Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Hậu Liêu Trai - Dạ Đàm Tùy Lục

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Thượng Quan Sinh

    Thượng Quan Sinh tự là Ðồng Khanh, tên là Tiêu, người Lạc Dương, lúc còn bé theo cha đi làm quan ở Tỉnh An Huy, lớn lên tinh thông học thuyết của Thân Bất Bại và Hàn Phi Tử, được Thái Thú tỉnh Chung Ly mời đến làm mạc khách trong phủ, phụ trách xét đoán các vụ án. Hai người rất là tâm đầu ý hợp.
    Sinh dung mạo trông bảnh bao đẹp đẽ, lại giỏi tô điểm trang sức, tính tình hào sảng khẳng khái, thích kết
    giao bạn bè, nhưng vì quá kén vợ nên dù đã hai mươi tuổi mà vẫn ở không, chưa thành gia thất.
    Thái thú vốn người họ Kim, thuật giả không nhớ tên gọi là gì, thấy Sinh như vậy, muốn tặng chàng một người tỳ nữ, nhưng chàng không nhận.
    Chừng xảy ra vụ người nữ tỳ thông gian với một người nam bộc, việc bại lộ, liên lụy cả đến người vợ Thái
    Thú, khiến ông tức giận, đích thân đứng ra điều tra xét xử vụ án.
    Sinh phải hết sức hòa giải dàn xếp. Một mặt cấp tiền cho người nam bộc trốn đi. Mặt khác xin lại Thái Thú người tỳ nữ rồi cho đi lấy chồng khác.
    Sau đấy lại xây ra vụ có người con gái nhà đại phú ở trong thành lấy chồng ba tháng mà sinh con, cha mẹ
    chồng xấu hổ uất ức, kiện đến Thái Thú. Thái Thú định dùng những hình phạt tàn khốc để điều tra vụ án, nhưng Sinh vội vã can ngăn, rồi âm thầm kín đáo tra hỏi té ra chàng rể trước đó từng leo trộm tường vào khuê phòng của người con gái ngủ chung với nàng, có chứng cứ xác thực . Vì thế, vụ án được xếp lại.
    Kim thái thú có đứa con trai, thường ngày lêu lổng hung hãn, nghi ngờ Sinh ăn hối lộ, phao ngôn phỉ báng
    chàng. Thái Thú cũng có bụng hoài nghi, thỉnh thoảng buông ra những lời nói bóng gió hài hước.
    Sinh thấy vậy, cũng bực mình dủ áo từ giã bỏ đi.
    Nhưng trời đất mang mang vô định, Sinh không biết đi đâu ý muốn đến viên quan Trung Thừa ở Sơn Ðông, trước kia là bạn đồng khoa với tiên phụ chàng, để nhờ tiến dẫn, tìm đường độ nhật. Khi đến nơi, chẳng may viên quan Trung đã quá cố. Sinh bất đắc dĩ, đành bỏ hết tiền trong túi ra làm lộ phí, ngao du sơn thủy, các thắng cảnh Bồng Lai hải thị, Thái Sơn nhật xuất, Khổng Miếu văn bia. Không đâu là Sinh không có dấu chân chàng.
    Thấm thoát thoi đưa, hai năm phút chốc bay vèo, Sinh theo đường cũ trở về cố hương, đến vùng Toán Sơn và Qua Bộ, ngầy gặp quan Thái Sử họ Khấu, vốn là chỗ quen biết của tiên phụ chàng, nay đã thoái lại hồi hưu, vui cảnh lâm tuyền, trong một tòa biệt dã, nằm trên bờ Trường Giang, thật vô ưu nhã.
    Quan Thái Sử thấy Sinh là người có tài, đem lòng quý mến, mời chàng về nhà giúp việc chính lý gia phổ.
    Chàng được cho ngụ trong một tòa cổ miếu ở phía Ðông thôn, ngày ngày có đầy tớ cơm nước phục dịch. Nơi đây cây cối đình đài, cửa không khách tục, đoạn tường ngăn cách, chỉ nghe tiếng ngư phủ nghêu ngao, Sinh đem ra yêu thích, bèn nhận chốn này làm nơi yên vui hưởng lạc, không còn nghĩ đến việc học hành tiến thủ nữa. Một buổi tối, cơm nước xong xuôi, đứa ở đi về, còn lại mình Sinh. Chàng đem ghế ra ngồi bóng mát. Trên trời, trăng lờ mờ vàng vọt, tứ phía đom đóm lập lòe, Sinh bỗng thấy một gã thiếu niên, mình mặc áo trắng, quạt lụa cầm tay, tú mỹ nhà hạ, xinh đẹp như ngọc thụ lâm phong, tưởng chừng trên đời không còn người thứ hai nữa. Thiếu niên từ phía bụi trúc ở mé tường phía tây đủng đỉnh bước ra, bồi hồi đi tới lại lui, mắt trông xa chờ đợi, chốc chốc lại cúi đầu khe khẽ ngâm một bài từ .
    Ngọc lậu sạ đình nhân sạ định.
    Trọng tử tường biên, cách trước la phu kinh.
    Bạc bạc sa song hà cố tuấn,
    y hy thiểm cá nhân nhi ảnh.
    Thiếu niên ngâm nga mấy lần mà vẫn không sao hạ nổi câu chót. Sinh thấy vậy mỉm cười bèn nối vần họa
    tiếp:
    Lập biến ngân giai thùy ký tín?
    Giá đáp thương đài, liệu hạ tiêm tiêm ấn
    Mạch địa nhất thanh hoa hạ
    Ðầu hồi hảo nguyệt viên như kính.
    Thiếu niên nghe thấy Sinh ngâm xong, lập tức tiến lại gần, hỉ hoan bắt chuyện:
    - Thật chẳng ngờ đêm hôm khuya khoắt lại có thể gặp được người đồng điệu !
    Rồi hai người cùng vào trong nhà ngồi, thăm hỏi chuyện trò. Người thiếu niên tự giới thiệu là người họ Tra,
    tự là Cầm Ngân, hàng xóm bên cạnh, cách nhà Sinh bằng một con lộ nhỏ.
    Sinh đích thân đứng dậy đi đun nước pha trà mời khách. Cầm cũng tự động bẻ những cành khô cho vào bếp.
    Suốt đêm hai người chỉ ngồ tán gẫu, nói những truyện vẩn vơ, mãi đến lúc gà gáy sáng, Cầm mới đứng dậy từ giã ra về Sinh đưa ra ngoài lộ, ân cần hẹn Cầm ngày hôm sau gặp lại.
    Cầm nói:
    - Những lời nói quê mùa của đệ thật không đủ trợ hứng cho huynh. Nhưng đệ có chút tài mọn, ngày mai xin được phép biểu diễn cho huynh nghe, chẳng hay có làm phiền sự tĩnh mịch của huynh không?
    Sinh đáp:
    - Thật là vạn hạnh ? Vạn hạnh !
    Rồi về phòng, tắt đèn lên giường nằm, đầu óc vẩn vơ tơ tưởng đến phong thái khả ái Cầm, đâu có thua kém gì nàng mỹ nữ Nam Oai ngày xưa.
    Tối hôm sau, Sinh có ý chờ đợi, một lúc thật lâu mà vẫn không thấy Cầm tới . . .
    Ba bốn hôm sau Cầm mới đến. Sinh từ tốn trách mát Cầm sai hẹn. Cầm đáp:
    - Ðệ phải chờ cho người vợ quê mùa ngủ say mới đi được .
    Sinh nói:
    - Vậy ra hiền đệ có gia thất rồi, bà xã hẳn cũng thuộc loại tuyệt đai giai nhân đấy nhỉ.
    Cầm đỏ hồng hai má, thẹn thùng :
    - Dung nhan thì cũng chỉ như đệ vậy thôi.
    Rồi rút từ trong áo ra một cây ngọc tiêu hỏi Sinh:
    - Huynh có biết thổi tiêu không?
    Sinh đáp:
    - Không biết!
    Cầm đề nghị:
    - Vậy xin huynh hãy ngâm lại bài từ bữa nọ để đệ thổi tiêu hòa theo, có được không?
    Sinh hoan hỉ đồng ý. Thế rồi một người ngâm, một người thổi , âm thanh vi vu như gió thổi, rốn ràng như
    tiếng xiêm hài của tiên nữ bước trên không trung.
    Sinh bèn tựa sát ghế ngồi của Cầm, nói:
    - Hiền đệ trông bảnh bao đẹp đẽ, lại vừa thông minh văn nhã, ta mà là đàn bà con gái chắc là chết vì tương tư hiền đệ mất.
    Cầm cười:
    - Nói như huynh, thì khách mày râu nam tử không thể chết vì tương tư đệ sao? Thế đâu còn gọi là nòi tình chân chính được nữa.
    Sinh tiếp:
    - Thú thực với hiền đệ, từ hôm được thấy dung nhan, ta thần hồn điên đảo, gối chăn xô lệch, hai đêm liền
    không sao ngủ được.
    Cầm nghe nói thế, bèn ngả người vào lòng Sinh, buông lời lả lơi trêu cợt:
    - Huynh thật là khách nòi tình. Lửa cháy gấp rồi ? Nhưng tiếc thay, đệ chỉ là một kẻ thiếu của trời ban, không có gì để cứu huynh được. Biết làm sao bây giờ !
    Sinh mừng rỡ như điên, thân mật ôm chặt lấy Cầm, dùng tay vỗ vỗ phía sau của chàng, tỏ ý cầu hoan.
    Cầm thẹn thùng đỏ mặt, vội vã đẩy tay Sinh ra, cự tuyệt nói:
    - Thương nhau hà tất phải làm như thế?
    Sinh đáp:
    - Lưỡng hùng tương ái, không thế, sao có thể đạt đến chỗ phách tán hồn tiêu.
