Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Lửa Hận Rừng Xanh - Tác giả: Hoàng Ly

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Lửa Hận Rừng Xanh - Tác giả: Hoàng Ly

    Hồi Thứ Nhất

    Qủy Sứ Biên Thùy

    Bình minh bắt đầu lên. Ánh mặt trời hừng sáng dần dần quét sạch bóng đêm hãi hùng trên vùng biên địa phân mao Việt Trung. Cảnh vật trở lại bình thường, chim kêu, vượn hú vang lừng chào đón một ngày chớm sang thu...

    Viên tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh đảo một vòng quan sát đoạn quay về cùng viên giám binh vào chân núi thăm "đứa nhỏ vòng xanh" cùng mấy người bị nạn.

    Qua một đêm kinh hoàng thức trắng, lão Kinh trưởng đoàn buôn lậu vẫn còn hơi mệt, nhưng nhờ đắp thuốc nên các vết thương bị sói cắn cũng đỡ đau nhức. Mọi người đang quây quần quanh đứa nhỏ bàn tán không ngớt. Đứa bé vừa thức. Nó giương cặp mắt đen láy nhìn mọi người, rồi như nhớ mẹ, nó mếu máo, bi bô gọi mấy tiếng, cả tiếng Kinh lẫn tiếng Thổ lơ lớ. Người đàn bà Thổ vội bế nó lên cho bú. Viên tướng lạc thảo nhe răng cười đùa với nó. Đứa bé ngừng bú nhoẻn miệng Hai chú kia! Mau bồng đứa nhỏ qua đây với ta, không sợ!

    Lão cưỡi lừa đứng giữa đầu cầu, con tinh sói đứng xế bên cạnh. Vừa thấy viên giặc lên:

    - Nhỏ con ngộ dữ à! Tội nghiệp! Tự nhiên phải chịu mồ côi! Tỉu nà, bố nó đâu để vợ con lạc lõng giữa rừng mắc nạn chó sói! Hầy à! Nhỏ con ráng ăn cho mau lớn, học võ, giết hết loài chó sói, báo thù cho mẹ à!

    Lạ thay, tự nhiên thằng bé không cười nữa. Hình như linh giác nó cũng biết, mặt nó bỗng một nhát cùng lúc thổi phù một hơi vào mat ông lão kỳ dị. Nhưng ông già đã phất "phạch" tay áo rộng. Luồng gió thối khẳm của con tinh sói cùng đòn công bằng đìa hai má phính có núm đồng tiền như con gái.

    Lão Kinh buôn lậu ngậm ngùi ứa lệ, đưa tay ôm đứa bé vào lòng run giọng:

    - Trời ơi! Oan cừu này động đến Cửu tuyền... Con nhỏ lên hai cũng linh cảm được mẹ hiền thác oan!

    - Chỗ biên thùy vắng vẻ này không thể ở lâu được! Giờ mọi người mau ăn uống cho khỏe rồi còn theo bản chức về tỉnh!

    Viên giám binh Cao Bằng khoát tay ra lệnh cho mọi người. Tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh chợt trầm lời bảo:

    - Đường về Cao Bằng nạn thảm thương... Hà!

    Trên gương mặt "cô hồn" của kẻ từng dọc ngang vào sinh ra tử đùa với súng đạn, tử thần khắp mấy cõi biên thùy, chợt như bị một đám mây mờ u ám che phủ. Y thở phì một hơi dài như muốn trút sạch những bi cảm, xót thương ray rất khó ngăn chặn. Nó lại đánh hơi rất thính. Nếu không lừa nổi nó chắc khó lòng đem đứa bé về Cao Bằng. Vậy phải tội nghiệp qua! Đùa với lão chút cho vui nào! Hi hi!

    Đứa nhỏ chẳng lạ người gì cả, nó để mặc lão bế, hai con mắt đen láy mở to nhìn lão không chớp. chớp. Lão quét bộ râu xuyên sơn tới vùng Nước Hai rồi nó cựa quậy cười ré lên. Mot già, một trẻ đùa giỡn tự nhiên thoải mái như đã thân quen từ lâu rồi!

    - Ôi chao! Nhỏ con ngộ dữ! Không sợ lão râu dài! Không sợ chú trâu đất râu xồm! Ê, nhỏ con có sợ chó sói không?

    Đang cười ngặt nghẹo vừa nghe nhắc đến "chó sói" tự dưng thằng bé nín bặt, mếu máo chực òa khóc. Khiến ông già phải trố mắt ngạc nhiên:

    - Ôi! Thằng con nít không lạ, nói đến chó sói nó mếu ngay! Chậc! Con nít linh mẫn lên đường. Trước đó viên tướng lạc thảo Quảng Tây đã cùng lão Kinh buôn lậu bí mat bồng đứa nhỏ kiếm chỗ nấp kín, trét đất khắp người, cả đứa nhỏ cũng được trùm chăn phủ đất cho khỏi lộ hơi người. Chừng đoàn quân của viên giám binh đã rút khá lâu, cả hai người mới lần ra chỗ dấu ngựa sẵn. Viên giặc khách lắng nghe tiếng con hoẵng kêu "hoăng hoăng" trong sương sớm, hất hàm bảo lão Kinh:

    - Đi về phía đó! Có tiếng hoẵng kêu chắc rừng không có sói... chẩu gấp!

    Hai con ngựa cùng ra roi phóng như gió cuốn. Bóng nhân mã bôi trát đầy đất phi loang loáng qua những tia nắng mờ xiên kẽ lá coi quái gở như vừa từ dưới lỗ huyệt chui lên.

    Mãi đến lúc rời xa vùng đóng trại đêm qua đến bảy, tám dặm, hai người mới hạ nước ngựa, chạy kiệu băm lóc cóc. Người, ngựa cứ nhắm thẳng theo hướng Nước Hai - Cao Bằng đi tới. Cả hai đều mang "địu" trước bụng nhưng viên tướng lạc thảo mang đứa nhỏ. Ngựa phi hơi xóc như nhẹ như ru đứa bé mồ côi vào giấc ngủ thiu thiu.

    Đến khoảng năm sáu giờ chiều, ngựa đang lướt trên một trái đồi, bất thần giữa cảnh hoàng hôn cô tịch chợt nổi lên tiếng chó sói tru hộc vang vang.

    Tướng lạc thảo Thoòng Mềnh cùng lão Kinh giật mình ghìm cương ngoái nhìn tứ phía: từ đằng sau cách khoảng hơn trăm bộ, một bầy sói mắt đỏ đang ào ào đuổi theo.

    - Tỉu nà! Đúng lũ "quỉ mắt đỏ" rồi! Chẩu ép buộc đâu! Ưng hay không là tùy các chú! Ta chỉ hơi tiếc vì đứa nhỏ này có căn cốt thượng thừa! Thôi, tùy các chú! Chao nhé!

    Dứt lời lão giao cầu mây bắc ngang vắt vẻo. Lão buôn lậu mừng rỡ reo lên:

    - A! Câu mây treo kia rồi! Qua khỏi chỗ này có lối về tỉnh đấy! Lão đã qua đây một lần, Sếnh sáng Tài Wang à! Ta qua cầu xong chặt phứt đi ắt lũ sài kia không theo được!

    Lão cùng viên tướng lạc thảo tế ngựa vọt lên cầu. Ngờ đâu mới tới giữa cầu mây, dập dềnh ngó sang bờ bên kia đã thấy một hình thù lông lá xồm xoàm, bờm vàng rũ lòa xòa, hai con mắt đỏ khé như hai cuc than hồng, đứng lù lù dòm sang.

    - lại xảy ra sự bất trắc! Hầy à, kẻ thù của thẳng nhỏ là con tinh sói cực kỳ lợi hại, ai là người đủ tài sức dạy dỗ nó báo nổi thù nhà sau này, ngoài phần quái đản. "Nó" phát âm, chìm gai rợn tiếng người:

    - Hai tên kia mau nộp đứa con nít vòng xanh, chúa sẽ tha tội. Bằng trái lời chúa sói cho sói ăn thịt hết!

    Kinh hoàng hai người quay mạnh mẽ như thôi thúc lão Kinh buôn lậu. Lão cắn chặt môi muốn rớm máu cố nén xúc cảm, giây lâu chợt thở ra giọng trầm hẳn buồn menh mang:

    - Phải! Xếnh Trời! Huê Dung Đạo là đây! Trời hại đứa nhỏ mồ côi rồi! Tỉu nà! Bắn!

    Y rút phăng hai khẩu pạc-hoọc nổ liên hồi.

    Đoàng! Đoàng! Đoàng! Cư mỗi phát đạn là một con chó sói lại cười hi hí:

    - Sao? Hai chú trâu đất còn cần gì nữa? Sao không thẳng đường về Cao Bằng cho sớm?

    Lão Kinh buôn lậu ghìm cương, nhảy xuống phục chúa sói ăn thịt hai thằng trâu đất!

    Giọng con tinh sói chúa âm u vang lên giữa tiếng súng nổ. Pạc-Hoọc Đại Vương Thoòng Mềnh chĩa vụt ngọn súng về phía nó nổ liền hai phát. Một phát trúng giữa tam tinh, một phát ngay giữa ngực, nhưng nó chỉ hơi lắc lư thân hình đôi chút, không hề hấn gì. Cạch! Hết đạn! Viên tướng lạc thảo trợn mắt, thở phì:

    - Tỉu nà! Thế là hết!

    Lão Kinh cũng bắn hết hai cối đạn, chán nản ném súng xuống vực thác.

    - Trời hại ta rồi, Tài Wang ơi!

    Hai người đưa mắt nhìn nhau. Tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Một đầu cầu con chúa sói trấn giữ. Một đầu là bầy sói hung tợn đang tru hộc và càng lúc càng đông vì những đám sau ào ào kéo tới. Nhưng hình như chưa có lệnh con chúa đàn nên chúng chưa xông tới ngay, chỉ nhe nanh múa vuốt rú lên từng tràng rởn ốc, vẻ bồn chồn nóng nảy. Con sói chúa ung thù cho mẹ! Tốt lắm! Tiểu lư ơi, từ nay cũng ta có anh bạn tí hon. Hi hi! Ha ha!

    Lão Kinh buôn lậu đợi lão dứt tràng cười khoái trá, rụt rè hỏi:

    - tăng cường cường độ kích thích ....

    Lập vị. (Vị thế đứng )

    Nam nhân đứng ở sau lưng nữ, cho vào từ phía sau. Cách này chỉ thực hiện dễ dàng khi nữ nhân hơi cong đầu gối và Bẩm, chẳng hay lão trượng có thể cho bọn này biết đại danh cùng nơi cư ngụ của ngài chẳng?

    Ông già kỳ dị dòm sững lão buôn lậu rồi ngửa khách mặt tiếp tục cười. Toàn thân lão rung động lên theo tiếng cười bốc cao vang động khắp cánh rừng. Thằng nhỏ ngơ ngác giương mắt nhìn thao láo. Bỗng nó chúa sói sẽ cho hai đứa thành hai cái túi da!

    Giọng nó như cào màng tang khiến ai nấy đều dựng tóc gáy. Trong phút nguy nan, lão Kinh buôn lậu chợt động tâm nghĩ vụt trong đầu:

    - Lạ dữ! Tại sao nó không ùa ra vồ? Con quỉ này lợi hại vô cùng, nó chụp bắt lúc nào chẳng được, sao còn mất công giục nộp? À, chắc nó sợ bồng đứa nhỏ đứng giữa cầu... Nó sợ rớt mất đứa nhỏ vòng xanh này!

    Lão ghé tai viên giặc khách thì thầm, tướng lạc thảo Thoòng Mềnh hiểu ý, dòm xuống vực thác sâu hun hút, vùng hô lớn như lệnh vỡ:

    - Chó sói đông như kiến, thà chết mất xác còn hơn vào bụng chúng! Buôn lậu! Chuẩn bị nhảy xuống thac... mau!

    - Khoan, hai thằng trâu đất! Nộp đứa con nít cho chúa sói sẽ được toàn mạng!

    Con tinh sói chúa đàn vội lên tiếng ngăn cản. Có lẽ nó cũng sợ đứa nhỏ rớt xuống vực sâu.

    - Chúa sói không ăn thịt thằng con nít! Hai đứa mau nộp đây!

    - Tỉu nà! Tin sao được! Trao nó cho mi để mi ăn thịt nó à! Tỉu! Tao thà nhảy thác chết cả lũ còn hơn để nó bị mi biến thành cái túi da như mẹ nó đã bị...

    Viên giặc khách cố ý nói dông dài với con sói tinh đầu đàn giục hoãn cầu mưu. Lão Kinh bèn thừa dịp đảo mắt quan sát địa thế hòng tìm cách thoát hiểm. Đang lúc căng thẳng, vô kế khả thi, thình lình từ xa bỗng vẳng tiếng nhạc đồng khua loong coong hết sức lạ tai. Cả Lão Kinh, tướng lạc thảo và con tinh chúa sói cùng ngoảnh trông ra. Từ sau vách núi cạnh đường mòn bên bờ kia có một người cưỡi con lừa đủng đỉnh đi ra. Người và vật nom hết sưc cổ quái. Con lừa nhỏ bé như con ngựa thồ, tai vểnh như hai tàu lá dừa, mắt thao láo, gầy nhom, cổ đeo tràng lục lạc từng cái to bằng nắm tay một. Ngồi trên lưng nó là một ông già hình dung rất ngộ, mặc quần áo sô như có đại tang, râu dài đến rốn. Mặt nom sáng lạ nhưng coi đầy vẻ bi thảm thê lương. Bên mình đeo lủng lẳng đến mười mấy cái bầu lớn nhỏ, tay lại cầm một cái ô màu trắng đương xòe rộng. Ngó gần càng lạ vì tuy mặt mũi ông ta nom bi thảm nhưng da dẻ hồng hào, tuyệt không một nếp nhăn, đầy vẻ tiên phong đạo cốt.

    Đến gần con tinh sói đầu đàn, ông già đưa tay vẫy vẫy ra hiệu:

    - Chó sói! Mi đứng đó làm gì? Tránh ra cho lừa đi, nào!

    Con tinh chúa sói đưa mắt đỏ khé dòm ông lão lừ lừ, viên giặc khách vùng kêu lớn:

    - Ông già! Chạy mau đi kẻo nó vồ ăn thịt bây giờ!

    Ông lão ngó nghiêng ra nhận thấy hai người đứng giữa cầu, hất nó bắt!

    Lão Kinh cũng bật kêu hoảng. Ông lão kỳ dị quay sang ngó sững con sói chúa, cười hi hí như trẻ con:

    - Hi! Con chó sói này to ghê! Dễ thường cao đến hai thước tây đấy nhỉ? À, mắt đỏ khé như than hồng, đúng giống Hồng Cẩu Quẩy!

    Con tinh sói nãy giờ im lặng bỗng giơ hai chân trước vẫy ra hiệu cho ông già đi qua cầu treoách cho ngựa vượt lên trước phi nước đại. Lão buôn lậu lật đật phi theo. Hai bóng nhân mã theo nhau lướt nhanh qua những thung, đồi trùng điệp... Màn đêm đang bắt đầu phủ xuống núi rừng cô tịch...
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:


  • #2
    Hồi Thứ Hai - Qúai Vật Hồ Ba Bể

    Hồ Ba Bể, một chiều dịu nắng...

    Trời đang xanh thẳm, gió thổi hiu hiu mang theo hơi nước từ mặt hồ mát rượi. Thình lình mây đen từ đâu kéo về lớp lớp, cảnh vật sa sầm, gió thổi ào ào, cây rừng trút lá rồi mưa rào đổ xuống như trút nước. Giây phút cả một vùng danh lam thắng cảnh đã chìm sâu dám bắn nương nương! Cho chúng mày xuống âm ty, Hà hà!

    Vút! Một ngọn giáo cắm ngập vào lưng Nùng Kham, nạn nhân thét lên đổ dụi xuống nước. Vút! Lại song song. Trên lưng ngựa bạch là một thiếu phu rất đẹp trạc hai bốn, hai lăm tuổi, trang phục theo lối đàn bà Thái. Nàng ngồi vắt hai chân sang phía trái, rạp mình ra roi. Trên ngựa hồng là một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, vẻ quắc thước rắn rỏi của con nhà võ. Cả hai đều mặc áo mưa, người ngựa ướt sũng, chốc chốc lại ngoái dòm lại đằng sau vẻ hấp tấp lo ngại khác thường.

    Nhìn kỹ sẽ thấy nơi bả vai người đàn ông bị một vết thương loang máu, chưa kịp Anh ơi... thuyền sắp chìm!

    Thiếu phụ nhìn chồng tuyệt vọng than. Ngay khi đó, bỗng nghe tiếng gọi vang bay trên mặt hồ rộng đầy mưa gió.

    - Vợ chồng Nàng chỉ kịp kêu lên một tiếng đã bắn lộn theo ngựa ra về phía trước. Người đàn ông giật mình nhưng phản ứng rất nhanh, tung mình nhảy vèo qua đầu ngựa vươn tay túm được lưng áo thiếu phụ đúng lúc nàng sắp ngã vật xuống đường. Người đàn ông hoành thân ôm gọn thiếu phụ trong tay, động tác rất đẹp và chính xác như con diều hau chụp bắt gà con. Con ngựa hồng cũng dừng phắt vó, hí lên một tràng.

    - Ngựa bạch chết rồi! Đây cũng gần tới hồ, cố gắng chút nữa sẽ thoát hiểm! Để anh giấu xác ngựa bạch!

    Người đàn ông đưa thiếu phụ lên ngựa hồng, trao cương cho nàng rồi cúi xốc phăng con ngựa bạch lên vai chạy vụt vào cách rừng bên hữu. Thoắt cái đã chạy ra, nhảy lên ngồi sau lưng thiếu phụ, giật cương vọt đi vội vã.

    Đường núi quanh co, hai bên đồi cỏ rừng cây chập chùng, chạy được một quãng, ngựa hồng bắt đầu thở hộc, nó cố vểnh bờm quất đuôi chạy miết, nhưng nước kiệu lại "cao đầu phóng vĩ" đã lệch lạc, vó xiêu, mõm nghiêng coi bộ đã kiệt sức vì trải qua cả trăm dặm bôn hành. Vó câu như có thể đổ sụp bất cứ lúc nào!

    Thình lình thiếu phụ ôm bụng kêu lên vật vã muốn đổ dụi xuống. Người đàn ông hoảng hốt buông vội tay cương ôm cứng lấy nàng:

    - Trời! Sao thế... em?

    - Anh ơi... đau chết mất thôi! Hình như... cái thai... chắc chuyển bụng đẻ... Trời ơi, đau quá!

    - Trời! chuyển bụng đẻ... giữa đường mưa gió như vầy... làm hà! Con mẹ cà kheo kia cũng đòi bắt gái Bạc của ta! Chúa Giao Long ăn thịt mi!

    Nó xé nước lao tới thò vuốt chụp mũ Quỉ cà kheo. Mụ lật đật vung trảo đánh trả. "Bình"! Nhát trảo Quỉ Nương đánh trạm ngực Giao Long. quắp thở hổn hển:

    - Đau! Đau mà... Khát lắm! Không nhịn được đâu... Anh ơi! Nãy giờ em cố nhịn... Không cho anh biết sợ anh rối trí! Trời ơi! Vĩnh hoặc Sâm phải tự tay mặc đồ cho bà, đắp chăn cho bà ngon giấc.

    Lau Khang đến đâu bà hôn đến đó. Hôn như hôn một bảo vật, một gia tài từ trên không trung rơi ngay vào tay bà. Khang nằm Long lại xông tới, nhưng người mặc áo gấm đã lướt chặn vung gậy đập:

    - Ê, Quỉ cà kheo! Hai đứa đánh một chẳng chột cũng què! Ta với mụ cùng hợp trở dạ mạnh.

    Người chồng đảo mắt dòm quanh. Xa xa trong lớp mưa mù, trên đầu con dốc phía trước có một cái quán đơn sơ nằm trơ vơ cạnh lối mòn. Người chồng lưỡng lự giây phút vùng bảo vợ:

    - Kia có cái quán! Phải vào kiếm chỗ khô ráo cho em sinh nở đã rồi sẽ liệu!

    - Đừng... Anh ơi... Đừng! Kẻ thù... sắp đuổi đến nơi... chạy đi anh! Thiếu phụ vừa rên rỉ vừa cố thều thào bảo chồng. Người đàn ông thở hắt ra:

    - Không được! Dẫu thế nào cũng phải kiếm chỗ cho em sinh!

    Dứt lời, thúc ngựa chạy tới. Vó câu chưa ngừng hẳn, người đàn ông đã bồng vợ nhảy vèo xuống như một cơn lốc, bước nhanh vào trong quán. Quán vắng, chỉ có một người khách đang ngồi độc ẩm nơi chiếc bàn bên cửa sổ. Chủ quán đang ngồi ngáp vat nhìn trời mưa gió, thấy có người vào lật đật đứng lên. Không chờ y hỏi, người chồng nói luôn:

    - Nhà tôi đau đẻ giữa đường! Mong ông rộng lượng giúp cho!

    Như bị ong đốt, chủ quán dẫy nẩy kêu lên:

    - Trời đất! Sao... Sao lại khiêng người đẻ vào đây? Ôi! Thế thì... chết cả nhà tôi mất! Ông khách ơi!... Xin ông làm phước đem bà nhà về Bắc Cạn ở đó có nhà thương! Ôi chao! Sinh dữ tử lành mà ông lại không biết sao?

    Y xua tay lia lịa, người chồng cố khẩn khoản, xuống nước:

    - xa xa án ngữ phía trước. Người chồng ý thức cảnh "đường cùng, sức kiệt" vùng bảo vợ:

    - Hết đường rồi, em ơi! Chỉ thương con trẻ mới ra đời đã chịu chung nghiệt số!

    Giọng chàng ta buồn đến nát lòng. Thiếu phụ mím miệng, gạt nước cứ nằng nặc vò đầu bứt tai bảo đi kiếm chỗ khác. Người chồng năn nỉ cách nào gã cũng không chịu. Bỗng có tiếng nói xen vào giọng sang sảng như chuông đồng:

    - Này, tên bần vợ con thì... còn sống làm gì trên đời thêm nhục!

    Thiếu vào ngực chồng thổn thức. Bỗng một loạt đạn chíu chíu trốc đầu rồi "phựt" một tiếng, sợi dây lưng điều nối liền bà già với hai vợ chồng đứt đẻ vãi, ta vặn cổ mi đó!

    Người khách ngồi bên cửa sổ lừ lừ đứng lên bước tới. Lúc này người chồng thiếu phụ mới nhìn rõ. Đó là một bà già sơn cước cao lênh khênh đến thước tám có dáng dấp nhiều phần giống đàn ông! Qua cách ăn mặc cho thấy bà ta là người Dao. Đặc biệt cặp mắt bà ta xanh biếc, sáng quắc như hai bóng đèn nhỏ chứng tỏ một tay cao bản lãnh, nội lực cực kỳ sung mãn!

    Gã chủ quán định cất lời mắng lại, chạm phải tia mắt bà ta đâm ra ấp úng:

    Người áo gấm rút bầu tu ực xong dòm thiếu phụ nheo mắt:

    - Này, Trẫm hỏi thật, phải nàng là công chúa họ Bạc trên Tây Bắc đi trốn đó không? Chớ ngại, Trẫm không phải hạng người lùng bắt gái đẹp đâu!

    Người vợ bối rối, xúc động, giây lâu nàng khẽ nói:

    - Dạ... phải! Vợ chồng tôi bị nạn dữ, lại vừa sinh cháu bé giữa đường... cúi xin ngài mở lòng nhân đức bao dung, ân bằng trời biển!

    - Chớ lo! Trẫm sẽ đuổi lũ đầu trộm đuôi cướp đó cho cô nàng! Hà! Tuy nhiên Trẫm với vợ chồng cô nàng cũng như bèo nước gặp nhau... Hà...

    Người kè mi bơi và lặn sâu xuống vượt qua vòng vây, khi đó ta sẽ cầm chân bọn chúng trên mặt nước! Nào, theo ta! Buông giây để chúng khó nhận ra! Nếu thoát sẽ gặp một vật để sẽ gặp lại tại Chapa vào tuần trăng tới!

    Bà già lướt về thuyền địch. Người chồng cặp vợ bơi theo rất êm. Cả hai chỉ hơi nhô đầu khỏi mặt nước để thở. Đến cách thuyền địch chừng ba mươi sải, bà già ra hiệu cho hai người lặn sâu xuống.

    - thiếu phụ họ Bạc nhíu mày lẩm bẩm:

    - Lại đòi vòng xanh! Vòng xanh! Chiếc vòng ngọc bích của ta có gì ghê gớm mà... sao cả mấy đám thù nhân với ông này đều quyết đòi lấy?

    Nàng bảo người áo Tày, Trung Quốc... bà già người Dao cười thét:

    - Tìm đi! Không chừng gái đẻ sa tay thuồng luồng tinh hay bọn Tửu Chúa, Quỉ cà kheo rồi!

    Nhiều tiếng tiếng lao xao bàn tán. Chợt một gã đầu trọc cao lớn như hộ pháp trỏ bà già kêu lên:

    - Kìa! Mụ già có địu đứa con phụ cúi lần tìm chiếc vòng. Thình lình mặt hồ cuộn sóng ầm ầm, nhô cao đến mấy thước rồi "ầm" một tiếng, nước tóe rộng cầu vồng văng ra mấy hướng, mạnh đến nỗi chiếc thuyền nan cùng người áo gấm bị hất dạt ra hai phía. Nước trùm cả đầu cổ mặt mũi mấy người ướt sũng. Từ dưới đáy hồ, một hình thù quái gở theo con sóng vọt lên cực kỳ mãnh liệt, bốc hẳn khỏi mặt nước đến ngót hai thước, rồi rơi ùm xuống. Hình thù rất to lớn, dài ngoằng, đầu to như cái thúng, mõm ngoác rộng đỏ như chậu máu, nước khổng lồ bắn tung tóe, rồi con Giao Long Chúa vụt nhô lên cười hai chân trước nó túm chặt hai người, một nam một nữ bêu lên. Chính là vợ chồng thiếu phụ vừa nãy!

    - Trời ơi! Vợ chồng gái Bạc xấu số! Tội thấy Giao Long sao? Hà, ta là chúa Giao Long thần Hồ Ba Bể đây! Hà hà!

    Con quái vật phun nước phì phì, phát âm tiếng người chờn vờn âm âm làm ai nấy rởn tóc gáy. Người áo gấm qua phút bỡ ngỡ, ngó kỹ con quái vật, trợn mắt quát:

    - Láo! Con quái gớm ghiếc dưới vụng chui lên dám xưng Thần trước mặt Trẫm! Hừ! Mi là quái tinh hay tham chiến.

    Bà già người Dao định quay lại, chợt nghe tiếng đứa hài nhi khóc oe oe sau lưng, đành hậm hực thở dài, quài tay ra sau vỗ về nó:

    - Nín về nó:

    - Nín đi! Nhỏ con! Ta sẽ nuôi nhỏ con khôn lớn, dạy dỗ thành tài, mai sau trả thù cho cha mẹ! Nín đi! Ta chỉ tiếng, con Giao Long cùng người áo gấm đều bạt lùi mấy sải. Nó hét lên gai nhọn the thé:

    - Hú hú! Thằng sâu rượu! Thần Hồ Ba Bể ăn thịt mày!

    Người và vật lại xông vào nhau quần thảo. Nước hồ văng tung tóe, cuồn cuộn sóng. Người chồng vội bảo Nùng Kham:

    - Chèo mau!

    Hai người đàn ông ra sức chèo thật nhanh. Thuyền vừa lao đi được hơn chục sải đã bị bầy dơi chặn lạilướt vào.

    Mưa đã tạnh, trời đang tối dần. Trên bờ không một bóng nhân mã. Bà già tìm chỗ dấu ngựa, lên yên, ra roi phóng đi. Bóng người địu đứa nhỏ sơ sinh trên lưng hút nhanh vào bóng tối.
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #3
      Hồi Thứ Ba - Một Oan Hồn Đi Tìm Dĩ Vãng

      Mười bảy năm sau...

      Một đêm trung tuần... mùa thu muộn.

      Gió vàng hiu hắt...

      Chuyến tàu hỏa Hà Nội - Lào Cai dài dặc cuộn mình quẫy khúc khạc lửa chạy trên thiết lộ như con quái vật từ đời tiền sử hiện về lồng lộn chồm ngược miền sơn cước.

      Chợt quái vật ré lên một hồi vang thé, dừng trước ga Vĩnh Yên, hai con mắt quắc đèn pha chiếu xa hàng cây số, đứng thở phì phì, hồng hộc, mở mang cho hành khách chui vào bụng.

      Chuyến tàu đêm nay vào dịp vùng sơn cước có nhiều phiên chợ, lại vào độ Trung Thu, nên đông hành khách, chen chúc nhau, tay xách nách mang tấp nập hết sức. Lại có người mang theo cả đầu sư tử giấy, đèn kéo quân, trống. Mấy phút sau, con quái vật lại rú lên khạc, chuyển bánh.

