ đổ xô về, sẽ chẳng thiếu tiếng hoan hô và vòng hoa để tặng và nó sẽ là điều cổ vũ cho cuộc hành trình dự kiến tới Akhai.
    Thế còn nỗi nhớ thương Tiểu Auguxta ư? Vâng, chúng tôi vẫn đang khóc thương đấy chứ! Chúng tôi hát những bản thiều ca do chúng tôi tự sáng tác, du dương đến nỗi các nàng tiên cá vì quá ghen tức nên phải náu mình dưới những hang động sâu thẳm nhất của Amfiltrila. Ngược lại, hẳn là lũ cá đenfin có thể nghe thấy tiếng hát của chúng tôi, giá như tiếng ồn ào của biển cả không ngăn cản chúng. Nỗi đau đớn của chúng tôi cho tới nay vẫn chưa nguôi ngoai, nên chúng tôi phải thể hiện nó ra cho mọi người được thấy dưới mọi hình thức mà khoa điêu khắc mách bảo cho chúng tôi, song bao giờ chúng tôi cũng lăm lăm để ý xem liệu với nỗi đau đớn ấy chúng tôi có thể trở thành đẹp tuyệt vời hay chăng và liệu mọi người có nhận ra được vẻ đẹp ấy không. Ôi, cháu thân yêu! Bọn cậu thật như một lũ hề, một đám hài kịch vậy!
    Ở đây hiện có đủ mặt tất cả các quý ông, quý bà và cận thần, chưa kể tới năm trăm con lừa cái để cung cấp sữa cho nàng Poppea tắm táp, cùng mười nghìn kẻ hầu người hạ. Thỉnh thoảng cũng vui vẻ ra trò. Ả Kanvia Kryxpinilla thì đang già đi, người ta nói rằng ả ta xin Poppea cho phép ả được tắm tiếp sau hoàng hậu. Chàng Lukau thì nện vào mặt nàng Nigiađia vì ngờ cô nàng dan díu với một tay đấu sĩ. Xporux mất cả vợ vì thua mạt chược với Xenexion. Torkvatun Xilanux xin cậu đổi Eunixe để lấy bốn con ngựa màu hạt dẻ chắc chắn sẽ thắng trong hội đua năm nay. Cậu không thèm. Mà cậu cũng rất biết ơn anh đã không chịu nhận nàng. Còn nói về Torkvatux Xilanux thì tội nghiệp thân y, bởi thậm chí y cũng không nghĩ được ra rằng y đã là một cái bóng ma hơn là một con người. Số phận của y đã được phán quyết. Mà anh có biết y có tội gì không? Chỉ vì y là cháu nội đích tôn của hoàng đế Auguxt thần thánh đấy thôi. Không còn cách nào có thể cứu nổi y. Thế giới của chúng ta là thế đấy!
    Như anh biết đấy, chúng tôi đang chờ đợi Tyryđai tại đây, trong khi đó Vologezex lại viết tới một lá thư nhục mạ. Vì hắn đã đánh chiếm xong Acmenia, hắn yêu cấu phải để đất nước đó cho Tyryđai, vì nếu không thì hắn cũng chẳng trả kia mà. Thật là giễu cợt! Thế nên chúng tôi quyết định đánh nhau! Korbulon sẽ được ban quyền hành lớn như ngài Pompeius vĩ đại trong lúc đánh nhau với bọn hải tặc. Song cũng có một lúc Nerô đã ngần ngại: Hẳn là y sợ ánh vinh quang mà Korbulan sẽ giành được nếu ông chiến thắng. Thậm chí người ta đã cân nhắc xem có nên giao quyền tổng chỉ huy cho ông lão Aulux của chúng ta hay không nữa kia. Poppea thì chống lại vì cái đức hạnh của bà Pomponia cứ như muối xót trong mắt ả vậy.
    Vatynius báo trước cho chúng tôi biết những trận giác đấu phi thường nào đó mà y sẽ cho biểu diễn ở Beneventơ. Anh thấy không, ngược hẳn với câu: nesutor supra crepidam(1), bọn thợ giầy ở thời đại chúng ta có thể đi tới đâu, Vitelius là một tên dòng dõi thợ giầy, còn Vatynius lại là con đẻ. Có thể chính hắn cũng đã từng kéo kim khâu giầy cũng nên. Hôm qua, Hixtrio Aliturux vừa biểu diễn Edyp một cách tuyệt vời. Cậu hỏi ông ta, một người Do Thái xem dân Thiên chúa giáo với dân Do Thái có phải là một thứ không? Ông đáp là dân Do Thái có tôn giáo từ lâu đời rồi, còn Thiên chúa giáo là một thứ đạo mới, vừa được hình thành ở xứ Judei. Tại xứ đó, vào thời Tyberius người ta đóng đinh lên thập ác một người nào đó, thế là đám tín đồ của ông ta sinh sôi nảy nở mỗi ngày một đông và coi ông ta như Đức Chúa. Hình như họ không thèm biết đến bất kỳ một thứ thần thách nào khác, nhất là các vị thần của chúng ta. Cậu cũng không hiểu chuyện đó có thể có hại gì đối với bọn họ cơ chứ.
    Tygelinux đã công khai biểu lộ sự thù hằn đối với cậu. Cho tới nay hắn vẫn chưa hạ nổi cậu, tuy vậy hắn vẫn có một chỗ mạnh hơn cậu. Đó là hắn ham sống hơn, đồng thời là một thằng đểu cỡ hơn cậu, điều này khiến hắn ngày một gần Ahenobarbux. Sớm muộn thì hai kẻ ấy sẽ liên kết với nhau và khi đó sẽ tới phiên cậu đấy. Cậu không biết khi nào chuyện đó sẽ xảy ra, nhưng chắc rằng một lúc nào đó nó nhất định sẽ đến, vậy thì nói tới thời hạn mà làm gì. Ta cứ chơi đi đã. Giá như không có gã Râu Đỏ thì bản thân cuộc sống có kém vẻ lắm đâu. Chỉ vì hắn mà đôi khi con người ta đâm ra gớm ghét cả bản thân mình. Thật hoài công coi cuộc đấu tranh giành ân sủng của hắn như một cuộc đua ở hý trường, như một trò chơi nào đó, như một cuộc đấu vật nào đó mà chiến thắng sẽ khiến cho lòng tự ái được vuốt ve. Quả thực chính cậu cũng thường lý giải cho mình như thế, song đôi khi cậu lại cảm thấy mình cũng chỉ là một lão Khilon nào đó và cũng chẳng có gì tốt đẹp hơn lão. Khi nào anh thôi không cần đến lão nữa thì hãy gửi lão tới cho cậu nhé. Câu đâm thích lối nói chuyện đầy tính xây dựng của lão mất rồi. Hãy gửi lời chúc sức khỏe của cậu tới cô nàng Thiên chúa giáo thần thánh của anh, đúng hơn, hãy nhân danh cậu xin nàng đừng làm một con cá đối với anh. Hãy cho cậu biết tin tức về sức khỏe, về ái tình, hãy yêu và hãy dạy yêu đương.
    Tạm biệt!”
    M.C. Vinixius gửi Petronius:
    “Cho tới nay vẫn chưa tìm thấy Ligia! Nếu như cháu không có hy vọng sẽ nhanh chóng tìm ra nàng thì chắc là cậu sẽ không nhận được thư trả lời đâu, vì khi người ta chán sống thì cũng chẳng muốn viết lách gì nữa cả. Cháu muốn thẩm tra xem lão Khilon có đánh lừa cháu không, nên vào cái đêm tới để nhận tiền mang tới cho Euryxius, cháu bèn trùm một chiếc áo choàng lính rồi thận trọng đi theo sau lão và theo thằng bé mà cháu giao cho lão. Khi cả hai tới nơi, cháu nấp sau một cây cột cảng theo dõi từ xa và bây giờ thì cháu tin chắc rằng Euryxius không phải là một nhân vật được bịa ra. Ở phía dưới, bên bờ sông, trong ánh đuốc sáng, vài mươi người đang khuân đá từ một chiếc bè(2) lớn và xếp chúng lên bờ. Cháu trông thấy Khilon tiến lại gần đám người và trò chuyện với một ông già, lát sau ông già này quỳ sụp dưới chân lão ta. Những người khác liền vây quanh họ và kêu lên những tiếng kinh ngạc. Chính mắt cháu trông thấy thằng tiểu đồng đưa cho Euryxius một bọc tiền, lão này nắm lấy và bắt đầu đưa hai tay lên trời cầu nguyện, bên cạnh lão còn một người nữa cũng quỳ. Có lẽ đó là con trai lão. Khilon còn nói gì đó nữa nhưng cháu không nghe thấy rõ, rồi lão ban phước cho hai kẻ đang quỳ cùng những người khác bằng cách vạch trong không khí một dấu chữ thập, dấu hiệu này hẳn là được họ tôn thờ, bởi vì tất cả đều khuỵu chân xuống. Cháu những muốn chạy xuống với họ và hứa sẽ tặng ba túi vàng như thế cho kẻ nào nộp Ligia cho cháu, nhưng cháu sợ làm hỏng việc của lão Khilon nên sau một lát đắn đo, cháu bỏ đi.
    Chuyện ấy xảy ra sau ngày cậu lên đường ít nhất cũng mười hai hôm. Từ đó tới nay lão còn đến chỗ cháu vài bận nữa. Lão bảo rằng lão đã gây được uy tín lớn trong đám tín đồ Thiên chúa giáo. Lão nói rằng nếu cho tới nay lão chưa tìm ra được Ligia, thì chỉ vì riêng ở Roma thôi, bọn họ cũng đã quá ư đông đảo, nên không phải ai cũng biết nhau cả và bọn họ không thể biết tất cả mọi chuyện xảy ra trong nội bộ. Họ cũng rất thận trọng và nói chung là kín tiếng, song lão cam đoan rằng chỉ cần lần tới được những bậc cao đạo được gọi là thày cả quản hạt thì lão sẽ biết cách moi được tất cả những điều bí mật. Lão đã biết một vài người và đã thử dò hỏi họ nhưng rất thận trọng để khỏi vì quá vội vàng mà gây ra nghi ngờ làm cản trở đến việc lớn. Và mặc dù việc chờ đợi thật là nặng nề, mặc dù không đủ nhẫn nại song cháu vẫn cảm thấy rằng lão có lý và cháu đành chờ đợi.
    Lão cũng đã tìm biết được rằng bọn họ có những chỗ cầu nguyện chung, thường ở ngoại thành trong những ngôi nhà trống, thậm chí ngay cả trong các đấu trường. Tại những nơi đó họ bày tỏ lòng thành kính đối với Đấng Crixtux, ca hát và tiệc tùng. Những chỗ như thế có rất nhiều. Lão Khilon cho rằng Ligia cố tình đi tới những nơi khác với chỗ bà Pomponia thường đến, để cho khi có xét xử hay tra hỏi thì bà ta hoàn toàn có thể can đảm mà thề rằng bà không biết chỗ ẩn náu của nàng. Cũng có thể là chính các thầy cả quản hạt đã khuyên nàng nên thận trọng như thế. Khi nào lão Khilon biết được những nơi ấy, cháu sẽ đi cùng với lão và nếu như các vị thần linh cho phép cháu trông thấy được Ligia, thì thề với cậu có thần Jupiter chứng giám là lần này thì nàng không thể lọt khỏi tay cháu.
    Cháu thường nghĩ hoài về những địa điểm cầu nguyện ấy. Lão Khilon không muốn cháu đi cùng. Lão sợ, còn cháu thì không sao ngồi nổi ở nhà. Cháu sẽ nhận ra nàng ngay tức khắc, dù nàng có cải trang hay che chàng mạng đi chăng nữa. Bọn họ thường tụ tập ở những nơi ấy về đêm, nhưng dẫu là ban đêm cháu cũng sẽ nhận ra nàng. Cháu sẽ nhận ra cử chỉ và giọng nói của nàng ở bất cứ nơi đâu. Cháu sẽ cải trang và cháu sẽ để ý từng người một, kẻ ra cũng như người vào. Lúc nào cháu cũng luôn nghĩ đến nàng nên nhất định cháu sẽ nhận ra ngay ra nàng. Ngày mai, lão Khilon sẽ tới và chúng cháu sẽ cùng đi. Cháu sẽ mang theo vũ khí. Mấy tên nô lệ được cháu phái về các tỉnh trấn đã trở về tay không. Nhưng giờ đây cháu hoàn toàn tin chắc rằng nàng đang ở nơi đây, trong thành phố này, thậm chí ở cách cháu không xa. Bản thân cháu cũng đã tự đi xem xét biết bao ngôi nhà, giả vờ là đi tìm nơi thuê. Ở với cháu sẽ trăm lần tốt đẹp hơn cho nàng, bởi ở những chốn kia sống nhung nhúc những kẻ khốn cùng. Nào cháu có tiếc gì với nàng đâu chứ! Cậu viết rằng cháu đã lựa chọn đứng đắn, vậy mà cháu chỉ chọn lựa được toàn những nỗi lo âu và sự giằng xé. Trước tiên cháu sẽ tới những nhà trong thành rồi sau đó ra ngoại thành. Cứ mỗi ban mai niềm hy vọng vào một cái gì đó lại hé rạng, chứ nếu không thì không thể nào sống nổi. Cậu nói là cần phải biết yêu, thế mà giờ đây cháu chỉ còn biết tưởng nhớ, chỉ còn biết đợi chờ lão Khilon tới, chứ ở nhà thì cháu không sao chịu đựng nổi nữa tồi. Tạm biệt cậu!”.
    Chú thích:
    (1) Không nên bàn đến việc gì quá khả năng của mình (La tinh)
    (2) Nguyên văn: Komiega - một loại phương tiện vận tải đường sông cổ, chỉ dùng có một lần để chở hàng xuôi dòng sông


    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      T1- Chương 16

      Tuy thế lão Khilon mãi không xuất hiện, đến nỗi rốt cuộc Vinixius cũng không biết nên nghĩ về chuyện ấy ra sao nữa. Chàng hoài công lặp đi lặp lại với bản thân rằng muốn đi đến kết quả mong muốn và chắc chắn thì việc tìm kiếm phải được tiến hành từ từ. Dòng máu của chàng cũng như bản tính xốc nổi đều khùng lên chống lại tiếng nói lý trí. Không làm gì cả, chỉ chờ đợi, ngồi bó tay, là một điều quả trái ngược với tính cách của chàng, đến độ chàng không sao thừa nhận được nổi. Bản thân việc chạy lùng khắp hang cùng ngỏ hẻm của thành phố trong tấm áo choàng thâm của nô lệ vốn vô vọng, nên với chàng đó chỉ là chuyện đi tìm kiếm sự bất lực của chính mình và không sao có thể khiến chàng thỏa mãn. Những người nô lệ giải phóng của chàng, những kẻ vốn nhanh nhẹn mà chàng ra lệnh đi tìm kiếm, đã tỏ ra trăm lần tháo vát hơn lão Khilon. Trong khi đó, bên cạnh tình yêu mà chàng cảm thấy đối với Ligia, trong lòng chàng còn nảy sinh thêm sự cay cú của một con bạc muốn được cuộc. Bao giờ Vinixius cũng thế cả. Ngay từ những năm thơ ấu, chàng đã làm mọi việc mà chàng muốn với sự say sưa của một người không thể hiểu nổi rằng chuyện gì đó có thể không thành, rằng cần phải từ bỏ một điều gì đó. Quả thực, sự hà khắc của quân đội đã kịp thời đóng cương trong thói quen phóng túng của chàng, song nó cũng gieo vào chàng niềm tin chắc rằng một một mệnh lệnh mà chàng ra cho những kẻ dưới quyền đều nhất nhất phải được thực hiện, còn thời gian dài sinh sống tại phương Đông, giữa những con người nhu nhược quen với sự vâng chịu kiểu nô lệ đã khiến chàng tin rằng đối với chàng, cái “tôi muốn” là không hề có giới hạn. Cho nên, giờ đây lòng tự ái của chàng bị rướm máu nghiêm trọng. Thêm nữa, có một điều gì đó trong những mâu thuẫn trong sự kháng cự và ngay cả trong việc trốn chạy của Ligia cũng khiến chàng không sao hiểu nổi, một điều bí ẩn nào đó mà chàng phải vò đầu bứt tai để tìm cách lý giải. Chàng cảm thấy Akte nói thật, rằng chàng không phải là kẻ mà Ligia cảm thấy vô tình. Nhưng nếu vậy thì tại sao nàng lại đặt cảnh vô gia cư và sự bần hàn lên trên tình yêu của chàng, lên trên cả những âu yếm và cuộc sống trong ngôi nhà viên mãn của chàng? Chàng không sao tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi ấy, ngược lại chàng đi vào một cảm giác mơ hồ rằng giữa chàng và Ligia, những thứ quan niệm của hai người, giữa thế giới của chàng cùng ông Petronius với cái thế giới khác biệt của Ligia và bà Pomponia Grexyna, có một sự khác biệt nào đó, có một sự hiểu lầm nào đó sâu như vực thẳm không thể nào khỏa lấp nổi. Khi ấy chàng cảm thấy mình sẽ phải mất Ligia, và chỉ cần nghĩ tới điều đó thôi là chàng mất nốt chút thăng bằng cuối cùng mà ông Petronius muốn giữ lại trong lòng chàng. Có những phút giây chàng không sao hiểu nổi mình yêu Ligia hay căm thù nàng, chàng chỉ biết rằng cần phải tìm bằng được nàng, thà mặt đất cứ nuốt chửng chàng đi còn hơn để chàng không được nhìn thấy và chinh phục được nàng nữa. Với sức mạnh của trí tưởng tượng, đôi khi chàng trông thấy nàng rõ ràng như nàng đang đứng trước mặt chàng, chàng nhớ lại từng lời chàng nói với nàng cũng như từng lời được nghe nàng nói. Chàng cảm thấy nàng gần gũi, cảm thấy nàng đang ở trên ngực chàng, trong vòng tay của chàng và trong lúc ấy dục vọng bừng bừng như ngọn lửa chế ngự lòng chàng. Chàng yêu nàng và gọi tên nàng. Và khi nghĩ rằng chàng đã từng được nàng yêu, rằng nàng đã từng có thể vui lòng thực hiện tất cả những gì chàng đòi hỏi, thì chàng lại sa vào một nỗi nuối tiếc nặng nề vô hạn, và một niềm âu yếm mênh mông như một làn sóng vô bờ tràn ngập trái tim chàng. Song cũng có lúc chàng tái nhợt người đi trong sự điên cuồng, chàng khoái trá nghĩ đến những nỗi nhục nhã và những cực hình mà chàng sẽ bắt Ligia phải chịu đựng khi tìm ra nàng. Chàng không những chỉ muốn có nàng mà muốn có nàng như một kẻ nô tì bị chà đạp, đồng thời chàng lại cảm thấy rằng, nếu như người ta bắt chàng phải chọn lựa: hoặc trở thành nô lệ của nàng hoặc là trọn đời vĩnh viễn không được gặp nàng nữa, thì chàng thà trở thành nô lệ của nàng còn hơn. Có những ngày chàng nghĩ tới những vết hằn mà đòn roi sẽ để lại trên thân thể trắng hồng của nàng, đồng thời chàng lại muốn được hôn lên những lằn roi ấy. Đôi khi chàng chợt nghĩ rằng hẳn chàng sẽ rất sung sướng nếu giết chết nàng.
      Trong chia ly, trong mệt mỏi, bấp bênh và giằng xé giày vò, chàng tổn hao sức khỏe và cả vẻ đẹp. Chàng trở thành một ông chủ tàn bạo và thiếu suy xét. Đám nô lệ - thậm chí cả những người nô lệ được giải phóng - run rẩy bước lại gần chàng, và khi những hình phạt vô cớ trút xuống người họ, những hình phạt vừa nhẫn tâm vừa vô lý, thì họ thầm căm ghét chàng. Cảm thấy được điều đó và cảm nhận được sự cô đơn của mình, chàng lại càng trả thù họ nhiều hơn nữa. Giờ đây chàng chỉ còn tự kiềm chế đối với mỗi mình lão Khilon vì e rằng lão sẽ ngừng những cuộc tìm kiếm của lão lại, còn lão - hiểu ra điều ấy - lão bắt đầu khống chế chàng và ngày càng vòi vĩnh nhiều hơn. Lúc đầu, cứ mỗi lần đến, lão lại đoán chắc với Vinixius rằng công việc trôi chảy trơn tru và nhanh chóng, nhưng giờ đây chính lão lại vẽ thêm khó khăn ra, và tuy không ngừng cam đoan về kết quả của việc tìm kiếm song lão cũng không hề giấu giếm rằng việc này hẳn còn kéo dài lâu nữa.
      Cuối cùng, sau những ngày dài chờ đợi, lão mới dẫn xác tới với bộ mặt như đưa đám, đến nỗi chàng trai tái người đi khi thoạt trông thấy lão, chàng nhảy vọt đến và chỉ còn đủ sức để hỏi một câu:
      - Không có nàng trong đám tín đồ Thiên chúa sao?
      - Có chứ, thưa ngài - Khilon đáp - nhưng trong đám bọn họ tôi lại gặp cả thầy thuốc Glaukox.
      - Ngươi nói gì thế? Đó là thằng nào?
      - Thưa ngài, vậy ngài quên mất ông cụ già đã cùng tôi từ Neapolix tới Roma, người mà để bảo vệ, tôi đã bị mất hai ngón tay này, khiến tôi không cầm được bút nữa. Bọn đạo tặc cướp vợ con ông ta và đã dùng dao đâm ông ta. Tôi đành phải để ông ta đang hấp hối nằm lại trong một quán trọ ở Minturnae và đã than khóc ông ta rất lâu. Than thay! Tôi vừa biết rằng ông ta vẫn sống tới ngày nay và hiện đang thuộc về họ đạo Thiên chúa Roma.
      Vinixius không sao hiểu nổi lão nói gì mà chỉ hiểu được một điều rằng cái lão già Glaukox nọ là một vật chướng ngại trong việc tìm kiếm Ligia, nên có ghìm cơn giận đang cuộn sôi lên trong lòng, chàng bảo:
      - Nếu ngươi đã từng bảo vệ lão ta thì lão sẽ phải hàm ơn và giúp đỡ ngươi chứ?
      - Ôi, thưa ngài hộ dân quân tôn quý! Ngay cả đến các thần linh không phải bao giờ cũng biết hàm ơn còn nói chi tới người trần thế. Vâng! Nhẽ ra lão ta phải biết ơn tôi. Nhưng than ôi, đó lại là một lão già đầu óc kém cỏi bị tuổi tác và những niềm phiền muộn làm mờ mịt đi mất rồi, vì thế không những lão không mang ơn tôi, mà tôi còn được chính xác các đồng đạo của lão cho hay rằng lão lên án tôi đã thỏa thuận với lũ cướp và chính tôi là nguyên nhân và gây ra những bất hạnh của lão. Đó chính là cái phần thưởng mà tôi được trả cho hai ngón tay bị mất.
      - Đồ vô lại, ta chắc rằng mọi sự đúng như lời lão ta nói! - Vinixius thốt lên.
      - Vậy ra ngài biết nhiều hơn cả lão ta đấy, thưa ngài - Khilon đường hoàng đáp lại - vì lão ta chỉ dám ngờ rằng mọi sự diễn ra như thế mà thôi tuy nhiên điều đó cũng không ngăn cản lão kêu gọi dân Thiên chúa trả thù tôi một cách tàn bạo. Hẳn lão đã thực hiện, ngay chuyện đó và bọn kia chắc chắn sẽ giúp lão. May thay, lão không biết tên tôi, còn trong nhà nguyện, nơi chúng tôi gặp nhau, thì lão không trong thấy tôi. Tôi thì nhận ra lão ngay và thoạt tiên tôi muốn ôm chân lấy lão. Chỉ có sự chín chắn và thói quen cân nhắc từng bước đi đã ghìm tôi lại. Sau khi rời nhà nguyện tôi bắt đầu dò hỏi về lão và những người quen biết lão nói cho tôi hay rằng đó là một kẻ bị người bạn đường từ Neapolix phản bội... Nếu không thế thì tôi đã chẳng hay rằng lão đã kể chuyện ấy.
      - Chuyện ấy ta không hề quan tâm. Nói xem ngươi thấy gì trong nhà nguyện.
      - Ngài không quan tâm đến, thưa ngài, nhưng tôi lại quan tâm như quan tâm đến mạng sống mình vậy. Tôi muốn rằng khoa học của tôi sẽ trường thọ hơn tôi nên tôi thà từ bỏ những giải thưởng mà ngài hứa tặng cho tôi hơn là chịu thiệt mạng vì một cô gái ma quái mạt hạng này; không có cái đó, thì vốn là một triết gia chân chính tôi cũng vẫn biết cách sống và tìm tòi chân lý thiêng liêng.
      Song Vinixius đã sát lại gần lão, nét mặt dữ tợn, chàng gằn giọng nói:
      - Thế ai bảo với mày rằng tử thần sẽ đến gặp mày từ tay lão Glaukox sớm hơn từ tay ta? Mày có biết lát nữa đây người ta sẽ đào mồ chôn xác mày ngay trong vườn nhà ta hay không, hả đồ chó?
      Vốn hèn nhát, Khilon nhìn Vinixius và chỉ trong chớp mắt lão hiểu ra ngay rằng chỉ cần thêm một lời thiếu ý tứ nữa thôi là lão sẽ mất mạng vô phương cứu chữa.
      - Tôi sẽ tìm nàng, thưa ngài, tôi sẽ tìm bằng được nàng! - lão vội vã kêu lên.
      Im lặng bao trùm, chỉ nghe tiếng thở gấp gáp của Vinixius và tiếng hát xa xa của những người nô lệ đang làm lụng trong vườn.
      Mãi một lát sau, để ý thấy viên võ quan trẻ tuổi đã phần nào bình tĩnh lại, gã Hi Lạp mới dám lên tiếng.
      - Tử thần vừa lướt qua sát cạnh tôi, nhưng tôi đã nhìn thần bình thản như chính Xocratex vậy. Không thưa ngài, tôi không hề nói rằng tôi từ chối việc tìm kiếm nàng thiếu nữ, tôi chỉ muốn thưa cùng ngài rằng giờ đây việc tìm kiếm nàng gắn liền với mối nguy hiểm vô cùng to lớn cho tôi. Có lúc ngài đã từng nghĩ rằng trên đời không hề có ông già Euryxius, nhưng rồi chính mắt ngài lại mục kích thấy là đứa con trai của cha tôi nói là đúng sự thật. Ấy thế giờ đây ngài lại ngờ rằng tôi bịa ra cái lão Glaukox nọ. Than ôi! Giá như lão ta chỉ là một điều bịa đặt, giá như tôi có thể đi lại hoàn toàn yên ổn giữa đám dân Thiên chúa giáo thì tôi xin nhường ngay lại cái con mụ nô lệ già nua tôi nghiệp tôi vừa mua ba hôm trước đây hòng bảo đảm cho tuổi già và sự tật nguyền của tôi. Nhưng lão Glaukox hiện đang sống thưa ngài, và chỉ cần một lần lão trông thấy tôi thì chắc ngài sẽ không bao giờ được trong thấy tôi nữa, và khi ấy ai sẽ là kẻ tìm ra nàng trinh nữ cho ngài?
      Đến đây lão im lặng lau nước mắt rồi nói tiếp:
      - Khi Glaukox còn sống thì làm sao tôi có thể đi tìm nàng, nếu như bất cứ lúc nào tôi cũng có thể trạm chán lão, một khi chạm trán lão tôi sẽ chết mất xác và cùng với tôi, việc tìm kiếm sẽ chỉ là công cốc.
      - Ngươi định dẫn tới chuyện gì? Có cách gì không chứ? Ngươi muốn làm gì? Vinixius hỏi.
      - Chính Aryxtotelex dạy chúng ta, thưa ngài, rằng cái nhỏ phải hy sinh cho cái lớn, còn vua Priam thường nói rằng tuổi già là một cái ách nặng nề. Ách nặng của tuổi già cùng những nỗi bất hạnh đã từ lâu dày vò Glaukox, nặng nề đến nỗi cái chết sẽ là hạnh phúc đối với lão. Vì rằng theo ngài Xeneka, cái chết là gì nếu không phải là một sự giải thóat?...
      - Ngươi hãy làm hề với Petronius chứ đừng làm hề với ta, hãy nói toạc ra ngươi muốn gì?
      - Nếu như đức hạnh lại là trò hề thì xin các vị thần linh hãy cho tôi làm hề mãi mãi. Thưa ngài, tôi muốn trừ khử lão Glaukox vì một khi lão còn sống thì cả tính mạng tôi lẫn công cuộc tìm kiếm đều là chuỵên nguy hiểm triền miên.
      - Vậy hãy thuê một bọn nào dùng gậy đập chết lão ta đi, ta sẽ trả tiền cho.
      - Bọn chúng sẽ xé xác ngài mất thôi thưa ngài, rồi sau này chúng sẽ lợi dụng điều bí mật ấy. Bọn vô lại ở Roma nhiều như cát trong các đấu trường, nhưng ngài hẳn không tin là bọn chúng sẽ lên giá như thế nào nếu có một con người lương thiện cần thuê mướn bọn chúng. Không đâu, thưa ngài hộ dân quân tôn quý! Nếu như đám vigin tóm được lũ cướp trong lúc chúng đang giết người thì sao? Chắc chắn là bọn này sẽ khai ra ai là kẻ đã thuê chúng và ngài sẽ bị phiền phức đấy. Còn tôi thì bọn chúng sẽ không chỉ ra được vì tôi sẽ không nói cho chúng biết tên. Ngài sẽ sai lầm nếu không tin tôi, vì dù có bỏ qua không tính đến sự đứng đắn của tôi đi nữa, thì xin ngài hãy nhớ cho rằng chuyện này còn dính dáng đến hai thứ khác: đó là thân xác tôi và phần thưởng mà ngài đã hứa cho tôi.
      - Ngươi cần bao nhiêu?
      - Tôi cần chẵn một nghìn đồng xexlecxi, vì thưa ngài, xin ngài hãy lưu ý hộ cho là tôi phải tìm bằng được một bọn vô lại trung thực, những kẻ mà khi đã cầm tiền sẽ không biến mất tăm mất dạng. Tiền nào của ấy mà! Giá như có chút gì đó dành cho tôi để lau những giọt lệ sầu mà tôi sẽ phải đổ ra để thương khóc lão Glaukox thì lại càng hay lắm. Xin các thần hãy chứng giám cho rằng tôi yêu lão ta biết bao. Nếu như ngày hôm nay tôi nhận được một nghìn đồng xexlecxi thì chỉ hai ngày nữa thôi, linh hồn của lão ta sẽ phiêu du dưới địa ngục Hađex, và mãi tới lúc đó họa chăng lão mới có thể nhận ra là tôi yêu quý lão biết chừng nào, nếu như linh hồn còn giữ được trí nhớ và biết suy nghĩ. Ngay ngày hôm nay tôi sẽ thuê người và sẽ bảo với họ rằng từ tối mai trở đi, cứ mỗi ngày sống của lão Glaukox tôi sẽ trừ đi một trăm xexlecxi. Tôi cũng đã nghĩ ra một kế mà tôi cho là tuyệt diệu.
      Vinixius lại một lần nữa hứa sẽ cho lão số tiền lão đòi nhưng chàng cấm lão không được nói gì thêm nữa về lão Glaukox, rồi chàng hỏi xem lão có mang đến thêm tin tức gì mới hay chăng, thời gian vừa rồi lão ở đâu, nhìn thấy những gì và có phát hiện ra điều gì không. Song lão Khilon không có gì nhiều nhặn để báo cho chàng. Lão đã đến thăm hai nhà nguyện nữa và đã chăm chú quan sát tất cả mọi người, nhất là đàn bà con gái, nhưng không thấy người nào có vẻ giống Ligia cả. Dân Thiên chúa đã coi lão là người của mình, và từ khi lão cho tiền chuộc con trai của Euryxius thì họ tôn kính lão như một người nối gót đấng Crixtux. Qua họ lão được biết rằng một vị cao đạo là thánh Paven xứ Tarxu hiện đang có mặt tại Roma, ông đang bị giam vì có lời kiện cáo của bọn Do Thái. Lão định sẽ làm quen với ông.
      Song có một tin khác còn khiến cho lão vui mừng hơn nữa, đó là tin vị thầy cả cao chức nhất toàn đạo, vốn là tông đồ của chính đấng Crixtux, người được Đức Chúa trao trọng trách cai quản dân Thiên chúa toàn thế giới, chẳng bao lâu nữa cũng sẽ tới Roma. Dĩ nhiên hết thảy người dân Thiên chúa giáo đều muốn được gặp ông và nghe ông thuyết giáo. Sẽ có những cuộc họp mặt lớn, và chính lão - Khilon - cũng sẽ có mặt, hơn nữa, lão đưa cả Vinixius cùng đến dự, vì trong đám đông dễ giấu mặt hơn. Chắc hẳn khi ấy họ sẽ tìm thấy Ligia. Một khi lão Glaukox đã bị trừ khử thì việc kia chẳng còn gì nguy hiểm cả. Trả thù thì hiển nhiên là dân Thiên chúa cũng biết trả thù, nhưng nói chung họ vốn là những người ôn hòa.
      Đến đây, lão Khilon bắt đầu kể lại với vẻ hơi ngạc nhiên là chưa ở đâu lão từng thấy bọn họ làm những chuyện dâm ô tồi bại, đánh thuốc độc giếng nước và các bể phun, là kẻ thù của loài người, thờ cúng lũ cừu hoặc ăn thịt trẻ con. Không! Không! Những thứ đó lão chưa hề trông thấy. Chắc chắn trong bọn họ cũng sẽ có những kẻ sẵn sàng trừ khử lão già Glaukox vì tiền, nhưng như lão hiểu, giáo lý của họ không hề khuyến khích tội phạm, ngược lại khuyên người ta phải tha thứ cho những điều bị xúc phạm.
      Vinixius nhớ lại những lời của bà Pompania Crexyna nói với chàng tại nhà Akte và nói chung những lời của lão Khilon được chàng vui sướng lắng nghe. Mặc dù bề ngoài thì những tình cảm của chàng đối với Ligia có vẻ như thù ghét, nhưng chàng nhẹ cả người khi nghe nói rằng cái giáo lý mà nàng và bà Pompania tuân theo không phải là cái thứ giáo lý tội các mà cũng chẳng hề vô luân thường đạo lý. Tuy nhiên chàng cảm giác mơ hồ rằng chính nó, chính cái lòng ngưỡng mộ đầy bí ẩn đối với Đức Chúa Crixtux xa lạ với chàng ấy, đã tạo nên ranh giới giữa chàng với Ligia, chàng vừa sợ vừa căm ghét cái giáo lý ấy.


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        T1- Chương 17

        Quả thực lão Khilon muốn trừ khử ông Glaukox người mặc dù đã cao tuổi song hoàn toàn không phải là một gông già cạn kiệt sức lực. Hồi trước lão quen biết ông cụ, phản bội ông và bán ông cho bọn cướp phá tan gia đình ông, cướp sạch tài sản của ông và đẩy ông vào chỗ chết. Tuy nhiên lão chịu đựng ký ức về những sự kiện ấy rất nhẹ nhàng, vì lão bỏ ông cụ đang hấp hối lại một mình không phải trong quán trọ mà giữa cành đồng gần Minturnae, song lão chỉ không lường trước nổi chuyện duy nhất là ông Glaukox có thể chữa lành các vết thương và đến được Roma. Vậy nên khi vừa trông thấy ông trong nhà nguyện, lão đã hoảng hồn thật sự và thoạt tiên lão muốn từ bỏ việc tìm kiếm Ligia. Nhưng mặt khác, Vinixius còn khiến lão hoảng hồn hơn. Lão hiểu rằng cần phải lựa chọn giữa nỗi sợ hãi ông Glaukox và sự săn đuổi cùng sự trả thù của một vị quý tộc hùng mạnh, người mà chắc chắn sẽ được giúp sức của một người thứ hai còn hùng mạnh hơn - ông Petronius. Vì thế lão Khilon khôn còn do dự nữa. Lão nghĩ rằng có kẻ thù nhỏ bé dù sao vẫn tốt hơn là có kẻ thù lớn và mặc dù bản chất hèn nhát của lão run rẩy chút ít trước những biện pháp gây đổ máu, song lão cho rằng việc giết ông Glauxkox nhờ tay kẻ khác là chuyện cần thiết phải làm.
        Bây giờ lão chỉ còn lo đến việc chọn người và trong trong việc đó lão đã nẩy ra cái ý hay ho mà lão vừa hé ra với Vinixius. Thường ngủ qua đêm trong các tửu quán giữa những kẻ vô gia cư, vô tín ngưỡng và tôn giáo, lão dễ dàng tìm ra những kẻ sẵn sàng nhận làm bất cứ việc gì, song lại dễ gặp hơn những kẻ mà một khi đã đánh hơi thấy lão có tiền chúng sẽ khử ngay lão, hoặc sau khi đã cầm tiền ứng của lão, chúng sẽ bắt lão phải nộp toàn bộ số tiền bằng cách dọa sẽ nộp lão cho bọn vigin. Thật ra, từ một lúc nào đấy, lão Khilon cũng thấy kinh tởm bọn người vô lại, kinh tởm những hình hài tục tằn và khủng khiếp chui rúc trong những ngôi nhà đáng ngờ ở khu Xubur hoặc khu Zatybre. Đánh giá mọi người bằng thước đo của mình, không cần đi sâu lắm vào những tín đồ Thiên Chúa cùng học thuyết của họ, lão cũng vẫn nghĩ rằng lão sẽ tìm ra phương cách thích hợp trong số những tín đồ ấy, rằng họ có vẻ đáng tin hơn những người khác, lão quyết định đến với họ và trình bày câu chuyện sao cho người ta sẽ thực hiện nó không vì tiền mà vì lòng mộ đạo.
        Để nhằm mục đích ấy, chiều tối lão tìm tới nhà ông cụ Euryxius, người mà lão biết rằng sẽ tận tụy với lão bằng cả tấm lòng và sẽ làm mọi chuyện hầu có thể giúp ích được cho lão. Tuy nhiên, vốn thận trọng, lão không định bụng sẽ nói cho ông biết những ý đồ thực sự của mình - những ý đồ chắc chắn sẽ mâu thuẫn với đức của ông già, phẩm hạnh và lòng kính Chúa của ông. Lão chỉ muốn tìm được những người sẵn sàng thực hiện mọi việc và khi ấy, lão mới trình bày sự việc sao cho họ sẽ phải giữ kín chuyện ấy trong vòng bí mật vĩnh viễn vì e sợ cho chính bản thân mình.
        Sau khi đã chuộc được con trai ra, ông già Euryxius thuê một trong những quầy hàng nhỏ đầy rẫy gần đại hý trường để bán quả ô liu, dậu, bánh tẩm bột cứng và nước pha mật ong cho những người đến xem các cuộc đua. Khilon gặp ông lão đang ở nhà dọn dẹp quầy hàng và sau khi chào hỏi nhau nhân danh đấng Crixtux, lão bắt đầu nói về việc đã đưa lão tới đây. Giúp tiền cho ông cụ, lão đã tính rằng người ta sẽ đền bù cho lão bằng lòng biết ơn. Hiện nay lão cần có hai ba người khỏe mạnh và can đảm để gạt bỏ một mối hiểm họa đang đe dọa không những chỉ bản thân lão mà toàn thể những người Thiên Chúa giáo. Lão nghèo thật vì tất thẩy những gì lão có thể đều đã đưa cho ông Euryxius, tuy nhiên lão sẽ trả công cho những người nọ, với điều kiện họ phải tin tưởng lão và thực hiện trung thành tất cả những gì lão ra lệnh.
        Ông lão Euryxius và cậu con trai là Quatux lắng nghe vị mạnh thường quân của họ với tư thế gần quỳ sụp xuống. Cả hai đều nói rằng họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà lão yêu cầu vì tin rằng một người thánh thiện như lão không thể có hành động trái ngược với giáo thuyết của đấng Crixtux.
        Khilon cam đoan với họ là đúng như thế, rồi ngước mắt nhìn lên trời giả vờ cầu nguyện, lão suy nghĩ xem có nên nhận sự hy sinh thành tâm của họ hay không, cái đó có thể tiết kiệm cho lão một nghìn xeclexi. Tuy nhiên, sau một lúc cân nhắc, lão bỏ ý định này. Ông Euryxius đã già, có thể cái chính không phải tuổi tác mà âu lo và bệnh hoạn đã làm cho ông cụ héo hắt đi, Quatux thì mới mười sáu tuổi, mà Khilon lại cần những người khéo léo và trước nhất phải khỏe mạnh.
        Còn về chuyện một nghìn xeclecxi thì lão tính trước rằng, nhờ cái ý đồ hay hớm mà lão đã nghĩ ra, trong bất cứ trường hợp nào lão cũng vẫn có thể tiết kiệm được phần lớn số tiền đó.
        Hai bố con nài nỉ thêm một lúc nữa, nhưng khi lão từ chối một cách cương quyết họ cũng đành thôi, Quatux bèn nói:
        - Con biết ông thợ nướng bánh Đemax, thưa ngài, ở chỗ ông ta có nhiều nô lệ và những người làm thuê. Một trong những người làm thuê ấy khỏe đến nỗi có thể địch nổi không chỉ hai mà cả bốn người, chính mắt con đã trông thấy bác ta nhấc bổng một tảng đá mà trước đó cả bốn người không nhích nổi khỏi chỗ.
        - Nếu đó là một người kính Chúa và dám xả thân vì an hem thì hãy cho ta được làm quen với y - Khilon nói.
        - Bác ấy là tín đồ Thiên Chúa, thưa ngài - Quatux đáp - Vì ở chỗ ông Đemax phần lớn là những người Thiên Chúa giáo làm việc. Họ gồm có công nhân kíp ngày và kíp đêm, bác ta thuộc về kíp đêm. Nếu ngay bây giờ ta tới đó thì sẽ gặp đúng vào bữa tối của họ và có thể nói chuyện thoải mái với bác ta được. Ông Đemax ở gần Emporium đấy ạ.
        Lão Khilon rất hài lòng ưng thuận. Emporium nằm dưới chân đồi Aventyn nghĩa là cách không xa đại hý trường. Có thể không cần phải đi vòng chân đồi mà cứ đi dọc sông, qua Porticus Aemilia thì còn rút ngắn chặng đường hơn nữa.
        - Ta già rồi - Khilon bảo khi họ đi vào dưới hàng cột - Thỉnh thoảng đầu óc cứ lú lẫn cả đi! Đấng Crixtux của chúng ta bị phản bội với một người trong số học trò của Người. Nhưng lúc này ta lại không sao nhớ ra tên kẻ phản bội ấy.
        - Juđa, thưa ngài, hắn treo cổ tự tử rồi - Quatux đáp, trong bụng nhạc nhiên không hiểu sao có người lại có thể quên cái tên ấy.
        - A, phải rồi! Juđa! Cảm ơn con! - Khilon nói.
        Họ im lặng đi một hồi lâu. Đến Empirium, nơi lúc này đã đóng cửa, họ đi vượt qua và vòng quanh những kho thóc trong đó người ta vẫn phát chẩn lương thực cho mọi người, họ vòng sang trái, hướng về phía những ngôi nhà kéo dài dọc theo Via Ostiensis cho tới tận đồi Textaxiux và Forum Pixtorium. Tới đó, họ dừng bước chân trước một ngôi nhà bằng gỗ, từ bên trong vọng ra tiếng ngũ cốc rơi rào rào. Quatux bước vào trong nhà, còn lão Khilon, vốn không thích xuất hiện ở chỗ đông người và luôn luôn sống tronh tình trạng lo sợ một định mệnh nào đó có thể sẽ xui khiến lão chạm trán với thầy thuốc Glaukox, đứng lại bên ngoài.
        "Không hiểu cái tay Herkulex đang làm nghề xau bột này - lão nghĩ thầm và ngắm vầng trăng đang chiếu dang - là người như thế nào nhỉ, nếu hắn là một thằng đểu cáng nhưng là kẻ thông minh thì minhd sẽ phải tốn kém ít nhiều đây, nhưng nếu hắn là một tín đồ Thiên Chúa và lại ngốc nghếch thì ắt hẳn sẽ làm không công mọi chuyện mình yêu cầu".
        Dòng suy nghĩ của lão bị đứt đoạn bởi Quatux từ trong nhà bươc sra với một người đàn ông nữa, người này chỉ mặc một chiếc ái tunica được gọi là kiểu exomix, may chéo để hở cả cánh tay và ngực phải. Đám thợ thường dùng kiểu áo này vì nó cho phép cử động hoàn toàn thoải mái. Lão Khilon nhìn người mới tới và thở phào nhẹ nhõm hài hòng, bởi vì trong đời lão chưa bao giờ được trông thấy một cánh tay và một khuôn ngực nào như thế.
        - Thưa ngài - Quatux nói - đây chính là người anh hùng mà em muốn ngài gặp.
        - Cầu bằng an của những người theo đấng Crixtux hằng ở cùng anh - Lão Khilon cất tiếng - còn con, Quatux, con hãy nói cho anh ta biết liệu anh ta có đáng tin tưởng hay không rồi con hãy quay về, nhân danh Chúa, vì không nên để cho người cha già nua của con phải ở nhà cô độc một mình.
        - Đây là một vị thánh thiện - Quatux nói - đã hiến dâng toàn bộ gia sản để chuộc cháu - một kẻ mà người không hề biết mặt - ra khỏi cảnh đời nô lệ. Cầu Đức Chúa, Đấng Cứu Thế của chúng ta, sửa soạn cho người một phần thưởng trên thiên đàng.
        Nghe thấy thế, người thợ khổng lồ cúi xuống hôn tay lão Khilon.
        - Người an hem của tôi tên gì nhỉ? - Lão Hi Lạp hỏi.
        - Thưa cha, lúc rửa tội, người ta đặt tên cho tôi là Urban.
        - Vậy thì Urban, người an hem của tôi này, anh có chút ít thì giờ để chúng ta có thể chuyện trò thoải mái hay chăng?
        - Công việc của hcungs tôi mãi nửa đêm mới bắt đầu, lúc này nguồi ta mới đang chuẩn bị bữa tối thôi ạ.
        - Thế có nghĩa là khá đủ thời gian - vậy ta hãy ra bờ sông, ở đó anh sẽ nghe những lời tôi nói.
        Họ đi và ngồi xuống bờ sông lát đá trong sự tĩnh mịch chỉ bị khuấy động bởi tiếng những hạt ngũ cốc rơi rào rào và tiếng những làn sóng vỗ ồ ạt phía dưới sông. Lão Khilon nhìn thẳng vào mặt người thợ, một khuôn mặt mặc dù mang những nét u buồn và hơi dữ tợn tựa như mặt của những kẻ dã man sinh sống ở Roma nhưng lão vẫn thấy có vẻ chân thành và tốt bụng.
        "Chính phải! - Lão nhủ thầm trong dạ - Đây là một người tốt bụng và ngu ngốc, kẻ sẽ giết lão Glaukox không công!"
        Rồi lão hỏi:
        - Urban này, anh có yêu kính Đức Chúa Crixtux không?
        - Tôi kính yêu Người với tất cả tấm lòng, với cả trái tim - người thợ đáp.
        - Thế còn những người anh em của mình? Còn những người chị em và những người đã dạy anh chân lý và lòng tin vào Đấng Crixtux?
        - Tôi cũng mến họ, thưa cha.
        - Vậy thì cầu cho anh được bằng an!
        - Và cả người cũng thế, thưa cha!
        Lại im lặng - chỉ x axa có tiếng những hạt ngũ cốc rào rào và bên dưới kia rì rào dòng sông.
        Khilon nhìn vầng trăng sáng và bằng một giọng chậm rãi, thẻ thọt, lão bắt đầu kể về cái chết của Đấng Crixtux. Dường như lão không nói cho Urban nghe mà gợi lại cho chính mình cái chết kia, hoặc như lão đang thổ lộ với cả thành phố đang ngủ điều bí ẩn của cái chết nọ vậy. Có cái gì đó thật cảm động và long trọng. Người thợ khóc và khi Khilon bắt đầu nức nở và đau đớn rằng vào giây phút lâm chung của Đấng Cứu Thế không có lấy một ai, không có lấy một kẻ nào bảo vệ Người - nếu không tránh khỏi bị đóng đanh câu rút thì ít nhất cũng tránh khỏi bị lũ lính tráng và bọn Do Thái nhục mạ, thì những nắm tay của người đàn ông dữ tợn nọ siết chặt lại trong nỗi tiếc hận và lòng cuồng nộ sôi sục bị nén chặt. Cái chết khiến bác xúc động tâm can, nghĩ tới bọn người đã nhục mạ. Con chiên bị đóng đanh trên thập tự, tâm hồn chất phác trong bác sôi sục cả lên avf bác bị cuốn lôi vào một ước muốn trả thù hoang dã.
        Bỗng lão Khilon hỏi đột ngột:
        - Urban này, anh có biết Juđa là kẻ nào chứ?
        - Biết, biết chứ. Nhưng nó đã tự treo cổ mất rồi còn đâu! - Người thợ kêu lên.
        Trong tiếng kêu của bác dường như có nỗi nuối tiếc rằng tên phản bội đã tự trừng phạt mình và không thể rơi vào tay bác nữa.
        Lão Khilon nói tiếp:
        - Song nếu như hắn không treo cổ, nếu như một người tín đồ Thiên Chúa bắt gặp hắn trên đất liền hay trên mặt biển, thì liệu anh ta có nên trả thù hắn về những cực hình, về dòng máu và cái chết của Đấng Cứu Thế chăng?
        - Thưa cha, có ai lại không trả thù này.
        - Bằng an được cùng anh, hởi kẻ tôi đòi của Chúa. Phải! Có thể bỏ qua những điều nhục mạ đối với bản thân, nhưng ai có quyền bỏ qua những điều xúc phạm tới Đức Chúa? Nếu rắn sinh ra rắn, sự dữ sản sinh sự dữ và sự phản bội đẻ ra sự phản bội, thì tù cái nọc độc của Juđa lại sinh ra một tên phản bội thứ hai, nếu tên kia bán đứng Đấng Cứu Thế thì tên này hiện đang sống giữa chúng ta lại muốn bán những con chiên của Người cho lũ sói và nếu như không ai ngăn chặn trước sự phản bội, nếu như không ai đập nát đầu con rắn độc đúng lúc, thì cái chết đang đón đợi tất thảy chúng ta và mất đi vùng với chúng ta là cả lòng kính con chiên nữa.
        Người thợ nhìn lão vẻ vô cùng lo lắng, dường như không thật hiểu rõ những điều bác vừa nghe thấy. Còn lão Hi Lạp thì lấy một góc áo khoác che đầu bắt đầu lặp đi lặp lại với giọng nói nhu vọng lên từ dưới đất:
        - Thương thay cho an hem, những tôi con của Đức Chúa chân chính, thương thay cho an hem, hỡi các nam nữ tín đồ Thiên Chúa giáo!
        Im lặng lại bao trùm, lại chỉ còn nghe thấy tiếng rào rào của hạt ngũ cốc, tiếng hát âm ấm của những người thợ xay và tiếng xôn xao của dòng sông.
        - Thưa cha - mãi sau người thợ mới hỏi - đứa phản bội là ai vậy?
        Lão Khilon cúi đầu. Thằng phản bội là ai ư? Hắn là con trai của Juđa, là con đẻ của thứ nọc độc của y, hắn giả danh là người Thiên Chúa và lui tới các nhà nguyện chỉ để tố giác những người anh em trước hoàng đế, rằng họ không thừa nhận hoàng đế là thần, rằng họ đánh thuốc độc các vòi nước phun, giết chóc trẻ con và rằng họ muốn triệt phát cái thành phố này sao cho không một hòn đá nào còn nguyên vẹn nữa. Chỉ vài ngày nữa thôi người ta sẽ ra lệnh cho bọn cấm vệ bắt hết các cụ già, đàn bà và trẻ con mang đi giết, như đã hành hình những người nô lệ của viên quan Peđanius Xekunđa vậy. Và tất thấy những chuyện đó là do chính tên Juđa thứ hai kia gât nên. Nếu như tên Juđa thứ nhất không bị ai trừng phạt, nếu như hắn không bị ai trả thù, nếu như không một ai bảo vệ Đấng Crixtux trong giờ lâm nạn cực hình, thì liệu ai chăng sẽ trừng trị tên Juđa, thứ hai, có ai chăng sẽ đánh giập đầu con rắn độc trước khi hoàng đế nghe lời hắn, có ai chăng sẽ trừ khử hắn, có ai chăng sẽ bảo vêh những người an hem, bảo vệ lòng tin vào Đấng Crixtux tránh khỏi bị diệt vong?
        Urban từ nãy giờ vẫn ngồi yên lặng trên bờ đá chắn đột ngộ đứng bật dậy nói:
        - Tôi sẽ làm việc đó thưa cha.
        Lão Khilon cũng đứng dậy, lão nhìn mặt người thợ giây lâu, nét mặt được ánh trăng chiếu sáng, rồi khoan thai đưa cánh tay đặt nhẹ lên đầu bác.
        - Con hãy đi vào những người Thiên Chúa giáo - lão nói một cách trang trọng - và hỏi những người an hem về gã thầy thuốc Glaukox. Khi người ta trỏ gã cho con, thì nhân danh Đấng Crixtux, con hãy giết gã đi…
        - Glaukox à? - Người thợ nhắc lại dường như muốn khắc ghi vào tâm khảm cái tên ấy.
        - Con biết y hay sao?
        - Không, tôi không quen. Có tới hàng nghìn tín đồ Thiên Chúa ở Roma và không phải ai cũng biết hết nhau. Nhưng đêm mai anh chị em đồng đạo sẽ họp mặt nhau ở Oxtrianum, tất thảy mọi người, bởi vì vị sứ đồ của Đấng Crixtux đã đến, Người sẽ thuyết giáo tại đó và ở đó an hem sẽ chỉ mặt gã Glaukox cho tôi.
        - Ở Oxtrianum ư? - Lão Khilon hỏi lại - Có nghĩa là bên ngoài các cổng thành? Tất thảy anh chị em đồng đạo? Ban đêm à? Ở Oxtrianum, ngoài cổng thành à?
        - Vâng thưa cha. Đó là cái nghĩa địa của chúng ta nằm giữa Via Xataria và Via Nomentama. Vậy ra người không biết rằng đức sứ đồ sẽ thuyết giáo tại đó ư?
        - Hai hôm nay ta không có nhà nên không nhận được thư của người, ta cũng không biết Oxtrianum ở đầu vì ta mới từ Koryntơ đến đây cách đây chưa bao lâu, lại Koryntơ ta cai quản họ đạo ở đấy…Nhưng phải rồi! Nếu Đấng Crixtux đã gieo vào lòng con niềm phấn hứng mạnh như thế thì con của ta đêm mai hãy đi tới Oxtrianum, tìm bằng được tên Glaukox trong số những người an hem và trừ khử hắn trên đường hắn quay trở về thành phố, điều nay sẽ rửa sạch mọi tội lỗi cho con. Và cầu cho bằng an ở cùng các con!
        - Thưa cha…
        - Gì thế con, hỡi nô bộc của con chiên.
        Trên nét mặt của người thợ hiện rõ vẻ lúng túng. Cách đây chưa lâu bác vừa mới giết một người - mà cũng rất có thể tới hai người - trong khi luân lý của Đấng Crixtux lại cấm việc sát sinh. Thực ra bác không giết họ troçng lúc tự vệ vì ngay cả điều ấy cũng bị nghiêm cấm. Bác cũng không giết họ vì lợi nhuận, lạy Đấng Crixtux che chở…Chính ngài giám mục đã giao cho bác những người an hem để họ giúp đỡ bác, song ngài cũng không cho phép sát sinh, còn bác, bác đã giết người mặc dù không muốn thế. Thượng đế đã bắt bác phải có một sức mạnh hơn người…Giờ đây bác đang ăn năn sám hối một cách nặng nề…Những người khác ca hát trong khi xay bột, còn bác như một kẻ bất hạnh cứ ăn năn hoài về tội lỗi của mình, về việc mình đã xúc phạm tới con chiên…Bác đã cầu nguyện, đã than khóc biết bao lâu nay rồi! Bác đã cầu xin con chiên tha thứ cho bác bao lần rồi! Cho tới nay bác vẫn cảm thấy mình sám hối hãy còn chưa đủ…Ấy vậy mà giờ đây bác lại hứa sẽ đi giết một tên phản bội…Cũng được thôi! Chỉ có những điều xúc phạm tới bản thân thì mới cần phải tha thứ, bác sẽ giết hắn ngày mai ở Oxtrianum, ngay trước mắt tất cả các anh chị em đồng đạo. Nhưng trước hết, tên Glaukox nọ cần phải được xét xử bởi những bậc cao đạo nhất trong số những người an hem bởi đức giám mục hay bởi chính sứ đồ. Giết hắn chỉ là chuyện vặt, thậm chiết giết một kẻ phản bội còn là điều sung sướng như giết một con chó hay một con gấu mà thôi, nhưng nếu như tên Glaukox chết một cách vô tội thì sao? Làm sao bác có thể gánh thêm một tội giết người mới, thêm một tội lỗi mới, một điều xúc phạm mới đối với con chuên trong linh hồn mình?
        - Không có thù giờ để lập tòa án, con ạ - Khilon đáp - vì kẻ phản bội sẽ đi thẳng từ Oxtrianum đến Anxium gặp hoàng đế, hoặc sẽ trốn tránh trong nhà một vị quý tộc mà hắn đang phục vụ, nhưng đây, ra cho con cái dấu hiệu này, sau khi giết chết Glaulox con hãy trình đức giám, thì cả đức giám lẫn đại sứ đồ sẽ ban phước cho hành động của con.
        Vừa nói thế lão vừa lấy ra một đồng tiền, lục tìm con dao trong thắt lưng, lão dùng lưỡi dao khắc lên đồng xexieccxi một dấu chữ thập, rồi đưa cho người thợ.
        - Đây là bản ánh dành cho Glaukox đồng thời cũng là dấu hiệu cho con. Sau khi trừ khử Glaukox, nếu như con trình cái này lên đức giám thì người sẽ xá tội cho con ngay cả vụ giết người mà con đã làm một cách không hề cố ý kia.
        Người thợ bất giác chìa tay nhận đồng tiền, nhưng trí óc bác hẳn còn nhớ quá rõ nét vụ giết người đầu tiên kia nên bác chợt cảm thấy sợ hãi.
        - Thưa cha - bác nói như giọng van lơn - thế có nghĩa là người sẽ gánh chịu trên lương tâm mình hành động này cà chính người đã nghe tên Glaukox bán đứng anh em chúng ta?
        Lão Khilon hiểu rằng cần phải đưa ra một bằng chứng nào đó, nêu ra một cái tên họ nào đó, nếu không trái tim người khổng lồ này sẽ bị nỗi ngờ vực len vào. Bỗng một ý nghĩ hay ho nảy ra trong đầu lão.
        - Con hãy nghe đây. Urban - lão bảo - Ta sinh sống tại Koryntơ nhưng xuất thân từ đảo Kox và tại Roma đây ta truyền bá giáo thuyết của Đấng Crixtux cho một người thiếu nữ cùng quê với ra tên là Eunixe. Cô ta là nô tỳ chuyên lo trang phục ở nhà một người bạn của hoàng đế, gã Petronius nào đó. Đó, chính trong ngôi nhà ấy ra đã được nghe lão Glaukox nhận ra việc bán rẻ tất thẩy những người an hem Thiên Chúa giáo, ngoài ra hắn còn hứa với một tên đồng bọn khác của hoàng đế là Vinixius rằng sẽ tìm bằng được cô gái trong đám tín đồ Thiên Chúa…
        Nói tới đây lão ngừng lại và ngạc nhiên nhìn người thợ vì mắt bác chợt long lên như mắt thú dữ, mặt bác bỗng đổi thành nét giận dữ và đáng sợ.
        - Con là sao thế? - Lão hỏi như sợ hãi.
        - Không, thưa cha. Ngày mai con sẽ giết chết Glaukox…
        Song lão Hi Lạp im lặng, lát sau lão ôm lấy vai người thợ, quay mặt bác cho ánh trăng chiếu thẳng vào mặt rồi nhìn bác chăm chú. Rõ ràng là trong một tâm khảm lão chần chừ không hiểu nên hỏi tiếp để lôi ra ánh sáng hay tạm thời cứ hẵng tạm bằng lòng với những gì lão đã biết được hoặc đoán ra được.
        Cuối cùng cái tính cẩn thận bẩm sinh vẫn thắng.
        Lão thở dài một lần, hai lần, rồi đặt lại bàn tay lên đầu người thợ, lão hỏi bằng một giọng trang trọng và nghiêm trang:
        - Vậy khi rửa tội con được đặt tên là Urban?
        - Vâng thưa cha.
        - Cầu cho con bằng an, Urban con!