    Cầm nói:
    - Nhưng huynh phải kể cho đệ rõ nguồn gốc của cái thú "hậu đình" ấy ở đâu mà ra mới được.
    Sinh kể:
    - Theo truyền thuyết thì từ khi đời Hoàng đế đi đánh Sưu Vưu Rồi đến đời Xuân Thu thì có chuyện vua nước Vệ ăn nửa trái đào từ miệng người nam sủng là chàng Di Tử Hà. Ðời Hán, Ai Ðế yêu người nam sủng Ðổng Hiến đến nỗi lấy tay làm gối cho Hiến ngủ say, khi dậy không nỡ đánh thức Hiến, bèn cắt cả tay áo của mình đi. Còn Hán Văn Ðế, vì yêu Ðổng Hiến mà cho cả núi đồng, trở thành giàu có. Những truyện như thế đều có ghi trong sách vở rất nhiều.
    Cầm nghe kể, càng cười to, nhưng một mực hết sức đẩy tay Sinh ra. Sinh khẩn khoản nài nỉ:
    - Nếu hiền đệ thương ta, ta nguyện lấy lễ chủ khách phục thị.
    Cầm càng cười ngặt nghẽo, gập cả người xuống, nói:
    - Vậy thì đệ là khách, huynh là chủ. Huynh hãy lo bổn phận của đồng đạo chủ đối với khách đi chứ.
    Sinh mừng rỡ, đồng ý. Rồi vào trong ngọa thất, buông mùng, cởi bỏ y phục. Lúc sờ đến người Cầm, Sinh bất giác giật mình đánh thót. Té ra, cửa đào ngõ hạnh, đậu khấu hàm hương, hoa sen ướt sương buổi sớm , Cầm vốn chỉ là khách phòng the xử nữ.
    Sinh không kịp hỏi han nguyên ủy, bèn cùng Cầm đưa nhau vào cõi Dương đài, quấn quít mây mưa, cực kỳ hoan lạc .
    Việc xong, sinh kê tay cho Cầm gối đầu, bấy giờ mới hỏi đến việc Cầm đổi lốt nam trang.
    Cầm ấm ớ đáp :
    - Có viên Thái Sử nọ, lòng ham thích những trò dâm bôn kỳ lạ, cho con gái ăn mặc nam trang để làm bộc phu, cho con trai ăn mặc giả gái để làm tỳ nữ, đông đến hơn ba chục người. Ðôi người được ông ta thương yêu nhất là thiếp và người giả làm tỳ nữ là tên là Bạch Quyên Lang.
    Thiếp thấy đây không phải là kế trường cửu được, nên lén giắt Quyên bỏ đi, trốn đến vùng này. Vì thấy lang quân là người phong nhã tài hoa, nên nguyện đem thân cát đằng phó thác. Xin chớ tiết lộ việc này ra ngoài, thì hạnh phúc có thể bền vững được.
    Sinh gạn hỏi về tính tình, nhan sắc của Quyên. Cầm lại cười, trêu trọc:
    - Chàng thật đúng là kẻ nòi tình. Ðã được voi, còn đòi tiên .
    Sinh đáp:
    - Không hẳn là thế? Khanh đến với ta thì bỏ Quyên lạnh lùng. Còn khanh ở cùng Quyên thì ta cô độc, chi
    bằng cả ba ở chung thì không ai cô độc cả.
    Cầm nói:
    - E rằng tính Quyên cương nghị, không như thiếp tự nguyện phó thác đâu. Hãy để từ từ, rồi thiếp tính cho.
    Chợt nghe bên ngoài có tiếng chuông chùa buổi sớm.
    Cầm vội vã mặc quần áo vào người rồi rời khỏi giường.
    Sinh nắm tay cố lưu lại, nh­ng Cầm không chịu, nói:
    - Thiếp e Quyên tỉnh dậy không thấy thiếp sợ hãi mà khóc chăng !
    Sinh dặn dò Cầm giới thiệu trước về mình. Cầm gật đầu đồng ý, rồi đi.
    Ngày hôm sau, Sinh dự bị mua trước ít rau cỏ thịt thà, đồ nhắm, một bình lục phôi tửu, dọn dẹp nhà cửa gọn gàng tinh khiết, rồi cho thằng ở ra về sớm, đóng cửa ngồi chờ hai nàng.
    Khoảng quá canh một, quả nhiên Cầm dẫn Quyên cùng đến.
    Sinh thấy Quyên dáng điệu uyển chuyển thẹn thùng, tóc mây gọn ghẽ, hài son nho nhỏ, tay cầm chiếc khăn
    hồng che miệng. Lúc thấy Sinh, nàng có ý muốn bước tới, nhưng lại thoái hồi, thái độ thật là ẻo lả tha thướt đáng yêu
    Quyên vừa bước chân lên bậc thềm, rêu xanh trơn tuột làm nàng suýt bị té. Sinh vội vã tiến tới đỡ Quyên
    dậy. Chàng cảm thấy người Quyên nhẹ còn hơn cánh lá.
    Hai người cùng nhau đưa đẩy vài câu thăm hỏi, rồi ngồi vào ghế, nghiêng nghiêng bên cạnh ngọn đèn. Thỉnh thoảng Sinh buông một vài lời tán thán, còn Cầm thì vẫn hài hước chọc cười, riêng Quyên chỉ cười mủm mỉm, chẳng nói năng gì.
    Sau vài lần thù tạc, chén anh ché ả, Cầm bèn rút cây ngọc tiêu ở trong tay , bảo Quyên ca cho nàng họa theo, nhưng Quyên không chịu. Cầm nói:
    Tối qua, chị cũng đã biểu diễn rồi, em hà tất phải giữ ý làm gì. Chẳng qua giúp lang quân bớt cảnh cô tịch
    vậy thôi Sinh cũng nài nỉ khuyên thêm. Bấy giờ Quyên mới nhè nhẹ nhịp hài, khe khẽ gõ đôi đũa ngọc, cất tiếng ca rằng:
    " Song kiệt điệp, song song quá tường đông, tiễn thái thiện khắc họa, tạo hóa thiên vô công, khinh la tiểu phiên phác nhập nhân thủ, phiên phi nả hứa biện thư hùng. Thư da hùng hà tất biện. Hoa tu nhất siếp tinh linh hiện. Khả lân áp biển tiểu thư rùng, do hướng mỹ nhân đầu thượng đản . "
    Hát xong thì nghẹn ngào u uẩn, ngập ngừng hai dòng lệ Sinh phải ôm chặt nàng vào lòng, vỗ về an ủi:
    - Ðêm qua để khanh phải ngủ một mình, đó là lỗi tại ta. Thôi xin khanh đừng bi sầu trách oán nữa.
    Quyên đáp:
    - Không phải như vậy đâu. Chị em bọn thiếp được phụng thị lang quân, dù có chết cũng không mục nát.
    Nhưng nghĩ đến chuyện cũ, thì lòng không thể giữ nổi cảm xúc, bi thương. Thiếp không uống được rượu nhiều, xin để chị Cầm bầu bạn với lang quân, cho thiếp được cáo từ
    Sinh vội vã hoảng hết, nắm tay Quyên cố giữ lại, cơ hồ muốn quỳ xuống mà van. Thế rồi, cả ba đều lên
    giường cùng nằm.
    Mãi đến lúc mặt trời sáng bạch mới dậy. Sinh dấu hai nàng ở chỗ khuất ánh sáng, sai đứa ở về bảo với Khấu Thái Sử là chàng thích tĩnh mịch, những việc vặt vãnh thường ngày chàng có thể lo liệu được, không cần phải phái người sang phục dịch nữa.
    Sau khi đã cho đứa ở về, Sinh đóng kín hai cánh cửa chặt chẽ, rồi cùng hai nàng ngày đêm tận tình hoan lạc, vui đùa.
    Sinh viết chữ, còn hai nàng lo mài mực. Khi đói thì cùng nhau xuống bếp thổi nấu. Lúc mỏi mệt thì nghỉ ngơi đấm bóp, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Cầm tỏ ra phóng khoáng tự do, lại giỏi ca xướng, cái gì cũng tinh thông cả.
    Sinh thường sung sướng bảo với hai nàng:
    - Trong hai khanh, được một đã là khó rồi, huống hồ nay ta lại được cả hai.
    Quyên cười, nói:
    - Chàng si tình ? "Nhất tiễn song điêu, " chẳng sợ bị tổn thọ chết yểu hay sao?
    Cầm cũng cười phụ họa:
    - Bọn thiếp chỉ là quỷ chồn cả đây. Từ lâu vẫn chờ cho chàng rượu say, là sẽ ăn tái đấy. Chàng có sợ chăng?
    Sinh đáp:
    - Nếu có bị táng thây trong bụng mỹ nhân, cũng còn hơn là phải chết tanh tưởi ô uế. Ta chẳng những không sợ mà còn sẵn sàng cam tâm tự nguyện .
    Có nhà sư ngụ ở chùa bên cạnh, thỉnh thoảng nghe có những tiếng cười đùa huyên náo từ thư phòng của Sinh vọng ra ngoài, lén lên gác chuông rình dòm cho rõ, rồi sang nói cho quan Thái Sử họ Khấu biết:
    Thái Sử hỏi lại Sinh. Sinh bảo đó là vợ con của người đầy tớ cũ của chàng, đưa vợ con qua sang đó, ngẫu gặp chàng, nên giữ lại để bầu bạn, hàn huyên cho bớt cô tịch, chứ không có chuyện gì khác. Từ đấy mọi người đều biết là Sinh có một người đầy tớ trung thành, nên rất ái mộ chàng.
    Phút chốc, Sinh cư ngụ ở ngôi cổ miếu ấy đã được hai năm, bụng vẫn có ý muốn được chết già ở quê nhà , thường bảo với Cầm và Quyên rằng: .