      Bỗng có một chàng trai dân tộc từ đâu lừ đừ đi vào chỗ bán vé. Quần áo chàm sờn vai đã rách một đường chưa vá, đeo một cái giỏ mây sau lưng đựng vật dụng lâm sản chi đó, lại cắm cả ống bương như đòn gánh, ống đựng nước, mật ong chi đó chắc coi biết ngay người trên núi "mới xuống chợ" mà hình như xuống lần đầu thì phải. Vì chàng này còn vẻ bỡ ngỡ vừa đi vừa nhìn quanh xem chừng lạ mắt lắm.

      Chàng trai còn đội một cái nón bằng mây đan, có điều hơi lạ là tay còn cầm một cái ô dù cúp, lúc chống, lúc cắp nách, coi ai cũng đoán dân nhà gác xuống chợ, mua chơi. Chàng trai ngó ra đường sắt, và bước tới cửa hông. Một nhân viên nhà ga vừa đóng cửa, quay vào thấy hỏi luôn.

      - Chú này đi đâu?

      Chàng trai đáp bằng tiếng sơn cước:

      - Đi tàu hỏa! Phải cái tàu hỏa đi lên mạn ngược?

      - Ồ! Muộn rồi! Tàu vừa chuyển bánh! Không nghe "xíp lê" à? Đi đâu trễ thế, chú mày?

      Chàng trai ghé mắt dòm ra vẻ vội:

      - Trên rặng Ngân Sơn Tam Đảo vừa xuống. Định đi Yên Bái. Mở cửa giúp! Có việc cần, không đợi mãi được!

      Chàng trai này nói trống không, chẳng ra hẳn "dân rừng" cũng chẳng ra xấc xược, nhưng giọng y nói vừa đủ nghe, lại âm vang sang sảng tự như chuông gióng, vừa nói chàng vừa lau bụi đường trên trán, lật nón ra đàng sau, ánh điện vàng khè chiếu vào mặt y, khiến nhân viên nhà ga này vừa định phá lên cười, chợt im bặt, vì bộ mặt người núi này vừa ló ra, lại khác hẳn bộ dạng nghèo của y, làm nhân viên này phải sửng sốt. Đó là một khuôn mặt rất điển trai, đặc vẻ thư sinh, dẫu trai sang thành phố, hoặc con cái tiểu vương lãnh chúa cũng khó có kẻ sánh kịp! Nhưng lại là một dung mạo điển rất lạ tuy sáng như trăng rằm, nhưng lại phảng phất nét buồn sâu thăm thẳm, một thứ buồn cô độc, u uẩn mang mang, cộng thêm nét đặc biệt của người thâm sơn quen sống với đèo cao dốc vát, thác gầm, thú sống, khiến khuôn mặt chàng trai này như tẩm tráng một lớp băng lạnh khô, coi lầm lì, gan góc, khắc khổ, đơn côi bi thẳm và "bí ẩn rừng rú" lạ!

      Kẻ tinh mắt còn có thể thấu được trong cái vẻ điển rừng thiêng u uẩn vẫn toát ra nét bình nguyên chập chờn ẩn hiện như từ tiềm thức ánh lên mắt khiến ai trông thấy cũng chột dạ, nể ngay!

      Nhân viên nhà ga liền mỉm cười dịu dàng bảo:

      - Tàu chạy kia rồi! Đành đợi ngó ra, thấy rõ cánh quân mạnh cờ hiệu, quần áo hiện dưới ánh hỏa pháo, nhiều tên xôn xao bật kêu:

      - Lính nhà nước! Lính tỉnh vào!

      - Khố xanh, thố cũng không kịp nữa!

      Ông ta thân mật vỗ vai chàng trai, bỗng giật thót mình, chợt thấy chàng trai rút ra một đồng bạc "xòe" dúi vào tay ông ta. Và nắm "y môn" mở giật cửa. Quả nắm tụt luôn ra, y đẩy nhẹ một cái "xoảng". Cửa bung sàn xi măng, chàng trai chạy thốc ra khiến mấy người nhà ga trố mắt, há hốc mồm, chạy khỏi sân ga năm bảy chục thước, khi chàng trai chạy ra tới ngoài chỉ còn thấy tàn than tới tấp bay lại, đuôi tàu đã vụt xa. Trong vùng sáng tối nham nhở, mọi người còn thấy bóng chàng trai kia xách dù, đeo giỏ chạy theo, thoắt, chợt thấy, tít xa, cái bóng vọt lên nóc toa như con chim cắt.

      Có nhiều tiếng người kêu kinh ngạc. Con quái vật thở phì phì, mất dạng trong trăng sương tàn than đỏ bay lả tả.

      Chàng trai đã đứng trên nóc toa cuối, xốc lại giỏ, lật nón úp lên, chàng trai sơn cước này chống dù, đi lên phía toa hành khách, như đi trên đường. Chừng lần đầu đáp xe hỏa, chàng trai rừng có vẻ thích thú lắm, nhưng cũng không có vẻ ngơ ngác lạ lùng nhiều, chừng cũng hiểu qua "con quái vật thời đại" này trước khi xuống núi.

      Mấy phút sau, chàng trai lần xuống một toa ít hành khách. Đây là toa hạng ba sát toa hạng tư lố nhố đầy người. Trong toa chỉ độ hơn chục người, phần nhiều khách Tây, đầm Tàu, Ta, Ấn lẫn lộn, thấy chàng Thổ áo rách vào, tất cả đều ngó ra chỗ y ngồi, nhưng cứ mặc.

      Chàng trai không nhìn ai, kiếm một góc, bên cửa sổ, nhìn ra.

      Nhưng chỉ vài ga, y đã quay vào, ngồi bâng khuâng, mắt mở trừng, như nhìn vào cõi xa xăm nào. Rồi khép mắt lại, cái giỏ vẫn đeo lưng, lại lấy nón đội sụp mặt.

      Đêm vào khuya dần. Tàu qua Việt Trì, chạy xuyên rừng Phú Thọ. Bỗng một bọn năm người lực lưỡng từ bên toa hạng tư chuyển sang ngồi một góc. Bọn này mặt mày dữ tợn, khiến đám hành khách Tây, ta phát rợn.

      Riêng chàng trai vẫn nhắm mắt ngủ rồi, không buồn để ý đến ai. Bọn lạ kia toàn mặc quần áo đen, thỉnh thoảng lại kín đáo dòm hành khách sang trọng đeo đầy nữ trang.

      Trăng soi vằng vặc nóc tàu. Đường sắt chạy giữa vùng đồi núi điệp trùng, tiếng bánh sắt lăn cành cạch, đơn diệu, ru ngủ. Rừng cây chạy lùi lại cửa sổ. Một người Tây thấy lành lạnh, đứng lên vừa định kéo cửa, chợt một tên mặt sẹo bỗng đến đứng bên, lôi ra một chiếc đèn bấm "tách" thò hẳn tay ra khoa tròn. Người Tây này lấy làm lạ hỏi, hắn không đáp, bèn bước vào.

      Một người soát vé bước vào trong toa, tiến lại hỏi vé chàng áo rách cùng bọn áo đen.

      Tên mặt sẹo xòe tay chặt một nhát vào gáy người soát vé, anh gục luôn xuống.

      - Ngồi im! Hauts les mains - Ngồi im!

      Bọn lạ cùng đứng vụt lên, chĩa súng vào hành khách. Tất cả thất kinh, biến sắc, tên mặt sẹo rút trong mình ra một chiếc roi da, một người Tây vừa rút súng trong túi ra, đã bị hắn quất véo rớt liền.

      - Muốn sống ngồi im! Cựa quậy tao bắn vỡ sọ! Đứa nào có đồ nữ trang, vàng ngọc cởi mau!

      Có mấy phát súng nổ giữa tàu:

      - Cướp tàu! Cướp tàu!

      Hành khách sợ hết hồn, nhốn nháo kêu la inh ỏi, toa nào cũng có một hai tên dữ tợn đứng xổ lên, chĩa súng lột hành khách.

      Chàng trai mở mắt ra nhìn, trong toa, đám hành khách sang líu ríu trút hết đồ nữ trang bỏ vào chiếc mũ da cũ của tên sẹo mặt. Đồng bọn hắn có hai tên vọt toa khác, còn ba tên. Bỗng tên sẹo mặt quơ mớ nữ trang sức vàng bạc ném vào mặt hành khách quát:

      - Vòng ngọc thạch! Dây chuyền đồng tiền vàng! Tao cần hai món đó! Đứa nào có tháo nộp mau!

      Đám hành khách đàn bà chỉ có ba người đeo vòng ngọc xanh, nhưng chỉ có một người đeo đồng tiền trắng, cuống cuồng tháo nộp liền. Nhưng một người đàn bà Tàu mập, vòng đeo từ nhỏ tháo mãi không được, tên mặt sẹo hất hàm lạnh nhạt như đồng:

      - Tháo giúp! Cái bàn tay!

      Vừa truyền, hắn vừa xòe bàn tay hộ pháp ra hiệu chợt lập tức một tên đồng bọn sấn tới, rút soạt trong mình ra một cây đoản đao, túm tay người đàn bà chặt nghiến.

      Hành khách hết vía, trợn xanh mắt, rú lên, chỉ thấy ánh thép nhấp nhoáng trốc đầu tên áo đen, giữa tiếng hét ghê rợn, ai nấy dòm vào đã thấy một bàn tay rụng dưới sàn toa, giẫy đành đạch như đuôi con thạch sùng! Máu tóe phọt, người đàn bà khách đứng há hốc mồm, trố mắt, dòm tay mụ còn nguyên mới hoàn hồn.

      Tên áo đen rú nhào và đoản đao văng mất, tên mặt sẹo trợn mắt sững sờ dòm quanh, không biết ai chặt vì không ai lại gần tên kia.

      Ngồi một xó bên cửa sổ, chàng trai hỏi:

      - Sao không cướp vàng bạc, đồ dùng, kim cương, chỉ đòi lấy vòng ngọc, dây đồng tiền?

      Tên sẹo hét:

      - Đứa nào chém? Dân rừng! Câm họng! Không phải việc mày hỏi?

      Chàng trai hỏi đến lần thứ hai, chợt phất vụt tay áo một cái. Dưới ánh điện đục ngầu, chỉ thấy loáng một luồng sáng đảo vòng cầu, cây súng của hai tên kia đã bị dứt đôi. Lẹ như chớp chàng trai vọt lại dí dao liễu vào hỏi chìm:

      - Nói tao biết... sao chỉ cướp hai thứ đó? Ai sai bọn mi đi vét vòng ngọc, dây đồng tiền trên tàu?

      Hai tên lực lưỡng không ngờ chàng trai áo rách kia lại có bản lĩnh ghê đến thế, hai tên chưa ra nổi một đòn đã bị khóa cứng, tên sẹo căm giận mắng:

      - Dân rừng! Đừng hỏi phí lời! Bọn tao có biết cũng không nói đâu!

      Không nói thêm, chàng trai rừng túm ngực quăng cả hai tên ra ngoài cửa sổ!

      Hành khách trố mắt, vừa mừng vừa kinh dị, chàng trai sang toa khác. Mười phút sau nghe có mấy tiếng súng nổ, nhiều bóng đen vọt tuôn xuống hai bên đường sắt giữa đám tàn than bay lập lòe.

      Rồi đoàn tàu hết nhốn nháo kinh hoàng. Toa nào hành khách cũng xúm nhau bàn tán về đám cướp lạ đời chỉ đòi lấy hai thứ và ai nấy còn chưa dứt sững sờ kháo nhau về chàng trai thiểu số phi thường một tay đánh ra bọn cướp dữ mang đầy súng ống rồi biến mất như cơn gió thoảng. Có kẻ mê tín nhất định cho là sơn thần hiện về cứu nhân gian.

      Riêng toa hạng ba vẫn còn bàn tay tên cướp để lại. Hành khách lè lưỡi dòm phát khiếp, xôn xao đi kiếm chàng trai người dân tộc.

      Không ai ngờ sững sau một cây trẩu lớn, cách hố hơn mười bộ. Tên kia nhô lên, vẫy súng, bị chém bay mất. Xế bên hữu cách dăm bước lại có cây trẩu, Võ xẹt luôn nhìn ra rừng khuya trên ngọn đồi đỉnh núi mờ trăng sương.

      - Sao chỉ cướp vòng xanh, tiền vàng? Sao thiên hạ nhiều kẻ quyết tìm đoạt vòng xanh, tiền vàng? Thứ của ta có quan hệ gì đến dĩ vãng không? Dĩ vãng? Hừ! Không dĩ vãng, con người sống nổi chẳng? Mới lọt lòng đã xa mẹ lìa cha... xa cội nguồn...

      Y giơ cánh tay trước ánh trăng mờ, lẳng lặng vén tay áo chàm rộng. Cổ tay y có đeo một chiếc vòng xanh điểm huyết kín đầy!

      Y nhìn giây lâu, đoạn lặng lẽ buông tay áo xuống, ngồi nhìn vầng trăng vun vút trôi theo con tàu đêm coi cùng mang mang u uẩn lạ.

      Bỗng con quái vật dừng lại, thở phì phì phun khói đục dưới ánh điện ngầu đục. Chợt có một bọn phu khuân vác lên toa, dỡ hàng, y liền hỏi:

      - Sắp tới Yên Bái chưa?

      - Mê ngủ à? Yên Bái đây chớ đâu? Phải chú mình "lậu"?

      Bọn phu cười hô hố. Chàng trai mắt sáng hẳn lên xách dù xuống đi vào ga.

      Khách ra vào mãi chen chúc, tay xách nách mang, không ai kịp lưu ý tới. Nhưng khi chàng trai lạ lùng này ra đến chỗ buồng bán vé, đám hành khách cùng xuống đứng lại nói chuyện với đám thân nhân ra đón, ai nấy chưa hết kinh hoàng, trầm trồ kể lại vụ cướp tàu. Có mấy người thấy chàng trai nhận ra ngay, giật mình sửng sốt kêu lên.

      Chàng trai nhìn cảnh thân nhân đưa đón nhau đầm ấm, đang ngậm ngùi nghĩ đến cảnh cô độc của mình bỗng lại bị thiên hạ đổ dồn mắt nhìn, chàng có dáng không vui vội bỏ đi vào phố. Vừa đi vừa đưa mắt nhìn cảnh phố xá Yên Bái về khuya nằm bằn bặt dưới ánh đèn diện vàng hoe mang trên thân dáng cả đường nét quạnh hiu cảm khái của trị trấn sơn cước.

      Miền quê cha đất tổ đây... Biết đâu mẹ ta không đẻ ta tại nhà thương Yên Bái này? Biết đâu đây chẳng phải là nơi chôn rau cắt rốn ta? Vì như lời ân sư dặn, đồn điền nhà ta chỉ cách Yên Bái năm, bảy cây chi đó, không dám để lỡ kỳ duyên, vừa đẻ xong, cha mẹ ta phải vội trao nhờ ân sư nuôi dưỡng mười bảy năm qua... Chẳng biết giờ đấng sinh thành ra sao? Còn sống hay đã mất, anh em trai gái thế nào?

      Mà lạ thật! Sao ân sư không hé răng cho ta rõ về thân thế? Suốt mười bảy năm ròng, ta tưởng "người" là cha, ngày chia tay cuối cùng, "người" mới cho hay! Người họ Võ, đồn điền họ Võ trên đường Yên Bái, Lục Yên Châu, Tuyên Quang... Mà ta là Kinh hay dân tộc?

      Nao nao, háo hức, khắc khoải, lo lắng, cô đơn. Chàng trai cứ lùi lũi đi trên vỉa hè loang lổ kiếm người hỏi thăm.

      Chợt thấy một hàng "cà phê gánh" góc phố khuất, chàng ghé luôn vào gọi một ly, ngồi uống vẻ tự nhiên như tay vẫn sống dưới phố phường. Người bán cà phê là dân Kinh, trung niên, nước da sốt rét rừng, thấy chàng trai lạ uống cà phê, anh ta có vẻ cao hứng, vừa pha vừa hỏi:

      - Chú đâu tới? Chà chà! Cà phê tay này pha, Tây đầm phải khen à! Chú hay uống không?

      Nón vẫn đội sụp, chàng trai không đáp, chợt hỏi bất ngờ bằng tiếng Kinh:

      - Bác ở tỉnh Yên Bái này, có biết đồn điền họ Võ không? Trên đường đi Lục Yên, Tuyên Quang!

      Người lạ mặt nói đặc tiếng Kinh, âm sảng như chuông đồng khiến người bán cà phê sửng sốt ngó chòng chọc, nhưng mặt chàng khách khuất mờ sau vành nón loang lổ, người này tò mò hỏi:

      - Chú kiếm việc! Ồ! Ở Yên Bái này mấy ai không biết đồn điền cụ Võ? Mới tháng trước, cụ còn cưỡi ngựa ra đây, ghé uống cà phê tay này mà!

      Cả mừng, chàng trai vội hỏi dồn, người bán cà phê bên ngọn đèn dầu, vừa tiêm vừa kéo liên miên.

      Lão vẫn chưa hết kinh dị về mấy cái thây nữ quăng ngoài máng nước cuối đông, mấy cái thây nát bấy, đẻ!

      Vừa đáp vừa lột nón úp sau lưng, nhìn người bán cà phê, người này thấy bộ mặt điển trai, vùng kêu sửng sốt, vui vẻ hết sức:

      - Trời! Thế ra cậu là Võ Minh Thần đây ư? Chà chà! Coi giống cụ như đúc à! Tưởng ai? Ôi chao! Cụ nhớ cậu quá chừng, cụ có nói với tôi mà! Nội trong đồn điền, ai cũng ra uống cà phê tôi à! Cả tỉnh này ai cũng quý cụ nhà!

      Rồi y nói một tràng, đầy cao hứng, không khác người thân y mới về, khiến cho chàng trai kỳ lạ cũng vui lây. Hỏi được tin nhà sau mười bảy năm xa cách, chàng coi cũng đỡ cô đơn, nhưng có lẽ vì sống từ nhỏ tại cô sơn, chàng ta chỉ hơi nhếch mép cười vội hỏi thăm đường về đồn điền, đoạn cám ơn, trả tiền đi ngay, định về ngay. Nhưng vừa được tin nhà, chàng mừng rỡ vô hạn, lại thấy đêm khuya, nên kiếm nhà trọ nghỉ ngơi đã.

      Sớm mai, mới tảng sáng, đã thấy chàng trai kỳ lạ này xách dù đứng ngay đầu đường đi Tuyên Quang. Con đường này nối liền Yên Bái - Lục Yên Châu - Tuyên Quang, nên khách Kinh, Thổ, Tàu thường qua lại, từ Yên Bái đổ vào, dọc đường từ cây số thông, thấy khu cửa sổ hậu, xế giữa, có một cái cửa rộng che liếp. Lúc này, trăng đã lên mờ bệch, bỗng ông Phìa rởn gáy, thấy rõ một cánh tay lông loại xe ngựa chở hàng, rất thuận tiện, bánh gỗ vành sắt lót cao su đặc, là loại mã xa rất nhiều trên đường ngược.

      Chàng trai lên một cái xe độc mã ngồi với mấy khách Kinh, Tàu, Mán. Ánh bình minh đỏ rực mái đồi, báo hiệu một buổi thu đẹp trời. Đường Yên Bái - Tuyên Quang từ tỉnh lỵ đi sâu mười lăm, hai chục cây số, đồi núi trập trùng khai phá trồng trọt nhiều, nhất đồi trà, nhấp nhô như đàn rùa phục vọng, coi đẹp phong quang thơ mộng hết sức. Đồn điền nối tiếp, giữa đồi cây như cam, quýt, kỳ đà phật thủ, chuối, dứa, suối nước uốn quanh, rải rác nhô cao những tà áo màu thành thị, bóng gái, trai cưỡi ngựa thấp thoáng giữa nền lá xanh, coi như những bức tranh chấm phá tươi mát như trong mơ.

      Chàng trai bâng khuâng nhìn cảnh vật hai bên đường, tâm hồn như tận đâu đâu.

      Xe ngựa qua khu đồn điền trà Đồng Lương, chừng hai cây, vừa lên một trái đồi đất đỏ, giữa một vùng đầy hoa lá xanh mướt, chợt thấy một bóng cưỡi ngựa từ dãy đồi tít trong phi rất nhanh về phía đường đá. Tới gần, mới rõ ra là một cô gái mặc sơ mi trắng, quần kaki cứt ngựa, khuôn mặt xinh đẹp nghịch ngợm hết sức. Nàng ta cắp một cây súng săn hai nòng vừa phóng ngựa, vừa cất tiếng hát véo von như tiếng chim oanh, dáng thanh tú như cánh bướm xuân vờn hoa vẻ rất yêu đời khiến cả hành khách lẫn chú xà ích cũng phải bật khen rối rít.

      Chợt một con chim ngói bay vụt qua, nàng ta cắp súng vẫy một phát "đoàng", con chim sa xuống, làm mấy cô thôn nữ đang hái búp lá, cùng reo lên. Cô gái áo trắng cười khanh khách, lướt đến nhặt con gáy, tiếp tục tế ngựa bạch về phía đường cái. Thoắt nàng đã tới ngọn đồi, xế bên tả, đồi cao ngựa đang lên dốc quanh co. Có con suối chạy giữa kẽ đồi. Cô gái vừa lên đồi, lại bắn luôn con trĩ bay qua rớt xuống suối.

      - Chà! Cô bắn giỏi dữ! Bắn được chim bay!

      Chú xà ích reo lớn, cô gái gò cương, cho ngựa xuống suối, nhặt con trĩ. Ngựa vừa xuống đến nơi, cô gái vừa sà cúi thò tay toan nhặt con chim đuôi dài, bỗng từ trong lùm cây gần đấy lao vụt ra một bóng nhân mã xẹt xếch trước đầu ngựa bạch, bắn tóe nước, sà xuống nhón luôn con trĩ, vọt chếch chân đồi. Bất ngờ bị cướp mất chim, lại bị bắn nước vào mình, cô gái áo trắng cả giận, vùng ngoắt ngồi lên yên, giật ngựa rượt theo, vừa nạp đạn, vừa quát:

      - Trả trĩ đây, không ta bắn!

      Được mấy bước, vừa giơ súng, bỗng có một bóng nữa vọt ra, quăng vèo một sợi dây thòng lọng chụp nghiến ngang mình cô gái, siết lại cả hai tay. Bóng này rập dừng giữa suối, giật mạnh lôi nàng lại. Nhưng cô gái đã kịp xoay người lại, túm được sợi dây căng, níu cứng, khiến tên kia không bắt được. Nhưng tên cướp trĩ đã lộn phát ngược lại, định tóm, chỉ còn cách mấy sải, chợt có tên khác xông ra trợ lực.

      Cô gái chừng có võ, nhưng ba tên kia không vừa, giằng co lúng túng, chỉ vài sải nữa là bị tóm trên đường đá, xe vừa tới ngọn dốc, mọi người kêu lên "cô kia bị bắt đến nơi" bỗng chàng trai hơi cau mày, vẻ khó chịu. Thấy ba tên lực lưỡng Nhớ truyền nhà nào ở nhà đó, không ai được rời chỗ.

      Ông Phìa lôi cái thây vào xó khuất, xúm coi. Cái thây nữ, xiêm y rách bươm, đầu bửa đôi, thòng rỗng tuếch, tim óc mất hết. Chính cô gái Mèo vừa bị mất tích. Ai nấy rởn óc, Quản Kình nổi giận quát chửi inh ỏi, thách con quỷ. Có tiếng chờn vờn:

      - kinh giạt cả ra ngơ ngác, suýt bị ăn báng súng, cả ba rút dao rừng xúm đánh cô gái, cô gái lồng ngựa múa súng săn chống cự; nào dè từ trong bụi, chợt có bốn tên nữa xông ra, quay thòng lọng chụp bắt, cô gái xẹt chạy ngoắt về phía đường cái.

      Bọn kia bảy tên rượt theo. Cô gái chạy băng qua suối lao về nẻo có cây cầu sắt nhỏ bắc qua suối, nào ngờ, cách cầu chừng vài bộ, bỗng từ trên tàn cây có một tấm lưới tung xòe chụp xuống đầu mình, xiết chặt lôi lên, con ngựa cứ vọt lên đường, cô gái bị rút treo lơ lửng dưới tàn cây còn đang vùng vẫy thì bảy tên kia vọt tới, một hình thù giống dã nhân, đười ươi chi đó từ trên cây lao xuống cắp cả cô gái lẫn lưới vèo cái nó đã hạ chân đứng sau tên đi đầu, cả lũ cứ thế lao đi băng qua đầu cầu suối chạy như gió vào cánh đồng, đồi nương bên kia chân dốc. Đúng lúc chiếc xe ngựa đang đổ dốc, hành khách trố mắt kinh dị, cùng xà ích la lên, con ngựa bạch lúc đó đứng bên đường chồm hí, chàng trai giật roi xà ích, quất con ngựa kéo xe lao gấp xuống, làm hành khách sợ hãi kêu inh ỏi. Khi xe còn cách con ngựa bạch vài mươi bộ, chàng trai quăng vút người vọt khỏi xe hạ dính trên yên ngựa bạch thúc gót, rượt theo bọn bắt cóc. Xe ngựa hoảng dừng lại bên cầu, mọi người sửng sốt, nơm nớp.

      Nhưng không tới năm phút sau, chẳng hiểu đánh đấm cách nào, chàng trai kia đã lộn ngựa lại, mang theo cô gái còn bị trùm kín trong lưới, dừng bên suối. Chàng ta tháo lưới, dúi vào tay cô gái, nói tiếng Kinh điềm đạm như không:

      - Thôi! Giờ cô có thể về nhà! Bọn nó chạy hết rồi! Chắc nó rình bắt cô từ trước. Từ nay cô nên cẩn thận, chớ đi một mình vào rừng! Cô cầm tấm lưới này về chơi.

      Dứt lời nhảy xuống đất, đi về phía xe ngựa, cô gái chưa dứt bàng hoàng đuổi theo, cám ơn rối rít, dòm tấm lưới trên tay, vẻ ngạc nhiên thấy kẻ cứu mình là một chàng trai nói thạo tiếng Kinh. Nàng cố gặng hỏi, chàng trai đã lên xe, dịu dàng bảo:

      - Tôi có việc gấp, xin kiếu từ. Tôi phải tới đồn điền họ Võ ngay!

      - A, đồn điền họ Võ? Cách đây mấy cây số nữa thôi. Ông tới có việc gì ạ!

      - Về thăm nhà! Mười bảy năm nay, tôi mới về!

      Xe ngựa chạy lộc cộc, cô gái còn nhìn theo, mãi mới bỏ đi.

      Hành khách cùng ngồi xe ngựa thấy đều kinh ngạc, ngó trộm chàng trai kỳ lạ nhưng chàng ta lại thản nhiên ngồi như có vẻ không để ý nhiều đến chuyện cô gái bị bắt cóc vừa qua.

      Xe ngựa chạy qua những vùng đồi nương thật đẹp, qua vùng đồn điền chợt chú xà ích quay lại hỏi:

      - Tới đồn điền họ Võ rồi, có ông quá đầu gối để lộ cặp đùi thuôn lẳn phốp pháp, con đười ươi quái thấy quá nhiều mồi ngon, nó dòm hau háu, ré lên từng tiếng rắn, sắc, răng nhe trắng đỏ khá rộng, hai bên trồng toàn trầu, đi khoảng trăm thước, chàng dừng chân bên một cầu gỗ, đưa mắt nhìn quanh.

      Nương đồi trùng điệp, quang đãng, cây cỏ tốt tươi, ngay trước có một cái cổng gạch, xa trong đường đỏ quanh co, ẩn hiện nhiều tòa ngang dãy dọc, dãy lợp lá, tường xây gạch, bóng người, bóng ngựa, bò, trâu, gà, vịt thấp thoáng, nhác coi rõ một trang trại sầm uất nhất nhì trong miền.

      Chợt có một tốp năm, sáu người mặc quần áo nâu, quần áo chàm từ trong đi ra, tay cầm dao quắm, cào, cuốc... đi làm rẫy, người nào cũng khỏe mạnh rắn rỏi, chàng trai vội đón lại hỏi:

      - Phải đây đồn điền họ Võ không các bác?

      Một người nhiều tuổi, ngó chàng chòng chọc, vẻ ngạc nhiên:

      - Chú đâu tới? Vâng! Đây đó! Chú không thấy chữ trên cổng kia sao? Chú hỏi ai trong đồn điền?

      - Tôi hỏi cụ chủ họ Võ, cha tôi! Tôi đi học mười bảy năm nay mới về!

      Cả bọn tá điền sửng sốt ngó nhau, cùng kêu lên, người đứng tuổi mở to mắt, vẻ kinh sững:

      - Trời! Phải chú... Cậu hai nhà đây ư? Cậu Võ Minh Thần? Trời! Cả nhà đợi cậu mười bảy năm rồi! Cậu về chắc cụ mừng lắm! Cụ không được mạnh hơn tháng nay... Mà sao câu lại ăn mặc... Lạ vậy?

      - Tôi ở núi!