        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          T1- Chương 18

          Petronius gửi Vinixius:
          “Anh thật hỏng mất rồi, anh cháu thân yêu ạ(1)“! Rõ ràng nữ thần Venux đã khiến anh loạn trí, tước mất của anh trí tuệ, trí nhớ và khả năng suy nghĩ về bất cứ thứ gì khác ngoài ái tình. Một lúc nào đó anh hãy đọc lại những gì mà anh đã viết để trả lời cậu và anh sẽ nhận thấy rằng hiện giờ đầu óc anh quả là hững hờ với tất cả những gì không phải cô nàng Ligia., rằng anh chỉ quan tâm đến mỗi mình nàng, luôn luôn quay trở lại chuyện về nàng và quanh quẩn quanh nàng như một con diều hâu lượn quanh con mồi mà nó đã chọn. Thề có Ponlukx! Anh hãy tìm ra cô gái thật nhanh vào bằng không nếu lửa thiêu cháy anh thành tro thì hẳn anh cũng sẽ biến thành một con Nhân sư Ai Cập, mà người ta thường nói, quá say mê nữ thần Izyx mặt nhợt nhạt nên đã trở nên điếc đặc, hờ hững với tất cả mọi thứ và chỉ chờ đến đêm để được giương đôi mắt đá nhìn người tình.
          Đêm đêm anh cứ việc chạy lùng khắp thành phố trong bộ quần áo cải trang, anh cứ việc cùng với nhà triết học của anh lui tới các nhà nguyện của đám dân Thiên chúa giáo. Tất cả những gì tạo nên niềm hy vọng và giết thời giờ đều đáng ca ngợi cả. Nhưng xin anh hãy vì tình gắn bó với cậu mà làm hộ một việc: Tên Urxux, nô lệ của Ligia, hình như là một con người sức lực phi thường, vậy hãy thuê Kroton để cả bộ ba các anh tiến hành những cuộc thám hiểm. Như thế an toàn hơn và có lý trí hơn. Chắc chẳn rằng những người Thiên chúa giáo - nếu như bà Pomponis và Ligia thuộc về đạo này - không phải là những người như số đông chúng ta vẫn hiểu, tuy nhiên qua chuyện bắt cóc Ligia, họ cũng đã chứng minh rằng họ không đùa cợt khi ai đó động chạm đến một con chiên trong đám của họ. Nếu như anh trông thấy Ligia, cậu biết rõ rằng anh sẽ không thể cầm lòng nổi và anh sẽ muốn lôi nàng đi ngay lập tức, nhưng làm sao anh và lão Khilon có thể làm nổi chuyện đó cớ chứ? Còn Kroton thì sẽ làm được, dù cho tới mười thằng cha khỏe như Urxux bảo vệ nàng đi chăng nữa. Anh đừng để cho lão Khilon bóc lột, nhưng đừng tiếc tiền đối với Kroton. Trong tất cả những lời khuyên mà cậu có thể gửi tới anh, có lẽ lời khuyên này tốt hơn cả.
          Ở đây người ta đã thôi không còn nói tới Tiểu Auguxta và chuyện cô bé bị chết vì bùa phép nữa. Một đôi khi Poppea cũng còn nhắc tới chuyện đó, nhưng đầu óc của Hoàng thượng đang bận bịu về chuyện khác kia, mà nói cho cùng thì nếu như diva Auguxta hiện đang trong trạng thái tâm tính đổi thay thì chắc trong lòng ả, ký ức về đứa bé kia cũng đã bị xóa sạch rồi. Đã hơn chục ngày nay chúng tôi lưu lại Neapolix, mà chính xác hơn ở Baiae. Giá như anh có thể suy nghĩ về bất cứ điều gì thì chắc chắn những tiếng vang về việc chúng tôi đến đây cũng phải vọng tới tai anh, vì cả La Mã chắc hẳn không bàn tán về chuyện gì khác. Chúng tôi đã đi thẳng một mạch tới Baiae, nơi mà những tưởng niệm về người mẹ cùng những dày vò trong lương tâm đè nặng lên chúng tôi. Nhưng anh có biết Ahenobarbux (Râu Đỏ) đã tiến đến chỗ nào rồi không? Đến chỗ mà thậm chí tội giết mẹ đẻ đối với ngài cũng chỉ là một đề tài làm thơ và là nguyên cớ để diễn những vở bi hài kịch. Hồi trước ngài chỉ cảm thấy những cắn rứt thật sự khi còn là thằng hèn nhát. Còn giờ đây, một khi ngài đã tin rằng không hề có vị thần nào trả thù ngài cả, thì ngài lại giả vờ làm ra vẻ lương tâm cắn dứt để làm xúc động lòng người bằng chính số phận của ngài. Thỉnh thoảng ngài lại choàng dậy giữa đêm khuya và bảo rằng bị những nữ thần Furie săn đuổi, ngài đánh thức chúng tôi, ngài nhìn ngoảnh lại đằng sau lưng, ngài đóng vai một tên diễn viên hài kịch đang nhập vai Orext - mà là một tên diễn viên xoàng - ngài đọc thơ Hi Lạp và nhìn xem chúng tôi có thán phục hay chăng. Còn chúng tôi thì dĩ nhiên là thán phục sát đất rồi! Và thay vì bảo ngài: “Thôi đi ngủ đi, thằng hề” thì chúng tôi lại lên dây bi thảm và chúng tôi bảo vệ cho Người nghệ sĩ vĩ đại tránh khỏi các thần Furie. Thề có Kaxtor! Có lẽ ít nhất anh cũng chỉ cần biết rằng ngài đã công diễn ở Neapolix. Người ta đã lùa bọn vô lại Hi Lạp từ Neapolix và các thành phố lân cận tới, chúng khiến cho sân khấu sặc sụa mùi tỏi sống và mùi mồ hôi, đến nỗi cậu thành tâm cảm ơn Thượng đế rằng thay vì ngồi trên hàng đầu giữa các cận thần thì cậu lại cùng với Ahenobarbux ở sau sân khấu. Nhưng anh có tin là ngài đã run sợ không? Ngài đã run đấy. Ngài cầm tay cậu áp vào tim, trái tim quả thực đang đập dập đập dồn. Hơi thở ngắn và đúng vào lúc phải bước ra sân khấu thì ngài tái nhợt như một miếng giấy da cừu, trán tháo mồ hôi hột. Mà ngài thừa biết là tất cả các hàng ghế đều có bọn lính cấm vệ ngồi chực sẵn mang theo gậy để khi cần thiết sẽ bắt mọi người phải sôi nổi lên. Nhưng không cần đến thế. Không một đàn khỉ nào ở vùng Kartagin lại biết gào thét như đám vô lại này. Nói thật để anh biết, mùi tỏi sộc cả lên tận sân khấu. Còn Nerô thì cúi chào, hai tay áp vào tim, gửi những cái hôn gió và bật lên khóc. Rồi ngài nhào vào đám bọn cậu đang chờ sẵn sau sân khấu kêu tướng lên như một thằng say rượu: “Tất cả mọi thắng lợi có thấm gì so với thành công của ta?”. Còn bên dưới đám vô lại vẫn cứ hò hét và vỗ tay vì chúng biết rõ rằng chúng vỗ tay cho chính ân sủng, quà tặng, công việc làm, vé xổ số của chúng, cho một buổi biểu diễn mới của ông Hoàng đế hề. Và thậm chí cậu cũng không ngạc nhiên gì về việc chúng đã vỗ tay, vì cho tới nay bọn chúng đã được trông thấy cảnh tượng như thế này bao giờ đâu cơ chứ. Còn ngài, chốc chốc ngài lại xuýt xoa: “Đó, người Hi Lạp là thế đó! Người Hi Lạp là thế đó”. Và cậu cảm thấy rằng, từ lúc ấy trở đi, lòng căm thù của ngài đối với La Mã ngày một lớn lên. Tuy vậy ngài cũng vẫn phái các điệp sứ mang tin thắng lợi về Roma và trong những ngày này các cậu đang chờ đón lời cảm ơn của Nguyên lão viện. Ngay cuộc công diễn đầu tiên của Nerô, ở đây đã xảy ra một tai nạn kỳ lạ. Nhà hát bỗng nhiên đổ sập, nhưng đổ sập sau khi người ta đã ra về hết. Cậu đến hiện trường và không hề thấy người ta lôi một xác người nào ra khỏi đống đổ nát. Nhiều người, trong đó có cả người Hi Lạp xem đó như một cơn giận của các vị thần vì xem thường quyền lực của Hoàng đế, ngài ngược lại, lại khẳng định rằng đó là ân huệ của các vị thần linh bảo trợ cho tiếng hát của ngài cũng như những người nghe ngài hát. Vì thế trong tất cả các thần miếu người ta dâng thêm các lễ vật mới cùng những lời tạ ơn, còn đối với ngài, đó lại là một niềm cổ vũ mới cho chuyến đi tới Akhai. Tuy vậy vài ngày trước đây ngài có nói rằng ngài sợ, không hiểu dân Roma sẽ nói gì về chuyện đó và không hiểu họ có nổi loạn chăng, một phần vì yêu quý ngài, phần nữa vì việc phân phát ngũ cốc và các trò vui rất có thể sẽ bị trễ nải do sự vắng mặt lâu hơn nữa của Hoàng đế.
          Tuy vậy chúng tôi vẫn đi Beneventơ để chiêm ngưỡng sự xa hoa của lũ thợ giầy do Vatynius trình bày, rồi từ đó, dưới sự bảo trợ của những người anh linh thiêng của nữ thần Helena, chúng tôi sẽ tới Hi Hạp. Còn nói riêng về cậu thì cậu cũng nhận thấy một điều là nếu anh sống giữa bọn điên thì anh cũng sẽ trở thành thằng điên, tệ hơn nữa anh sẽ tìm ra một vẻ đẹp nào đó trong sự điên rồ. Hi Lạp và cuộc hành trình với hàng nghìn chiếc đàn tranh, một cuộc diễu hành khải hoàn của chiến thần Bak, giữa các tiên nữ và đồng nữ thờ thần rượu đội những vòng lá sim thơm, lá nho và cành giao, các cỗ xe thắng cương hổ, những hoa cùng vòng hoa, những chiếc gậy thần quấn dây trường xuân của thần Đionizox những tiếng hò reo: Evoe! Âm nhạc, thi ca và nữ thần Helena vỗ tay, tất thảy những thứ đó đều hay ho cả, nhưng ở đây chúng tôi còn nuôi dưỡng những ý tưởng dũng cảm hơn nữa kia. Chúng tôi muốn tạo ra một đế chế Đông phương thần thoại nào đó, quốc gia của những cây cọ, của vầng dương, của thi ca, của thực tại được biến thành giấc mơ và cuộc đời biến thành một lạc thú duy nhất. Chúng tôi muốn quên đi cái kinh thành Roma, muốn đặt cán cân thế giới ở đâu đó giữa Hi Lạp, Á châu và Ai Cập, muốn sống cuộc sống không phải của con người mà của của các linh thần không biết thế nào là chuyện trần tục, lạc lối giữa những hành lang bằng vàng dưới bóng cánh buồm màu huyết dụ lênh đênh, trên Arkhipeiag, muốn được là Apolon, Ozyryx và Baan trong cùng một con người, muốn rực hồng trong ánh bình minh vàng rực với vầng dương và lấp lánh bạc cùng vầng nguyệt, muốn được làm chủ nhân, được ca hát và mơ tưởng… Và anh biết không, rằng cậu, con người dẫu sao cũng vẫn còn một đồng ý chí và một xu lương tri, ấy vậy mà vẫn để cho những chuyện viễn tưởng kia lôi cuốn và để cho chúng cuốn lôi bởi vì dẫu chúng không thể nào có thực thì dù sao chúng cũng thật phi thường và vĩ đại… Cái đế chế thần thoại ấy sẽ là một thứ mà mai sau, mai sau, sau những thế kỷ dài dằng dặc nữa sẽ vẫn là mộng tưởng đối với con người. Giá nữ thần Venux không hóa thân thành một nàng Ligia hay ít ra cũng thành một nữ tỳ như Eunixe, giá như cuộc sống không được trang điểm bởi nghệ thuật, thì bản thân cuộc sống thật trống rỗng và trăm lần mang bộ mặt khỉ. Song Râu Đỏ không hiện thực hóa những ý tưởng của y đâu, vì rằng trong cái vương quốc thần thoại nọ của thi ca và của Đông phương sẽ không thể nào có chỗ cho sự phản bội, sự đê tiện và cái chết, trong khi đó dưới cái vỏ thi sĩ trong y lại chỉ có một chàng trai kịch sĩ hài kịch tầm thường, một tên đánh xe ngớ ngẩn và một tên bạo chúa nông cạn. Tuy nhiên chúng tôi vẫn cứ bóp cổ những kẻ làm chúng tôi thất vọng theo một cách nào đó như thường. Lão Torkvatux Xylanux đáng thương chỉ còn là một bóng ma. Mấy ngày trước đây hắn đã phải tự mở phanh mạch máu của mình. Lekanius và Lixynius run rẩy nhận chức chấp chánh quan, còn ông lão Trazeas cũng không thể tránh khỏi chết, vì tử thần vốn công minh. Cho tới nay Tygelinux vẫn chưa soạn nổi cho cậu bản án bắt cậu phải tự mở phanh mạch máu. Cậu hãy còn cần thiết, không chỉ với vai trò eglegantiac arbiler mà còn như một người, mà nếu thiếu đi niềm vui và hương vị thơm tho của chuyến đi Akkhai có thể sẽ không còn. Tuy nhiên nhiều lúc cậu nghĩ rằng sớm muộn rồi cũng phải kết thúc ở đó và anh có biết những khi ấy cậu nghĩ ra điều gì không? Đó là sao cho Râu Đỏ không được nhận chiếc bình xứ Miren của cậu, chiếc bình mà anh đã biết và đã thán phục đấy. Nếu khi cậu chết mà anh ở bên cậu thì cậu sẽ tặng anh chiếc bình đó, còn nếu anh ở xa, cậu sẽ đập vỡ nát nó ra. Song trước mặt chúng ta hãy còn có thành Beneventơ của bọn thợ giầy, còn có Hi Lạp với những hội thế vận và nữ thần Fatum, kẻ chỉ cho từng người một con đường chưa từng biết và không thể tưởng trước. Anh khỏe nhé, nhớ thuê Krolon, nếu không người ta sẽ cướp Ligia của anh lần nữa đấy. Lúc nào anh thôi cần đến lão Khilon hãy gửi lão đến cho cậu, dù cậu đang ở bất cứ nơi đâu. Rất có thể cậu sẽ biến lão ta thành một tên Vatynius thứ hai và những vị chấp chính quan cùng các ngài nguyên lão nghị viên sẽ phải run lên trước lão như đã từng run rẩy trước vị hiệp sĩ thợ giầy nọ. Đó là một cảnh tượng thật đáng trông thấy. Nếu anh tìm lại được nàng Ligia, hãy báo cho cậu biết để cậu dâng thiên nga và bồ câu lên thần miếu hình tròn nơi thờ thần nữ Venera cầu nguyện cho anh chị. Có lần cậu nằm mơ thấy Ligia đang ngồi trên đầu gối của anh và tìm những nụ hôn của anh. Hãy cố gắng để giấc mơ đó là giấc mộng báo trước. Cầu cho bầu trời của anh không gợn một bóng mây đen nào và nếu có mây, cầu cho chúng có màu sắc và hương hoa hồng. Mong anh khỏe, tạm biệt anh!”.
          Chú thích:
          (1) Tiếng Latinh trong nguyên bản: Carissme.


          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #20
            T1 -Chương 19

            Vinixius vừa đọc xong thì lão Khilon đã không một tiếng động ló người vào thư viện mà không một ai báo trước, vì gia nhân được lệnh để cho lão ra vào bất kể giờ nào, ngày cũng như đêm.
            - Cầu người mẹ thánh linh của ông cụ tổ Encas đại lượng của ngài - lão nói - sẽ ban ơn phước cho ngài, thưa ông chủ, giống như người con trai thần thánh của nữ thần Mai đã rủ lòng thương tôi vậy.
            - Thế nghĩa là gì? - Vinixius hỏi và bật dậy khỏi cái bàn chàng đang ngồi.
            Lão Khilon ngẩng đầu lên nói:
            - Eureca!(1)
            Chàng quý tộc trẻ tuổi xúc động đến nỗi suốt giây lâu không thốt được một lời nào.
            - Ngươi đã trông thấy nàng rồi ư? - Mãi sau chàng hỏi.
            - Tôi đã nhìn thấy tên Urxux, thưa ngài và đã trò chuyện với hắn.
            - Và ngươi biết hiện chúng đang ẩn trú nơi đâu?
            - Không thưa ngài. Giá là kẻ khác thì vì tự tôn, chắc hắn đã để lộ cho tên Ligi biết rằng hắn đã đoán được y là ai. Kẻ khác hẳn đã cố gắng tìm hiểu xem y sống tại đâu và chắc chắn đã được nhận một quả cân mà sau đó mọi sự trên đời đối với hắn đều trở nên vô nghĩa, hoặc sẽ khiến cho tên khổng lồ nọ nghi ngờ và có thể ngay trong đêm nay y sẽ kiếm cho cô gái một chỗ ẩn náu khác. Tôi đã không hành động như thế, thưa ngài. Tôi chỉ cần biết rằng tên Urxux hiện đang làm việc cho một tên chủ cối xay bột gần Empirum tên là Đemax - giống như tên một người nô lệ giải phóng của ngài - tôi chỉ cần có thế thôi và giờ đây, một tên nô lệ tin cẩn nào đó của ngài sáng sớm mai có thể đi theo hút y và phát hiện ra chỗ họ đang ẩn trốn. Thưa ngài, còn tôi, tôi chỉ mang tới cho ngài điều đoán chắc rằng, nếu tên Urxux còn đang ở nơi đây thì nàng Ligia thần nữ hiện đang có mặt tại Roma và tin thứ hai là đêm hôm nay hầu như chắc chắn là nàng sẽ có mặt tại Oxtrianum.
            - Tại Oxtrianum? Đó là nơi nào vậy? - Vinixius ngắt lời, rõ ràng là chàng muốn chạy ngay tới chỗ được chỉ.
            - Một nhà mồ cổ nằm ngay giữa Via Xalaria và Nomentena. Vị pontifex maximus (chức sắc cao nhất) của đạo Thiên chúa mà tôi đã thưa cùng ngài, người mà người ta cho rằng còn lâu nữa mới tới, hiện đã tới đây và đêm nay chính tại nghĩa địa ấy, ông ta sẽ làm lễ rửa tội và thuyết giảng. Bọn họ vẫn giấu diếm giáo thuyết của mình, vì mặc dù cho tới nay chưa có đạo luật nào cấm đoán nó, nhưng người ta vẫn căm ghét họ nên họ phải thận trọng. Chính tên Urxux nói cho tôi hay rằng tất cả mọi người không trừ một ai đêm nay sẽ tập trung tại Oxtrianum vì ai cũng muốn được gặp và được nghe người học trò số một của Đấng Crixtux, mà người ta gọi là Sứ đồ. Và bởi vì giữa bọn họ thì đàn bà cũng ngang bằng với đàn ông, nên có lẽ trong số đàn bà con gái chỉ vắng mặt bà Pomponia, vì bà ta không thể giải thích thế nào cho ông Aulux - người vẫn thờ cúng các vị thần cổ xưa - rõ, tại sao đêm hôm bà lại ra khỏi nhà, còn nàng Ligia thì thưa ngài, nàng được Urxux và các vị bề trên của họ đạo che chở nên chắc chắn hẳn nàng sẽ đến dự cùng với các phụ nữ khác.
            Vinixius, người cho tới lúc này vẫn sống như trong cơn mê sảng chỉ còn tồn tại bởi niềm hy vọng, giờ đây khi niềm hy vọng ấy có cơ trở thành hiện thực chàng bỗng cảm thấy rời rã cả người hệt như một người bộ hành kiệt sức vừa về tới đích. Lão Khilon nhận thấy điều đó và quyết định lợi dụng ngay:
            - Thưa ngài, các cổng thành quả có người của ngài canh gác và chắc chắn bọn Thiên chúa giáo cũng biết rõ điều đó. Nhưng họ không cần các cổng thành đâu. Sông Tyber cũng không cần cho họ và mặc dù từ sông tới mạn ấy rất xa, họ cũng chẳng ngại gì chuyện chuốc thêm đường đất để được gặp vị “Đại Sứ Đồ”. Mà nói cho cùng, họ có thể có hàng nghìn cách để vượt tường thành và tôi biết chắc rằng họ có thể.
            - Tại Oxtrianum ngài sẽ tìm thấy nàng Ligia thưa ngài và thậm chí nếu như điều - mà tôi không nghĩ là có thể xảy ra - nàng không có mặt tại đấy, thì cũng sẽ có tên Urxux, vì tên này đã hứa với tôi là sẽ giết chết lão Glaukox. Chính hắn nói với tôi là hắn sẽ có mặt tại đó và sẽ giết lão, ngài có nghe rõ chăng, thưa ngài hộ dân quan cao quý? Vậy thì hoặc là ngài sẽ đi theo sau hắn và sẽ tìm biết được nàng Ligia đang ở nơi nào, hoặc ngài sẽ ra lệnh cho người của ngài bắt hắn như bắt một tên sát nhân và một khi đã nắm được hắn trong tay, ngài sẽ bắt hắn khai ra nơi hắn dấu nàng Ligia. Thế là tôi đã hoàn thành công việc của tôi rồi nhé! Nếu là kẻ khác, thưa ngài, hắn sẽ phịa với ngài rằng y đã nốc cùng Urxux cạn cả mười vò rượu nho hảo hạng nhất trước khi moi được điều bí mật, kẻ khác hẳn đã nói với ngài rằng đã phải chịu thua Urxux một ngàn đồng xexlecxi trong trò scriptae duodecim hoặc đã mua cái tin ấy với giá hai ngàn đồng. Tôi biết là ngài đã sẵn lòng trả lại gấp đôi số tiền ấy, tuy vậy, ít nhất cũng một lần trong đời… À, đó là tôi muốn nói, như mọi lần rằng - như ngài Petronius đại lượng đã từng nói - tất thảy mọi khoản chi tiêu cùng mọi niềm hoài vọng của tôi sẽ bị lòng hào phóng của ngài vượt xa.
            Song Vinixius là một người lính, chàng không những chỉ quen tự lo liệu trong một tình huống mà còn biết hành động nữa, nên chàng thắng phút yếu lòng mình và bảo:
            - Ngươi sẽ không phải thất vọng về lòng hào phóng của ta, nhưng trước hết ngươi phải đi cùng ta tới Oxtrianum đã.
            - Tôi phải đi tới Oxtrianum sao? - Lão Khilon hỏi lại, lão không hề muốn tới đó chút nào. - Tôi, thưa ngài hộ dân quan tôn kính, chỉ hứa sẽ chỉ ra chỗ ở của nàng Ligia cho ngài, chứ có hứa sẽ bắt cóc nàng đâu… Xin ngài hãy nghĩ hộ xem chuyện gì sẽ xảy đến với tôi, một khi con gấu xứ Ligi kia, sau khi xé xác lão Glaukox, lại biết được rằng đã xé xác lão một cách hoàn toàn vô căn cứ? Liệu hắn có xem tôi (nói cho cùng thì quan niệm như thế là sai) như thủ phạm của vụ giết người ấy chăng? Xin hãy nhớ, thưa ngài, rằng triết gia càng vĩ đại bao nhiêu thì lại càng khó trả lời những câu hỏi ngu ngốc của bọn người vai u thịt bắp bấy nhiêu, vậy nên tôi làm sao có thể trả lời được nếu y hỏi tại sao tôi lại kết tội lão thầy thuốc Glaukox? Còn nếu ngài nghĩ tôi định đánh lừa ngài thì xin ngài hãy trả tiền cho tôi khi nào tôi chỉ được cho ngài thấy ngôi nhà nàng Ligia đang ở, còn hôm nay, chỉ xin ngài hé cho tôi thấy chút xíu lòng hào phóng của ngài mà thôi, để nếu như ngài bị (cầu tất cả linh thần tránh cho ngài khỏi điều ấy) một tai nạn nào đó, thì tôi cũng khỏi phải chịu cảnh thiệt thòi không được chút ân thưởng. Trái tim ngài hẳn không bao giờ chịu đựng nổi một chuyện như thế đâu.
            Vinixius bước đến cái hòm đặt trên những chiếc chân bằng đá cẩm thạch, được gọi là arca và lấy ra một túi tiền, chàng dúi cho lão Khilon.
            Túi này đựng những đồng xerapumum - chàng bảo, - Khi nào Ligia về lại nhà ta, nhà ngươi sẽ được nhận một túi tiền như thế này nhưng đựng đầy những đồng aureux(2).
            Lạy thần Jupiter! - Lão Khilon kêu lên.
            Song Vinixius nhíu đôi lông mày.
            Tại đây, nhà ngươi sẽ được ăn, sau đó ngươi có thể nghỉ ngơi. Từ giờ đến chiều ngươi sẽ không được rời khỏi đây, đêm đến ngươi sẽ đi cùng ta tới Oxtrianum.
            Trên nét mặt lão Hi Lạp thoáng hiện vẻ sợ hãi và ngần ngại trong giây lát, nhưng sau đó lão định thần lại và nói:
            Nào ai cưỡng chống ngài đâu cơ chứ! Xin ngài hãy đón nhận những lời này như một lời bói tốt lành, giống như vị anh hùng vĩ đại trong thần miếu Ammon của chúng ta đã từng đón nhận những lời tương tự. Còn tôi thì những đồng tiền “vặt vãnh” này (lão lắc cái túi tiền) đã chinh phục tôi rồi, chưa nói tới chuyện được đi cùng ngài, điều quả thực là niềm sung sướng và vinh hạnh cho tôi.
            Song Vinixius đã nóng nẩy ngắt lời lão và chàng bắt đầu hỏi tỉ mỉ về những chi tiết cuộc nói chuyện của lão với Urxux. Từ những lời trò chuyện đó có thể rút ra một điều rõ ràng là: Hoặc ngay trong đêm nay, nơi ẩn náu của Ligia sẽ được tìm ra, hoặc có thể bắt cóc nàng khi nàng từ Oxtrianum quay trở về. Chỉ cần nghĩ tới đó là một niềm vui bồng bột đã trào dâng trong lòng Vinixius. Giờ đây, khi chàng đã gần như cầm chắc sẽ đoạt lại được Ligia thì cả nỗi tức giận cùng niềm oán trách đối với nàng chợt biến mất. Vì niềm vui sướng ấy, chàng có thể tha thứ cho nàng mọi lỗi lầm. Chàng chỉ còn nghĩ về nàng như nghĩ về một sinh linh thân yêu và đầy thèm muốn, chàng có cảm giác như sau một hành trình dài dằng dặc sắp được trở về. Chàng những muốn gọi đám nô lệ đến và lệnh cho họ trang trí nhà cửa bằng các tràng hoa dây cuốn. Thậm chí lúc này đây chàng cũng không còn oán bác Urxux nữa. Chàng sẵn lòng tha thứ cho mọi người tất thẩy mọi điều. Lão Khilon, người mà cho tới nay chàng vẫn cảm thấy gớm ghét bất chấp những công trạng của lão, lần đầu tiên bỗng trở nên một con người thú vị và không tầm thường trong mắt chàng. Chàng thấy như ngôi nhà bỗng trở nên rực rỡ, mắt người và những khuôn mặt rạng rỡ hẳn ra. Chàng lại cảm nhận được tuổi trẻ và lạc thú của cuộc đời. Nỗi cay đắng, buồn thảm vừa qua chưa thấm thía gì một khi chàng vẫn còn yêu Ligia. Mãi tới giờ đây khi chàng hy vọng sẽ có được nàng, chàng mới hiểu ra điều ấy.
            Nỗi khát khao thức dậy trong chàng như đất đai được mặt trời sưởi ấm tỉnh thức lúc sang xuân, song giờ đây dục vọng của chàng hình như ít mù quáng hơn và ít hoang dã hơn, mà nhiều vui sướng và giàu âu yếm hơn. Chàng cảm thấy trong lòng có một nghị lực vô biên và chàng tin chắc rằng một khi mắt chàng trông thấy Ligia rồi thì dù tất cả các tín đồ Thiên chúa giáo trên toàn thế giới - thậm chí ngay cả chính Hoàng đế - cũng không thể nào cướp lại nàng được nữa.
            Còn lão Khilon, được nỗi vui sướng của chàng tiếp thêm can đảm, cũng cất tiếng góp những lời khuyên. Theo lão chớ nên vội xem là chuyện này đã được giải quyết xong mà nên giữ thận trọng tối đa vì nếu không mọi sự sẽ hóa ra công cốc hết. Lão cũng cầu khẩn Vinixius, khuyên chàng chớ có bắt Ligia ngay tại Oxtrianum. Cả bọn nên tới đó với những chiếc mũ trùm đầu để che mặt và chỉ nên ẩn vào một góc tối nào đó để quan sát tất cả mọi người mà thôi. Khi nào thấy Ligia thì tốt nhất nên đi theo nàng với một khoảng cách đủ xa để xem xem nàng vào nhà nào, sáng sớm mai mới dùng một lực lượng nô lệ mạnh bao vây ngôi nhà ấy và bắt nàng giữa ban ngày. Vì nàng là con tin và thuộc quyền Hoàng đế nên hoàn toàn có thể làm chuyện đó mà không sợ phạm pháp. Còn nếu như không thấy nàng ở Oxtrianum thì sẽ đi theo sau Urxux và kết quả cũng tương tự như thế. Còn tại nghĩa địa, trước một số đông người thì không thể thành công được, vì có thể làm cho mọi người để ý và khi ấy bọn Thiên chúa giáo chỉ cần tắt tất cả đèn đóm - giống như trong lần bắt cóc đầu tiên - và tản ra hoặc ẩn mình trong bóng tối trong những hang ổ chỉ có họ biết. Ngược lại, cần phải võ trang và tốt nhất nên dẫn theo hai người tin cẩn và khỏe mạnh để khi cần họ sẽ hộ vệ cho.
            Vinixius thừa nhận rằng lão hoàn toàn có lý, đồng thời chàng cũng nhớ tới lời khuyên của ông Petronius nên chàng ra lệnh cho các nô lệ mời Kroton đến gặp chàng. Lão Khilon, kẻ biết tất cả mọi người ở Roma, yên lòng hơn nhiều khi được nghe tên chàng lực sĩ nổi tiếng, người mà lão đã hơn một lần thán phục trước sức khỏe phi thường trên võ đài và lão tuyên bố rằng lão nhất định sẽ đi Oxtrianum. Lão cảm thấy rằng với sự giúp đỡ của Kroton, cái túi tiền đựng đầy những đồng aureux có vẻ dễ đoạt được hơn nhiều.
            Thế là lão vui vẻ ngồi vào cái bàn ăn mà lát sau viên quản gian chính sảnh gọi lão tới, trong khi ăn lão kể cho bọn nô lệ nghe rằng lão đã cung câp cho ông chủ của họ một thứ thuốc cao tuyệt vời, chỉ cần bôi vào móng những con ngựa xoàng xĩnh nhất cũng khiến cho chúng vượt xa tất cả những con tuấn mã khác. Một tín đồ Thiên chúa giáo đã dạy cho lão cách chế loại cao này, vì những vị tín đồ Thiên chúa cao tuổi còn giỏi hơn về phép thuật và phù chú hơn cả những người Texalia, mặc dù xứ Texalia cũng lừng danh vì phép phù thủy, bùa chài. Các tín đồ Thiên chúa vô cùng tin tưởng lão, còn vì sao họ lại tin lão thì bất cứ người nào hiểu được con cá có ý nghĩa gì đều có thể đoán được dễ dàng. Vừa trò chuyện ba hoa vừa chăm chăm nhìn vào mặt những người nô lệ với hy vọng sẽ phát hiện ra tín đồ Thiên chúa trong bọn họ và sẽ báo cho Vinixius biết. Nhưng khi cái hy vọng ấy tiêu tan thì lão bèn ăn uống nhiều vô kể, đồng thời không tiếc lời khen ngợi đầu bếp và cam đoan là sẽ cố gắng mua lại của Vinixius tay đầu bếp ấy. Sự vui vẻ của lão chỉ bị vẩn đục bởi mỗi một ý nghĩ là đến đêm sẽ phải đi Oxtrianum, song lão cũng tự an ủi, rằng dù sao lão cũng được mặc quần áo cải trang, lại đi trong đêm và cùng với hai người đồng hành, một người là vị lực sĩ số một của Roma, còn người kia là một nhà quý tộc đồng thời là võ quan cao cấp. “Dù cho bọn họ có phát hiện ra Vinixius đi nữa - lão nhủ thầm - thì chắc bọn họ cũng không dám động chạm tới chàng, còn ta thì bọn họ sẽ là những kẻ thông minh nếu như họ trông thấy được cái chóp mũi của ta”.
            Rồi sau đó lão nhớ lại cuộc chuyện trò với người thợ và những điều nhớ lại ấy khiến lão một lần nữa lại được cổ vũ. Lão không hề nghi ngờ gì nữa, người thợ ấy hẳn chính là Urxux. Qua những điều trao đổi với Vinixius và những người đưa Ligia ra khỏi hoàng cung, lão biết sức lực phi thường của con người này. Cho nên khi ở nhà ông Euryxius lão dò hỏi về những người rất khỏe mạnh, thì chẳng có gì lạ là người ta đã chỉ Urxux cho lão. Rồi sự lúng túng và cơn tức giận tiếp đó của người thợ khi được nghe nhắc tới Vinixius và Ligia cho phép nghi ngờ rằng những người kia có quan hệ mật thiết với bác ta: Người thợ cũng còn nói tới việc xám hối vì đã giết chết một con người, còn Urxux thì đã giết chết Ataxynux và cuối cùng diện mạo của người thợ hoàn toàn phù hợp với những gì Vinixius mô tả về bác người Ligi này. Chỉ có cái tên bị thay đổi đi là có thể gây nghi ngờ, song lão Khilon biết rằng khi chịu lễ rửa tội, dân Thiên chúa giáo thường nhận những cái tên mới.
            “Nếu Urxux giết chết Glaukox - lão Khilon bụng bảo dạ - thì càng hay, còn nếu y không giết, đó cũng là một dấu hiệu tốt, vì nó chứng tỏ rằng chuyện giết người đối với đám tín đồ Thiên chúa khó khăn biết chừng nào. Mình đã phải mô tả cái lão Glaukox đó như chính con đẻ của Juđa và kẻ phản bội của tất cả dân Thiên chúa, mình đã ăn nói hùng hồn đến nỗi đá chắc cũng phải cảm động mà hứa hẹn là sẽ rơi xuống đầu Glaukox, ấy vậy mà mình phải vất vả lắm mới thuyết phục được con gấu xứ Ligi kia để y hứa sẽ ra tay với lão… Y do dự, không muốn, kể lễ nỗi niềm hối tiếc và ăn năn của y. Rõ ràng là chuyện đó không trôi trong đám bọn họ… Những điều bản thân bị xúc phạm thì cần phải tha thứ, những chuyện xúc phạm của người khác cũng không nên báo thù, ergo: hãy suy nghĩ thử xem nào. Khilon, có gì có thể đe dọa nhà ngươi kia chứ? Lão Glaukox không được phép trả thù ngươi kia mà… Còn Urxux, nếu không thể giết Glaukox vì cái tội to như chuyện phản bội toàn thể những người Thiên chúa, thì lại càng không thể giết người vì cái tội nhỏ bé là phản bội một người Thiên chúa giáo. Vả chăng, một khi mình đã trỏ cái tổ chim gáy cho con bồ câu đại dữ dằn kia rồi, mình sẽ lập tức rửa sạch hai bàn tay khỏi mọi chuyện và chuyển về Neapolix sinh sống. Đám dân Thiên chúa cũng hay nói tới một sự rửa tội nào đó, chắc hẳn đó là phương pháp mà nếu như có chuyện với bọn chúng thì có thể dùng nó để dẹp chuyện ấy một cách dứt khoát. Cái đám tín đồ Thiên chúa này mới tốt làm sao, ấy thế mà người ta nói về họ mới tệ hại làm sao! Ôi, lạy các thần linh! Công lý trên thế giới này là thế đấy! Mình thì lại yêu cái giáo thuyết này ở chỗ nó không cho phép người ta giết người. Nhưng nếu nó đã cấm giết người thì chắc nó cũng không cho phép ăn cắp, lừa đảo, làm chứng giả mạo và thế thì mình cũng không thể nói là nó dễ thực hiện. Rõ ràng nó không chỉ dạy người ta biết chết trung thực như những kẻ khắc kỷ mà còn biết sống trung thực. Khi nào mình giàu có và có được ngôi nhà như nhà này, với ngần kia nô lệ, thì chắc mình sẽ là tín đồ Thiên chúa cho tới khi nào còn thuận lợi cho mình. Vì người giàu có thể cho phép bản thân làm được tất cả mọi chuyện, kể cả chuyện đức hạnh nữa… Phải! Đó chính là thứ tôn giáo dành cho người giàu và vì thế mình không biết tại làm sao trong đám bọn họ lại có tới bấy nhiêu kẻ nghèo. Nó mang lại gì cho họ và tại sao họ lại để cho đức hạnh bó tay? Khi nào đó mình phải nghiền ngẫm kỹ chuyện này mới được. Còn bây giờ, thì thưa thần Hermex, thật vinh quang cho người đã giúp tôi tìm được con dũi kia… Nhưng nếu thần làm việc đó vì hai con chiên non một tuổi lông trắng với những chiếc sừng mạ vàng, thì quả thực tôi không sao nhận ra thần nữa đấy! Hãy tự xấu hổ đi, hởi kẻ giết Argo! Một vị thần thông minh thế kia mà không biết trước ngay từ đầu rằng mình sẽ chẳng nhận được gì hết. Thay vì lũ chiên, tôi xin dâng hiến cho thần lòng biết ơn của tôi, còn nếu như thần thích hai con vật nọ hơn lòng biết ơn của tôi, thì chính thần sẽ là con thứ ba và cùng lắm thì thần cũng chỉ có thể là mục đồng chứ không thể là thần linh được. Hãy liệu chừng đấy, để cho với tư cách là một triết gia tôi không chứng mình cho mọi người thấy rằng làm gì có thần và khi ấy người ta sẽ thôi không dâng hiến lễ vật lên thần nữa đâu! Nên sống tốt với các triết gia thì hơn”.
            Vừa tự nhủ như thế với bản thân và trò chuyện với thần Hermex, lão vừa duỗi mình ra chiếc ghế dài, độn tấm áo khoác dưới đầu và ngủ thiếp đi trong lúc đám nô lệ đang dọn dẹp bát đĩa. Mãi tới khi Kroton đến, lão mới tỉnh dậy - đúng hơn là bị thức dậy.
            Khi ấy lão bèn bước vào gian chính sảnh thông thiên và thích thú ngắm nghía cái thân thể lực lượng của viên lanixta, một đấu sĩ siêu hạng, thân hình khổng lồ dường như chật cả gian chính sảnh. Kroton vừa ngã giá xong và đang nói với Vinixius:
            Thề có Herkulex! Thật hay, thưa ngài, rằng hôm nay ngài cho gọi tôi, bởi vì sáng ngày mai, tôi đã lên đường đi Beneventơ, nơi mà ngài Vatynius cao quý cho vời tôi tới trình diễn cho Hoàng thượng xem cuộc đấu với một tên Xyfacx nào đó, một tên da đen khỏe nhất mà Phi châu sản sinh ra từ trước tới nay. Thưa ngài, ngài có hình dung ra cảnh xương cốt của hắn sẽ gãy vụn trong đôi cánh tay tôi như thế nào không, nhưng ngoài ra, tôi sẽ dùng nắm đấm đập giập đầu hắn ra nữa.
            Thề có Ponlukx! Vinixius đáp. - Ta chắc là anh sẽ hành động như thế Kroton à.
            Và ngài hành động thật tuyệt vời! - Lão Khilon nói thêm - Phải!... Ngoài ra ngài còn đập giập đầu hắn nữa. Một ý định tuyệt vời, một hành động thật xứng với ngài. Tôi xin sẵn sàng đánh cuộc là ngài sẽ quai vỡ đầu hắn. Nhưng xin ngài, thưa Herkulex của tôi, hãy bôi dầu vào tay và hãy chợp mắt một lúc đã, vì xin ngài hãy biết cho rằng ngài sẽ có chuyện với thần Kakus thật sự đấy. Người canh giữ cô gái mà ngài Vinixius tôn quý đây muốn tìm hình như là người có sức khỏe phi thường đấy.
            Lão Khilon nói thể chỉ cốt để động đến lòng tự ái của Kroton, nhưng Vinixius nói tiếp:
            Chính thế, bản thân ta chưa trông thấy chuyện ấy, nhưng người ta nói rằng y mà đã nắm được sừng bò tót thì có thể lôi nó tới đâu cũng được.
            Ối chà! - Lão Khilon kêu lên, lão không thể hình dung là Urxux lại khỏe đến thế.
            Song Kroton mỉm cười khinh thị.
            Thưa quí ngài - hắn nói - tôi xin dám chắc là bằng cánh tay này tôi có thể bắt giữ bất kỳ kẻ nào theo lệnh ngài, còn cánh tay thứ hai này tự vệ chống lại cả bẩy tên Ligi như hắn, tôi sẽ mang được cô thiếu nữ về nhà cho ngài, dù cho toàn thể bọn Thiên chúa ở Roma kéo theo tôi như một đàn sói xứ Kalalui đi chăng nữa. Nếu như tôi không làm được chuyện ấy, tôi xin chịu bị đánh đòn ngay trên thành cái bể nước này.
            Xin ngài đừng cho phép anh ta làm chuyện ấy, thưa ngài! - Lão Khilon kêu lên - Nếu bọn chúng dùng đá nện vào chúng ta thì sức lực phỏng có thể giúp ích được gì? Sao lại không cướp cô gái đi từ nhà mà không hề nguy hiểm cho cả nàng lẫn bản thân mình?
            Phải như thế, Kroton à. - Vinixius nói.
            Tiền của ngài, ý muốn của ngài! Chỉ xin ngài nhờ hộ cho, rằng ngày mai tôi phải đi Beneventơ rồi đấy.
            Chỉ tính riêng trong thành phố ta đã có tới năm trăm tên nô lệ - Vinixius đáp lại.
            Rồi chàng ra hiệu cho cả hai ra ngoài, còn chàng đến phòng ngồi viết những dòng sau đây cho ông Petronius:
            Lão Khilon đã tìm thấy Ligia. Tối hôm nay cháu sẽ cùng lão và Kroton đến Oxtrianum và cháu sẽ bắt nàng ngay hoặc bắt từ nhà nàng vào sáng ngày mai. Cầu các thần rót xuống cậu tất cả mọi sự như ý. Chúc cậu khỏe, cậu thân yêu vì niềm vui sướng không cho phép cháu viết dài hơn nữa!”
            Và đặt chiếc bút sậy xuống, chàng bắt đầu đi tản bộ bằng những bước nhanh nhẹn, vì bên cạnh niềm sướng vui đang tràn ngập lòng chàng, chàng còn rất nóng ruột. Chàng tự nhủ rằng chỉ ngày mai Ligia sẽ có mặt tại nhà chàng. Chàng không biết nên đối xử với nàng ra sao, chàng chỉ cảm thấy rằng nếu nàng muốn yêu chàng thì chàng sẵn lòng làm nô lệ cho nàng. Chàng nhớ lại điều nàng Akte đoán chắc rằng chàng đã từng được yêu và chàng xúc động đến tận tâm can. Vậy có nghĩa là chỉ cần chiến thắng một sự hổ thẹn trinh nữ nào đó vượt qua những thể thức gì đó mà chắc giáo thuyết Thiên chúa bắt buộc? Nhưng nếu thế, thì một khi Ligia đã ở trong nhà chàng và bị thuyết phục bởi lời nói hoặc bị chinh phục bằng sức lực, hẳn nàng sẽ phải tự nhủ: ”Chuyện đã rồi” và sau đó nàng sẽ tuân phục và được yêu chiều.
            Lão Khilon bước vào làm gián đoạn dòng suy nghĩ khoan khoái nọ của chàng.
            Thưa ngài - lão Hi Lạp nói - tôi vừa chợt nghĩ đến một chuyện: Nếu bọn Thiên chúa giáo dùng những dấu hiệu đó, tấm vé vào cửa nào đó, ai không có không được vào Oxtrianum thì sao? Tôi được biết rằng tại các nhà nguyện thường như vậy và tôi đã được nhận một tấm vé như thế từ tay lão Euryxius. Xin ngài hãy cho phép tôi nếu tôi đến chỗ lão hỏi cho rõ và xin mấy vật hiệu kia, nếu như chúng cần thiết.
            Được thôi, hỡi nhà thông thái cao quý, - Vinixius vui vẻ đáp - Ngươi nói như một con người nhìn xa trông rộng và thật đáng khen. Vậy thì ngươi hãy tới chỗ Euryxius hoặc chỗ nào ngươi thích, nhưng để cho chắc thì ngươi hãy để lại cái túi nho nhỏ mà người vừa được nhận lại trên bàn này.
            Vốn là người không lúc nào thích rời tiền bạc, lão Khilon nhăn mặt, tuy vậy lão cũng thực hiện mệnh lệnh rồi bước ra. Từ Karyn đến Hý trường, nơi có quầy hàng nhỏ của ông Euryxius, không mấy xa, nên lão quay về nhà khá lâu trước khi trời tối.
            Thưa ngài, đây là các vật hiệu. Giá không có những thứ này thì hẳn người ta sẽ không cho chúng ta vào. Tôi cũng đã dò hỏi thật kỹ đường đi, đồng thời tôi bảo với lão Euryxius rằng tôi chỉ cần có các vật hiệu cho đám bạn bè, còn tôi thì sẽ không đi vì đối với người già cả như tôi thì xa quá, hơn nữa, ngày mai thế nào tôi cũng gặp Đức Đại sứ đồ, người sẽ nhắc lại cho tôi nghe những đoạn hay nhất trong bài thuyết giáo của người.
            Sao thế, ngươi sẽ không đi à? Ngươi phải đi! - Vinixius nói.
            Tôi biết rằng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ che đầu che mặt thật kỹ mới đi và tôi khuyên các ngài cũng nên làm như vậy, nếu không chúng ta có thể làm cho lũ chim hoảng sợ.
            Quả thực họ bắt đầu sửa soạn quần áo ngay vì đêm đã xuống. Họ mặc những chiếc áo choàng kiểu Gan có mũ trùm đầu, mang theo đèn, ngoài ra Vinixius còn trang bị cho mình và các bạn những chiếc dao ngắn mũi cong. Lão Khilon thì đội thêm một búi tóc giả mà dọc đường đến nhà Eurtxius lão đã tự trang bị cho mình, rồi họ vội vã ra đi đế đến cho kịp cổng thành Nomentan trước khi cổng thành đóng.
            Chú thích:
            (1) Tìm ra rồi (La Tinh)
            (2) Scripululum là một loại tiền vàng nhỏ, có giá trị bằng một phần ba đồng đenar (tức là đồng aureux).