    - Số tiền bán chữ tích lũy được ít nhiều, nên để dành về quê sống với nhau lúc tuổi già.
    Cầm và Quyên chỉ mỉm cười không đáp. Sinh có hỏi thêm thì hai nàng hàm lệ sụt sùi, nói:
    - Chàng sao si tình hủ lậu thiếp Lúc về già, chị em thiếp sẽ tóc bạc da mồi, phấn rơi hoa tạ, sẽ giống như
    những viên thái giám, thử hỏi còn gì là khả ái yêu kiều nữa. Cái họa bị chàng bỏ so sẽ ập đến trong nháy mắt mà thôi
    Sinh vội vàng vỗ về an ủi, thề thốt với hai nàng:
    - Như quả sau này ta mà có lòng phụ dấy hai khanh, thì xin như dòng nước Trường Giang kia, chết không tìm thấy xác .
    Nhưng hai nàng vẫn ấm ức không vui.
    Trước đấy, khi Sinh bỏ nhà viên Thái Thú họ Kim ra đi, ông cũng có phần hối hận. Sau lại điều tra thấy rõ sự tình, thì càng hối hận thêm. Ông cho người đi tìm tông tích của Sinh, biết được chỗ cư ngụ của chàng, bèn gửi gấp thư khẩn khoản mời chàng về, lại còn kèm thêm năm trăm lạng vàng tiền lễ tương kiến.
    Cũng may, việc chỉnh đốn gia phổ của quan Thái Sử họ Khấu cũng vừa hoàn tất, chàng vui mừng báo cho ông biết. Thái Sử sửa soạn tiệc rượu mời Sinh đến dự, trả tiền thù lao và tiền lộ phí cho chàng.
    Sinh chuẩn bị xe ngựa kỹ càng. Buổi sáng hôm đăng trình , hốt nhiên Cầm và Quyên biến đều đâu mất. Tìm khắp mọi nơi không thấy. Chỉ thấy một lá thư của hai nàng để lại nằm dưới chiếc nghiên mài mực.
    Thơ rằng:
    " Tiêu lang yêu dấu chàng ơi! Chị em thiếp chẳng phải người ta, mà cũng chẳng phải yêu quái mà chỉ là những hồn oan phụ nghiệt. Tiền sinh kiếp trước, chàng vốn là con một nhà giầu ở đất Tam Hà, còn chị em thiếp là con nhà bần tiện nghèo khổ, cùng chàng lai vãng nhiều năm, nên được chàng thương chăm lo chu cấp. Chàng vì quá đắm say thanh sắc của chị em thiếp mà sinh bệnh, lâu ngày không khỏi, mới đem con út phó thác chị em thiếp trông coi. Chị em thiếp chẳng những không giữ lời hứa với chàng mà lại dụ đứa con chàng vào đường bất nghĩa, để cướp lấy tài sản, khiên cho nó bị khốn cùng rồi chết.
    Vì thế chàng kiện đến Diêm Vương, chị em thiếp bị phạt đầu thai ở Kinh Giang, bán cho nhà quan Thái Sử Vương Mộng Lâu làm nô bộc tỳ nữ. Vì được Thái Sử họ Vương thương yêu sủng ái, nên chị em thiếp một lần nữa bị bạn bè ghen ghét đố ky giết, vùi thây ở bên cạnh hòn giả sơn. Quan Thái Sử có biết chuyện , nhưng không tra xét đến cùng. Hôm qua chị em thiếp được lệnh của Diêm Vương đi đầu sinh ở Kim Lăng. Cầm thì làm con trai nhà họ Tôn. Quyên làm con gái nhà họ Thi. Khi lớn sẽ kết thành phu phụ.
    Giàu trước, nghèo sau. Chị em thiếp cũng muốn từ biệt chàng, nhưng lại e làm chàng bi thương đau khổ. Vì thế mới có thơ này để lại thay lời từ giã. Vận đen của chàng cũng sắp hết rồi , hạnh vận cũng sắp tới. Từ nay, chàng sẽ được an nhàn thong thả, xin hãy bảo trọng, đừng nghĩ gì đến chị em thiếp nữa. "
    Bên dưới có thêm một hàng chữ như sau:
    " Nhất thập tứ điểm, nhất thập tứ khẩu. Lưỡng đầu nhất chích cước Lục khẩu lưỡng chích cước, tam khẩu tứ chích cước."
    Cuối cùng là câu: Cầm nương và Quyên lang khóc trình .
    Sinh đọc xong thơ sợ hãi toát mồ hôi, mất cả hồn lẫn vía. Có người hỏi chàng đã cho vợ chồng tên gia bộc đi đâu rồi Chàng nói dối cho xong:
    - Ðã sai nó qua đò trước.
    Rồi cứ âm thầm sửa soạn gói ghém hành trang, đi đến chỗ hẹn với viên Thái Thú họ Kim. Thôi thì, cố tri tương ngộ, mừng vui kể sao cho hết.
    Kim thái thú nhờ những chính tích giỏi giang được thăng đến Giang Lương Ðạo. Sinh đi theo với Thái Thú đến nhiệm sở mới.
    Vợ Thái Thú cảm cái ơn ngày trước của Sinh, bèn đem cô em gái họ Mễ gả cho chàng làm vợ. Còn người nhà giầu cũng tặng cho chàng một người tỳ nữ họ Ðiền để làm thiếp .
    Người vợ Mễ thị không sinh nở gì, nhưng người thiếp họ Ðiền lại sinh đôi. Trước đó Ðiền thị nằm mộng thấy tiên tặng cho hai quyển sách lạ nhân thế mới đặt tên cho đứa con lớn là Ðiển, còn đứa em là Sách.
    Có lần vô tình Sinh đem chuyện sự gặp gỡ kỳ lạ của chàng với hai nàng Cầm và Quyên kể cho Kim Thái Thú biết, và nhắc đến câu mê ngữ của hai nàng.
    Kim thái thú thình lình hiểu ra. Và ông đã giải thích cho Sinh về câu mê ngữ ấy như sau:
    - Nhất thập tứ điểm" là chữ nhật , chữ thập (+) và bốn điểm (....) là chữ "mễ" đó là họ người vợ. "Nhất
    thập tứ khẩu là chữ nhật (-), chữ thập (+) và bốn chữ khẩu là chữ "điền," đó là tên người thiếp. Lục khẩu lưỡng cước là chữ "điển," và "tam khẩu tứ cước" là chữ "sách."
    Sau khi thái thú qua đời, người con phóng túng hưởng lạc, kết giao với bọn bất lương cờ bạc, tiêu tán tài sản, rồi bị bọn đạo tặc vu hãm, bị kết án tử hình. Sinh phải hết lòng lo lắng chạy chọt mới cứu khỏi nhà lao, mang về nuôi dưỡng ở nhà.
    Hai người con Sinh là Ðiển và Sách đều được quan to.
    Sinh âm thầm kiếm hai họ Tôn và Thi để xem cái mối duyên tam sinh của chàng với hai nàng Cầm, Quyên là thực hay giả, nhưng không có kết quả. Sau lại tìm đến phế viên của quan Thái Sử họ Vương, mong sẽ kiếm được chỗ chôn cất của hai nàng, cũng không thấy.
    Từ đấy chàng nhận ra rằng đời người chỉ là ảo mộng, bọt nước trôi sông. Bèn khắc một chiếc ấn ngọc đeo ở bên vạt áo trên mặt ấn có đề mấy chữ: "Khán lộ hoạt." Rồi nhặt nhạnh tất cả những mảnh nữ trang vụn vặn như xuyến gầy, phấn thừa, quạt hư ở trong phế viên của Vương Thái Sử, góp lại, táng chung một hố, trên dựng một tấm bia đá đề là:

    Nhất đôi khả lân trùng Cầm ngân,
    Quyên lang chiêu hồn hợp táng chi mộ.
    Viên cựu Tri Huyện Lưu Ðại Vương từng có lần gặp Sinh, nói là thư pháp của Quyên trông rất giống với thư pháp của quan thái thú sử họ Vương.



    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Trần Châu Nhu

      Hoài âm huyện có người tiểu thương tên là Chương Thu mở một quán bán rượu bên một con lộ lớn ở mé Bắc thành, để bán cho khách vãng lai. Trong quán bàn ghế bày biện có phần gọn gàng sạch sẽ, Chương lại còn bán kèm cặp thêm cả các loại dưa muối, đậu hũ, cũng đều ngon cả.
      Duy có điều vốn liếng ít ỏi, lời lãi không được là bao, chỉ đủ cho gia đình chàng bữa cháo bữa cơm mà thôi, chẳng hề dám mong đến cuộc sống của hạng trung lưu giầu có.
      Sau quán là ba gian phòng nhỏ làm nơi cư trú cho vợ con Chương. Gian giữa quán mướn một người hỏa kế làm việc .
      Vợ Chương họ Phạm tên Tam Nương, cũng là người có đôi chút nhan sắc, cử chỉ dịu dàng, thỉnh thoảng ra quán giúp chàng bán rượu, phong thái yểu điệu phảng phất như nàng Trác Văn Quân thuở xưa. Tính Chương lại rất hiếu khách, phàm các văn nhân nghệ sĩ đến quán của Chương ăn uống, hễ ai thiếu tiền, Chương đều không đòi. Trước cửa quán là một cái bãi đất trống, cỏ hoang tạp thảo mọc đầy chen lẫn những ngôi mộ cổ mấp mô. Sau quán có một khe nước lớn chảy quanh vòng vèo, trên bờ liễu rủ bóng râm, xanh um một cõi. Một hôm gặp tiết Ðoan Ngọ, mồng năm tháng năm, vào khoảng giữa trưa, đường xá nhà nào nhà nấy đều đã đóng kín cổng im lìm, riêng chỉ có quán rượu của Chương là vẫn còn mở cửa.