      Người đứng tuổi lập tức cùng bọn lực điền dẫn chàng trai có cái tên chính chàng cũng chưa hay, lộn vào trại. Quanh co đi sâu, cuối cùng băng qua một khu vườn rộng, lên một trái đồi có căn nhà gạch hai tầng ngang sườn ngoảnh mặt hướng Đông. Đồn điền khá nhiều người, đàn ông đàn bà đều dồn mắt ngó chàng.

      Trước thềm có cái vườn hoa đẹp, có một ông lão Tàu râu quai nón đang ngồi ngậm một cái ống điếu dài bên ngọn giả sơn, vẻ trầm tư.

      - Kia... chú Trưởng Sềnh! Tay chân thân tín của cụ nhà, làm quản lý cho cụ đấy! Mấy năm nay, tự nhiên lòa mắt, thường chỉ quanh quẩn hầu cụ! Chú giỏi lắm, một mình chú có lần đánh tan cả bọn cướp rừng!

      Chàng trai theo người đàn ông ra chỗ lão Tàu. Lưng xoay lại, chợt lão hỏi:

      - Ai đó? Tư Cán!

      Chàng trai chịu lão thính tai, người có tên Cán vừa rảo bước lại nói to:

      - Chú Trưởng à! Có cậu Hai mới về! Cậu Võ Minh Thần đó! Mười bảy năm...

      Không hiểu sao, tự nhiên lão khách giật bắn người lên, đánh rớt cả ống điếu, quay mặt lại đứng sững, mở to cặp mắt nhìn, thân thể lão run bắn lên, vẻ xúc động mãnh liệt, lắp bắp kêu giật bằng tiếng Quảng Đông:

      - Đâu? Cậu Võ...? Mười bảy năm... Cậu bé đã về! Trời! Thật ư?

      Chàng trai thấy lão khách rớt ống điếu vội bước lại, cúi nhặt đưa cho lão, dòm kỹ mới rõ mắt lão lòa thật, mắt có màng trắng che phủ, có lẽ chỉ hơi thấy hình dạng, lão sờ soạng đỡ ống điếu quơ nắm lấy hai vai chàng trai năn nắn, sờ sờ, miệng lắp bắp như nói một mình:

      - Cậu... cậu Võ... Mười bảy năm mới tìm về đây. Nếu đúng, cậu phải có đeo cái vòng, sợi dây tiền gẫy.

      Chàng trai cầm tay lão để vào cổ mình và trên cổ ngực, hai chỗ đeo vòng xanh và sợi dây nửa tiền vàng. Lão khách sờ thấy, vùng ôm lấy chàng, rung động:

      - Đúng rồi! Đúng cậu! Mười bảy năm mới về! Trời còn thương người lành!

      Vào đây mau! Cụ đợi mười bảy năm rồi! Thôi! Tư Cán xuống bảo giết lợn gà vịt làm mừng cậu về... mau! Cho anh em nghỉ việc ngày hôm nay!

      Tư Cán hớn hở cùng bọn lực điền xuống đồi, lão khách dắt chàng vào nhà, lão có vẻ mừng cuống đưa chàng trai lên thẳng cầu thang gác. Chàng trai nhìn quanh thấy bày biện rất cổ kính, với những tủ kính sập gụ, hoành phi câu đối, ghế đá... có cả đồ "bát bửu", trên tường treo nhiều kiểu khí giới cổ kim coi rất nghiêm trang. Có hai, ba người trung niên vừa ta vừa Tàu, dân tộc qua lại, thấy chàng trai lạ, đều cúi đầu chào lễ phép, lão khách đẩy cửa một căn phòng im vắng, đưa chàng trai vào.

      Phòng ít ánh sáng, có một ông già nằm rên, sập lót da báo, ngửa mặt trông trần nhà vẻ trầm tư. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào bộ mặt già nua, hom hem, nhưng vẫn phảng phất nét quắc thước của kẻ từng xông pha lăn lộn. Thấy động, ông già này ngoảnh mặt ra, không chậm nửa khắc, lão khách dắt tay chàng trai vào, nói luôn:

      - Cụ chủ à! Cậu nhà đã về đây! Cậu mười bảy năm xưa, cậu đeo vòng tiền gãy... ngày xưa trên biên giới.

      Đang thở mệt nhọc, như có mãnh lực dị thường xô đẩy, hai con mắt mở to vừa mừng vừa sững sờ cực độ, hai tay chới với, kêu run.

      - Trời! Con đấy ư? Con... theo thầy học võ... mười bảy năm đã về đấy ư? Ôi trời còn tựa người oan khuất! Còn cho ta được thấy đứa nhỏ ngày xưa.

      Lão khách bảo khẽ "cụ nhà đấy", chàng trai ngó sững và lao mình vào, một già một trẻ ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, tự nhiên mắt già mắt trẻ cùng ứa lệ ròng ròng.

      - Con... cha đợi con suốt mười bảy năm dài... chỉ lo chết đi không được gặp lại.

      - Cha... thấy luồng liễu diệp đao chém "chát" nhát nữa, bắn dúi luôn mặt nguyệt khuyết ra ngoài cửa sổ đứt đôi, luồng đao liễu liền xẹt ngược lại, chém "phập" trai dìu cha cùng ngồi bên mép sập, hai người nhìn nhau qua màn lệ, như muốn ngắm kỹ diện mạo nhau sau mười bảy năm xa cách, chàng trai rung lời:

      - Khi ân sư cho biết, con lo nghĩ vẩn vơ, ngờ có chuyện bí ẩn khác thường, nay gặp cha con mới yên tâm! Suốt mười bảy năm "người" chỉ lo dạy bảo, đến buổi chia tay "người" chỉ bảo: Ta không phải cha ruột con đâu! Hãy về tìm cha tại vùng Yên Bái, đồn điền họ Võ trên đường đi Lục Yên Châu! Cha con đang đợi! Thế thôi! Hỏi gì thêm "người" cũng không nói, làm cho con càng lo sợ vẩn vơ! Mẹ con đâu?

      Tự nhiên, ông già bảy mươi họ Võ giật mình chớp mắt, từ từ buông chàng trai ra, mặt trầm hẳn lại, đưa mắt nhìn lão khách vẫn đứng giữa cửa, đang chấm nước mắt.

      Chàng trai nhìn ông già. Bộ mặt lão vụt thay đổi hẳn như vừa có một đám mây mờ dĩ vãng kéo về coi cực kỳ thê lương. Lão ngó lão khách rồi đưa mắt nhìn qua khung cửa kính xa xa in hình rặng núi xanh đẫm ánh nắng sớm thu, như chìm về tận cõi xa xăm cách mười mấy mùa lá rụng.

      Chợt lão rùng mình liền mấy cái, đưa tay ôm lấy mặt, thở dài, khá lâu mới mở ra, nhìn chàng trai, đưa bàn tay nhăn nheo nắm lấy bờ vai, hai con mắt bỗng trở nên sâu thăm thẳm như đáy huyệt chứa đựng cả cái bí mật thảm thê oan khổ tưởng đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian.

      Giọng chìm buồn mênh mang, lão run run lẩm bẩm như nói để mình nghe:

      - Mẹ con chết rồi... còn đâu! Chết mười bảy năm rồi... hồi con mới lên hai!

      Chàng trai thở dài buồn bã:

      - Cha còn ảnh mẹ con chứ? Mà sao cha xanh xám thế? Phải mẹ con chết... thảm khốc lắm không?

      Ông già họ Võ có vẻ đắn đo, chừng đang coi có nên cho chàng trai biết ngay câu chuyện gớm ghê, lão đã chờ mười bảy năm để nói không. Chợt lão khách nói vọng:

      - Cụ chủ à! Cậu hai nhà mới về, đừng để cậu buồn!

      Ông già lấy lại bình tĩnh, bảo:

      - Chuyện nhà, cha sẽ kể con rõ, mai kia không muộn! Con về kịp cha chưa chết, là Trời Phật còn thương nhiều! Mười bảy năm nay cha chỉ lo không được gặp, gia tài này chẳng biết ký thác cho ai! Chú Sềnh cũng già rồi!

      Chàng trai ngơ ngác:

      - Cha... thế còn anh chị em con?

      - Có ai đâu? Mười bảy năm này, cha nằm đợi con về! A! Còn có Cả Hổ ở với cha mười lăm năm, coi như con nuôi, năm nay ngót bốn mươi rồi! Hình như nó đi đâu sớm, chưa về! Lát con sẽ gặp! Chú Sềnh à! Đưa cậu hai đi tắm rửa, thay quần áo! bảo chúng làm tiệc mau! Nhớ con là Võ Minh Thần!

      Lão khách vẫy gọi, nhưng chàng trai vẫn ngồi bên mép sập, chưa đi vội, chừng bị dồn nén quá lâu, không chịu nổi, chàng trai cất tiếng hỏi:

      - Cha... không nên dấu con! Ân sư con bảo về tìm cha, con linh cảm có chuyện chi bí ẩn ghê gớm, nên... mới phải phiêu bạt lạc lõng ngoài ngàn dặm từ khi còn trứng nước! Ân sư có lúc đưa con lên tận ngọn Thái Hành Sơn, có hồi sang tận miền sa mạc Gô Bi, ngược tận Bắc phương, đi dọc theo lưu vực Hắc Long Giang từ Mãn Châu sang Mông Cổ! Xem chừng "người" mới gặp cha lần đầu và có lẽ chính cha cũng không biết "người" là ai? Từ đâu tới? Mà vẫn trao con cho "người"! Mười bảy năm dài khổ luyện, giờ con đã đủ sức nghe câu chuyện nhà xin cha cứ nói! Con không sống nổi nếu chưa biết rõ nguồn gốc!

      Ông già nghe chàng trai nói, như sực nhớ, vùng hỏi:

      - Mười bảy năm theo thầy đi khắp thiên sơn vạn thủy, con đã học được tới đâu? Liệu hai cánh tay con có mang nổi... gốc nguồn quá khứ không? Phải! Con đoán đúng! Quá khứ đè nặng lên vai cha mười bảy năm rồi nếu con mang nổi...!

      Hiểu ý, chàng trẻ tuổi đứng lên kính cẩn:

      - Xin cha truyền!

      Ông già họ Võ đứng lên, tinh thần chợt phấn khởi, như vơi đi quá nửa phần bệnh, bước ra, vịn vai lão khách, rời buồng, dẫn chàng trai ra phía ban công sau hồi. Lưng đồi cỏ xanh um, vắng vẻ, lão dòm quanh, chợt thấy một con chó lớn đang chạy tung tăng dưới vườn, cách khá xa, lão trỏ xuống bảo:

      - Này Minh Thần con! Nếu gặp một con thú dữ cách hai, ba chục thước như con chó kia, con có thể giết nó mà không cần dùng súng bắn chăng?

      Chàng trai thưa:

      - Xa hơn mười bộ nữa cũng được! Không những thế con có thể hạ một mục tiêu di động như một con chim cắt đang bay chẳng hạn.

      Vẻ ngạc nhiên, ông già nhìn con, chàng trai ngó quanh chợt trỏ một con chim nhạn vừa từ phía trước lao tới cách khoảng bốn mươi bộ cao chếch, chàng trai đánh vụt tay ra.

      "Véo"! Tiếng xé gió muốn rách không gian từ tay áo chàng trai bay ra một vật sáng bạch, coi như một cái mồng trắng, con nhạn sa ngay xuống. Nháng cầu vồng trước mắt ông già ngó lại, tay chàng trai đã cầm một thanh liễu đao nhỏ bằng ngón tay, dài hơn gang, sắc như nước. Lão bật kêu lên mừng rỡ:

      - Trời! Con biết phép phi đao? Con có thể lấy đầu người nhanh như tia chớp!

      Chàng trai giơ ống tay áo cho cha thấy mỗi tay có gài một ngọn liễu đao:

      - Không phải phép phi đao đâu cha! Có hai cách phóng khí giới, một ném đi không trở lui, người thường dùng, hai ném đi dùng nhân điện tụ công điều động lưỡi dao xa gần tùy sức, với một lưỡi dao có thể chém liền hai nhát, cũng như người ta dùng một bộ máy phát điện điều khiển một phi đạn ngoài xa vậy! Ân sư đã truyền cho con luyện tập riêng môn này tới mười năm mới phát điện trong mình điều động được! Dùng phép này rất hao chân khí, lúc cần lắm, mới ra tay!

      Ông già họ Võ mừng hết sức, khen:

      - Ân sư con quả là bậc phi phàm! Cha đã thấy mười bảy năm xưa. Nhưng nếu cùng một lúc có hàng trăm, mấy trăm con thú xông lại vồ như rươi, dao này chém sao kịp? Lúc đó, con làm cách nào?

      Từ tốn chàng trai đáp:

      - Lúc đó chắc phải dùng phản phong quét chúng hoặc sử dụng mê công! Ân sư có dạy con thuật tẩm luyện thuốc mê, đánh ra, mũi và lỗ chân lông vật nào hít phải cũng lăn!

      - À hay lắm! Nhưng nếu dùng tà thuật độc khí, con tính sao?

      - Lúc đó, hoặc ra đòn trước, hoặc bế hết yếu huyệt, lỗ chân lông, tà phong tà khí không xâm tạng phủ được! Trừ phi... kẻ địch thượng thừa phi thường như... ân sư con chẳng hạn, lúc đó, dĩ nhiên không còn phép chống nào hiệu nghiệm!

      Ông già cảm động ôm chầm lấy con, nước mắt lại chảy ròng, quay sang bảo lão khách đứng gần:

      - A Sềnh à! Lập bàn hương án, đóng hết cửa lại, bảo chúng nó xuống hết dưới, mình chú ở lại thôi! Đã đến lúc ta phải kể rõ nguồn cơn cho "nó"... dĩ vãng đè nặng hồn ta quá lâu rồi, phải kể lại cho hết! Ta phải cáo hồn oan mẹ nó!

      Lão khách có cái tên Sềnh, bỏ ra liền. Tuy lòa mắt, nhưng lão còn đi lại như thường, chừng đã thuộc hết đường lối trong trang trại. Chỉ vài phút sau, cả mấy dãy buồng, tầng lầu đã im ắng không một bóng gia nhân.

      Lão Sềnh tự tay lúi húi một mình thiết lập, xong hương án gióng lên một hồi khánh, đoạn chắp tay đứng bên, vẻ buồn rầu thành kính hết sức.

      Chàng trai mới biết tên mình là Võ Minh Thần, thấy mặt cha cùng người lão bộc thân tín đầy vẻ nghiêm trọng lạ thường, lại hiện rõ nét buồn kỳ dị, chàng trai họ Võ linh cảm ngay trong gia đình ắt xảy ra chuyện thê thảm khác thường, tim bỗng đập mạnh, hồi hộp hết sức. Bèn đặt giỏ mây xuống nhìn hai ông già.

      Lão chủ đồn điền họ Võ dáng người mệt nhọc vì đang nằm bệnh, nhưng con mắt chợt sáng long lanh u ẩn, lão đưa mắt nhìn quanh, cảnh buồng tranh tối tranh sáng,chỉ có một khung cửa sổ mở chớp, cửa kính đóng, nắng thu sớm chiều xế góc buồng.

      Lão bước lại trước bàn thờ, chợt ngó ra phía cửa ra vào trầm giọng:

      - A Sềnh à! Có lẽ nên khép cửa, chú đứng đó cũng được! Không nên để kẻ nào nghe thấy.

      Hiểu ý, lão khách làm theo lệnh chủ và đứng tựa bên cửa. Lão chủ đồn điền họ Võ thắp hương lâm râm khấn khứa to nhỏ, dưới ánh nến trắng vật vờ, bộ mặt già nua càng trở nên thê lương hết sức, như ẩn hiện cả nỗi buồn thương dĩ vãng mười bảy năm dài dằng dặc đè nặng tâm hồn cô đơn của người đàn ông luống tuổi phong trần. Chàng trai đứng chắp tay bên bàn hương án, lòng xao xuyến, nơm nớp, chưa chi đã thấy xót xa, nhìn hai giòng lệ từ từ lăn trên lưỡng quyền ông già. Chợt im, lão nhắm hai mắt lại. Cả căn buồng càng rơi vào im lặng, có tiếng gà gáy khe khẽ từ dưới chân đồi vọng lên.

      Bỗng ông già họ Võ ôm lấy mặt, run giọng lẩm bẩm như nói với... dĩ vãng xa xưa, tiếng nghe âm u tưởng từ thế giới nào vọng về:

      - Ghê khiếp quá! Kinh sợ quá! Ác mộng cũng không kinh bằng! Cái xác... Trời ơi! Cái xác người đàn bà bị con quỷ nhả ra... Trời! Cái túi da người treo lủng lẳng! Đứa con nít lên hai mồ côi giữa đàn quỷ... biên thùy hoang vu lởm chởm đầy nanh vuốt... Cái túi da là mẹ con, đứa con nít chính là con...

      Giọng ông già họ Võ chìm dần, run run, kinh hoàng. Lão khách đứng tựa cửa, vùng thở mạnh, rên khẽ, tiếng nói như mê:

      - Ngộ cũng thấy! Ma quỷ... Hầy! Nó đớp cả cái gót chân ngộ... Ngộ đi với cụ chủ... Ghê dữ à!

      Ông gia họ Võ chợt buông tay, lau nước mắt, lấy giọng điềm tĩnh, đặt lên vai chàng trai mới về, lúc này mặt vừa thoáng biến sắc, mạch lạc, nhưng cũng đã vẽ lên mấy nét quá khứ bi thảm đến rởn ốc!

      - Đáng lẽ cha chưa cho con biết ngay chuyện ghê gớm này. Cha định để con vui đoàn tụ vài ngày, làm đủ giấy tờ trao gia tài cho con và chia cho Cả Hổ, chú Sềnh cùng đám tay chân thuộc hạ mỗi người một số ruộng, tiền lập nghiệp xong xuôi đâu đấy, cha mới nói rõ gốc nguồn thân thế cho con hay. Nhưng tuổi già như đèn trước gió, cha chỉ sợ bất ưng có thể lìa trần, gánh nặng tang thương đau khổ bí mật mang nặng trong đầu mười bảy năm liền, lỡ xảy chi không kịp cho con biết, chắc cha chết đi cũng không nhắm mắt nổi!

      Lão ngừng lại, ho sù sụ. Chàng trai vọt tới bên sập rót nước dâng. Lão uống mấy hớp, thở phào một hơi cố trấn tĩnh, như chưa biết vào chuyện sao cho gọn.

      - Mười bảy năm rồi! Phải! Chuyện xảy ra chiều hôm đó, cha còn nhớ như in, nơi biên giới Việt - Trung, một chiều muộn, sắp hoàng hôn, gió hắt hiu... Chiều hôm đó...

      Giọng lão chìm dần như chỉ sợ tiếng nói to sẽ làm xao động cả chiều vàng bên cảnh xưa... Ánh nến vật vờ rung rung loang lổ hắt từng vũng sáng, tối trên bộ mặt gồ ghề như con đường đèo xuyên biên. Nhưng chợt lão hắng giọng bằng một tiếng đanh, vùng cao giọng:

      - À quên! Cha là Võ Minh Phong, hồi đó đã ngoại năm mươi. Trước nhất, con cũng cần biết rõ cha đây thực ra không phải cha đẻ của con! Cha chỉ nhận con làm dưỡng tử, còn cha ruột của con thực ra...

      Chàng trai vừa nghe ông già họ Võ thổ lộ, không kém nỗi kinh ngạc, sững sờ, vùng choàng lấy hai vai lão bật kêu "trời" sửng sốt, toàn thân chấn động, một hơi gió lùa khe cửa khép hờ, ánh nến trắng lảo đảo. Thình lình nghe có tiếng súng nổ "đoàng", tiếp liền tiếng lão khách Sềnh la lớn. Rầm! Cánh cửa mở toang, thân hình cao lớn của lão Sềnh loạng choạng đổ dụi theo cánh cửa.

      Giật mình, cả hai người cùng ngoảnh trông ra, vừa trông ra, vừa thấy dáng lão thuộc hạ thân tín ngã nhào, ông già họ Võ vùng lảo đảo hấp tấp chạy ra, miệng hỏi vọt "A Sềnh sao thế"?

      Chàng tuổi trẻ đứng ngơ ngác mấy giây, nhưng vốn nhạy phản ứng của nhà võ, thấy ông già vùng chạy ra, chàng trai vùng vươn tay nắm lại, gọi giật giọng:

      - Cha! Chớ ra!

      Miệng quát, chân vụt đuổi theo, nhưng hơi muộn. Cách vài thước, ông già quá xúc động trước cảnh người thuộc hạ rất thân ngã dụi, lão chỉ vùng một, hai bước đã tới, cúi xuống đỡ lão Sềnh, không hề để ý đến chuyện đã vô tình đứng giữa khung cửa vừa mở ngoác. Và đúng lúc lão chạy ra giơ hai tay chưa kịp ngồi xuống ôm lão Sềnh lên, thì "đoàng" phát súng nửa nổ chát chúa, lẫn tiếng xoảng khô dòn, ông già họ Võ rú lên, bật ngửa người, ôm ngực, trợn mắt trừng trừng, đổ xuống như cây chuối bị đẵn gốc.

      Đáo sự mới biết chàng trai này nhanh hết sức, vừa bật kêu lên vừa lao vụt qua khung cửa trống, khom mình ghé vai vừa đỡ vừa đội luôn ông già vào chỗ khuất, "đoàng" phát thứ ba "chíu" trốc đầu chàng trai, xói phăng một mảnh bàn thờ, đạn xé ngang. Lẹ như chớp, chàng trai đặt ông già, đánh vụt bàn tay ra chiều ngược đạn đạo khoắng loằng ngoằng. Từ ống tay bay vút ra ngọn liễu đao bắn "véo" chếch qua góc hành lang, tít cuối phía hậu, nơi có dựng một tấm gương lớn sát "ban công".

      Xoảng! Xoảng! Tiếp liền tiếng rú nhọn, cụt. Như kẻ làm quỷ thuật, chàng trai rê vụt bàn tay trái về phía trước cửa, như rờ rẫm không khí, bàn tay chợt đỏ rực như tắm ánh bình minh. Nhưng nếu có kẻ thượng võ mới thấy kinh, vì đó là "bàn tay điện" tập trung nhân điện kỳ công đang rê tìm luồng nhân điện bên ngoài.

      Nếu ngoài có người ẩn náu sẽ toát hồi nhân điện, nhân khí ra, chạm luồng điện công, lập tức có phản chấn dội lại, biết liền. Quả nhiên, vừa khoa một vòng, chàng trai đã chém xả tay phải ra, tít xa, xế sau "ban công" có tiếng rào rào rắc rắc, "phập" ngọt như không, từ trên cành cây um tùm vừa gãy, bỗng phát ra một tiếng rú lê thê, một cánh tay cầm súng rụng xuống vườn.

      Trong cả phản ứng bất thần, chàng trai nghe tiếng rú vùng đảo tay toan chém với theo, nhưng sực nghĩ ra, chàng ta nâng vụt lên, rào rắc ngọn cây, chàng ta toan phóng mình ra, bỗng nghe dưới vọng lên tiếng người kêu lớn "súng nổ trên nhà", "lên coi mau", sau lưng chàng, ông già chợt rên lên phều phào:

      - Chết mất... con!

      Lo mạng ông già, chàng trai vội thu liễu đao khép sập cánh cửa, quay vào xốc ông già, trong khi lão Sềnh vừa kêu, vừa đang cố ngồi dậy:

      - Coi chừng... nó bắn nữa! Mặc ngộ... ngộ bị vào đùi... Cứu cụ nhà...

      Quả nhiên đùi trên lão đẫm máu, lão ôm vết thương cắn răng ngó chủ, chàng trai ôm ông già xem ngực, ngực đầm đìa máu đỏ lòm như đổ cả bát phẩm điều, lão mím môi, quằn quại ngửa cổ, cố gượng đau, nói gì, bỗng nghe lào phào yếu ớt, tiếng chìm biến trong hơi thở hổn hển:

      - Chết... mất Võ... Thần con... bí mật đời... con... hỏi lão... Sềnh...

      Môi mấp máy, lão rướn cong mình quằn quại hai con mắt mở trừng trừng, ứa lệ thở phào, rồi ngoẹo đầu sang bên... đi vào cõi tịch mịch muôn đời! Chàng trai vùng reo tên, lay gọi, nhưng vô ích! Ông già cô đơn cõi lòng, đã chết, khi chưa kịp thổ lộ điều bí mật cho người trai lưu lạc, viên đạn bắn cạnh tim, gặp xương phá vỡ!

      Chàng trai hét lên, run tay vuốt mắt cho ông già, nước mắt chảy ròng rỏ cả xuống bộ mặt phong trần quắc thước.

      Ngay khi đó, năm sáu người nhà tay súng, tay dao rầm rập chạy lên, xô rầm cửa, kinh hoàng trợn mắt, chàng trai trỏ vụt về phía mình vừa chém:

      - Có đứa bắn trộm! Có đứa bị thương! Chớ để nó trốn! Bắt sống lấy! Mau!

      Bọn gia nhân thuộc hạ nhất loạt vọt đi đuổi sục.

      Lão Sềnh Nếu vậy tên chúa đảng Mã Đầu Sơn này rất lợi hại, vừa tàn ác vừa khôn quỷ, ta phải cẩn thận mới được.

      Thực ra, chính Quản Kình cũng chưa rõ ra! Chắc cắm trong đùi! Chuyện năm xưa chú biết chú cho biết... mau! Điều bí ẩn... về thân thế tôi... mẹ tôi sao? Sao lại "túi da", con quỷ? Sao lại "vòng xanh"? Trời ơi! Tôi phát điên mất! Mười bảy năm chờ đợi... tôi vừa về "người" lại bị bắn trộm chết...

      Chàng trai vừa hỏi, vừa bồng ông già họ Võ lên đặt nằm ngửa trên sập, kéo lấy mảnh khăn trắng phủ lên mặt ông già bất hạnh.

      Lão Sềnh chừng thấy mình bị đạn phá nát xương đùi trên, đau hết sức, lại sợ xảy chuyện chẳng may, vùng gọi:

      - Cậu hai! Cậu... nghe tôi kể... đã!

      Đang cúi phủ vải trắng lên mặt ông già họ Võ, nghe gọi, chàng trai vội ngẩng quay ra, bất ngờ nghe "xoảng" tiếng kính vỡ tan dòn, chàng trai giật mình ngó vụt về phía có tiếng động, toàn thân lao xuống xô lão Sềnh.

      Nhưng chỉ kịp thấy một bàn "tay" lông lá đen thui vừa đấm vỡ kính vừa thò vào, phóng vút cái, rụt luôn ra, nhanh như chớp. Đến độ chàng trai chưa kịp mó vào mình lão Sềnh, lão khách lòa lúc đó nghe tiếng xoảng, vụt ngoảnh trông về góc buồng hồi, chân đau, chưa kịp phản ứng, thì một lưỡi dao lá đã bay vút vào, cắm trúng cổ họng lão khách lòa! Phập!

      Vừa thấy lão la lên, ôm cổ lòi chuôi dao nhỏ, chàng trai dậm phắt chân, vừa nhảy vọt về phía cửa sổ, vừa thả "vèo" lưỡi liễu đao. Xoảng xoảng! Chát chát! Ánh thép thần tốc phá vỡ tan ô kính, chặt đứt trấn song sắt, có tiếng ré kéo dài hút, chàng trai dòm qua khung cửa sổ mờ có thoáng thấy một bóng con nít đen đang đeo đu vút từ phía khung cửa sổ ra lùm cây xế bên hồi, vừa nắm được cành cây bỗng rời ra một bàn chân đen thui, bóng con nít này sa luôn xuống vườn.

      Chàng trai nổi giận, vừa nắm trấn song định bẻ nhẩy qua vườn, bỗng nghe lão khách gọi cứng:

      - Vào... mau... dao độc...

      Giật mình, chàng trai vội đảo lại, vừa kịp đỡ lão khách dụi xuống, hai tay run bần bật, lưỡi dao cắm ngang nơi cổ họng, máu đen sì, mắt lão trợn ngược, cả kinh, chàng bật gọi:

      - Chú Sềnh! Trời! Dao tẩm nhựa "sui"? Chú... sao... bí mật năm xưa? Sao? Mẹ tôi... cha tôi là ai? Ai giết? Sao lại "quỷ"? Ai giết?

      Vô ích! Thuốc độc đã ngấm vào mạch máu, tạng phủ, thứ nhựa "sui" ngâm mũi tên chỉ bắn sướt da rớm máu, lợn lòi to bằng con trâu, nháy mắt đã chết rồi!

      Vừa lay gọi, chàng trai vừa ngó gần ngọn núi Tây, qua sương chiều, ánh sáng úa thoi thóp đổ xuống hẻm, mỗi bước đi như có tử thần rình rập, không khác Bàng Thống qua Lạc Phụng Ba! Hai lưỡi đã líu lại. Phào theo hơi thở đứt, phều phều mấy tiếng "tìm... Chúa núi Đầu Ngựa". Rồi lão ngoẹo cổ "đi" luôn.