            ST
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #21
              T1 - Chương 20

              Họ đi dọc Vieux Patrixiux, dọc theo Viminan đến cổng thành Viminan cũ, gần cái khoảng bằng phẳng, nơi sau này Đioklexxian dựng lên những nhà tắm tuyệt đẹp. Họ băng qua những khúc còn lại của bức tường thành Xervius Tulins và qua những vùng trống vắng hơn, đến tận con đường Nomentan, tới đó họ rẽ về bên trái, về phía Xalaria, rồi đi vào những vùng đồi đầy những mỏ cát, thỉnh thoảng xen lẫn những nghĩa địa. Lúc đó, trời đã tối hẳn mà trăng lại chưa mọc nên họ rất khó tìm được đường đi nếu như không có những người Thiên chúa giáo - đúng như lão Khilon đã dự liệu từ trước - chỉ đường cho họ. Bên trái, bên phải và đằng trước mặt có những bóng người màu sẫm đang thận trọng lần xuống các hõm cát. Một số người mang theo đèn song cố gắng dùng những tấm áo choàng che ánh sáng đi càng nhiều càng tốt, những người khác biết rõ đường hơn thì đi mò trong bóng tối. Cặp mắt người lính của Vinixius quả là có thể phân biệt được - thông qua cử động - những chàng trai trẻ với các cụ già đang lê đi bên những chiếc gậy, cũng như với những người phụ nữ quấn khăn thật kỹ trong những chiếc áo xtola dài lướt thướt. Những người lữ khách tình cờ và đám dân quê rời thành phố hẳn sẽ coi những người lang thang trong bóng đêm đó là đám thợ đang đi tới các đụn cát hoặc đám an hem đào mộ, những người thỉnh thoảng thường hành lễ ban đêm. Nhưng càng đi xa hơn chung quanh chàng quý tộc trẻ tuổi và các đồng hành của chàng càng le lói nhiều ánh đèn và càng đông người thêm. Một số người trong bọn thì thầm hát những bài ca mà Vinixius nghe như tràn ngập nỗi nhớ nhung. Tai chàng thỉnh thoảng lại tóm bắt được đôi lời hay đôi câu của bài ca, thí dụ: “Hãy tỉnh dậy đi, hỡi ai còn say ngủ” hoặc “Hãy sống lại đi, những người đã quá cố” khi thì tên Crixtux được nhắc đi nhắc lại trên miệng của những người đàn ông, đàn bà nọ. Những lời ca ít làm cho Vinixius để ý vì trong đầu chàng thoáng có ý nghĩ rằng rất có thể một trong những hình bóng u thầm đó chính là nàng Ligia. Một số người đi sát gần cất tiếng nói: “Bằng an cùng các bạn” hoặc “Sáng danh đấng Crixtux” còn chàng thì cảm thấy bồn chồn hơn, tim chàng đập dồn dập hơn vì chàng ngỡ như nghe thấy giọng Ligia. Chốc chốc những dáng người, những cử động tương tự như nàng lại khiến chàng bị nhầm trong bóng đêm, cho tới vài lần như vậy, sau khi đã biết là mình nhầm chàng mới thôi không còn tin vào mắt mình nữa.
              Chàng thấy đường đi khá xa. Địa hình trong vùng chàng biết rất rõ nhưng trong bóng đêm chàng không thể phân biệt nổi đâu là đâu, chốc chốc họ lại gặp những lối hẹp, những mảng tường, những ngôi nhà nhỏ mà chàng không thể nhớ lại nổi trong vùng quanh thành phố. Mãi sau, một mép vầng trăng mới nhô ra khỏi những đám mây đang chất đống và soi sáng vùng đất rõ hơn ánh sáng mờ ảo của những chiếc đèn. Xa xa có cái gì đó sáng lấp lánh, trông giống như một đống lửa hay một ngọn đuốc. Vinixius cúi xuống lão Khilon hỏi xem đó có phải là Oxtrianum không.
              Lão Khilon, người chịu tác động mạnh của đêm tối, khoảng cách xa xôi khỏi thành phố cùng những bóng người trông tựa những bóng ma, đáp với giọng không mấy tin tưởng:
              - Tôi cũng không biết, thưa ngài, tôi chưa tới Oxtrianum bao giờ. Nhưng giá bọn họ ca ngợi Đấng Crixtux ở đâu đó gần thành phố hơn có phải hay không.
              Rồi lát sau, hình như cảm thấy nhu cầu được chuyện trò và cũng cố lòng can đảm, lão thêm:
              - Họ đi đứng cứ như lũ cướp, trong khi họ không được phép giết người, trừ phi thằng cha Ligi đã đểu cáng đánh lừa tôi.
              Ngay cả Vinixius đang nghĩ tới Ligia cũng thấy ngạc nhiên vì sự thận trọng và vẻ bí mật mà các đạo hữu đang tụ tập lại để nghe vị tăng lữ cao cấp nhất của mình truyền giảng, chàng bèn nói:
              - Cũng như tất cả các thứ tôn giáo khác, đạo này cũng có các tín đồ của mình trong bọn chúng ta, song Thiên chúa giáo là một phái đạo Do Thái. Vậy sao họ lại tụ tập mãi tận đây, trong khi ở khu Zatybre có các thánh đường Do Thái giáo, trong đó dân Do Thái vẫn dâng hiến lễ vật giữa ban ngày ban mặt?
              - Không phải đâu, thưa ngài. Chính bọn Do Thái lại là kẻ thù không đội trời chung của họ. Người ta nói rằng, trước thời Hoàng đế đương kim, suýt nữa đã nổ ra chiến tranh giữa dân Do Thái và bọn họ. Hoàng đế Klauđius quá ngán tất những cuộc đụng độ ấy đến nỗi phải xua đuổi tất cả đám dân Do Thái đi, nhưng ngày nay cái luật ấy bị bãi bỏ rồi. Tuy vậy những người Thiên chúa giáo vẫn cứ che đậy hành tung của họ trước dân Do Thái cũng như trước mọi người, vì như ngài đã biết, người ta ngờ họ phạm nhiều tội ác và căm thù họ.
              Họ đã im lặng một hồi lâu, rồi lão Khilon - người mà càng rời xa cổng thành thì nỗi sợ hãi càng tăng - lại lên tiếng:
              - Khi từ nhà lão Euryxius trở về, tôi đã mượn một đầu tóc giả của một tay thợ cạo, đồng thời tôi nhét hai hạt đỗ vào hai lỗ mũi. Bọn họ không thể nhận ra tôi được. Nhưng dù có nhận ra đi chăng nữa họ cũng sẽ chẳng giết tôi đâu. Họ không phải là những người xấu. Thậm chí họ còn là những người rất trung thực mà tôi đây yêu mến và kính trọng nữa.
              - Chớ khen bọn họ quá sớm - Vinixius nói.
              Lúc này họ đi vào một hõm chật hẹp, hai bên có hai bờ hào chắn, trên đó có đường máng nước vắt ngang qua. Mặt trăng nhô hẳn ra khỏi mây và họ chợt trông thấy ở cuối đường hõm có một bức tường phủ đầy dây trường xuân lấp lánh bạc trong ánh trăng. Đó chính là Oxtrianum.
              Tim Vinixius càng đập rộn.
              Cạnh cổng có hai người gác đứng thu vật hiệu. Lát sau, Vinixius và các bạn đồng hành của chàng bước vào một nơi khá rộng, bốn phía có tường bao quanh. Đây đó có những pho tượng đứng riêng lẻ, còn ở chính giữa là hầm mộ, tức là một nhà mồ kín mà phần dưới nằm ngầm dưới mặt đất, trong đó là các ngôi mộ. Trước lối vào nhà mộ có một vòi nước đang phun lao xao. Có thể thấy rõ là trong lòng nhà mộ không thể chứa được quá đông người. Do vậy Vinixius dễ dàng đoán được rằng cuộc hành lễ sẽ được cử hành bên ngoài trời, trên cái sân đang dần dần tụ tập một đám người rất đông đảo. Đèn đuốc nhấp nháy san sát nhau, nhưng nhiều người mới đến không hề mang theo đèn đuốc gì cả. Chỉ trừ vài người để đầu trần, còn tất thảy đều đội mũ trùm không rõ vì sợ bị phát giác hay vì lạnh và chàng quý tộc trẻ sợ hãi nghĩ rằng, nếu họ cứ giữ nguyên những mũ choàng như thế thì trong cái đám đông này, trong thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo kia, chàng không sao nhận ra Ligia.
              Bỗng nhiên bên cạnh hầm mộ người ta đốt lên mấy ngọn đuốc nhựa được gộp thành một đống lửa nhỏ. Chung quang trở nên sáng rõ hơn. Giây sau, đám đông cất tiếng hát, ban đầu còn khe khẽ, mỗi lúc một to hơn, nghe như một khúc thiều ca kỳ lạ nào đó. Trong đời mình Vinixius chưa từng nghe thấy một bài ca nào tương tự như thế. Cái nỗi hoài vọng nhớ nhung đã đập mạnh vào lòng chàng trong những bài ca được ngân nga khe khẽ bởi những người đi riêng lẻ trong lúc tới đây, giờ lại cất lên trong khúc thiều ca này, có điều rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn nhiều, cuối cùng nó lan rộng và trùm phủ khắp, dường như cùng với mọi người, cả cái nghĩa địa này, cả những ngọn đồi, khe núi và vùng đất này cũng nhớ thương. Có thể tưởng như trong tiếng ca ấy có một lời kêu van nào đó trong bóng đêm, một lời khẩn cầu bi thương nào đó mong được cứu vớt trong cơn lạc loài và bóng tối. Dường như những cái đầu đang ngẩng lên nhìn thấy ai đó ở xa tít trên trời cao và những cánh tay đang vẫy gọi người ấy xuống trái đất. Khi tiếng ca lặng đi là một giây phút trông đợi, xúc động đến nỗi cả Vinixius lẫn những người đi cùng chàng bất giác ngẩng đầu nhìn lên những vì sao như sợ sẽ xảy ra một điều gì đó thực phi thường và có ai đó sẽ từ trời cao giáng thế. Tại Tiểu Á, tại Ai Cập và ngay chính tại Roma này, Vinixius đã từng trông thấy hằng sa số các thần miếu đủ mọi loại, chàng đã được biết nhiều thứ tôn giáo và được nghe vô số những bài ca, song đây là lần đầu tiên chàng mới được thấy những người thờ kính vị thần của mình ca hát không phải vì họ muốn làm cho xong một nghi lễ đã được quy định trước mà xuất phát tự trái tim, xuất phát từ một sự luyến nhớ thật sự đối với con người ấy, một sự thương nhớ của con cái đối với người cha hay người mẹ. Phải là kẻ mù mới không thấy được rằng những con người này không những chỉ thành kính vị thần của họ mà còn yêu ông ta với cả tấm lòng, điều mà Vinixius chưa bao giờ trông thấy trên mọi vùng đất, trong mọi cuộc hành lễ, trong mọi thứ thần miếu, bởi vì tại La Mã cũng như tại Hi Lạp, những ai còn thờ kính các thần thì chỉ làm việc đó nhằm mục đích cầu xin sự trợ giúp của các thần hoặc vì sợ họ, chứ chẳng kẻ nào nghĩ tới chuyện yêu mến các vị thần linh cả.
              Mặc dù đầu óc chàng mải bận bịu với những ý nghĩ về Ligia và sự chú ý của chàng chỉ chăm chăm phát hiện ra nàng trong đám đông kia, chàng vẫn không thể nhận thấy những chuyện kỳ lạ và phi thường đang diễn ra chung quanh mình. Lúc này người ta ném thêm mấy ngọn đuốc nữa vào đống lửa khiến nó tỏa một thứ ánh sáng đỏ rực khắp nghĩa địa, át đi ánh sáng những ngọn đèn, chính vào lúc ấy, từ trong nhà một bước ta một cụ già mặc một chiếc áo choàng có mũ che nhưng để đầu trần, ông cụ bước lên một phiến đá nằm gần đống lửa.
              Đám đông xao xuyến khi nhìn thấy ông. Nhiều giọng nói bên cạnh Vinixius thì thào: “Piotr! Piotr!...”. Một số người quỳ xuống, những người khác vươn tay về phía ông. Im lặng sâu thẳm đến nỗi có thể nghe rõ tiếng của từng mẩu tàn than tơi từ những bó đuốc, tiếng bánh xe lọc cọc trên con đường Nomenten cùng tiếng gió lao xao trong vài ngọn thông mọc cạnh nghĩa địa.
              Lão Khilon nghiêng sang phía Vinixius thì thầm:
              - Ông ta đấy! Học trò số một của Crixtux.
              Cụ già giơ một bàn tay làm dấu thánh giá chào những người có mặt, họ liền quỳ cả xuống. Không muốn bị lộ diện, các bạn của Vinixius và cả chàng nữa cũng làm như họ. Chàng trai lúc này không sao nắm bắt kịp những ấn tượng của mình nữa, chàng thấy con người trước mặt chàng kia vừa chất phác lại vừa phi thường hơn nữa tính phi thường nọ lại bắt nguồn chính từ sự chất phác kia. Cụ già không đội mũ miện trên đầu, không mang vành lá sồi trên thái dương, không cầm nhành cọ trong tay, không đeo bảng vàng trước ngực, không mặc áo dài điểm những vì sao bạc lóng lánh hoặc áo dài màu trắng, nói tóm lại, cụ không hề có một biểu trưng nào mà các tu sĩ Đông phương, Ai Cập, Hi Lạp hay các vị thầy tu flamin La Mã thường dùng. Và một lần nữa Vinixius lại bị tác động bởi chính sự khác biệt mà chàng cũng từng cảm thấy khi lắng nghe những bài ca Thiên chúa giáo, bởi chàng thấy người "ngư ông” này chẳng phải là một vị đại tăng lữ thông thạo các phép hành lễ mà giống như một nhân chứng chân chất, tuổi tác và vô cùng khả kính từ xa xôi tới đây kể lại một sự thật nào đó mà chính ông đã từng trông thấy, đã từng tiếp xúc, đã tin chắc như tin vào sự hiển nhiên, một sự thật mà ông yêu mến chính vì ông tin tưởng vào nó. Trên nét mặt ông lộ rõ sức thuyết phục của chính bản thân sự thật. Vốn là một người hoài nghi Vinixius không muốn để mình bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của ông, song chàng vẫn bị lôi cuốn bởi một sự tò mò sôi nổi, không hiểu điều gì sẽ được thốt ra từ miệng người bạn của “Đấng Crixtux “ kia và cái giáo thuyết mà bà Pomponia và Ligia thụ giáo ấy là như thế nào.
              Lúc ấy, ông cụ Piotr bắt đầu nói. Thoạt đầu ông nói như một người cha nhắc nhở và răn dạy đàn con cần phải sống ra sao. Ông dạy họ phải từ bỏ xa hoa và lạc thú, phải biết yêu sự nghèo khó, sự thanh tịnh trong nếp sống, yêu sự thật, phải nhẫn nhục chịu đựng mọi điều xúc phạm và truy nã, phải tuân phục người trên cùng chính quyền, phải tránh xa sự phản bội, thói quen ích kỷ và thói ba hoa, và sau nữa phải làm gương cho nhau, thậm chí cho những kẻ ngoại đạo. Một số lời răn khiến Vinixius - người coi tất thảy những gì có thể mang trả Ligia lại cho chàng là điều tốt, còn tất thảy những gì ngăn trở giữa hai người là cái xấu - bị chạm nọc và tức giận, vì chàng cảm thấy rằng khi răn người ta phải giữ gìn sự trong sạch và đấu tranh với dục vọng thì chính bằng cách ấy cụ già đã không những chỉ cả gan lên án tình yêu của chàng mà còn ngăn cản Ligia đến với chàng, và giữ nàng ở vị trí chống lại chàng. Chàng hiểu rằng nếu nàng có mặt trong số những người tụ tập tại đây và nghe những lời ấy, thâu nhận chúng vào trái tim, thì chính lúc này đây, hẳn nàng phải nghĩ về chàng như nghĩ về một kẻ thù của cái giáo lý kia, một kẻ thù không chút xứng đáng. Ý nghĩ ấy khiến chàng nổi khùng: “Ta có thể nghe được điều gì mới mẻ đâu cơ chứ - chàng tự nhủ. - Đó mà lại là thứ giáo thuyết chưa từng được biết ư? Ai chẳng biết, ai chẳng nghe, thì chính bọn duy ngã cũng khuyên người ta nên sống nghèo khổ và hạn chế bớt nhu cầu, chính Xocratex cũng khuyên nên coi đức hạnh là một thứ tuy cũ nhưng mà tốt đẹp, còn bất kỳ một kẻ khổ hạnh nào, thậm chí như ông già Xeneka nọ, người có cả năm trăm gốc chanh cũng ca tụng việc giữ chừng mực, chân lý, tính nhẫn nhục trong những lúc nghịch cảnh, kiên trì trong bất hạnh, song tất thẩy những thứ đó đều giống như một thứ lúa mục, chỉ có lũ chuột nhằn chứ chẳng ai thèm ăn vì đã bốc mùi hôi cổ lỗ rồi” Bên cạnh nỗi tức giận chàng còn có cảm giác như thất vọng, bởi chàng cứ chờ đợi sẽ phát hiện được những điều bí ẩn nhiệm mầu nào đó chưa một ai biết đến, chàng ngỡ rằng ít ra cũng sẽ được nghe một nhà hùng biện đáng kinh ngạc nào đó có tài ăn nói, ấy vậy mà chàng chỉ được nghe những lời nói vô cùng giản dị, bị tước bỏ hết mọi thứ hoa mỹ. Chỉ có sự im lặng và sự chăm chú của đám đông đang lắng nghe kia khiến chàng ngạc nhiên. Song cụ già đã lại nói tiếp với người nghe, rằng họ phải tốt, phải im lặng, công minh, nghèo khó và trong sạch không phải chỉ để được bình yên trong cuộc sống, mà là để sau khi chết sẽ được hằng sống trong Đấng Crixtux, trong nỗi vui sướng, sự ngợi ca, trong sự sinh sôi và trong niềm hân hoan mà chưa kẻ trần thế nào từng biết đến. Và ở đây, mặc dù vừa mới bị khó chịu, nhưng Vinixius không thể không nhận thấy là dù sao vẫn có sự khác nhau giữa giáo thuyết của cụ già với những gì mà những người duy ngã, những người khắc kỷ cùng những nhà hiền triết khác vẫn nói, bởi bọn họ thì khuyên nên sống tốt lành và đức hạnh, vì đó là phương sách thông minh và thực tế duy nhất trong cuộc đời, còn cụ già thì lại hứa rằng nó sẽ mang lại sự bất tử, hơn nữa đó chẳng phải thứ bất tử vớ vẩn nào dưới cõi âm, trong buồn chán, trống rỗng, cô quạnh, mà là một thứ bất tử tuyệt vời, gần sánh ngang với cuộc sống các linh thần. Trên nữa, ông cụ nói về chuyện đó như nói về một chuyện hoàn toàn chắc chắn với một lòng tin như thế thì phẩm hạnh lại có được một giá trị vô biên, còn những thất bại trong cuộc đời trở nên những thứ vô cùng không đáng kể, bởi vì chịu đựng trong phút chốc để được hạnh phúc vô biên là một chuyện hoàn toàn khác với việc phải chịu đựng bởi vì trật tự của cuộc đời buộc phải thế. Cụ già còn nói tiếp, rằng cần phải yêu đức hạnh và chân lý cho chính bản thân mình, bởi cái tốt vĩnh hằng cao quý nhất và thứ đức hạnh vĩnh hằng cao cả nhất chính là Đức Chúa, nên ai cũng yêu mến chúng cũng chính là yêu mến Chúa và nhờ thế trở thành con yêu của Người. Vinixius không thật hiểu rõ những điều ấy, song chàng vẫn hiểu được qua những lời mà trước đây bà Pomponia Grexyna nói với ông Petronius, rằng theo cách nghĩ của những người Thiên chúa giáo thì Đức Chúa ấy là duy nhất và toàn năng, nên giờ đây khi chàng lại được nghe rằng ông ta là tuyệt hảo và là chân lý tuyệt đối, thì chàng bất giác nghĩ rằng, với một Đức Chúa như thế thì cả Jupiter, Xaturnơ, Apolon, Juno, Vexta và Venux chẳng khác nào một đám hỗn tạp vừa tầm thường vừa ồn ào mà người ta ai cũng tự vũ trang cho mình toàn bộ song chỉ theo ý muốn của bản thân mình. Song chàng trai ngạc nhiên nhiều nhất khi cụ già bắt đầu giảng rằng Đức Chúa là Đấng Toàn Ái, nên kẻ nào yêu mến con người, kẻ ấy thực hiện được lời răn dạy cao cả nhất của Người. Nhưng chỉ yêu thương con người của dân tộc mình thôi chưa đủ, bởi vì Chúa đã đổ máu mình vì toàn thể loài người và ngay trong những kẻ ngoại đạo. Người cũng đã chọn ra những người của Chúa, như viên xenturion Kornelius chẳng hạn, và cũng chưa đủ nếu chỉ yêu những người đối xử tốt với mình, vì chính Đấng Crixtux đã tha thứ cho dân Do Thái đã bán Chúa phải chết, tha thứ cho đám quân lính La Mã đã đóng đinh Chúa lên cây thập tự, vậy nên đối với những kẻ gây điều xúc phạm cho mình, không những phải tha thứ cho họ mà còn cần phải yêu thương họ và trả cái xấu bằng điều tốt, yêu người tốt thôi chưa đủ, còn phải yêu thương kẻ xấu, vì chỉ có tình yêu thương mới xua đuổi cái xấu xa ra khỏi họ được. Nghe những lời ấy, lão Khilon nghĩ bụng, rằng công sức của lão thật là phí hoài, rằng không bao giờ - dù là đêm nay hay đêm nào khác đi nữa - Urxux có thể giết lão Glaukox. Song lão cũng vui mừng ngay vì cái hệ quả thứ hai rút ra từ giáo thuyết của cụ già. Nếu thế thì ông Glaukox cũng sẽ không giết chết lão dù có phát hiện ra lão và nhận ra lão. Còn Vinixius đã thôi không còn nghĩ rằng trong những lời của cụ già không có gì mới mẻ nữa, mà chàng kinh ngạc tự hỏi: Vị chúa nào vậy? Cái học thuyết gì vậy? Những người này là ai? Tất cả những điều chàng nghe thấy hoàn toàn không thể chứa đựng nổi trong đầu óc chàng. Đó là một mớ những khái niệm kỳ lạ mà chàng không hiểu nổi. Chàng cảm thấy rằng, nếu nói thí dụ chàng có đi theo giáo thuyết này, thì hẳn chàng sẽ phải chất lên dàn hỏa tất cả những ý nghĩ, thói quen, tính cách của chàng, toàn bộ bản chất của chàng cho tới nay và thiêu tất cả thành tro bụi để thay thế bằng một cuộc đời khác và một tâm hồn khác hoàn toàn. Cái học thuyết khuyên chàng phải yêu thương bọn Partơ, bọn Xyri, bọn Hi Lạp, Ai Cập, Gan và Brytania, tha thứ cho kẻ thù, dùng cái tốt để trả cho sự xấu và yêu thương bọn chúng đối với chàng quả thật là điên rồ, đồng thời chàng cũng có cảm giác rằng chính trong sự điên rồ của nó vẫn có một thứ gì đó mạnh hơn tất cả những gì chứa đựng trong các thứ triết học từ trước tới nay. Chàng hiểu rằng vì sự điên rồ ấy giáo thuyết kia là không thể thực hiện được và vì không thể thực hiện được nên nó lại mang tính chất thiên giới. Chàng vứt bỏ nó trong tâm linh, nhưng lại cảm thấy rằng từ bản thân giáo thuyết ấy, giống như từ một đồng cỏ đầy hoa, tỏa ra một hương thơm say người, mà ai đã một lần thở hít, kẻ ấy sẽ phải quên đi tất cả mọi chuyện khác để chỉ còn hoài vọng đến nó mà thôi. Chàng cảm thấy rằng trong đó không hề có chút gì hiện thực, song đồng thời lại thấy rằng đối với nó hiện thực chỉ là một thứ gì rất thảm hại, không cần phải nghĩ đến làm gì. Vây quanh chàng như có những quái vật nào đó mà chàng chưa từng nghĩ tới, những người khổng lồ nào đó, những đám mây to lớn nào đó. Cái nghĩa địa nọ bắt đầu gây cho chàng ấn tượng rằng đó là nơi tụ hội của những người điên, đồng thời cũng là chỗ đầy bí ẩn và đáng sợ, trên đó - giống như một chiếc giường thần thoại nọ - đang sản sinh ra một thứ gì chưa từng có trên đời. Chàng nhớ lại tất cả những gì mà cụ già nói về cuộc sống, chân lý, tình yêu, Đức Chúa và trí óc chàng lóa đi bởi những thứ ánh sáng, như mắt bị lóa bởi những tia chớp nối nhau không đứt vậy. Giống như những người mà toàn bộ cuộc sống đã biến thành một niềm mê say duy nhất, chàng suy nghĩ về tất thảy mọi điều thông qua tình yêu của chàng đối với Ligia và trong ánh sáng của những tia chớp ấy chàng trông thây rõ một điều: Nếu Ligia đang có mặt tại nghĩa địa, nếu như nàng thuận theo giáo thuyết này, nàng lắng nghe nó và cảm nhận nó thì vĩnh viễn không bao giờ nàng có thể trở thành người tình của chàng được.
              Lần đầu tiên kể từ khi quen biết nàng ở nhà ông bà Aulux, Vinixius chợt cảm thấy rằng, giờ đây dù cho chàng có đoạt lại được nàng đi nữa thì chàng vẫn không thể có được nàng. Cho tới nay chàng chưa từng nghĩ đến một điều gì tương tự như thế và lúc này chàng cũng không thể hiểu nổi thật rõ điều đó vì bên cạnh những điều suy nghĩ, rõ ràng còn có biết bao cảm giác mờ ảo về một tổn thất không thể bù đắp nổi và một nỗi bất hạnh nào đó. Trong chàng chợt lớn dậy một nỗi âu lo, nó chuyển ngay thành một cơn giận dữ đối với những người Thiên chúa giáo nói chung và chống lại cụ già nói riêng. Vị ngư ông mà thoạt nhìn chàng xem là một kẻ đê tiện dân cục mịch ấy, giờ đây lại khiến chàng thấy sợ và chàng cảm thấy ông giống như một vị thần Tư Mệnh đầy bí ẩn đang phán xử một cách không khoan nhượng và khủng khiếp số phận của chàng.
              Một người gác cổng lại chất thêm mấy bó đuốc nữa vào đống lửa, gió thôi không còn xào xạc trong những cây thông, ngọn lửa vươn chiếc lưỡi dài đều đặn lên bầu trời lóng lánh những vì sao báo trước một ngày đẹp trời, cụ già sau khi nói về cái chết của Đấng Crixtux lại bắt đầu chỉ nói về Người. Mọi người nín thở và sự im lặng càng tuyệt đối hơn trước, đến độ có thể nghe rõ cả tiếng đập của những trái tim. Chính con người này đã được nhìn thấy! Và ông kể lại như người đã khắc ghi từng giây phút vào trí nhớ, đến nỗi nhắm mắt lại vẫn có thể nhìn thấy rất rõ. Ông kể rằng sau khi từ Thánh giá quay về, ông cũng với Thánh Jan ngồi hai ngày và hai đêm trong phòng ăn, không ngủ, đắm vào giày vò, tiếc thương, sợ hãi, nghi ngờ, tay ôm lấy đầu và nghĩ rằng Chúa đã qua đời. Ôi! Nặng nề làm sao! Nặng nề làm sao! Ngày thứ ba vừa rạng, ánh bình minh vừa nhuộm trắng những bức tường thành, cả hai đang ngồi yên như thế cạnh tường, không còn biết làm gì và không còn chút hy vọng, lúc thì giấc ngủ khiến họ chợp mắt (vì ngay cả đêm trước khi xảy ra tai họa họ cũng đã không ngủ), lúc họ lại choàng tỉnh và thương thân trách phận như cũ. Khi mặt trời vừa ló rạng, bỗng Maria xứ Magđali hổn hển chạy vào, tóc sổ tung ra kêu lên: “Người ta mang chúa đi rồi!”. Nghe thấy thế, họ bèn choàng dậy và chạy ngay ra chỗ đó. Nhưng thánh Jan, người trẻ hơn, chạy đến trước, trông thấy cái huyệt trống rỗng và không dám bước xuống. Mãi tới khi cả ba người đến đủ trước cửa vào, thì chính ông, người đang kể những điều này cho họ nghe, bước vào, nhìn thấy tấm áo liệm và dây băng, nhưng không thấy xác đâu.
              Họ rất hoảng sợ vì nghĩ rằng các thấy cả đã cướp Chúa đi rồi, cả hai quay trở về nhà trong nỗi dày vò càng lớn lao hơn. Rồi những học trò khác kéo tới và bắt đầu than khóc, lúc thì tất cả mọi người cùng kêu cầu để Đấng Thay Thế nghe thấu rõ hơn, lúc thì thay nhau. Tinh thần họ như đã chết cả rồi, vì họ nghĩ rằng Thầy sẽ phải chuộc một người Ixraen, thế mà Người đã chết ba ngày rồi, họ không hiểu tại sao Đức Cha lại chối bỏ Con, họ thà không trông thấy ánh ngày nữa và chết đi cho rồi, cái gánh ấy thật nặng nề biết mấy.
              Ngay cả giờ đây, hồi ức về những giây phút kinh hoàng đó hãy còn, khiến hai giọt lệ lăn ra từ đôi mắt cụ già, những giọt lệ có thể trông thấy rất rõ trong ánh lửa sáng, đang chảy dài trên bộ râu đốm bạc. Mái đầu già nua rụng hết tóc run lên và giọng nói nghẹn lại trong lồng ngực. Vinixius tự nhủ: “Con người này nói sự thật và khóc than cho sự thật” - và một nỗi thương tiếc cũng làm nghẹn lời những người có trái tim chất phác đang lắng nghe. Đã hơn một lần họ được nghe kể về nỗi nhục hình của Đấng Crixitux, họ biết rằng thời thái lai sẽ tới sau cơn bĩ cực, nhưng bởi vì chính Đức Sứ đồ - người được tận mắt trông thấy những chuyện ấy - kể lại, nên họ vẫn vặn xoắn đôi tay mà than khóc hoặc đấm tay vào ngực trước những ấn tượng.
              Song dần dần họ bình tĩnh lại vì nỗi mong muốn được nghe kể tiếp đã thắng thế. Cụ già nhắm mắt lại, dường như muốn được nhìn rõ hơn trong tâm khảm những chuyện đã xa rồi và nói tiếp:
              “Trong khi chúng tôi đang than khóc như thế thì Maria xứ Magđali lại chạy vào và kêu lên rằng vừa được trông thấy Chúa. Vì ánh sáng quá chói lòa nên chị ấy không thể nhận ra Người và cho rằng đấy là người làm vườn, song Chúa đã gọi: ”Maria!”. Thế là chị ấy kêu lên: ”Thầy ơi!" và sụp xuống chân Người. Người bảo chị hãy tới chỗ học trò rồi biến mất. Nhưng đám học trò chúng tôi không tin chị và trong khi chị ấy khóc nức lên vì sung sướng thì một số người hỏi dồn chị còn số khác lại nghĩ rằng chị bị loạn trí vì nỗi thương tiếc, chị nói rằng trong huyệt chị còn trông thấy cả những vị thiên sứ nữa. Chúng tôi bèn chạy tới huyệt một lần nữa và thấy huyệt trống không. Tới chiều, Kleofax đến, anh ta cùng những người khác đi Emmaux rồi quay trở về ngay mà nói rằng: ”Quả thực Chúa đã sống lại!”. Rồi họ bắt đầu chống giữ bên cửa ra vào đã đóng kín, vì sợ bọn Do Thái. Khi ấy Đức Chúa xuất hiện giữa bọn họ mặc dù cánh cửa không hề cọt kẹt và khi họ sững người ra. Chúa nói với họ rằng: "Bằng an cho các ngươi!"
              … … … …
              “Tôi đã trông thấy Chúa, mọi người đều trông thấy Chúa. Người như ánh sáng, như hạnh phúc của trái tim chúng ta, vì chúng tôi đã tin rằng Người đã sống lại, rằng biển sẽ có thể khô cạn, núi có thể biến thành tro bụi, nhưng ánh vinh quang của Chúa không bao giờ bị tắt đi!”
              … … … …
              “Tám ngày sau, Tomas Đyđymux đặt mấy ngón tay vào những vết thương và chạm vào sườn Người rồi quỳ xuống chân Chúa mà kêu lên: ”Chủ tôi và Chúa tôi”. Chúa bèn đáp lại: ”Ngươi nhìn thấy ta nên ngươi tin. Phước phận thay những ai không nhìn thấy mà vẫn hằng tin”. Chúng tôi nghe thấy cả những lời này, mắt chúng tôi nhìn lên Người, bởi Chúa ở giữa chúng tôi!"
              Vinixius lắng nghe và có điều gì đó thật kỳ lạ xảy đến với chàng. Trong một thoáng, chàng chợt quên đi mình đang ở đâu, chàng mất đi cảm giác về cái thực, về sự chừng mực, về lương tri. Chàng như đứng trước hai điều dường như không thể có. Chàng không thể tin vào những chuyện mà cụ già vừa kể, song chàng lại cảm thấy rằng phải là một kẻ mù và cưỡng chống lại chính óc của mình mới có thể cho rằng con người vừa mới nói. “Tôi đã nhìn thấy” kia là nói dối. Có cái gì đó trong sự xúc động của ông, trong những giọt lệ của ông, trong cả dáng người ông và trong các chi tiết của những sự kiện mà ông kể lại, khiến cho ta không thể nào nghi ngờ nổi. Chốc chốc, Vinixius cứ ngỡ mình đang nằm mơ. Song chàng vẫn trông thấy chung quanh mình đám người đang im lặng, mùi của những chiếc đèn vẫn thoảng bay tới mũi chàng, những ngọn đuốc vẫn cháy sáng cạnh đấy và bên chàng, trên tảng đá, vẫn ông cụ già đứng đó, cạnh hầm mộ, với mái đầu hơi run run, đang làm chứng và nhắc lại: “Tôi đã trông thấy”.
              Ông cụ tiếp tục kể cho mọi người nghe cho tới lúc Lên trời. Chốc chốc cụ lại dừng lại nghỉ, bởi cụ rất chi tiết, song có thể cảm thấy rằng mỗi một chi tiết nhỏ nhặt nhất đều được khắc ghi vào trí nhớ của cụ như được tạc vào đá. Một sự đắm say tràn ngập lòng những người đang nghe cụ nói. Họ bỏ những chiếc mũ trùm đầu xuống để có thể nghe rõ hơn và không bỏ quả một lời nào, những lời vô giá đối với họ. Họ cảm thấy như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó mang họ về tới xứ Galilea, rằng họ cùng với các học trò của Chúa đi trong những khu rừng cây nọ, đến bên bờ nước, rằng cái nghĩa địa này biến thành hồ Tyberiad, còn trên bờ hồ, trong làn sương mù ban mai. Đấng Crixtux đang đứng đó, hệt như Người đứng trước khi thánh Jan từ trên thuyền nhìn lên mà thốt ra: ”Chúa kìa!” - Còn sứ đồ Piotr lao xuống bơi để có thể được sụp xuống đôi chân thương quý nhanh hơn. Trên những nét mặt là cả một sự ngưỡng mộ vô bờ, sự quên lãng hẳn cuộc đời, cùng niềm hạnh phúc và tình yêu không sao đo nổi. Hẳn là trong suốt thời gian dài sứ đồ Piotr kể chuyện, nhiều người đã như nhìn thấy Chúa, vì khi ông bắt đầu nói chuyện vào lúc Lên trời những đám mây di động dưới chân Đấng Cứu Thế và che cho Người ra sao, đồng thời che khuất Người trước mắt các tông đồ, thì tất thảy các mái đầu đều bất giác ngẩng lên trời giây lâu như chờ đợi, dường như họ vẫn còn hy vọng được trông thấy Chúa hoặc chờ đợi Người sẽ từ những cánh đồng thiên giới giáng trần lần nữa để xem vị Sứ Đồ tuổi tác đang chăn đàn chiên được giap phó cho ông ra sao, để ban phước cho ông và đàn con chiên của ông.
              Đối với họ vào giây phút này không hề tồn tại. La Mã lẫn vị Hoàng đế cuồng loạn, không hề có các thần miếu, không hề có những vị thần, cũng không hề có ngoại đạo, chỉ có mỗi mình Đấng Crixtux, người thống lĩnh mặt đất, biển cả, bầu trời và thế giới.
              Trong những ngôi nhà xa xa nằm rải rác dọc Via Nomentana gà trống bắt đầu cất tiếng gáy báo nữa đêm. Chính vào lúc ấy lão Khilon chợt kéo góc áo choàng của Vinixius và thì thào:
              - Thưa ngài, ở kia cánh ông cụ không xa, tôi nhìn thấy tên Urxux, cạnh hắn là một thiếu nữ nào đấy.
              Vinixius như chợt tỉnh giấc mơ và quay về phía lão Hi Lạp chỉ, chàng nhìn thấy Ligia.