      Chương sai tên hỏa kế ở trên nhà coi quán, còn chàng tự xuống bếp nướng cá sào thịt để sửa soạn thưởng thức ngày lễ.
      Thình lình, Chương thấy sai dịch nghiệt ty áp giải năm tên tù phạm, thuộc vào hạng đầu trộm đuôi cướp, lê
      xích leng keng bước vào quán. Vừa ngồi xuống ghế, bọn chúng đã nhao nhao gọi rượu thịt, thái độ tỏ ra rất là nóng nẩy.
      Tên tửu bảo sợ hãi, nói là đã hết rượu, thì bọn tù phạm đập bàn đập ghế, la hét chửi bới mắng mỏ, khí thế
      rất là hung hãn, khiến cho tên tửu bảo càng thêm sợ hãi, co đầu rụt cổ, bỏ trốn vào trong nhà, không dám thò ra ngoài nữa.
      Chương và vợ chạy ra xem, thấy thế bèn tươi cười an ủi bọn tù phạm:
      - Quý khách đường xá xa xôi, chắc hẳn là đói bụng. Hôm nay, nhân cảnh trời đẹp, khí hậu ôn hòa, nếu quý khách không quá chê, thì tệ quán xin phép sửa soạn rượu thịt, để quý khách tùy tiện no say một bữa.
      Nói xong, Chương gọi tửu bảo hâm rượu, bày biện chén bát. Còn vợ chàng cũng xuống bếp bưng lên các món ăn vừa nấu xong còn nóng hổi, mùi vị hết sức thơm ngon.
      Lại còn thêm cả bánh trôi chay ra đãi đằng.
      Vợ Chương ngọt ngào mời mọc:
      - Quý khách đều là người phương Bắc phải không? Ăn cháo chắc không được no bụng đâu, phải ăn thêm thứ bánh bột này nữa, nh­ng làm gấp quá, nếu không ngon, xin quí vị lượng thứ cho nhà hàng nhá!
      Cả bọn tù đều đáp:
      - Ðược? Ðược? Chủ quán thật là hiếu khách, rất đáng mặt đồng đạo chủ.
      Tửu lượng và sức ăn của bọn tù, tên nào cũng bằng hai ba người thường. Chỉ một thoáng, bát chén nhẵn
      không, chồng chất đầy bàn. ăn xong, bọn tù còn được Chương thết trà, rồi đun nước ấm đựng trong các ang lớn bằng gỗ để tắm rửa. Cả bọn tù đều tỏ ra hoan hỉ, hài lòng, nhưng không hề nói một lời cảm tạ, chỉ khe kháng hỏi thăm danh tính của chủ quán, rồi ghi nhớ trong lòng trước khi rời quán.
      Lúc đó bọn trẻ con, làng xóm thấy lạ, chen nhau đứng xem ở trước cửa quán, đều trào phúng chê Chương là ngốc. Còn Chương lại tự hào sảng khoái, vợ rửa hết chén bát, quét nhà, kê lại bàn ghế cho chỉnh tề như cũ.
      Sang đến mùa Thu, bỗng có ba người, quần áo vải thô vào quán, hỏi thăm:
      - Ai là Chương Thu, chủ quán này đây?
      Chương vừa kịp đáp "Có mỗ dây," thì lập tức bị ba người ấy choàng gông vào cổ khóa lại. Cả nhà thấy vậy đều kinh hoàng sợ hãi. Tam Nương, vợ chàng cũng kêu gào khóc lóc. Chừng đưa đến huyện, mới hay là tên đầu sỏ bọn cướp đã khai Chương là người toa trữ các vật cướp được nên bắt Chương để đối chất.
      Huyện lệnh cho người trói Chương lại cho thật chặt giam trong một cũi gỗ, rồi sai vệ binh giải chàng lên phủ.
      Vợ con chàng ra tống hành, khóc lóc vang động cả xóm.
      Chương cũng khóc theo, nói:
      - Chuyến đi này sống chết lẽ nào chưa biết, nàng hãy về đóng cửa quán, chờ đợi xem quan xét xử thế nào.
      San đó lén bảo người con lớn dấu tiền làm lộ phí bí mật đi theo, rồi gạt lệ đăng trình.
      Lúc đến Tô Châu thì viên Lương tri phủ có việc phải đi Kim Lăng vắng nhà. Chương bị tống giam vào đại lao, ban đêm cột chung với bọn đạo tặc lúc trước. Nhà lao đuốc đóm lờ mờ ảm đạm, côn trùng nỉ non hiu hắt, càng làm cho Chương khiếp sợ bồn chồn, lo lắng như có bóng ma quỉ chờn vờn rình rập. Bên ngoài tiếng mõ cầm canh nửa đêm, thình linh tai Chương nghe có tiếng người gọi đến tên chàng , âm thanh bất nhất, già có, trẻ có, Nam có, Bắc có. Chàng nghe giọng quen quen, nhưng không dám trả lời .
      Một lúc lâu sau, bỗng Chương lại nghe có tiếng gọi khe khẽ:
      - Chương huynh, quên bọn này rồi sao. Cố nhân cả đấy mà.
      Bấy giờ Chương mới nho nhỏ trả lời:
      - Chương Thu chính là đệ đây. Còn các huynh là ai vậy?
      Có tiếng đáp lại:
      - Bọn đệ chính là những kẻ đã quấy quả rượu trà tại quán của huynh vào ngày Tết mồng năm tháng năm bữa nọ đấy.
      Chương sót xa than thở:
      - Nào ngờ bọn mình lại gặp nhau cả ở đây. Nhưng không biết đệ phạm tội gì, các huynh có ai hay không?
      Cả bọn đạo tặc nghe Chương hỏi thế đều cười khỉnh đáp:
      - Chính bọn đệ mời huynh vào đây. Mấy hôm trước bị tra tấn đủ cả ngũ hình ở ngoài cửa công, bọn đệ kiên quyết không khai, duy có nói huynh là người chủ chứa các đồ đã cướp được, như nếu có bắt được huynh thì mới chịu nhận tội, ai ngờ huynh lơ là để rơi vào lưới.
      Chương nói:
      - Ðệ với các huynh chẳng oán thù chi, lẽ nào lại hãm hại nhau như vậy?
      Tiếng nói đáp lại:
      - Bọn đệ lẽ nào lại có thù oán gì với huynh. Cái ơn cơm no rượu say đãi đàng hôm ngày Tết mồng năm tháng năm đến nay vẫn còn nhớ, nên muốn nhân dịp này đền đáp lại huynh. Thú thực với huynh bọn đệ đều là những tay giang hồ đạo tặc đầu sỏ. Chẳng hạn như Lâm Hắc Nhi là người Ðàm Thành, rồi đến Ngoa Nô người Cối Kê; người thứ ba là Trương Báo, người Hải Lăng; người thứ tư là Vương Tử Cầm, ngư­ời Mộc Dương; người thứ năm là Tiểu Thứ Phi, người Ðại Lương. Tất cả bọn đệ đều giỏi võ nhanh nhẹn, đã nhiều lần chống cự với quan quân, nên bị án tử hình. Nay tuy bị bắt, nhưng trốn khỏi nhà giam này đối với bọn đệ đâu khó khăn gì, chỉ vì biết đại số đã đến kỳ đều đành thúc thủ tựu mệnh vậy thôi. Ngày huynh ra khỏi nhà tù, ấy chính là ngày bọn đệ lên đoạn đầu đài đấy . Xin huynh nhớ kỹ tính danh bọn đệ, để mỗi năm cho một bát cơm, một chén rượu, một sâu tiền giấy, thì bọn đệ ở dưới cửu tuyền cũng muôn vàn cảm kích ân sâu.
      Bấy giờ Chương mới hiểu rõ nguyên nhân bọn đạo tặc muốn đưa chàng vào nhà lao, bèn nói:
      - Ðệ vốn là kẻ nhát gan hay sợ, còn các huynh là những tay nghĩa sĩ trên đời. Ðệ xin cố gắng làm theo dặn
      bảo của các huynh.
      Một lát sau thì trời hừng sáng. Tia nắng qua các khe hở lọt vào trong nhà tù, soi tỏ diện mạo từng người. Bấy giờ cả bọn mới nhìn nhau chào hỏi, vừa lau nước mắt vừa cười, tựa như những người bạn cố tri biết nhau đã từ lâu rồi vậy.
      Tối hôm sau, Chương nghe bên ngoài nhà tù có tiếng ngựa xe huyên náo, lính tráng hò hét dọn đường, thì chàng biết là quan tri phủ họ Lương đã trở về.
      Lâm Hắc Nhi vội vã cởi áo ngắn lót mình trao cho Chương mặc vào người. Còn Ngoa Nô và Trương Báo mỗi người cũng tự cởi chiếc áo ngắn tay đưa cho Chương, rồi ghé tai dặn dò:
      - Trong cái áo này có một vật, huynh đừng để mất, cũng đừng nói cho ai biết. Nếu không, vật trong đó sẽ
      không còn là của huynh nữa đâu. Trước cửa nhà huynh, giữa đám gò mả lau sậy, có một cây bạch dương đã chết khô, trên cây có hai tổ chim thước, dưới gốc cây là một ngôi cổ mộ, dưới tấm bia đá có hai cái chum thật lớn, bên trong cất dấu nhiều châu báu. Khi ra về, huynh hãy chờ đêm tối không có ai thì ra đào lên mà lấy. Nhớ kỹ, xin huynh đừng quên đấy.
      Nói xong, khảng khái dạt dào, lã chã lệ sa. Chương cũng cầm lòng không nổi, khóc chẳng thành tiếng.