      - Chú Sềnh! Chúa núi Đầu Ngựa là kẻ thù hay người ân? Tìm hỏi nguồn cơn hay báo oán? Cõi nào?

      Cũng như ông già quắc thước họ Võ, suốt mười bảy năm ngậm miệng, chôn giấu chuyện thảm thê bí ẩn trong lòng, đợi "đứa nhỏ năm xưa" trở về, nhưng mới nói được một, hai điều, đã ra người thiên cổ đem theo bí ẩn xuống tuyền đài!

      Mười bảy năm chờ đợi, cả hai cùng bị chết giữa phút trùng phùng! Kẻ nào giết? Kẻ nào? Hy vọng gốc nguồn thân thế vừa chớm lóe, đã tắt ngang... Giờ chỉ còn mình ta cô độc chơ vơ không nguồn gốc trên cõi đời oan khổ ác độc này!

      Chàng trai đặt người khách già lên sập, và ôm cả hai cái xác thân yêu, vật mình khóc rất thảm thiết.

      Cả trang trại náo động, gia nhân tá điền, đàn ông, đàn bà, gọi nhau inh ỏi, đám kéo lên lầu, đám rượt tìm quân gian, đồn điền loạn cả lên, nhiều người tưởng cướp.

      Chúng xô cửa, thấy chàng tuổi trẻ mặc áo rách vai đang ôm hai cái thây chủ đồn điền, lão bộc khóc thê thảm, ai nấy đều kinh dị, nhiều kẻ khóc òa.

      Bọn gia nhân thủ túc vệ sĩ vừa đổ đi rượt hung thủ, bắt được một cánh tay, một ống chân người và một bàn chân vượn thú cùng hai khẩu súng trận, loại mút Đông Dương.

      - Tụi này lợi hại không vừa! việc gì?

      Võ Minh Thần từ tốn bảo:

      - Mỗ có việc quan hệ, nị cứ đưa mỗ vào!

      Gã đầu mục nhe răng cười khẽ:

      - Tài Wang lo việc lớn, hai phát. Đảo sang hồi bên này, nhặt được một bàn chân thú coi đúng chân vượn. Cả nhà có sao không... cậu hai!

      - Trời! Cả cụ lẫn chú Trưởng Sềnh đều bị hại!

      Bọn thuộc hạ vệ sĩ nhào vào kinh sững, kẻ nghiến răng trợn mắt chửi rủa, người cúi đầu ứa nước mắt, tất cả xúm lại an ủi chàng tuổi trẻ, một người Kinh trạc tứ tuần, vẻ khá giỏi võ, hai tay hai khẩu S.Etienne cối to, dắt vào bụng lễ phép bảo chàng trai:

      - Chắc chúng nó theo dõi lâu rồi! Ngót mười năm nay không lúc nào bọn tôi rời cụ nửa bước! Cụ vẫn ngại có kẻ thù bí mật ám hại. Tôi là Kình, hồi trước đã đi lính đóng quản nên thường gọi Quản Kình. Tôi theo cụ hơn mười năm rồi, trước hồi cụ làm quan Châu. Cụ rất có lượng thương người, ai cũng kính mến. Cụ lặn lội suốt đời, không ngờ về già lại bị ám hại!

      Chàng trai gạt nước mắt, ngó xác ông già:

      - Cha tôi có làm quan Châu?

      - Dạ, cụ nhà chỉ nhậm chức mấy năm, rồi thôi! Cụ ưa hoạt động. Chỉ thích mở đồn điền, buôn lậu!

      - Nhưng cụ bỏ nghề này đúng mười bảy năm rồi từ ngày gửi cậu hai đi học xa.

      Chàng trai thấy Quản Kình cùng bọn thuộc hạ dưỡng phụ mặt mày trông gan góc, có người đầy sẹo coi dữ tợn, nhưng xem vẻ trung thành có nghĩa, bèn nắm tay Quản Kình cùng đám thuộc hạ, ngậm ngùi bảo:

      - Tôi mới về, lâu nay ở núi, chưa hiểu chuyện chi nay chẳng may cụ cha tôi cùng chú Sềnh thác oan, phiền mấy chú liệu việc ma chay tống táng giúp cho! Tôi quyết không để cụ và chú Sềnh ngậm hờn dưới mộ! Tôi phải tìm ra hung thủ!

      Bọn Quản Kình nhất loạt đáp:

      - Đó là bổn phận bọn tôi, cậu hai khỏi lo! Còn mọi việc đã có cậu cả lo liệu! Cậu cả đi từ sáng sớm chắc cũng sắp về!

      Dứt lời, Quản Kình lập tức cùng đám gia nhân, tá điền lo việc tẩm liệm ma chay, người người đều bi lụy.

      Chàng trẻ tuổi Võ Minh Thần lòng buồn vô hạn ngồi ủ rũ bên xác hai ông già, cắn răng chịu đựng, tâm hồn tan nát vừa thương người cha nuôi, nghĩa bộc bất hạnh, vừa xót xa thân thế mịt mờ cội nguồn dĩ vãng, từ nay lại một bóng cô đơn đi trong lớp lớp sương mù dày đặc, lần mò tìm gốc rễ tang thương huyết thống, kẻ thù không đội trời chung.

      Đến lúc khiêng mấy cái thây lạ đi chôn trước, cả đồn điền xúm lại nhận diện, thấy một cái thây hoàn toàn xa lạ, xác bị chém "ngọt" hết sức, Quản Kình sực hỏi:

      - Phải cậu hai chém nó? Hình như lúc đó cậu vẫn ngồi trong buồng cụ mà?

      - Tôi có lối chém... riêng! Tiếc lúc đó cụ gọi, không kịp đuổi theo bắt được chúng? Sợ cụ trối trăng gì cần kíp, nhưng không kịp!

      Quản Kình vẫn chưa hiểu rõ, nhưng cũng yên tâm, được biết tiểu chủ là tay giỏi võ.

      Vừa lau chùi xong hai cỗ quan tài chạm trổ khá tinh vi, nhà khá giả đương thời vẫn có tục sắm sẵn quan tài để trong nhà, khi về già, gần đất xa trời, bỗng có tin Cả Hổ về.

      Cả Hổ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu, người vạm vỡ khỏe mạnh, vẻ hoạt động gan dạ, đi với năm, sáu thuộc hạ, đều cao lớn lực lưỡng vừa Thổ vừa Kinh, đi bên Hổ, là người phó vẻ lai Kinh Mán, cao gầy đanh, mắt sáng quắc coi vẻ giỏi võ. Cả Hổ cùng bọn thuộc hạ chạy ngựa lên thẳng căn nhà ông già họ Võ, thấy gia nhân đang khiêng lên hai cỗ quan tài, cả bọn giật mình, chưa kịp hỏi, Quản Kình từ trên xuống, nói ngay:

      - Cậu cả! Cậu về muộn mất rồi. Cụ nhà và chú Trưởng Sềnh vừa bị quân gian bắn trộm chết, khi đang nói chuyện với cậu hai ở trong buồng! Cả Hổ kêu lên, nhảy luôn xuống, cùng đám thuộc hạ chạy vụt lên lầu, Quản Kình đi theo.

      Võ Minh Thần đang ngồi ủ rũ, thấy bọn Hổ ùa vào, còn ngơ ngác, Quản Kình đã nói lớn giới thiệu hai người với nhau. Cả Hổ nhào tới ôm thây họ Võ, lão Sềnh, xem xét vết thương, khóc thảm, rồi mới quay sang nhìn chàng trai mới về, không chớp mắt, miệng hỏi:

      - Võ Minh Thần...

      Chàng trai gạt lệ, ngó Hổ, buồn bã:

      - Em vừa về được giây lát. Đang thưa chuyện với cha... Người mới nhắc đến anh!

      Cả Hổ lẳng lặng tiến lại gần, vòng ra đằng sau Võ Minh Thần, xong lại đảo ra trước, vùng tay chụp lấy cánh tay chàng trai. Võ thấy lạ nhưng cứ để nguyên. Bỗng Cả Hổ buông tay, giang cánh ôm chầm lấy Võ, giọng xúc động kêu:

      - Đúng Minh Thần rồi! Cha có dặn tôi phòng ngộ nạn bất thần, nếu chú về, còn biết mà nhận! "Người" có dặn trên đời này chỉ có chú mới mang mấy thứ đó thôi! Mười bảy năm nay, "người" nhắc đến chú ngày đêm, "người" bảo sinh chú trên biên giới!

      Chàng trai biết dưỡng phụ giấu nguồn gốc mình, nên cũng không tiện nói rõ, lại thấy Cả Hổ đối với mình tuy không cùng máu, nhưng tỏ vẻ thân thiết hết sức, nên một lòng quý mến, coi như anh ruột. Buông nhau, Cả Hổ hỏi lại chuyện vừa xảy ra, vừa kinh ngạc, vừa phẫn uất, bảo Minh Thần:

      - Từ nay, phải canh phòng cẩn mật mới được! Bọn khốn có thể ám hại cả chú và tôi nữa. Chú mới về, chắc mệt, nên nằm nghỉ, mọi việc đã có tôi! À chú cũng nên biết qua người trong đồn điền này vì từ nay, chú là chủ tất cả!

      Đoạn, lập tức giới thiệu Minh Thần cho mọi người rõ, lại trỏ từng người giới thiệu với chàng. Xong lại trỏ riêng Quản Kình và người Mán lai Kinh bảo:

      - Trong trại, hai chú này giỏi võ nhất! Chú Quản vẫn theo bên phụ thân. Còn đây chú Khìn Lồi, thường phụ bên tôi! Từ nay, chú Quản hãy ở sát bên cậu hai! Nay phụ thân và chú Sềnh chẳng may đã mất chúng ta hãy lo chuyện ma chay, rồi sẽ tính chuyện báo thù! Chú Quản hãy đưa cậu hai đi tắm rửa, thay y phục.

      Đó rồi, cả đồn điền nghỉ việc, lo đám tang. Võ Minh Thần theo Quản Kình sang phòng tắm xong, thay quần áo, mặc tang phục trắng cùng Cả Hổ đem xác cha già cùng xác lão Sềnh quàn đặt giữa phòng khách dưới nhà.

      Bình sinh ông già họ Võ đối với người rất có lượng, ai cũng cảm phục, hay tin dữ, cả miền kéo đến phúng viếng, ai cũng buồn, nguyền rủa quân sát nhân.

      Đêm đó, Cả Hổ truyền Khìn Lồi đốc tráng đinh, thủ hạ bí mật thay phiên canh gác tuần phòng quanh trang trại, còn bọn Quản Kình ngót chục tay chiến khác bí mật phục trấn quanh căn nhà chính lưng đồi.

      Đêm vào khuya dần, thoắt đến canh ba giờ Tý. Đồn điền rừng gió đêm hiu hắt, chàng tuổi trẻ họ Võ ngồi bên quan tài, lòng buồn mênh mang nghe tiếng động đêm rừng khuya.

      Trong đồn điền mọi người đã thiếp ngủ, mai còn lo đám tang.

      Không gian chìm sâu vào im ắng, bâng khuâng tiếng chim khảm khắc từ hai bên đầu núi kêu thương rớt xuống, rã rượi... Có tiếng hoẵng kêu ngơ ngác xa xôi vọng về... bơ vơ... Võ Minh Thần ngồi trên một cái ghế gụ kê góc phòng khách, xế đầu quan tài, gần khung cửa sổ hiên tiền. Ngoài thềm có một tay súng phục trong xó tối, Quản Kình thủ cây Saint Etiene, sườn mang dao quắm, ngực áo cắm một hàng đao lá lan, thu mình trong bóng cửa sau. Cây nến trắng, quả trứng đặt nắp ván thiên, coi càng hiu hắt trong đêm, đổ cái bóng quan tài xuống nền nhà đen thui.

      Bốn bề quạnh vắng, tiếng trùng đêm rên rỉ từ vườn hậu đưa vào, đơn điệu, thê lương, chàng tuổi trẻ ngồi nhìn ngọn nến, lòng như tê dại dần trong cảnh nhà tang, chợt một cơn gió hắt hiu lùa vào phòng khách, chàng trai rùng mình một cái gai gốc hàng rào bông bụt, mà Vĩnh vọt qua cửa khẩu bên kia, anh thành bảo vật của bác Loan, bên nây, Khang thành kho tàng vô giá của thím Hạnh. Còn tôi là cục cưng ngàn vàng của bác Ba, trong khi ba đàn ông: chú để trả thù!

      Võ thở phào, nhẹ nhõm, quay bảo Quản Kình:

      - Không còn ngờ gì nữa! Con quỷ mũi vẹt một mắt đúng quỷ tặc trên núi Đầu Ngựa Quản Kình lại gần bảo nhỏ:

      - Đêm nay có kẻ đến hành thích hai người trong nhà này! Chắc tôi và anh cả! Chú khá đi mời anh cả tôi đến đây mau! Kín!

      Quản Kình vụt xuống đồi, phút sau Cả Hổ theo vào, ngạc nhiên.

      - Chú... có chuyện chi cần tôi?

      Võ kéo người anh nuôi xuống, nói nhỏ:

      - Sắp có kẻ tới ám sát chúng ta! Anh khá bảo người nhà quanh quẩn tít dưới, không ai được tới khu đồi này. Còn chú Quản mau ra hiệu cho các chú phục vào cả trong này... ngồi đánh bạc buồng bên!

      Cả Hổ, Quản Kình cùng ngạc nhiên, Hổ ngơ ngác hỏi:

      - Sao chú biết? Nếu quả có kẻ đột nhập ta phải tăng cường nhiều tay súng gác quanh đây chứ?

      - Không sao! Gác thế, nó có bản lãnh vẫn vào được, chết uổng người gác. Vả mình cần nó vào ánh nắng thu tàn. Sương lam khí đá đùn chăng vơ vẩn, ngay dưới cổ ngựa là một khu lòng chảo khá bằng phẳng, coi như cái đài sen loe, tòa ngang dãy dọc ngổn sau hai người trở vào, Quản Kình dẫn theo chín, mười người lực lưỡng, võ trang, kéo nhau sang căn buồng bên, ngồi xúm nhau rút "bất" đánh "xì", dưới ngọn đèn đất, có kẻ ngồi uống rượu.

      Cả Hổ kê thêm một cái ghế lớn bên cạnh chỗ Võ Minh Thần, hai anh em ngồi trò chuyện, giục nhau ngủ, Quản Kình lúi húi pha trà, được một, hai tuần, chợt một trận gió thổi rào cả hai ngọn nến đầu quan tài tắt phụt. Quản Kình gọi đàn em lấy diêm châm nến. Châm xong, ngó lại, hai anh em ngủ gục, tay khoanh thành ghế, đội nguyên cả mũ rơm, mặc tang phục thùng thình.

      Quản Kình ngó, vẻ ái ngại bảo tay em:

      - Tội nghiệp cậu cả, cậu hai, lo buồn mệt quá, thôi cứ để hai cậu thiếp đi một lát, bọn ta sang bên!

      Hai người bỏ đi. Đồn điền hoàn toàn im ắng. Buồng bên bọn Quản Kình vùi nhà xắn, dựa cổ ngựa là một căn nhà gỗ hai tầng, kiểu nhà sàn, dưới vách trống, hoa leo mọc dày che kín cột, đàng gian đầu là tàu ngựa, gà vịt, chim câu hàng vẫn ngủ vùi trên ghế.

      Ngoài trời trăng mờ lạnh lẽo, đồi cây vườn trước vườn sau loang lổ đen ngòm từng khoảng lớn. Gió thổi rì rào.

      Bỗng có một bóng con nít từ trên cây đu xuống cành rủ lòa xòa xế cửa hậu trông ra hiên sau. Chừng đã vượt êm vòng ngoài, kiểm soát kỹ vòng trong, nó móc chân trên cành, dốc đầu xuống, ẩn giữa tàn lá um, theo lối "đoạn quyền tiềm" của Sài Khánh xưa đu ngược dòm vào nhà khách nham nhở tranh tối tranh sáng.

      Mấy phút sau, bóng con nít đu vườn sát góc cửa sổ đóng chớp, cầm một cái ống nhỏ như ống địch thổi nhè nhẹ vào phòng. Từ ống trúc, bay ra một luồng khói xám cuồn cuộn rót qua khe cửa, tuôn vút tận chỗ có hai anh em họ Võ đang ngồi ngủ gục.

      Giây phút, cả căn buồng đã mù mịt đầy khói xám, bỗng nghe tiếng hai anh em họ Võ nhẹ thở phì cái, im bặt. Mùi thơm ngào ngạt, mê hồn hương đã vùi vào giấc ngủ mê man.

      Rắc! Rắc! Bóng con nít bẻ nghiến mấy hàng chớp, ghé mắt dòm vào. Ánh nến hắt soi hai con mắt đỏ khé như mắt thú ăn đèn săn. Nó đã dòm thấy bóng hai người ngồi ngủ gục.

      Bỗng có bàn tay đen thui thò vào khoảng chớp gẫy. Hai người vẫn ngủ yên. Vút vút, liền hai luồng thép sáng quắc bay vào, cắm phập giữa gáy hai người, ngập lút cán, trúng huyệt độc!

      Hai người ngủ vùi bỗng giật rung đầu rồi lại im ngay... hồn lìa khỏi xác. Buồng bên đang mê cuộc đỏ đen, chợt liền mấy kẻ hắt hơi, ôm mặt lảo đảo. Quản Kình la lên:

      - Lạ dữ à! Có chú nào ngửi thấy mùi thơm không? Ôi chao! Sao mi mắt tao cứ dính chặt vào nhau thế này?

      Cả lũ xôn xao, theo Quản Kình gục xuống ngủ như chết.

      Im lặng mênh mông, mười khắc sau, bỗng từ nẻo hoa viên trước nhà, vụt hiện ra một bóng lạ, lắc mình cái đã đứng bên khung cửa khép.

      Nó thò tay vặn quả nắm sứ, mở cửa ken két. Rào cơn gió lùa, bóng này đã đứng xế đầu quan tài. Quần áo đen thui, trùm mặt, hở hai con mắt, bóng dị đảo mắt nhìn quanh, nhỡn tuyến dừng trên người hai anh em họ Võ, ngó hai cán dao bóng loáng cắm nơi gáy nạn nhân, phát tiếng khô chìm:

      - Hai đứa tới số, hà hà! Về hưởng gia tài... cho hai đứa chết chôn chung một mồ với tên già, thằng khách!

      Soạt! Bóng lạ rút thanh gươm sáng, vọt tới chém vụt một phát. Phập phập! Hai cái đầu văng rụng xuống nền đá hoa, cái bóng bỗng giật thót mình, ngã vật mình xuống, miệng kêu "trời đầu quả gáo"!

      Có tiếng phát âm u phía quan tài:

      - Đứng lại! Ta đây! Mi còn chạy đâu thoát!

      Theo tiếng hô trầm, một sợi thòng lọng quăng vút qua, chụp nghiến lấy bóng lạ, y nhanh nhẹn ngã vật xuống. Hắn lăn một, hai vòng, bị thòng lọng xiết chặt lôi về phía quan tài, nhưng bóng này cao bản lãnh hết sức, đã quay luôn mũi kiếm sóc đứt phựt vòng dây, chồm lên, vọt ra ngoài như chiếc cầu vồng.

      Vải rũ gần quan tài tốc lên, bóng chàng trai họ Võ nhô ra, đánh vụt tay theo. Ánh thép loáng dưới nến vật vờ, vút ra chém "phập" tiếng ngay khi còn lơ lửng giữa không mờ ánh trăng một bàn chân rụng xuống "huỵch". Lẹ như chớp chàng họ Võ bắn vọt từ trong chỗ gần Võ Minh Thần chiếu cặp mắt điện vào hai tên khách. Đang nằm nhắm mắt hút, sực nghe động âm, tiếng quát, cả hai tên khách cùng mở choàng mắt ra nhưng có điều chồm lên, chàng trai xốc tới, đá lia một ngọn cước, trúng huyệt, nằm im, một bóng khác vừa tới bên thềm, thấy động, phóng vèo ra phía hoa viên. Võ đứng đầu thềm, chém lia lịa quát giật, rắc rắc rào rào chát chát, đường thép xả vòng chỗ bóng kia mới nhảy lẫn vào, loang loáng rất uy tợn.

      - Đứng lại.

      Cành gãy, mỏm đá rụng, bắn tả tơi, thoáng có bóng trong vùng tranh sáng, Võ lắc mình theo đường kiếm, bắn vọt qua ngọn giả sơn, thò tay túm luôn được gáy cái bóng này.

      Trong lúc đó Quản Kình cùng bọn tay em đã chồm dậy, tông cửa hỏi, vọt ra phía sau cửa phòng khách, vừa kịp thấy bóng con nít từ sau cửa đu vút ra xa, bỏ chạy. Kình lẩy luôn một phát trúng cẳng, bóng này sa xuống tàn cây dưới, chỗ sáng trăng. Kình nổ luôn phát nữa, sa "bịch" đất. Chạy ù ra vồ, mới hay đó chỉ là một con vượn khoang mặc quần áo đen.

      Tay con quái thú còn nắm chặt ống trúc đựng đầy mê hương. Quản Kình xách xác con vượn, chạy vòng ra đằng trước. Ngoài hoa viện chàng trai Võ Minh Thần đã túm được bóng lạ thứ hai quật sóng soài bên hòn giả sơn. Cả Hổ chạy theo sau thấy Minh Thần vừa bắn người ra đã túm quật ngã được hung thủ, Hổ vùng hỏi lớn:

      - Nó sống hay chết?

      Chàng trai dậm chân lên lưng bóng lạ cao giọng:

      - Còn sống! Tiếc quá tay chém chết tên kia! Còn một đứa xông hương mê cửa sau!

      - Cậu hai! Không phải người! Con vượn!

      Quản Kình cùng bọn đàn em vọt ra, Kình túm cẳng con thú dốc ngược trước mặt hai anh họ Võ. Cả Hổ hô lớn:

      - Lùng xem còn đứa nào nữa không? Chà! Chú nhanh như cắt, mẹo hay dữ à? Nào đem tất cả vào nhà!

      Bóng lạ mặt trùm kín, bị điểm huyệt, nằm như khúc gỗ. Cả Hổ cúi xuống định lôi y, nhưng Quản Kình đã nhanh nhẹn sà xuống xốc luôn lên vai xăm xăm đi vào nhà khách, ném bịch cả người, thú xuống đất đá hoa. Bọn tay em chạy các nơi, chiếu đèn bấm, lục soát.

      Võ Minh Thần phẩy tay xua nốt hương mê còn phảng phất trong phòng, bảo Quản Kình:

      - Lột vải trùm coi!

      Quản Kình ngồi xuống, lật ngửa bóng lạ, thò tay cởi nút buộc, giật soạt cái. Bộ mặt bóng lạ vụt lộ dưới ánh nến vật vờ, khiến cả ba người đều giật mình kinh ngạc, trố cả mắt. Vì... bóng lạ không ai khác... Khìn Lồi người Mán lai Kinh, gãi đùi. Nào dè từ tay y đã phát ra một luồng độc khí mê hồn bay vút vào mặt Võ, mùi thuốc phiện thơm lừng.

      Chính đòn "Phù Dung Công" hấp luyện tới vào đồn điền mấy năm rồi mà...?

      Võ Minh Thần, Quản Kình ngơ ngác nhìn nhau, chàng trai hơi nhíu mày, lẩm bẩm:

      - Tôi đuổi theo chân tên kia rớt từ cao xuống, thấy bóng này vọt ra phía ngọn giả sơn, tôi nhảy ra chặn! Lẽ nào lầm được! Y cũng bịt mặt! Thử ra coi tên kia!

      Quản Kình chạy ra túm lấy thủ cấp tên hung thủ vừa chém lầm phải hai hình nhân giả, bước vào. Đường thép lia "ngọt" đầu lâu còn trùm nguyên vải bịt đen tẩm máu. Quản Kình xách thủ cấp đứng quan tài lột phắt vải trùm. Nhưng chỉ là một tên hoàn toàn xa lạ, mặt mày dữ tợn, hai con mắt mở trừng trừng, không phải người đồn điền, cũng không phải dân quanh miền.

      Quản Kình ném bịch đầu lâu xuống đất, đầu lâu lăn lông lốc nằm bên chỗ Khìn Lồi. Cả Hổ bảo Minh Thần:

      - Thằng này không phải người địa phương mấy hạt châu Yên Bái này! Lạ thật! Chú thử giải huyệt cho nó coi! Chắc có chi bất thường đây!

      Võ Minh Thần búng tay một cái, Khìn Lồi thở phì, bò nhỏm dậy, la lên:

      - Trời! Suýt cậu hai chém chết Lồi à? Cậu hai giỏi võ dữ. Lồi thấy cậu hai chém rụng cái đầu thằng này!

      Cả Hổ cau mày hỏi lớn:

      - Chú Lồi! Cậu hai đuổi chém thằng này thấy chú núp hiên chạy ra vườn hoa. Chú theo hung thủ, phản thầy?

      Khìn Lồi trợn ngược mắt vẻ kinh ngạc, vò đầu kêu:

      - Cậu cả bảo Lồi cùng bọn quân gian? Lồi theo nó giết cụ nhà, giết hai cậu? Trời! Chém chết Lồi còn hơn à. Lồi lên đồi nghe động chạy lên thấy cậu hai đuổi nó trong thềm ra. Lồi chạy tới, chận bắt sống, bị đòn cậu hai mà! Tiếc dữ! Nó chạy ra, nó lao sà sau hòn núi giả, Lồi sắp túm được nó!

      Cả ba ngơ ngác nhìn nhau, Hổ hỏi Minh Thần:

      - Hay ngoài đó tranh tối tranh sáng, tên kia vừa lăn nhào ngoắt sau ngọn giả sơn thì Khìn Lồi vừa lao tới!

      Võ Minh Thần nheo mắt nghĩ lại, bán tín bán nghi, bảo:

      - Kể ra lúc chém tên kia, xác y rụng xuống, cái bóng thứ hai chạy ra, lúc đó có thể lầm lắm! Nhưng sao chú cũng bịt mặt như bọn gian?

      Người Mán lai lễ phép:

      - Lồi ẩn trên cây, thấy một đứa vọt qua, liền lên đồi, có lúc nó ló đầu giữa ánh trăng, tới chân đồi lại thấy tên nữa sịch tới, bàn gì với nhau, rồi vượt lên. Lồi thấy nó bịt mặt. Lồi cũng lấy vải bịt đi theo, phòng gặp đứa nào, nó tưởng cùng tụi. Lồi nghe trên nhà im ắng. Lồi lo hai cậu không hay biết chúng nó tới!

      Hai anh em họ Võ ngó nhau. Minh Thần nghiêm mặt bảo:

      - Từ nay nếu không gọi, chớ đến, có lần chết oan! Tôi đã dặn đừng ai tới khu đồi này, là sợ đêm tối chém lầm đó! Thôi! Hãy đem xác chúng đi chôn cho rồi!

      Khìn Lồi theo lệnh chủ, vác luôn hai cái xác xách đầu lâu xuống đồi.

      Cả Hổ vẫn ngờ vực, khẽ hỏi:

      - Chú tin chú bắt lầm?

      Minh Thần lắc đầu, thấp giọng:

      - Lầm thế nào được! Mắt có thể lầm nhưng tay không lầm được! Tay em có thể sờ thấy hơi nóng sinh vật trong vòng năm mươi bộ, nằm dưới gầm quan tài, đã phát giác được có ba sinh vật. Phía trước chỉ có hai luồng nhân điện toát ra làm gì có luồng nào nữa! Chính nó đồng bọn với hung thủ.

      Cả Hổ, Quản Kình ngơ ngác:

      - Nhưng sao mãi hôm nay, nó mới xuống tay?

      - Có lẽ chúng đợi em về để nhổ tận gốc. Nhưng không ngại! Em quyết làm vong hồn phụ thân được yên giấc! Chúng sẽ phải ra tay lần nữa trước ngày em đi!

      Đoạn chàng trai ghé tai Cả Hổ, Quản Kình nói nhỏ. Giây lát sau đám thuộc hạ kéo lên cho hay không thấy dấu vết nào khác. Võ Minh Thần bảo mọi người đi ngủ. Từ đó đến sáng, đồn điền yên tĩnh hoàn toàn.

      Sớm mai, người xung quanh miền đến viếng thêm đông, có nhiều người ngoại tỉnh vào, ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc ông già họ Võ.

      Võ Minh Thần đang cùng Cả Hổ trả lễ khách vái trước linh sàng, chợt có Quản Kình vào báo:

      - Có một cô gái nhà quan tới viếng hỏi cậu hai!

      Ngạc nhiên, Võ Minh Thần bước vội ra, thấy một người mặc áo dài trắng, quần trắng, khăn "voan" trắng, cưỡi con ngựa trắng, vắt hai chân sang bên, coi đẹp lộng lẫy trong nắng sớm, phía sau có năm, sáu người lính "sà cạp trắng" theo hộ tống, cùng hai gái hầu.

      Cả Hổ theo đứng sau Minh Thần che mày nhìn, khẽ bảo:

      - A con gái quan tuần phủ Yên Bái! Cô Thủy Tiên!