              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #22
                T1- Chương 21

                Từng giọt máu đều run lên trong người chàng quý tộc trẻ tuổi khi chàng nhìn thấy nàng. Chàng quên đi những đám đông, quên cụ già, quên cả sự ngạc nhiên của bản thân mình trước những điều không hiểu nổi mà chàng được nghe thấy, chàng chỉ còn trông thấy trước mặt mỗi mình nàng thôi. Thế là sau bấy nhiêu nỗ lực, sau bao ngày dài đằng đẵng đầy lo lắng, dằn vặt và phiền não, chàng đã tìm thấy nàng, lần đầu tiên trong đời chàng được thể nghiệm rằng niềm vui sướng có thể lao lên ngực người ta như một con thú dữ và chẹn lên đó đến nghẹt thở… Cho đến nay chàng cho rằng thần tài Fortuna có nghĩa vụ phải thực hiện mọi mong muốn của chàng, mà giờ đây chàng hầu như không dám tin vào mắt mình và hạnh phúc của mình nữa. Giá như không có cảm giác ngỡ ngàng này thì chắc cái bản tính xốc nổi của chàng đã đẩy chàng tới một hành động thiếu cân nhắc nào đó, song lúc này trước hết chàng cón muốn kiểm tra xem đây có phải chỉ là đoạn tiếp nối của những điều huyễn hoặc đang tràn ngập đầu óc chàng hay chăng, có phải chàng đang mê ngủ hay chăng. Nhưng không nghi ngờ gì nữa: Chàng đang nhìn thấy Ligia và chỉ đứng cách nàng có hơn chục bước chân thôi. Nàng đứng trong vòng ánh sáng tràn ngập nên chàng có thể nhìn ngắm nàng thật thỏa thích bao lâu cũng được. Cái mũ che tụt khỏi đầu nàng và làm tóc nàng xõa ra, môi nàng hơi hé mở, mắt người nhìn lên Đức Sứ đồ, khuôn mặt chăm chú lắng nghe và đầy thành kính. Với tấm áo khoác bằng len màu thẫm, nàng ăn mặc như một thiếu nữ con nhà tiện dân, song Vinixius chưa bao giờ thấy nàng xinh đẹp đến thế và mặc dù sự xáo động đang trào lên trong lòng, chàng vẫn nhận thấy ngay vẻ thanh cao của mái đầu quý phái tuyệt mỹ của nàng, ngược hẳn với phục trang mà nàng đang mặc, thứ phục trang của bọn nô lệ. Tình yêu lan tràn khắp người chàng như ngọn lửa, một tình yêu lớn lao, trộn lẫn cảm giác nhớ nhung, sùng kính, tôn thờ và dục vọng kỳ lạ nào đó. Chàng cảm thấy khoan khoái hưởng thụ khoái cảm ấy như uống dòng nước mát lành sau một cơn khát dài ngày. Đứng bên bác người Ligi lực lưỡng, trông nàng nhỏ bé hơn trước kia, gần như là một đứa trẻ và chàng cũng nhận thấy nàng có gầy đi. Làn da nàng gần như trong suốt, nàng gây cho chàng ấn tượng về một đóa hoa, một linh hồn. Nhưng điều đó chỉ càng khiến cho chàng thêm khát kháo chiếm được cái sinh linh này, cái sinh linh khác hẳn những người phụ nữ mà chàng từng gặp hoặc từng sở hữu ở Phương Đông và ở Roma. Chàng cảm thấy mình sẵn sàng đánh đổi tất cả những người phụ nữ kia, cộng thêm cả Roma và toàn thế giới, để có được nàng.
                Hẳn chàng sẽ đứng nhìn và quên đi hết thẩy nếu như không có lão Khilon, lão kéo một góc áo choàng của chàng vì e chàng sẽ làm điều gì có thể gây nguy hiểm cho cả bọn. Trong lúc đó, những người Thiên chúa giáo bắt đầu cầu nguyện và hát. Lát sau rền lên tiếng nguyện: Maranatha; rồi đức Đại Sứ Đồ bắt đầu dùng nước trong đài phun nước rửa tội cho những người được các vị quản họ đạo giới thiệu là những kẻ đã sẵn sàng chịu lễ rửa tội. Vinixius cảm giác như cái đêm hôm nay kéo dài chẳng bao giờ chấm dứt. Giờ đây chàng chỉ muốn bám theo Ligia thật nhanh và bắt nàng dọc đường hoặc trong nhà nàng mà thôi.
                Mãi sau, người ta mới bắt đầu dần dần rời khỏi nghĩa địa. Khi ấy lão Khilon thì thầm:
                Ta ra đứng trước cổng đi, thưa ngài, vì chúng ta không bỏ mũ trùm đầu và người ta đang nhìn chúng ta kia kìa.
                Quả có thế thật. Khi Sứ Đồ đang nói, mọi người đều bỏ mũ che đầu ra để được nghe rõ hơn, còn bọn họ không làm theo. Lời khuyên của lão Khilon cũng thật sáng suốt. Đứng cạnh cổng ra vào họ có thể quan sát được từng người đi ra. Không khó khăn gì cũng có thể nhận ra bác Urxux dựa theo tầm vóc và dáng người.
                - Chúng ta sẽ theo hút bọn họ - lão Khilon nói - xem xem họ đi vào ngôi nhà nào, ngày mai, mà đúng hơn là hôm nay, ngài sẽ dùng bọn nô lệ vây chặt tất cả các cửa ra vào ngôi nhà ấy và sẽ bắt nàng đi, thưa ngài.
                - Không! - Vinixius đáp.
                - Thế ngài muốn làm thế nào, thưa ngài?
                - Chúng ta sẽ đi theo nàng đến nhà và bắt nàng ngay tức khắc, có phải ngươi nhận việc ấy không, Kroton?
                - Chính thế, - viên lanixta đáp - Tôi sẽ tự nộp mình làm nô lệ cho ngài nếu như tôi không bẻ gẫy xương sống con trâu mộng đang canh giữ nàng kia.
                Song lão Khilon bàn lui và viện tất cả các vị thần khuyên họ không nên làm thế. Kroton được mang theo chỉ để phòng thân trong trường hợp bọn họ bị phát hiện, chứ đâu phải để bắt cóc thiếu nữ. Nếu chỉ có hai người mà họ dám bắt nàng thì họ có thể bị nguy đến tính mạng và hơn nữa có thể để nàng sổng khỏi tay và khi ấy nàng sẽ ẩn trốn nơi khác hoặc rời bỏ ngay thành Roma. Khi ấy họ sẽ làm gì nào? Tại sao không hành động một cách chắc chắn, tại sao lại dấn thân vào chuyện nguy hiểm và làm cho bao công sức có thể phải đổ xuống sông biển?
                Mặc dù phải hết sức tự kìm hãm để không ôm choàng lấy Ligia vào vòng tay ngay tại nghĩa địa, Vinixius vẫn đủ tỉnh táo cảm thấy lão Hi Lạp có lý và chắc chàng đã làm theo lời khuyên của lão, nếu không có anh chàng Kroton, kẻ chỉ nghĩ đến món tiền thưởng.
                - Thưa ngài, xin hãy ra lệnh cho lão khọm già kia câm mõm lại - y nói - hoặc xin hãy cho tôi hạ nắm đấm xuống đầu lão cho rồi. Một lần, tại Bixentum, nơi mà ngài Luxius Xaturnius mang tôi đến để dự thế vận hội, trong một tửu quán, có bẩy tên đấu sĩ say rượu lao vào tấn công tôi cùng một lúc, ấy thế mà chẳng có tên nào còn đủ xương sườn để tháo lui. Tôi không dám bảo rằng bắt ngay cô ta lúc này giữa chốn đông người, vì bọn chúng có thể ném đá vào chúng ta, nhưng đến khi cô ấy về tới nhà rồi, tôi sẽ bắt ngay và mang đến bất cứ nơi nào ngài muốn.
                Nghe những lời nói ấy, Vinixius rất hài lòng, chàng bảo:
                - Thề có Herkulex, sẽ xảy ra đúng như thế! Có thể tình cờ ngày mai chúng ta không tìm thấy nàng trong nhà thì sao, còn bây giờ nếu ta khiến bọn chúng hoảng loạn thì chắc chắn sẽ bắt được nàng.
                - Nhưng tôi thấy thằng cha người Ligi khỏe kinh lắm - Lão Khilon rên lên.
                - Thì có ai khiến ngươi phải giữ tay hắn lại đâu cơ chứ? - Kroton lập lại.
                Tuy nhiên họ vẫn phải chờ đợi rất lâu nữa tới khi gà bắt đầu gáy sáng họ mới nhìn thấy bác Urxux cùng với Ligia bước ra khỏi cồng. Cùng đi với họ có mấy người nữa. Lão Khilon nhận thấy hình như trong số người ấy có Đại Sứ Đồ, bênh cạnh ông còn một cụ già nữa, thấp hơn nhiều, hai người đàn bà có tuổi và một tiểu đồng cầm đèn soi đường. Theo sau tốp người này là một đám đông chừng hai trăm người, Vinixius, Kroton và lão Khilon nhập vào đám người ấy.
                - Đấy thưa ông chủ - lão Khilon nói - cô thiếu nữ của ngài đang được đặt dưới một sự che chở rất to lớn. Chính ông ta đang cùng đi với nàng, chính Đại Sứ Đồ kia, xin ngài hãy nhìn xem người ta đang quỳ trước mặt ông ta kia kìa.
                Quả thực người ta đang quỳ xuống, nhưng Vinixius hoàn toàn không nhìn họ. Chàng không phút nào rời mắt khỏi Ligia và chỉ nghĩ đến việc bắt cóc nàng mà thôi, chàng vốn quen với những mưu mẹo trong chiến chinh, nên sự chặt chẽ của một người lính chàng sắp đặt trong óc toàn bộ kế hoạch bắt cóc. Chàng cảm thấy bước đi mà chàng định tiến hành thật là liều lĩnh, song chàng cũng hiểu rõ, rằng những cuộc tấn công táo bạo thường kết thúc bằng thắng lợi.
                Tuy nhiên, con đường về khá xa, nên nhiều khi chàng cũng suy nghĩ về những vực thẳm mà cái học thuyết kỳ lạ kia, cái học thuyết mà nàng thuận theo đã đào sâu giữa chàng và Ligia. Giờ đây chàng hiểu rõ tất cả những gì xảy ra trong quá khứ, chàng hiểu được nguyên do của chúng. Chàng khá sáng suốt về phương diện đó. Té ra cho tới nay chàng chưa hiểu gì về Ligia. Chàng chỉ thấy nàng là một thiếu nữ tuyệt đẹp, hơn hẳn các thiếu nữ khác trên đời, nàng hấp dẫn các giác quan của chàng, giờ đây chàng mới hiểu ra rằng cái học thuyết kia đã biến nàng thành một sinh linh khác hẳn những người phụ nữ khác và rằng cái hy vọng lôi kéo nàng chỉ bằng các giác quan, bằng dục vọng, tài sản, lạc thú sẽ chỉ là ảo vọng. Rốt cuộc chàng hiểu ra điều mà cả chàng lẫn ông Petronius không hiểu được, rằng thứ tôn giáo mới mẻ kia đã cấy vào tâm hồn một thứ mà cái thế giới chàng đang sống chưa từng biết tới và rằng dù cho Ligia có yêu chàng chăng nữa, nàng cũng không thể nào vì chàng mà chịu hy sinh đi một thứ gì trong số những chân lý Thiên chúa giáo của nàng, rằng nếu như có tồn tại một thứ lạc thú nào đó đối với nàng, thì nó cũng hoàn toàn khác hẳn thứ lạc thú mà chàng và ông Petronius cùng cả cung đình Hoàng đế và cả thành Roma chạy theo. Tất cả những người phụ nữ khác mà chàng biết đều có thể trở thành tình nhân của chàng, còn cô gái Thiên chúa giáo này chỉ có thể trở thành nạn nhân của chàng mà thôi.
                Nghĩ về điều đó, chàng vừa đau đớn vừa giận dữ, song chàng cũng hiểu rằng cơn giận kia thật bất lực. Chàng nghĩ rằng cái việc bắt cóc Ligia có thể thực hiện được và chàng hầu như tin chắc vào điều đó, song đồng thời chàng cũng chắc rằng bản thân chàng, sự can trường của chàng, thế lực của chàng chẳng là gì cả đối với cái giáo lý kia và chàng không thể đương đầu nổi với nó. Vị hộ dân quan quân sự La Mã này, người từng tin tưởng rằng sức mạnh của thanh gươm và nắm đấm đã chinh phục toàn thế giới và sẽ luôn luôn cai trị toàn thế giới, lần đầu tiên trong đời mới nhận ra rằng ngoài cái sức mạnh ấy có thể còn có một thứ gì khác nữa, cho nên chàng ngạc nhiên tự hỏi: Đó là cái gì vậy?
                Và chàng không thể trả lời thật rõ, bay ngang qua đầu óc chàng chỉ có bức tranh của cái nghĩa địa nọ, đám người tụ tập tại đấy và nàng Ligia đang lắng nghe với cả tấm lòng từng lời của cụ già kể về cực hình, về cái chết và sự sống lại của Đức Chúa, người đã chuộc tội cho cả thế gian và hứa hẹn với thế gian một niềm hạnh phúc bên kia sông Xtykx.
                Cứ nghĩ về chuyện đó, đầu óc chàng lại trở nên hỗn độn.
                Song những lời than vãn của lão Khilon đã kéo chàng ra khỏi trạng thái quay cuồng, lão bắt đầu than thân trách phận: Lão chỉ nhận việc tìm kiếm Ligia thôi và đã không nề nguy hiểm tính mạng tìm ra và trỏ được nàng cho người ta. Vậy thì người ta còn đòi hỏi gì thêm ở lão nữa cơ chứ? Nào lão có nhận việc cướp nàng đi đâu? Mà ai có thể yêu cầu điều đó ở một con người tàn tật mất những hai ngón tay, một con người già nua tuổi tác đã dâng hiến đời mình cho tư duy, cho khoa học và cho đức hạnh? Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu như một đức ông cao sang như Vinixius gặp phải chuyện chẳng lành khi bắt cóc thiếu nữ? Đã hẳn là các linh thần phải hộ mệnh cho kẻ đã được thần lựa chọn rồi, nhưng biết đâu lại chẳng xảy ra chuyện các thần mải chơi trò đỏ đen với nhau thay vì quan sát xem những gì đang diễn ra trên trái đất. Thần tài Fortuna, như ai nấy đều biết, có đôi mắt bị bịt kín, nên ban ngày nữ thần còn chẳng trông thấy gì huống hồ ban đêm. Mà hễ có chuyện gì xảy ra, hễ cái con gấu xứ Ligi kia cứ lao vào chàng Vinixius cao quý những tảng đá xay bột, một thùng rượu vang hay tệ hơn nữa, một thùng nước, thì liệu ai sẽ dám bảo đảm là thay vì nhận món tiền thưởng lão Khilon tội nghiệp này lại không phải chịu sức nặng của trách nhiệm giáng xuống đầu? Lão, một nhà hiền triết nghèo đã gắn bó với chàng Vinixius tôn quý như Arixtotelex gắn bó với Alekxandr Maxeđoan và giá chi ít nhất chàng Vinixius cao quý trả lại cho lão cái túi tiền mà chàng đã giắt vào thắt lưng trước mắt lão khi chàng bước ra khỏi nhà, thì trong trường hợp rủi ro lão cũng có cái để mà gọi người cứu giúp ngay tức khắc, hoặc mua chuộc những người Thiên chúa giáo. Ôi! Sao người ta lại không nghe theo những lời khuyên của người già, những lời khuyên xuất phát từ kinh nghiệm và sự thận trọng?
                Nghe thấy thế, Vinixius rút túi tiền từ trong thắt lưng ra và ném cho lão Khilon.
                - Của ngươi đấy và câm đi!
                Lão Hi Lạp cảm thấy cái túi nặng khác thường và có thêm can đảm.
                - Toàn bộ hy vọng của tôi đặt vào chỗ - lão nói - là chàng Herkulex và Tezeus còn hoàn thành được những kỳ công khó khăn hơn nhiều, mà người bạn thân thiết nhất của tôi, chàng Kroton đây, là ai? Nếu không phải là Herkulex? Còn ngài, thưa ngài tôn quý, tôi không gọi là một vị nửa thần thánh bởi ngài là cả một vị thần, thế mà ngài vẫn không quên người đầy tớ nghèo hèn nhưng trung thành của mình, kẻ thỉnh thoảng vẫn cần phải được chu cấp, vì nếu chỉ mình hắn cô độc, thì một khi đã vùi đầu vào sách vở hắn hoàn toàn không còn để ý gì tới chuyện khác nữa… Vài mẫu vườn(1) gì đấy và một cái nhà con con, dù chỉ có một hàng hiên để hóng mát vào ngày hè, quả là thứ đáng được người như ngài ban cho. Còn bây giờ tôi sẽ đứng từ xa để ngạc nhiên về những hành động anh hùng của các ngài, tôi sẽ cầu thần Jupiter để thần hỗ trợ các ngài, còn nếu có chuyện gì, tôi sẽ làm ầm ĩ lên, đến nỗi cả phân nửa thành Roma phải thức giấc và kéo tới giúp sức các ngài. Con đường mới xấu và gập ghềnh làm sao! Dầu ô liu trong đèn đã cháy kiệt cả rồi và giá như Kroton, con người vừa cao quý vừa mạnh mẽ đấy vui lòng bế tôi trên tay mang về tận cổng thành thì hay biết bao, trước hết anh có thể lường trước xem liệu mang cô thiếu nữ kia có dễ lắm không, hai nữa, anh sẽ hành động giống như ngài Eneas và cuối cùng anh sẽ được tất cả các vị thần linh công minh hỗ trợ, đến mức anh có thể hoàn toàn yên lòng về kết quả của hành động đầy khó khăn này.
                - Ta thà vác thịt thối của một con cừu chết vì bệnh ung rạ một tháng còn hơn - viên lanixta đáp lại, song nếu ngươi đưa cho ta cái túi tiền mà ngài hộ dân quan tôn quý vừa quẳng cho ngươi thì ta sẽ bế ngươi tới tận cổng thành.
                - Cầu cho anh bị dập ngón chân cái đi! - Lão Hi Lạp kêu lên - Anh lại lợi dụng khoa học của một ông lão khả kính, người xem sự nghèo khó và tình thương như hai thứ đạo đức đáng quý nhất như thế đấy phải không? Ông ta vừa mới răn dạy anh thật rõ ràng là phải yêu thương tôi kia mà? Tôi thấy là không bao giờ có thể làm cho anh trở thành một tín đồ Thiên chúa giáo xoàng xĩnh nhất và quả thực mặt trời lọt qua những bức tường Marmetyn còn dễ hơn sự thật lọt vào cái sọ hà mã của anh.
                Còn Kroton, kẻ mang sức mạnh của dã thú, không hề có một thứ tình cảm, nhân tính nào, liền đáp lại:
                - Đừng lo, ta sẽ không trở thành tín đồ Thiên chúa đâu. Ta không muốn mất mẩu bánh mì.
                - Phải rồi, nhưng giá như ngươi có được vài khái niệm nhập môn về triết học thì hẳn ngươi sẽ biết: Và chỉ là thứ vứt đi.
                - Hãy mang theo cả cái triết học ấy đến đây ta chỉ cần tặng cho lão một cái húc đầu vào bụng, rồi xem xem ai sẽ thắng.
                Con bò cũng có thể nói với ngài Arixtotelex hệt ngươi! - Khilon quật lại.
                Trời rạng dần. Ánh lê minh quét một màu nhợt nhạt lên các đỉnh mấp mô của những bức tường thành. Những cái cây bên đường, những ngôi nhà nhỏ và những pho tượng ở bên mộ rải rác đây đó bắt đầu hiện ra trong bóng đêm. Đường không còn hoàn toàn vắng vẻ nữa. Đám người buôn bán rau đang đi cho kịp lúc mở cổng thành, đánh theo lũ la hoặc lừa thồ rau, đây đó có tiếng những cỗ xe cót két, trong đó chở súc vật. Trên mặt đường và hai bên đường, là là mặt đất một làn sương mù nhẹ, báo trước một ngày đẹp trời. Nhìn từ xa, người đi trong đám sương ấy trông giống như những bóng ma. Vinixius nhìn mãi vào hình dáng mảnh khảnh của Ligia, hình dáng mỗi lúc thêm lấp lánh bạc trong ánh ngày đang rạng dần.
                - Thưa ngài - Khilon nói - giá như tôi nghĩ rằng sự hào phóng của ngài một ngày nào đó sẽ chấm dứt, hẳn tôi sẽ moi tiền của ngài, song giờ đây, một khi ngài đã trả tiền cho tôi rồi, chắc ngài không thể nghĩ rằng tôi nói điều này chỉ vì lợi ích của tôi nữa. Một lần nữa tôi xin khuyên ngài, sau khi biết được nàng Ligia thần nữ đang ở trong ngôi nhà nào, ngài hãy quay trở về nhà, dẫn bọn nô lệ tới, đem cả kiệu theo và đừng có nghe lời cái vòi voi Kroton này, kẻ chỉ muốn bắt cóc cô thiếu nữ kia nhằm bóp nặn cái túi tiền của ngài như bóp một túi phó mát chua mà thôi.
                - Ngươi sẽ nhận được ở ta một tống vào giữa hai đùi, có nghĩa là ngươi sẽ toi mạng - Kroton lên tiếng.
                - Còn ngươi có ở chỗ ta một vại rượu nho Xefalon, nghĩa là, ta sẽ mạnh khỏe - lão Hi Lạp đáp lại.
                Vinixius không nói năng gì, vì họ đang tiến gần lại cổng thành, tại đó một cảnh kỳ lạ đập vào mắt họ. Hai người lính đang quỳ xuống khi Đức Sứ đồ đi ngang qua, còn ông để tay một lúc trên những chiếc mũ trụ bằng sắt của họ rồi làm dấu thánh giá trên đó. Chàng quý tộc trẻ tuổi chưa bao giờ ngờ rằng ngay cả trong đám binh lính lại có thể có các tín đồ Thiên chúa giáo và chàng ngạc nhiên nghĩ rằng, cũng giống như một đám cháy trong một thành phố đang bốc lửa mỗi lúc một nuốt thêm những ngôi nhà mới, cái học thuyết này rõ ràng ngày càng xâm nhập thêm vào nhiều linh hồn mới và lan tràn nhanh quá sức tưởng tượng của con người. Điều này cũng đập mạnh vào chàng vì liên quan tới Ligia, bởi chàng tin rằng, nếu như nàng muốn trốn thoát khỏi thành phố thì chắc hẳn sẽ có những người lính canh sẵn sàng giúp đỡ nàng vượt thành một cách bí mật. Giây phút này chàng cảm ơn tất cả các thần là chuyện ấy đã không xảy ra.
                Sau khi đi qua những phần đất hoang nằm bên trong tường thành, đám tín đồ Thiên chúa bắt đầu tản dần. Giờ đây, cần phái tiếp tục theo hút Ligia một cách thận trọng hơn để khỏi bị để ý. Lão Khilon lại than vãn về vết thương và những chỗ phồng rộp ở chán, mỗi lúc lão tụt dần lại phía sau, song Vinixius cũng chẳng phản đối, vì chàng nghĩ rằng tới lúc này lão già Hi Lạp hèn nhát và tàn tật không còn cần thiết cho chàng nữa. Và nếu như lão muốn thì chàng sẵn sàng để cho lão xéo đi, song tuy nhiên vị hiền triết này dù bị sự thận trọng kìm lại phía sau, sự tò mò dường như vẫn tiếp sức cho lão, bởi lão vẫn lẽo đẽo theo sau họ, thậm chí đôi khi lão còn tiến gần lên, lải nhải lại những lời khuyên trước đây đồng thời bảo rằng rất có thể cái ông cụ đi cùng với Sứ Đồ chính là lão Glaukox, giá như ông cụ không có cái vóc người quá thấp như thế.
                Họ phải đi khá lâu, đến tận khu Zatybrye, mặt trời cũng gần mọc, thì đám người trong đó có Ligia mới phân tán ra. Đức Sứ đồ, một phụ nữ đứng tuổi và đứa tiểu đồng đi dọc sông về phía thượng nguồn, còn ông cụ thấp bé, Urxux và Ligia bước vào hiên một ngôi nhà, trong đó có hai cửa hàng, một hiệu bán dầu ô lia, còn hiệu kia bán chim chóc.
                Đang tấp tểnh chừng năm mươi bước chân phía sau Vinixius và Kroton, lão Khilon chợt đứng sững như trời trồng và nép người vào tường, lão suỵt suỵt gọi họ quay trở lại.
                Họ làm theo lão vì quả thực cần phải bàn bạc.
                - Người đi xem thử cái nhà này có thông ra phố khác phía bên kia hay không? - Vinixius nói.
                Mặc dù vừa ca thán về những vết thương ở chân, lão Khilon nhảy vọt đi nhanh nhẹn như ở mắt cả của lão có đôi cánh nhỏ của thần Mecurơ vậy, lát sau lão quay trở lại ngay.
                - Không có - lão bảo - chỉ có một lối vào thôi.
                Rồi lão chắp tay lại:
                - Lạy các thần Jupiter, Apolon, Vexta, Kibela, Izyx và Ozyryx, lạy thần Mitra, Baan và tất cả các vị thần phương Đông cùng phương Tây, xin ngài hãy bỏ cái ý định đấy đi… Xin hãy nghe tôi…
                Lão chợt dừng lại giữa chừng khi thấy mặt Vinixius tái nhợt đi vì xúc động, còn mắt chàng nheo lại như đồng tử chó sói. Chỉ cần nhìn chàng cũng có thể hiểu được rằng không còn gì trên đời có thể ngăn chàng hành động nữa. Kroton bắt đầu hít thật nhiều hơi vào lồng ngực lực sĩ và gật gù về hai phía cái đều kém phát triển của mình, giống như lũ gấu bị giam hãm trong chuồng hay làm. Còn trên nét mặt y không hề gợn chút lo lắng nào.
                - Tôi vào đầu tiên - y nói.
                - Ngươi đi sau ta - Vinixius nói giọng ra lệnh.
                Rồi lát sau cả hai biến mất vào trong cái hiên mờ tối.
                Lão Khilon nhảy ngay tới góc phố gần nhất và nghé từ sau góc tường lão chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra.
                Chú thích:
                (1) Nguyên văn: Staje - đơn vị đo diện tích cổ, bằng 1,2 ÷ 1,5 ha


                ST
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #23
                  T1 - Chương 22

                  Mãi tới lúc vào đến hiên, Vinixius mới hiểu hết toàn bộ khó khăn trong hành động của chàng. Đó là một ngôi nhà khá lớn, nhiều tầng, một trong hàng nghìn ngôi nhà được người ta xây dựng ở Roma để kiếm lợi bằng cách cho thuê buồng, song thông thường được xây vội vã và tạm bợ đến nỗi không năm nào không có vài ngôi nhà như thế đổ sụp xuống đầu những người ở trọ. Đó quả thực là một cái tổ ong, quá cao và quá hẹp, đầy các phòng và những phòng xép trong đó sống chen chúc đám dân vừa nghèo khổ vừa quá đông đúc. Trong một thành phố mà nhiều phố không có tên gọi, những ngôi nhà như thế không hề có số thứ tự, những người chủ giao việc thu tiền nhà cho bọn nô lệ, còn bọn chúng lại không có nghĩa vụ phải báo tên tuổi những người sinh sống trong nhà cho chính quyền thành phố, nên thường khi, chúng cũng chẳng biết tên họ nữa. Trong một ngôi nhà như thế, có hỏi thăm về một ai cũng thật khó khăn, nhất là khi bên cổng không có người gác.
                  Đi qua hàng hiên dài giống như một hành lang, Vinixius và Kroton lọt vào một sân trong chật hẹp, bốn phía đều là nhà, cái sân là một loại chính sảnh thông thiên chung cho toàn bộ ngôi nhà, cũng có một đài phun nước ở giữa, phun nước lên cái đĩa bằng đá xây sát mặt đất. Trên các bức tường là những cầu thang xây bên ngoài nhà chạy lên cao, một phần bằng đá, một phần bằng gỗ, còn những ngăn khác ngăn cách với cái sân chỉ bởi những tấm rèm che bằng len, phần lớn đã cũ kỹ, rách nát hoặc ố bẩn.
                  Hãy còn sớm quá nên trên sân không một bóng người. Hẳn là trong nhà mọi người hãy đang ngủ, trừ những người mới từ Oxtrianum quay về.
                  - Ta làm gì đây, thưa ngài? - Kroton hỏi và dừng lại.
                  - Ta hãy chờ ở đây đã, có thể sẽ có ai đó ra - Vinixius đáp - Đừng để cho người ta trông thấy chúng ta trong sân.
                  Song đồng thời chàng cũng nghĩ thầm rằng lời khuyên của lão Khilon quả là thực tế. Giá có trong tay vài chục nô lệ, hẳn chàng đã cho vây chặt cổng ra vào - đó có lẽ là lối ra vào duy nhất - và lùng sục tất cả các phòng, còn giờ đây, chàng cần phải sục đúng ngay vào phòng Ligia, nếu không những người Thiên chúa giáo - mà chắc trong ngôi nhà này không thiếu gì - có thể đánh động cho nàng biết rằng người ta đang đi tìm nàng. Vì vậy dò hỏi những người lạ cũng không phải là việc an toàn. Vinixius thoáng nghĩ xem có nên quay về lấy theo bọn nô lệ hay chăng, thì bỗng từ dưới bức rèm che căn hộ phía xa có một người tay cầm rổ bước ra, tiến lại gần vòi phun.
                  Thoạt nhìn, chàng trai đã nhận ra ngay bác Urxux.
                  - Chính tên Ligi đấy!, - Vinixius thì thầm
                  - Tôi có cần phải bẻ gãy xương nó ngay lập tức không?
                  - Khoan đã!
                  Bác Urxux không nhìn thấy họ vì họ đang đứng trong bóng tối của hàng hiên, bác bình thản rửa rau đựng đầy trong cái rổ. Chắc là sau cả đêm thức tại nghĩa địa, bác muốn sửa soạn bữa tối cho cả bọn. Sau khi xong việc, bác cầm cái rổ ướt nước và biến mất sau tấm rèm che. Kroton và Vinixius bám theo bác vì nghĩ rằng sẽ vào đúng ngay phòng của Ligia.
                  Vì vậy họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy rằng đằng sau tấm rèm che ngăn cách với sân trong kia không phải một căn phòng mà là một hành lang mờ tối thứ hai nữa, cuối hành lang trông rõ một mảnh vườn nhỏ có vài cây trắc bá, vài bụi sim thơm và một gian nhà nhỏ dựa vào tường sau kín bưng của một ngôi nhà bằng đá khác.
                  Cả hai hiểu ngay rằng đó là một điều thuận lợi cho họ. Trên sân chung, dân trong nhà có thể tập trung cả lại, còn ngôi nhà nhỏ này đứng tách biệt, nên họ hành động được dễ dàng hơn. Nhanh chóng hạ thủ những người bảo vệ, nói đúng hơn là bác Urxux, rồi nhanh chóng mang theo nàng Ligia bị bắt cóc chạy ra phố, ra bến đò thì họ có thể an tâm rồi. Hẳn sẽ không kẻ nào dám can thiệp vào, mà giá như có kẻ nào can thiệp, thì họ sẽ bảo rằng đây là một con tin của Hoàng đế bỏ trốn, cùng lắm thì Vinixius sẽ cầu viện bọn vigin và báo cho bọn chúng biết.
                  Bác Urxux sắp bước vào ngôi nhà nhỏ thì tiếng bước chân sột soạt khiến bác chú ý, bác bèn dừng lại, và khi trông thấy hai người, bác đặt cái rổ xuống mặt lan can rồi quay lại phía họ:
                  - Các ông tìm gì ở đây? - Bác hỏi
                  - Tìm mày đấy - Vinixius đáp
                  Rồi quay lại phía Kroton, chàng gọi bằng một giọng gấp gáp nhưng nén lại:
                  - Giết!
                  Như một con hổ, Kroton lao tới, và chỉ trong chớp mắt, trước khi người đàn ông Ligi kịp định thần hoặc nhận ra kẻ thù, y đã tóm chặt bác trong đôi cánh tay bằng thép của mình.
                  Vinixius quá tin tưởng vào sức lực siêu nhân của y nên không cần chờ cuộc đấu kết thúc, chàng vượt qua hai người, lao về phía cửa ra vào của ngôi nhà, đẩy nó bật ra và lao vào gian nhà hơi tối song có ánh lửa đang cháy trong lò chiếu sáng. Ánh lửa chiếu thẳng vào khuôn mặt Ligia. Còn người thứ hai ngồi bên đống lửa chính là ông cụ già đi cùng với cô gái và bác Urxux trên đường từ Oxtrianum quay về.
                  Vinixius lao vào bất thần đến nỗi trước khi Ligia kịp nhận ra chàng thì chàng đã ôm ngang lưng nàng, nhấc bổng lên và lại lao ra phía cửa. Cụ già kịp chắn ngang đường chàng, nhưng một cánh tay chàng đã ghì chặt thiếu nữ vào ngực, còn tay kia được tự do liền gạt ngã cụ. Cái mũ choàng tụt ra khỏi đầu chàng, trông thấy bộ mặt quen thuộc đối với nàng, bộ mặt kinh hoàng đối với nàng vào giây phút này, vì quá hoảng hốt máu như dừng lại trong người Ligia, tiếng nàng tắc nghẹn trong cổ họng. Nàng muốn kêu cứu song không kêu nổi. Nàng muốn tóm lấy khung cửa để giằng lại nhưng vô hiệu. Những ngón tay nàng trượt dài trên mặt đá và hẳn nàng đã ngất đi, nếu như không có một cảnh tượng kinh khủng đập vào mắt nàng khi Vinixius ôm nàng lao ra ngoài vườn.
                  Bác Urxux đang ghì trong hai tay một người nào đó, y hoàn toàn gập người ra phía sau lưng, đầu ngửa ra, mồm đầy máu. Nhìn thấy họ, bác giáng một quả đấm nữa vào đầu y, rồi trong nháy mắt, như một con thú dữ sổng chuồng, bác nhảy vọt tới bên Vinixius.
                  “Chết rồi!” - Chàng quý tộc trẻ tuổi thoáng nghĩ.
                  Rồi sau đó chàng nghe tiếng kêu của Ligia như qua một giấc mơ: “đừng giết!”, tiếp đó chàng cảm thấy có cái gì nhanh như chớp tháo tung hai cánh tay chàng đang ôm cô gái, mặt đất quay cuồng trước chàng và ánh ngày vụt tắt trong đôi mắt chàng.
                  ….
                  Lão Khilon vẫn nấp sau góc phố chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra, và trong lòng lão nỗi sợ hãi vẫn đang đấu tranh với sự tò mò. Lão nghĩ rằng, nếu như họ bắt cóc được Ligia thì việc có mặt bên Vinixius là điều tốt. Lão không còn sợ Urxux nữa vì tin chắc rằng Kroton sẽ giết chết bác ta. Ngược lại, lão tính rằng, nếu như trên đường phố mà cho tới lúc này vẫn vắng người lại trở nên nhộn nhạo, nếu như dân Thiên chúa hay bất cứ bọn người nào khác muốn chống lại Vinixius, thì lão sẽ nói với họ như một vị đại diện của chính quyền, như một người thi hành ý muốn của Hoàng đế, và trong trường hợp cần kíp lắm lão mới gọi đám vigin đến giúp chàng quý tộc trẻ tuổi chống lại bọn vô lại đường phố, và chuyện ấy hẳn sẽ cho phép lão được bỏ vào túi lão thêm những món tiền ân thưởng mới. Trong lòng, lão vẫn cứ nghĩ rằng Vinixius đã hành động thiếu thận trọng, song trông đợi vào cái sức mạnh khủng khiếp của Kroton, lão đồ rằng có thể họ sẽ thành công. “Cùng lắm, chính ngài hộ dân quan sẽ bế cô gái đi, còn Kroton chặn hậu”. Song với lão, thời gian dường như cứ kéo dài mãi ra, sự im lặng của cái hàng hiên mà lão trông thấy từ xa khiến lão lo lắng.
                  “Nếu họ không tìm được đúng nơi cô ả trốn mà lại gây ồn ào thì thể nào cũng đánh động tới cô nàng”
                  Và ý nghĩ ấy cũng không khiến lão phiền lòng, lão hiểu rằng khi ấy lão lại trở nên cần thiết cho Vinixius và lão lại có thể biết cách bóp nặn của chàng một số lớn những đồng xextecxi.
                  “Dù bọn họ có làm gì đi nữa - lão tự nhủ - thì cũng là làm cho ta, dù chẳng có ai nghĩ ra điều ấy… Lạy các thần, lạy các thần, chỉ cần cho phép tôi… “
                  Đột nhiên lão ngắt đoạn nữa chừng, bởi lão thấy hình như có cái gì ló ra khỏi hàng hiên, lão bèn nép thật sát vào tường dõi nhìn, nín thở.
                  Lão quả không nhầm, vì từ hàng hiên có đầu ai đó ngó ra và bắt đầu ngó quanh.
                  Lát sau nó lại biến mất.
                  “Đó hẳn là Vinixius hoặc Kroton - lão Khilon nghĩ thầm, - nhưng nếu đã bắt cóc được cô gái thì tại sao cô ả không kêu toáng lên, tại sao bọn họ lại phải dòm chừng ra phố? Dù sao thì họ cũng sẽ phải chạm trán với mọi người vì trước khi họ về tới được Karyny thì trong thành đã nhộn nhịp lên rồi kia mà? Vậy là cái gì? Lạy tất cả các thần linh bất tử!… “
                  Bỗng những sợi tóc còn sót lại trên đầu lão dựng cả lên.
                  Trong cửa hiện ra bác Urxux với xác Kroton vắt ngang qua vai, bác trông trước trông sau một lần nữa trước khi chạy dọc theo cái phố vắng ngắt dẫn ra sông.
                  Lão Khilon dán chặt mình vào tường gần dẹt như một miếng vữa trát tường.
                  “Mình sẽ chết mất nếu hắn trông thấy mình” - lão nghĩ thầm.
                  Nhưng bác Urxux chạy nhanh vượt qua góc phố và khuất ngay sau ngôi nhà tiếp đó. Lão Khilon không chờ đợi lâu la gì thêm nữa liền ù té chạy vào cái phố ngang, răng đánh lập cập vì kinh hoàng.
                  “Nếu khi quay trở lại hắn trông thấy mình từ xa, hắn sẽ chạy theo và giết mình mất, - lão tự nhủ - Hãy cứu lấy tôi, hỡi thần Zeux, hãy cứu tôi, hỡi thần Apolon, hãy cứu tôi, hỡi thần Hermex, cứu tôi với, hỡi Đức Chúa của những người Thiên chúa! Tôi sẽ rời bỏ Roma, quay trở về Mezembria, nhưng xin hãy cứu tôi thoát khỏi tay con quỷ này”.
                  Đối với lão, vào giây phút này, người đàn ông Ligi đã giết Kroton quả là một sinh linh siêu phàm. Vừa chạy trốn, lão vừa nghĩ rằng đó rất có thể là một vị thần linh đội lốt một kẻ dã man. Vào giây phút này, lão tin vào tất cả thần thánh trên đời và tất cả mọi huyền thoại mà thường ngày lão vẫn chế giễu. Ý nghĩ chính Đức Chúa của người Thiên chúa giáo đã giết chết Kroton lướt qua đầu óc lão và tóc lão lại dựng ngược lên khi nghĩ rằng lão đã dám đùa với một sức mạnh khủng khiếp như thế.
                  Mãi tới khi vượt qua mấy phố hẻm và trông thấy những người thợ nào đó từ xa đang đi ngược đến, lão mới bình tĩnh lại đôi chút. Ngực lão đã hụt hơi, lão bèn ngồi xuống ngưỡng cửa của một ngôi nhà và dùng góc áo choàng lau cái trán đẫm mồ hôi.
                  “Mình già rồi, mình cần được yên tĩnh” - lão nói.
                  Những người đi ngược chiều lại phía lão đã rẽ sang một phố ngang nào đó, lão còn lại mỗi mình. Thành phố hãy còn đang ngủ yên. Về buổi sáng sớm chính trong những khu phố giàu nhất nhộn nhịp hơn, vì đám nô lệ của những gia đình giàu có phải thức dậy sớm, còn ở những khu phố của đám dân tự do sống bám vào nhà nước, nghĩa là đám dân vô nghề nghiệp, thì người ta dậy khá muộn, nhất là về mùa đông. Sau khi ngồi hồi lâu trên ngưỡng cửa, lão Khilon thấy thấm lạnh, lão bèn đứng dậy, và sau khi chắc mẩm mình đã không đánh rơi mất túi tiền nhận được của Vinixius lão bèn chậm rãi đi về phía sông.
                  “Có thể mình sẽ thấy xác Kroton đâu đó cũng nên - lão tự nhủ. - Lạy các thần! Thằng cha người Ligi, nếu là người thật, thì trong vòng một năm hắn có thể kiếm ra hàng triệu xextecxi, nếu như hắn đã bóp chết tươi Kroton như một con chó ranh, thử hỏi ai còn chống nổi được nữa? Mỗi cuộc đấu trên võ đài người ta có thể trả cho hắn một số vàng bằng trọng lượng của hắn. Hắn canh giữ cô gái này còn giỏi hơn con chó ba đầu Xerbee canh giữ địa ngục, nhưng cầu cho địa ngục nuốt chửng cả hắn ta đi! Mình không muốn đụng độ với hắn! Xương lắm. Nhưng biết làm gì bây giờ? Việc kinh khủng đã xảy ra rồi. Nếu như một tay như Kroton mà còn bị hắn bẻ gẫy xương, thì chắc linh hồn Vinixius cũng đang lởn vởn trên cái nhà đáng nguyền rủa kia chờ ngày an táng. Lạy thần Kaxtor! Chàng là một quý tộc bạn của hoàng thượng, họ hàng thân thiết của ngài Petronius, một ông chủ có tiếng trong toàn Roma, một vị hộ dân quan quân sự. Cái chết của chàng không thể trôi qua nhẹ nhàng đối với bọn chúng được đâu… Nhưng nếu như mình tìm tới trại lính cấm vệ hoặc tới bọn vigin thì sao…?”
                  Đến đây lão im lặng suy nghĩ, nhưng lúc sau lão lại tiếp:
                  - Thương thay thân ta! Ai dẫn chàng vào ngôi nhà ấy nếu không phải chính ta?… Lũ nô lệ và nô lệ giải phóng của chàng biết rằng ta lui tới nhà chàng nhằm mục đích gì. Sẽ ra sao đây nếu người ta kết luận rằng ta cố tình trỏ cho chàng ngôi nhà mà tại đó chàng phải chết? Dù cho sau này trước toà người ta có hiểu ra là ta không muốn chàng phải chết, thì người ta cũng vẫn cứ kết tội rằng ta là nguyên do của cái chết ấy… Mà chàng lại là một nhà quý tộc, nên dù sao đi nữa ta cũng không tránh khỏi bị kết tội. Nhưng nếu như ta lặng lẽ rời bỏ thành Roma mà trốn đi thật xa thì lại càng khiến cho người ta nghi ngờ ta nhiều hơn mà thôi.
                  Dù thế này hay thế kia đều dở cả. Vấn đề là chọn cái nào ít dở hơn. Roma là một thành phố khổng lồ, thế mà lão Khilon vẫn cảm thấy chật chội. Bởi vì giá là người khác thì hẳn đã có thể đến gặp thẳng viên chỉ huy bọn vigin kể lại tình đầu, và dù cho hắn có bị ngờ vực điều gì, thì hắn cứ bình thản mà chờ điều tra. Nhưng toàn bộ quá khứ của lão Khilon lại thuộc về loại mà bất cứ một sự quen biết gần gũi nào với viên đô trưởng hoặc với viên chỉ huy vigin cũng đều mang tới những chuyện phiền toái nghiêm trọng vô chừng, đồng thời làm tăng thêm mọi nỗi nghi ngờ mà những vị quan chức ấy có thể có.
                  Mặt khác nếu chạy trốn thì chỉ càng khiến cho ông Petronius thêm cả quyết khi nghĩ rằng Vinixius bị phản bội và bị giết chết do lão xui khiến. Petronius là người nhiều thế lực, ông có thể ra lệnh cho cảnh sát cả nước, ông sẽ lập tức bằng mọi cách tìm ra thủ phạm, dù hắn có ở tận cùng thế giới đi chăng nữa. Lão Khilon chợt nghĩ, hay là đến thẳng chỗ ông và kể hết cho ông mọi chuyện. Phải! Đó là phương sách tốt nhất, Petronius là người trầm tĩnh và lão Khilon có thể tin rằng ít nhất lão cũng được trình bày cho đến cuối câu chuyện. Là người biết rõ chuyện này từ đầu, Petronius dễ dàng tin vào sự vô tội của lão Khilon hơn là các vị quan trưởng.
                  Nhưng để đến gặp Petronius cần phải biết chắc chắn chuyện gì đã xảy ra với Vinixius, điều mà lão Khilon không biết. Quả tình lão có trông thấy bác Urxux mang xác Kroton lén đi ra sông, nhưng lão chẳng biết điều gì hơn nữa. Vinixius có thể bị giết chết rồi mà cũng rất có thể chỉ bị thương hay bị bắt mà thôi. Tận lúc này lão Khilon mới nghĩ ra rằng những người Thiên chúa giáo chắc không dám giết chết một con người nhiều thế lực như chàng, một cận thần và một võ quan cao cấp, bởi một hành động như thế rất có thể sẽ khiến cho tất cả bọn họ bị truy nã. Hợp lẽ hơn là họ dùng sức mạnh giữ chàng lại, cho Ligia có thì giờ trốn đi chỗ khác.
                  Ý nghĩ ấy khiến lão Khilon tràn ngập niềm cổ vũ.
                  “Nếu như cái con rồng xứ Ligi kia không xé xác chàng ngay lúc đầu, thì hẳn chàng vẫn còn sống, mà nếu còn sống thì chính chàng sẽ làm chứng cho mình, là mình không hề phản bội chàng, khi ấy không những sẽ không có chuyện gì đe doạ mình (Ôi, hỡi thần Hecmex, hãy tính trước hai chú chiên cho con đi nhé!) mà lại có những phương trời mới mở rộng trước mắt mình. Mình chỉ cần báo cho một trong những tên nô lệ giải phóng cần phải tìm ông chủ ở đâu là đủ, còn hắn có muốn tới gặp đô trưởng hay không là việc của hắn, miễn là mình không phải đến gặp… Mình cũng có thể tới gặp Petronius và có thể được lĩnh thưởng nữa kia. Mình đã tìm kiếm Ligia, giờ đây lại tìm Vinixius, rồi sau đó lại đi tìm Ligia… Tuy nhiên trước hết cần phải biết chàng còn sống hay đã bị giết rồi!”
                  Đến đây lão chợt nghĩ, hay chờ tới đêm lần tới chỗ tên chủ lò bánh Đemax để hỏi dò về Urxux. Song lão vứt bỏ ý nghĩ ấy ngay lập tức. Lão không muốn có chuyện gì dính líu tới Urxux cả. Lão suy đoán một cách có lý, rằng nếu Urxux không giết chết lão Glaukox, thì chắc hẳn bác đã được một người nào đó trong số những người quản đạo cảnh giới trước, người ấy hẳn đã được bác thổ lộ cho biết ý định của mình và bảo cho bác biết, rằng đó là một việc không minh bạch và chắc có một kẻ phản bội nào đó xui bác làm chuyện ấy. Mà nói cho cùng, chỉ cần nghĩ tới Urxux là lão Khilon đã thấy rùng cả mình lên rồi. Ngược lại, lão nghĩ rằng đến đêm sẽ cho lão Enryxius đến ngôi nhà xảy ra sự kiện này thám thính tin tức xem sao. Còn lúc này cần phải ăn uống, tắm rửa và nghỉ ngơi cái đã. Cả đêm không ngủ, con đường tới Oxtrianum và cuộc chạy trốn từ khu Zatybre đã khiến lão mệt quá sức chịu đựng.
                  Song có một việc vẫn khiến cho lão vui sướng: đó là lão vẫn còn bên mình hai túi tiền, một túi Vinixius đưa cho lão tại nhà và một túi chàng ném cho lão trên đường từ nghĩa địa quay về. Vì cái hoàn cảnh đáng mừng ấy cũng như vì những nỗi xúc động mà lão vừa trải qua, lão quyết định sẽ ăn thật nhiều và uống loại rượu nho ngon hơn thường lệ.
                  Tới khi các quán rượu nho mở cửa, lão đã thực hiện điều đó quá mức, đến nỗi quên cả chuyện tắm táp. Lão chỉ muốn được đánh một giấc, và vì buồn ngủ, lão yếu đến nỗi khi quay trở về nhà ở khu Xubur, nơi người nô tỳ mà lão mua được bằng tiền của Vinixius đang chờ lão, chân lão cứ bước chuệnh choạng.
                  Về tới nhà, lão chúi vào cái phòng ngủ tối như hang cáo, lăn ra chiếu và ngủ thiếp đi ngay lập tức.
                  Mãi đến chiều tối lão mới tỉnh dậy, đúng hơn, người nô tỳ đánh thức lão, bảo lão đứng dậy, vì có ai đó đến tìm gặp lão vì một chuyện cần kíp.
                  Trong chớp mắt, lão Khilon tỉnh táo định thần ngay lập tức, khoác vội tấm áo choàng có mũ chụp lên người, và sau khi ra lệnh cho người nô tỳ dịch ra một bên, lão thận trọng ngó đầu ra ngoài.
                  Và lão sững người chết lặng. Vì phía trước cửa phòng ngủ, lão trông thấy thân hình khổng lồ của bác Urxux.
                  Trông thấy bác, hai chân và đầu lão lạnh buốt đi như băng đá, tim lão ngừng đập trong lồng ngực, hàng đàn kiến như đang bò dọc sống lưng lão… Suốt hồi lâu lão không thể thốt ra được lời nào, mãi sau, lập cập hai hàm răng, lão mới nói, hay đúng hơn là mới rên rỉ được mấy tiếng:
                  - Xyco, ta không có… ta không quen… cái con người tốt kia đâu!
                  - Nhưng con đã bảo với bác ta rằng, ngài có nhà và đang ngủ, thưa ngài - cô gái đáp - còn bác ta đòi phải đánh thức ngài dậy.
                  - Ôi quỷ thần ơi! Ta đã bảo mày…
                  Song chính bác Urxux, hình như sốt ruột vì sự chậm chạp đã tiến sát lại cửa buồng ngủ và cúi người nhô vào bên trong.
                  - Này lão Khilon Khilonidex! - bác gọi
                  - Pax tecum! Pax, pax! - Lão Khilon thưa vội - Hỡi người Thiên chúa giáo tốt lành nhất! Phải! Tôi là Khilon nhưng đó là chuyện nhầm lẫn… Tôi không quen ông!
                  - Này bác Khilon Khilonidex! - bác Urxux lặp lại - Ông chủ của bác, ngài Vinixius, gọi bác phải đến ngay chỗ ông ấy cùng với tôi.