      Một lát sau lại nghe có tiếng bọn lại dịch hò hét chửi bới, hung hãn như lang sói. Ðã đến giờ quan thẩm án
      thăng đường. Cả bọn đạo tặc năm tên bị lôi ra khỏi nhà lao. Sau đấy có tiếng hô gọi đến tên Chương, rồi chàng cũng bị đem ra khỏi nhà lao, dẫn đến công đường. Lúc bị thẩm vấn, thấy Chương mình mẩy run rẩy, đau khổ khóc lóc, Lâm Hắc Nhi vừa cười vừa mắng:
      - Ðồ cẩu trệ? Ta há lại quen nhà ngươi sao. Hôm Tết mồng năm tháng năm nếu biết đem rượu thịt đãi đằng bọn ta thì đâu đến nỗi này.
      Nhân thế chiêu cung:
      - Tên họ Chương này quả tình vô tội. Chẳng qua hôm chúng tôi đi đào tang vật lên, đường từ Hoài Âm đi qua nhà hắn, xin hắn cho ít rượu thịt, chẳng những hắn không cho, lại còn lấy cành hoa lựu mà đập lên đầu, nên để tâm thù hận, vu cho hắn để nhập chung cùng án, hắn thực không phải là người toa tàng đồ gian. Còn như bọn chúng tôi, phạm phải tử tội, không còn sinh lộ, nay xin chiêu cung để cho vụ án kết thúc.
      Vị quan thẩm án an ủi Chương, nói:
      - Anh là người dân lương thiện vô tội bị liên lụy, nhưng cũng có cái tội là không chiêu đãi khách hàng.
      Sau đó tháo cũi thả Chương ra.
      Chương khấu đầu tạ ơn rời khỏi công đường, đi tìm người con lớn ở lữ quán, thì quả nhiên được biết là năm tên cường đạo bị giết đúng ngày chàng được thả.
      Chương bảo con lén mua quan tài, thâu nhập thi thể của các cường đạo, rồi mua một khoảnh đất mai táng tử tế .
      Lúc về đến nhà, Chương cởi chiếc áo lót cùng hai chiếc áo ngắn tay ra xem, chỉ thấy sáng lạn lấp lánh đầy
      những vàng bạc châu báu, trị giá hơn vạn tiền.
      Ðến nửa đêm Chương đem sống cuốc ra chỗ gốc cây bạch dương, nậy tấm bia lên, thì quả nhiên ở bên dưới có hai chiếc chum lớn, đúng như lời dặn của bọn cướp, vật tàng trữ tính ra giá đáng hàng chục vạn.
      Từ đấy Chương trở thành cự phú, dời nhà đến Tô Châu, và bảo con cái chọn mua một khoảnh đất gần chỗ mộ phần của năm tên cướp, hàng năm cúng tế không quên.
      Chương cũng nghỉ nghề bán quán, chuyển sang kinh doanh thương mại. Ðến nay cả vùng Hoài Âm còn nghe truyền tụng câu chuyện trên đây.


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Nghiễm Nhiên Tề Nhân

        Tại huyện Hoài Ninh có người tú tài tên là Uống Sĩ Nguyên, nhân vì bần hàn nghèo khổ nên vẫn chưa lấy
        được vợ phải ngụ cư ở một vùng ngoại ô xa huyện và sống bằng nghề gõ đầu trẻ.
        Có tân Nguyên đến uống rượu tại nhà một người bạn cùng trong văn xã. Người bạn văn xã của chàng có một người vợ và hai người thiếp. Vì tranh sủng mà vợ chàng và hai người thiếp thường xảy ra những chuyện đấu khẩu cãi cọ lẫn nhau, nhiều khi vang dội ra đến tận nhà khách.
        Nguyên thấy vậy, tủm tỉm bảo với người bạn văn xã rằng :
        - Sách Mạnh Tử đã dậy rằng người nước Tề chỉ có một vợ, một thiếp mà thôi, nay huynh lại hơn hẳn người nước Tê những một thiếp, thế này thật là đáng đời rồi.
        Người bạn vừa xấu hổ vừa giận, nói:
        - Huynh khỏi cần chê tôi, chỉ sợ sau này huynh gặp hoàn cảnh như tôi, thì cũng co rúm lại như tôi mà thôi.
        Nguyên đáp:
        - Có được một người vợ đối với đệ cũng là khó, nói chi đến chuyện được đào thêm liễu nữa.
        Có ng­ời khách cũng ngồi ăn tiệc chung bàn là Lý Vạn Niên nghe nói thế cũng không nhịn được, phải ôm
        bụng mà cười sặc sụa.
        Sau đó ít lâu, Nguyên hỏi người con gái của một cựu thân hào họ Dương, là Tố Lan làm vợ. Tố Lan tuổi vừa đôi tám, lại nổi tiếng là dẹp, nhan sắc diễm kiều. Sắp đến ngày đón dâu thì bỗng cả vùng Qui Giang có lệnh giới nghiêm phòng bị giặc cướp.
        Người mẹ của Tố Lan phải đến Hừ Khê để dưỡng bệnh, còn nàng phải vội vã vào trong thành để thâu nhập các đồ vàng bạc tế nhuyễn. Giữa lúc nàng đang gói ghém hành trang thì nghe tin cửa phía Bắc của huyện đã bị giặc phá. Tô Lan hoảng hốt vứt bỏ mọi hành trang lại, đầu bù tóc rối, mặt mũi nhem nhuốc bẩn thỉu, lẩn vào đám dàn bà con gái hàng xóm, chạy ra cửa phía Nam. Ðường xa lộ dài, nàng lại bó chân, nên nỗi khổ cực kể chẳng hết.
        Những người chạy loạn, chạy được một vài dặm thì gặp một ngọn núi cao lớn chặn phía trước mặt. Ðàn bà con gái đều ngừng cả lại ở dưới chân núi để nghỉ ngơi lấy sức Thình lình có một gã kỵ binh phi ngựa chạy tới như bay, hô lớn báo cho mọi người là quân giặc đang vòng từ phía Nam núi bọc tới. Mọi người ai nấy nghe thấy thế đều kinh hoàng sợ hãi, bỏ chạy tứ tán.
        Tố Lan chẳng biết chạy đi đâu. Nàng thấy bên hữu của ngọn núi có một cây hòe già, đã chết khô, thật lớn, thân to bằng cả chục người ôm mới xuể, bên trong rỗng ruột, nàng bèn chui vào đấy để nấp.
        Quả nhiên, lát sau nàng nghe thấy có tiếng ngựa phi, tiếng người la hét, tiếng trẻ con khóc lóc, tiếng người già cả kêu gào thảm thiết, hỗn tạp suất từ giờ ngọ đến giờ thân, thanh âm mới dần dần biến mất, trả lại cảnh trí yên lặng trầm tịch.
        Bấy giờ, Tố Lan mới lén chui ra khỏi hốc cây, tìm đường đi. Nàng thấy có một thiếu niên từ trong bụi cây ló mặt ra ngoài, nhớn nhác nghe ngóng. Gã thấy đã yên tĩnh, bèn đi ra, tiến tới gần Tố Lan chắp tay vái chào, hỏi nàng đi đâu
        Nàng sót sa sùi sụt hỏi lại:
        - Chẳng biết đến Hứ Khê có xa lắm không thầy tú?
        Thiếu niên nhìn Tố Lan một hồi lâu suy nghĩ rồi nói:
        - Thật ra thì cũng không xa lắm đâu. Cách Lĩnh Nam khoảng năm dặm mà thôi. Nhưng mặt trời đã lặn, đêm khuya hoang dã, đầy những nguy hiểm, nàng lại bó chân, bước sen mạn hành, e rằng chẳng chết vì giặc cướp, thì cũng làm mồi cho hổ báo sài lang. Quãng chỗ suối chảy vòng đằng kia, có mấy gian nhà tranh, chính là nhà bà con của tôi đấy. Chỗ ấy yên lặng vắng vẻ, nhà không có đàn ông, chỉ có một bà lão già trông cửa, sao chẳng đến đó xin ngủ đỡ, sáng mai dạy nhờ bà ấy đưa về, bất quá tốn mấy quan tiền thù lao thôi. Ðó là cách hay nhất.
        Tố Lan cúi đầu suy nghĩ, thấy không còn cách nào khác, đành nuốt lệ đi theo thiếu niên. Chừng đến nơi, chỉ thấy mấy gian nhà không to gì lắm, với một bà già tóc đã bạc. Bà lão ngẩng đầu lên nhìn thấy một đôi trai gái xăm xăm bước vào cửa, lấy làm kỳ lạ hỏi:
        - Tướng công thừa cơ loạn lạc, lấy vợ không báo cho ai biết. Tiện quá nhỉ?
        Thiếu niên đáp:
        - Lão đừng có hồ đồ nói ẩu. Người ta là con nhà lương thiện tử tế. Xin cho ngủ đỡ một đêm rồi mai đi.
        Bà lão lải nhải hỏi thăm thiếu mền về tình hình giặc dã, rồi thở ngắn than dài chuyện có thằng con bị sung làm lính phòng ngự ở trong thành chưa về, nước mắt sụt sùi không dứt.
        Thiếu niên nói trá là con bà ta vẫn bình yên vô sự để vỗ về an ủi rồi dục bà ta đi chuẩn bị thổi cơm ăn. Nhưng Tố Lan vì lo nghĩ đến thân mẫu, nên chẳng sao nuốt nổi.
        Ðêm xuống, nhà lại không đèn, tối đen như mực.
        Thiếu niên đến ngủ ở một phòng khác, còn bà nằm chung với Tố Lan.
        Bà lão tỏ vẻ ân cần hỏi han về họ hàng gia thế của Tố Lan, thì nàng đáp:
        - Cha cháu ngày trước từng làm huyện lệnh huyện Văn Hỉ. Còn cháu đã được hứa gả cho người tú tài họ
        Uổng ở Nam Ðường, chẳng biết chồng cháu bây giờ sống chết ra sao.
        Nói xong thì nước mắt hai hàng.