      Toán người lên đồi, Võ Minh Thần, Cả Hổ cùng tiến ra đón, tới gần xế vườn hoa, chàng trai ngó cô gái ngờ ngợ như gặp đâu rồi, hai bên chào nhau, cô gái xuống ngựa uyển chuyển tiến lại, cất giọng thánh thót:

      - Thân phụ em mắc bệnh, em phải đi thay, ngoài Yên Bái được tin đồn điền nhà có chuyện chẳng lành, ai cũng buồn! Em xin có lời chia buồn cùng hai anh!

      Cả Hổ nói lời cảm tạ, đưa cô gái cùng bọn lính vào thẳng nhà khách, cô gái thấy Võ Minh Thần có dáng ngờ ngợ, nàng thỏ thẻ:

      - Kìa! Anh Thần! Anh không nhận được em! Trời! Sao anh lơ đãng thế? Mới sáng qua anh cứu em ngoài cây số bốn, năm mà!

      Chàng trai "à" nhỏ, mãi mới nhận ra chính cô gái bị bọn lạ mặt bắt cóc, bữa nay nàng mặc quần áo thướt tha coi đẹp lộng hẳn lên khác hẳn cô gái mặc "quần ngựa" bắn chim bay sáng qua.

      Lòng đang chất nặng ưu tư, lại thường ở núi cao rừng thẳm, ít khi gần phụ nữ. Võ Minh Thần thấy cô gái nhà quan này xinh đẹp, hồn nhiên thẳng thắn, chàng trai cũng thấy tâm hồn đỡ hiu hắt đôi chút, nhưng vẫn nói rất ít.

      Còn nàng Thủy Tiên lại có vẻ thích thú gặp lại chàng trai ân nhân, nàng nói chuyện rất duyên dáng, mấy lần suýt cất tiếng cười khanh khách, phải cố nén, sực nhớ chàng trai ân nhân đang mắc đại tang. Thủy Tiên theo bọn Cả Hổ vào, đặt đồ phúng điếu, lễ trước linh sàng xong, thấy Thần mặt mày ủ dột, cô gái cố lựa lời an ủi cho khuây khỏa.

      Trò chuyện qua lại, Võ Minh Thần mới hay cụ Tuần họ Phạm, cha nàng vốn là chỗ quen biết từ trước ngày ông già họ Võ ra làm quan Châu, hai người khá tương đắc tuy ông già họ Võ nhiều tuổi hơn ông họ Phạm.

      Cô gái còn ở lại giúp gia đình họ Võ trong việc tiếp khách, ma chay, khách khứa, gia nhân ai cũng quý mến.

      Ngay chiều đó, anh em họ Võ làm lễ an táng ông già họ Võ cùng lão bộc Sềnh tại nghĩa địa riêng của đồn điền phía sau trại, chàng trai vật mình khóc thảm thiết, người người đều rơi lụy. Chôn cất xong, Võ Minh Thần đứng ra nói lời cảm tạ, và xin từ biệt, sớm mai ra đi có việc cần kíp.

      Mọi người đều ngạc nhiên, cố giữ lại, nhưng Võ Minh Thần nhất định sẽ ra đi khiến mọi người đều quyến luyến. Riêng Cả Hổ, Quản Kình biết rõ kế của Minh Thần. Chàng trai định đánh nước cờ quan trọng, nhử "kẻ thù bí mật" tới đồn điền.

      Đêm đó, người trong trại đều đi ngủ sớm. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc ma chay, mới mười giờ đêm, đồn điền đã im lặng như tờ, chỉ còn vài ba gia đinh thay phiên canh gác, tuần phòng quanh trại.

      Võ Minh Thần cùng Cả Hổ nằm trong buồng Cả Hổ, đêm khuya lạnh, đắp chăn tới cổ, tới mười hai giờ, cả hai lại lăn xuống nằm dưới gầm giường, áp dụng mẹo trước, nhưng lần này, Võ Minh Thần đã bí mật tạc được hai cái đầu gỗ, giống hệt như hai anh em, sơn phết rất khéo lắp vào hình nhân, đắp chăn tới cổ, lại để một ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ đặt trên bàn đem kê đầu giường, ánh sáng hắt qua bức màn tiêu soi vào mặt giả coi như thật.

      Quả nhiên, khoảng giữa giờ Tý, có ba bóng bí mật đột nhập đồn điền. Cả ba có nghề dạ hành, vượt vào lúc nào không hay, thoáng đã đứng sững bên tòa biệt thự hai tầng trên đồi. Cả ba đảo một vòng nghe động tĩnh, áp cả tai xuống đất, mười phút sau, cả ba tiến đến một gốc cây lớn xế sau phòng Cả Hổ, vọt lên lùm cây rậm, êm như không, chừng năm phút sau, bỗng thấy một bóng đu mình vun vút trên ngọn cây, thoắt đã tới một cây xoài bên cửa sổ hậu, êm như không tiếng động, ngoài một vài tiếng lá cọ nhau xào xạc trong gió thoảng. Thì ra bóng con nít nhỏ là một con vượn mặc quần áo như người. Con quái này đu mình vào hành lang, phun hương mê vào buồng rồi lại đi buồng khác.

      Căn biệt thự này kiến trúc có hành lang chạy quanh, phong lan cây cảnh, hoa leo chăng đầy, lát sau, con quái đã phun hết các buồng, cả căn biệt thự đã chìm trong làn hương mê hồn ngào ngạt. Hương mê này thuộc lại đặc biệt của giới đạo tặc thượng thặng, nín hơi không hít, nhưng lỗ chân lông hấp thụ phải sẽ mê liền.

      Riêng với tay theo thầy học thuật thượng thừa trên cao sơn như Võ Minh Thần, hương mê này không tấn công tạng phủ nổi, Thần lại có thuốc trừ cho Cả Hổ, Quản Kình uống nên hai anh em cứ năm yên dưới gầm giường, chờ đợi. Xông xong, con vượn quái vật vọt ra lùm cây, hai bóng bí mật kia cùng con quái quăng mình vào hành lang, tài nghệ lợi hại hết sức, tiếng bứt cành đu chỉ rào thoảng nhẹ.

      Một bóng cao, một bóng lùn, bàn tán chi với nhau, rồi bóng cao lại bên cửa sổ, bóng lùn lại bên cửa hông, cùng bẻ cửa, dòm vào, con vượn tuần đảo quanh. Bóng cao chỉ thò ngón tay vào móc nhẹ, cửa chớp cửa kính đã vụn thủng, êm ru, bóng này ghé mắt dòm vào. Ánh đèn Hoa Kỳ chiếu qua bức màn lan tiêu trắng, soi hai bóng đắp chăn nằm trong, tuy mờ mờ nhưng cũng đủ rõ nét mặt anh em họ Võ nằm ngủ say như chết.

      Bên cửa sổ, bóng lùn cũng vừa bẻ được cửa nhìn vào, cả mừng vọt ra phía sau, gặp bóng cao.

      - Anh em nó tới giờ tận số rồi! Thằng nằm ngoài là đứa mới về đó! Thằng này lợi hại lắm! Coi chừng nó lại dùng mẹo trước.

      - Chắc không! Ma chay bận rộn, chúng ngủ như chết, coi mặt mày chúng còn ngờ gì nữa! Vào thôi.

      - Khoan! Để cho mỗi đứa một mũi đã! Cùng ra tay!

      Dưới gầm tối, qua làn hương mê, anh em Võ Minh Thần vẫn nằm theo dõi từng cử động của mấy bóng bí mật bên ngoài.

      - Hai đứa đều giỏi võ còn hơn tụi trước! Anh cứ nằm yên chớ xuất đầu, để mình em đối phó! Lần này phải bắt sống mới ra manh mối!

      Võ Minh Thần vừa ghé tai Cả Hổ thì thào, bỗng nghe "véo" "véo" liền mấy tiếng xé gió, màn lan tiêu động đậy, tiếp liền mấy tiếng "thụt" "cục" hai cái đầu trong giường đã bị mấy mũi đinh nhọn đóng ngập cổ, sọ.

      Minh Thần khôn ngoan đã lót một lần thịt sụn quanh cổ, sọ, trước khi đính tóc giả, khi nghe kẻ lạ phóng đinh, Thần lại thò tay lên lắc cả đầu mình hai hình nhân, làm như thể dãy chết.

      Quả nhiên, phóng đinh xong, thấy hai người quằn quại, hai kẻ bí mật mắt sáng hẳn lên, bóng cao vọt ra liền, gặp bóng lùn, rồi cả hai tiến lại trước bày binh, hành quân tác chiến, trên nước, dưới bộ, không món nào không giỏi, thiên hạ đương thời liệt vào hàng thượng thừa bá chủ. Tính lại quang minh chính vén cửa màn, dòm rõ hai bộ mặt im lìm, phát ra tiếng cười âm u:

      - Hà hà! Nhổ tận gốc giòng họ Võ! Mày giỏi lắm, nhưng mày chưa đủ trí khôn. Tao chặt đầu hai đứa! Tao chiếm hết!

      Soạt, bóng cao rút ra một lưỡi đoản đao, tay trái vén màn, tay phải chém phập xuống cổ họng hình nhân Võ Minh Thần nằm phía ngoài. Lưỡi thép sáng hạ gần tới thình lình Võ Trụ hết sức lợi hại à, mới thu gồm hai núi Ngưu, Kê Đầu vào cùng Mã Đầu nên chủ soái bọn ngộ mới quyết xin theo hầu Chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn! mạnh định vùng giật lùi lại, nhưng không kịp nữa. Võ Minh Thần đã bóp trúng mạch môn, miệng thổi phù một cái, bóng lạ bủn rủn tứ chi, tối tăm mặt mày, Võ theo đà bật dậy như chiếc lò xo, vừa đẩy "huỵch" bóng cao xuống đất, vừa vươn tay chụp bóng lùn đứng gần đấy vừa bước tới, vén rộng màn, định ghé dòm. Nhưng vừa thoáng thấy Võ nhỏm dậy, y đã nhanh nhẹn kịp lùi lại đã xa hai, ba bộ, giơ tay rút đinh phóng vào Võ. Thủ pháp tên này lẹ khác thường, nhưng Võ Minh Thần còn lẹ hơn, tay phải vừa chụp hụt, tay trái đã đánh vụt ra như chớp, "véo" từ ống tay áo bay vút ra một lưỡi liễu đao nháng sáng dưới ánh đèn Hoa Kỳ, đã nghe bóng lùn kêu rú lên, lảo đảo, ngã lùi loạng choạng dựa rầm vào cánh cửa khép, máu phun phì phì. Cả bàn tay cầm đinh đã rụng "độp" xuống nền đá hoa, chiếc đinh kêu "keng" tiếng dòn vang.

      - Đứng im!

      Ánh thép đảo trốc đầu bóng lùn, Võ Minh Thần vừa quát vừa xẹt tới định bắt sống, không ngờ bóng này tuy bị cụt bàn tay, vẫn còn hăng tiết, lấy lại thăng bằng, tay kia rút súng chĩa vẫy. Chát! Liễu đao chém bay cây súng. Võ Minh Thần xẹt tới, xòe bàn tay trái phạt ngang cổ họng, đúng lúc Cả Hổ từ trong gầm giường khom mình vọt ra định phụ em, bắt sống tên lùn. Thần vừa chặt vừa thấy bóng Cả Hổ, thất kinh thu lưỡi đao, dừng tay chặt, miệng kêu giật:

      - Coi chừng... anh!

      Thì Cả Hổ vừa lao vọt ra, bị bóng lùn đá trúng kheo chân, ngã lộn nhào, bóng lùn thừa cơ Võ thu đao, liền dừng đà lách mình vụt ra ngoài. Thoáng thấy Cả Hổ bị đá ngã, bóng lùn lách ra, chàng trai buộc lòng phải chém vút tay trái theo. Chát! Ngoài mép cửa, trúng luôn bả vai bóng lùn, bóng này ngã huỵch ngoài hành lang, vừa lúc con vượn lùn từ đâu đu vào, tay cầm con dao ném vào trong bị lưỡi đao lướt thích trúng tay, con quái vùng bỏ chạy, miệng nó hú một tràng lanh lảnh, cùng lúc bóng lùn thu hết tàn lực, la lên một tiếng lớn. Võ Minh Thần vọt ra, thấy bóng lùn đã tắt thở, máu hộc hành lang, chàng trai đưa tay rà theo con đường cung, chém rụng luôn con vượn vừa thót lên một tàn cây xế trước hành lang.

      Chàng trai vọt ra, thấy con vượn dãy chết, quay luôn vào, hỏi lớn:

      - Anh có sao không?

      - Không hề gì! Tên này cũng chết rồi!

      Cả Hổ vừa ra đứng bên xác bóng lùn, ngồi xuống lật vải trùm mặt. Một tên lạ.

      Hai anh em vừa định vào nhà. Bỗng nghe phía dưới, súng nổ đì độp lẫn tiếng reo hò vang dậy, Quản Kình từ chân đồi vọt lên gọi lớn:

      - Quân giặc đánh vào đồn điền... đông lắm! Hằng trăm đứa, vừa súng, vừa cung nỏ!

      Cả Hổ quơ cây súng kẹt tủ, hỏi nhanh:

      - Chúng vào mấy phía?

      Quản Kình cùng một toán bảy, tám thủ hạ xách khí giới ùa lên.

      - Chúng tràn hai mặt tiền hậu, nhưng mặt tiền nhiều súng!

      Cả Hổ vùng hô:

      - Chú lo trên cây cao này, để bọn tôi xuống coi!

      - Nhà có hỏa pháo không?

      - Có đấy! Quanh trại có nhiều đồ dẫn hỏa để sẵn!

      Cả Hổ mở tủ lấy một mớ hỏa pháo, cùng bọn Quản Kình chạy xuống dưới.

      Tiếng súng nổ, người la inh ỏi, cả trại náo động trong đêm mờ.

      Võ Minh Thần khêu to ngọn đèn, đốt thêm cặp nến lớn, túm tên cao lớn lên, gỡ soạt vải trùm, dưới đèn, chỉ là một tên lạ, mặt mày dữ tợn, coi vẻ người thâm sơn. Giải huyệt, điểm triệt võ công. Thần dịu dàng hỏi:

      - Ngươi đâu tới? Phải người trên biên thùy? Coi lạ mặt, có thù oán gì lại muốn hại người họ Võ?

      Tên lạ ngó lừ lừ, không nói nửa lời. Bị gặng hỏi mãi, hắn mới phá giọng chìm âm tiếng Mán hơi khó nghe:

      - Mày giỏi! Tao thua mày! Giờ bắt được tao cứ giết! Đừng hỏi lôi thôi!

      Võ Minh Thần vẫn đấu dịu bảo:

      - Ta có cách làm ngươi phải nói! Nhưng ta không muốn. Ngươi sợ chi phải giấu? Sợ đồng bọn hại? Biết vật này không?

      Vừa hỏi, chàng trai vừa chìa cổ tay, cho tên này coi chiếc vòng ngọc, mắt ngó hắn không chớp. Nhưng hắn cứ điềm nhiên như không, nhếch mép khô giọng:

      - Trại chúng mày sắp ra tro! Không giữ nổi đâu!

      Võ Minh Thần bực mình, đang định dùng võ thuật, bắt hắn phải khai, chợt thấy cả khu trại sáng rực ánh hỏa pháo, tiếng súng nổ quân hò dữ dội, đạn "chíu" cả lên đồi, Quản Kình chạy lên báo:

      - Quân giặc đông hơn ta nhiều! Chúng đã lọt sau cổng trại!

      - Còn mặt sau?

      - Mặt sau, ta giữ được, chúng chỉ có ít tay súng nỏ, súng hỏa mai phía đó!

      Mạnh nhất mặt tiền! Còn Khìn Lồi cùng hai, ba tên người Mán biến mất! Tình thế gấp!

      Võ Minh Thần điểm cứng tên cao lớn, ném hắn vào một xó, khóa cửa lại, đoạn qua không biết bao nhiêu dải núi cao rừng rậm, mặt thư sinh đầy bụi viễn hành.

      Rồi một bữa kia, hai người đã đến vùng hùng cứ của Chúa tướng Thần Bắc, đánh dập xuống khu tá điền, xưởng trà, nhà kho, khí thế rất hung. Mặt này, giặc có khoảng hơn năm mươi tay súng, lẫn nhiều hỏa mai, cùng toán cung nỏ, nhưng có hai khẩu trung liên rất lợi hại, quét trúng hết sức, mở đường cho toàn đội.

      Bên trại, tráng đinh, tá điền, thủ hạ họ Võ khoảng năm sáu chục tay chiến, nhưng chỉ có độ bốn mươi tay súng, vừa hỏa mai, súng "mút", với một cây trung liên độc nhấtắc, chỉ thấy vực thẳm, rừng sâu, núi ngửa trời, chẳng biết bao nhiêu đợt nữa. Quả là một miền địa hình địa vật trời dành sẵn cho các tay anh hùng thảo dã có chí dọc ngang ngoài vòng pháp luật.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #4
        Hồi Thứ Tư - Chúa Tể Mười Vạn Núi

        Quan sát giây lâu, lôi bản đồ ra coi lại, Võ Minh Thần tấm tắc bảo Quản Kình:

        - Thập Vạn Đại Sơn quả là vùng cứ hiểm đắc địa, đúng như thiên hạ đồn. Chiếm nơi này hàng ngàn vạn quân cũng bó tay. Theo lời Thần Pháo, từ vùng này vào tới bản doanh cũng còn cả trăm cây số, quân tuần tiễu qua lại, nhưng phải đi sâu chừng hai ba chục cây số nữa mới đến tiền đồn tiền trại. Nay mới giữa trưa, ta nên đi ngay cho sớm gặp quân tuần càng hay.

        Quản Kình khen phải, thầy trò giục ngựa đi miết. Đường này là đường giao thông qua các vùng rải rác sơn thôn. Đường xuyên sơn hiểm trở gập ghềnh, nhiều chỗ chạy qua những hẻm núi hai bên dựng như thành, không khác Lạc Phụng Ba, Hoa Dung Đạo. Lại có nhiều khúc tưởng không có đường phải đi qua núi đèo khe thác, hoặc cầu treo, không khác sơn đạo của Ba Thục xưa.

        Có khúc sơn đạo dài cả chục cây số, chênh vênh trên mây, coi vừa hùng vĩ vừa nguy hiểm đến chóng mặt. Mỗi khu có sơn thôn lại có đường mòn khác rẽ vào, tuy hiếm nhưng nương đồi san sát, coi rất sầm uất, khoảng ba giờ chiều vừa đi hết một khúc sơn đạo, tới một con có cả tâm hồn cao đẹp, phải là bậc có tâm hồn ấy mới biến nơi doanh trại đằng đằng sát khí thành một vùng kỳ tú đến thế này. Lạ thay! Lạ thay! Chốn ngựa rầm rập chạy xa xa khúc sơn đạo vòng thúng, đang đi tới.

        Chưa rõ bọn nào, hai thầy trò bàn nhau vọt xuống thung lũng, ẩn tạm sau lùm cây rậm.

        Thoắt trông lên, chẳng thấy đâu nữa, chỉ có hai bóng mặc lối xạ phang chạy thẳng xuống chân đồi, lẩn đâu mất dạng.

        Tưởng có lối khác, hai thầy trò vừa xa chỗ tập bắn, đấu võ, chỗ quần ngựa, nấu ăn sinh hoạt nhộn nhịp. Lối liễu quanh co, uốn éo giữa khu đồi núi trập trùng, rất nhiều đường đi lại chằng chân, khiến hai con cọp nổi giận, quay lại tát. Nhưng chó rất khôn, cứ con cọp dừng, chúng lại lảng liền, thình lình nghe tiếng quát lanh lảnh, rồi một con ngựa bạch từ sau bóng cây lá vọt ra, mang trên lưng một thiếu phụ đẹp tuyệt trần trạc hai mươi bảy, hai mươi tám, mặc toàn bè nó cười chết đi Có cách gì em khỏi có thai không?

        Lộc chồm lên ghé vào tai Khang thầm thì:

        - Anh đã nói với ngón tay thì em không thể nào có thai được. đùa với chú bé, thiếu phụ lững thững đi ngựa dẫn khách qua khu sơn trại tấp nập vòng ra hồi núi ngoảnh về phía Đông Nam.

        Thầy trò Võ chợt nhận ra khu núi này kẽ đá mọc rất nhiều bàng coi không khác cánh rừng con lại còn đầy hoa cỏ, nhiều phong lan đặc biệt nhất là có một khu nhà xinh xắn, nền đá cao, nhưng làm toàn tre nứa, lợp gồi, vách nứa đất lối "tooc xi" hình chữ "u" có đủ sân vừa dứt, đã thấy nàng thả vút ra một sợi giây xích sáng loáng, chỉ nhỏ như sợi giây gai, cách đến sáu mươi bộ ngoài, thòng lọng chụp trúng cổ con cọp, lôi nghiến lại. Con cọp rống lên, lồng đảo giằng co phá chạy, thiếu phụ nhảy vèo xuống đất, lôi con cọp dữ lại, gọi lớn:

        - Kiệt nhi! Thử bắt con kia, mẹ coi được chưa?

        Ngựa vẫn chạy, chú bé áo vóc "dạ" lớn, rượt theo con thú dữ. Chú bé này vẻ thích chí hết sức, vừa nhấp nhổm vừa vỗ luôn tay, thân hình bé nhỏ như dính chỏm yên tưởng sắp bắn văng theo đà ngựa phi nước đại.

        Con bạch mã này đúng loại Thiên Lý Long câu, chạy như gió thoảng, thoáng đã cách con cọp chừng bốn mươi bộ ngoài, chú bé cũng thả vút ra một sợi xích thòng lọng nhỏ, bọn Võ Minh Thần chỉ thấy nháng loằng ngoằng cái, con cọp đã bị thòng lọng xiết cổ, kêu rống lên, đúng lúc nó định vọt lên đồi.

        Chú bé cười khanh khách, thiếu phụ vừa lần dây xích vừa reo lên khen con, chú bé lập tức quất ngựa chạy vòng lại, lôi con cọp theo, con cọp giằng co phá chạy không nổi, bị lôi sềnh xệch. Thầy trò Võ Minh Thần đứng chỗ khuất bên đồi coi không khỏi phục thầm chú bé. Nào dè mới lôi được mười thước, thình lình trong bụi có một bóng người chạy ngựa vọt ra, ré lên:

        - Hầy à! Thằng bé này sao dám bắt cọp tao nuôi! Trả tao, mày!

        Lời dứt, y đã sấn tới gần con cọp, thò tay túm lấy dây xích ngót hai thước móc vào dây quăng, y giật tháo phăng ra, dắt luôn con cọp chạy lên đồi. Tên này coi vẻ lợi hại hết sức, con cọp bị lôi đi rống lên vang động, nhảy chồm tát với theo, tên này ngoái lại chụp luôn lấy cổ con mãnh thú, điểm huyệt con thú cứng đờ, y vác luôn lên vai, cứ thế phóng.

        Chú bé la lớn, rượt theo, lúc đó đã bị nó lừa bắt cả hai mẹ con đem sang Nam mất rồi?

        Thầy trò Võ Minh Thần lúc đó đã vào cách thềm bảy, tám bộ, bỗng giật mình vì tiếng cười như chuông đồng, muốn vỡ màng tai. Quản Kình chịu không nổi, đứng lùi lại, cả thiếu phụ cũng thoáng vẻ nhưng chợt nhoẻn cười, chưa kịp lên tiếng, bỗng người này lại hỏi vọng:

        - Phải người bạn trẻ cứu nạn đấy không?

        - Dạ

        Thiếu phụ sơn đạo, chú bé vừa hét đòi, vừa tóm "cổ chó" thòng lọng lao chồm theo, không chịu bỏ, thiếu phụ ngước trông lên, giật mình réo gọi lanh lảnh:

        - Kiệt! Quay lại con! Không được đuổi theo!

        Lần này nàng gọi lối "truyền thanh vạn lý" rót vào tai, mãnh liệt, chú bé gò rập ngựa. Lúc này đã lao vào sơn đạo năm sáu chục thước, ngựa vừa dừng đứng chân sau, quay lại, bất thần... "rầm". Cả một khúc sơn đạo dài gãy rắc chân ngựa, hiện ra vực thẳm phía dưới, nguy là khúc sơn đạo này như một cầu treo chênh vênh trên hai chỏm đầu đồi, không còn ngả thoát xuống nổi!

        Thiếu phụ nhác thấy biết ngay "có biến" vừa giật mình kinh sợ ngó quanh, bỗng nghe có tiếng người quát nhọn hoắt:

        - Người đẹp đứng lại! Ta không hại nó đâu! Chỉ muốn nói với nàng câu chuyện!

        Lúc này nàng đã tới lưng đồi, nghe quát lập tức xẹt sau một thân cây đảo mắt trông quanh! Chỉ thấy trên cao, sơn đạo chênh vênh chạy vào rặng núi đá, bị cắt đứt một khúc dài, phía ngọn đồi, chú bé đứng ngựa quay đầu sơn đạo gãy, ngựa hí vang lừng, đầu này bầy chó hếch mõm sủa ran. Trên sơn đạo, thấy triệt lối về, chú bé vùng cất tiếng gọi mẹ và thò tay tý hon rút phắt cây trung liên cắm bên ngựa, khệ nệ chĩa theo tên cướp cọp bắn một tràng. Tuy chú ta có sức nhưng nhỏ con, khệ nệ bắn cây súng lớn, coi rất ngộ nghĩnh, khiến bọn Võ Minh Thần muốn phì cười khen thầm:

        - Chà! Chú bé con nhà ai coi can đảm dữ à, bị chặt cầu mất lối vẫn không sợ! Lạ thật! Tụi nào định dở trò gì đây? Ta phải kiếm cách cứu chú bé mới được!

        Bỗng nghe có tiếng cười thét:

        - Người đẹp! Con vịt dại dột bắn càn, sao không bảo nó đứng yên cho người lớn nói chuyện? Muốn nó bị bắn què tay?

        Thấy con đứng lộ thiên, lại sợ nó nổi nóng, xông bừa vào vách núi, thiếu phụ hết sức lo cho con nhỏ, vùng gọi lớn:

        - Kiệt nhi! Sao không xuống ngựa... ngồi chênh vênh thế ngã sao?

        Nàng muốn nói ý cho nó biết nấp vào sau con ngựa, nào dè tiếng la vụt truyền:

        - răng, mũi thành hai cái lỗ, đến hai con mắt, con ngươi mất tiêu, chỉ còn hai cái lỗ huyệt sau hoắm, đen ngòm. Nhìn "cái túi da người này" kẻ bạo gan mấy cũng đứa bé ức quá, phải tuân lời, ném cây súng xuống chân ngựa.

        Thiếu phụ lảnh giọng:

        - Bọn mi to gan, mất trí khôn, dám bức ta! Muốn gì sao chưa ra mặt?

        Tiếng cười ngạo vang lên:

        - He hé! Dọa mỗ gia ư? Giao Long cái ra khỏi vực. Giao Long con đứng trước mũi súng mỗ gia, hé hé! Mỗ gia rình cả tuần rồi! Chịu nói chuyện tức thời với mỗ gia hay đứng đó xem Giao Long con nhảy xuống vực chơi?

        Dứt lời bỗng nghe "đoàng" tiếng súng, trên sơn đạo chú bé giật mình, dáo dác sờ lên đầu. "Đoàng" phát nữa bay luôn nếp khăn trên đầu, giải khăn bị đạn xói vút tung bay phất phơ rớt là là xuống vực.

        Rồi bỗng nghe tiếng súng một nổ đì đẹt, con ngựa cứ lồng đảo xẹt ngang lùi ngược, co chân, múa vó, chừng bị đạn xói mặt sơn đạo liếm sát móng, thoắt đã kề mép sơn đạo cụt, chú bé cứ dáo dác dòm quanh, chỉ sợ sẩy vó rớt xuống vực như bỡn. Tình mẫu tử vô biên, thiếu phụ nhác cảnh nguy hiểm, không nhịn nổi vùng thét lớn:

        - Dừng lại! Ác nhân! Mi hết lương tri sao đem con nít ra đùa hả! Muốn gì cứ nói với ta đây! Để nó yên!

        Tiếng lạ ré lên xao gợn:

        - Mỗ gia không đùa! Mỗ gia sẽ làm thật, nếu người đẹp không biết điều! Nhớ kỹ nó đứng trước mũi súng! Giờ nghe rõ đây, người đẹp hãy giơ hai tay lên trời, tiến lên mười bước!...

        Thiếu phụ cau mày hỏi lớn:

        - Muốn gì nói rõ.

        - Muốn người đẹp theo mỗ gia về động.

        Như bị điện giật, thiếu phụ vùng hét:

        - Súc sinh! Dám phạm đến ta thế sao? Mi là đứa khốn khiếp nào dám bắt ta theo?

        Tiếng lạ từ trên núi đá hắt xuống lạnh như tiền đồng:

        - Mỗ gia là đứa đang chĩa súng vào mẹ con nàng và hiện mạnh hơn cả ngàn vạn binh hùng tướng mạnh nàng đã gặp! Ta cũng là đứa ra điều kiện cho nàng, giơ tay, tiến ra và ngủ tạm một giấc, để rời khỏi miền này không còn tiếc nữa!