                  ST
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #24
                    T1 - Chương 23

                    Một cơn đau nhói khiến Vinixius tỉnh lại. Thoạt tiên, chàng không thể hiểu nổi mình đang ở đâu và điều gì đã xảy ra với chàng. Đầu chàng ù cả lên, mắt chàng như có màn sương bao phủ. Song dần dần sự tỉnh táo quay trở lại với chàng, và sau rốt, qua cái màn sương mù ấy, chàng trông thấy ba người đang cúi xuống phía chàng. Chàng nhận ra hai trong số người đó, người thứ nhất là bác Urxux, còn người thứ hai là cụ già mà chàng đã gạt ngã khi mang Ligia ra ngoài. Người thứ ba, hoàn toàn xa lạ với chàng, đang giữ tay trái của chàng và nắn từ khủyu tay lên vai và xương bả vai khiến chàng đau khủng khiếp, đến nỗi Vinixius cho rằng đó là một cách trả thù chàng, chàng bèn nói rít qua kẽ răng:
                    - Các người hãy giết ta đi!
                    Song họ có vẻ không hề để ý tới lời chàng, dường như họ không nghe rõ, hoặc xem chúng là những tiếng rên rỉ thông thường khi phải chịu đựng đau đớn. Với nét mặt vừa lo lắng vừa man dã, bác Urxux cầm một bó những mảnh vải trắng đã được xé ra thành những dải dài, còn cụ già nọ đang nói với người đàn ông ấn vào vai Vinixius:
                    - Ông Glaukox này, ông có chắc là vết thương ở đầu không nguy hiểm tới tính mạng chứ?
                    - Dạ vâng, thưa cha Kryxpux đức hạnh - lão Glaukox đáp. - Khi còn là nô lệ phục vụ trên tàu, rồi sau đó sinh sống ở Neapolix, tôi đã từng chữa nhiều vết thương và bằng số tiền kiếm được nhờ công việc ấy, tôi đã tự chuộc được mình ra cùng những người thân của tôi… Vết thương trên đầu nhẹ thôi. Khi bác này (nói đến đây, ông trỏ bác Urxux) giằng lại cô gái của chàng thanh niên và đẩy chàng ta vào tường, thì chắc lúc ngã xuống, chàng đã đưa tay lên che đầu, cánh tay bị dập thương và gãy, nhưng nhờ vậy cứu được cái đầu và cả tính mạng nữa.
                    - Ông đã từng chăm sóc nhiều anh em đạo hữu - ông Kryxpux trả lời - và nổi tiếng là một thầy thuốc giỏi… Chính vì thế tôi đã phái bác Urxux đến đón ông.
                    - Dọc đường chính bác ta đã thổ lộ rằng, chỉ vừa hôm qua đây thôi, bác ta hãy còn sẵn sàng giết tôi đấy.
                    - Nhưng trước tiên bác ta đã thổ lộ điều ấy với tôi, còn tôi vốn biết rõ ông và tình yêu của ông đối với Đấng Crixtux, nên tôi đã giải thích cho bác ta rõ rằng không phải ông là kẻ phản bội, mà chính cái người lạ muốn xui bác ta phạm tội giết người nọ mới là kẻ phản bội.
                    - Đó là một con quỷ dữ, thế mà tôi lại nhầm ra thiên sứ, - bác Urxux thở dài nói.
                    - Khi khác bác hãy kể tôi nghe chuyện ấy - ông Glaukox nói - còn bây giờ ta phải nghĩ đến bệnh nhân đã.
                    Nói xong, ông bắt đầu nắn lại tay cho Vinixius, và mặc dù ông Kryxpux luôn nhỏ nước lạnh vào mặt, chàng vẫn cứ bị ngất đi vì đau đớn. Thực ra, đó cũng là điều tốt cho chàng, bởi chàng không phải cảm thấy bị nắn và băng bó cánh tay bị gãy, cánh tay mà ông Glaukox ép vào hai tấm ván lõm rồi quấn chặt lại thật nhanh và thật mạnh để cố định chúng.
                    Song sau khi băng bó xong, chàng lại tỉnh dậy - và trông thấy Ligia.
                    Nàng đứng ngay sát cạnh giường chàng, giữ trước mặt một chiếc chậu bằng đồng đựng nước để ông Glaukox thỉnh thoảng lại nhúng bọt bể vào và nhỏ lên đầu chàng.
                    Vinixius nhìn và chàng không tin vào mắt mình nữa. Chàng ngỡ đó là giấc mơ hoặc cơn mê sảng đã dựng lên trước mắt chàng những bóng ma thân yêu - mãi một lúc lâu chàng mới cất lên được một tiếng gọi như thầm:
                    - Ligia…
                    Nghe thấy giọng chàng, cái chậu nước sóng sánh trong tay nàng, song nàng lại đưa đôi mắt đầy buồn bã nhìn chàng.
                    - Bằng an được cùng người. - Nàng nói khẽ.
                    Rồi nàng cứ đứng với đôi tay chìa ra trước mặt, với nét mặt đầy thương cảm và tiếc nuối.
                    Chàng nhìn nàng chăm chăm, dường như muốn để cho con ngươi được thu trọn hình ảnh của nàng sao cho khi mắt nhắm lại rồi, hình ảnh của nàng vẫn còn lưu lại dưới mi. Chàng nhìn khuôn mặt nàng, nhợt nhạt và gầy hơn lúc trước, nhìn những chỗ uốn lượn của mái tóc màu sẫm, nhìn bộ trang phục nghèo khổ của cánh thợ, chàng nhìn, nhìn đăm đăm, đến nỗi dưới tác động cái nhìn của chàng, vầng trán trắng tuyết của nàng bắt đầu ửng hồng - và trước hết chàng nghĩ rằng chàng vẫn luôn yêu nàng, rồi sau nữa chính sự nhợt nhạt của nàng là do chàng gây nên, bởi chính chàng đã bắt nàng phải rời bỏ gia đình, nơi nàng được yêu chiều, nơi nàng sống trong cảnh sung túc và tiện nghi, chính chàng đã đẩy nàng vào cái nhà khốn khổ này và bắt nàng phải khoác tấm áo choàng nghèo khó làm bằng len màu thẫm kia.
                    Song chính chàng lại khao khát được đội cho nàng chiếc kim miện quý báu nhất, được trang điểm cho nàng bằng tất thẩy châu báu ngọc ngà trên đời, nên nỗi kinh ngạc, sự sợ hãi, lòng thương hại cùng sự nuối tiếc lớn lao chợt bóp nghẹt tim chàng, chàng hẳn đã quỳ sụp xuống chân nàng rồi nếu như chàng có thể cử động được.
                    - Ligia, - chàng thốt lên - chính nàng đã không để cho người ta giết tôi!
                    Nàng đáp lại đầy ngọt ngào:
                    - Cầu chúa khiến chàng khoẻ lại!
                    Đối với Vinixius, người đang cảm thấy những điều xúc phạm mà chàng đã gây ra cho nàng trước đây cùng điều mà chàng vừa mới định gây ra, trong lời nói của Ligia quả như có chứa đựng thần dược. Lúc này chàng quên đi, rằng qua miệng nàng có thể chính khoa học Thiên chúa giáo đã cất tiếng nói, chàng chỉ cảm thấy rằng người phụ nữ yêu thương đang nói, rằng trong câu nàng đáp chứa đựng một tình âu yếm riêng tư nào đó và một lòng nhân hậu cao cả khiến chàng xúc động tận đáy lòng. Lúc nãy chàng đã ngất đi vì đau đớn, lúc này chàng cảm thấy người yếu hẳn đi vì xúc động. Một trạng thái kiệt sức nào đó, vừa to lớn vừa ngọt ngào, chợt cuốn chàng đi. Chàng có cảm giác như mình rơi vào vực thẳm, song đồng thời lại cảm thấy dễ chịu và hạnh phúc. Trong giây phút yếu sức ấy chàng vẫn nghĩ rằng có một vị thần đang đứng bên chàng.
                    Lúc này ông Glaukox đã rửa xong vết thương trên đầu chàng và bôi thuốc cao vào đó. Bác Urxux cầm lấy chiếc chậu từ tay Ligia, còn nàng đỡ lấy cốc nước pha rượu nho đã chuẩn bị sẵn trên bàn đặt vào môi người bị thương. Vinixius uống ừng ực, sau đó chàng thấy người rất dễ chịu. Sau khi vết thương được băng bó, cơn đau đớn dường như đã dứt hẳn. Các vết thương cùng những chỗ xây xát dịu dần. Chàng hoàn toàn tỉnh táo trở lại.
                    - Cho tôi uống nữa! - Chàng nói.
                    Ligia cầm chiếc cốc không sang phòng bên, còn ông Kryxpux, sau khi trao đổi vài lời với ông Glaukox, tiến lại cạnh giường chàng và nói:
                    - Hỡi Vinixius, chúa đã không để cho anh thực hiện một hành động xấu xa, nhưng đã cho anh được sống và ghi nhớ chuyện ấy vào lòng. Đấng mà đối với Người, con người chỉ là cát bụi, đã đưa anh vào tay chúng tôi, trong tay anh không một tấc sắt, song Đấng Crixtux, người mà chúng tôi tin tưởng, đã dạy chúng tôi phải yêu mến ngay cả kẻ thù. Cho nên chúng tôi đã băng bó vết thương cho anh, và như Ligia nói, chúng tôi sẽ cầu nguyện để Chúa trả về cho anh sức khoẻ, nhưng chúng tôi không thể nào coi sóc anh lâu hơn nữa. Anh hãy bình tâm ở lại đây và hãy nghĩ kỹ xem anh có nên tiếp tục truy nã Ligia nữa hay chăng, người thiếu nữ mà anh đã tước mất những người đỡ đầu cùng với tổ ấm gia đình, cũng như có nên truy nã chúng tôi, những người đã dùng điều tốt đáp lại những điều xấu của anh.
                    - Các người muốn rời bỏ tôi sao? - Vinixius hỏi
                    - Chúng tôi muốn rời bỏ ngôi nhà này, nơi mà chúng tôi có thể bị quan đô trưởng săn đuổi. Bạn anh đã bị giết, còn anh, một kẻ hùng mạnh trong đám người của anh, lại đang bị thương nằm đó. Không phải lỗi của chúng tôi đã gây nên những việc ấy, nhưng cơn giận của pháp luật có thể trút xuống đầu chúng tôi.
                    - Xin các người đừng sợ bị săn lùng, - Vinixius nói, - tôi sẽ che chở cho các người.
                    Ông Kryxpux không muốn đáp rằng không phải họ chỉ ngại đô trưởng với cảnh sát, mà họ không tin chàng, đồng thời muốn bảo vệ Ligia thoát khỏi cuộc săn đuổi tiếp theo của chàng.
                    - Thưa ngài, - ông nói, - tay phải của ngài vẫn bình thường vậy đây là tấm bảng và bút cứng, ngài hãy viết cho gia nhân, để chiều tối nay họ mang kiệu tới đón ngài đem về nhà, ở nhà ngài, ngài sẽ dễ chịu hơn trong cảnh nghèo khó của chúng tôi. Tại đây chúng tôi ở nhờ nhà một phụ nữ goá chồng nghèo khổ, bà ấy sắp tới đây cùng với đứa con trai - đây là đứa bé sẽ mang thư của ngài đi, còn chúng tôi sẽ phải tìm nơi trú khác.
                    Vinixius tái người đi, chàng hiểu rằng người ta muốn tách chàng ra khỏi Ligia, và một khi chàng mất nàng lần nữa thì có thể sẽ chẳng bao giờ trong đời còn được trông thấy nàng nữa… Chàng vẫn hiểu được rằng giữa hai người - chàng và nàng - đã xảy ra những việc trọng đại, mà vì chúng, muốn có được nàng chàng phải tìm kiếm những con đường mới, những con đường mà chàng chưa có thì giờ nghĩ ra. Chàng cũng hiểu rằng dù có nói gì với những người này, - dù chàng có thề nguyền rằng sẽ mang Ligia trả về với bà Pomponia Grexyna đi nữa - thì họ vẫn có quyền không tin chàng và sẽ không tin chàng. Bởi chàng đã có thể làm việc đó từ trước kia mà, thậm chí chàng đã từng có thể, - thay vì truy đuổi Ligia - đến gặp bà Pomponia và thề với bà rằng chàng từ bỏ cuộc truy đuổi, khi ấy hẳn bà Pomponia đã có thể tự đi tìm và mang cô gái trở về. - Không! chàng cảm thấy rằng những câu thề thốt như vậy không đủ sức giữ họ lại, và không một lời thề thốt thiêng liêng nào có thể được chấp nhận, hơn nữa, vì không phải là tín đồ Thiên chúa, chàng chỉ có thể thề với họ khi viện những vị thần bất tử mà chính chàng cũng chẳng lấy gì làm tin cho lắm, những vị thần mà họ xem là ma quỷ.
                    Tuy nhiên chàng vẫn muốn thuyết phục cả Ligia lẫn những người che chở nàng bằng một cách gì đấy mà chàng chưa có thì giờ nghĩ ra được. Chàng muốn ít nhất cũng còn được trông thấy mặt nàng vài ngày nữa. Giống như người chết đuối vớ được mảnh ván hay mái chèo nào cũng xem là cứu hộ, chàng ngỡ rằng trong mấy ngày ấy chàng có thể sẽ nói ra được điều gì đó có thể khiến chàng được lại gần nàng hơn, chàng có thể nghĩ ra được điều gì đó hay ho hơn, có thể sẽ có điều gì đó may mắn hơn xảy đến chăng?
                    Vậy nên, cố gắng tập trung các suy nghĩ của mình lại, chàng nói:
                    - Xin các người hãy nghe tôi nói, hỡi các tín đồ Thiên chúa giáo! Hôm qua tôi cũng có mặt cùng các người tại Oxtrianum, và tôi đã được nghe giảng về học thuyết của các người, và dù tôi có không hay biết học thuyết ấy đi chăng nữa, thì hành động của các người cũng cho tôi thấy các người là những con người trung thực và nhân hậu. Xin hãy bảo với người đàn bà goá sống tại ngôi nhà này cứ ở lại, các người cũng ở lại và hãy cho phép tôi được ở lại cùng. Xin người này (chàng hướng cái nhìn vào ông Glaukox) kẻ vốn là thầy thuốc hoặc chí ít cũng biết băng bó các vết thương, hãy nói xem liệu trong ngày hôm nay đã có thể di chuyển tôi được hay chưa. Tôi đang đau đớn, cánh tay bị gẫy, ít nhất cũng phải giữ nó bất động vài ba ngày - vì vậy tôi sẽ không rời khỏi nơi đây, trừ phi người ta dùng bạo lực bắt tôi phải đi.
                    Chàng ngừng lời vì lồng ngực bị thương của chàng thiếu hơi, ông Kryxpux đáp:
                    - Thưa ngài, sẽ không một ai dùng bạo lực đối xử với ngài đâu, chúng tôi chỉ mang đầu chúng tôi ra khỏi nơi đây mà thôi.
                    Nghe thấy thế, chàng trai vốn không quen với mọi sự phản đối nhíu mày và nói:
                    - Hãy để cho tôi thở chút đã.
                    Rồi chàng lại tiếp tục:
                    - Sẽ không một ai hỏi tới gã Kroton, kẻ mà Urxux đã bóp chết, vì hôm nay hắn phải tới Beneventơ do Vatynius đòi, tất cả mọi người sẽ nghĩ là y đã đi rồi. Khi tôi cùng Kroton bước vào ngôi nhà này, không một ai trông thấy chúng tôi, ngoài cái lão Hi Lạp đã cùng chúng tôi có mặt tại Oxtrianum. Tôi sẽ nói cho các người biết hắn ta sống nơi đâu, các người hãy dẫn hắn tới gặp tôi, - tôi sẽ bảo hắn sẽ câm miệng, vì đó là con người mà tôi trả tiền. Tôi sẽ viết một lá thơ gởi về nhà tôi, nói rằng tôi cũng đã đi Beneventơ. Còn nếu lão Hi Lạp đã báo tin cho đô trưởng, tôi sẽ nói rằng chính tôi đã giết Kroton và hắn đã làm tôi gãy tay. Tôi sẽ làm như thế đấy, thề có linh hồn của mẹ tôi! - Có nghĩa là các người có thể yên ổn ở lại đây, không một sợi tóc nào bị rụng đi đâu! Xin hãy mau đưa lão Hi Lạp tới gặp tôi, lão ta tên là Khilon Khiloniđex.
                    - Vậy thì ông Glaukox sẽ ở lại với ngài - ông Kryxpux nói - cùng với bà goá đây, ông ấy sẽ chăm lo cho ngài.
                    Vinixius càng nhíu đôi lông mày lại hơn nữa:
                    - Hãy nghe những lời tôi nói đây, hỡi người già - chàng nói. - Tôi biết ơn ông, ông tỏ ra là một người nhân hậu và trung thực, nhưng ông đã không nói thật với tôi những điều ông đang mang nặng trong lòng. Có phải ông sợ rằng tôi sẽ gọi nô lệ của tôi đến và ra lệnh cho chúng bắt nàng Ligia đi? Có phải thế không?
                    - Phải! - ông Kryxpux đáp lại vẻ nghiêm khắc.
                    - Vậy thì xin ông hãy lưu ý rằng tôi sẽ nói chuyện với lão Khilon ngay trước mặt các người và trước mặt các người tôi sẽ viết thư về nhà rằng tôi đã đi rồi - còn sau này tôi sẽ không tìm ra người mang tin nào khác ngoài chính các người… Xin hãy cân nhắc những điều đó và đừng làm cho tôi khó chịu hơn nữa.
                    Nói tới đây, chàng nổi xung lên, mặt chàng nhăn lại vì giận dữ, rồi chàng nói tiếp đầy xúc động:
                    - Thế ra các ông nghĩ rằng tôi muốn được ở lại chỉ vì để nhìn thấy nàng sao?… Thằng ngốc cũng có thể đoán ra được điều ấy, dù cho tôi có phản đối đi nữa. Nhưng tôi không khi nào dùng bạo lực cướp nàng đi lần nữa… Còn ông thì tôi nói cho ông biết: nếu nàng không ở lại đây, thì bằng cánh tay phải còn lành lặn này, tôi sẽ dứt sạch băng trên vai, tôi sẽ không ăn không uống chút gì hết - để cho cái chết của tôi giáng lên đầu ông và những người anh em của ông! Tại sao ông lại băng bó cho tôi, tại sao ông không ra lệnh giết tôi đi cho rồi?
                    Và chàng xỉu đi vì giận dữ và kiệt sức. Song Ligia, ngồi trong gian nhà thứ hai đã nghe rõ cả câu chuyện, nàng tin rằng Vinixius sẽ thực hiện điều chàng vừa nói, nàng sợ hãi những điều của chàng. Nàng không muốn chàng phải chết. Bị thương và không chút sức tự vệ, không những chàng chỉ khiến nàng thương mà còn làm nàng sợ nữa. Kể từ khi chạy trốn, sống giữa những người lúc nào cũng đắm mình trong sự say mê tôn giáo triền miên, chỉ nghĩ đến sự hi sinh, sự dâng hiến và lòng từ thiện vô bờ bến, chính nàng cũng thấm nhuần niềm say mê mới mẻ này đến độ nó thay thế cả nhà cửa, gia đình, niềm hạnh phúc bị mất đi, nó biến nàng thành một trinh nữ Thiên chúa giáo, những người sau này sẽ làm thay đổi tâm linh già cỗi của thế giới. Vinixius đã gây ảnh hưởng quá lớn đến số phận của nàng và đã quá si mê theo đuổi nàng, đến độ nàng không thể quên nổi chàng. Suốt bao ngày dài nàng nghĩ đến chàng, và đâu chỉ một lần nàng khẩn cầu Đức Chúa hãy ban cho nàng giây phút, khi mà đi theo tiếng gọi của giáo thuyết, nàng có thể dùng điều tốt đáp lại cái xấu với chàng, dùng lòng từ thiện đáp lại sự săn đuổi, chinh phục chàng, giành lại chàng cho đấng Crixtux và giải thoát cho chàng. Giờ đây, nàng thấy chính giây phút ấy đã tới, những lời cầu nguyện của nàng đã được nghe thấu.
                    Nàng bèn tiến lại gần ông Kryxpux với nét mặt phấn khích và cất tiếng nói, dường như có ai đó khác nói ra thông qua miệng nàng.
                    - Thưa ông Kryxpux, hãy để cho chàng được ở lại với chúng ta, và chúng ta hãy ở lại với chàng cho tới khi nào đấng Crixtux khiến chàng khoẻ lại.
                    Vị quản họ đạo tuổi tác, người quen tìm thấy hơi thở của Chúa ở mọi thứ xung quanh, khi trông thấy sự bột khởi của nàng liền nghĩ rằng có thể bề trên đã thốt ra qua miệng nàng, ông chợt giật mình sợ hãi trong lòng và cúi đầu xuống.
                    - Cầu mọi việc sẽ như người nói, - ông thốt ra.
                    Sự vâng lời dễ dàng của ông Kryxpux gây cho Vinixius - người suốt từ nãy không hề rời mắt khỏi nàng - một ấn tượng kỳ lạ và mạnh mẽ. Chàng cảm thấy Ligia là một nữ tiên tri Xybinla hoặc một vị nữ giáo chủ nào đó trong những người Thiên chúa giáo, được người ta sùng kính và vâng lời. Bất giác chàng cũng chịu ảnh hưởng của sự sùng kính ấy. Giờ đây, thêm vào tình yêu mà chàng cảm thấy, còn có một nỗi e sợ nào đó, đối với nó, chính tình yêu lại trở nên quá đường đột, quá ngông cuồng. Chàng không sao quen được với ý nghĩ rằng quan hệ giữa hai người đã bị thay đổi, giờ đây, không phải nàng bị lệ thuộc vào ý chí của chàng mà là chàng phụ thuộc vào ý chí của nàng, rằng chàng đang nằm đó, ốm yếu, gẫy tay, rằng chàng không còn là sức mạnh tấn công - chinh phục nữa, mà giống như một đứa trẻ không chút sức tự vệ, trong sự chăm sóc của nàng. Đối với bản chất kiêu căng và tự tôn của chàng, mối quan hệ như thế sẽ là một nỗi nhục nhã trong tương quan đối với bất cứ kẻ nào khác, song bây giờ, không những chàng không cảm thấy nhục nhã, mà còn biết ơn nàng như biết ơn bà chủ của mình. Đó quả thực là những cảm giác mà chàng chưa hề có, những cảm giác mà một ngày trước đây, chắc sẽ không thể chứa nổi trong đầu óc chàng, và lúc này đây hẳn vẫn còn khiến chàng kinh ngạc, giá như chàng có thể hiểu chúng thật tường tận. Song lúc này chàng đâu có hỏi tại sao lại như thế, dường như đó là một việc hoàn toàn đương nhiên, bởi chàng cảm thấy hạnh phúc khi được ở lại nơi đây.
                    Và chàng muốn cảm ơn nàng - với lòng biết ơn cùng một thứ tình cảm nào đấy vô cùng lạ lẫm đối với chàng, đến nỗi chàng không biết gọi tên nó là gì nữa, vì thực ra nó là sự tuân phục. Song sự bột phát vừa rồi đã khiến chàng kiệt sức đến nỗi chàng không thể nói lên lời mà chỉ dùng mắt để cảm ơn nàng, trong mắt chàng bừng sáng niềm sung sướng được ở lại bên nàng và có thể được nhìn nàng ngày mai, ngày kia hoặc lâu hơn nữa. Niềm vui sướng đó chỉ bị vẩn đục bởi một nỗi lo sợ bị mất đi điều mà chàng vừa có được, nỗi lo sợ to lớn, đến nỗi khi Ligia mang nước đến cho chàng, chàng muốn nắm tay nàng, nhưng chàng lại sợ - chàng sợ không dám làm điều ấy, chính chàng, chính Vinixius, người mà trong bữa tiệc tại cung Hoàng đế đã dùng sức mạnh để hôn vào môi nàng, và sau khi nàng chạy trốn đã tự nhủ rằng sẽ nắm tóc lôi nàng vào buồng ngủ hoặc ra lệnh đánh đập nàng.


                    ST
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #25
                      T1 - Chương 24

                      Song chàng cũng bắt đầu lo ngại rằng, một sự tiếp viện quá sớm từ bên ngoài có thể sẽ phá hỏng niềm vui của chàng. Sau khi chàng biến mất, lão Khilon có thể đã báo cho viên đô trưởng hoặc cho những nô lệ giải phóng ở nhà chàng biết - và khi ấy rất có thể bọn vigin sẽ xộc vào đây. Quả tình cái ý nghĩ: lúc ấy chàng có thể ra lệnh bắt lấy Ligia và giam nàng tại nhà chàng - có thoáng qua đầu chàng, song chàng cảm thấy không nên làm chuyện ấy, và chàng không thể làm nổi. Chàng là một kẻ phóng túng, táo tợn và khá hư hỏng, khi cần thiết chàng có thể là kẻ chẳng ai hòng van xin nổi, song chàng không phải là Tygelin, cũng chẳng phải là Nerô. Cuộc đời quân ngũ vẫn còn lưu lại trong chàng một ý thức nhất định về công lý, lòng tin và chút lương tri đủ để chàng hiểu được, rằng một hành động như thế quả là vô cùng đồi bại. Cũng có thể trong cơn tức giận bất thần và nếu hoàn toàn khoẻ mạnh chàng dám làm việc ấy, nhưng lúc này chàng vừa mẫn cảm lại vừa đau yếu, nên chàng chỉ mong sao đừng có kẻ nào đứng chắn giữa chàng và Ligia.
                      Chàng cũng ngạc nhiên nhận thấy kể từ khi Ligia đứng về phía chàng thì cả nàng lẫn ông Kryxpux hoàn toàn không đòi hỏi chàng phải hứa hẹn điều gì, dường như họ tin chắc rằng, nếu cần, sẽ có một sức mạnh siêu nhiên nào đó che chở cho họ vậy. Kể từ khi được nghe ở Oxtrianum về cái giáo thuyết nọ cùng lời rao giảng của Đức Sứ đồ, trong đầu óc Vinixius, sự khác biệt giữa những cái có thể và không thể bắt đầu bị đảo lộn và xoá nhoà đi, bởi vậy chàng không xa lạ lắm với ý nghĩ rằng mọi điều ấy rất có thể sẽ diễn ra. Song khi suy nghĩ về mọi việc một cách tỉnh táo hơn, chính chàng nhắc lại cho họ những gì chàng nói về lão Hi Lạp và yêu cầu họ đưa lão Khilon đến cho chàng.
                      Ông Kryxpux đồng ý và quyết định cử bác Urxux đi, Vinixius, thời gian trước khi đến Oxtrianum vẫn thường phái những nô lệ của mình đến nhà lão Khilon (mặc dù không có kết quả gì), giờ đây chỉ cho người đàn ông Ligi tỉ mỉ chỗ ở của lão, sau đó viết mấy chữ lên tấm bảng, rồi quay sang nói với ông Kryxpux:
                      - Tôi phải gửi theo tấm bảng này, vì đây là một kẻ đa nghi và khôn ranh. Khi bị tôi gọi tới, lão thường bảo với người của tôi về thưa lại rằng lão không có nhà, những lúc lão sợ tôi tức giận vì không có tin tức gì mới cho tôi.
                      - Chỉ cần tìm ra hắn ta thôi, tôi sẽ lôi được hắn về đây, dù hắn muốn hay không, - bác Urxux đáp.
                      Rồi bác cầm tấm áo khoác và vội vã bước ra.
                      Tìm được một ai trong thành Roma không phải là chuyện dễ, dù được chỉ dẫn rất tỉ mỉ; song bác Urxux được cái linh tính của con người vùng rừng núi giúp đỡ hơn nữa bác rất quen thuộc với thành phố này nên một lúc sau bác đã có mặt trong nhà lão Khilon.
                      Song bác không nhận ra lão. Trước đây bác mới chỉ gặp lão có mỗi một lần, hơn nữa lại vào ban đêm. Vả chăng cái cụ già tự tin và cao đạo kia, kẻ đã xúi bác giết thầy thuốc Glaukox chẳng giống chút gì với lão già Hi Lạp đang gập đôi người vì sợ hãi này, nên không ai có thể ngờ rằng cả hai chỉ là một người mà thôi. Còn lão Khilon, khi hiểu ra rằng bác Urxux nhìn lão như một người xa lạ, liền định thần lại. Tấm bảng và chữ viết của Vinixius càng khiến lão an tâm hơn nữa. Ít nhất lão cũng không bị ngờ là đã cố tình đưa chàng vào bẫy. Lão nghĩ thầm rằng những người Thiên chúa giáo đã không giết chàng Vinixius rõ ràng là vì họ không dám động thủ trước một con người danh tiếng như chàng.
                      “Thế thì Vinixius sẽ che chở cho mình khi cần - lão bụng bảo dạ - vì chắc là chàng không đòi mình đến để người ta thịt mình đâu”.
                      Lấy lại tinh thần chút ít, lão hỏi:
                      - Hỡi con người tốt bụng, thế ra người bạn tôi, chàng Vinixius tôn quý, không gửi kiệu đến cho tôi sao? Chân tôi sưng vù cả lên, tôi đâu có thể đi xa được.
                      - Không! - bác Urxux đáp - chúng ta phải đi bộ thôi.
                      - Thế nếu tôi từ chối thì sao?
                      - Ông chớ làm việc ấy, bởi ông sẽ phải đi.
                      - Đi chứ, nhưng là do ý muốn của bản thân tôi. Nếu không thì chẳng một ai có thể bắt tôi đi nổi, tôi là người tự do, và lại là bạn thân của ngài đô trưởng. Là một nhà hiền triết, tôi có nhiều phương sách để chống bạo lực, tôi biết cả cách biến con người thành cây cối và súc vật. Nhưng tôi sẽ đi, sẽ đi! Tôi chỉ mặc thêm cái áo choàng ấm hơn chút xíu, đội cái mũ, để cho đám nô lệ của khu phố này khỏi nhận ra tôi, nếu không người ta sẽ giữ chúng ta lại liên tục để hôn tay tôi đấy.
                      Vừa nói thế, lão vừa mặc tấm áo khoác khác, đầu chùm một cái mũ chụp kiểu xứ Gan rộng lùng thùng vì sợ bác Urxux nhận diện được lão khi ra chỗ sáng hơn chăng.
                      - Bác đưa tôi đi đâu thế này? - dọc đường lão hỏi bác Urxux.
                      - Đến khu Zatybre.
                      - Tôi mới đến Roma chưa lâu, tôi chưa từng tới đó. Nhưng chắc khu đó toàn những người chuộng đức hạnh sinh sống thôi phải không?
                      Song bác Urxux lại là một người ngây thơ, bác vừa được nghe Vinixius nói rằng lão Hi Lạp có mặt cùng với chàng trong nghĩa địa Oxtrianum, sau đó lão đã trông thấy chàng cùng Kroton bước vào ngôi nhà mà Ligia đang ở, bác bèn dừng chân mà nói:
                      - Đừng nói dối, hỡi người già, bởi vì chính ngày hôm nay lão vừa có mặt cùng với ngài Vinixius tại Oxtrianum và trước cửa nhà chúng tôi đấy thôi.
                      - A! - lão Khilon kêu lên, - thế ra nhà của các bác ở khu vực Zatybre đấy ư? Tôi mới tới Roma nên chưa thật rõ tên những khu phố khác nhau. Phải, ông bạn ạ. Tôi đã dừng trước cổng nhà các bác và đã khuyên chàng Vinixius chớ có bước vào. Tôi cũng đã có mặt tại Oxtrianum, nhưng bác biết để làm gì không? Bởi vì thời gian gần đây tôi đang muốn cải đạo cho Vinixius và tôi muốn chàng được nghe lời rao giảng của người cao tuổi nhất trong các vị Sứ đồ. Cầu sao ánh sáng xuyên thấu tâm hồn của chàng cũng như tâm hồn của bác. Chắc bác cũng là tín đồ Thiên chúa và chắc bác hằng muốn rằng chân lý chiến thắng điều man trá?
                      - Chính thế! - bác Urxux đáp với vẻ tuân phục.
                      Lão Khilon đã hoàn toàn lấy lại can đảm.
                      - Vinixius là một ông chủ giàu có, - lão bảo, - và là bạn của Hoàng đế. Chàng hãy còn quen nghe những tiếng thì thầm của ma quỷ, nhưng dù cho chỉ một sợi tóc của chàng bị rơi xuống, Hoàng đế cũng sẽ trả thù tất cả những người Thiên chúa giáo.
                      - Đã có một sức mạnh to lớn hơn bảo vệ cho chúng tôi.
                      - Đúng lắm! Đúng lắm! Nhưng thế các bác định làm gì với chàng Vinixius? - lão Khilon lại lo lắng hỏi
                      - Không rõ. Đấng Crixtux dạy phải nhân từ.
                      - Bác dạy đúng tuyệt! Bác cứ nhớ cho như thế nhé, nếu không bác sẽ bị nướng trong hoả ngục như một khúc dồi rán trên chảo đấy.
                      Bác Urxux thở dài. Lão Khilon nghĩ rằng chắc lúc nào lão cũng có thể sai khiến được con người khủng khiếp khi nổi nóng này.
                      Muốn biết việc gì đã xảy ra khi bắt cóc Ligia nên lão hỏi tiếp với giọng của một vị quan toà nghiêm khắc:
                      - Thế các bác đã làm gì với Kroton rồi?hãy nói thật, chớ có bịa đặt!
                      Bác Urxux lại thở dài lần nữa:
                      - Ngài Vinixius sẽ nói cho ông biết điều đó.
                      - Có nghĩa là bác đã đâm anh ta bằng dao hoặc đánh chết anh ta bằng gậy?
                      - Tôi không hề có khí giới.
                      Lão già Hi Lạp không ngăn nổi sự kinh ngạc đối với sức khoẻ siêu nhân của con người dã man này.
                      - Cầu Diêm vương Pluton!… A, đó là tôi muốn nói: cầu Đức Crixtux tha tội cho bác!
                      Họ đi im lặng một lúc lâu, rồi lão Khilon hỏi:
                      - Không phải tôi phản bác đâu, nhưng hãy coi chừng bọn vigin đấy.
                      - Tôi chỉ sợ đấng Crixtux chứ không sợ bọn vigin.
                      - Đúng lắm! Bác không có tội nào lớn hơn tội giết người. Tôi sẽ cầu nguyện cho bác, nhưng không hiểu những lời cầu nguyện của tôi thậm chí có mang lại điều chi chăng - trừ phi bác thề rằng không bao giờ trong đời bác còn động chạm tới một ai khác nữa.
                      - Nhưng tôi có cố ý giết ai đâu cơ chứ, - bác Urxux đáp.
                      Nhưng lão Khilon cứ muốn phòng trước mọi chuyện, nên lão không ngừng lên án hành động giết người của bác Urxux và khuyến khích bác thề thốt. Lão cũng dò hỏi thêm về Vinixius, song người đàn ông Ligi trả lời gióng một những câu hỏi của lão và cứ nhắc đi nhắc lại rằng lão sẽ được nghe chính Vinixius nói những điều lão cần nghe. Cứ trò chuyện như thế, họ đi hết quãng đường xa xôi nằm giữa nhà lão Hi Lạp với khu Zatybre và đến trước cổng nhà. Tim lão Khilon một lần nữa lại đập nhịp lo ngại. Vì sợ hãi, lão thấy như bác Urxux bắt đầu nhìn lão với vẻ hau háu kỳ lạ. “Mình cũng chẳng lấy gì làm vui, - lão nghĩ thầm, - nếu như hắn giết mình một cách bất đắc dĩ, mình muốn sao cho hắn bị bại liệt đi, và cùng với hắn, tất cả bọn dân Ligi nữa; cầu thần Zeux hãy làm giúp; nếu như thần có thể làm nổi chuyện này”. Vừa nghĩ miên man như thế, lão vừa quấn chặt hơn nữa chiếc áo choàng kiểu Gan của lão, mồm lặp đi lặp lại rằng lão sợ lạnh. Cuối cùng, khi đã đi qua hàng hiên cùng cái sân thứ nhất, bước vào hành lang dẫn đến ngôi nhà nhỏ ngoài vườn, lão bỗng đột ngột dừng lại và bảo:
                      - Hãy cho tôi lấy hơi chút đã, nếu không tôi không thể nào trò chuyện với chàng Vinixius và cung cấp cho chàng những lời khuyên cứu rỗi được đâu.
                      Nói thế, lão đứng dừng lại - vì dầu cho lão cứ tự nhủ rằng không hề có nỗi nguy hiểm nào đe doạ, song cứ nghĩ tới chuyện phải đứng với những con người đầy bí ẩn mà lão đã trông thấy ở Oxtrianum, là chân lão đã muốn khuỵu xuống rồi.
                      Lúc đó, từ trong ngôi nhà có tiếng hát vang tới tai lão.
                      - Cái gì thế? - lão hỏi.
                      - Ông bảo rằng ông là tín đồ Thiên chúa mà ông không biết rằng chúng tôi thường có thói quen hát ngợi ca Đấng cứu thế của chúng tôi trong mỗi bữa cơm, - bác Urxux đáp, - chắc bà Miriam và con trai bà đã về rồi, có thể cả Đức Sứ đồ cũng về cùng với họ vì hàng ngày Người vẫn thường đến thăm bà quả phụ và cha Kryxpux.
                      - Bác hãy đưa tôi vào gặp thẳng chàng Vinixius thôi!
                      - Chàng Vinixius cũng ở trong gian nhà mọi người đang tụ tập, vì chỉ có gian này là lớn hơn cả, còn lại chỉ toàn là phòng ngủ tối tăm, nơi chúng tôi chỉ vào để ngủ. Nào, ta vào thôi, vào đó ông sẽ nghỉ sau.
                      Họ bước vào, trong nhà tối mờ mờ, buổi chiều mùa đông nhiều mây, và ánh sáng của vài ngọn đèn không hoàn toàn xua tan bóng tối. Vinixius đoán ra hơn là nhận ra được Khilon ở cái con người đội mũ trùm đầu, còn lão, khi trông thấy cái giường trong góc nhà và trên đó là chàng Vinixius, lão liền tiến thẳng lại phía chàng, không để ý gì tới những người khác, dường như lão tin rằng ở bên cạnh chàng lão sẽ được an toàn hơn.
                      - Ôi, ông chủ! Sao ngài không chịu nghe những lời khuyên của tôi cơ chứ? - lão chìa hai tay ra và kêu lên.
                      - Câm đi! - Vinixius bảo - và hãy nghe đây!
                      Nói tới đây, chàng nhìn chăm chú vào mắt lão Khilon mà nói chậm rãi, nhấn giọng, dường như chàng muốn mỗi lời mình nói ra đều được hiểu là mệnh lệnh và ăn sâu mãi và trí nhớ của lão.
                      - Tên Kroton lao vào ta để giết ta và cướp của - ngươi hiểu chưa? Khi ấy ta đã giết chết hắn, còn những người này đã băng bó những vết thương mà ta đã bị trong khi đánh nhau với hắn.
                      Lão Khilon hiểu ngay lập tức rằng nếu Vinixius đã nói thế có nghĩa chàng nói theo thoả thuận với những người Thiên chúa giáo, và khi ấy chàng muốn được người ta tin. Lão cũng đọc thấy điều đó trên nét mặt chàng, nên ngay lập tức - không hề tỏ ra nghi ngờ hay ngạc nhiên, - lão ngửa mặt lên trời kêu lên:
                      - Hắn thật là đồ khốn kiếp, thưa ngài! Tôi đã nói trước để ngài chớ tin hắn kia mà! Tất cả các khoa học của tôi bật khỏi đầu óc hắn hệt như hạt đậu bật khỏi tường vậy. Cả hoả ngục Hadex cũng không đủ cực hình trừng trị hắn đâu. Kẻ nào không thể làm một con người lương thiện, kẻ đó chắc chắn phải là thằng đểu, mà ai có thể khó trở thành người lương thiện hơn đồ đểu cáng nữa? Nhưng nhẩy xổ vào người làm ơn cho mình, một ông chủ danh giá như ngài? Ôi, các thần ôi!…
                      Đến đây lão chợt nhớ ra là trong lúc đi đường lão đã tự giới thiệu với bác Urxux là tín đồ Thiên chúa giáo - và lão chợt nín lặng.
                      Vinixius nói:
                      - Giá như không có cái dao găm mà ta mang sẵn bên mình, chắc hắn đã giết chết ta rồi.
                      - Phúc đức thay cái giây phút tôi khuyên ngài mang theo dù chỉ một chiêc dao găm!
                      Song Vinixius nhìn lão Hi Lạp vẻ thăm dò rồi hỏi:
                      - Hôm nay nhà ngươi làm những gì rồi?
                      - Sao cơ ạ? Tôi đã chẳng thưa cùng ngài rằng tôi làm lễ cầu chúc sức khoẻ của ngài hay sao?
                      - Không còn gì khác nữa chứ?
                      - Và tôi đang sửa soạn đến thăm ngài thì con người tốt bụng kia đến bảo tôi rằng ngài đang gọi tôi.
                      - Đây là cái bảng. Ngươi sẽ mang nó đến nhà ta, tìm người nô lệ giải phóng của ta và đưa cho anh ta. Trên bảng viết rằng ta đã đi Beneventơ. Ngươi hãy nói với Đemax rằng ta đã làm việc đó vào sáng hôm nay, sau khi nhận được thư khẩn của ngài Petronius gọi ta tới đó.
                      Rồi chàng nhấn mạnh lần nữa:
                      - Ta đã đi Beneventơ - ngươi hiểu chưa?
                      - Ngài đã đi rồi, thưa ông chủ! Sáng nay tôi vừa từ biệt ngài tại Porta Capena - và kể từ lúc ngài ra đi, một nỗi nhớ nhung khôn tả cứ dày vò tôi, đến nỗi nếu như sự hào phóng của ngài không vỗ về nó thì tôi sẽ khóc than cho đến chết, giống như người vợ bất hạnh của Zethox(1) khóc thương Ityl vậy.
                      Mặc dù đang đau yếu và đã quá quen với sự lươn lẹo của lão Hi Lạp, song Vinixius không thể giấu nổi nụ cười. Chàng cũng vui vì lão Khilon đã hiểu ngay lập tức, chàng bèn bảo:
                      - Vậy thì để ta viết thêm, bảo người ta lau nước mắt cho ngươi. Đưa ta cây đèn!
                      Lão Khilon đã hoàn toàn bình tĩnh lại bèn đứng dậy, bước mấy bước về phía lò sưởi, cầm lấy một trong những chiếc đèn đang cháy trên bức vách.
                      Song trong lúc lão làm việc đó, chiếc mũ trùm đầu tụt xuống, ánh sáng chiếu thẳng vào mặt lão, thì bỗng ông Glaukox bật dậy khỏi ghế, bước nhanh tới đứng trước mặt lão.
                      - Người không nhận ra ta sao, Xefax? - ông hỏi.
                      Trong giọng nói của ông có cái gì thật rùng rợn, khiến cho tất thẩy những người có mặt đều rùng mình.
                      Lão Khilon vừa cầm chiếc đèn lên đã để rơi tuột ngay xuống đất, gập đôi người lại và bắt đầu rên rỉ:
                      - Không phải tôi … không phải tôi đâu… thương tôi với!
                      Ông Glaukox quay sang phía những người đang dùng bữa và nói:
                      - Đây chính là kẻ đã bán đứng tôi và làm tan nát gia đình tôi!
                      Chuyện của ông thì tất thảy tín đồ Thiên chúa đều biết, Vinixius cũng vậy, sở dĩ chàng chưa nghĩ ra ông Glaukox này là ai, chỉ vì chàng bị ngất đi trong khi băng bó nên đã không nghe thấy tên ông. Còn đối với bác Urxux, cái giây phút ngắn ngủi ấy cộng với những lời của ông Glaukox giống như một tia chớp loé lên trong bóng tối. Nhận ra lão Khilon,chỉ bằng một bước, bác nhảy vọt ngay tới cạnh lão, túm lấy hai tay lão, bẻ quặt ra sau mà kêu lên:
                      - Chính hắn đã xui tôi giết ông Glaukox!
                      - Hãy thương tôi với! - lão Khilon rên lên, - tôi sẽ trả cho các ngài… Ông chủ ơi - lão quay đầu về phía Vinixius kêu lên, - cứu tôi với! Tôi tin ngài mà, hãy bảo lãnh tôi đi! Bức thư của ngài… tôi sẽ mang đi! Ông chủ! Ông chủ ơi!
                      Song Vinixius là kẻ thản nhiên nhất trong tất cả những người nhìn những gì đang diễn ra, trước hết vì chàng biết rõ tất cả mọi vụ việc của lão Hi Lạp, sau nữa, trái tim chàng đâu có biết thế nào là tình thương, chàng nói:
                      - Hãy đào mộ chôn hắn ngoài vườn, người khác sẽ mang thư đi.
                      Lão Khilon tưởng như những lời này là bản án đã được phán quyết. Xương cốt lão kêu rắc rắc trong đôi cánh tay khủng khiếp của bác Urxux, mắt lão túa nước mắt vì đau đớn.
                      - Cầu Đức Chúa của các ngài! Hãy rủ lòng thương! - lão kêu lên. - Tôi là người Thiên chúa giáo!… Paxvobiscum! Tôi là người Thiên chúa giáo đây mà, nếu các ngài không tin thì xin hãy rửa tội cho tôi một lần, hai lần, mười lần nữa cũng được! Ông Glaukox ơi, đó chỉ là sự nhầm lẫn. Hãy cho tôi nói! Các người hãy bắt tôi làm nô lệ… đừng giết tôi! Hãy thương tôi với!
                      Giọng lão nghẹn lại vì đau đớn, mỗi lúc một yếu hơn khi thấy đức Piotr Sứ đồ đứng dậy khỏi bàn, mái đầu bạc lắc lư lúc lâu, hạ thấp dần xuống ngực, mắt nhắm nghiền, rồi sau đó ông mới mở mắt ra và nói trong lặng im:
                      - Đấng Cứu thế đã bảo chúng ta: “Nếu như người anh em của mày phạm tội chống mày, hãy nhắc nhở hắn; nếu hắn hối hận - xá tội cho hắn. Còn nếu như một ngày bảy lần hắn phạm tội chống mày và bảy lần hướng về mày mà nói: - thương tôi với - hãy xá tội cho hắn!”
                      Sau lời ông nói, sự im lặng càng sâu thẳm hơn.
                      Ông lão Glaukox đứng yên một hồi lâu, che mặt bằng hai bàn tay, mãi sau ông bỏ tay ra và bảo:
                      - Này Xefax, cầu Chúa xá tội cho ngươi như ta vì danh Chúa Crixtux tha thứ cho ngươi.
                      Còn bác Urxux buông tay lão Hi Lạp ra mà nói thêm:
                      - Đấng Cứu thế sẽ thương tình tôi như tôi đã tha tội cho ông.
                      Lão Hi Lạp ngã sụp xuống đất, chống hai tay, đầu quay hết bên này sang bên khác, hệt như một con thú bị mắc bẫy thòng lọng, nhìn chung quanh chờ xem cái chết đến từ phía nào. Lão hãy còn chưa dám tin vào tai và mắt mình và không dám ngờ là người ta sẽ tha cho lão.
                      Song lão dần dần tỉnh lại, chỉ có đôi môi tím tái vì hoảng sợ hãy còn run lẩy bẩy. Đức Sứ đồ bèn bảo:
                      - Ngươi hãy bình tâm mà đi!
                      Lão Khilon đứng dậy song vẫn không thốt nổi lời nào. Bất giác lão dịch lại gần giường Vinixius như muốn tìm ở chàng sự che chở, vì cho tới nay lão vẫn chưa có thì giờ để nghĩ ra rằng, con người ấy, mặc dù sử dụng lão và đồng loã với lão, vẫn lên án lão, trong khi chính những người mà lão chống lại thì đã tha thứ cho lão. Ý nghĩ này mãi sau mới đến với lão. Còn lúc này, trong cái nhìn của lão chỉ thấy có sự kinh ngạc, nữa tin nữa ngờ. Mặc dù lão đã hiểu được rằng người ta tha cho lão, song lão vẫn muốn mau mau mang thân tránh khỏi những con người không thể hiểu nổi, những người mà lòng tốt cũng khiến lão kinh sợ chẳng kém gì sự dữ tợn. Lão sợ rằng nếu nán lại lâu hơn chút nữa lại có thể xảy ra điều gì không ngờ chăng, nên đứng trước mặt Vinixius lão lập cập nói:
                      - Hãy đưa, ngài ơi, cái thư! Hãy đưa cái thư!
                      Và lão giật vội tấm bảng mà Vinixius đưa cho, cúi chào những người Thiên chúa giáo một cái, người ốm một cái, rồi cứ lom khom như thế, lần dọc sát tường, lão nhào ra cửa.
                      Ra ngoài vườn, bị bóng tối bao quanh, nỗi sợ hãi lại khiến lão dựng tóc gáy, bởi lão chắc rằng bác Urxux sẽ lao ra theo và hạ sát lão trong bóng đêm. Lão muốn chạy thục mạng nhưng đôi chân không chịu vâng lời, mà lát sau chúng hoàn toàn đờ ra, bởi quả thực bác Urxux đã đứng ngay sát bên lão.
                      Lão Khilon gục mặt sát đất kêu rên:
                      - Bác Urxux ơi… Nhân danh đấng Crixtux…
                      Song bác Urxux nói:
                      - Đừng sợ. Đức Sứ đồ ra lệnh cho tôi đưa ông ra ngoài cổng để ông khỏi lạc trong bóng tối, nhưng nếu ông yếu thì để tôi đưa ông vào nhà vậy.
                      Lão Khilon ngửng mặt lên:
                      - Bác bảo sao? Gì cơ?… Bác không giết tôi chứ?
                      - Không, tôi không giết ông đâu, còn nếu tôi nắm ông quá mạnh và làm đau xương cốt ông, xin hãy bỏ quá cho tôi.
                      - Bác đỡ tôi dậy với, - lão Hi Lạp nói - Bác không giết tôi thật đấy chứ? Hả? Đưa tôi ra phố, tôi sẽ tự đi được.
                      Bác Urxux dựng lão dậy khỏi mặt đất như một chiếc lông, để lão đứng trên hai chân, rồi dẫn qua lối đi tối mở sang chiếc sân thứ hai, nơi thông ra hàng hiên và đường phố. Trong hành lang, lão Khilon lại bụng bảo dạ: “Mình toi đời rồi này”, mãi cho tới khi ra đến ngoài phố, lão mới hoàn hồn và nói:
                      - Tôi đi một mình được rồi.
                      - Cầu cho ông được hằng bình an!
                      - Cả bác nữa, cả bác nữa!… Để tôi thở một lát.
                      Sau khi bác Urxux quay đi, lão hít thật căng lồng ngực. Tay lão sờ soạng quanh thắt lưng và hai đùi dường như lão muốn kiểm tra lại cho thật tin là vẫn còn sống, rồi lão hối hả bước đi.
                      Song chỉ được vài mươi bước lão chợt dừng lại và hỏi:
                      - Sao họ không giết ta nhỉ?
                      Và mặc dù đã cùng ông lão Euryxius trò chuyện về khoa học Thiên chúa giáo, mặc dù đã nói chuyện với bác Urxux bên sông, mặc dù tất cả những gì lão được nghe ở Oxtrianum, lão vẫn không sao tìm ra lời đáp cho câu hỏi ấy.
                      Chú thích:
                      (1) Tức Aedon, người hoá thân thành chim hoạ mi (chú thích của tác giả)


                      ST
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #26
                        T1 - Chương 25