        Bà lão an ủi:
        - Cái cậu vừa dẫn cô về đây cũng là một vị tú tài, tên là Lý Vạn Niên, ắt hẳn là người đồng học với chồng cô.
        Sao cô không hỏi tin tức cậu ấy. Cậu ấy là điền chủ cho tôi thuê khoảnh đất này. Gần đây, cậu ấy có hỏi cô Bốn nhà họ Phan làm vợ. Cô ấy rất đẹp, tiếc rằng giặc dã nên chưa kết hôn.
        Giữa lúc hai người trò chuyện, thì ngoài song cửa có tiếng chân bồi hồi lui tới của Lý Vạn Niên. Lại cả tiếng hắng dặng. Sau đấy là tiếng gọi bà lão ra ngoài, Tố Lan chỉ nghe tiếng thì thào nho nhỏ của Lý và bà lão, không rõ nói những gì.
        Lát sau, bà lão trở vào, thở hổn hển phì phò như bò, chân tay run rẩy. Chợt có tiếng mõ điểm canh ba. Bà lão dục Tố Lan lên giường ngủ. Nàng ngoan ngoãn y lời. Sau đấy, thấy bà ta trằn trọc xoay sở, miệng lẩm bẩm nói một mình:
        - "Già cả hồ đồ lú lẫn, chưa đóng cửa bếp, mèo hoang ìân vào kiếm ăn, e vỡ cả nồi niêu."
        Rồi đứng dậy khoác áo vào người đi ra.
        Tố Lan trong bụng cảm thấy sắp có điều bất trắc.
        Nàng chỉnh lại y phục cho ngay ngắn gọn gàng, nghiêm trang ngồi ghế chờ đợi. Quả nhiên thấy Lý Vạn Niên len lén đẩy cửa bước vào, đến bên cạnh nàng dở trò tán tỉnh.
        Tố Lan lớn tiếng mắng:
        - Sáng nay nhờ ông dẫn đường, đó là cái ơn, nhưng bây giờ cư xử với nhau thế này, thì còn gì gọi là ơn nghĩa nữa? Tôi là gái có chồng, ông cũng là người có vợ, "ruộng dưa vườn lý" phải biết tránh điều bị nghi kỵ, hơn nữa lại là kẻ đọc sách thánh hiền, xin ông chớ phóng túng dằm vào vết xe đổ.
        Lý không nghe, hỏa dục cấp bách, tay chân sờ lân thô lỗ Tố Lan phải hết sức vùng vẫy chống cự, hô hoán, gào khóc thê thảm, âm thanh vang động, vọng ra ngoài ngõ.
        Lý vẫn không chịu buông mồi, cứ ôm ghì chặt lấy Tố Lan.
        Trong khi đó, bà lão lại đứng ở ngoài nghe ngóng, canh giữ, không vào cứu.
        Giữa lúc vạn phần nguy cấp, bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Bà lão chạy vào bắt Tố Lan im tiếng không cho khóc rồi ra ngoài cổng, nhìn qua khe hổng, thấy hai người thanh niên, mặc áo chẽn, đầu quấn khăn đỏ, trông như lính giặc đi tuần đêm.
        Bà lão van vỉ nói:
        - Trăm lạy các đại vương, thương cho tôi, nhà nghèo trong lu không còn lấy hột gạo.
        Có tiếng người ngoài cổng đáp:
        - Muốn sống thì mở cửa ngay, chậm trễ ông cho mồi lửa cháy tiêu nhà bây giờ.
        Bà lão bất đắc dĩ, vừa tháo xong then cửa, thì hai thanh niên ào ào chạy xộc vào, nhưng Lý Vạn Niên đã
        trèo bức tường thấp ở phía sau nhà trốn thoát.
        Trước đó, lúc Nguyên đang ngồi dạy học ở ngoại thành thì nghe tin thành đã bị giặc chiếm. Chàng vốn tính
        phóng khoáng tự do, lại có thêm đôi chút võ nghệ, nên lấy khăn đỏ quấn lên đầu, ăn mặc giả làm lính giặc, đi ra ngoài thành nghe ngóng và tìm tin tức của Dương phu nhân và Tố Lan, gặp một người hàng xóm của nàng cho biết là nàng đã bị lạc.
        Nguyên buồn bã quay về. Giữa đ­ờng vô tình thấy có người con gái đứng khóc. Chàng phỏng chừng là Tố Lan.
        Gạn hỏi, té ra là Phan Tứ Cô, vợ đã cưới của Lý Vạn Niên, cùng chạy giặc với người em dâu mà bị thất tán, muốn tìm dện nhà Lý Vạn Niên nhưng không biết đường, xin Nguyên cho đi cùng. Nguyên từng có lân được Lý Vạn Niên mời đến nhà để xem đào nở, nên vui vẻ nhận lời ngay. Lại e ngại gái trai bất tiện, đồng hành người đời dòm ngó, mới nhặt những y phục, hài vớ đàn ông vứt ở dưới đất, bảo Phan Tứ Cô mặc vào giả làm con trai, rồi cầm lấy một hòn đá đánh lửa châm đuốc, dẫn Tứ Cô đi.
        Chừng đến cổng gia trang của Lý Vạn Niên, Nguyên nghe có tiếng đàn bà kêu khóc, lại thấy bà lão có vẻ hoảng hốt, sợ hãi đến run rẩy, lòng đâm nghi ngờ, bèn rút đoản đao dấu ở dưới hài, uy hiếp bà lão, nói:
        - Mụ dấu ai ở trong nhà, sao nghe tiếng người la khóc dữ vậy?
        Bà lão đáp:
        Ðó là ng­ời đàn bà được Lý công tử đưa về, nhân chạy loạn thất tán gia đình mà khóc.
        Lại hỏi đến Lý Vạn Niên, thì bà lão đáp:
        - Nghe có đại vương đến, Lý công tử trèo tường sau
        trốn khỏi rồi
        Nguyên nghe nói thế, dậm chân than trời, chỉ vào
        Phan Tứ Cô đang mặc giả trai, bảo với bà lão:
        Ðây là người vợ đính hôn của Lý. Thế này là lỡ hết.
        Biết làm sao đây?
        Phan Tứ Cô cũng cởi chiếc khăn giả trai đội ở trên
        đầu xuống, để lộ một làn tóc mây xinh đẹp, một khuôn
        mặt thiếu nữ khả ái thật là kiều diễm.
        Lúc bị Nguyên hỏi về người đàn bà do Lý dẫn về thì
        bà lão tỏ ra ấp úng không dám trả lời.
        Nguyên thấy trời cũng đã khuya, muốn từ biệt ra về,
        nh­ng Phan Tứ Cô một mực quyến luyến không rời.
        Chàng cười nói:
        - Tôi là Uổng Sĩ Nguyên, tự khi vợ tôi bị thất tán, tôi
        còn chưa tìm được, có thì giờ đâu mà quặc vợ người cơ
        chứ?
        Bà lão nghe thấy thế, kinh ngạc hỏi:
        - Vậy công tử có phải là Uổng tú tài không?
        Nguyên đáp:
        - Chính là tôi đây.
        Bà lão đáp:
        - Vậy phu nhân có phải là con gái quan huyện họ Dương tên là Tố Lan không?
        Nguyên hỏi bà lão sao lại hiểu biết tường tận như thế.
        Bà lão đáp:
        - Lúc công tử mới đến, làm tôi tưởng là giặc, sợ hết cả hồn. Nay mà lão kể rõ sự thật, thì e làm cho công tử mừng mà chết mất.
        Nguyên cố gạn hỏi, bà lão chỉ chỉ vào trong buồng nói:
        - Người gào khóc ở trong buồng kia, công tử hãy vào xem có phải là phu nhân chăng?
        Chừng Nguyên vào gặp, quả đúng là Tố Lan. Ngưu Lang Chức Nữ không hẹn mà gặp, kể sao cho hết nỗi vui mừng. Bèn gởi gấm Phan Tứ Cô lại cho bà lão săn sóc chiếu cố, còn Nguyên chờ trời sáng, ra thôn ngoài thuê một chiếc xe nhỏ đưa Tố Lan trở về Hà Khê.
        Khi ấy quân giặc đã lập xong ngụy chính quyền, an ninh trật tự tại vùng Nguyên ở cũng phần nào tái lập.
        Chàng chọn ngày lành tháng tết kết hôn với Tố Lan. Tuy thế, tặc binh nghiệt đảng vẫn đêm đêm xuất hiện hoành hành, cướp bóc tiền của, bắt cóc phụ nữ. Bất luận trẻ già, xấu đẹp, đều đem đến giam ở một nơi gọi là "Tỷ Muội Quán. " Giam giữ một thời gian không đủ lương thực cung cấp bèn ra bố cáo cho thân nhân mang tiền đến chuộc, hoặc bán làm nô tỳ, tiểu thiếp.
        Riêng về Tố Lan vóc người mảnh khảnh, quá yếu đuối, không làm nổi hết các việc gia vụ. Còn Dương phu nhân mừng vì được gặp lại con, cốt nhục đoàn viên, bịnh nhờ thế mà tạm thời thuyên giảm, nên nhờ một người hàng xóm già làm tiểu lại cho quân giặc ở địa phương vào trong thành mua một đứa nô tỳ, về làm con nuôi, để làm việc thay Tố Lan.
        Khi mang người nô tỳ về, cả hai vợ chồng Nguyên mới thoạt nhìn đã vô cùng kinh ngạc. Té ra người nô tỳ ấy không ai khác hơn là Phan Tứ Cô, mà Nguyên đã gặp cái đêm đến gia trang nhà họ Lý.
        Phan Tứ Cô thuật lại cho Nguyên biết:
        - Sau khi công tử đưa Tố Lan về được hai ngày, thì quả nhiên Lý tìm về nhà, nhưng ngồi chưa nóng chỗ, giặc đột nhập thình lình. Lý không kịp chạy, bị giặc bắt được.