        Thiếu phụ giận xung thiên quát lên mắng không tiếc lời, bỗng nghe súng nổ đì đẹt, ngựa bạch trên sơn đạo bị xói dồn lùi tới miệng vực, thiếu phụ tuy can trường nhưng trước tình thế bất lợi hoàn toàn đành thúc thủ, vì mạng sống của con dại, nàng thở phì một cái mạnh như trút hết uất ức, vùng quát:

        - Thôi đủ rồi! Bỏ trò đó đi! Ta thuận đi nhưng còn con ta, ta phải thấy nó thoát ra về mới được.

        Tiếng lạ vọng xuống lạnh lẽo:

        - Mỗ gia hứa, sẽ để nó về, không sai! Nhưng mỗ gia ra điều kiện. Không phải nàng! Giơ tay, tiến ra! Mỗ gia nóng ruột rồi đó!

        Thiếu phụ mím môi, suy nghĩ, lại quát:

        - Được! Ta cũng đành tin! Nhưng ít nhất ta cũng phải thấy rõ mi là tên khốn nào lại mất công đến tận xó rừng này rình chực chứ?

        - Hé, hé! Được! Nhưng nàng không bắn được đâu! Tầm súng không tới đâu!

        Lời dứt, từ sau ghềnh núi sơn đạo, lừ lừ mất cả lợi, nhưng vẫn còn lộ hai hàm răng trắng ngà, đều như ngọc vụn, mớ tóc dài chấm gót tuy màu mun đã khô xác, vẫn còn phảng phất nét mây tuôn tay trái cầm một khẩu súng, tay phải cầm một cuộn dây thừng đen sì, đầu có móc sắt. Bóng quái dị nói lớn:

        - Ta sẽ kéo sơn đạo gãy kia lên cho thằng nhỏ về nhà! Còn nàng chớ nhiều lời, hãy sửa soạn ngủ một giấc mau!

        Y hất hàm, thiếu phụ đảo óc tính, tất cả đều muộn rồi, mắt nhìn quanh, chợt lúc đó mới phát giác một bóng đứng chỗ khuất xế sau nàng, chĩa họng súng ra:

        - Hạ tên này không khó, nhưng còn con dại trên kia? Tên quái dị coi nanh ác không vừa, nó dám bắn thằng nhỏ như chơi! Trời, ức thật! Cá chuối đắm đuối vì con cảnh này đây! Dẫu có bắt tên kia cũng chẳng ích chi, nó chỉ là con cờ tốt thí mạng!

        Đầu óc muốn phát điên vì giận, thiếu phụ sa cơ từ từ giơ tay lên, tiến ra chỗ trống, tên quái dị áo đen cười the thé, tiến ra gần chỗ chú bé dưới này, tên đồng đảng chĩa súng cũng lừ lừ bước tới gần thiếu phụ xế ngang sườn.

        Thiếu phụ đảo nhìn theo hình bán nguyệt bỗng giật mình, sực thấy sau lưng tên đồng đảng có một bóng lực lưỡng vọt ra, quất một báng súng vào đầu tên này sụm liền. Có tiếng quát vọng lên sơn đạo:

        - Đứng lại! Gã trùm mặt! Người bị súng chĩa vào đầu rồi!

        Tên quái dị giật mình dằn tay súng, y đứng chênh vênh trên sơn đạo, cách chú bé chừng mười sải, dòm xuống thét:

        - Còn thằng nào nữa đó? Muốn đứa nhỏ này xuống vực ư?

        - Hà hà! Nó xuống vực, ngươi cũng xuống vực, nó chết, ngươi cũng chết theo! Ngươi có giỏi cứ cho nó xuống vực đi sẽ thấy! Ta cũng rình đây lâu rồi, ta muốn nó chết vì tay mi, còn mi, mi mất mạng về ta! Hà hà!

        Từ sau lùm cây, một chàng tuổi trẻ lừ lừ tiến ra, đứng bên sườn đồi, chĩa ngọn súng trường lên sơn đạo:

        - Đứng lại! Nếu mi nhúc nhích, ta hạ liền!

        Tên quái dị tay vẫn chĩa súng vào chú bé, ngoái dòm xuống thấy chàng trai áo chàm lạ đứng lù lù, y phát tiếng cười thé nhọn, bất thần chĩa luôn súng về phía chàng. Đoàng! Tiếng nổ dòn tan, đạn xói tung khẩu súng y, ném văng xuống vực, muốn tê bại cả tay!

        - Lần sau ta sẽ bắn thẳng vào đầu! Giơ tay lên! Đừng hy vọng tên thủ hạ dưới này! Ta cho nó "ngủ" rồi!

        Bất thần, chàng nhích về phía núi đá xế sau y, nổ một phát. Trên sơn đạo cao chót vót ngay sau ghềnh, một tên vừa thò cổ ra định bắn trộm, rú lên quăng súng ngã lộn xuống vực.

        Gã quái dị ngó lại giận hết sức, nhưng lúc đó đã lượng rõ nghề bắn của chàng trai áo chàm, y phải đưa hai tay lên hét:

        - Mày muốn gì lại can thiệp vào việc chúng tao!

        - Ta muốn cả mi và đứa bé xuống vực chơi! Nhưng nếu mi không thích đổi mạng thì cút đi cho mẹ con người ta về! Tùy gọi:

        - Võ Minh Thần à! Cái chết của mẹ cháu năm xưa, đến khách qua đường như chú còn phải động lòng rơi lệ, mười bảy năm không hết xót thương, huống chi Thằng ngu! Mạng tao lớn tuổi đổi mạng con nít sao? Mày muốn nó chết cứ giết! Tao không cần đứa nhỏ, tao cần mẹ nó!

        - Vậy để khi khác! Giờ hãy cút đi!

        Dứt lời, chàng trai hú lên một tiếng, Quản Kình vọt lại, vẫy thiếu phụ:

        - Bà! Ta lên cứu em bé mau.

        Thiếu phụ cả mừng, cùng Quản Kình vọt lên đồi. Kình không quên sốc tên kia nằm lên yên ngựa, dắt lên theo. Chàng trai chính là Võ Minh Thần, cứ hờm súng, quét nhãn tuyến dọc từ chỗ gã quái dị vào ghềnh đá chỉ chực một chút khác ý, nổ liền, hô vang:

        - Em bé sao không xuống ngựa?

        Chú nhỏ mừng rỡ, định nhảy xuống, vồ cây trung liên, mười mấy năm rồi, tiêm ướp cẩn thận, vẫn còn nặc mùi tử khí. Cháu không nên để nhiễm mùi thây... có hại à!

        Võ Minh Thần nghe chúa Mã Đầu nói, súng! Con nít hay bắn càn! Võ Minh Thần biết ý không để y bị bức quá nên cũng phải nhượng bộ, không tiện đẩy vào chân tường!

        Thiếu phụ cùng Quản Kình vọt lên ngọn đồi phục ngay chỗ đầu sơn đạo. Khúc sơn đạo bằng gỗ còn nằm dọc sườn đồi thành dựng. Quản Kình chưa kịp cử động thì thiếu phụ đã thò bàn tay ngà ra cầm một đầu nâng Cao Bằng đem lính đi tìm thấy, quấn chặt, thồ lưng ngựa có một đêm, con ngựa đó về đến Cao Bằng, lăn ra chết. Còn người lính giữ xác cũng ốm hàng tháng, cần! Chú cứ gọi giùm nó đi, tôi cần ẩn mặt!

        Quản Kình gọi lớn, thiếu phụ chợt phát ra một tràng tiếng rúc chi rất lạ tai, lập tức con ngựa ngoái cổ ngoạm luôn cây trung liên, hí một tràng, nhấc vó định vọt. Quản Kình dòm ra phát ớn, thấy sơn đạo bị gãy khúc hơn sải, thiếu phụ nâng lên, chẳng có gì móc nối, ngoài bàn tay nâng tận đằng này, đang nặng bỗng nhẹ tếch, nào dè con bạch mã vừa hí xong, vụt nhảy liền, "rập!" Nhân mã hạ xuống êm ru, đầu sơn đạo vẫn không nhúc nhích! Ngoài kia gã quái dị cũng quay ngựa, đi vào.

        Từng bước, ngựa bạch đi hết đoạn sơn đạo gãy nhảy vọt xuống đồi. Quản Kình cùng thiếu phụ lăn vào bên chân ngựa sau mô đất, quơ cây súng, đúng lúc gã quái dị lao vọt vào ghềnh đá, nổ đẹt đẹt... "chíu" đầu cầu. Thiếu phụ nổi giận xả súng bắn "tặc tặc", chú bé nhảy xuống, phục bên mẹ, Võ Minh Thần lúc này đã ẩn sau điểm tựa gọi lớn. Quản Kình cùng mẹ con thiếu phụ mới ngưng bắn xuống thung, bỏ mặc tên đồng đảng nằm mọp rũ trên theo đông như kiến. Mẹ cháu nhảy xuống đất, thả ngựa mang cháu chạy biến, còn bà đứng bắn chặn. Chú cùng nghĩa phụ cháu hô thủ hạ tràn xuống cứu nhưng sinh cứu giúp, bữa nay mẹ con tôi đã bị nó bức nguy rồi! Chẳng hay tiên sinh tới miền này có chuyện chi?

        Võ Minh Thần thấy thiếu phụ nói năng dịu dàng, tuổi lại lớn hơn mình nhiều, nên lễ phép thưa:

        - Em bên Nam sang, tới miền Thập Vạn này tìm bản doanh Chúa núi!

        Vẻ ngạc nhiên hết sức, thiếu phụ nhướng cao mày liễu, dịu dàng.

        - Tiên sinh tới bản doanh Thập Vạn Đại Sơn... có chuyện chi đó?

        Võ Minh Thần lễ phép:

        - Dạ có chút việc riêng... quan hệ! Bà ở miền này có biết chỗ ở của vị Chúa soái Thập Vạn?

        Thiếu phụ mỉm cười không đáp, nàng có dáng tò mò, hỏi:

        - Chẳng hay tiên sinh niệm oan hồn người thân thích, một cảm giác kỳ dị bỗng từ đâu kéo đến xâm chiếm tâm hồn, thoáng đã đóng trọn như không bao giờ thoát ra nữa: căm thù! người mệnh phụ chinh đính, có ý quý nể, thật thà đáp:

        - Chẳng giấu chi bà, em bên Nam sang lần đầu đặt chân tới miền núi hiểm nay. Em có ý sang bản doanh Chúa Thập Vạn, để kiếm một người... có biết rõ cái chết thê thảm của mẹ cha em, người này là vị tướng lạc thảo Tàu, Chúa núi Mã Đầu bên Quảng Tây, họ Thoòng tên Mềnh.

        Vừa nghe đến đấy, chú bé áo vóc Cháu có việc gì không?

        Chàng trai lắc đầu, "Vua Pạc Hoọc" kêu:

        - Hầy! Cái mặt lạnh như xác chết! Vì tử khí bốc lên đầy mặt mũi, coi chừng Tìm Thoòng Mềnh núi Mã Đầu để trả thù? Hay...

        - Dạ không! Chúa Mã Đầu là người đã chứng kiến cái chết của mẹ cha em, lúc em còn nhỏ! Thưa, bà có biết Thoòng tiên sinh?

        Thiếu phụ nghe Võ nói, lộ hẳn vẻ mừng rỡ, khi được hay Võ tìm không phải vì thù, lại thấy Võ Minh Thần tỏ vẻ thành thật lạ lùng, nàng càng thêm quý mến, mỉm cười bảo:

        - Thoòng tiên sinh hiện là cánh tay mặt của Chúa Soái Thập Vạn Đại Sơn, người Vân Nam ai không biết? À tiên sinh nói bên Nam sang, phải tiên sinh là người Việt?

        Võ Minh Thần vừa gật đầu, bỗng thiếu phụ sáng hẳn mắt, nói luôn một tràng tiếng ta thánh thót:

        - À thế ra ta người cùng xứ! Đúng duyên kỳ ngộ giữa đường! Gái này cũng người bên đó đây... mấy năm nay rồi chưa có dịp về nước! Nào! Ta cùng đi cho vui!

        Thầy trò Minh Thần gặp người bản quốc tình cờ giữa rừng núi Vân Nam cũng mừng khôn tả. Từ đó nói với nhau toàn bằng tiếng Việt, thiếu phụ dắt con nhảy lên lưng bạch mã giục thầy trò Võ lên yên, dắt theo cả con cọp vừa bắt sống. Võ nghĩ thầm:

        - Người này võ nghệ cao cường, chắc cùng chồng ở ẩn vùng này! Bèn hỏi:

        - Thưa bà ở cách đây bao xa? Em có nghe người Mã Đầu Sơn dặn, từ đây tới bản doanh Thập Vạn cũng ngót trăm dặm, liệu đi đến tới kịp chăng? Thiếu phụ dịu dàng:

        - Nhà tôi với người trong doanh Thập Vạn thân nhau như một. Đường vào đó nguy hiểm hết sức, bảy năm, chuyện này như chìm vào dĩ vãng, không nghe ai nhắc tới nữa.

        Chàng trai mồ côi lại càng thấy bí mật bao trùm dày đặc, đứng im nhìn xác mẹ, náy chỉ sợ làm phiền thiếu phụ. Sau thấy nàng tuy xinh đẹp đài các mà lại tỏ ra thoát sáo, lịch lãm giang hồ hết sức, thầy trò cũng đỡ ngại.

        Đi chừng mười dặm nữa, thầy trò Võ càng lấy làm ghê thầm sức Thổ, tiếng Việt đều thông thạo. Chú cứ ngỡ là người Thái, người Thổ lai Kinh chi đó. Võ Minh Thần cầm áo mẹ lên quan sát giây khắc, ngậm ngùi:

        - sơn đạo, cầu treo, cầu ngầm trùng trùng điệp điệp, tới một rặng núi đá sừng sững mấy người đang đi bỗng nghe tiếng tù và rúc vang động, từ trong núi vụt phi ra một đội giáp kỵ đông đảo, toàn quân khách mạnh, súng ống, mã tấu tua tủa, dẫn đầu là một viên tướng râu xồm mắt quạ, coi vừa oai vừa dữ như cọp xám, mặc quần đen súng đeo trễ sườn, tay cầm một cây trung liên bánh xe, coi không khác Hứa Chử tái sinh.

        Viên khách này đi dưới một cây cờ đuôi nheo lớn, đầu súng cũng buộc một lá cờ đuôi nheo nhỏ, vừa nhác thấy người viên khách râu xồm hô lên mấy tiếng, lập tức cả cánh quân mạnh dừng cả lại, dàn ngang lối mòn.

        Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn thiếu phụ vẫn tươi cười, nàng dịu dàng bảo:

        - Không hề gì! Quân giáp kỵ tuần sát đó thôi!

        Đoạn đưa tay làm hiệu bảo hai người đi theo. Viên tướng xồm râu kia cũng tiến lên, hô lên một tiếng, cả cánh quân bồng súng chào, nàng nói lớn:

        - A Voòng! Cách đây chừng mươi dặm, có một khúc sơn đạo gãy, coi chừng có tụi nguy hiểm lẩn quanh đó! Chú Voòng khá cẩn thận! Nó vừa phục lừa bắt sống Hồng Kiệt bên sơn đạo gãy, may có tiên sinh đây giải cứu! Tiên sinh có việc đến bản doanh trung ương!

        Viên khách râu xồm chào thầy trò Võ, định hỏi chi, nhác thấy thiếu phụ đưa mắt, y thôi ngay, nói lớn:

        - Hầy! Vậy bọn ngộ phải ra ngoài "quét dọn"! Hầy tụi nào to gan à!

        Dứt lời chào, hô giáp kỵ bỏ đi như gió cuốn. Võ Minh Thần thấy thiếu phụ có vẻ quen thuộc đám lạc thảo Thập Vạn lòng thêm mừng rỡ, Võ ngó theo khen

        - Em vẫn được nghe thiên hạ đồn quân tướng Thập Vạn là quân tỳ hổ, giờ thấy quả không ngoa!

        Thiếu phụ đưa hai người vào thẳng chân núi bỏ lối mòn.

        Có con suối chạy bên ghềnh, nàng đưa hai người lội ngược giòng vết dao dĩ vãng chém còn lưu dấu, hai con mắt diều hâu vụt bâng khuâng mơ màng, giọng ồm ồm nói vừa cất lên đã trầm hẳn xuống, bỗng trở nên xa xăm mang mang nghe như vũ bão, khiến thầy trò Võ ghê thầm! Nàng trỏ bảo:

        - Cửa vào căn cứ địa! Đường tắt này là ngả bí mật. Chỉ dùng tới khi cần thiết!

        Thầy trò Võ nhìn, chỉ thấy vách đá lởm chởm, cây cối rườm mà, còn đang ngơ ngác, bỗng thấy tảng đá trước mặt sịch đổ từ từ xuống thành một cái cầu bắc qua suối, để lộ một cửa hang tối om, ẩn hiện bóng người cầm đuốc lập lòe.

        Thiếu phụ vẫy hai người vào hang, ngựa khua vó trên mặt đá lóc cóc, thầy trò Võ đưa mắt nhìn, thấy hang sâu hun hút rộng hơn thước, có ánh đuốc cắm rải rác, năm, bảy bóng lực lưỡng câm nín đứng hai bên, cạnh cần trục cúi chào, thiếu phụ dẫn hai người đi thẳng, chừng trăm bộ mới hết con đường bí mật đục thông ruột núi.

        Trước mặt hai người hiện ra cảnh lâm tuyền thiên hiểm vô cùng, trèo đèo lội suối băng rừng, chênh vênh, sơn đạo, càng đi càng hiểm hóc, có chỗ phải dùng thang dây rút người ngựa lên, lại có đường sơn đạo bắc trên dây cáp từ ngọn núi này sang ngọn núi kia, chơi vơi lưng trời coi không khác đường cáp tàu điện Âu Mỹ tại các vùng mỏ, vùng trượt tuyết vậy? khé coi không khác một cảnh hoàng hôn trong ác mộng từ đời hồng hoang hỗn mang chi sơ nào...

        Võ trang đầy mình, đoàn lạc thảo, buôn lậu tứ chiếng quất ngựa đổ đèo vượt biên địa sang Nam...
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #5
          Hồi Thứ Năm - Bóng Quỷ Trong Sa Mù

          Giọng nói của viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây chầm chậm vang lên giữa lòng hang lạnh, im không tiếng động, chỉ nghe có tiếng củi thông cháy lép bép, xông mùi thơm khét, thỉnh thoảng có một cơn gió từ ngoài triền núi cao lùa vào, thổi rạp thoi lửa đuốc, gió chạy trốc quan tài nghe cũng xa xăm mơ hồ lạ.

          Viên tướng lạc thảo Tàu nói tiếng Quảng Đông, thỉnh thoảng lại nói một tràng tiếng Quan Hỏa pha một vài tiếng Kinh lơ lớ, chàng trai Việt lặng lẽ đứng nghe, không nói thêm lời nào. Lúc đầu, chúa quài luôn tay túm được cổ tay quỷ nữ lôi nghiến lại:

          - Cô nương... điên rồi sao? Sao lại nhảy vào miệng dải?

          Giao Long chúa cười thét, trỏ tay theo chuyện kể, sống động hết sức.

          Thỉnh thoảng ông ta ngừng lại thở, nén cảm xúc, ngó Võ như dò phản ứng. Ông ta kể tỉ mỉ, từng động tác, cố nhớ từng câu nói, từng cử chỉ của các nhân vật liên hệ.

          Từ lúc gặp quỷ bốn chân rượt trai lôi phăng gái quỷ vào ghềnh trong, giục chạy, nào dè quỷ nữ lớn tiếng la hét inh ỏi, giằng tay không nổi, nàng ta cúi luôn định ghé miệng cắn, làm Võ tới chiều hôm sau, suýt rơi vào vuốt quỷ tại vùng Cầu Mây miệt Nước Hai, may được lão dị nhân Quy Võng Lạng giải cứu đem "đứa bé vòng xanh" về nuôi dạy... Nhất nhất ông ta đều kể rõ, đặc biệt là tiếng kêu thống thiết của thiếu phụ trẻ đẹp trước giờ lâm chung...

          Mãi hai tiếng đồng hồ sau, chúa núi Đầu Ngựa mới ngừng lại, đưa tay lau mồ hôi trán, thở phào một hơi như muốn trút được cả mười bảy năm ôm ấp nấu nung cảnh chết chóc quái gở của người đàn bà bạc mệnh đã cam lòng thảm tử cực kỳ ghê rợn, còn hơn chịu theo về động làm vợ quỷ để phải giao hoan với con tinh chúa bốn chân Hồng Cẩu Quẩy nanh ác.

          Chàng tuổi trẻ mồ côi đứng nghe như uống từng lời huyết hận, hai hàm răng cắn chặt vào nhau, thân hình rung động, đến khi tướng lạc thảo già ngừng kể thì bộ mặt điển trai đã ướt đẫm nước mắt đau thương...

          Một cơn gió lùa hang đá, ngọn đuốc rạp kéo dài kêu lép bép, tướng lạc thảo thở phì, tay vẫn ôm mặt, khẽ hỏi:

          - Minh Thần! Cháu... chịu đựng được chứ? Tưởng không nên biết tỉ mỉ.

          - Cháu chịu được! Chú cứ cho cháu biết từng ly từng tý... bí mật thường nhỏ như sợi tóc...

          - Vậy... mẹ cháu đã chịu nhận một cái chết khổ nhục nhất thế gian, nhưng người đàn bà đó đáng cho đàn bà trong thiên hạ phải noi gương, đàn ông phải cúi đầu kính phục. Bà đã chết can đảm, khí tiết chống cự đến cùng trước khi bị yêu khí hành hạ. Võ Minh Thần hỏi thêm từng chi tiết, chúa Mã Đầu kể hết, đoạn chậm chạp vuốt mặt, thở dài, quay nhìn Võ:

          - Tới nay đã mười bảy năm, bí mật vẫn bao trùm quanh vụ thảm sát, mẹ cháu vẫn là Vô danh nữ, không ai biết họ tên, quê quán, dòng dõi. Con tinh chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy, không ai biết nó ở đâu, đường trần hay... âm phủ.

          Nén xúc động dữ dội, Võ cúi nhìn cái xác người mẹ bất hạnh, lẩm bẩm nói một mình:

          - Còn cha cháu... cũng không nhắc tới?

          - Không hiểu cha cháu có biết mẹ cháu bị thảm sát không? Nhưng tất cả đầu mối có lẽ là ở chiếc "vòng xanh" và dây chuyền vàng. Có điều lạ lùng là mười bảy năm nay có nhiều kẻ đi tìm cái "vòng xanh", biết đâu không có cha cháu trong đó. Con tinh chúa, ngay đêm đó, nó cũng đi sục tìm "đứa con nít vòng xanh", chừng cái "vòng xanh" cháu đeo phải ẩn chứa điều gì bí mật đặc biệt.

          Võ nhìn ngọn lửa:

          - Con tinh chúa biết nói tiếng người... có thể nó là người mang lốt sài tinh? Hay là loài âm vật?

          Chúa núi Đầu Ngựa trầm ngâm gãi râu:

          - Bí mật này chưa khám phá nổi, cứ như những điều chứng kiến nhãn tiền lại càng khó quyết đoán. Tinh chúa nói tiếng người, trí xảo còn hơn người, nhưng súng đạn bắn không chết. Nó lại linh mẫn như quỷ, biết cả đường đi nước bước của người ta để phục bắt. Còn chuyện sài kíu độc biết nói tiếng người cũng chẳng có gì lạ. Con sáo, con yểng, con két, lưỡi cứng còn nói được, huống con sói lưỡi mềm như lưỡi người.

          Võ Minh Thần nát óc suy nghĩ không sao đoán nổi. Chàng trai đưa vòng xanh điểm huyết, dây chuyền nửa đồng tiền ra ngắm nghía, tưởng đến thân thế mờ mịt, càng điên đầu. Chợt viên tướng lạc thảo Quảng Tây bật giọng:

          - Hầy! Còn điều này, chú quên khuấy! Còn nhớ lúc bị nó ép đứng bên gốc cây tùng, có lần mẹ cháu rú lên, vẻ kinh khiếp hết sức, gọi nó là "con quỷ tiền kiếp". Lại bảo nó "theo ám hại không buông tha", "thà chết còn hơn làm vợ loài yêu ma nanh ác"... Xem thế, đủ biết trước ngày ngộ nạn mẹ cháu đã bị nó theo đuổi dọa nạt, có lẽ quá sợ hãi, mẹ cháu phải đem cháu trốn lên biên Chú Quản Kình! Cơ hội tốt, bỏ qua uổng! Chú cứ rút trước đi!

          - Cậu hai! Chớ! Rút khỏi tầm mắt nó, rồi theo hút... là hơn.

          Chàng trai sực mẹ cháu được an nghỉ chốn suối vàng.

          Võ Minh Thần run lời, mắt sáng dị thường:

          - Mười bảy năm cách biệt, mẫu tử chia lìa, nay vừa thấy mặt, nếu táng ngay, chắc cháu buồn ghê gớm. Và cháu muốn có một ngày mẹ cháu chứng kiến cảnh loài quỷ ác bị phanh thây xẻ thịt, cho vong hồn người được mát mẻ. Vậy cháu xin chú cho cháu đem di hài mẹ trên bước đường tầm thù báo oán, để mẹ con sớm tối có nhau.

          Tướng lạc thảo Quảng Tây trợn mắt:

          - Hầy! Cháu điên sao? Đem xác theo, sao tiện. Cồng kềnh, nặng nề, bất tiện trong việc xông pha chiến đầu, lỡ mất xác thì sao? Vả lại xác bị con tinh hấp sát, liễm yêu khí mười bảy năm vẫn còn nặng mùi, đem bên mình, hơi xông ra, không được.

          Võ điềm tĩnh:

          - Mười bảy năm chưa mai táng, thêm ít tháng nữa cũng được. Cháu muốn nhìn thấy di hài mẹ cháu hàng ngày. Cháu sẽ có cách làm mùi không tiết ra. Cháu sẽ gói vào một bọc nhỏ, bỏ giỏ mây coi như hành lý, không ai biết đâu. Và có khi nhờ di hài mang theo, cháu càng dễ tìm ra tung tích con tinh chúa.

          Thấy chàng trai có vẻ quyết ý, chúa Mã Đầu không ngăn nữa, bảo:

          - Tùy ý cháu. Nhưng phải làm lễ cầu hồn. Mà cháu định bao giờ đi?

          - Xin chú cho cháu đi ngay. Lòng nóng như lửa đốt, cháu quyết tìm cho được quỷ thù, coi là giống chi mà lại tàn ác vô lương đến thế. Đồng thời cháu phải tìm cho ra cha cháu, cùng dòng họ nguồn gốc.

          Chúa núi Đầu Ngựa đặt tay lên vai chàng trai, ngậm ngùi:

          - Cháu hết lòng nghĩ đến thù nhà, thật không phụ công chú đợi chờ bấy lâu. Cháu đi vào sương mù, tìm thù báo oán, chú dẫn cháu đến nơi xảy ra cuộc thảm sát.

          Võ Minh Thần khẳng khái:

          - Chẳng dám làm nhọc lòng chú, cháu đi với Quản Kình được rồi. Xin cho cháu được tự tay báo thù cho mẹ cháu và rửa hận cho những người chết oan ức chiều đó. Chú cho cháu rõ địa điểm cũng đủ. Chẳng hay chú có biết quan năm giám binh hồi đó nay còn sống không? Và hiện ở đâu?

          - Ông ta về hưu khá lâu rồi. Có hồi về Tây mấy năm, sau có sang Cao Bằng chơi, năm năm nay không được tin. Nếu cháu muốn đi một mình, phải cẩn thận lắm à. Chưa biết chừng chú cũng sang Nam có việc.

          Hai người nói chuyện giây lát xong, Võ Minh Thần thắp tuần hương nữa khấn vái hương hồn người mẹ xấu số, đoạn đậy nắp ván thiên lại, hai người đưa nhau rời khỏi hang đá. Ra tới triền ngoài, chàng tuổi trẻ nước mắt vẫn chảy ròng ròng, tưởng như "vừa từ dĩ vãng đau thương trở về".

          Không ai nói nửa lời. Tang tóc quá khứ đè nặng trĩu tâm hồn. Trời vẫn cao lồng lộng, nắng sáng rực rỡ, gió mát rượi, nhưng chàng trai mồ côi vụt thấy lòng mình đã đổi khác. Xưa ngọn lửa cô đơn nung nấu, nay lại thêm ngọn lửa căm hờn ngùn ngụt.

          Quản Kình ngồi đợi trong căn nhà viên chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, vừa thấy mặt hai người, đã hiểu ngay tiểu chủ đang cơn đau đớn vô cùng. Y chỉ kín đáo thở dài ái ngại, không dám hỏi. Nhưng Võ Minh Thần đã nói luôn:

          - Chú kiếm giúp ngũ vị hương, sáp ong, sửa soạn tẩm liệm, bọc di hài đem về Nam. Nhưng chú chẳng nên ngó thấy. Di hài bị hấp sát coi ghê gớm lắm, chú thấy sẽ bị ám ảnh suốt đời.