                        Cả Vinixius cũng không hiểu nổi chuyện vừa xẩy ra và tận đáy lòng chàng cũng không ít ngạc nhiên hơn lão Khilon. Bởi vì đối với chính chàng những người này cũng đối xử như họ vừa đối xử với lão, thay vì trả thù chàng đã tấn công họ, họ lại ân cần băng bó các vết thương của chàng, chàng cho rằng sở dĩ như vậy một phần do cái giáo thuyết mà họ tuân theo, phần nhiều hơn vì Ligia, còn chút ít là vì địa vị quan trọng của chàng. Song cách xử sự của họ đối với lão Khilon đã vượt quá mọi quan niệm của chàng về khả năng tha thứ của con người. Và trong lòng chàng bất giác nẩy ra câu hỏi: Tại sao không giết lão Hi Lạp? Họ có thể giết lão mà không hề bị trừng phạt. Bác Urxux có thể đào hố chôn xác lão trong vườn hoặc đêm đến mang ra sông Tyber, dòng dông mà trong cái thời chính Hoàng đế cũng gây ra những cuộc quấy phá ấy, cứ sáng sáng lại vứt lên bờ những xác người đến nỗi chẳng ai buồn suy nghĩ xem chúng từ đâu lại. Thêm vào đó, theo Vinixius những người Thiên chúa giáo không những chỉ có thể mà cần phải giết lão Khilon. Thực ra, lòng thương hại không phải hoàn toàn là khái niệm xa lạ đối với cái thế giới của chàng quý tộc trẻ tuổi. Những người Aten cũng đã từng dựng bàn thờ cho tình thương và suốt một thời gian dài người ta đấu tranh chống lại việc đưa các trận giác đấu vào thành Aten. Thường thường, ngay cả ở Roma, những người chiến thắng vẫn được tha thứ, ví dụ như Kalikratux vua của người Brytanhơ, bị bắt làm nô lệ từ thời Klauđius, được Hoàng đế cung phụng dồi dào, được sinh sống tự do trong thành phố. Song trả thù những chuyện xúc phạm cá nhân, đối với Vinixius cũng như đối với toàn thể mọi người lại là việc hoàn toàn đứng đắn và công bằng. Không làm điều ấy là trái ngược với bản chất của chàng. Chàng được nghe nói tại Oxtrianum rằng, cần phải thương yêu ngay chính kẻ thù, song chàng chỉ coi đó là một thứ lý thuyết không hề có ý nghĩa gì trong thực tế. Ngay cả lúc này đây, chàng vẫn còn thoáng nghĩ rằng, có thể người ta không giết lão Khilon chỉ vì đang mùa lễ lạt gì đó hoặc trùng vào tuần trăng, lúc những người Thiên chúa không được phép sát sinh. Chàng nghe kể rằng có những mùa mà nhiều dân tộc khác nhau không được phép tiến hành chiến tranh. Nhưng vậy thì tại sao người ta không đem lão Khilon nộp vào tay công lý, tại sao Đức Sứ đồ lại bảo rằng nếu có kẻ bẩy lần phạm tội thì cần tha thứ cho hắn cả bẩy lần, và tại sao ông Glaukox lại nói với lão Khilon: ”Cầu Chúa hãy xá tội cho ngươi như ta đã tha thứ cho ngươi”? Mà lão Khilon là người đã gây cho ông ta điều xúc phạm kinh khủng nhất mà con người có thể xúc phạm đến con người. Trong lòng Vinixius, trái tim sôi sục lên như nước sôi, khi nghĩ rằng cần phải đối xử như thế nào đối với kẻ - nói thí dụ - giết chết Ligia, không có cực hình nào mà chàng không dùng để trả thù cho nàng. Ấy thế mà con người kia đã tha thứ! Cả bác Urxux cũng tha thứ cho lão, chính bác, người có thể giết chết bất kỳ kẻ nào bác muốn trong cả thành Roma, mà hoàn toàn không bị trừng phạt, vì sau đó bác chỉ cần giết thêm vua lục lâm của khu rừng Nemoren và thế chân hắn ta là xong… Liệu tay đấu sĩ đang giữ cái tước vị này, tước vị mà hắn đoạt được chỉ bằng cách giết vị “vua” trước hắn, có địch nổi con người mà ngay cả Kroton cũng đã không địch nổi hay chăng? Chỉ có một cách trả lời cho tất cả những câu hỏi ấy. Họ không giết là vì tấm lòng nhân hậu bao la chưa từng có trên thế giới, một tấm lòng yêu thương vô bờ bến đối với con người, tình cảm ấy bắt ta phải quên mình, quên những điều mình bị xúc phạm, quên niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh của mình để sống cho người khác. Họ làm thế để được điều gì? Vinixius đã được nghe nói tới tại Oxtrianum nhưng cái đó không sao lọt nổi vào đầu óc chàng. Ngược lại, chàng cảm thấy rằng, cuộc đời trần thế này, cuộc đời gắn liền với nghĩa vụ phải từ chối hết thẩy mọi điều tốt đẹp và lạc thú vì lợi ích của kẻ khác, chắc chắn phải là một cuộc đời khốn khổ. Vì vậy, trong những suy nghĩ của chàng về những người Thiên chúa giáo lúc này, bên cạnh sự ngạc nhiên cao độ có cả nỗi thương hại và một thoáng khinh mạn. Chàng cảm thấy như họ là những con cừu, chóng hay chầy cũng bị chó sói ăn thịt, bản chất La Mã của chàng không thể nào khâm phục những kẻ cho phép mình bị ăn thịt. Tuy nhiên có một điều vẫn đập vào chàng. Đó là, sau lúc lão Khilon bước ra, một niềm vui sướng xâu xa nào đó khiến cho tất cả khuôn mặt đều bừng sáng. Đức Sứ đồ tiến lại gần ông Glaukox, đặt tay lên đầu ông mà bảo:
                        Đấng Crixtux đã chiến thắng trong lòng con!
                        Còn ông lão ngước lên trời đôi mắt tin tưởng và đầy niềm vui sướng ngỡ như có một niềm hạnh phúc lớn lao và bất ngờ nào đó rót lên ông. Vinixius, người chỉ có thể hiểu được niềm sung sướng của một mối thù được trả, nhìn ông với cặp mắt mở to vì cơn sốt nóng, hơi có vẻ như nhìn một người loạn trí. Song chàng lại trông thấy - trông thấy và không tránh khỏi sôi sục trong lòng - Ligia áp đôi môi công chúa của nàng vào tay con người có vẻ ngoài như một tên nô lệ và chàng cảm thấy trật tự của thế giới đã hoàn toàn bị đảo lộn. Sau đó, bác Urxux quay về và kể lại chuyện bác đã đưa lão Khilon ra phố, đã xin lão thứ lỗi về việc có thể đã làm cho xương cốt lão bị đau, thế là Đức Sứ đồ cũng ban phước cho bác, còn ông Krypxpux thì tuyên bố rằng hôm ấy là một ngày đại thắng. Nghe nói tới chiến thắng, Vinixius hoàn toàn rời hẳn dòng suy nghĩ.
                        Khi lát sau Ligia lại mang nước mát đến cho chàng uống, chàng giữ tay nàng lại một lúc và hỏi:
                        Cả nàng nữa cũng tha thứ cho tôi ư?
                        Chúng tôi là người Thiên chúa giáo. Chúng tôi không được phép giữ sự giận dữ trong lòng.
                        Hỡi Ligia - chàng nói - Dù cho Đức Chúa của nàng là ai? Tôi cũng xin dâng lên Người nhiều lễ vật, chỉ vì Người là của nàng.
                        Nàng bảo:
                        Hãy thờ phụng Người trong trái tim, nếu như chàng yêu Người.
                        Chỉ vì là của nàng… Vinixius lặp lại bằng giọng nói yếu ớt.
                        Và chàng nhắm mắt, bởi một lần nữa chàng lại thỉu đi.
                        Ligia bước đi, nhưng liền sau đó quay trở lại, đứng gần chàng cúi xuống để xem chàng ngủ hay chưa. Vinixius cảm giác được sự gần gũi của nàng liền mở mắt ra và mỉm cười, nàng đặt nhẹ tay lên mắt chàng dường như muốn khuyên chàng nên ngủ. Khi ấy chàng cảm thấy một sự ngọt ngào bao la tràn ngập trong lòng, đồng thời chàng lại cảm thấy yếu hơn nhiều. Và quả thực như vậy. Đêm đã đến và cùng với đêm là một cơn sốt dữ dội hơn. Vì thế chàng không thể ngủ được và cứ dõi mắt theo Ligia mỗi khi nàng di động. Chốc chốc, chàng lại rơi vào một trạng thái mơ màng nửa thức, nửa ngủ, trong đó chàng nhìn thấy và nghe thấy tất cả những gì diễn ra chung quanh, nhưng thực tại lại hòa lẫn vào những cơn mê sảng. Chàng trông thấy một thánh đường hình tháp được dựng trên một nghĩa địa cũ kỹ nào đó đã bị bỏ hoang, trong đó chính Ligia là nữ tu sĩ. Mặc dù trong thực tế, chàng không hề rời mắt khỏi nàng, song chàng lại thấy nàng đứng trên đỉnh tháp với cây đàn thi cầm trong tay, toàn thân ngập trong ánh sáng, giống như những nữ tu sĩ đêm đêm vẫn hát thiền ca, ca ngợi vầng nguyệt mà chàng từng gặp ở phương Đông. Còn chàng thì đang gắng hết sức leo lên những bậc thang ngoằn ngoèo để bắt nàng, phía sau chàng là lão Khilon đang bò theo, răng đánh lập cập vào nhau vì kinh hoàng, mồm lải nhải: ”Chớ làm việc ấy, thưa ngài, vì đó là một nữ tu sĩ, Chúa sẽ trừng phạt ngài vì nàng…”. Vinixius không rõ Chúa là ai, nhưng chàng biết rằng chàng đang định làm một chuyện phạm thánh và cả chàng nữa cũng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô bờ. Khi chàng leo đến được hàng lan can vây quanh đỉnh tháp, thì Sứ Đồ với bộ râu bạc đột ngột xuất hiện bên Ligia và nói: ”Ngươi chớ chạm tay vào nàng, vì nàng thuộc về ta rồi”. Nói đoạn ông cùng nàng bước theo con đường ánh trăng giống như đường lên trời, còn chàng, Vinixius thì vươn hai tay lên phía họ để van xin hãy cho chàng được theo.
                        Đến đây chàng chợt thức dậy, tỉnh táo hơn và nhìn ra trước mắt. Ngọn lửa trên cái bục cao đã yếu đi, nhưng vẫn còn rọi ánh sáng khá tỏ, tất cả bọn họ đang ngồi trước lửa để sưởi, vì đêm thì giá rét mà ngôi nhà lạnh lẽo. Vinixius trông thấy những làn hơi thở ra từ miệng của họ. Đức Sứ đồ ngồi ở giữa, Ligia ngồi kề gối ông trên một chiếc ghế thấp, tiếp theo đó là ông Glaukox, ông Kryxpux, bà Miriam, phía ngoài cùng một bên là bác Urxux, còn bên kia là Nazarius con trai bà Miriam, một tiểu đồng trẻ tuổi, có khuôn mặt ngọt ngào và mái tóc đen dài rủ xuống tận vai.
                        Ligia đang ngước mắt lên Đức Sứ đồ lắng nghe, tất cả các mái đầu đều đang hướng về ông, còn ông thì nói giọng thì thầm khe khẽ. Thoạt tiên, Vinixius nhìn ông với một nỗi e sợ mê tín, còn phần ít hơn nỗi hãi hùng mà chàng cảm thấy trong cơn mê sảng. Chàng thoáng nghĩ, rằng trong cơn mê chàng đã cảm thấy đúng sự thực và người lữ khách tóc bạc từ những bến bờ xa xăm kia tới đây quả là để bắt đi nàng Ligia của chàng và đưa nàng vào những con đường chưa một ai từng biết tới. Chàng cũng tin chắc rằng cụ già đang nói về chàng, có thể cụ đang bày cách làm sao chia cách chàng với nàng, bởi vì Vinixius không thể tin rằng có ai đó lại có thể nói về một chuyện gì khác, chàng bèn cố gắng hết sức tỉnh táo lắng nghe những lời của Đức Sứ đồ.
                        Song chàng đã nhầm hoàn toàn, vì Đức Sứ đồ lại đang kể về đáng Crixtux.
                        “Bọn họ chỉ sống bằng mỗi một cái tên người ấy mà thôi!” - Vinixius thầm nghĩ.
                        Cụ già đang kể về việc Chúa Crixtux bị bắt:
                        Một cơ binh cùng những kẻ phục dịch các thầy tế lễ kéo cả tới để bắt Người. Khi Đấng Cứu Thế hỏi chúng tìm ai, chúng trả lời: ”Tìm Jexux người Nazaren!". Song khi Đức Chúa phán rằng: ”Chính ta đây” - chúng bèn té xuống đất và không dám đưa tay chạm tới Người, mãi sau khi hỏi lại lần nữa, chúng mới dám bắt Người.
                        Nói tới đây, Đức Sứ đồ ngừng lại, chìa hai tay tới ngọn lửa rồi nói:
                        Đêm ấy cũng lạnh như đêm nay, nhưng trái tim sôi lên trong lòng ta, nên ta bèn rút gươm bảo vệ Chúa và ta đã chặt đứt tai tên đầy tớ của thầy cả thượng phẩm. Ta sẽ bảo vệ Chúa hơn cả tính mạng mình nếu như Người không phán cùng ta: ”Hãy tra gươm vào vỏ. Ta há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống hay sao?...”. Khi ấy chúng bèn bắt và trói Người.
                        Nói đoạn, ông đưa bàn tay lên trán và nín bặt, dường như muốn chế ngự sức mạnh của những hồi ức trước khi kể tiếp. Nhưng bác Urxux không thể chịu đựng nổi, vùng đứng dậy, dùng que sắt cời ngọn lửa trên cái bục, khiến cho những tia lửa bắn ra tung tóe ra thành một trận mưa vàng và ngọn lửa vọt lên cao sống động hẳn lên, đoạn bác lại ngồi xuống và thốt lên:
                        Dù muốn ra sao thì ra - hây!...
                        Song bác ngưng bặt giữa chừng vì Ligia đặt một ngón tay lên môi. Bác chỉ hơi thở hổn hển, rõ ràng là lòng bác đang sôi sục cả lên, mặc dầu lúc nào bác cũng sẵn sàng hôn chân Đức Sứ đồ, song lòng bác không sao chấp nhận được hành động ấy, bởi vì nếu như ngay bên cạnh bác có kẻ nào dám vung tay lên với Đức Chúa, nếu như bác có mặt bên Người trong đêm ấy, thì chắc hẳn cả bọn lính, cả đám đầy tớ cho các thầy cả tế lễ cũng lũ gia nhân, đã bắn tung lên như vỏ bào rồi… Chỉ nghĩ tới điều đó thôi, mắt bác đã nhòa lệ, vừa vì tiếc thương vừa bị nỗi phân tâm bức bối, bởi một mặt bác nghĩ rằng không những chỉ một mình bác bảo vệ Đức Chúa mà bác còn có thể kêu gọi những người dân Ligia, những chàng trai đáng ca ngợi, song mặt khác, nếu hành động như vậy, bác sẽ tỏ ra không vâng lời Đấng Cứu Thế và cản trở việc chuộc tội cho thế gian.
                        Vì vậy bác không sao cầm nổi giọt lệ.
                        Lát sau, ông Piotr bỏ tay ra khỏi trán, bắt đầu kể tiếp, nhưng một trạng thái nửa mê nửa tỉnh lại xâm chiếm Vinixius. Giờ đây những điều mà chàng nghe thấy trộn lẫn với những điều Đức Sứ đồ nói đêm qua ở Oxtrianum về cái ngày mà Đấng Crixtux hiện ra trên bờ biển Teberiad. Chàng nhìn thấy một làn nước rộng, trên đó là chiếc thuyền đánh cá, trong thuyền là ông Piotr và Logia. Còn chàng đang cố sức bơi theo sau họ, nhưng nỗi đau đớn của cánh tay gẫy khiến chàng không sao đuổi kịp. Bão táp ném những đợt sóng vào mắt chàng, chàng bắt đầu chìm và kêu lên bằng giọng cầu khẩn xin cứu giúp. Khi ấy nàng Ligia bèn quỳ xuống trước mặt Đức Sứ đồ, ông quay thuyền lại và chìa cho chàng mái chèo, chàng bèn tóm lấy và với sự giúp đỡ của hai người, chàng treo lên được thuyền rồi ngã xuống lòng thuyền.
                        Nhưng rồi chàng lại mơ, khi đứng dậy, chàng trông thấy bao nhiều là người đang bơi theo thuyền. Những làn sóng phủ bọt lên đầu họ, trong cảnh hỗn độn, một số người chỉ còn nhô lên những bàn tay chới với nhưng ông Piotr lần lượt cứu những kẻ đang lâm nạn và đưa họ lên thuyền, chiếc thuyền mỗi lúc một lớn lên như một phép màu nhiệm. Chẳng mấy chốc trong thuyền đã có những đám người đông như đám người tập trung tại Oxtrianum, rồi sau đó lại còn nhiều hơn thế nữa. Vinixius ngạc nhiên là sao họ lại có thể vào được cả trong thuyền, chàng e rằng tất cả sẽ chìm xuống đáy. Nhưng Ligia an ủi chàng và chỉ cho chàng thấy một vầng ánh sáng nào đó trên dải bờ xa xa, nơi họ đang bơi đến. Đến đây, những giấc mơ của Vinixius lại trộn lẫn với những điều chàng được nghe tại Oxtrianum từ miệng Đức Sứ đồ về việc Chúa Crixtux đã có lần hiển hiện trên hồ. Giờ đây chàng trông thấy một bóng người trong vừng ánh sáng nọ, bóng người mà ông Piotre đang lái thuyền hướng tới. Càng tiến lại gần bóng người đó, thời tiết càng trở nên hiền hòa hơn, mặt nước phẳng lặng hơn và vừng sáng càng lớn hơn. Những đám người bắt đầu hát một bản thiều ca dịu ngọt, không khí sự nức mùi hương cam tùng, nước nổi cầu vồng, dường như có những đóa hoa huệ, hoa hồng nhô lên từ dưới nước và cuối cùng con thuyền nhẹ nhàng chạm mũi vào bờ cát. Khi ấy, Ligia cầm tay chàng và bảo: ”Đi nào, em sẽ dẫn chàng!”. Rồi nàng đưa chàng đi vào vùng ánh sáng.
                        … …
                        Vinixius lại tỉnh dậy, những giấc mơ màng của chàng tan đi từ từ và chàng không cảm giác ngay được thực tế. Suốt một lúc lâu chàng vẫn ngỡ như mình đang ở trên hồ giữa những đám đông vây quanh trong đó chính chàng cũng không rõ tại sao chàng lại đi tìm ông Petronius và ngạc nhiên là không sao tìm thấy ông. Ngọn lửa sống động từ lò sưởi tỏa sáng - bên lò không còn ai - đã khiến chàng tỉnh hẳn. Những cành ô liu còn đỏ le lói một cách biếng nhác dưới lớp tro màu hồng, nhưng những thanh củi thông mà chắc người ta đã ném vào đống lửa lúc cờn tươi lại cháy bừng lửa và trong ánh sáng ấy, Vinixius trông thấy Ligia đang ngồi cách không xa giường chàng.
                        Hình ảnh nàng khiến chàng cảm động đến tận tâm can. Chàng nhớ ra rằng suốt đêm qua nàng ở Oxtrianum, suốt ngày lại bận bịu với chuyện băng bó, giờ đây, khi mọi người đã đi nghỉ cả rồi, một mình nàng vẫn còn thao thức bên giường chàng. Dễ đoán được rằng hẳn nàng đã mệt lắm rồi, vì nàng ngồi bất động, mắt nhắm nghiền. Vinixius không hiểu nàng đã thiếp đi hay đang chìm trong suy nghĩ. Chàng ngắm nét mặt trông nghiêng của nàng, nhìn hàng mi hạ xuống, nhìn đôi tay trên đầu gối và trong cái đầu ngoại đạo của chàng, dần dần, một cách khó nhọc, bắt đầu hình thành cái khái niệm, rằng bên cạnh vẻ đẹp trần truồng, đầy tự tin và tự hào về hình thể mình của Hi Lạp, trên thế giới còn có một vẻ đẹp khác nữa, mới mẻ, cực kỳ trong sạch, trong đó chứa đựng linh hồn.
                        Chàng không dám gọi đó là vẻ đẹp Thiên chúa, song khi nghĩ về Ligia, chàng không thể tách biệt nàng khỏi cái giáo thuyết mà nàng thuận theo. Thậm chí chàng còn hiểu rằng, nếu như tất cả những người khác đã đi nghỉ, chỉ còn mỗi mình Ligia - người mà chàng đã từng xúc phạm - thức trông nom chàng, thì chính là do nàng được cái giáo thuyết kia chỉ giáo. Song ý nghĩ này vừa khiến chàng thán phục giáo thuyết ấy, vừa khiến chàng khó chịu. Chàng muốn Ligia làm điều ấy vì yêu chàng, vì khuôn mặt chàng, vì đôi mắt, vì hình dáng đẹp như tượng của chàng, tóm lại vì tất thảy những lý do mà vì chúng, đã hơn một lần những cánh tay trắng nõn nà của Hi Lạp và La Mã từng vòng quanh cổ chàng.
                        Đột nhiên chàng cảm thấy nếu như nàng cũng giống hệt những người đàn bà khác, thì hẳn chàng sẽ thấy có cái gì đó thiếu đi trong nàng. Chàng ngạc nhiên không hiểu điều gì đã xảy ra với chính mình, vì chàng chợt nhận ra rằng, trong lòng chàng đã bắt đầu hình thành những tình cảm, những sở thích mới, xa lạ với cả thế giới mà chàng vẫn sống cho tới nay.
                        Vừa lúc đó nàng mở mắt ra, thấy Vinixius đang nhìn mình, nàng bèn tiến lại gần chàng và nói:
                        Có em bên chàng đây.
                        Còn chàng trả lời:
                        - Trong mơ tôi trông thấy tâm hồn nàng.


                        ST
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #27
                          T1 - Chương 26

                          Sáng hôm sau, chàng mở mắt cảm thấy mình rất yếu, nhưng đầu mát và không còn sốt nữa, Chàng ngỡ như có tiếng trò chuyện thì thầm nào đó khiến chàng thức giấc, nhưng khi mở mắt ra, Ligia không còn ở bên chàng, chỉ có bác Urxux đang lom khom trước lò sưởi tìm một hòn than còn đỏ và khi tìm thấy, bác thổi vào hòn than mạnh như một cái bễ rèn chứ không phải là miệng người thổi nữa, Vinixius chợt nhớ lại rằng hôm qua chính con người này đã đánh gục Kroton, chàng bèn chăm chú ngắm bác với sự tò mò của một người say mê võ đài, ngắm nghía tấm lưng đồ sộ như lưng một người khổng lồ và bắp đùi to tướng như những chiếc cột,
                          "Cảm ơn thần Merkurơ là y đã không vặn gẫy cổ mình - chàng nghĩ thầm - thề có thần Ponlukx! Nếu như những tên Ligi khác cũng giống hệt như hắn, thì chắc hẳn những chiến đoàn Đunai sẽ có lúc nhọc với bọn chúng đấy".
                          Chàng gọi to:
                          Hây, thằng nô lệ!
                          Bác Urxux rụt đầu ra khỏi lò sưởi và mỉm cười gần như thân thiện với chàng, bác nói:
                          Cầu chúa ban cho người một ngày tốt lành và một sức khỏe tốt lành, còn tôi là một người tự do chứ không phải nô lệ đâu,
                          Những lời này khiến cho Vinixius thích thú, vì chàng đang muốn hỏi bác Urxux về đất nước quê hương của Ligia, mà việc trò chuyện với một người tự do, dẫu chất phác, vẫn ít động chạm tới phẩm cách La Mã và quý tộc của chàng hơn là trò chuyện với một tên nô lệ, kẻ mà cả luật pháp lẫn phong tục tập quán đều không coi là con người.
                          Thế ra ngươi không phải là nô lệ của ông bà Aulux sao? - Chàng hỏi,
                          Không, thưa ngài, Tôi phục vụ nàng Kalina như đã từng phục vụ mẫu thân nàng, nhưng hoàn toàn tự nguyện,
                          Nói đoạn bác lại chui đầu vào lò sưởi để thổi vào hòn than đỏ mà bác đã ném mấy thanh củi khô lên trên, rồi lại rụt đầu ra và nói:
                          Ở quê tôi không hề có nô lệ,
                          Song Vinixius hỏi:
                          Nàng Ligia đâu rồi?
                          Cô chủ vừa mới đi, còn tôi phải sửa soạn bữa sáng cho ngài đây, thưa ngài. Cô chủ thức trông ngài cả đêm qua,
                          Sao ngươi không trông thay cho nàng?
                          Bởi cô chủ muốn thế, còn việc của tôi là phải vâng lời,
                          Đến đây mắt bác chợp sầm lại, lát sau bác nói thêm:
                          Giá tôi không vâng lời cô chủ thì hẳn ngài đã không còn sống nữa,
                          Thế ra ngươi tiếc là đã không giết ta sao?
                          Không thưa ngài, Chúa Crixtux không cho giết người,
                          Thế còn Ataxynux? Còn Kroton?
                          Tôi không thể làm khác được - bác Urxux lầu bầu,
                          Rồi bác nhìn hai bàn tay mình như vẻ hối tiếc, hai bàn tay rõ ràng vẫn là bàn tay ngoại đạo, mặc dù tâm hồn đã được chịu lễ rửa tội.
                          Rồi bác đặt cái nồi lên giá và ngồi xẹp trước lò sưởi, dán cặp mắt suy tư vào ngọn lửa.
                          - Đó chính là lỗi của ngài, thưa ngài - mãi sau bác thốt ra - Sao ngài lại vung tay lên với nàng, với công chúa?
                          Thoạt tiên trong Vinixius sôi sục lòng tự tôn, rằng một tên tiện dân đồng thời là một thằng mọi rợ như thế mà dám nói năng sỗ sàng và dám chê trách chàng nữa chứ. Lại một chuyện nữa thêm vào những chuyện phi thường và khó tưởng tượng nổi đã xảy ra đến với chàng kể từ hôm ấy. Song đang ốm yếu, lại không có dưới tay bọn nô lệ của mình, nên chàng cố kìm lòng, nhất là khi cái ý muốn tìm hiểu chi tiết thêm đôi điều về cuộc đời của Ligia thắng thế trong lòng chàng.
                          Vì vậy, bình tâm lại, chàng bắt đầu hỏi về cuộc chiến tranh của người Ligi chống Vannius và dân Xveb. Bác Urxux vui lòng kể lại nhưng bác cũng chẳng cho biết thêm được điều gì nhiều hơn những điều mà đã có lần ông Aulux Plauxius kể cho Vinixius nghe. Bác Urxux không tham gia chiến trận vì bác đi cùng đám con tin đến trại của Atelius Hixter. Bác chỉ biết rằng người Ligi đã đánh tan quân Xveb và Jazygơ. Ngay sau đó, họ lại nhận được tin báo rằng người Xemnonop đốt rừng ở vùng biên giới của họ, bèn lập tức quay trở về để trả hận, còn đám con tin thì để lại chỗ Atelius. Ông này thoạt đầu đối xử với họ như với những bậc đế vương. Sau đó mẹ Ligia qua đời. Vị thủ lĩnh La Mã không biết nên làm gì với đứa trẻ. Bác Urxux muốn đưa cô chủ trở về quê hương nhưng đường đi rất nguy hiểm bởi đầy rẫy dã thú và những bộ lạc dã man. Vậy nên khi có tin là một vị sứ thần nào đó của người Ligi đang ở chỗ ông Pomponia và mang tới cho ông lời hứa hẹn chống lại người Markoman thì tướng Hixter gửi họ đến chỗ ông Pomponia. Song khi tới chỗ ông, họ lại được biết rằng chẳng hề có vị sứ giả nào cả - và thế là họ đành ở lại trong trại binh, từ đó ông Pomponia đưa họ về Roma, rồi sau lễ khải hoàn, ông đưa đứa bé con vua cho bà Pomponia Grexyna.
                          Mặc dù trong câu chuyện ấy chỉ có vài chi tiết nhỏ nhặt là chàng chưa được biết, Vinixius vẫn thích thú lắng nghe, vì sự kiêu hãnh vô bờ về dòng họ của chàng được mơn trớn một cách dễ chịu khi được nghe người nhân chứng chính thức khẳng định dòng dõi hoàng tộc của Ligia. Là công chúa con vua, trong hoàng cung nàng có thể chiếm một địa vị ngang hàng với con gái của những dòng họ tôn quý nhất, nhất là khi dân tộc mà cha đẻ nàng làm vua chưa hề đánh nhau với quân La Mã bao giờ và tuy là một dân tộc dã man, song họ rất có thể trở thành đáng sợ, vì theo lời của chính Atelius Hixter thì họ có "vô số" chiến sĩ.
                          Bác Urxux cũng hoàn toàn khẳng định điều đó vì đáp lại câu hỏi của Vinixius về người Ligi, bác nói:
                          Chúng tôi náu trong rừng, nhưng đất đai của chúng tôi mênh mông đến nỗi chẳng ai biết rừng kết thúc ở chỗ nào, còn trong rừng thì đông người lắm. Trong rừng có cả những tòa thành bằng gỗ giàu có vô cùng, bởi vì dân Xemnon, Markoman, Vanđan và Kvađ đi cướp bóc khắp thế giới, mà chúng tôi thì lại đi cướp lại của bọn chúng. Còn bọn chúng thì không dám bén mảng tới chỗ chúng tôi, chỉ khi nào gió thổi xuôi từ phía chúng, chúng mới đốt rừng của chúng tôi. Chúng tôi chẳng sợ, cả bọn ấy lẫn hoàng đế La Mã.
                          Các vị thần linh đã giao cho người La Mã đứng đầu thế giới - Vinixius nói nghiêm khắc.
                          Các vị thần linh là quỷ dữ - bác Urxux thản nhiên đáp lại - nơi nào không có người La Mã, ở đó không có chuyện đứng đầu cai trị.
                          Nói đoạn, bác cời lửa và nói như với chính mình:
                          Lúc hoàng đế bắt nàng Kalina vào cung, tôi nghĩ rằng nàng có thể gặp chuyện chẳng lành, tôi đã muốn đi về tận những khu rừng ấy và dẫn người Ligi đến cứu công chúa. Và chắc người Ligi sẽ tiến về phía sông Đunai, vì họ là một dân tộc tốt lành, mặc dù ngoại đạo. Ôi, tôi không thể mang lại cho họ một tin tốt lành. Nhưng đến khi nào nàng Kalina quay trở về với bà Pomponia, tôi cũng sẽ cúi xin nàng cho phép tôi về với họ, vì Chúa Crixtux ra đời ở nơi xa xôi quá và thậm chí họ cũng chưa từng được nghe nói về Người... Người biết rõ hơn tôi nơi nào Người cần phải ra đời, nhưng giá như Người ra đời ở xứ chúng tôi, trong rừng rậm, thì chắc hẳn chúng tôi đã không hành hạ Chúa mà đã nuôi nấng Đức Chúa Hài đồng và chăm lo cho Người không lúc nào thiếu muông thú, nấm, da bò rừng lẫn hổ phách. Và đi cướp được gì của dân Xveb hoặc Markoman thì chúng tôi đều mang về cho Người, để Người được sống trong sung túc và tiện nghi.
                          Vừa nói thế, bác vừa đặt nồi xúp cho Vinixius lên bếp và nín lặng. Hẳn là ý nghĩ của bác đang chu du hồi lâu trong những khu rừng xứ Ligi, mãi cho tới khi nước trong nồi bắt đầu reo, bác đổ nó vào một cái âu cạn và sau khi để vừa nguội, bác nói:
                          Ông Glaukox khuyên ngài nên càng ít động đậy càng tốt, thậm chí cả cánh tay còn lành cũng thế, vậy nên nàng Kalina bảo tôi phải bón thức ăn cho ngài.
                          Ligia ra lệnh! Thế thì còn nói gì nữa! Vinixius thậm chí không hề nghĩ đến việc cưỡng lại ý chí của nàng, dường như nàng là con gái của chính hoàng đế hay là một vị nữ thần, chàng không hề đáp lại điều gì, còn bác Urxux thì ngồi cạnh giường chàng, bắt đầu múc từng muỗng nhỏ xúp từ cái âu rót vào miệng chàng. Bác làm việc đó thật ân cần và với nụ cười thân thiện trong đôi mắt màu thanh thiên của bác, khiến cho Vinixius không còn tin vào mắt mình, rằng đó chính là vị thần Titan kinh khủng ngày hôm qua, sau khi bóp chết Kroton đã lao vào chàng, nếu như không có lòng thương hại của Ligia. Lần đầu tiên trong đời, chàng quý tộc trẻ tuổi bắt đầu suy nghĩ xem có những gì diễn ra trong lòng một kẻ tiện dân, một tên đầy tớ, một người dã man.
                          Nhưng bác Urxux là một người bảo mẫu ân cần bao nhiêu thì lại thiếu khéo léo bấy nhiêu. Cái muỗng nhỏ hoàn toàn lọt thỏm trong những ngón tay lực sĩ của bác đến nỗi không còn thừa chỗ nào dành cho miệng Vinixius nữa. Sau vài lần thử nghiệm không thành công bác khổng lồ hóa ra lo lắng và thốt lên:
                          Ê, lôi bò tót từ trong rừng ra còn dễ hơn...
                          Sự lúng túng của bác Ligi khiến Vinixius thú vị, những câu nói của bác ta cũng khiến chàng chú ý không kém. Trong các hý trường, đã có lần chàng được trông thấy những con bò rừng khủng khiếp được mang về từ những vùng rừng hoang phương bắc, loài thú mà những tên bextiari dũng cảm nhất cũng phải lo sợ khi bắt, loài thú chỉ chịu thua kém độc lũ voi về tầm vóc và sức khỏe mà thôi.
                          Thế ra ngươi đã từng dám nắm sừng loài thú dữ ấy kia à? - Chàng ngạc nhiên hỏi.
                          Trước khi hai mươi mùa đông qua đi trên đầu tôi thì tôi còn sợ - bác Urxux đáp - còn sau đó thì là chuyện thường.
                          Rồi bác lại bón tiếp cho Vinixius, song còn vụng về hơn cả lúc trước.
                          Tôi phải nhờ bà Miriam hoặc thằng bé Nazarius mới được! - Bác nói.
                          Nhưng chính vào lúc đó, mái đầu màu sẫm của Ligia đã ló ra từ sau tấm rèm che.
                          Tôi giúp ngay đây - nàng nói.
                          Liền đó nàng bước ra khỏi phòng ngủ, hẳn là nàng đang chuẩn bị đi ngủ, vì nàng mặc mỗi một chiếc áo tunica bó sát người, được gọi là kiểu cabilium vào thời cổ, loại áo che kín ngực, còn tóc nàng đã tháo tung ra. Vinixius, người mà trái tim đập dập dồn hơn khi trông thấy nàng, bèn bảo rằng nàng không chịu ngủ nghê gì cả, song nàng vui vẻ đáp:
                          Em đang muốn chợp mắt một lát đây, nhưng trước hết phải thay thế bác Urxux cái đã.
                          Rồi cầm lấy chiếc muỗng nhỏ, nàng ngồi lên mép giường và bắt đầu bón cho Vinixius ăn. Chàng thấy vừa ngượng ngùng vừa sung sướng. Khi nàng cúi người xuống phía chàng, hơi ấm của cơ thể nàng tỏa đến chàng, những sợi tóc xõa của nàng vươn lên ngực chàng, chàng tái người đi vì xúc cảm nhưng trong cơn xáo động và hăng say của dục vọng, chàng vẫn cảm thấy được rằng đó là mái đầu thân yêu hơn tất thẩy và được sùng kính hơn tất thẩy, đối với mái đầu ấy, cả thế giới chẳng là gì cả. Lúc đầu chàng thèm muốn nàng, còn giờ đây chàng thấy yêu nàng đầy lồng ngực. Trước kia, trong đời sống nói chung cũng như trong tình cảm, giống như những người cùng thời, chàng là một kẻ ích kỷ tuyệt đối và mù quáng, kẻ chỉ biết nghĩ tới riêng mình, còn giờ đây chàng bắt đầu nghĩ đến cả nàng nữa.
                          Lát sau, chàng từ chối không chịu ăn tiếp và mặc dù chàng thấy trong cái nhìn của nàng cũng như trong sự có mặt của nàng niềm khoái lạc vô bờ bến, chàng vẫn bảo:
                          Thôi đủ rồi, nàng hãy đi ngủ đi, hỡi thần nữ của tôi.
                          Chàng đừng gọi em như thế - nàng đáp - em chẳng xứng được nghe gọi thế đâu.
                          Tuy nhiên, nàng vẫn mỉm cười với chàng, rồi nàng bảo rằng cơn buồn ngủ đã qua mất rồi, nàng không cảm thấy mệt và nàng sẽ không đi nghỉ đâu cho tới khi nào ông Glaukox tới, chàng mỗi lúc một trào dâng niềm xúc động lớn lao hơn, nỗi thán phục to lớn hơn, lòng hàm ơn bao la hơn và chàng suy nghĩ lao lung xem làm cách nào biểu lộ được lòng hàm ơn ấy.
                          Ligia - chàng nói sau một lúc im lặng - trước đây tôi không hiểu nàng. Nhưng giờ đây tôi đã biết được rằng tôi đến với nàng bằng một con đường lầm lạc, vậy nên tôi xin thưa với nàng: Hãy trở về với bà Pomponia Grexyna và xin hãy tin chắc rằng từ đây sẽ không một kẻ nào dám vung tay lên với nàng nữa.
                          Nét mặt nàng bỗng buồn bã hẳn đi.
                          Em sẽ hạnh phúc lắm - nàng nói - giá như em có thể nhìn thấy bà, từ đằng xa thôi cũng được, nhưng em không thể nào về với bà được nữa.
                          Vì sao? - Vinixius ngạc nhiên hỏi.
                          Những người Thiên chúa giáo chúng em, thông qua nàng Akte, biết những gì xảy ra trong cung điện Palatyn. Thế chàng không nghe nói rằng ngay sau cuộc trốn chạy của em và trước khi lên đường đi Neapolix. Hoàng đế đã cho gọi ông Aulux cùng bà Pomponia tới và cho rằng họ đã giúp đỡ em, hoàng đế giận dữ đe dọa họ. May mà ông Aulux có thể trả lời hoàng đế rằng: "Hoàng thượng biết đấy, không khi nào điều dối trá có thể thoát ra từ miệng tôi, vậy tôi xin thề với người rằng chúng tôi không hề giúp con bé trốn và chúng tôi cũng không rõ có chuyện gì đã xẩy ra với nó nữa". Hoàng đế đã tin lời ông và rồi sau đó quên đi - còn em thì vâng theo lời của các bô lão, em không hề viết thư cho mẹ báo nơi em ở, để lúc nào bà cũng có thể thề rằng bà hoàn toàn không hay biết gì về em. Vinixius, có thể là chàng không hiểu nổi điều đó, nhưng chúng em không được phép dối trá, thậm chí dù cho có bị đe dọa đến tính mạng đi nữa. Giáo thuyết của chúng em là thế, cái giáo thuyết mà chúng em muốn trái tim mình tuân theo, vậy nên em chưa hề được trông thấy bà Pomponia kể từ khi em rời khỏi nhà bà, còn bà thảng hoặc mới được nghe tin đồn là em vẫn còn sống và bình an.
                          Đến đây, nỗi nhớ nhung tràn ngập lòng nàng khiến mắt nàng ứa lệ, song chẳng mấy chốc nàng bình tâm lại và nói:
                          Em biết là bà Pomponia nhớ thương em, nhưng dù sao chúng em cũng còn có được niềm sung sướng mà những người khác không có
                          Phải - Vinixius đáp - niềm vui sướng của các người là Chúa Crixtux, nhưng tôi, tôi không thể hiểu chuyện đó.
                          Hãy nhìn chúng em đây này: Đối với chúng em không hề có chia cách, không hề có nỗi đau đớn và chịu đựng, còn nếu như chúng có tới thì chúng cũng sẽ biến thành niềm vui cả thôi. Cả cái chết mà đối với các anh là sự chấm dứt cuộc đời, thì đối với chúng em, nó lại là điều khởi đầu và là việc biến thành một niềm hạnh phúc, tồi tệ hơn thành tốt đẹp hơn, ít an bình thành bình an hơn và mãi mãi vĩnh hằng. Chàng hãy cân nhắc thử xem, nó phải như thế nào, cái khoa học dạy chúng em phải xót thương ngay cả với kẻ thù, không cho phép dối trá, rửa sạch sự dữ khỏi tâm hồn chúng em và hứa hẹn một niềm hạnh phúc vô biên sau cái chết.
                          Tôi đã nghe nói tới điều ấy ở Oxtrianum, tôi đã thấy các người đối xử với tôi và với lão Khilon ra sao và mỗ khi nghĩ tới chuyện đó, tôi lại ngỡ đó chỉ là giấc mơ mà tôi không được tin vào chính tai mắt của mình nữa. Song xin nàng hãy trả lời một câu hỏi khác của tôi: Nàng có thấy hạnh phúc không?
                          Có! Ligia đáp - thuận theo đấng Crixtux em không thể không hạnh phúc.
                          Vinixius nhìn nàng dường như điều nàng vừa nói vượt hoàn toàn ra ngoài khuôn khổ lý trí con người.
                          Và nàng không muốn quay trở về với bà Pomponia nữa?
                          Em mong muốn điều đó với cả tấm lòng và em sẽ trở về, nếu như ý muốn của Chúa là như thế.
                          Thế thì tôi bảo nàng: Hãy quay trở về đi và xin thề với các vị gia thần của tôi cùng nàng rằng tôi sẽ không động chạm đến nàng.
                          Ligia suy nghĩ một lát rồi nói:
                          Không! Em không muốn gây nguy hiểm cho những người thân thích của em. Hoàng đế không yêu mến gì dòng họ Plauxius. Nếu như em trở về - cháng biết đấy. Qua bọn nô lệ bất cứ tin tức nào cũng loan truyền khắp Roma - thì chuyện quay về của em sẽ bị đồn ầm lên khắp thành phố và qua những nô lệ của mình, Nerô cũng sẽ biết chuyện. Khi ấy hoàng đế sẽ trị tội ông Aulux, hay chí ít cũng bắt em đi lần nữa.
                          Phải - Vinixius đáp và nhíu mày - điều đó có thể lắm. Hoàng đế sẽ làm chuyện ấy, dù chỉ để chứng tỏ rằng ý chí của ngài phải được thực hiện. Thực ra ngài chỉ tạm quên nàng hoặc không muốn nghĩ đến nàng vì cho rằng không phải ngài mà chính tôi mới bị thiệt hại. Nhưng cũng có thể... ngài sẽ trả lại cho tôi, còn tôi lại trả nàng về với bà Pomponia.
                          Song nàng buồn bã hỏi chàng:
                          Vinixius, chàng lại muốn trông thấy em phải ở trong cung điện Palatyn hay sao?
                          Chàng nghiến chặt răng thốt lên:
                          Không! Nàng nói đúng. Tôi nói như một thằng ngu vậy. Không!
                          Và bỗng chàng như nhìn thấy trước mặt mình một vực thẳm không đáy. Chàng là một quý tộc, chàng là một hộ dân quan quân sự, một người giàu thế lực, nhưng trên tất thẩy những thế lực của cái thế giới mà chàng lệ thuộc vào, chàng lại trở thành một thằng điên khùng mà người ta không thể lường trước được ý muốn cũng như tâm địa độc ác khôn cùng. Có lẽ chỉ những người như các tín đồ Thiên chúa giáo là không thèm để ý đến chàng, cũng chẳng hề e sợ chàng, với họ cả cái thế giới kia, cả những nỗi chia ly của chàng, những chịu đựng cùng cái chết nữa, cũng chẳng là cái gì hết. Tất cả những người khác đều phải run sợ trước mặt chàng. Đối với Vinixius, nỗi hãi hùng của thời mà chàng đang sống chợt hiện ra với toàn bộ tầm cỡ khủng khiếp của nó. Chàng không thể mang Ligia trả lại cho bà Pomponia, vì sợ rằng tên quái vật sẽ chợt nhớ lại nàng và hướng cơn giận dữ của y về phía nàng, cũng chính vì lý do đó, giờ đây nếu chàng lấy nàng làm vợ, thì chàng có thể sẽ gây nguy hiểm cho nàng, cho nhà Aulux và cho bản thân mình. Chỉ một giây bực mình cũng đủ giết chết tất cả. Lần đầu tiên trong đời, Vinixius cảm thấy rằng hoặc là thế giới phải thay đổi đi và tái sinh lại, hoặc cuộc sống sẽ trở nên không thể chịu đựng nổi. Chàng cũng hiểu ra điều mà giây lát trước đây đối với chàng hãy còn tối tăm rằng trong cái thời buổi thế này, chỉ duy nhất những người Thiên chúa giáo mới có thể là những người hạnh phúc.
                          Song trước tiên chàng hối tiếc khi hiểu rằng chính chàng đã làm rối loạn cuộc đời của mình và Ligia và gần như không còn lối thoát khỏi cái mớ bòng bong ấy nữa. Bị nỗi hối tiếc ấy tác động, chàng thốt lên:
                          Nàng có biết là nàng hạnh phúc hơn tôi? Tuy sống trong sự bần hàn và trong ngôi nhà này, giữa những người tiện dân, nhưng nàng lại có được giáo thuyết và Chúa Crixtux của nàng, còn tôi, tôi chỉ có mỗi một mình nàng thôi, khi thiếu nàng, tôi như kẻ hành khất không có lấy một mảnh vải che trên đầu, không có lấy một miếng bánh lót dạ. Với tôi, nàng còn quý giá hơn cả thế giới. Tôi không thiết ăn, không thiết ngủ. Giá như không còn niềm hy vọng sẽ tìm được nàng, hẳn tôi đã lao mình vào lưỡi kiếm. Nhưng tôi sợ chết, vì tôi sẽ không còn được trông thấy nàng nữa. Xin nói hoàn toàn thành thực với nàng là được trông thấy nàng mà thôi. Nàng có còn nhớ cuộc trò chuyện của chúng ta ở nhà ông bà Aulux chăng? Một lần nàng đã vẽ lên mặt cát cho tôi một con cá, nhưng tôi không hiểu cái đó có ý nghĩa là gì? Nàng có nhớ chúng ta cùng chơi bóng với nhau không? Khi ấy tôi đã yêu nàng hơn cả cuộc sống và cả nàng nữa, cũng bắt đầu đoán ra rằng tôi yêu nàng… Rồi ông Aulux tới, đem nữ thần Libtyna ra dọa chúng ta khiến cho câu chuyện bị gián đoạn. Bà Pomponia có nói khi từ biệt ông Petronius, rằng Chúa là duy nhất toàn năng và nhân từ, nhưng chúng tôi nào có ngờ rằng Đức Chúa của các người lại là Crixtux. Chỉ cần Người trả nàng lại cho tôi, tôi sẽ xin yêu Người, mặc dù tôi thấy Người có vẻ như là Đức Chúa của bọn nô lệ của lũ ngoại bang và của đám hạ lưu. Nàng ngồi cạnh tôi mà nàng chỉ nghĩ đến Người thôi. Hãy nghĩ cả về tôi nữa đi, vì nếu không tôi sẽ căm thù Người mất. Với tôi chỉ có mỗi mình nàng là Chúa. Phúc thay cho cha mẹ nàng, phúc thay cho mảnh đất đã sinh ra nàng. Tôi muốn được ôm ghì lấy chân nàng và cầu nguyện nàng, hiến dâng lên nàng lòng thành kính, hiến dâng nàng lễ vật, hiến dâng nàng những cái vái lạy - nàng thiêng liêng gấp ba lần. Nàng không biết, nàng không thể biết tôi yêu nàng biết chừng nào…
                          Vừa nói thế chàng vừa đưa tay lên vầng trán tái nhợt và nhắm mắt lại. Bản tính của chàng không hề bao giờ biết đến các đập chắn, cả trong cơn tức giận lẫn trong tình yêu. Chàng nói say mê như một người không còn chế ngự được mình, không muốn biết đến thứ chừng mực nào hết cả trong lời nói chũng như trong lòng thành kính. Song chàng đã thốt ra tự đáy lòng và rất chân thành. Có thể cảm thấy rằng cả nỗi đau đớn, sự hâm mộ, dục vọng và lòng sùng tín dồn nén trong lồng ngực chàng, cuối cùng đã bùng ra thành một suối lời không sao kìm hãm nổi. Với Ligia những lời của chàng có vẻ như báng bổ thần thánh, song tim nàng vẫn đập mạnh như muốn dứt tung chiếc áo tunica đang bó chặt lấy ngực. Nàng không thể xua đuổi tình thương đối với chàng và những đau khổ của chàng. Sự thành kính trong lời lẽ của chàng khiến nàng cảm động. Nàng cảm thấy con người không biết khuất phục và nguy hiểm này hiện đang lệ thuộc vào nàng, cả linh hồn lẫn thể xác, như một tên nô lệ và chính cái cảm giác về sự khuất phục của chàng và về sức mạnh của mình đã khiến nàng tràn ngập hạnh phúc. Trong một giây, những hồi ức của nàng vụt sống dậy. Đối với nàng, chàng lại trở thành chàng trai tuyệt vời, dễ thương và xinh đẹp hệt như một vị thần ngoại đạo. Chàng Vinixius, người mà ở ngôi nhà ông Aulux đã nói với nàng về ái tình, đã khiến cho trái tim non trẻ của nàng hồi ấy như tỉnh thức từ giấc điệp, chính chàng, người có những nụ hôn mà nàng vẫn còn cảm thấy trên môi, người mà trong cung điện Palatyn đã bị bác Urxux giật nàng ra khỏi vòng tay như giật ra từ một ngọn lửa. Chỉ có điều là giờ đây, với sự say đắm cùng với nỗi đau đớn trên khuôn mặt đại bàng, với vầng trán tái nhợt và vẻ van xin của ánh mắt, lại bi thương, bị khuất phục vì tình yêu, tràn đầy yêu thương, tràn đầy lòng thành tín và kính cẩn, chàng trở nên giống con người mà nàng từng ao ước hồi ấy, người mà nàng có thể đã yêu thương với tất cả tâm hồn.
                          Và đột nhiên nàng hiểu ra rằng sẽ tới cái giây phút mà tình yêu của chàng xâm chiếm nàng và lôi cuốn nàng như một cơn bão lốc. Cảm thấy điều ấy, nàng chịu một ấn tượng như chính chàng vừa chịu đựng một phúc trước đây, cái ấn tượng đang đứng bên bờ vực thẳm. Nàng rời bỏ ngôi nhà của ông bà Aulux vì thế đây chăng? Nàng trốn chạy tự cứu mình để vì thế đây chăng? Vì thế đây chăng nàng đã phải ẩn náu suốt ngần ấy thời gian trong những khu phố nghèo nàn của thành phố? Cái anh chàng Vinixius ấy là ai vậy? Một vị quý tộc, một tên lính và một viên quan của Nerô. Chính chàng đã từng tham gia vào những trò trụy lạc và điên rồ của hoàng đế, như bữa yến tiệc mà Ligia không tài nào quên được đã chứng tỏ, chính chàng đã cùng những người khác tới các vị thần miếu và dâng tế lễ vật cho các vị thần vô luân, những vị thần có thể là chàng không tin nhưng vẫn thờ phụng theo nghi lễ. Chính chàng đã săn đuổi nàng chỉ để bắt nàng phải làm nô tỳ và người tình của mình, đồng thời để lôi nàng vào cái thế giới khủng khiếp của xa hoa, khoái lạc, tội ác và những điều vô luân, cái thế giới đang đòi hỏi cơn giận dữ và sự trừng phạt của Thượng đế. Thực ra chàng có vẻ đã thay đổi, song chính chàng vừa mới nói với nàng rằng, nếu nàng còn nghĩ đến đấng Crixtux nhiều hơn nghĩ tới chàng thì chàng sẵn sàng căm thù Người. Ligia ngỡ rằng chỉ cần nghĩ tới bất cứ một thứ tình yêu nào khác với tình yêu đấng Crixtux cũng đã là phạm tội chống lại Người và chống lại giáo thuyết, vậy nên khi nhận thấy trong đáy lòng mình có thể tỉnh thức những tình cảm và khát vọng khác, nàng bỗng sợ hãi cho tương lai của mình, cho trái tim của chính mình.
                          Đúng vào lúc lòng dạ nàng đang rối bời thì ông Glaukox tới. Ông tới để băng bó cho người bị thương và khám sức khỏe cho chàng. Trên nét mặt của Vinixius, trong một chớp mắt, hiện lên vẻ giận dữ và khó chịu. Chàng bực mình vì người ta làm gián đoạn cuộc trò chuyện của chàng với Ligia và khi ông Glaukox hỏi han chàng, chàng trả lời gần như với vẻ khinh mạn. Quả tình sau đó chàng cũng ôn hòa hơn, song nếu như Ligia có chút ảo vọng nào rằng những gì chàng nghe được tại Oxtrianum có thể tác động đến bản tính của chàng, thì những ảo tưởng ấy buộc phải tan vỡ. Chàng chỉ đổi thay vì nàng mà thôi, ngoài tình cảm duy nhất đó ra. Trong ngực chàng vẫn nguyên vẹn cái trái tim khắc nghiệt và tự ái như cũ, trái tim La Mã đích thực, trái tim lang sói, không những không có khả năng hấp thụ những tình cảm của giáo thuyết Thiên chúa giáo ngọt ngào, mà còn không hề biết tới lòng biết ơn.
                          Mãi sau, nàng lui gót, lòng đầy thấp thỏm, lo âu. Hồi nào, trong lúc cầu nguyện, nàng đã dâng cho Chúa Crixtux trái tim thanh tĩnh và quả thực trong sạch như nước mắt của mình. Giờ đây, sự thanh tĩnh đó đã bị khuấy động. Một con sâu độc đã bò vào trong lòng đóa hoa và bắt đầu hoành hành trong đó. Thậm chí cả đến giấc ngủ - mặc dù đã hai đêm nàng không ngủ - cũng không mang lại cho nàng sự yên ổn. Nàng mơ thấy Nerô có mặt tại Oxtrianum, dẫn đầu một đoàn cận thần, đồng nữ, lũ hề và các đấu sĩ, dùng cỗ xe trang điểm hoa hồng xéo nát những đám tín đồ Thiên chúa, còn chàng Vinixius nắm lấy hai tay nàng, kéo vào trong cỗ xe tứ mã ghì nàng vào ngực, thì thầm: “Hãy đi với chúng tôi!".