        Chúng hạch sách tiền bạc gắt gao, Lý chối không có, nên bị chúng nổi giận đánh cho vô kể. Bà lão thấy vậy, chạy ra van vỉ xin hộ, liền bị lôi ra chém đầu cùng với Lý.
        Riêng thiếp, bị chúng bắt về giam ở "Tỷ Muội Quán, " lăng nhục ngược đãi còn hơn cả bọn xướng kỹ hạ tiện. Không ngờ hôm nay lại được gặp lại công tử.
        Cả nhà nghe xong, ai nấy đều nhìn nhau cảm khái thương cho số phận của nàng. Nàng xin Nguyên cho được làm tiểu thiếp. Nhưng Nguyên thẳng thắn từ chối, nói:
        - Tuy rằng Lý đã chết, nh­ng nàng cũng nên vì Lý mà thủ tiết. Chẳng nên có ý như vậy!
        Khiến cho Tứ Cô đỏ hồng mặt xấu hổ. Nhưng Tố Lan đã vội vã phất tay áo đứng dậy, vỗ vào ngực, than thở:
        - Trời ơi là trời ? Ðúng là báo ứng rõ ràng không sai chút nào. Thiếp không phải kẻ đố ky, ghen sằng. Chàng cũng chẳng phải hủ lậu câu chấp. Xin chàng hãy nhận lời Tứ Cô cho thuận ý trời và hợp lòng người.
        Nguyên hỏi lý do, bấy giờ Tố Lan mới đem chuyện Lý Vạn Niên lập kế hãm hại nàng, thuật lại đầu đuôi.
        Phan Tứ Cô nghe thế cũng không dằn được cơn giận, nói:
        Làm chồng mà táng tận lương tâm như thế, có xuống âm phủ bị mọi hình phạt cũng là đáng lắm.
        Nguyên khiêm tốn từ tạ lời yêu cầu của Tứ Cô, và tự cảnh giới mình, nói:
        - Làm kẻ đọc sách thánh hiền mà không giữ phạm hạnh, Lý Vạn Niên chính là cái gương cho mọi người soi đấy
        Vài hôm sau, Tố Lan cố ý chuốc rượu Nguyên say, rồi lén cho Tứ Cô đến ngủ thay chỗ của mình. Nguyên sẵn men rượu, không rõ mận đào, bèn cùng Tứ Cô hoan lạc
        Việc vừa xong, thấy Tố Lan cầm đèn, bưng trà nóng từ nhà ngoài vào cho hai người uống, khiến cho Nguyên cảm thấy thập phần lúng túng, bảo với Tố Lan.
        - Ta chẳng phải là kẻ ham thích gà đồng mà ghét bỏ gà nhà. Chẳng ngờ hôm nay lại rơi vào bẫy của khanh!
        Tố Lan cười đắc ý, nói:
        - Thiếp giỏi sửa sang sạn đạo, ám độ. Trần Thương cho chàng đưa quân vào cửa Hàm Cốc, chàng còn trách gì nữa ?
        Lúc đó, thế giặc còn mạnh, chưa hẳn tiêu diệt, mà Nguyên đã một thê, một thiếp, sống như người nước trong sách của Mạnh Tử vậy.



        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #19
          Giả nữ

          Triều đình có vị quan họ Sách, trong nhà có nuôi một nam bộc, chẳng những thạo đàn tỳ bà, lại còn ca hát rất hay. Mỗi khi có yến ẩm tiệc tùng, Sách công đều sai người nam bộc ấy ra gấy đàn ca hát giúp vui. Các bạn đồng liêu của Sách Công ai cũng khen ngợi, thưởng tiền bạc rất nhiều. Nhân thế, người nam bộc ấy trở thành giàu có hơn các bạn cùng nghề. Tuy vậy, đã hai mươi tuổi, mà anh ta vẫn chưa lấy được vợ, trong lòng cũng hơi có ý oán trách chủ nhân.
          Mùa Xuân năm Canh Ngọ, Sách Công cùng gia đình tính đi tế mộ phần, nhưng mộ phần lại nằm ở phía ngoài thành môn, cách thành cả vài chục dặm.
          Trước ngày đi một hôm, Sách Công sai nam bộc cùng một người lão bộc già ra đi trước để sắm sửa chuẩn bị.
          Lúc hai người ra khỏi thành môn, thì trời đã quá trưa.
          Họ vừa đi vừa chuyện vãn, kể lể sự tình; phần nhiều là những chuyện có liên quan đến bọn nữ tỳ, nô bộc trong nhà Sách Công.
          Ði được nửa đường thì gặp một tửu điếm, cả hai bèn ghé vào mua rượu thịt đánh chén. Rượu được vài tuần, còn chưa đủ hứng, bỗng nghe ngoài cửa quán rượu có tiếng người hỏi vọng vào:
          - Lục Tam Ca, đã lâu chẳng gặp, sao chẳng đến chơi thăm đệ?
          Lục Tam Ca là nhũ danh của người nam bộc lúc còn nhỏ. Trong nhà Sách Công mọi người ai cũng quen gọi người nam bộc bằng tên ấy cả.
          Nghe thấy có người gọi đúng tên cơm của mình, Tam vội vã chạy ra cửa xem ai. Té ra là một người đầy tớ làm trong nhà một vị quan đồng liêu với Sách Công đã bị đuổi đi trước đó tên là Lương, vốn là chỗ giao tình thắm thiết với Tam. Bèn mời vào cùng ngồi uống rượu, chén chú chén anh. Người lão bộc già cảm thấy tức bực, sắc mặt lộ vẻ không vui. Nhưng Tam mặc nhiên chẳng hề để ý, cứ tiếp tục cùng Lương đối ẩm. Mãi một lúc lâu mà vẫn không có ý khởi hành.
          Thấy thế, người lão bộc già đứng dậy bảo với Tam:
          - Sợ làm hỏng việc của chủ nhân, ta đi trước một chút, chú từ từ uống xong thì đi sau nhé.
          Tam ỷ được Sách Công thương, nên đồng ý để cho người lão bộc đi trước, rồi cười bảo với Lương:
          - Lương huynh lúc này làm trong phủ đệ nào mà quần áo hài vớ lam lũ không được như trước vậy?
          Lương xua tay, vội vã ngắt lời Tam lại, nói:
          - Chuyện khá ly kỳ, chỗ này không tiện nói?
          Tam cố gạn hỏi thì Lương đáp:
          - Ðợi uống hết hũ rượu này, ra ngoài đường đệ sẽ kể rõ cho huynh nghe.
          Bấy giờ Tam mới thôi không hỏi nữa. Hai người tiếp tục uống say tít thò lò, bước ra khỏi tửu điếm, khoác vai nhau cùng đi.
          Tam lại lè nhè bảo với Lương:
          - Lương huynh có tâm sự, sao chẳng nói cho đệ nghe ngay bây giờ đi.
          Lương đáp:
          - Ðúng ! Ðúng ? Ðệ có chuyện phải kể cho huynh nghe, nhưng cho đệ hỏi huynh một điều. Huynh bấy nhiêu tuổi, đã thử "ấy" lần nào chưa?
          Tam nghe Lương hỏi thế thì thẹn thùng đỏ mặt, đáp:
          - Ðừng đề cập đến chuyện đó làm gì, chỉ khiến đệ tức chết mà thôi.
          Lương tiếp:
          - Thế ra, huynh vẫn chưa có gia thất gì cả sao? Chủ nhân mới của đệ là một vị phụ nữ họ Giả, sau khi chồng chết, vẫn sống quả cư , nhưng nhan sắc tuyệt vời. Trong nhà nuôi toàn nam bộc, hẳn là có dụng ý. Nếu huynh có thể theo đệ đến gặp, ắt thế nào cũng có điều hay.
          Tam không tin, nhưng tiện miệng đáp:
          - Chuyện đó có thật sao? Nhưng chủ nhân lại là một mỹ nữ, thì đâu phải người để cho bọn nô bộc đầy tớ mó tới được ?
          - Thì huynh cứ đi theo đệ một lần thì sẽ biết thật hay giả .
          Tam cũng muốn nghiệm xem lời Lương có đúng không, bèn hoan hỉ đi theo.
          Hai người đi vào một con đường vòng vèo khúc khuỷu mãi lúc trời đã về chiều mà vẫn chưa đến nơi.
          Tam bảo với Lương:
          - Huynh làm hỏng công việc của đệ rồi. Về nhà tất sẽ bị chủ nhân trách mắng. Biết làm thế nào bây giờ?
          Lương cười nói đùa:
          - Huynh đến đó thì không về nữa đâu. Còn sợ gì trách mắng !
          Lại đi thêm một quãng độ hai dặm nữa thì đến một tòa phủ đệ, chung quanh tường vây mấy lớp, phòng thất hàng hàng la liệt, khí tượng thật là nguy nga tráng lệ. Bây giờ đêm đã quá khuya, Tam nghe rõ tiếng mõ đổ canh hai.
          Lương bảo với Lục Tam:
          - Ðây là nhà chủ nhân của đệ. Ðệ vào trước, huynh tạm đứng chờ một chút nhá.
          Nói xong thì đi.
          Còn lại một mình Tam. Chàng để ý quan sát cặn kẽ.
          Ngoài cửa trông rất chỉnh tề, sạch sẽ, nhưng tuyệt khống một bóng người, vắng vẻ lặng lẽ như tờ. Tam trong bụng lấy làm lạ.
          Một lát sau, Lương ở trong nhà đi ra, bảo với chàng :
          - Chủ nhân cho mời huynh vào. Huynh nên lấy lễ tương kiến.