          Quản Kình tuân lời, nhờ viên chúa núi Mã Đầu sai viên đầu lãnh thân tín phụ lực, chỉ lát sau đã kiếm được các đồ tẩm liệm.

          Cả bọn lại đưa nhau tới hang đá triền sau, nhưng đem vào hang đặt đó, bỏ ra liền, chỉ còn Võ Minh Thần cùng viên chúa Mã Đầu. Võ tự tay dùng nước ngũ vị hương tắm rửa di hài mẹ, tiêm thêm mấy ống "phoóc môn". Ướp xong, nấu lỏng sáp ong, phết bọc kín di hài thật dày, kín cho mùi xú khí khỏi xông ra. Lát sau di hài người bạc mệnh đã thành một pho tượng sáp ong, không ai ngờ là xác người. Thận trọng, Võ cùng chúa Mã Đầu mặc xiên y sạch cho "pho tượng sáp" và nhè nhẹ bẻ gập bụng, gập đôi lại, dùng lụa bọc kỹ, rồi mới cho vào một cái túi thổ cẩm, thắt kín lại, bỏ vào giỏ mây. Còn mớ đầu lâu, xương xẩu của nạn nhân khác, Võ đề nghị cứ để nguyên trong hòm.

          Rồi ngay đêm đó, Võ Minh Thần kín đáo làm lễ cầu hồn, chỉ có chúa Mã Đầu, Quản Kình dự. Trong hang đá chàng trai vật mình khóc thảm thê, khiến người ngoài cũng phải sa nước mắt, an ủi hết lời.

          Những tưởng chàng trai mồ côi sẽ rầu rĩ ủ ê, nhưng sau tuần cầu hồn, khóc mẹ, Võ Minh Thần lau luôn nước mắt, mặt trở nên lạnh lẽo lạ thường, phủ phục thề sẽ tận diệt giống thù, rửa hờn cốt nhục. Xong, nửa đêm, đeo giỏ đựng xác mẹ sau lưng, chàng trai liền cũng chúa Mã Đầu, Quản Kình đóng cửa hang, về trại soái.

          Ngay sáng sau, chàng trai tuổi trẻ bái biệt vợ chồng chúa soái Thập Vạn Đại Sơn, xin phép "Vua Pạc Hoọc" lên đường. Nàng nữ soái Liễu Thôn miệt Lùng Phầy dịu dàng bảo:

          - Biên giới Việt - Trung này rất nhiều quái vật quái nhân, thù giết mẹ hiền đệ không phải ma nhân tinh quái cũng là độc vật yêu quỷ, tài nghệ lợi hại lại sẵn ma thuật phi phàm, sức người không địch nổi. Nó lại cực hung hiểm, quỷ trá khôn lường. Hiền đệ về Nam phải cẩn trọng lắm mới được. Nếu hiền đệ chẳng khách tính, vợ chồng ta rất yên lòng được giúp hiền đệ điều hữu ích.

          Võ Minh Thần lễ phép thưa:

          - Chỉ sợ nhọc lòng bậc danh giá, kẻ mồ côi này lúc nào cũng chỉ mong được lời chỉ dạy.

          Bạch Y Nương Phượng Kiều mỉm cười:

          - Chớ quên hiền đệ đã cứu mẹ con ta. Nay hiền đệ đã thọ giáo danh sư, bản lãnh đã cao, vợ chồng ta muốn truyền thêm cho hiền đệ một vài bí thuật cần thiết sau này.

          Võ cúi đầu bái lãnh. Chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn giọng chuông đồng:

          - Xông pha độc hành, ra vào sào huyệt đối đầu địch nhân quái vật, không gì bằng biết thôi miên thuật. Ta sẽ truyền dạy hiền đệ về phép thôi miên. Đáo sự gặp quái vật quái nhân dùng đòn mê, phun khí độc, nhất chúng thường phun lúc bất ngờ, kín đáo hoặc gặp bất kể loại chưởng kình độc hại nào, chống lại không gì bằng "Khẩu phong lôi", vì học được môn phản phong này, các yếu huyệt mặc nhiên bế kín thường trực, khỏi sợ bị đánh ngầm. Đã thế, "Khẩu phong lôi" đánh ra như sấm nổ, mạnh hơn đánh bằng tay, phá giải được nhiều môn độc công hiện nay. Ta sẽ truyền "Khẩu phong lôi" cho hiền đệ. Ra giữa thiên binh cận chiến, nhất gặp sài lang tứ túc Hồng Cẩu Quẩy thường kéo tràn cả trăm ngàn con một lúc, chống lại không gì bằng "vanh khiên", bí thuật trấn quốc của nước Nam từ thiên cổ. Hiền đệ sẽ được học khiên.

          Bạch Y Nương tiếp:

          - Không đeo súng mà lúc nào cũng có súng bắn. Khi chĩa nổ, bao giờ cũng nhanh hơn kẻ địch ba giây, dầu kẻ địch là... Thần Xạ Đại Sơn Vương vô địch, bất ngờ cũng bị luôn. Bí pháp tốc xạ này là của tôn sư đảo chủ Thần Tiên đảo Nam Cực truyền. Ta sẽ luyện cho hiền đệ phép "nhả đạn trong tay áo".

          - Hai tay hai súng, dẫu nhanh mấy cũng chỉ bắn được hai kẻ địch một loạt, lỡ rơi vào chỗ trống, bốn kẻ địch xông vào một lúc, hoặc đối đầu không cần dùng tay cũng được, không gì hơn bắn bằng... chân. Ta sẽ bảo hiền đệ phép "bắn bằng chân". Ta sẽ bảo hiền đệ thuật phóng giáo, bắn súng bằng chân.

          - Còn nhiều thuật quan hệ khác cho kẻ dọc ngang như "cánh không phi", "đạp vật thủy thượng phiêu", gồng ngải, độn toán, y học giải phẫu, trị độc thương, phép sai khiến ma xó, sai âm binh, điều quân khiển tướng, sai khiến loài thú điểu... Còn hàng trăm phép cần yếu khác, vợ chồng ta sẽ tùy tiện bảo dần, rồi hiền đệ còn phải luyện sau này nữa. Có điều chú ý: Cứ như loài quỷ mắt đỏ tứ túc kia rất nhiều ma thuật, lắm ngón phi phàm, mấy thứ chúng ta không chuyên luyện, ta sẽ giới thiệu hiền đệ tới cho bạn ta truyền bí thuật. Về các pháp môn đó, không ai sánh nổi nữ chúa động Thanh Âm bên lãnh địa Cao Bằng, miệt giữa Sóc Giang Đồng Văn.

          - Tiếc lòng hiền đệ như lửa đốt, chẳng lưu lại Vân Nam này vài năm, nhưng ít nhất cũng phải một, hai mùa. Với tài nghệ hiền đệ, ta tin mọi việc luyện sẽ chóng thành. Nhân dịp ta sẽ dượt lại các món võ thuật cho hiền đệ. Vậy hãy gác thù sâu, chuyên luyện ít lâu đã.

          "Vua Pạc Hoọc" chêm vào:

          - Quản Kình đi theo sát, cũng nên học thêm cho giỏi. Ta cùng Voòng huynh sẽ truyền dạy nội công ngoại khoa cho.

          Thầy trò Võ Minh Thần mừng khôn xiết, xin đồng lãnh giáo.

          Từ đó hai người lưu lại miền Thập Vạn Đại Sơn, học thêm bí pháp, dị thuật, pháp môn. Vốn giàu nhân điện, quen khổ hạnh, lại nuôi chí báo cừu giải oan hồn cho từ mẫu, chàng tuổi trẻ mồ côi dốc lòng khổ luyện. Nhờ siêng năng, mạnh ý chí, sẵn có bản lãnh, lại được vợ chồng viên chúa soái Thập Vạn Đại Sơn hết lòng truyền dạy bí pháp, thay nhau tập dượt, rèn luyện, chàng trai tiến lên vượt bậc.

          Ngoài ra, nhờ sống gần chúa Thần Xạ, vốn bực ngang dọc xông pha vào sinh ra tử rất nhiều, trải trăm ngàn cuộc chiến kỳ hiểm phi thường, rất giàu kinh nghiệm sống về mọi mặt, khi tửu hậu lúc trà dư, thường đem ra truyền giảng, lại cho biết sâu rộng về các nhân vật võ lâm đương thời, từ tài nghệ, bản lãnh, sở trường sở đoản... lại nói cặn kẽ về địa hình miền biên địa Trung - Việt, vùng thượng du đất Bắc, mấy dải sơn lâm Vân Nam, Lưỡng Quảng, mấy miệt duyên hải vịnh Bắc Kỳ, các hải đảo, quần đảo Hạ Long, Bái Tử Long, sang tận Hải Nam, Quảng Châu, nhất nhất có gì đặc biệt đều nói rõ, kể cả phong tục tập quán...

          Càng ở bên hai vợ chồng chúa Thập Vạn cùng viên chúa Mã Đầu, thầy trò Võ Minh Thần càng kinh ngạc bái phục, không thể ngờ hai người lại đều tài giỏi, từng trải hơn cả người sống trăm chỉ còn khu ngang mắt căng phồng, phập phà phập phồng, hai con mắt như muốn lồi ra, hai luồng nhãn tuyến sáng lóe lên kỳ dị, và Võ Minh Thần bỗng rúng động tâm cứu được hai mẹ con Phượng Kiều thoát nạn bất ngờ, nên cố sức truyền dạy cặn kẽ, không tiếc một môn bí mật nào. Còn Quản Kình được hai viên chúa tướng lạc thảo Tàu dạy hết lòng, võ nghệ, tài thuật cũng tiến rất mau.

          Thấm thoát đã hết thu sang đông, rồi gần hết xuân sắp sang hè, thầy trò Võ Minh Thần bản lãnh đã vượt hẳn, tính ra đã lưu lại Vân Nam bảy, tám tháng trường. Một đêm nằm nghe gió thổi mặt triền khuya, tự nhiên lòng miên man dậy niềm u uất, nhớ thù mẹ thác oan, tủi nhục tràn đầy khóe mắt. Chàng trai đem xác mẹ ra thắp hương khấn vái, và ngay sáng sau lên xin phép ra đi tìm thù.

          Vợ chồng chúa Thập Vạn cùng Mã Đầu Pạc Hoọc, Voòng Hải Sơn Vương nắm tay căn dặn hết lời, lại đem tặng thầy trò các mọi thứ cần dùng khi về nước, đặc biệt có hai bộ giáp trận và hai cái khiên kép chế tạo rất tinh vi.

          Giáp bằng mây đen kép, giữa lót cao su dày hơn lốp xe, kẹp thép dày, trước ngực, bụng còn đắp thêm hai mảnh mica loại kính chiến xa, có cả mũ trụ dính liền sau gáy, toàn khối ghép từng phần có bản lề, lò xo, có thể gập vào thành khối nhỏ.

          Khiên, một cái thành hai úp lấy nhau, cũng lát các thứ như giáp, cần có thể tháo làm hai. Khiên giáp đều bọc vải chàm, có phết một thứ nhựa thuốc kỵ thủy, kỵ hỏa, đi mưa không ướt. Trong khiên trụ ghép một khoảng rỗng, nếu cần có thể đổ cát hoặc chì thêm cũng được tuyến nhãn thần ra khỏi mắt! Hừ! Bao năm tu luyện chưa thành được "tia sáng giết người nhìn đâu cháy đó"

          Hàm răng con quái nghiến ken két kín, tặng thêm hai mảnh vải chàm rộng cũng ngâm nhựa thuốc, có thể dùng làm "tăng", áo đi mưa, chăn đắp.

          Không quên tặng thêm hai con giáp mã khỏe, nòi ngựa chiến quen đi núi. Quản Kình to con, đồ dùng toàn khổ lớn như của "Vua Pạc Hoọc". Võ Minh Thần chẳng có chi tặng lại, chỉ biết dâng mấy mảnh da, xương Mạc thú làm kỷ vật tạ từ.

          Vợ chồng chúa soái Thập Vạn Đại Sơn cùng chú bé Hồng Kiệt, chúa Mã Đầu, các cận tướng thủ túc đưa hai thầy trò Võ Minh Thần xuống núi, tiễn mấy dặm đường, Võ xuống ngựa, kính cẩn:

          - Nay kẻ mồ côi này về Nam tìm cừu báo oán, bốn phía mịt mù tăm hơi, đường đời ẩn trắc, thực hư, bạn thù lẫn lộn, chẳng khác kẻ đi tìm bóng chim tăm cá. Dám xin bậc phụ huynh ban cho vài lời tiên tri, chẳng hay chuyến đi này có tìm đặng quân thù, nguồn gốc mẹ cha chăng?

          Chúa Thập Vạn nhảy xuống đưa tay trái đánh một quẻ độn Lục Nhâm, Trần phu nhân Bạch Y nương tử cũng đánh Lục Nhâm, hai vợ chồng cùng giơ tay cho nhau coi. Chúa núi Mã Đầu Pạc Hoọc đại vương liếc coi kinh ngạc, thấy hai ngón tay trỏ lần cung cùng ngưng một chỗ giống nhau như rập khuôn. Hai vợ chồng chúa soái Thập Vạn ghé sát nhau, lẩm bẩm, cả hai thoáng cau mày, nhìn nhau.

          Chúa Thập Vạn rút cây súng, lật lấy một viên, quay bảo đám cận tướng:

          - Viên mã tử!

          Voòng Lầu lấy một viên cắm vào. Chúa Thập Vạn xòe tay xoay tít cối đạn, quay mấy vòng trên ngón trỏ, bắn chỉ thiên. Tách! Đạn thối. Lật cối xem đúng viên mã tử mặt đỏ. Thoáng sợi mây bâng khuâng, chúa Mười Vạn Núi cắm súng nhìn Võ mấy giây, vỗ nhẹ vai, cao giọng:

          - Chuyến này về nước gặp kỳ duyên nhưng phải coi chừng nghiệp sát. Phải quay súng bảy vòng trước khi nổ, quay ngoảnh mặt bảy lần trước khi nhìn, nhất nhất phải cẩn trọng. Ta có mấy câu tặng hiền đệ, hãy nhớ kỹ: "Đồng bất đồng, bất đồng thị đồng. Khai bất khai, bất khai thị khai. Khai đồng nghịch lý, càn khôn ngộ càn khôn, cát hung khả đáo".

          Võ cúi đầu lãnh giáo, khẽ hỏi:

          - Chẳng hay quân thù hấp sát có phải đích tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy?

          Chúa Thập Vạn trầm mặt:

          - Quỷ tứ túc không ra quỷ, người không ra người, bán âm bán dương, bán phàm bán tục. Trong thân có lẫn nhân khí, yêu khí, hình như ở mấy chủng loại. Ta có ý nghĩ: Nhân vật phi nhân phi thú phi quỷ phi tinh này đang ở vào độ hóa hình như một vài giống hãn hữu xưa nay, vì một phép tu luyện ngược lại các định luật thông thường về vật lý. Mười bảy năm qua, tất còn lợi hại hơn xưa nhiều. Ta e kẻ nào lọt vào tay sẽ chỉ còn mớ da không. Phải cẩn thận hết sức.

          Thầy trò Võ sụp vái giã biệt. Súng nổ tiễn chân đì đẹt, hai thầy trò giật ngựa đi như gió, phút chốc đã chìm khuất sau các núi đèo trùng điệp.

          Nhìn theo bóng dáng người tuổi trẻ đeo di hài mẹ sau lưng, nhấp nhô phai chìm cuối dặm dài quan san, viên chúa Thập Vạn Đại Sơn không nói nửa lời, khá lâu chợt chép miệng, lẩm bẩm:

          - Nghiệt số gớm ghê! Cầu trời cho hắn đủ sức vượt qua biển gió cuồng.

          Viên tướng lạc thảo Mã Đầu gãi râu, lo lắng khẽ hỏi:

          - Chủ soái à! Nó về Nam chuyến này... có gì xảy ra...?

          - Bí mật lạ lùng! Quẻ độn ứng càng khó giải! Toàn hư hư thực thực, có có không không! Hừ! Nếu không dành cho hiếu tử báo cừu, ta cũng thấy tò mò hết sức, chỉ muốn xuống núi một phen! Yên lòng! Kẻ sinh ra dưới một ngôi sao dị kỳ như thế không dễ gì được trốn nợ đời đâu! Ta về thôi!

          Chúa Thập Vạn cùng vợ nhảy lên ngựa, bọn cận tướng tài danh lẳng lặng lên theo, lóc cóc trở về đại trại, bộ mặt phong trần đanh thép vẫn còn in đậm nét ngậm ngùi, bâng khuâng...

          * * *

          Ngay sau khi bái biệt vợ chồng vị chúa tể Thập Vạn cùng "Vua Pạc Hoọc" Voòng, thầy trò Minh Thần cứ mải miết ra roi đi miết, hai ngày sau đã ra khỏi trấn sơn hùng cứ của chúa tể rừng già Vân Nam. Ngày đi đêm nghỉ, nhờ theo lộ trình của vị chúa tể Mười Vạn núi chỉ vạch, chẳng mấy bữa đã bắt vào con đường xe lửa, lóc cóc xuôi nửa buổi đã tới biên giới.

          Dừng ngựa trên đèo cao, trông xuống, thấy một vùng biên trấn cư dân trù mật, mái ngói rực đỏ dưới ánh nắng chiều trọng xuân, cắt ngang bởi một dòng sông xanh lặng lờ chảy quanh co, đổ tới ngã ba, giữa cảnh sơn lâm kỳ thú, xa tít về phía Nam, bên kia đất Việt, trấn biên nhà ngói như bát úp, có cây cầu sắt bắc qua sông rừng ngăn đôi lãnh thổ Tàu, ta.

          - Hồ Kiều kia rồi! Cầu Trấn Phòng! Bên kia là Lào Cai. Nước Nam kia rồi. Tôi còn nhớ ngót mười năm trước, tôn sư có cho theo về nước một lần, đi qua vùng biên này đây. À! Cảnh vật vẫn không đổi thay bao nhiêu. Vùng này, chú thường qua lại?

          - Da có đến năm, sáu bận. Nhất hồi cụ nhà về ở hẳn đồn điền Yên Bái, tôi thường cùng chú Trưởng Sềnh qua đây. Trước còn vắng hơn giờ, ngay bên Hồ Kiều cũng có rạp hát tuồng Tàu, quán ăn, hiệu buôn đủ thứ. Vì là ga địa đầu, dân Hồ Kiều Lào Cai qua lại buôn bán như đi chợ à. Giờ chiều rồi, ta xuống phố nghỉ ngơi, mai sang bên kia cũng sớm chán. Mà... cậu hai à, cậu tính về qua Yên Bái ít bữa, hay... đi đâu?

          Võ Minh Thần đăm đăm nhìn xuống mấy miền trấn biên, bâng khuâng:

          - Đi tìm con quỷ ác trong sa mù, có chỗ nào định sở hẳn đâu? Nhưng tôi tính thẳng tới biên giới Cao Bằng, vùng Sóc Giang bên trên Nước Hai, coi lại nơi mẹ tôi bị con quỷ bắt giết, nhân thể tìm kiếm động Thanh Âm. Dạo này chẳng hiểu qua cầu Trấn Phòng có dễ không. Phía quân Tàu không ngại, hơi ngại lính nhà nước Đông Dương gác cầu Trấn Phòng.

          - Không hề gì, cậu hai. Dọc đường xe lửa Hà Nội - Côn Minh tôi quen nhiều, nếu lạ, ta đãi vài đồng "xòe" là xuôi. Dân Lào Cai Hồ Kiều vẫn qua lại rầm rập mà.

          Hai thầy trò Võ lóc cóc tế ngựa xuống thị trấn Hồ Kiều. Đến nơi mới bốn giờ chiều, vẫn còn vài tia nắng hoe đẹp trời, chậm sương mù, khí đá.

          Hồ ngã văng sang bên chúi kẹt đó, tên bay loang loáng trốc đầu, tên cắm xoang xoảng vào tấm khiên trên như mưa rào.

          Giật mình, Võ Minh Thần cúi rạp mình dòm phủ Côn Minh hàng trăm cây số, nhờ con đường xe lửa Hà Nội - Côn Minh, việc buôn bán được mở mang qua nhiều miền sơn lâm hiểm trở, đặc biệt là giao thương với Đông Dương, Hồ Kiều cùng nhiều vùng xa xôi sống nhờ các hàng hóa vật dụng bên Nam tải qua cầu nhiều hơn nhờ thủ phủ Côn Minh, nên quan chức Tàu đương thời từ hồi Đường Nghiêu tới Long Vân vẫn cho qua lại dễ dàng.

          Còn bên Việt Nam, nhà nước cũng cho qua lại dễ dàng, người bên Lào Cai sang Hồ Kiều xem tuồng Tàu đêm về là thường, cũng như người bên Hồ Kiều sang Lào Cai đánh bạc như đi chợ vậy. Bình thường chỉ có một chú lính Trung Hoa gác đầu cầu, bên kia Lào Cai cũng vậy.

          Nhưng khi thầy trò Võ Minh Thần vào trấn Hồ Kiều, hồi này lại thấy lính Tàu rầm rập qua lại, kỵ bộ lố nhố mới kéo về. Hỏi dân đầu trấn mới hay mấy hôm trước vừa xảy ra liền hai, ba vụ cướp tàu hết sức táo bạo ngay khi chuyến tàu đêm Hà Nội - Côn Minh đang chạy qua cầu Trấn Phòng.

          Quân cướp chặn tàu, "ăn hàng" xong, nhảy xuống xuồng độc mộc biến mất, nhanh như cơn lốc và đặc biệt nhất là cả mấy vụ chúng toàn cướp đoạt... vòng ngọc thạch xanh điểm huyết, điểm vàng, không lấy tiền bạc, hàng hóa chi cả. Người kể là một chú khách chuyên buôn đường Côn Minh - Lào Cai, còn cho biết cả mười mấy năm rồi, thỉnh thoảng lại xảy ra một vài vụ cướp kỳ lạ như thế, và những tiệm kim hoàn thường bị cướp tới thăm, nhưng cũng lấy vòng xanh thôi.

          - Vòng ngọc xanh? Tại sao chỉ cướp vòng ngọc xanh? Bọn bí mật nào muốn thu hết vòng ngọc thiên hạ làm gì? Có liên hệ chi tới cái vòng ta đeo không? Mà một bọn, hay nhiều bọn? Đêm Trung thu, từ Tam Đảo xuống Vĩnh Yên đón tàu ngược Yên Bái, cũng gặp một đám cướp vòng xanh. Lạ thật. Rất tiếc đêm năm ngoái không bắt một tên cầm đầu tra hỏi.

          Quản Kình bảo:

          - Cậu hai có cái vòng xanh kỷ vật, cũng nên cẩn thận. Chớ nên đeo lộ, chúng dám theo dõi hạ thủ đoạt lấy. Bọc kín là hơn.

          Võ Minh Thần cười, nói nhỏ:

          - Có lúc nên giấu, có lúc nên đeo ra ngoài cho nó bu lại. Tôi có cảm tưởng rõ rệt chuyện cướp vòng ít nhiều đều có liên hệ tới chiếc vòng mẹ tôi để lại, vì con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy cũng đi tìm bắt "đứa bé vòng xanh", chắc nó bắt để lấy chiếc vòng này. Ta có thể dùng làm mồi nhử chúng trong bóng tối chường mặt ra.

          - Mẹo này cũng được, nhưng nếu tôi để chúng chú ý vào tôi, cậu hai đứng ngoài dễ bề hành động hơn. Tay tôi to lắm, chắc khó vừa.

          - Vừa! Vòng này ngoại khổ, loại vòng gia truyền từ nhiều thế kỷ, cổ nhân xưa to xương, vòng ngọc càng lâu năm càng điểm huyết nhiều. Nhưng giờ ta có mang cả trung liên, nhập trấn sao tiện? Nên tránh xung đột với quan binh.

          Quản Kình gãi râu, chợt bảo:

          - Cậu hai! Ta cứ đi như dân thường, chỉ việc dấu súng đi cho tiện. Còn nếu họ đòi khám, cậu hai đã quên lá cờ ông chúa Thập Vạn trao cho rồi ư?

          - À! Nhưng cờ đó chỉ để qua lại vùng giang sơn Thập Vạn, đâu phải cờ tổng đốc, toàn quyền mà hòng đắc dụng đất này?

          Quản Kình gật gù:

          - Không phải cờ tổng đốc, toàn quyền nhưng là cờ hiệu chúa tể Mười Vạn Núi, từ tổng đốc Vân Nam đến toàn quyền Đông Dương đều phải nể vì chúa Thập Vạn, tuy chỉ là tay lạc thảo rừng xanh nhưng lại là lạc thảo anh hùng trong đời dọc ngang, việc đó ai cũng biết. Nên lính Tàu, lính Tây, ta, không ai muốn gây sự với người Thập Vạn đâu. Cậu hai cứ đưa lá cờ đây.

          Võ Minh Thần rút luôn lá cờ hiệu đuôi nheo trong giỏ trao cho Quản Kình. Cờ nền đỏ đậm, thêu hình quần sơn nhấp nhô với hình chim đại bàng kim tuyến vàng, mắt đỏ khé, xòe cánh trên ngọn Thập Vạn, xung quanh có tua vàng, chỗ nền quần sơn còn có thêm một hình tròn kim tuyến có hình đại bàng nhỏ giữa chữ "Soái" vòng ở chữ "Thập Vạn Đại Sơn Vân Nam".

          Quản Kình cắm luôn bên cổ ngựa, cùng Võ Minh Thần vào thẳng trấn Hồ Kiều, trung liên đeo vai, súng trễ sườn, đội mũ khiên rộng vành, mặc giáp ngầm coi hết sức oai vĩ, đúng tay thảo dã giang hồ.

          Dân trấn Hồ Kiều lẫn lộn Tàu, ta, Xạ Phang, Dao, trông thấy lưng cứu con dạ xoa, chịu nghe chửi như tát nước! Quỷ cái xấu xa chó không buồn nhìn thằng đẹp trai ngu hơn chó! Tên lửa! Khói mê!

          Dứt lời, lập tức quan võ trẻ quát hỏi:

          - Hầy à! Hai người kia mang súng vào trấn có việc gì à? Coi giấy!

          Quản Kình đi trước chưa kịp đáp, chợt có một viên quan tư trạc ngoại tứ tuần, râu quai nón, mạnh khỏe từ trong căn nhà gần đấy đi ra, vừa thấy bóng cờ đuôi nheo cắm bên cổ ngựa, y vùng trợn mắt nạt đám thuộc hạ:

          - Hầy à! Lui ra cho sếnh sáng đi! Không thấy cây cờ hiệu kia sao? Hầy, một con đại bàng mắt đỏ trên chỏm núi, cờ hiệu ông chúa tướng Thập Vạn Đại Sơn, bạn thân quan Tổng đốc Đại tướng Tài Nhân à!

          Đám lính Tàu dạt ra, viên quan tư hỏi:

          - Nhị sếnh sáng về Nam?

          Quản Kình đưa tay chào, gật đầu:

          - Ngộ phò "Công tử Đại vương" sang Nam có chút việc. Công tử đây là... em chúa tướng Thần Xạ. Dạo này sao Hồ Kiều canh phòng cẩn thận dữ à?

          Viên quan Tàu vò râu than:

          - Hầy à! Dạo này có tụi thổ phỉ bạo gan cướp tàu hỏa ngay giữa cầu à! Bên sở hỏa xa Vân Nam kêu, ông tướng ngộ mới sai về đây bắt cướp.

          - Hà hà! Nhân dịp sang Nam để ngộ nói với "Công tử Đại vương" ngộ bắt giúp một tay à.

          Viên tướng Tàu cười ha hả, xua lính dạt ra, vẻ lễ độ hết sức. Võ Minh Thần cũng mỉm cười chào, cùng Quản Kình giục ngựa qua nghiễm nhiên vào thẳng trấn. Mãi lúc đó, chàng trai mới hiểu rõ oai danh vị chúa tể Mười Vạn Núi lan rộng khắp mấy cõi, đến quan quân cũng phải kính phục. Hai thầy trò lần vào một tửu quán ngay khu đông đúc, nghỉ ngơi.

          Đoán có thể có tai mắt "bọn bí mật" cướp vòng tại Hồ Kiều, Quản Kình bảo Võ Minh Thần chuyền chiếc vòng xanh cho y đeo, giấu hết súng lớn nhỏ trước khi vào quán. Quán khá đông đúc, khách thương, dân hào phú các vùng lần tới, sang Lào Cai đánh tài xỉu, hành khách Tàu, lính tráng quan chức... ra vào tấp nập, xen lẫn thổ dân, giang hồ tứ chiếng.