                          ST
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #28
                            T1 - Chương 27

                            Từ lúc ấy, nàng ít khi xuất hiện trong phòng chung và hiếm khi tới gần giường chàng. Song sự tĩnh tâm không trở lại với nàng. Nàng trông thấy Vinixius dõi theo nàng cái nhìn van lơn, chàng chờ đợi mỗi lời nàng nói như chờ một ân huệ, chàng đau khổ mà không dám kêu ca để khỏi làm nàng ghét, chỉ mỗi mình nàng mới là sức khoẻ và niềm vui sướng của chàng, và những khi ấy, trái tim nàng tràn ngập một tình thương. Chẳng bao lâu nàng nhận ra rằng nàng càng cố tìm cách tránh mặt nàng bao nhiêu thì nàng càng thương chàng bấy nhiêu, và những tình cảm đối với chàng nảy sinh trong lòng nàng càng âu yếm bấy nhiêu. Sự thanh tĩnh đã rời nàng mà đi. Đôi khi, nàng tự nhủ lòng, rằng nhẽ ra nàng phải luôn luôn ở bên chàng, trước hết vì giáo thuyết của Chúa dạy phải lấy cái tốt đáp lại điều xấu, hai nữa, trong khi trò chuyện với chàng, nàng có thể sẽ khiến chàng xích lại gần hơn với giáo thuyết ấy. Song nhiều lần lương tâm lại bảo nàng, rằng nàng đang tự lừa dối chính mình và rằng không có một cái gì khác kéo nàng lại với chàng ngoài tình yêu và sắc đẹp của chàng. Cứ như thế, nàng sống trong một nỗi phân vân triền miên, mỗi ngày một lớn lên. Nhiều khi nàng cảm thấy có một cái lưới nào đó đang vây bọc lấy nàng, nàng càng muốn phá thủng lưới thì lại càng vướng vít vào lưới nhiều hơn. Nàng phải thú nhận với mình rằng càng ngày hình ảnh của chàng càng trở nên cần thiết hơn đối với nàng, giọng nói của chàng càng trở nên đáng yêu hơn, và nàng phải dùng hết sức để đấu tranh chống lại ý thức được ngồi mãi bên giường chàng. Mỗi khi nàng lại gần, chàng rạng rỡ hẳn lên, thì niềm vui tràn ngập cả trái tim nàng. Một ngày kia, nàng nhận thấy dấu lệ đọng trên hai hàng mi chàng, và lần đầu tiên trong đời, nàng chợt nghĩ rằng nàng có thể dùng những nụ hôn làm lệ khô đi. Hoảng sợ vì ý nghĩ ấy và tràn ngập lòng tự khinh bỉ bản thân, nàng khóc lóc suốt cả đêm hôm sau.
                            Còn chàng thì kiên nhẫn, dường như chàng đã tự thề phải kiên nhẫn vậy. Thảng hoặc nếu mắt chàng thoạt ngời lên nỗi sốt ruột, tự ái và giận dữ, thì chàng lập tức kìm ngay những tia sáng ấy đi, rồi sau đó lại lo lắng nhìn nàng, dường như muốn xin lỗi nàng, khiến nàng càng bận lòng hơn nữa. Chưa bao giờ nàng cảm thấy nàng được yêu thương đến thế, và cứ nghĩ tới điều đó, nàng lại cảm thấy mình vừa có lỗi vừa hạnh phúc. Quả thực, cả Vinixius cũng thay đổi. Trong những cuộc trò chuyện với ông Glaukox chàng ít tự cao tự đại hơn. Nhiều khi chàng nghĩ rằng cả người thầy thuốc nô lệ này, cả người đàn bà ngoại quốc già nua là bà Miriam, người đang trìu mến chăm sóc chàng, cả ông Kryxpux người mà chàng thấy thường xuyên chìm trong những cuộc cầu nguyện, dù sao cũng vẫn là những con người. Chàng ngạc nhiên với những ý nghĩ tương tự - song vẫn thường nghĩ thế. Dần dần chàng yêu mến bác Urxux, giờ đây chàng trò chuyện với bác suốt cả ngày, bởi với bác chàng có thể nói về Ligia, còn bác khổng lồ này thì lại là kho chuyện không khi nào cạn. Trong khi phục vụ người bệnh những việc đơn giản nhất, bác dần dần cũng tỏ ra có một sự gắn bó nhất định với chàng. Còn Ligia thì hình như bao giờ đối với Vinixius cũng là một sinh linh thuộc loại khác, cao hơn trăm lần so với những người đang sống quanh nàng. Chàng đã bắt đầu quan sát những người nghèo khổ và giản dị, điều mà trong đời chàng chưa hề làm bao giờ, và chàng cũng bắt đầu phát hiện ra ở họ những mặt đáng chú ý, những mặt mà quả tình trước kia chưa khi nào chàng từng nghĩ tới.
                            Chỉ có thằng bé Nazarius là chàng không sao chịu nổi, vì chàng thấy hình như cậu bé nhỏ tuổi này lại dám phải lòng Ligia. Suốt một thời gian dài chàng cố gắng kìm hãm không bộc lộ cho cậu bé thấy mối ác cảm của chàng, nhưng một lần, khi cậu bé mang về cho cô gái hai con chim cun cút mua được ở chợ bằng chính tiền do cậu kiếm được, thì trong lòng Vinixius, dòng máu của dân Quiryt chợt lên tiếng, đối với nó một tên Do Thái còn kém giá trị hơn loài sâu bọ tầm thường nhất. Khi nghe Ligia cảm ơn, chàng tái nhợt cả người đi, và lúc cậu Nazarius ra ngoài lấy nước cho đôi chim, chàng bảo:
                            - Ligia, nàng lại chịu để cho nó tặng quà cho nàng sao? Vậy ra nàng không biết rằng người Hi Lạp gọi dân tộc nó là bọn chó Do Thái sao?
                            - Em không biết người Hi Lạp gọi họ bằng gì, - nàng đáp - nhưng em biết rằng Nazarius là người Thiên chúa giáo và là em của em.
                            Nói thế, nàng nhìn chàng vừa ngạc nhiên vừa giận, bởi vì nàng không còn quen với những cơn bùng nổ tương tự như thế nữa, còn chàng nghiến chặt răng để khỏi thốt ra với nàng, rằng nếu có một thằng em như thế, chàng sẽ ra lệnh dần roi cho đến chết hoặc đầy biệt về nông thôn như một tên compeditus(1) để đào đất trong những trại nho xứ Xyxilia của chàng… Tuy nhiên, chàng kìm lại, cố nén cơn giận trong lòng và mãi hồi lâu sau chàng nói:
                            - Xin hãy tha lỗi cho tôi, hỡi Ligia. Đối với tôi, nàng là công chúa con vua và là con nuôi của ông bà Plauxius.
                            Và chàng tự nén lòng đến độ khi cậu bé Nazarius lại xuất hiện trong nhà, chàng bèn hứa với cậu, rằng sau khi quay trở về biệt thự của chàng, chàng sẽ tặng cho cậu một đôi công hoặc một đôi chim hồng hạc mà chàng hiện có đầy vườn.
                            Ligia hiểu chàng phải trả giá bao nhiêu cho những thắng lợi như thế đối với chính bản thân chàng. Song chàng càng chịu đựng được chúng thường xuyên bao nhiêu, trái tim nàng lại càng gần chàng bấy nhiêu. Tuy nhiên, công lao của chàng đối với Nazarius thực ra nhỏ hơn là nàng tưởng nhiều. Vinixius có thể giận thằng bé trong chốc lát, nhưng không thể ghen với nó. Đứa con trai của bà Miriam trong mắt chàng cũng chẳng hơn gì mấy so với mấy con chó, thêm nữa, nó hãy còn là một đứa trẻ, nếu nó có yêu Ligia đi nữa thì cũng chỉ yêu một cách vừa vô thức vừa phục tùng. Chàng hộ dân quan trẻ tuổi đã phải dằn vặt rất nhiều với bản thân mình trước khi chịu đầu hàng sự thành kính vây quanh tên tuổi chúa Crixtux và giáo thuyết của Chúa. Về phương diện này, trong lòng Vinixius diễn ra những chuyện kỳ lạ. Dù sao đó cũng là giáo thuyết mà Ligia tin theo, chính vì vậy chàng sẵn sàng thừa nhận nó. Tiếp nữa, chàng càng khoẻ lại bao nhiêu thì chàng càng nhớ rõ hơn cả một chuỗi dài những sự kiện xảy ra từ cái đêm hôm ấy tại Oxtrianum, cả một chuỗi những khái niệm được thâm nhập vào đầu óc chàng kể từ lúc đó, chàng càng kinh ngạc hơn về cái sức mạnh siêu nhiên của thứ giáo thuyết đã thấm sâu đến thế vào tâm khảm con người. Chàng hiểu rằng trong đó có một thứ gì phi thường, một thứ gì chưa từng có trên đời, và chàng cảm thấy nếu như giáo thuyết đó chiếm lĩnh cả thế giới, nếu như nó cấy được vào thế giới tình yêu và lòng nhân từ, thì có lẽ nó sẽ lập nên một thời kỳ gợi nhớ lại cái kỷ nguyên, khi chưa phải thần Jupiter mà là thần Xaturnơ còn ngự trị thế giới, Chàng không dám nghi ngờ gì, cả về nguồn gốc siêu nhiên của Chúa Crixtux, cả việc Chúa sống lại lẫn những chuyện phép màu kỳ lạ khác. Những người được chứng kiến tận mắt kể về những chuyện ấy là những người đáng tin, họ ghê tởm sự dối trá đến mức chàng không thể nào dám nghĩ rằng họ kể những chuyện vớ vẩn. Mà nói cho cùng, cái chủ nghĩa hoài nghi La Mã cho phép không tin vào các thần nhưng lại tin vào chuyện thần kỳ. Vinixius đứng trước một câu đố bí ẩn mà chàng không biết cách giải. Tuy nhiên, mặt khác, chàng thấy toàn bộ giáo thuyết kia ngược hẳn những trật tự hiện hữu của mọi vật, khó có thể áp dụng vào thực tế và điên rồ hơn bất cứ lý thuyết nào khác. Theo như chàng, con người, - cả ở Roma cũng như trên toàn thế giới - có thể là xấu, nhưng trật tự của mọi thứ vẫn tốt. Nếu Hoàng đế, - nói thí dụ - lại là một người trung thực, nếu nguyên lão viện không phải gồm những kẻ phóng đãng đê tiện mà toàn những người như ông Trazeas, thì còn biết mong muốn điều gì hơn nữa? Sự yên bình và sự thống trị của La Mã là tốt, sự phân định của loài người đứng đắn và công minh. Ấy vậy mà giáo thuyết kia, theo chỗ Vinixius hiểu, lại đòi xoá bỏ mọi trật tự, mọi quyền thống trị và xoá bỏ mọi sự phân biệt. Nếu vậy, chuyện gì sẽ xẩy đến với quyền bá chủ và thống trị của La Mã. Người La Mã đành chịu thôi làm bá chủ hoặc phải thừa nhận cả một đàn một lũ các dân tộc khác đã bị chinh phục sánh ngang với mình hay sao? Điều đó không thể chứa nổi trong đầu óc của chàng quý tộc. Bên cạnh đó, đối với bản thân chàng, giáo thuyết kia ngược hẳn với mọi sự hình dung, mọi thói quen, ngược hẳn với bản tính và quan niệm của chàng về cuộc đời. Chàng không thể hình dung nổi làm sao chàng có thể tồn tại được, một khi chàng thừa nhận nó. Chàng e sợ, thán phục giáo thuyết ấy, nhưng bản chất của chàng lại ghê tởm khi phải thừa nhận nó. Rốt cục, chàng hiểu rằng, không phải một thứ gì khác, mà chính nó đã chia rẽ chàng với Ligia, và khi nghĩ điều đó, chàng căm ghét nó với tất cả sức mạnh của tâm linh.
                            Tuy nhiên, chàng cũng hiểu ra rằng, chính giáo thuyết ấy đã khoác cho Ligia một vẻ đẹp khác thường, khôn tả, đã khiến cho trong trái tim chàng, bên cạnh tình yêu nảy sinh sự sùng kính, bên cạnh dục vọng nảy sinh sự ngưỡng mộ, chính nó đã biến Ligia thành con người thân yêu nhất đời của chàng. Và những lúc ấy chàng lại muốn mến yêu chúa Crixtux. Và chàng cũng hiểu được rằng, hoặc chàng phải yêu mến Người, hoặc chàng phải căm ghét Người, chứ chàng không thể thờ ơ với Người. Chàng như bị giành giật xô đẩy giữa hai làn sóng, chàng ngả nghiêng trong tư tưởng, ngả nghiêng trong cảm xúc, không biết chọn bên nào. Tuy nhiên, chàng cúi đầu và bày tỏ sự thành kính không lời đối với Đức Chúa mà chàng không hiểu nổi kia, chỉ bởi vì đó là Đức Chúa của Ligia.
                            Ligia thấy được điều gì đang diễn ra trong lòng chàng, thấy chàng dằn vặt, thấy bản chất chàng chối bỏ giáo thuyết kia, và nếu như một mặt điều đó khiến nàng vô cùng lo sợ, thì mặt khác, tình thương và lòng hàm ơn, sự thành kính không lời mà chàng dành cho Đức Chúa Crixtux đã cuốn hút trái tim nàng đến cùng chàng với một sức mạnh không sao cưỡng nổi. Nàng nhớ tới bà Pomponia Grexyna và ông Aulux. Đối với bà Pomponia, nguồn gốc của nỗi buồn khôn vơi và những giọt lệ khôn cầm là ý nghĩ cho rằng ở thế giới bên kia, bà sẽ không gặp được ông Aulux. Giờ đây, Ligia bắt đầu hiểu rõ hơn sự chua xót và nỗi đau đớn kia. Chính nàng cũng đã tìm được một con người thân yêu và cũng bị sự chia ly vĩnh hằng đe doạ. Đôi khi nàng vẫn còn chút ảo vọng rằng linh hồn chàng vẫn có thể sẽ mở ra trước chân lý của Chúa. Song những ảo vọng kia không thể thành hiện thực được. Nàng hiểu chàng quá rõ. Vinixius - tín đồ Thiên chúa! Thậm chí, trong cái trí tuệ non nớt của nàng, hai khái niệm đó cũng không thể đặt bên cạnh nhau. Nếu như ông Aulux chín chắn và đầy quyết đoán kia còn không thể trở thành tín đồ Thiên chúa dưới ảnh hưởng thông minh tuyệt vời của bà Pomponia, thì làm sao Vinixius có thể trở thành tín đồ được kia chứ? Không có câu trả lời, mà thực ra chỉ có một câu trả lời duy nhất: không còn hi vọng gì ở chàng, không còn có cách gì cứu chàng được nữa.
                            Song Ligia kinh hoàng nhận ra rằng, cái bản án đang treo trên đầu chàng kia, thay vì chia rẽ nàng với chàng, lại khiến chàng trở nên thân yêu hơn đối với nàng, bởi tình thương. Nhiều khi nàng những muốn bày tỏ thẳng thắn cùng chàng về tương lai tăm tối của chàng, nhưng một lần khi nàng ngồi xuống bên chàng và nói rằng ngoài giáo thuyết Thiên chúa giáo không có cuộc đời nào khác, thì chàng - vốn đã phần nào bình phục - bèn chống cánh tay còn lành, nhổm dậy, úp mặt vào hai đầu gối nàng mà thốt lên: “Chính nàng là cuộc đời!” Khi ấy ngực nàng nghẹn thở, nàng như mê đi, một nỗi khoái cảm đến rùng mình chạy suốt từ gót lên đầu nàng. Chụp hai tay vào thái dương chàng, nàng cố nhấc đầu chàng lên, nhưng cũng chính lúc ấy nàng cúi sát gần chàng đến nỗi môi nàng chạm vào làn tóc chàng, và hồi lâu họ say sưa cưỡng chống nhau và cưỡng lại tình yêu đang đẩy họ lại sát gần nhau.
                            Mãi sau, Ligia nhổm dậy và bỏ chạy, cảm thấy trong mạch máu nàng giần giật lửa, đầu óc quay cuồng. Nhưng đó chính là giọt nước làm tràn đầy cái cốc đã quá đầy. Chàng Vinixius không biết rằng chàng sẽ phải trả giá đắt đến thế nào cho cái phút giây hạnh phúc kia, song chính Ligia đã cảm thấy được rằng, lúc này bản thân nàng cũng đang cần được cứu rỗi. Sau buổi chiều ấy, suốt đêm nàng không ngủ, khóc và cầu nguyện với cảm giác rằng nàng không xứng đáng được cầu nguyện nữa, rằng những lời cầu nguyện của nàng sẽ không được nghe thấy. Sáng tinh mơ hôm sau, nàng ra khỏi buồng rất sớm, gọi ông Kryxpux đến ngôi nhà nghỉ mùa hè trong vườn, ngôi nhà phủ đầy dây trường xuân và những vòng dây leo đã úa tàn, thổ lộ với ông nỗi lòng nàng, xin ông hãy cho nàng rời khỏi nhà bà Miriam, vì nàng không còn tin vào bản thân mình nữa, nàng không sao thắng nổi tình yêu đối với chàng Vinixius trong chính trái tim nàng.
                            Ông Kryxpux, một ông lão nghiêm khắc và luôn luôn sùng tín, đồng ý với dự định rời bỏ nhà bà Miriam, song ông không tìm được một lời nào tha thứ dành cho cái tình yêu - mà theo những quan niệm của ông - là đầy tội lỗi kia. Trái tim ông tràn đầy phẫn nộ khi nghĩ rằng Ligia, người ông đã cưu mang từ khi nàng đi trốn, người mà ông yêu thương, đã kiên tin, người mà đến nay ông luôn luôn coi là một bông hoa huệ trắng trong mọc lên từ mảnh đất của giáo thuyết Thiên chúa giáo, không hề vướng bận một hơi thở trần tục nào - lại có thể tìm thấy trong tâm hồn mình một chỗ dành cho một thứ tình yêu khác ngoài tình yêu thiên giới. Cho tới nay, ông vẫn hằng tin rằng trên thế giới này, không ở đâu có được một trái tim trong sạch hơn đang đập cho sự ca ngợi Đức Chúa Crixtux. Ông muốn được dâng nàng lên cho người như một viên báu ngọc, một thứ của quý, một tác phẩm quý giá do chính tay ông tạo nên, vì thế sự thất vọng đã khiến ông bàng hoàng và cay đắng.
                            - Ngươi hãy đi mà van xin Đức Chúa tha cho ngươi lầm lỗi - ông cau có nói với nàng. - Hãy trốn đi trước khi quỷ dữ đang ám ảnh ngươi chưa dắt ngươi đến chỗ hoàn toàn suy sụp và chối bỏ Đấng Cứu thế. Vì ngươi, Chúa đã chịu chết trên cây thánh giá, để bằng chính máu của Người chuộc lại linh hồn ngươi, vậy mà ngươi lại muốn yêu thương một kẻ đã từng muốn ngươi phải làm nô tỳ cho hắn. Phép lạ của Chúa đã cứu ngươi thoát khỏi tay hắn, vậy mà ngươi lại muốn mở lòng dạ để đón cái dục vọng bẩn thỉu, lại đi yêu thương chính con đẻ của sự tối tăm. Hắn là ai? - Là bạn và đầy tớ của một kẻ chống Chúa, một đồng bọn của truỵ lạc và tội ác. Hắn sẽ đưa dắt ngươi tới đâu, nếu không phải tới bờ vực thẳm, tới cái thành Xodoma, nơi chính hắn đang sống, nơi mà Đức Chúa đã tàn diệt bằng lửa giận của người? Ta nói cho ngươi biết, ngươi sẽ phải chết, những bức tường của ngôi nhà này sẽ sụp xuống đầu ngươi trước khi con rắn kia trườn được vào ngực của ngươi để nhả vào đó nọc độc vô luân của nó.
                            Mỗi lúc ông một thêm cáu giận, bởi cái lỗi lầm của Ligia không những chỉ khiến ông tức tối, mà còn làm lòng ông kinh tởm và khinh ghét bản chất con người nói chung, nhất là bản chất của đàn bà, khi mà ngay cả giáo thuyết Thiên chúa cũng không tránh nổi cho nó khỏi sự mềm yếu của Eva. Đối với ông, chẳng có nghĩa lý gì nữa, ngay cả việc cô gái vẫn đang hoàn toàn trong sạch, nàng muốn trốn thoát mối tình kia, nàng đã hối hận và xấu hổ khi bày tỏ cùng ông. Ông Kryxpux muốn biến nàng thành một thiên sứ và mang nàng lên chốn cao xanh, nơi chỉ có tình yêu mến Chúa Crixtux ngự trị, ấy vậy mà nàng lại đem lòng yêu một tên cận thần! Chỉ riêng ý nghĩ ấy thôi cũng đã khiến ông tràn đầy cay đắng, nỗi đắng cay được nhân lên bởi cảm giác thất vọng và vỡ mộng. Không! Không thể nào tha thứ cho nàng chuyện ấy! Những lời dữ dội đốt bỏng môi ông thành những hòn than cháy đỏ. Ông cố gắng tự đấu tranh để không thốt chúng thành lời, song ông vẫn vung đôi tay gầy guộc của mình trên đầu cô gái đang thất đảm. Ligia cảm thấy nàng có lỗi nhưng không đến mức như vậy. Thậm chí nàng còn nghĩ rằng việc rời bỏ nhà bà Miriam là chiến thắng của nàng trước cám dỗ và sẽ làm dịu bớt lỗi lầm. Ông Kryxpux đã đay nghiến nàng(2), ông chỉ cho nàng thấy sự thấp kém và tồi tệ của tâm hồn nàng, điều mà cho đến lúc này nàng không hề nghĩ tới. Nàng nghĩ rằng vị trưởng họ đạo tuổi tác, người đã như cha đẻ của nàng kể từ khi nàng trốn khỏi cung điện Palatyn sẽ thương nàng, an ủi, động viên và cổ vũ nàng kia chứ.
                            - Tôi xin dâng lên Chúa nỗi thất vọng và đau đớn của tôi! - ông nói - Ngươi đã đánh lừa cả Đấng Cứu thế, ngươi đã bước xuống vũng lầy, hơi thở hôi hám của nó đã đầu độc tâm hồn ngươi. Ngươi đã từng có thể dâng linh hồn ngươi như một độc bình quý lên Chúa Crixtux và nói cùng Người: “Xin Chúa hãy ban đầy ơn phước!”, thế mà ngươi lại muốn phục vụ loài ma quỷ. Xin Chúa hãy tha thứ và rủ lòng thương ngươi, bởi vì ta, một khi ngươi chưa vứt bỏ loài rắn độc kia…, ta, người đã coi ngươi là con gái…
                            Bỗng ông dừng lại, vì thấy rằng không phải chỉ có hai người với nhau.
                            Qua những vòng dây héo úa và những nhánh trường xuân xanh biếc như mùa hè bên cạnh mùa đông, ông trông thấy hai người, một trong hai người đó là sứ đồ Piotr. Ông không nhận ra ngay người thứ hai là ai, vì tấm áo choàng bằng vải xù lông rất dầy - được gọi là cilicium - đang che khuất phần lớn mặt ông ta. Có lúc ông Kryxpux tưởng rằng đó là lão Khilon.
                            Nghe thấy ông Kryxpux to tiếng, cả hai người bước vào gian nhà nghỉ mát và ngồi xuống phiến ghế đá. Khi ấy người đồng hành của ông Piotr mới để lộ khuôn mặt gầy gò và cái đầu hói nhẵn, hai bên có những khoảng tóc loăn xoăn, hai gò má ửng và cái mũi khoằm - vừa xấu xí nhưng vừa đầy cảm xúc. Ông Kryxpux nhận ra đó chính là Paven xứ Tarxu.
                            Ligia quỳ sụp xuống ôm chặt lấy chân ông Piotr, vẻ tuyệt vọng, nàng tựa mái đầu bị đay nghiến của mình vào những nếp gấp của chiếc áo choàng của ông và giữ yên như thế hồi lâu.
                            Ông Piotr nói:
                            - Bằng an cùng anh em.
                            Nhìn thấy cô gái dưới chân, ông bèn hỏi có chuyện gì xảy ra. Ông Kryxpux bắt đầu thuật lại tất cả những điều Ligia vừa thổ lộ với ông, cái tình yêu tội lỗi của nàng, ý định rời bỏ nhà bà Miriam và nỗi tiếc nuối của ông, rằng cái linh hồn mà ông muốn dâng lên chúa Crixtux sạch trong một giọt lệ kia đã bị vấy bẩn bởi tình cảm dành cho một kẻ từng tham gia vào tất cả các thứ tội ác mà thế giới ngoại đạo phạm phải, những tội ác đòi Chúa phải trừng phạt.
                            Trong lúc ông Kryxpux nói, Ligia ôm chân ông Piotr mỗi lúc thêm chặt hơn, dường như nàng muốn tìm ở đó chỗ nương náu và cầu xin dầu chỉ chút ít tình thương.
                            Nghe xong, Đức Sứ đồ cúi xuống, đặt bàn tay già nua tuổi tác lên mái đầu nàng, rồi ông ngước đôi mắt lên nhìn vị trưởng họ đạo già và nói:
                            - Kryxpux này, lẽ nào anh không nghe chuyện Thầy đã được yêu mến tại đám cưới ở Kan và đã ban phước cho tình yêu của đôi trai gái?
                            Ông Kryxpux buông xuôi tay ngạc nhiên nhìn người đang nói, không thốt ra nổi một lời.
                            Ngừng lại một lát, ông Piotr lại hỏi:
                            - Kryxpux, vậy ra anh nghĩ là Chúa Cryxtux, người đã để cho nàng Maria xứ Magđali nằm bên chân người, đã cho kẻ lỗi lầm, lại có thể ngoảnh mặt quay lưng đối với một đứa trẻ trong sạch như một bông hoa huệ ngoài đồng này chăng?
                            Ligia nức lên, nép chặt vào chân ông Piotr, nàng hiểu rằng nàng đã không vô vọng khi tìm ở đó một lối thoát. Đức Sứ đồ đỡ khuôn mặt đẫm nước mắt của nàng lên mà bảo cùng nàng:
                            - Con hãy trốn tránh chàng, người mà con yêu thương, khi nào đôi mắt của chàng chưa chịu mở ra đón ánh sáng chân lý, để chàng khỏi đưa dắt con đến chỗ lỗi lầm, nhưng hãy cầu nguyện cho chàng và hãy biết rằng con không hề có lỗi khi yêu chàng. Còn việc con muốn trốn tránh cám dỗ, công của con sẽ được tính ghi. Đừng lo phiền và chớ khóc lóc, ta nói với con rằng ân huệ của Đấng Cứu thế sẽ không rời bỏ con, những lời cầu nguyện của con sẽ được Người nghe thấu, sau những nỗi buồn sẽ đến những ngày vui.
                            Nói đoạn, ông ấp hai bàn tay lên mái tóc nàng và ngước mắt lên trời ban phước cho nàng. Khuôn mặt ông bừng sáng một lòng nhân hậu thiên giới.
                            Ông Kryxpux xấu hổ cố gắng phân trần:
                            - Tôi mắc tội bất nhân, - ông nói, - nhưng bởi tôi nghĩ rằng để trái tim bị sa vào tình yêu trần thế là chối bỏ Chúa Crixtux.
                            Ông Piotr đáp:
                            - Tôi đã ba bốn lần chối Chúa, thế mà người vẫn tha thứ và bảo tôi phải chăn đàn chiên của mình.
                            - … và bởi vì, - ông Kryxpux nói nốt - Vinixius là một tên cận thần…
                            - Chúa Crixtux còn chinh phục được những trái tim cứng rắn hơn thế nữa kia - ông Piotr đáp.
                            Ông Paven xứ Tarxu, người cho đến lúc này vẫn im tiếng, trỏ tay vào ngực ông và bảo:
                            - Tôi là kẻ đã truy đuổi và gây nên cái chết cho một tôi tớ của Chúa Crixtux. Trong lúc chúng ném đá hành hình Strêpan, chính tôi đã trông giữ áo dài cho bọn ném đá, tôi đã từng muốn xoá bỏ chân lý khắp tất cả các vùng đất có người sinh sống, ấy vậy mà chính Chúa đã giao phó cho tôi nhiệm vụ phải truyền bá chân lý khắp trái đất. Tôi đã truyền bá ở xứ Juđei, Hi Lạp, ở các đảo và cả trong thành phố vô thần này, lần đầu tiên, khi tôi còn là một tù nhân tại đây. Giờ đây, nếu thánh Piotr, người cao hơn, bảo tôi, tôi xin bước vào ngôi nhà ấy để khiến cái đầu đầy tự hào cúi xuống chân Đức Chúa Crixtux, để gieo giống vào mảnh ruộng sỏi đá mà Chúa đã khiến cho phì nhiêu, để được mùa vàng đầy ắp.
                            Ông đứng dậy. Và lúc này, đối với ông Kryxpux, con người bé nhỏ gù lưng này chợt hiện nguyên hình thực chất, đó là một người khổng lồ sẽ làm thế giới rung chuyển, sẽ thu phục cả con người lẫn trái đất.
                            Chú thích:
                            (1) Người làm việc với hai chân bị xiềng (chú thích của tác giả)
                            (2) Nguyên văn: ông Kryxpux nghiền nàng thành bột


                            ST
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #29
                              T1 - Chương 28

                              Petronius gửi Vinixius:
                              “Carissime, xin anh hãy thương tình, trong thư xin đừng bắt chước người Laxedemon, cũng chớ lặp lại theo Julius Cezar. Giá như anh có thể viết giống như ông ấy: veni, vidi, vici(1) thì cậu còn khả dĩ có thể hiểu được. Nhưng bức thư của anh lại hoàn toàn có nghĩa là: veni, vidi, fugi(2): song le cái kết cục nọ ngược hẳn với bản tính của anh, rồi anh lại bị thương, và cuối cùng là đang có những chuyện dị thường xảy đến với anh, nên bức thư của anh đòi hỏi phải có những lời giải thích ngoài rìa. Cậu không tin vào mắt mình khi đọc rằng anh chàng xứ Ligi nọ bóp chết tươi Kroton dễ dàng đến thế, cứ như con chó xứ Kaleđoni cắn chết tươi con sói trong những khe núi xứ Hibernia vậy. Người ấy cân nặng bao nhiêu thì đáng giá bấy nhiêu vàng đấy, nếu anh ta muốn thì sẽ trở thành người được Hoàng đế sủng ái ngay thôi. Khi trở về thành đô cậu phải làm quen với anh ta và cho đúc tượng anh chàng mới được. Gã Râu Đỏ hẳn phải uất người lên vì tò mò nếu cậu bảo cho y biết pho tượng đó đúc theo người thật. Những thân hình thực sự lực sĩ ngày càng hiếm hơn, cả ở Italia lẫn ở Hi Lạp, ở phương Đông chẳng cần nói tới làm gì, còn người German thì mặc dù to lớn đấy nhưng các bắp thịt lại lắm mỡ, nhiều vóc dạng hơn sức lực… Anh hãy hỏi cô nàng Ligia xem, có phải anh chàng đó chỉ là một ngoại lệ, hay ở xứ sở của anh ta còn nhiều người giống thế nữa. Bởi vì cũng sẽ đến lúc tới lượt anh hoặc cậu phải tổ chức hội thi thế vận, nên tốt hơn cả, ta nên biết trước ở đâu có thể tìm được những thân hình tuyệt mỹ.
                              Tuy thế, cậu cũng xin cảm tạ các vị thần phương Đông và phương Tây, rằng anh đã thoát ra khỏi đôi cánh tay như thế mà vẫn còn nguyên mạng sống. Anh thoát được chắc chỉ vì anh là một trang quý tộc, lại là con đẻ của một vị chấp chính quan tối cao; tuy nhiên tất thảy những gì anh gặp phải đều khiến cho cậu vô cùng kinh ngạc: cả cái nghĩa địa, nơi anh đã đến giữa các tín đồ Thiên chúa lẫn chính bản thân bọn họ, cả cách đối xử của họ với anh lẫn cuộc trốn chạy của cô nàng Ligia, và rốt cuộc, cả nỗi buồn và sự bất an phảng phất toát ra từ bức thư ngắn ngủi của anh nữa. Hãy giải thích cho cậu rõ, bởi vì có nhiều điều cậu không hiểu, còn nếu anh muốn biết sự thật thì cậu xin nói toạc ra rằng cậu không thể hiểu nổi cả đám tín đồ Thiên chúa, cả anh lẫn cô nàng Ligia. Và xin anh cũng chớ lấy làm ngạc nhiên, tại sao cậu - người vốn ít quan tâm đến mọi chuyện trên đời ngoài bản thân mình - lại hỏi anh tỉ mỉ đến thế. Chính cậu đã góp phần vào tất cả những chuyện vừa xảy ra, nên vô hình chung, đó trở thành việc của cậu. Anh hãy viết trả lời nhanh chóng nhé, bởi vì cậu cũng không biết chính xác khi nào chúng ta mới được gặp nhau. Những ý định trong đầu óc của gã Râu Đỏ thay đổi nhanh như những trận gió mùa xuân vậy. Hiện giờ, đang ở tại Beneventơ, y muốn đi thẳng sang Hi Lạp và không quay về Roma nữa. Song Tygelinux lại khuyên y nên quay trở về, dù chỉ một thời gian ngắn, bởi lẽ dân chúng quá nhớ nhung con người Hoàng đế (hãy đọc: quá nhớ những trò vui và bánh mì!) rất có thể sẽ nổi loạn chăng. Vậy nên cậu cũng chưa biết sẽ như thế nào. Nếu Akhai nặng đồng cân hơn thì chắc người ta sẽ lại muốn đi Ai Cập. Cậu rất muốn khuyên anh hãy tới đây, vì cậu cho rằng, trong trạng thái tâm hồn hiện nay của anh, việc du ngoạn và những trò tiêu khiển sẽ là một liều thuốc tốt, song le có thể anh sẽ không đến kịp. Tuy vậy, xin anh hãy cân nhắc, xem liệu anh có muốn nghỉ ngơi tại mảnh đất của anh ở Xyxilia hơn ở lại Roma hay chăng. Hãy viết cho cậu thật nhiều về anh, - và xin tạm biệt. Lần này cậu không chúc anh điều gì khác ngoài sức khoẻ, vì thề có Ponlukx, cậu cũng chẳng biết chúc anh điều gì khác cả”.
                              Nhận được bức thư này, thoạt tiên Vinixius không hề muốn trả lời. Chàng cảm thấy không đáng phải trả lời, việc đó chẳng có ích gì cho ai, chẳng làm sáng tỏ thêm điều gì và cũng chẳng thể giải quyết việc chi. Chàng không thấy hứng thú, chàng bị cái cảm giác về sự vô vị của cuộc đời chế ngự. Bên cạnh đó, chàng cảm thấy dù sao đi nữa, ông Petronius cũng không thể hiểu được chàng, đã xẩy ra một điều gì đó khiến cho họ cách xa nhau vời vợi. Ruột gan chàng cũng đang rối bời. Từ khu Zatybre quay về cái biệt thự tuyệt diệu của mình trên đồi Karyny, chàng hãy còn rất yếu, bị kiệt sức và trong những ngày đầu, chàng dường như hài lòng với việc nghỉ ngơi, với những tiện nghi và sự sung túc vây bọc quanh chàng. Song sự hài lòng ấy kéo dài không lâu. Ngay sau đó, chàng cảm thấy mình sống vô vị, tất thẩy những gì cho tới nay vẫn là lạc thú đối với chàng đã trở nên hoặc hoàn toàn không tồn tại hoặc đã co rút lại đến khó lòng nhận ra nổi. Chàng có cảm giác như những sợi dây lòng cho đến nay vẫn nối chàng với cuộc đời đã bị đứt tung, mà chưa có dây nào mới thay thế. Chỉ cần nghĩ đến việc mình có thể đi Beneventơ, rồi sau đó tới Akhai và chìm ngập vào cuộc sống khoái lạc với những trò vui điên loạn, chàng đã cảm thấy buồn nôn rồi. “Để làm gì kia chứ? Cái đó mang lại gì cho ta?” Đó là những câu hỏi đầu tiên nẩy ra trong óc chàng. Cũng lần đầu tiên trong đời, chàng chợt nghĩ, rằng nếu chàng có đi chăng nữa, thì những câu chuyện của ông Petronius, tính hài hước, sự nhanh trí của ông, sự diễn đạt một cách trang nhã những ý nghĩ của ông, và việc lựa chọn những ngôn từ xác đáng nhất cho những tư tưởng của ông - cũng khiến cho chàng chán ngán.
                              Nhưng mặt khác, nỗi cô đơn cũng đã khiến cho chàng buồn chán. Tất thẩy những người quen của chàng đang mải vui chơi cùng Hoàng đế ở Beneventơ, khiến chàng phải ngồi nhà một thân một mình, với cái đầu chật căng suy tư và trái tim tràn ngập tình cảm, những tình cảm mà chàng không sao hiểu thấu. Cũng có nhiều khi chàng cho rằng, nếu được trò chuyện cùng ai đó về tất cả những gì đang diễn ra trong lòng hẳn chàng sẽ có thể phần nào nắm bắt được chúng, sắp xếp lại và có thể hiểu rõ chúng hơn. Với niềm hi vọng ấy, sau vài ngày do dự, chàng quyết định dẫu sao cũng nên trả lời ông Petronius, và mặc dù vẫn không biết chắc mình có gửi bức thư trả lời cho ông hay không, chàng vẫn viết những dòng sau đây:
                              “Cậu muốn cháu viết thật nhiều, vậy cháu xin đồng ý, không rõ liệu cháu có viết được sáng tỏ hay chăng, bởi vì chính bản thân cháu cũng không thể lý giải nổi nhiều điều mắc mứu. Cháu đã bảo cho cậu biết việc cháu sống với những người Thiên chúa giáo, về cách họ đối xử với kẻ thù (họ có quyền liệt cả cháu lẫn lão Khilon vào loại đó), cũng như về tấm lòng nhân hậu mà cháu đã được hưởng khi được họ chăm nom săn sóc, và về việc Ligia lại biến mất. Không đâu, thưa cậu thân yêu, cháu được sống sót không phải vì cháu là con của một vị chấp chính quan. Đối với họ không hề tồn tại những sự phân biệt đối xử như thế. Họ còn tha thứ được cho cả lão Khilon, mặc dù chính cháu đã khuyên họ nên đào hố chôn lão ngoài vườn. Đó là những con người mà thế giới chưa từng được thấy, là một giáo thuyết mà cho tới nay thế giới chưa từng được nghe đến. Cháu không thể nói gì khác hơn với cậu, nhưng bất cứ kẻ nào muốn đo họ bằng cái thước đo của chúng ta đều sai cả. Cháu xin nói với cậu rằng giá như cháu có bị gẫy tay nằm ngay tại nhà mình, được gia nhân hoặc thậm chí người thân chăm sóc, thì hẳn cháu có nhiều tiện nghi đầy đủ hơn, nhưng sẽ không được nhận lấy một nửa sự âu yếm mà cháu đã nhận được ở họ. Cậu nên biết rằng Ligia cũng giống như họ. Giá như nàng có là em gái hay vợ cháu, chắc nàng cũng không thể chăm sóc cháu ân cần hơn được. Hơn một lần, niềm vui sướng đã tràn ngập trái tim cháu, bởi vì cháu cứ ngỡ rằng, chỉ có tình yêu mới cho người ta có được sự ân cần nhường ấy. Hơn một lần, cháu ngỡ đọc thấy ái tình trên nét mặt và trong ánh mắt của nàng, và những khi ấy, không biết cậu có tin nổi hay chăng, giữa những con người cục mịch nọ, trong cái căn phòng nghèo nàn kia, căn phòng vừa là nhà bếp vừa là phòng ăn của họ - cháu đã cảm thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Không, cháu không vô tình với nàng đâu thưa cậu, và cho tới hôm nay cháu cũng vẫn không thể nghĩ khác được. Ấy thế mà chính nàng Ligia ấy lại giấu cháu mà rời bỏ nhà bà Miriam. Giờ đây, suốt ngày dài đằng đẵng, cháu ngồi nhà, tựa đầu vào hai cánh tay, nghĩ mông lung xem vì sao nàng lại hành động như vậy. Có phải cháu đã viết cho cậu hay rằng chính cháu đã tự nguyện hứa sẽ trả nàng về với gia đình ông bà Aulux? Nàng nói với cháu rằng điều đó không thể thực hiện được, vì gia đình nhà ông Aulux đã đi Xyxilia, và cũng vì rằng tin tức sẽ truyền từ nhà này sang nhà khác đến tận cung điện Palatyn qua miệng bọn nô lệ. Hoàng đế rất có thể sẽ lại cướp nàng ra khỏi tay ông bà Aulux. Đúng thế! Tuy nhiên nàng cũng hiểu rằng cháu sẽ không theo dõi nàng nữa, rằng cháu đã vứt bỏ con đường dùng sức mạnh, và vì không thể thôi yêu nàng, không thể sống thiếu nàng, cháu sẽ rước nàng về nhà cháu qua cửa chính kết đầy hoa lá, mời nàng ngồi vào tấm da danh dự bên lò sưởi… Ấy thế mà nàng lại bỏ đi! Vì sao cơ chứ? Nào còn có gì đe doạ nàng nữa đâu? Nếu nàng không yêu cháu, nàng có thể từ bỏ cháu kia mà! Một ngày trước đó, cháu được làm quen với một con người kỳ lạ, một người tên là Paven xứ Tarxu, ông ta trò chuyện với cháu về Đấng Crixtux và học thuyết của Người. Ông ta nói hùng hồn đến nỗi cháu có cảm giác như mỗi lời ông ta nói vô hình chung đã phá nát tất thẩy nền móng cái thế giới của chúng ta. Cũng chính con người ấy đã tới thăm cháu khi nàng bỏ đi và bảo cháu rằng: “Khi nào Đức Chúa mở mắt cho anh thấy ánh sáng và tháo bỏ lớp màng che mắt anh như Người đã tháo cho tôi, thì anh sẽ cảm thấy rằng cô gái đã hành động đúng, và khi ấy anh sẽ tìm được cô ta”. Cháu đang vò đầu bứt tai suy nghĩ những lời này, như thể cháu được nghe từ miệng Pytia xứ Đenphơ vậy. Đôi khi cháu ngỡ mình đã hiểu ra được một điều gì đấy. Yêu thương mọi người, bọn họ là kẻ thù của cuộc sống chúng ta, kẻ thù các vị thần của chúng ta và… những tội ác của chúng ta, vậy nên nàng đã trốn tránh cháu như trốn tránh một con người thuộc về thế giới này, kẻ mà nhẽ ra nàng phải cùng chia xẻ cái cuộc sống được những người Thiên chúa giáo xem là phạm tội. Hẳn cậu sẽ nói rằng nếu nàng có thể rời bỏ cháu thì nàng không cần phải trốn tránh làm chi. Nhưng nếu nàng cũng lại yêu cháu thì sao? Khi ấy, nàng muốn trốn tránh tình yêu! Chỉ nghĩ tới điều đó thôi, cháu đã muốn phái ngay bọn nô lệ đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành Roma, lệnh cho chúng gào to lên với tất cả mọi nhà: “Hỡi nàng Ligia, hãy quay về đi thôi!”. Song le, cháu không hiểu rõ vì sao nàng lại hành động như thế. Thậm chí, cháu sẽ không hề cấm đoán nàng tin vào đấng Crixtux của nàng, và chính tự tay cháu sẽ lập bàn thờ Người ngay trong gian chính sảnh kia mà. Thêm một vị thần nữa có hại gì cho cháu đâu cơ chứ, tại sao cháu lại không thể tin ông ta một khi cháu vốn không mấy tin các vị thần cũ? Cháu biết chắc rằng những người Thiên chúa giáo không bao giờ nói dối, ấy thế mà chính họ lại nói rằng Chúa của họ đã từng chết đi rồi lại sống trở dậy. Đã là con người thì đâu có thể làm nổi chuyện đó. Ông Paven xứ Tarxu là công dân La Mã nhưng gốc là người Do Thái, hiểu biết các sách cổ Hebrai, nói với cháu rằng việc Đấng Crixtux giáng sinh đã được các bậc tiên tri loan báo từ hàng nghìn năm trước. Tất thảy những chuyện đó đều dị thường cả, song le, phải chăng sự dị thường không ở quanh chúng ta, khắp mọi phía? Đấy, người ta vẫn chưa thôi bàn tán về Apolonius xứ Tania kia thôi. Điều ông Paven khẳng định rằng không hề có một đàn một lũ các vị thần, chỉ có một vị duy nhất mà thôi - đối với cháu có vẻ cũng hợp lẽ thôi. Hình như cả đến ngài Xeneka cũng có ý kiến như vậy và trước ngài còn có nhiều người khác nữa cũng thế. Chúa Crixtux đã sống, đã để cho người ta đóng đinh lên thập tự nhằm chuộc tội cho thế gian và rồi lại phục sinh. Tất thẩy những điều ấy hoàn toàn chắc chắn, cháu không hề thấy có lý do gì khiến cháu cứ khăng khăng giữ ý kiến ngược lại hoặc không lập bàn thờ Chúa trong khi - nói thí dụ - cháu sẵn sàng lập bàn thờ, Xerapis. Thậm chí, cháu hoàn toàn có thể từ bỏ các vị thần cũ không mấy khó khăn, bởi vì nói cho đúng ra thì bất kỳ kẻ nào có đầu óc minh mẫn đôi chút cũng chẳng hề tin các vị thần ấy cơ mà. Song hình như đối với người Thiên chúa giáo, tất thẩy những chuyện ấy cũng hãy còn chưa đủ. Không những phải thờ phụng Chúa Crixtux mà cần phải sống theo giáo thuyết của Chúa nữa, và mãi đến chỗ này thì ta dường như bị đặt đứng trên bờ biển, cái biển mà người ta đòi hỏi phải đi bộ lội qua. Nếu cháu có hứa với họ sẽ làm điều ấy đi nữa thì chính họ cũng sẽ cảm thấy đó chỉ là những lời nói trống rỗng thoát ra từ cổ họng cháu mà thôi. Ông Paven đã nói thẳng với cháu như vậy. Cậu đã biết cháu yêu Ligia đến mức nào, cậu hẳn biết rằng không có điều gì cháu không làm vì nàng. Nhưng cháu đâu thể vì nàng đòi hỏi mà nhấc bổng ngọn núi Xorakte hay núi Vezuvius lên vai, đâu thể đặt cả cái hồ Trazymeni vào lòng bàn tay, đâu thể làm đổi màu mắt cháu từ đen sang xanh như mắt những người Ligi được. Nếu nàng yêu cầu, chắc chắn cháu sẽ rất muốn làm đấy, nhưng những điều đó không nằm trong phạm vi khả năng của cháu. Cháu không phải là triết gia, nhưng cháu cũng đâu quá ngốc nghếch như nhiều khi cậu tưởng. Cháu xin thưa cùng cậu thế này: cháu không rõ những người Thiên chúa giáo xoay sở ra sao để sống, nhưng cháu biết rằng nơi nào giáo thuyết của họ bắt đầu, nơi ấy sẽ chấm dứt sự chuyên quyền của La Mã, sẽ kết thúc La Mã, chấm hết đời sống, không còn có sự khác biệt giữa kẻ bị chiến thắng và người chiến thắng, kẻ giàu và người nghèo, ông chủ và nô lệ, chấm hết cường quyền, chấm hết Hoàng đế, luật pháp và toàn bộ trật tự hiện hữu của thế giới này, thay vào đó sẽ là Đức Chúa Crixtux, sẽ là một sự từ bi chưa từng có, sẽ là một tấm lòng nhân hậu trái ngược với những bản năng của con người và của dân La Mã chúng ta. Thực ra cháu quan tâm đến Ligia nhiều hơn toàn cõi La Mã cùng sự ngự trị của nó, cứ mặc cho nó sụp đổ đi, chỉ cần cháu có được nàng trong vòng tay là đủ. Nhưng đó lại là chuyện khác mất rồi. Đối với họ, những người Thiên chúa giáo, đồng ý bằng lời thôi chưa đủ, còn cần phải cảm nhận được rằng chính thế mới là tốt và trong lòng không được có một thứ gì khác nữa. Còn cháu - xin các vị thần chứng giám cho - cháu không thể! Cậu có hiểu điều đó nghĩa là thế nào không? Trong bản thân con người cháu có một cái gì đó bỉ báng khinh khi cái học thuyết này, dù miệng cháu có ca ngợi nó, dù cháu cố gắng tuân theo những quy chế của nó, song tâm hồn và trí óc cháu vẫn nói với cháu rằng cháu chỉ làm điều ấy vì tình yêu đối với Ligia mà thôi, còn nếu như không có nàng trên đời, thì không có điều gì trái ngược với con người cháu hơn là học thuyết đó. Và kỳ lạ biết bao, cái ông Paven xứ Tarxu cũng hiểu được chuyện ấy. Hiểu được chuyện đó còn có một người thần thuật tuổi tác, người cao niên nhất trong các tín đồ Thiên chúa giáo, đó là ông Piotr, nguyên là học trò của Đấng Crixtux, mặc dầu ông rất mộc mạc và xuất thân hèn kém. Thế mà cậu có biết hai ông đã làm gì không? Họ cầu nguyện cho cháu, họ xin cho cháu được hưởng thứ mà họ gọi là ân phước, ấy vậy mà đến với cháu chỉ có nỗi bất an và lòng mong nhớ Ligia mỗi lúc một lớn lên mà thôi.
                              Cháu đã kể cho cậu rằng nàng bí mật rời đi, nhưng khi ra đi, nàng để lại cho cháu một cây thánh giá tự tay nàng làm lấy bằng những cành hoàng dương. Tỉnh dậy, cháu thấy nó ở cạnh giường. Hiện giờ, cháu để vật ấy trên bàn thờ gia thần và chính cháu cũng không rõ vì sao cứ đến gần nó là cháu lại cảm thấy kinh sợ, dường như trong đó có chứa chất một thứ gì thần thánh vậy. Cháu yêu vật ấy, bởi vì chính tay nàng đã làm ra nó, nhưng cháu căm ghét nó, bởi nó chia cắt cháu với nàng. Nhiều lúc cháu cảm thấy như có bùa phép gì đó trong tất thẩy những chuyện này, rằng vị thần thuật Piotr nọ - mặc dù như người ta đồn chỉ là một ngư ông chất phác - còn vĩ đại hơn cả Apolonius, vĩ đại hơn hết thảy các bậc tiền nhân trước ông ta, chính ông ta đã gắn bó tất cả các tín đồ Thiên chúa lại với nhau, cả Ligia, cả bà Pomponia lẫn chính bản thân cháu nữa.
                              Cậu có biết rằng bức thư trước của cháu phảng phất nỗi buồn và sự bất an. Buồn là phải, bởi vì một lần nữa cháu lại để mất nàng, còn bất an, bởi vì trong lòng cháu có điều gì đó đang đổi thay. Xin thưa thật với cậu, không có gì trái ngược với bản tính của cháu hơn cái học thuyết kia, nhưng kể từ khi quen biết nàng, cháu không còn hiểu nổi bản thân cháu nữa. Bùa phép hay ái tình đây?… Tiên nữ Kirke biến hoá thân thể con người bằng cách chạm cái đũa vào họ, còn cháu thì bị thay đổi cả linh hồn kia! Có lẽ chỉ mỗi mình nàng Ligia có thể làm được điều ấy, nói đúng hơn, nàng Ligia thông qua cái giáo thuyết kỳ lạ mà nàng được giác ngộ. Khi cháu rời họ quay về nhà, không một ai ngờ cháu trở về cả. Mọi người tưởng cháu đang còn ở Beneventơ và còn lâu lắm mới trở về, cho nên cháu được thấy cả một cảnh hỗn loạn ở trong nhà, những tên nô lệ đang say khướt, và một bữa tiệc mà bọn chúng bày ra khao nhau ngay trong phòng tiệc của cháu. Đối với bọn chúng, tử thần còn ít bất ngờ hơn và ít làm bọn chúng kinh hoàng hơn là sự xuất hiện của cháu. Cậu đã biết cháu duy trì nhà cháu bằng bàn tay cứng rắn như thế nào rồi đấy. Tất cả chúng nó đều quỳ sụp ngay xuống, một vài đứa ngất đi vì quá sợ hãi. Còn cháu, cậu có biết cháu đã xử sự thế nào không? Thoạt tiên cháu muốn dùng đến đòn roi và sắt nung đỏ, nhưng ngay sau đó, cháu bỗng cảm thấy xấu hổ và - cậu có tin hay không - cháu thấy thương thương những kẻ khốn khổ ấy, trong bọn có những lão nô già nua tuổi tác mà hồi mồ ma ông nội M. Vinixius của cháu - từ thời hoàng đế Auguxt đã được mang từ xứ sông Ranh về đây. Cháu đóng cửa ngồi một mình trong thư viện, và ở đó, những ý nghĩ còn lạ lùng hơn nữa chợt hiện đến trong đầu óc cháu. Cháu nghĩ rằng sau những gì cháu đã được nghe được thấy ở nhà những người Thiên chúa giáo, cháu không nỡ lòng nào đối xử với nô lệ như từ trước đến nay, vì dù sao bọn chúng cũng vẫn là những con người. Suốt mấy ngày liền bọn chúng sợ chết khiếp vì cho rằng cháu còn chưa ra tay hẳn là để nghĩ ra một hình phạt thảm khốc hơn. Song cháu đã không hề trừng phạt chúng, bởi vì cháu không thể nào trừng phạt chúng. Ngày thứ ba, cháu cho gọi bọn chúng đến và bảo: “Ta tha tội cho các người, còn các người hãy cố gắng phục vụ thật mẫn cán để chuộc lại lỗi lầm!”. Nghe thấy thế, bọn họ liền quỳ sụp xuống, nước mắt ràn rụa kêu lên, hai tay vươn ra, gọi cháu là ông chủ, là cha đẻ, còn cháu - thật hổ thẹn nói điều này với cậu - cháu cũng xúc động. Cháu ngỡ như chính trong giây phút ấy, cháu trông thấy khuôn mặt ngọt ngào của Ligia và đôi mắt nhoà lệ của nàng đang cảm ơn cháu vì hành vi ấy. I pro pudor…! Cháu cảm thấy mắt cháu cũng nhoà lệ… Cậu ơi, xin thú thật cùng cậu, cháu không thể sống thiếu nàng, cháu khổ lắm khi phải cô đơn một thân một mình, cháu là một kẻ bất hạnh, nỗi đau buồn của cháu lớn hơn cậu tưởng… Riêng về đám nô lệ của cháu thì còn chuyện này nữa. Sự tha thứ mà chúng nhận được không những không làm chúng thêm táo tợn, không những làm kỷ luật thêm lỏng lẻo mà ngược lại, chưa bao giờ nỗi sợ hãi lại có thể khiến chúng phục dịch tận tuỵ như lòng biết ơn đã khiến chúng phục dịch. Không những chỉ phục dịch, mà hình như chúng đua nhau đoán trước từng ý của cháu. Cháu kể cho cậu điều ấy, bởi vì một ngày trước hôm rời những người Thiên chúa giáo, cháu đã nói với ông Paven rằng, do có học thuyết của ông, thế giới này sẽ vỡ tung ra như một chiếc thùng mất đai, còn ông ta thì bảo cháu rằng: “Tình yêu là vành đai mạnh hơn sự khiếp sợ”. Giờ đây cháu thấy rằng trong một số trường hợp nhất định, câu nói ấy có thể đúng. Cháu cũng đã kiểm tra điều đó trong quan hệ với các vị khách, những kẻ hay tin cháu về vội vàng chạy tới để thăm hỏi. Cậu biết đấy, cháu không bao giờ quá hà tiện đối với bọn họ, nhưng về nguyên tắc, cha cháu thường đối xử với họ một cách ngạo mạn và người đã dạy cháu quen với phong cách cư xử như thế. Vậy mà giờ đây, khi nhìn thấy những tấm áo khoác sờn rách và những bộ mặt ốm đói, cháu lại cảm thấy có cái gì đó như là thương hại. Cháu ra lệnh mang cho bọn họ thức ăn, cháu trò chuyện với họ, gọi tên một vài người, hỏi thăm vợ con một vài người khác, và thế là cháu trông thấy trong mắt họ long lanh những giọt lệ, hơn nữa cháu lại ngỡ như thấy Ligia đang vui sướng và khen ngợi. Không biết đầu óc cháu đã bắt đầu quẫn hay chưa, nhưng lúc nào cháu cũng cảm thấy nàng đang nhìn cháu từ một chốn xa xôi, cháu e làm một điều gì đó có thể khiến nàng buồn phiền, một điều gì có thể xúc phạm nàng. Đúng thế, thưa cậu! Tâm hồn cháu đã bị thay đổi, đôi khi cháu cảm thấy dễ chịu vì điều đó, đôi khi cháu lại bị chính điều đó giày vò, cháu sợ mình sẽ bị tước đi cả lòng can đảm và nghị lực ngày trước, sợ cháu không còn năng lực để phân xử, khuyên giải hay dự yến tiệc, thậm chí không còn năng lực để chiến đấu nữa. Hẳn đây là bùa mê thuốc lú mất rồi! Cháu đã bị biến đổi quá mức. Xin thổ lộ cùng cậu điều cháu nghĩ trong lúc đang còn nằm liệt giường: nếu như Ligia cũng giống như Ligiđia, như Poppea, Kryxpinila hay các mụ ly dị chồng của chúng ta, nếu như nàng cũng dung tục như thế, cũng buông tuồng như thế, hẳn cháu cũng không yêu nàng đắm say như cháu đang yêu. Nhưng một khi cháu yêu nàng vì chính cái điều đang làm chúng cháu bị chia ly, thì chắc cậu cũng đoán được sự hỗn loạn nảy sinh trong lòng cháu, hẳn cậu cũng đoán được cháu đang sống trong cảnh tối tăm biết chừng nào: cháu không nhìn thấy trước mắt mình một con đường nào chắc chắn, cháu không biết nên làm gì nữa cả. Nếu có thể so sánh cuộc đời với nguồn suối, thì trong suối nguồn của cháu, thay vì nước lại đang tuôn trào những nỗi lo âu phiền muộn. Cháu đang sống bằng niềm hy vọng có thể được gặp nàng, nhiều khi cháu cảm thấy chuyện ấy nhất định sẽ đến… Nhưng cháu không biết điều gì sẽ xảy đến với cháu sau một hay hai năm nữa, cháu cũng chẳng muốn đoán trước làm gì. Cháu không rời Roma đâu! Cháu không chịu đựng nổi việc phải cặp kè với đám sủng thần, hơn nữa ý nghĩ duy nhất an ủi cháu trong nỗi buồn phiền lo lắng hiện nay là cháu đang được ở gần Ligia, rằng qua thầy thuốc Glaukox - người đã hứa sẽ tới thăm cháu, hoặc qua ông Paven xứ Tarxu, thoảng hoặc cháu có thể biết được đôi chút về nàng. Không! Cháu sẽ không rời khỏi Roma, dù người ta có cho cháu được cai trị cả xứ Ai Cập đi chăng nữa. Cậu cũng nên biết rằng cháu đã ra lệnh cho thợ đá tạc bia mộ cho ông lão Gulô, người đã bị cháu giết chết trong cơn cuồng nộ. Thật quá muộn màng khi cháu hiểu ra rằng chính ông lão đã từng bồng bế cháu trên tay, và là người đầu tiên dạy cháu cách đặt mũi tên vào dây cung. Cháu cũng không rõ tại sao giờ này những hồi ức về ông lão lại thức dậy trong lòng cháu, những hồi ức giống như nỗi tiếc nuối và ân hận… Nếu những điều cháu viết có làm cậu ngạc nhiên thì cháu xin nói rằng những điều này cũng khiến cháu ngạc nhiên không kém, nhưng cháu viết cho cậu hoàn toàn là sự thật. Tạm biệt cậu!”
                              Chú thích:
                              (1) Câu nói nổi tiếng của J. Xezar: “Ta đến, ta thấy, ta thắng”
                              (2) Ta đến, ta thấy, ta điên (La tinh)