          Tam gật đầu đồng ý, rồi theo Lương vào. Ði qua một dấy hành lang và mấy lần cửa, hai người mới đến khuê . Ðầu óc chàng mông lung mê cảm. Hình dung và thân thể mỹ nhân cứ quanh quẩn không sao rời khỏi não bộ của chàng.
          Hôm sau trời mới hừng hửng sáng, Tam cũng vừa mới thức dậy thì đã thấy Lương đến. Sau vài lời thăm hỏi,
          Lương nói:
          - Cơm ở đây ăn không hợp khẩu đâu .
          Rồi kéo chàng đi ra ngoài thôn mua rượu thịt đánh chén. Bữa sáng, bữa chiều, Tam đều được Lương đãi đằng tử tế . Mãi đến tận trời sâm sẩm tối, hai người mới kéo nhau về đi ngủ. Liên tiếp mấy ngày liền đều như thế. Tam có ý ngờ trong bụng. Một lần chàng cố ý trì hoãn nằm nán lại giường, nhưng mãi cũng không thấy ánh thái dương, chừng đến lúc cùng Lương ra khỏi cửa, thì mặt trời đã ở trên đỉnh đầu. Tam lấy làm áy náy, xin Lương đưa về.
          Lương nói:
          - Huynh nóng gấp quá, tối qua đệ đã bẩm với chủ nhân rồi. Bà đồng ý tiếp huynh tối nay, không để huynh ở lãng phí thời gian đâu.
          Buổi tối, Tam và Lương trở về nhà thì được khẩu tín của chủ nhân, truyền Tam đến gặp ở chỗ cũ. Chàng y lời, đứng ngoài rèm bái kiến, nghe bên trong có lời truyền ra, giọng nói dịu dàng ấm áp:
          - Nghe đồn khanh đàn giỏi hát hay lắm, hôm nay nhàn hạ, khanh có thể đàn cho ta nghe thử một khúc được chăng?
          Tam cung kính nhận lời.
          Lương kê một chiếc ghế thấp ở dưới cột nhà, rồi đem ra một cây đàn tỳ bà trao cho Tam. Chàng thấy cây đàn bóng loáng sáng sủa, trong lòng rất thích, bèn lên giây nắn nắn phiếm, giở hết bình sinh tuyệt kỹ ra gầy. Nhưng bên trong tuyệt nhiên chẳng có một lời khen thưởng nào.
          Khi chàng đàn vừa dứt, thì Lương đến bảo:
          - Chủ nhân nói rằng tài nghệ của huynh như thế chưa có gì độc đáo, huynh còn có giọng hát hay nữa, xin cho chủ nhân nghe thử.
          Tam đặt cây đàn xuống, ngân giọng cất tiếng ca, thì trong rèm có tiếng thở dài khe khẽ lọt ra, tựa hồ như có vẻ vừa lòng mãn ý với giọng ca của chàng. Tam ca tiếp thêm mấy khúc nữa, bấy giờ mới nghe bên trong rèm có tiếng cười hoan hỷ khoái lạc vọng ra.
          Sau đấy chủ nhân ra lệnh cho cuốn rèm lên, ánh sáng ùa ra soi tỏ khắp hành lang. Tam ngẩng đầu hé mắt liếc nhìn trộm, thấy một bầy tỳ nữ, lão ẩu, xiêm y quần áo người nào cũng phi thường rạng rỡ chỉnh tề, sạch sẽ, đứng vây chung quanh một mỹ nhân, trên dưới không che một mảnh vải, thiên nhiên ngọc lộ, y hệt người mà chàng đã được nhìn trộm.
          Trước cảnh tượng ấy, Tam cực kỳ kinh ngạc, tự hỏi thầm trong bụng, chẳng biết người tiên hay người trần.
          Giữa lúc Tam còn đang nghi hoặc vẩn vơ, thì mỹ nhân cho lệnh truyền mời chàng vào trong nội thất, ban
          ghế mời ngồi. Hai người ngồi đối diện với nhau, nhưng nàng vẫn tự nhiên, không hề e lệ ngượng ngùng.
          Thấy thế Tam không thể cầm nổi lòng tà, lửa dục phừng phức bốc lên.
          Mỹ nhân cười, quay sang bảo với bọn tỳ nữ:
          - Cái anh chàng thật là được voi đòi tiên, mắt cứ hau háu nhìn, làm ta không còn đất mà trốn nữa.
          Rồi nàng sai tắt đèn, dắt Tam lên giường cùng nằm.
          Bọn tỳ nữ, lão ẩu, đều cười hoan hỷ, bỏ ra ngoài.
          Tam ôm nàng vào lòng, thân thể nõn nường như gấm, da dẻ trơn tru mịn màng như mỡ, bèn cùng mây mưa hoan lạc, điên đảo chiếu giường. Thật là một duyên kỳ ngộ lạ lùng, bình sinh Tam không hề dám tơ tưởng.
          Sáng dậy, Lương lại đến đưa Tam ra ngoài thôn ăn uống. Nhưng hôm sau cũng đều như thế.
          Chủ nhân cũng là người giỏi đàn tỳ bà, nàng đem tất cả sở trường tuyệt kỹ của mình truyền thụ cho Tam.
          Nhưng từ sau ngày Tam cùng chủ nhân chăn chiếu thì hình sắc hao mòn, dần dần có ý bớt cùng nàng gần gụi.
          Tuy vậy, mỗi lần thấy bóng dáng nhu mì, khả ái của nàng xuất hiện, thì cựu tật như cố, không sao đừng được. Chỉ quá vài tuần Tam tiều tụy, gầy guộc như củi khô không lá.
          Một hôm, Tam cùng Lương ra ngoài thôn ăn uống trong một tửu điếm. ăn xong, Tam thấy trên tường có đàn tỳ bà, bèn đem xuống gầy. Giữa lúc Lương hết sức khuyên Tam dừng lại, thình lình bên ngoài có một số người xông vào quán miệng hô lớn:
          - Nó đây rồi ! Thằng bỏ trốn nó đây rồi ?
          Tam kinh hãi, dương mắt nhìn. Té ra bọn người đó đều là sai dịch của Sách Công, được lệnh đi lùng bắt Tam.
          Giữa lúc hỗn loạn, huyên náo, Lương biến mất tăm tích, không ai hay.
          Bọn người sai dịch hò hét tiền hô hậu ủng, áp giải Tam ra ngoài đường. Tam cố nài nỉ xin họ thong thả giây
          lát, sao bắt cho được Lương để cùng đến gặp Sách Công.
          Trong số bọn sai dịch, có người trách mắng Tam:
          - Chú mày có điên không? Thằng Lương từ khi bị chủ đuổi, ra sống ở ngoại thành bằng nghề làm thuê làm
          mướn, được ít tháng chết vì bệnh thổ huyết, đến nay cũng ba năm rồi, dẫu có đổi kiếp sống lại, cũng chưa biết bò, lẽ nào có thể lãnh tội thế chú mày được.
          Tam nghe vậy, lấy làm ngạc nhiên, mới đem hết sự tình kể lại cho bọn sai dịch biết. Bọn sai dịch nhìn thấy
          Tam thân thể gầy đét cũng không khỏi ngạc nhiên, bèn cùng Tam tìm đến chỗ chàng nói.
          - Chừng đến nơi, chỉ thấy cỏ dại um tùm, khói hoang phảng phất, lớp lớp mộ phần, tuyệt vô nhà cửa phủ đệ.
          Tam lại càng sợ hãi, hỏi thăm cư dân quanh vùng.
          Một người đương địa cười, bảo với Tam:
          - Người mỹ phụ mà quan bác gặp, chính là người con gái họ Giả ở thôn phía trước mặt đấy.
          Mọi người tò mò hỏi thêm chi tiết câu chuyện. Thì đáp:
          - Họ Giả là một nhà đại phú, có người con gái vô cùng xinh đẹp, rất mê đàn tỳ bà. Ðến khi lớn lên, người
          con gái tư tình với một cậu thanh niên cùng thôn. Cha nàng nghe thấy thế, giận không dằn được, mới lập kế mai phục, để bắt hai người tại trận đang khi ngủ với nhau.
          Nhưng người con trai trèo qua cửa sổ trốn thoát, còn người con gái xin được chết toàn thây. Vì thế, nàng bị lột hết quần áo, bỏ vào quan tài chôn sống. Người mẹ thương con lén để một cây đàn tỳ bà cho cùng tuẫn táng, chuyện xảy ra cách đây cũng năm năm rồi. Những người đi gác đồng ban đêm, vẫn thường nghe văng vẳng có tiếng đàn ở dưới mộ nàng trổi lên. Mỹ phụ mà quan bác gặp chắc là người con gái họ Giả này đấy chăng?
          Bấy giờ mọi người mới tin lời nói của Tam là thực.
          Hỏi tới ngôi mộ của Lương, thì người đương địa lấy tay chỉ:
          - Kia kìa, cái nấm đất nằm dưới gốc cây bạch dương là mộ phần của Lương đấy.
          Bọn sai dịch đều phá lên cười, trào phúng bảo với Tam:
          - Chú mày cũng nên đến đó mà tạ ơn người làm mai chứ.
          Rồi ồn ào đưa Tam về giao nạp cho Sách Công.
          Trước đó, Sách Công cũng đã hỏi người lão bộc già, thấy câu chuyện có vẻ nhiêu khê, chừng gặp lại Tam, biết là chàng bị ma ám, nên cũng không khiển trách chi cả.
          Sau đó, Tam bị bệnh mất mấy tháng trời, tưởng nguy đến tính mạng, cuối cùng may thoát được. Tam xin Sách Công cho chuộc lại khế khoán, xuống tóc đến Chính Giác tự tu hành, lấy pháp danh Phổ Thông hòa thượng.
          Những lúc nhàn rỗi, Tam thường đem chuyện mình đã trải qua kể cho mọi người nghe. Ai nấy đều le lưỡi
          kinh sợ.


          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment

          Working...
          X