                              ST
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #30
                                T1 - Chương 29

                                Vinixius không nhận được thư trả lời bức thư này do ông Petronius không viết, chắc hẳn ông nghĩ là, Hoàng đế sắp quay về Roma trong vài hôm nữa. Tin ấy đã loan khắp thành đô, gây ra một niềm vui sướng tràn trề trong những trái tim của đám dân đang ngóng trông thế vận hội và việc ban phát ngũ cốc cùng quả ô liu, những thứ đã được tích trữ rất nhiều tại Oxtia. Rốt cục, Heliux, một nô lệ giải phóng của Nerô, đã loan báo tại Viện Nguyên lão việc Hoàng đế trở về. Tuy vậy, cùng triều thần xuống thuyền tại mũi Mixenum, Nerô lại quay trở về rất chậm chạp, luôn ghé lại những thành phố ven bờ để nghỉ ngơi hoặc biểu diễn tại nhà hát. Tại Minturnale nơi Hoàng đế lại hát trước công chúng một lần nữa, Người đã dừng chân tới mười mấy ngày liền, thậm chí người lại cân nhắc xem có nên quay trở lại Neapon hay chăng để chờ mùa xuân tới, một mùa xuân quả thực đến sớm và ấm áp hơn lệ thường. Suốt trong thời gian ấy, Vinixius nằm lì ở nhà, chàng suy ngẫm về Ligia và tất thảy những chuyện vừa mới xảy ra, còn đang chế ngự tâm hồn chàng, mang đến cho tâm hồn những khái niệm và tình cảm hoàn toàn xa lạ. Thoảng hoặc chàng mới gặp thầy thuốc Glaukox, người mà mỗi cuộc viếng thăm đều khiến chàng nao nức sướng vui, bởi vì chàng có thể được cùng ông trò chuyện về Ligia. Thực ra ông Glaukox cũng không biết rõ nàng ẩn náu nơi đâu, nhưng ông cam đoan với chàng rằng các bô lão chăm lo cho nàng rất chu đáo. Một lần, xúc động trước nỗi buồn của Vinixius, ông nói cho chàng hay là Sứ đồ Piotr đã trách móc ông Kryxpux bởi vì ông này bài xích tình yêu trần thế của Ligia. Nghe vậy, chàng quý tộc trẻ tuổi xúc động vô cùng. Bản thân chàng đã hơn một lần nhận thấy Ligia không vô tình với mình, nhưng thường khi chàng vẫn nghi ngờ và phân vân, còn đây là lần đầu tiên chàng được nghe một lời khẳng định cho những niềm khát khao hi vọng của mình từ miệng người ngoài, lại là một tín đồ Thiên chúa giáo. Thoạt tiên, tràn đầy lòng biết ơn, chàng những muốn chạy ngay tới gặp ông Piotr; khi được biết hiện ông không có mặt trong thành mà đang đi thuyết giáo trong vùng, chàng bèn khẩn khoản nài ông Glaukox, xin ông đưa Đức Sứ đồ tới nhà chàng, chàng hứa sẽ phát chẩn hào phóng cho những họ đạo nghèo khổ nhất. Chàng ngỡ rằng chỉ cần Ligia yêu chàng, tức khắc mọi chướng ngại sẽ bị đẩy lùi, bởi vì bản thân chàng lúc nào cũng sẵn sàng thờ phụng đấng Crixtux. Tuy nhiên, ông Glaukox - người đang thuyết phục chàng chịu lễ rửa tội - cũng không dám cam đoan rằng sau khi chịu lễ chàng sẽ có được Ligia. Ông bảo rằng việc rửa tội là nhằm tẩy sạch tội lỗi cho bản thân chàng và xuất phát từ lòng kính yêu Đức Chúa Crixtux, chứ không phải nhằm những mục đích khác. “Cần phải có tâm hồn Thiên chúa giáo” - ông bảo chàng. Mặc dù mọi chướng ngại đều kích thích chàng, song Vinixius cũng bắt đầu hiểu rằng ông Glaukox - một tín đồ Thiên chúa - đang nói điều mà ông có nhiệm vụ phải nói. Chính chàng cũng chưa thật thấm thía rằng những biến đổi sâu sắc nhất trong bản chất của chàng là ở chỗ, trước đây chàng đo mọi người, mọi vật bằng tính ích kỷ của chàng, còn giờ đây, chàng dần quen với ý nghĩ là những đôi mắt khác có thể nhìn nhận khác, những trái tim khác có thể cảm nhận khác, và cái đúng không phải bao giờ cũng phù hợp với lợi ích cá nhân.
                                Chàng cũng thường muốn được gặp ông Paven xứ Tarxu, những lời ông nói khiến chàng vừa thích thú vừa lo lắng. Chàng thầm xếp đặt trong lòng những lý lẽ sẽ dùng để chống lại giáo thuyết của ông: trong thâm tâm chàng cưỡng lại ông, nhưng chàng vẫn muốn được gặp mặt và nghe ông nói. Song ông Paven đã đi Aryxia, trong khi những cuộc viếng thăm của ông Glaukox cũng ngày một thưa thớt hơn; Vinixius hoàn toàn cô đơn. Chàng lại bắt đầu lùng khắp các ngõ hẻm nối với khu Xubur và những phố nhỏ của khu Zatybre với hi vọng có thể được trông thấy Ligia, dù chỉ từ xa. Và khi cả niềm hi vọng này cũng tiêu tan nốt, lòng chàng tràn ngập chán nản và ngày càng nôn nóng. Rồi tới một lúc, cái bản chất xưa cũ của chàng lại lên tiếng một lần nữa, với sức mạnh của một đợt sóng vừa rút khỏi bờ lại ùa vào ồ ạt lúc thủy triều lên. Chàng cảm thấy chàng chỉ là một thằng ngốc đã quá bận tâm vô ích tới những thứ chỉ đẩy chàng tới chỗ sầu muộn, lẽ ra chàng cần phải lấy ở cuộc đời tất cả những gì có thể lấy được. Chàng quyết chí sẽ quên Ligia, hay chí ít cũng sẽ tìm kiếm những lạc thú và điều hữu dụng khác ngoài nàng. Tuy nhiên chàng vẫn cảm thấy rằng đây sẽ là thử thách cuối cùng; chàng bèn lao mình vào cái xoáy nước cuộc đời, với toàn bộ năng lực và sự đam mê mù quáng vốn có. Cuộc đời dường như cũng khuyến kích chàng lao vào chuyện ấy. Thành phố mùa đông chết lặng và thưa thớt người bắt đầu nhộn nhịp trở lại với niềm hi vọng Hoàng đế sắp trở về. Người ta sửa soạn lễ đón Người thật long trọng. Thêm nữa, mùa xuân đang đến: tuyết tan đi dưới hơi thở của những làn gió Phi châu thổi qua các đỉnh núi Anban. Những thảm cỏ trong các khu vườn lại phủ đầy hoa hồng thảo. Fora và cánh đồng thần Marxơ lại nhộn nhịp người ra sưởi nắng dưới vầng mặt trời đang mỗi ngày một ấm áp hơn lên. Trên đường Via Appia dẫn ra ngoại thành, tấp nập những cỗ xe trang hoàng vàng son lộng lẫy. Người ta đã đi chơi tới tận dãy núi Anban. Dưới danh nghĩa đi lễ các nữ thần Junon và Lanuvium hoặc Điana ở Aryxia, các thiếu phụ trẻ chuồn khỏi nhà, trốn ra ngoại thành tìm kiếm những ấn tượng mới, tìm kiếm bạn bè, những cuộc gặp gỡ và lạc thú. Tại đó, một ngày kia, giữa những xe tứ mã tuyệt đẹp, Vinixius trông thấy cỗ xe xinh xắn của nàng Khowryzotemix của ông Petronius, vây quanh là cả một đám đông các chàng trai và các vị nguyên lão tuổi tác bị công việc giữ chân lại trong thành phố. Nàng Khowryzotemix đang tự tay cầm cương bốn chú ngựa nhỏ xinh xẻo giống Korxơ và đang ban phát cho bốn chung quanh những nụ cười cùng cái đập yêu của ngọn roi ngựa bằng vàng: chợt trông thấy Vinixius, nàng bèn ghìm ngựa lại, mời chàng bước sang cỗ xe của mình, rồi đưa chàng về nhà dự tiệc, bữa tiệc kéo dài suốt đêm. Vinixius uống say như trong bữa dạ tiệc hôm nọ, đến nỗi chàng không nhớ người ta đưa chàng về nhà lúc nào, chàng chỉ nhớ lại rằng Khowryzotemix có hỏi chàng về Ligia, chàng phật ý, và đang say sẵn, chàng đổ cả cốc rượu vang falecnơ lên đầu nàng. Nghĩ lại chuyện đó sau lúc tỉnh rượu chàng vẫn còn thấy bực tức. Song ngày hôm sau, Khowryzotemix - hẳn đã quên hành động xúc phạm của chàng - lại đến nhà thăm chàng, đưa chàng đi chơi ở đường Appia, rồi dùng bữa tối tại nhà chàng. Nàng thổ lộ rằng không những chỉ riêng ông Petronius mà cả tay nhạc công đàn luýt nọ cũng đã khiến cho nàng chán ngán từ lâu, và trái tim nàng hiện đang trống chỗ. Suốt một tuần liền họ cặp kè với nhau, nhưng mối quan hệ này không hứa hẹn một điều gì bền chặt. Mặc dù kể từ cái chuyện cốc rượu vang falecnơ nọ, tên của Ligia không còn được nhắc đến một lần nào nữa, song Vinixius vẫn không sao rời bỏ những ý nghĩ về nàng. Lúc nào chàng cũng có cảm giác đôi mắt nàng đang nhìn chàng, cảm giác ấy khiến chàng sợ hãi. Chàng bực bội với bản thân, song vẫn không sao rũ bỏ nổi ý nghĩ chàng đang làm cho Ligia buồn phiền, không rũ nối sự hối hận bắt nguồn từ ý nghĩ ấy. Ngay sau cảnh ghen tuông đầu tiên của Khowryzotemix nhân chuyện hai thiếu nữ Xiry mà chàng vừa mua, chàng liền tống khứ cô ả một cách thô bạo. Thực tình chàng vẫn không ngừng ngập sâu vào thú vui trác táng, chàng làm chuyện ấy dường như để trả hận đối với Ligia, nhưng rốt cuộc chàng nhận ra rằng ý nghĩ về nàng không hề rời chàng một giây, rằng chính nàng là nguyên nhân của mọi hành động, cả xấu lẫn tốt của chàng, rằng quả thật trên cuộc đời này, ngoài nàng ra chẳng hề có điều gì khiến chàng lưu tâm nữa hết. Và khi ấy chàng bỗng thấy chán chường và mệt mỏi. Lạc thú khiến chàng kinh tởm và chỉ lưu lại trong chàng những niềm hối tiếc. Chàng cảm thấy mình là một kẻ khốn nạn, cảm giác ấy khiến chàng vô cùng kinh ngạc, bởi nỗi trước đây chàng cho rằng mọi thứ hợp với chàng đều tốt đẹp cả. Chàng mất hẳn sự thư thái, lòng tự tin và rơi vào trạng thái hoàn toàn tê liệt, đến nỗi ngay cả tin Hoàng đế đã trở về cũng không đánh thức được chàng. Giờ đây, chàng chẳng quan tâm đến việc gì nữa, thậm chí có lẽ chàng cũng sẽ chẳng tới gặp ông Petronius, nếu như ông không gửi lời mời chàng đến gặp và cho mang sẵn cả kiệu của ông tới rước chàng.
                                Gặp ông, mặc dù được chào đón niềm nở, chàng chỉ trả lời những câu hỏi nhát gừng của ông; song những tình cảm và nghĩ suy bị dồn nén chợt bùng lên, tuôn trào từ môi chàng thành một suối lời cuồn cuộn. Một lần nữa, chàng thuật lại cho ông nghe tỉ mỉ chuyện chàng đi tìm kiếm Ligia, cuộc lưu trú giữa những người Thiên chúa giáo, tất thẩy những gì chàng được nhìn và nghe thấy, tất thẩy những gì đã tràn qua trái tim và đầu óc chàng, cuối cùng chàng than thở là chàng đang rơi vào một trạng thái hỗn loạn tâm thần, trong đó chàng mất hẳn sự tĩnh tâm, khả năng phân biệt và suy nghĩ mọi việc. Chàng chẳng ham muốn gì hết, ăn không thấy ngon, chàng không biết dựa vào cái gì và phải hành động ra sao. Chàng vừa sẵn sàng thờ phụng Đức Chúa Crixtux vừa sẵn sàng ngược đãi Chúa, chàng vừa nhận thức được sự cao cả của giáo thuyết của Chúa vừa cảm thấy một nỗi kinh tởm không sao khắc phục nổi đối với giáo thuyết ấy. Chàng hiểu rằng dầu có tìm ra Ligia đi nữa thì chàng cũng không thể hoàn toàn chiếm lĩnh được nàng, bởi chàng phải chia sẻ nàng với Chúa Crixtux. Rốt cuộc chàng sống mà như không sống; không hy vọng, không ngày mai, không lòng tin vào hạnh phúc, chung quanh chàng là cả một đêm tối, chàng mò mẫm tìm lối ra mà không sao tìm thấy.
                                Trong lúc chàng nói, ông Petronius nhìn nét mặt đã bị thay đổi của chàng, nhìn đôi bàn tay mà trong khi nói chàng cứ huơ huơ trước mặt một cách kỳ lạ, dường như chàng đang mò mẫm sờ soạng tìm lối đi trong đêm tối, và ông suy tư. Đột nhiên ông đứng dậy tiến lại gần Vinixius và dùng tay rẽ rẽ tóc trên vành tai chàng.
                                - Anh có biết rằng - ông hỏi - thái dương anh đã có vài sợi tóc bạc hay chăng?
                                - Có thể lắm, - Vinixius đáp, - cháu không ngạc nhiên gì nếu cả đầu cháu bạc trắng hết.
                                Im lặng lại bao trùm, Petronius vốn là người hiểu biết và đã nhiều lần suy ngẫm về tâm hồn con người và về cuộc sống. Song nói chung cuộc sống trong cái thế giới cả hai đang sống, bên ngoài có thể hạnh phúc hay bất hạnh, nhưng bên trong thường vẫn yên ổn. Sấm sét hay động đất có thể làm sụp đổ một thần miếu, rồi bất hạnh có thể làm xáo trộn cuộc đời, nhưng bản thân nó lại được tạo nên từ các đường thẳng và đường cong hài hoà, không một chút rối rắm. Nhưng lần này trong những lời nói của Vinixius có cái gì đó khác hẳn, và lần đầu tiên, ông Petronius gặp phải những cái gút tinh thần cho tới nay chưa một ai gỡ nổi. Vốn thông tuệ, ông cảm thấy sức nặng của chúng, nhưng mặc dù rất nhanh trí, ông vẫn không biết cách trả lời những câu hỏi đã được đặt ra, và sau hồi lâu nín lặng, ông nói:
                                - Đó có lẽ là bùa phép chăng?
                                - Cháu cũng đã từng nghĩ như thế, - Vinixius đáp. - Nhiều lần cháu cảm thấy như cả hai chúng cháu đã bị nhiễm bùa mê.
                                - Thế anh thử đến gặp các tu sĩ Xerapis xem sao, - ông Petronius nói, - Mặc dù, trong bọn chúng nói riêng cũng như trong bọn tu sĩ nói chung, có quá nhiều kẻ lừa đảo, song cũng có người đi sâu được vào những điều bí ẩn dị thường.
                                Song ông nói ra điều đó chẳng mấy tin tưởng, bằng một giọng nói ngập ngừng, bởi chính ông cũng cảm thấy lời khuyên ấy thốt từ miệng ông có vẻ thảm hại, thậm chí nực cười.
                                Vinixius lau trán rồi nói:
                                - Bùa phép ư? Cháu đã từng trông thấy những thầy phù thủy dùng sức mạnh âm binh để trục lợi và những người sử dụng nó để làm hại kẻ thù. Nhưng dân Thiên chúa giáo sống trong sự sùng tín, tha thứ cho kẻ thù, họ chủ trương chịu đựng, sống đức hạnh và nhân từ, vậy thì bùa phép có mang lại cho họ lợi lộc gì đâu, vì cớ gì họ lại phải dùng đến chúng cơ chứ?
                                Ông Petronius bắt đầu nổi cáu vì trí óc ông không thể tìm ra điều gì để đáp lại, nhưng vì không muốn thú nhận điều đó, ông vẫn đáp lại, chỉ cốt để có câu trả lời.
                                - Nhưng đó là một giáo phái mới…
                                Rồi lát sau ông bảo:
                                - Thề có những khu rừng thiêng Paphox, chuyện này làm hỏng tiệt cả cuộc đời! Anh ngạc nhiên về lòng từ thiện và phẩm hạnh của bọn người ấy, còn cậu nói với anh rằng đó là một bọn xấu, bởi vì chúng là kẻ thù của sự sống, giống như tật bệnh hay bản thân cái chết vậy. Xin đủ, thế thôi! Chúng ta chưa cần tới bọn Thiên chúa giáo cơ mà! Chỉ cần tính mà xem này: bệnh tật, Hoàng đế, Tygelinux, thơ phú của Hoàng đế, bọn thợ giầy đang cai trị cháu con của các vị Quyrit, lũ nô lệ mới giải phóng đang nghị bàn tại nguyên lão viện. Thề có thần Caxtor: Quá đủ rồi! Đó chỉ là một thứ đạo bẩn thỉu và hủy diệt! Anh hãy cố giũ bỏ những nỗi sầu thảm và tận hưởng cuộc sống một chút xem nào!
                                - Cháu đã thử rồi - Vinixius đáp.
                                Ông Petronius bật cười bảo:
                                - Ôi, đồ phản bội! Qua bọn nô lệ tin tức truyền đi nhanh lắm: anh đã nẫng mất cô nàng Khowryzotemix của cậu.
                                Vinixius khó chịu phẩy tay.
                                - Dù sao cậu cũng xin cảm ơn anh, - ông Petronius nói tiếp - Cậu sẽ gửi cho cô nàng một đôi hài đính ngọc trai, trong ngôn ngữ ái tình của cậu, điều đó có nghĩa là “Xéo đi!”. Cậu biết ơn anh những hai lần cơ đấy, một lần vì anh đã không chịu nhận Eunixe, lần nữa vì anh đã giải thoát cho cậu khỏi Khowryzotemix. Anh nghe cậu nói này: hãy nhìn con người đang ở trước mặt anh đây, hắn ta dậy thật sớm, tắm táp, tiệc tùng, cưỡi lên Khowryzotemix, làm thơ trào phúng, thậm chí đôi khi viết cả tản văn xen thơ nữa, nhưng hắn ta chán chường như Hoàng đế và thường thường không sao rũ bỏ nổi những ý nghĩ u ám. Anh biết tại sao vậy không? Vì rằng cậu cứ tìm kiếm ở đâu xa những thứ ở ngay gần bên cạnh… Đàn bà đẹp và đáng giá ngàn vàng nhưng đàn bà đẹp mà lại yêu ta thì hoàn toàn vô giá. Dẫu có mọi thứ của cải của Xerex anh cũng chẳng mua nổi đâu.
                                Bây giờ cậu tự nhủ: ta sẽ rót đầy cuộc đời bằng niềm vui sướng như rót vào đầy cốc loại rượu nho thượng hảo hạng, rồi ta cứ uống cho tới khi nào tay ta còn chưa bị liệt và môi ta chưa tái nhợt đi. Còn cái gì tiếp sau đó, ta không cần biết; đó chính là thứ triết học mới nhất của cậu đấy.
                                - Bao giờ cậu chẳng tuân theo nó! Chẳng có gì mới cả!
                                - Nhưng nó chứa đựng cái nội dung trước đây bị thiếu.
                                Ông liền gọi Eunixe, nàng bước vào, vận một bộ áo dài trắng muốt, tóc vàng rực, không còn đâu bóng dáng kẻ nô tỳ ngày trước, nàng hệt như một nữ thần của tình yêu và hạnh phúc.
                                Ông giang rộng vòng tay và gọi:
                                - Lại đây em!
                                Nàng liền chạy ùa tới bên ông, ngồi lên đầu gối và choàng tay quanh cổ ông, đầu nàng tựa vào ngực ông, Vinixius thấy rõ đôi má nàng dần ửng sắc hồng, mắt nàng như tan vào trong một làn sương mờ huyền ảo. Bên nhau, họ tạo thành một nhóm tượng tuyệt vời của tình yêu và hạnh phúc. Ông Petronius với tay đến cái bình cổ nông lòng đặt trên chiếc bàn bên cạnh, vốc đầy một vốc những đoá hoa đồng thảo, rắc lên đầu, lên ngực và chiếc áo xtola của Eunixe, rồi ông kéo chiếc áo tunica để lộ bờ vai nàng và bảo:
                                - Hạnh phúc thay cho kẻ nào như cậu tìm được tình yêu trong một tấm thân hữu hạn thế này… Nhiều lúc cậu ngỡ đôi chúng ta là hai vị thần linh… Anh hãy nhìn mà xem này: liệu Prakxytelex, Miron, Xkopax hay Lizip có bao giờ sáng tạo nổi những đường nét đẹp hơn thế này chăng? Liệu trong điện Parox hay Pentelikon có được thứ cẩm thạch nào giống thế này chăng, ấm áp, hồng hào và yêu say đắm? Có những kẻ hôn hít đến vẹt cả miệng bình, còn cậu chỉ thích tìm khoái lạc ở nơi nào quả thực có thể tìm thấy nó.
                                Nói đoạn, ông bắt đầu lướt đôi môi dọc theo đôi bờ vai và cổ nàng, còn nàng thì run lên, mắt nàng lúc khép lại lúc mở ra để lộ niềm khoái cảm khôn thốt nên lời. Lát sau, ông Petronius ngẩng mái đầu trang nhã của ông nhìn Vinixius và nói:
                                - Còn bây giờ, anh thử nghĩ xem, những tín đồ Thiên chúa giáo tẻ ngắt của anh là cái gì nếu so sánh với cái này, và nếu như anh không thể hiểu nổi sự khác nhau ấy, thì xin anh cứ việc đi với bọn họ… Nhưng cảnh tượng này sẽ chữa lành bệnh cho anh.
                                Vinixius nở phồng hai cánh mũi hít hương hoa đồng thảo đang ngào ngạt trong căn phòng, người chàng tái đi khi nghĩ rằng giá như cũng có thể được lướt môi chàng lên đôi bờ vai của Ligia, thì đó sẽ là một niềm khoái lạc phạm thành lớn biết nhường nào, rồi sau đó dẫu thế giới có đổ sụp đi cũng được. Song vốn đã quen với việc nhanh chóng ý thức được những gì đang xảy ra với bản thân, chàng chợt nhận ra là lúc này đây chàng lại nghĩ tới Ligia, chỉ nghĩ đến mỗi mình nàng mà thôi.
                                Ông Petronius bảo:
                                - Hỡi Eunixe thần nữ, nàng hãy ra lệnh chuẩn bị vòng hoa đội đầu và bữa sáng cho chúng ta.
                                Sau đó, khi nàng đi khuất, ông quay sang Vinixius:
                                - Cậu muốn giải phóng nàng, còn nàng, anh có biết nàng đã trả lời cậu thế nào không? “Em muốn được làm nô tỳ của người hơn làm Hoàng hậu!” Và nàng không đồng ý. Cậu bèn giải phóng cho nàng mà nàng vẫn chưa hề hay biết. Vì nể cậu, viên pháp quan đã không đòi hỏi sự hiện diện của nàng. Nhưng nàng vẫn chưa hay biết chuyện ấy, cũng như chưa biết rằng, toà nhà này cùng tất thảy mọi đồ trang sức của cậu, trừ những viên ngọc chạm, sẽ thuộc về nàng, một mai cậu qua đời.
                                Nói đoạn, ông đứng dậy đi đi lại lại trong phòng rồi nói tiếp:
                                - Tình yêu biến đổi con người, kẻ nhiều người ít, nó làm thay đổi cả cậu nữa. Có hồi cậu thích mùi hương mã tiên thảo, nhưng vì Eunixe ưa hoa đồng thảo hơn, nên bây giờ cậu lại thích loài hoa này hơn cả. Từ độ xuân về, cậu chỉ thở hít toàn hương hoa đồng thảo mà thôi.
                                Nói tới đây, ông dừng lại trước mặt Vinixius và hỏi:
                                - Thế còn anh? Lúc nào anh cũng say hương cam tùng chứ?
                                - Hãy để cháu yên! - chàng thanh niên đáp.
                                - Cậu muốn anh được ngắm kỹ Eunixe, cậu nói với anh về nàng, bởi vì rất có thể cả anh nữa cũng đang tìm kiếm ở đâu xa xôi một thứ vốn rất gần gụi. Rất có thể, tại một nơi nào đó trong các phòng nô tỳ của anh, một trái tim trung thành và mộc mạc đang đập vì anh đấy. Hãy dán thứ thuốc cao ấy lên những vết thương của anh xem nào! Anh nói rằng Ligia yêu anh? Có thể lắm! Nhưng tình yêu là gì mà lại tự chối từ? Phải chăng điều đó không có nghĩa là còn có thứ gì đó mạnh hơn tình ái? Không, cháu thân yêu ạ, Ligia không phải như Eunixe.
                                Vinixius đáp:
                                - Tất cả chỉ là một sự dày vò triền miên. Thấy cậu hôn vai Eunixe, cháu chợt nghĩ, giá như vì cháu Ligia cũng hé lộ bờ vai như thế, thì xin trời đất cứ hoác miệng nuốt chửng chúng cháu đi cũng thoả. Nhưng chỉ riêng ý nghĩ ấy thôi cũng đã khiến cháu như bị một nỗi sợ hãi nào đó chế ngự, dường như cháu cưỡng chiếm trinh nữ giữ đền thờ Vexta hoặc mưu toan làm nhục thần linh vậy… Ligia không phải là Eunixe, chỉ có điều cháu hiểu sự khác biệt ấy không giống như cậu nghĩ. Tình yêu làm biến đổi cái mũi của cậu, nên cậu thích hoa đồng thảo hơn mã tiên, còn tình yêu làm biến đổi linh hồn cháu, nên mặc cho dục vọng và sự đau xót của bản thân, cháu vẫn muốn Ligia hãy cứ là nàng Ligia như cũ, đừng giống những kẻ khác.
                                Ông Petronius nhún vai:
                                - Nếu vậy thì chẳng hề có chuyện gì xúc phạm tới anh cả. Nhưng riêng tôi, tôi không thể hiểu nổi việc này.
                                Vinixius nóng nảy đáp lại:
                                - Phải! Phải!… Chúng ta đâu còn có thể hiểu nhau nữa!
                                Im lặng một hồi lâu rồi ông Petronius nói:
                                - Cầu cho Hadex bắt sạch bọn Thiên chúa giáo của anh đi cho rảnh nợ! Bọn chúng đã làm anh bất an, hủy hoại những giác quan sống của anh. Cầu Hadex bắt sạch chúng đi! Anh đã lầm khi cho rằng đó là một thứ giáo thuyết tốt lành, bởi vì tốt lành là những gì có thể khiến cho con người ta sung sướng, là cái đẹp, tình yêu và sức mạnh, vậy mà bọn chúng lại gọi những cái đó là chuyện phù vân. Anh nhầm lẫn khi xem chúng là công bằng, bởi vì nếu chúng ta dùng điều tốt để đáp lại cái xấu, thì chúng ta biết lấy gì để đáp lại cái tốt kia chứ? Còn nếu trả giá cho hai thứ ngang nhau, thì con người cần phải tốt để làm gì?
                                - Không! Giá trả không ngang nhau, nhưng theo giáo thuyết của họ thì điều đó sẽ bắt đầu ở cuộc đời trong tương lai chứ không ở trong cuộc đời này.
                                - Cậu chả dại, chuyện đó còn phải xem xem thế nào đã, nếu như chúng ta còn có thể trông thấy được điều gì chăng… khi không còn có mắt! Chứ hiện giờ bọn chúng chỉ là một lũ người bán thân bất toại. Urxux bóp chết Kroton, chẳng qua vì hắn có chân tay mạnh như gấu, còn nói chung, bọn chúng chỉ là một lũ ngù ngờ khờ khạo, mà tương lai lại không thuộc về bọn ngù ngờ.
                                - Đối với họ, sự sống bắt đầu cùng lúc với cái chết.
                                - Điều đó chẳng khác nào có kẻ bảo rằng, ngày bắt đầu cùng lúc với đêm đen. Thế anh định bắt cóc Ligia chứ?
                                - Không! Cháu không thể dùng oán trả ân cho nàng, cháu đã thề sẽ không bao giờ làm chuyện đó.
                                - Vậy ra anh định chấp nhận giáo thuyết của Crixtux ư?
                                - Cháu muốn lắm, nhưng bản chất của cháu không chịu đựng nổi giáo thuyết ấy.
                                - Anh có thể quên được Ligia không?
                                - Không!
                                - Thế thì hãy đi du ngoạn vậy!
                                Vừa lúc ấy, đám nô lệ báo bữa sáng đã chuẩn bị xong, nhưng ông Petronius nghĩ rằng mình vừa nảy ra được một ý kiến hay, nên trên đường tới phòng tiệc ông nói tiếp:
                                - Anh đã đi qua cả một phần thế giới thật đấy, nhưng chỉ như một người lính vội vã đến nơi được lệnh phải đến, chứ chẳng hề dừng chân dọc đường. Anh hãy thu xếp cùng đi Akhai với các cậu đi. Cho đến nay, Hoàng đế vẫn chưa từ bỏ ý định du hành. Người sẽ dừng chân lại khắp mọi chốn dọc đường, ca hát, đón nhận những vòng hoa chiến thắng, cướp bóc các thần miếu, và cuối cùng, Người sẽ quay về Italia như một người ca khúc khải hoàn. Đó sẽ là một thứ gì giống như cuộc diễu hành của thần rượu Bakhux kết hợp với thần Apolon thành một con người. Các vị cận thần, nam và nữ, cây đàn tranh, - hỡi Caxtor! Đó thật là một thứ đáng nhìn, bởi lẽ cho tới nay thế gian chưa từng được trông thấy gì tương tự như thế bao giờ.
                                Ông ngả người xuống chiếc trường kỷ cạnh bàn, bên Eunixe, và trong lúc một tên nô lệ đặt vòng hoa bện bằng cỏ chân ngỗng lên đầu, ông nói tiếp:
                                - Anh đã được trông thấy những gì khi phục vụ dưới trướng tướng Korbulon nào? Chẳng có quái gì hết! Liệu anh đã thăm thú kỹ lưỡng các đền miếu Hi Lạp như cậu đã làm hơn hai năm trước, chuyển hết tay hướng đạo này sang tay khác hay chưa? Anh đã đến Rodox để ngắm nhìn nơi vị khổng lồ đã đặt chân hay chưa? Anh đã trông thấy ở Ponop hoặc Poxiđa, miếng đất sét mà thần Prometeux dùng để nặn nên con người, đã thấy những quả trứng mà nữ thần Leđa đã sinh hạ ở xứ Xpartơ, đã thấy bộ giáp phục Sarmac lừng danh ở thành Aten được làm bằng những chiếc vó ngựa, đã thấy chiếc thuyền của Agamemnon ở Eubel, đã thấy chén rượu làm theo nguyên mẫu bầu vú bên trái của nữ thần Helena hay chưa? Anh đã trông thấy Alecxanđria Memphix, các kim tự tháp, sợi tóc của nàng Izix, sợi tóc mà nàng đã tự tay dứt đứt vì thương tiếc chàng Oryzix hay chưa? Anh đã được nghe tiếng Memnon rền rĩ hay chưa? Thế giới rộng bao la, không phải mọi cái đều kết thúc ở khu phố Zatybre! Cậu sẽ phải tuỳ giá Hoàng đế, rồi sau đó, lúc Người quay về, cậu sẽ rời bỏ Hoàng đế để đi một chuyến ra đảo Sip, bởi vì nữ thần tóc vàng của cậu muốn cùng cậu dâng hiến bồ câu lên bà chúa Sip tại đền thờ ở Phaphox, và anh nên biết rằng, nếu nàng muốn điều gì, điều đó sẽ được thực hiện.
                                - Em là kẻ nô tỳ của người! - Eunixe thốt ra.
                                Còn ông tựa mái đầu đội vòng hoa vào lòng nàng mỉm cười và nói:
                                - Vậy thì ta lại là nô lệ của một nô tỳ! Hỡi thần nữ, ta luôn thán phục nàng, từ gót đến đầu!
                                Rồi ông quay sang chàng Vinixius:
                                - Anh hãy đi cùng chúng ta ra Sip! Tuy nhiên trước đó cần nhớ rằng anh phải yết kiến Hoàng đế đã. Đến tận bây giờ anh vẫn chưa tới yết kiến Người thì quả là dở, gã Tygelinux sẵn sàng lợi dụng điều đó theo cách bất lợi cho anh. Gã cũng chẳng có thù gì với anh đâu, song rất có thể gã không thích anh chỉ vì anh là cháu ta… Chúng ta sẽ nói anh bị ốm. Chúng ta sẽ nghĩ xem anh cần đối đáp với Hoàng đế ra sao nếu Người hỏi anh về Ligia. Tốt nhất, anh cứ phẩy tay bảo rằng anh có gặp nàng, cho tới khi nàng khiến anh phát chán. Người sẽ hiểu điều đó… Hãy nói với Người rằng bệnh tật đã giam chân anh tại nhà, và anh phát sốt thêm vì buồn phiền bởi lẽ không được có mặt ở Neapon để lắng nghe giọng hát của Người, anh bình phục chỉ bởi nhờ có một niềm hi vọng là sẽ được thưởng thức giọng hát ấy mà thôi. Anh đừng ngại quá lời, gã Tygelinux hứa trước rằng sẽ nghĩ ra hiến Hoàng đế một trò gì đó, không chỉ vĩ đại mà còn thô đại nữa. Nhưng cậu lo rằng y sẽ chơi xỏ cậu. Cậu cũng lo cho cách cư xử của anh lúc ấy nữa đấy.
                                - Cậu có biết không - Vinixius nói - có những người không hề e sợ Hoàng đế, họ sống bình thản như Người không hề tồn tại trên đời!
                                - Cậu biết anh muốn nói đến ai: tín đồ Thiên chúa.
                                - Vâng, chỉ có họ mà thôi! Còn cuộc sống của chúng ta là gì nếu không phải là một nỗi sợ hãi triền miên?
                                - Hãy để cho cậu yên thân với đám tín đồ Thiên chúa giáo của anh! Bọn chúng không sợ Hoàng đế, có thể vì Người chưa nghe nói tới bọn chúng hay chưa biết gì về chúng; chẳng qua chúng cũng như những chiếc lá mục đối với Người mà thôi! Cậu đã bảo anh rằng đó là một bọn người thiểu năng, chính bản thân anh cũng cảm thấy điều đó, và nếu như bản chất của anh không dung nạp nổi cái giáo thuyết của bọn chúng chính vì anh đã cảm nhận được sự thiểu năng của chúng. Anh là người được nặn từ một loại đất sét khác hẳn, vậy xin hãy để cho cậu được yên, đừng đả động gì tới bọn chúng nữa. Chúng ta biết cách sống và chết, còn bọn chúng biết làm nổi chuyện gì thì chưa ai hiểu được.
                                Những lời này tác động mạnh đến Vinixius. Quay về nhà, chàng vẩn vơ nghĩ rằng rất có thể lòng tốt và sự từ tâm của các tín đồ Thiên chúa là bằng chứng cho sự thiếu năng lực của tâm linh họ. Chàng cảm thấy những người cương nghị và có đầu óc không thể giàu lòng vị tha đến thế. Chàng chợt nghĩ rằng đó rất có thể chính là lý do khiến tâm hồn La Mã của chàng cảm thấy khinh ghét giáo thuyết nọ. “Chúng ta biết cách sống và chết!” - ông Petronius đã bảo thế. Còn bọn họ? Họ chỉ biết tha thứ, song họ không hiểu được cả tình yêu chân chính lẫn lòng hận thù chân chính.


                                ST
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X