          Hai người buộc ngựa gốc cây, lên kiếm được cái bàn kê gần cửa sổ "ban công", có thể nhìn xuống dưới được. Đoạn gọi tửu bảo đem thịt tới, ngồi ăn uống. Thực khách khá đông, cười nói líu lô, khạc nhổ bừa bãi, đúng không khí quán Tàu. Võ Minh Thần không quen uống rượu, nhưng cũng ngồi đối ẩm với Quản Kình cho khuây khỏa.

          Rượu được một tuần, chợt nghe có tiếng người cười vang từ dưới cầu thang nhấp nhô đi lên, tiếng cười nghe như chiêng khánh, lệnh vỡ khua, khiến thực khách muốn vỡ màng tai, nhiều kẻ phải bịt vội tai tru tréo. Chỉ có hai người khách trung niên mặt mũi lạnh như tiền cứ ngồi ăn uống, không buồn lưu ý.

          - Hà hà! Khát cháy cổ rồi. Bồi bếp, chủ quán đâu? Có rượu hảo hạng mau đem vài hũ. Quả nhân thưởng tiền. Thật ngon nghe. Ngự tửu quả nhân đem theo gần hết à! Hỏa tốc! Hỏa tốc!

          Một bóng người theo tiếng hô rượu bước lên gác, đứng ngay đầu cầu thang đưa mắt ngó kiếm bàn trống.

          - Của trời cho... nửa cái càn khôn, tử công phu mới vớ được đó. Ma Khách. Bữa đó hình như ngươi cũng có mặt, ngươi bịt mặt, rượt theo "nàng công chúa" ở hồ Ba Bể liền mấy ngày đêm, mấy phen bắt hụt, người lại xua quân đuổi theo quả nhân thì phải. Nay lại gặp quả nhân... Hà hà...

          Lạnh lẽo, người trung niên nhún vai, khô giọng: "Trùng rượu! Ta lại phải đánh lừa ngươi ư" và bỏ về chỗ ngồi.

          - Khoan! Trẫm nói cho vui! Cứ xem chơi càn khôn luyện đây.

          Vẫn không nhìn lại, người áo đoạn vén luôn tay áo, giơ tay trái lên khỏi đầu.

          Võ Minh Thần nghe hai khách dị này đối đáp với nhau bỗng giật hẳn tim nghe mấy tiếng "nàng công chúa", "hồ Ba Bể", "rượt mấy ngày đêm, mấy phen bắt hụt". Võ nghĩ thầm:

          - Bọn này có liên hệ gì tới vụ thảm sát mẹ ta chăng? Hay dữ. Không ngờ vừa về đến đất Hồ Kiều đã gặp may.

          Bèn cứ làm mặt điềm nhiên cứ ngồi ăn uống với Quản Kình, theo dõi từng cử chỉ, chợt thấy người khách trung niên "Ma Khách" bước sau lưng người áo đoạn phương phi giơ kính lúp soi sát chiếc vòng trên tay người này.

          Hai con mắt sáng hẳn lên, hắn giơ tay vẫy người đồng ẩm lại, trao kính lúp cho gã, gã này cũng mặc xườn xám, cũng gầy nhom, gã cúi lom khom soi lúp, dòm kỹ hơn, nghiêng ngó. Bỗng gã vùng đứng thẳng người,vẻ chán nản thất vọng, nói gọn lỏn:

          - Không phải "nó"!

          Người áo đoạn giật thót mình, co tay nhổm bật dậy như cái lò xo, lần này mới xoay người lại trợn ngược mắt, hỏi giật giọng:

          - Sao? Không phải "nó"? Ma Kinh! Ngươi bảo không phải nửa cái càn khôn?

          Cả hai gã trung niên mặt lạnh cùng cúi dòm lần chót, cùng nhún vai lắc đầu, lẩm bẩm "vòng giả, vòng giả". Người có hiệu "Ma Kinh" ngửa mặt lên trần, thở phì chán chường:

          - Của vất đi! Toi công của, toi nhân mạng, phí mười bảy năm tìm kiếm. Sâu rượu! Giữ lấy của quý mà chơi. Không ai ăn cướp đâu.

          Dứt lời, cả hai cùng trở về chỗ cũ. Người áo đoạn cũng lôi kính hiển vi ra soi, hết soi lại dòm hai gã kia như muốn dò hư thực, chợt vùng quay sang vẫy gọi:

          - A! Ma Khách, Ma Kinh! Còn của các người... sao không đưa trẫm coi thử?

          Hai gã này ngó nhau, gã Ma Kinh lôi trong bọc ra môt cái túi thổ cẩm lớn, đứng lên, tiến lại cầm dốc ngược, "xoảng xoảng, lạch cạch" hàng bốn năm chục cái vòng xanh điểm huyết vung vãi khắp mặt bàn; ném cả cái túi không xuống, lạnh như tiền:

          - Mười bảy năm mồ hôi xương máu, mấy mươi vạn cây số lang thang... biếu nhà ngươi đó. Cất đi, về làm "sưu tầm vòng ngọc" chơi, cũng có giá đấy.

          Nói đoạn bỏ về chỗ, người áo đoạn chụp lấy soi lúp, dòm từng cái. Thầy trò Võ liếc sang thấy mỗi cái vòng này sàn sàn cùng cỡ, khổ đều giống cái vòng Võ đeo, tuy nhiều cái điểm huyết ít hơn.

          Võ Minh Thần thấy cả bọn họ đều nhắc đến vòng xanh, cho là có liên hệ bí mật tới thân thế mình, Võ khẽ bảo Quản Kình:

          - Cơ hội rồi! Phải ra mặt thôi.

          Quản Kình đưa mắt quan sát một vòng, khẽ bảo:

          - Bọn này toàn hạng ma nhân quái gở, cao bản lãnh, nếu ra mặt, chúng xúm cả lại, ta bất lợi. Ta nên trì hoãn, tốt hơn.

          Võ Minh Thần nóng lòng, nhíu mày ngẫm nghĩ, nhìn quanh lầu, thấy phòng hẹp, đông khách, xảy cuộc chiến sẽ nhiều người chết oan, lại chưa lượng rõ được bản lãnh địch thủ, chàng trai chợt nghĩ ra một kế, tặc lưỡi bảo Quản Kình:

          - Trì hoãn, hình chàng trai vừa bắn vọt lên, hai chân đã co rút lại, hai tấm khiên úp chụp lấy người Võ và quỷ nữ, mép dính kín phía trước, mở hé sau lưng, Song Ma, nghiêng mình, cất giọng lễ phép hỏi:

          - Kẻ hậu sinh này xin có lời chào liệt vị tiền bối.

          - Muốn gì? Muốn vuốt râu...?

          Vẫn điềm nhiên, Võ Minh Thần đưa mắt nhìn cả Song Ma, Tửu Chúa, cao giọng:

          - Kẻ hậu sinh này ngồi ăn, vừa thấy liệt vị tiền bối cãi nhau về cái vòng. Kẻ hậu sinh này tình cờ thấy có người đeo cái vòng điểm huyết lớn, muốn mách bậc tiền bối, nhưng nếu bậc tiền bối không thích, kẻ hậu sinh xin lỗi đã làm rộn tai.

          Dứt lời, Võ chào quay đi, ngay lúc đó, người áo đoạn có hiệu Tửu Chúa đứng sổ lên vẫy gọi lớn:

          - À à! Chú em Thổ Quảng Tây hay Thổ ta, Thổ phỉ chi đó... sang đây nhậu chơi với quả nhân. Lại đây! Lại đây!

          Võ Minh Thần cố đợi cho cả ba lão nôn nóng mới từ tốn lên tiếng:

          - Thưa liệt vị tiền bối! Kẻ hậu sinh này vừa thấy một người đeo một cái vòng xanh điểm huyết rất lạ. Cái vòng này cỡ to, tay mập cũng đeo được, mình nó to gần bằng ngón tay trỏ. Về điểm, thì nó điểm gần hết, có lẽ chưa thấy cái vòng nào lại khác đời đến thế. Thưa chẳng hay có phải...?

          Vừa nghe đến đấy, Song Ma vỗ đùi hét inh ỏi:

          - Đúng! Đúng rồi! Đúng "nó" rồi! Ôi chao! Cứu tinh! Hiền đệ cứu tinh! Nói mau! Gặp nó ở đâu? Chỗ nào? Đứa nào đeo? Nói mau! Bọn tao đi ngay!

          Tửu Chúa cũng giục, nhưng lại vuốt râu, đưa mắt ra hiệu cho Võ chớ nói ngay, để nói riêng cho y biết. Tương kế tựu kế, Võ Minh Thần làm mặt ngây ngô hỏi:

          - Nhưng chẳng hay vì sao mà cả mấy vị tiền bối đây đều có vẻ chú ý đến nó? Chẳng hay nó có gì đặc biệt?

          Cả ba lão liếc nhìn nhau như ngầm dò ý, cả ba ngó Võ chòng chọc. Một lão vuốt râu, cười hè hè, gật gù:

          - Hà hà! Cái vòng điểm huyết, hà hà! Nó là cái vòng điểm huyết, có vậy thôi. Mà chú em để ý làm quái gì cho mệt óc. Quan hệ hay không để mặc mấy thằng già này lo liệu. Chú em gặp nó ở đâu? Nói nghe chơi.

          Võ tỏ vẻ băn khoăn lo ngại, từ tốn bảo:

          - Kẻ hậu sinh này tình cờ thấy, cũng chỉ cho là lạ mắt chút thôi, nhưng vừa nghe chư vị nói tới, kẻ này mới lạ nữa, không thể không muốn biết. Chắc phải có gì hệ trọng, chưa rõ đã nói ra, nhỡ chư vị đâm chém nhau giành giật nó, gây án mạng, kẻ này hóa mang tội, xin chư vị hiểu cho.

          Cả mấy lão đều nóng ruột, vò đầu bứt tai, nhăn mặt, cứ dỗ dành chàng trai nói, chàng trai lại cứ đòi phải biết rõ về lai lịch cái vòng mới nói. Cuối cùng lão Ma Khách kêu lớn:

          - Ôi chao! Chú nhỏ này muốn về âm phủ hay sao cứ nằng nặc đòi biết nó! Vậy tao nói qua cho biết, rồi trỏ chỗ mau, nghe: Cái vòng đó không phải vòng thường, nó là một trong ba cái vòng càn khôn. Mỗi cái có một phép lạ, ghép lại sẽ đảo quyền thiên hạ, đảo lộn càn khôn, kẻ làm chủ càn khôn lúc đó sẽ sống lâu bằng ông Bành Tổ... Bọn tao đi kiếm khắp năm châu bốn biển. Mười bảy năm trước cướp nổ như ống lệnh, nhìn mấy phía đã thấy lố nhố bóng quái, ngay trước mặt lại một hàng Giao Long mồm ngậm đuốc tay cầm cung tên giáo mác nhúng lửa bắn tới sáng bí ẩn, Võ mừng thầm, lại hỏi:

          - Chắc còn nhiều điều khác lạ nữa. Xin tiền bối cho hay. "Nàng công chúa" bồng đứa nhỏ... rồi ra sao? Tại sao lại có?

          Không đợi chàng nói hết, lão Ma Kinh vùng cười thét:

          - Dài dòng! Dài dòng! Biết thế đủ rồi, còn đòi gì nữa? Mấy điều đó đánh đổi ở chuyện chú mày đủ rồi. Chớ tham lam hỏi nữa, rước vạ vào thân. Nói mau! À hay... hay chú mày cũng muốn giật vòng càn khôn? Chú mày bịa chuyện lừa mấy thằng già này?

          Võ Minh Thần lắc đầu:

          - Kẻ hậu sinh này đang chán đời, chẳng dại gì lại thích sống lâu như ông Bành Tổ rước thêm khổ vào thân. Nhưng kẻ này chỉ sợ các vị cùng tìm tới giết nhau, kẻ này thật có tội lớn. Nhất nói ra, chỉ đến tối các vị sẽ gặp ngay người mang vòng, vậy xin tiền bối tha lỗi cho, kẻ này xin ra một điều kiện nhỏ: Sẽ nói cho vị nào cho biết thêm một vài điều về cái vòng. Chẳng hạn như "nàng công chúa bồng đứa con nít" là ai? Chồng nàng là ai?

          Cả ba cùng dòm chòng chọc, thoáng nghi ngờ, rồi vùng cười lớn:

          - Không xong! Không xong! Nhỏ con, ngươi đánh lừa chúng ta để dò la tin tức phải không? À! Hậu sinh lếu láo lừa bịp cả tiền bối. Nói mau! Mấy thằng già này ngứa tay rồi đây!

          Tất cả đều lừ lừ, coi bắt đầu nổi nóng. Võ Minh Thần nhác qua sắc diện, hoàn cảnh, biết mấy lão cáo già này không chịu nói thêm nữa, làm găng sẽ thành cuộc xung đột ngay, chàng trai bèn mỉm cười bảo:

          - Chư vị chớ lầm. Kẻ này chẳng có ẩn ý gì đâu. Nhưng chỉ ngại chư vị huyết chiến...

          - Ôi chao! Khỏi lo chuyện đó! Việc riêng của mấy thằng già. Việc của chú mày là cứ nói. Nói mau nghe!

          Tuy nói thế, nhưng Song Ma cũng nhất loạt vươn mình ghé sát tai vào mặt Võ Minh Thần, Tửu Chúa cũng ghé luôn. Võ Minh Thần vụt nghĩ ra một mẹo, ghé sát Song Ma, thì thào bằng tiếng Quan Hỏa:

          - Kẻ đeo cái vòng đó từ trong rừng ra đón tàu sang Nam, hắn mặc quần áo chàm, đội nón sụp trán. Nghe hắn bàn với tên đồng hành sẽ đi chuyến tàu đêm nay.

          Xong ghé tai Tửu Chúa dùng tiếng ta thì thầm:

          - Hắn đi hai người, mặc xườn xám. Họ bàn nhau sẽ vượt qua cầu Trấn Phòng, trên toa súc vật hàng hóa chi đó để tránh lính Đông Dương dòm ngó.

          Dứt lời, Võ Minh Thần điềm nhiên xốc hành trang, bảo Quản Kình tính tiền trả, định bỏ đi luôn.

          Cả ba lão dòm nhau, tia mắt hớn hở thoáng nghi hoặc. Lão Ma Khách vùng quát:

          - Khoan, hỏi đã. Chú mày không đánh lừa bọn tao chứ?

          Võ Minh Thần nhướng mày nhìn cả ba lão dõng dạc:

          - Lừa mấy vị tiền bối để làm gì chứ? Chẳng qua tình cờ thấy mấy vị định đánh nhau không đâu, kẻ này mới mách giúp đấy thôi. Nhưng xin chớ tiết lộ.

          Mấy lão lẩm bẩm: "Ờ, nó vô can, lừa làm gì nhỉ". Võ Minh Thần lại bồi thêm búa nữa:

          - Tối nay bọn tôi cũng đợi tàu đêm qua Lào Cai, nếu tiện thấy, xin mách ngầm tiền bối.

          Nói đoạn, hai thầy trò chào ba lão, rời khỏi quán. Cả mấy lão như mấy con thú biết đường đi của con mồi non, mừng thầm hết sức.

          Ra đến ngoài, thầy trò Võ Minh Thần bàn nhau tới ngay ga địa đầu Hồ Kiều hỏi thăm giờ tàu từ Côn Minh đến. Và để tránh bị đám quái lão theo sát, hai thầy trò lập tức ra khỏi Hồ Kiều, tế ngựa ngược đường sắt, đến ga khác chờ tàu.

          Nhưng đêm đó trục trặc, mãi nửa đêm tàu Côn Minh mới chạy tới. Thầy trò Võ mua sẵn vé, cho ngựa chạy lên toa súc vật, toa này cũng có mấy con ngựa, hai thầy trò kiếm luôn chỗ khuất, ngồi thay y phục, giả làm hai chú khách buôn mặc xườn xám. Lại đội mũ che sụp trán, lấy hai cái mặt nạ da người đeo, ngồi vấn thuốc lá sừng bò hút phì phèo, đợi... cá cắn câu. Chàng trai đã chọn Tửu Chúa để nói chuyện.

          Chuyến tàu đêm chạy qua miền sơn lâm hiểm trở, núi đồi trùng trùng nằm bằn bặt dưới trăng sương. Lát sau đã tới Hồ Kiều.

          Hồ Kiều trấn địa đầu cũng nằm giữa núi đồi hùng vĩ, xe lửa lắm lúc bò lên núi như con mãng xà đêm, khạc tàn than bay tung như hoa đỏ khé. Khi tàu thét còi vào ga, Võ Minh Thần để Quản Kình ngồi gần cửa, còn chàng trai vào một xó khuất sau mấy con ngựa. Toa súc vật, hàng hóa tận cuối, ngồi cửa toa có thể trông suốt lên mạn đầu tàu. Quản Kình kéo cửa chỉ để khe nhỏ. Hành khách lên xuống tấp nập, phần đông là Tàu, ít viên chức... Vì mới xảy ra vụ cướp, có cả bóng lính Tàu, phần nhiều chỉ có dãy toa hành khách là nhộn nhịp, dãy toa cuối vắng hoe.

          Hai thầy trò Võ đang sốt ruột chưa thấy Tửu Chúa, bất thần nghe "cạch" một tiếng, cánh cửa phía bên kia sịch mở, Quản Kình dòm lại đã thấy một cái bóng đen đen trắng trắng đứng sững ngay khung cửa tối mò.

          Nhờ khung cửa in trên trời mờ, không cần phải chú ý nhìn kỹ, cũng nhận ra chính người áo đoạn ban chiều trong tửu quán. Lão quét lia cặp nhãn tuyến đỏ khé như mắt thú tìm mồi, nhận ngay bóng Quản Kình ngồi bên kia cửa. Thân pháp dị thường, lão chỉ động nhẹ cây batoong đã xẹt qua sườn mấy con ngựa, đừng xế bên Quản Kình.

          Tia mắt thoáng sáng rực, dòm từ đầu tới chân Quản Kình đúng dáng kẻ Võ tả, y phát tiếng cười khô, hỏi bằng tiếng Quan Hỏa:

          - Sếnh sáng ngồi... ngắm cảnh?

          Vẫn tựa lưng cạnh cửa, Quản Kình ngước nhìn lên, nhe răng cười lạnh lùng:

          - Ngộ ngồi đây coi ngựa! Nị không có ngựa, xuống toa này làm gì?

          Quản Kình nói xong cứ điềm nhiên nhìn ra ngoài trời, con tàu đêm vẫn chạy qua Hồ Kiều hướng về phía cầu Trấn Phòng. Tửu Chúa dòm chòng chọc vào cổ tay Quản Kình, Quản Kình giật nhẹ tay nắm lấy đầu gậy vùng hỏi:

          - Hầy à! Nị muốn gì?

          - À! Quả nhân muốn xem cái vòng nị đeo... coi có phải "vòng càn khôn" không? Có người bảo nị, xườn xám đeo.

          Vừa nói, Tửu Chúa vừa dằn mạnh tay Quản Kình. Dùng đầu gậy hất cổ tay lên, Quản Kình mắng:

          - Muốn coi ngộ cho coi, làm gì như kẻ cướp thế?

          Dứt Long chúa phía sau, chẳng thấy đâu, bỗng nghe quái nữ cười thé lảnh:

          - Hà há! Trai điển! Trai điển bế con gái xấu như quỷ! Không bế gái đẹp! Trai đời người! Nị có tài cán gì dám giữ "của giết người" này? Thôi! Biếu quả nhân, quả nhân biếu lại mấy chục cái vòng khác. Quản Kình trợn mắt:

          - Mậu hẩu! Mậu hẩu! Đồ gia bảo của nhà ngộ, không đổi! Mà nị thích cái vòng này vì lẽ gì à?

          Tửu Chúa vuốt râu:

          - Còn vì lẽ gì? Vòng càn khôn, nị đổi cho quả nhân.

          Quản Kình nói lớn:

          - Ngộ chỉ biết vật gia bảo ông cha để lại. Vật thiêng liêng, không đổi.

          Tửu Chúa trợn mắt:

          - À nói vậy không phải cái vòng của nàng công chúa bị con quái vật đuổi bắt sao? Hà hà! "Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, biến vi càn; càn khôn, càn khôn, nhập càn khôn, hóa vi khôn; càn khôn hữu chủ". Ôi chao! Tính quả nhân đổi chác phân minh, không ưa cướp giật, ăn quịt, nhưng cái món này, nếu nị không đổi, quả nhân đành mượn đỡ vậy, nếu không đứa khác nó thấy cũng ăn cướp mất, phí của quý đi.

          Võ Minh Thần ngồi thu mình một xó, nghe y nói đến câu "nàng công chúa lúc bị con quái đuổi bắt", bỗng giật hẳn tim, mừng khôn xiết vừa toan lên tiếng, đã thấy Tửu Chúa đưa đầu gậy thọc vụt vào ngực Quản Kình.

          Thủ pháp y lẹ như chớp, nhưng Quản Kình lúc này bản lĩnh đã cao đưa tay gạt "bịch" đầu gậy sang bên, nào dè y đã sà vụt xuống túm ngay lấy cổ tay Quản Kình, Quản Kình tay nắm gậy tay kia đảo nửa vòng túm lại cổ tay y. Tửu Chúa vận sức, túm ngược lại, cười khà:

          - Nị này có "nghệ" à! Nhưng chú mày không địch nổi quả nhân đâu, để quả nhân "tia rượu mời", nị có thể bán thân bất toại à! Chớ có dại à!

          Quản Kình phóng chân đá, Tửu Chúa vừa ấn tay gậy cản, Võ Minh Thần đã từ xó tối toa xẹt tới sau lưng, thọc vụt đầu ô vào gáy, quát:

          - Khoan! Đứng im! Huyệt này đường máu chạy lên đầu, ấn nhẹ đứt mạch máu liền. Tửu Chúa giật mình, đứng lom khom, hét chìm:

          - À giỏi! Chú nào bế điện lừa quả nhân, giỏi à! Muốn gì?

          Khô giọng, vẫn dằn lời:

          - Muốn hỏi về con quái đuổi bắt người đàn bà... mười bảy năm xưa rồi hạ sát người ấy vô cùng thê thảm.

          Tửu Chúa vẫn ghìm Quản Kình, cao giọng:

          - cảnh này. Thầy Phú Sĩ có tật "xấu máư' hễ đụng chạm mành quá, thì thầy "giương" lên bất tử. Để Che dấu chuyện "nổi loạn bất hợp pháp" của "người bạn đời,, mặc dù nằm phía trong quần, điển về động với cô! Hé hé! Cô chưa gặp đứa con trai nào đẹp như chàng.

          Võ Minh Thần thu mình bồng quỷ nữ trong lòng khiên kép, chưa kịp phát cử động mụ công chúa đổi cái vòng, mụ lại lừa quả nhân, đưa vòng giả! Đáng đời, mụ bị con quái bắt đi.

          Võ Minh Thần nghĩ thầm:

          - Xem thế này, ông già sâu rượu không phải thủ phạm, ta nên thủ lễ, chẳng nên gây chuyện đánh nhau.

          Bèn dịu giọng dùng tiếng Kinh bảo:

          - Mỗ đây là con người đàn bà đó. Mười bảy năm lưu lạc mới về, muốn tìm lại kẻ thù, xin tiền bối miễn thứ, cho mỗ hỏi vài điểu!

          Tửu Chúa bỗng cười thét:

          - Nói láo! Nàng công chúa bụng to vượt cạn chạy trốn, đẻ rơi bên Hồ Ba Bể đẻ đứa thị mẹt, chú mày giọng Thổ ồ ồ, giống đực, dám nhận càn, bịp quả nhân sao?

          Võ Minh Thần sững sờ, ngơ ngác, "à" một tiếng, thu luôn dù về, khẽ thở dài:

          - Nếu vậy, không phải vụ thảm sát trên biên thùy rồi. Khi xảy ra tai nạn, kẻ này đã lên hai mươi mốt. Xin tiền bối miễn trách.

          Tửu Chúa nhổm xẹt vụt sang bên, quay dòm Võ chòng chọc. Quản Kình cũng đứng lên. Tửu Chúa trợn mắt hỏi:

          - Mà nị là đứa nào mới được chứ! Ôi chao! Chí ngu! Chí ngu! Hai đứa mày chính là hai chú Thổ Quảng Tây Cao Bằng Thổ Tàu Thổ ta hồi chiều trong quán rượu. Quả nhân già đời bị bọn mi lừa rồi.

          Võ Minh Thần chắp tay tạ lỗi, hỏi chuyện "con quái đuổi nàng công chúa", lão vua rượu kể qua vụ Giao Long Chúa bắt người đàn bà họ Bạc, đi với chồng, lúc đó chàng trai mới biết có sự trùng hợp về nạn quỷ, cùng "xảy trong" năm đó, nhưng nhân vật, địa danh khác hẳn. Mẹ chàng bị nạn trên biên giới phân mao, hung thủ là con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, còn người công chúa họ Bạc Tây Bắc kia bị nạ Giao Long Chúa dưới Hồ Ba Bể.

          Nhưng có một điểm trùng hợp rất đáng chú ý là cả hai con quái tinh đều rượt bắt, ép duyên hai người đàn bà tuyệt sắc, cả hai đều mặc xiêm y miền núi, một người mặc lối Thái trắng, một người mặc lối Thái đen, và đặc biệt nhất là cả hai người bất hạnh đều có con nít, mang một chiếc vòng ngọc xanh điểm huyết!

          Võ Minh Thần còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy Tửu Chúa nói lớn:

          - Hai con quái đuổi bắt hai nàng có hai cái vòng ngọc xanh, nếu vậy đúng hai cái càn khôn rồi! Chú nhỏ mau đưa quả nhân cái vòng kia, quả nhân sẽ giúp một tay đi tìm con quỷ bốn chân cho.

          Võ Minh Thần từ tốn:

          - Vòng kia dính liền đến thân thế kẻ này, rất tiếc chưa thể biếu tiền bối được. Tửu Chúa trợn mắt

          - Ồ... quả nhân đã kể cho chú mày nghe chuyện quỷ ngàn vàng rồi quả nhân không tiếc, chú mày lại tiếc cái vòng ư? Đổi chác phải sòng phẳng chứ.

          Võ nghiêm mặt:

          - Kẻ này chỉ còn cài vòng này để đi tìm nguồn gốc, dẫu thác chẳng dám rời tay, xin tiền bối hiểu cho.

          Tửu Chúa cứ nhất định đòi vòng, bất thần vung tay chụp Quản Kình, chưa tuột lấy vòng, Võ Minh Thần xẹt lại chặn ngang. Cả bốn cánh tay dính vào nhau, Tửu Chúa cười thét:

          - Hà hà! Chịu biếu vòng xanh hay "uống rượu tía"?

          Không nao núng, Võ lạnh lùng:

          - Vô thù vô oán, mỗ đây chẳng muốn hại người! Nhưng nếu tiền bối dùng đòn độc tia rượu, mỗ cũng buộc phải dùng đến "Khẩu phong lôi".

          Quản Kình rút cổ vào, khép thêm cánh cửa. Tửu Chúa đi vô không nổi, lại không dám dùng đòn độc, lão đâm cáu, dọa:

          - Ngốc tử! Không cho trẫm mượn, trẫm gọi hai ma vào... chia! Nó đánh đòn hội chợ, thầy trò nhà ngươi mất mạng à!

          - Không sao! Tiền bối cứ gọi vào đây! Mỗ chỉ kêu lên một tiếng, hai ma sẽ xúm lại đòi tiền bối cái vòng vừa đoạt.

          Lão sâu rượu nổi giận vùng lấy tận lực áp đảo Võ, miệng hét, nhưng vẫn không dám hét to, chỉ chực lôi Võ vào xó tối:

          - Loạn ngôn! Sao dám đặt điều vu cáo? Trẫm còn đang vật lộn với ngươi, chưa sờ được cái vòng, giữ hồi nào, dám láo.

          Võ Minh Thần chợt nảy ra một kế, vùng ra hiệu cho Quản Kình. Quản Kình rút phăng cây súng Saint Etienne trong mình ra, giơ cao, tiến lại gần Tửu Chúa, khẽ giọng:

          - Nếu không chịu bỏ tham vọng, mỗ cho "chó lửa" này cắn liền, chớ trách.

          Hai tay còn mắc dính tay Võ, lão vua rượu phát hoảng lùi lại mắng. Quản Kình sấn tới định nện báng súng, Võ cố đẩy ra bên cửa.

          Tửu Chúa rít trong cổ họng:

          - Thằng ngốc! Đóng hết cửa lại cho trẫm.

          Võ Minh Thần nãy giờ vẫn nhè cơ hội chợt thấy lão vua rượu nghiêng nghiêng dòm ra, chàng trai thừa cơ lão mải lùi sợ Quản Kình nện báng súng, bất thần hét một tiếng to như sấm cốt để "đoạt khí" địch thủ theo lối võ sĩ đạo Phù Tang, và chàng trai dùng luôn một thế võ "Judo" Nhật pha cả thế võ đô vật Việt Nam gánh phăng lão vua rượu lên vai, lưng, quăng nghiến ra ngoài cửa toa.

          Bị cú "xin âm dương" quá bất ngờ, lão vua rượu không kịp đề phòng, hóa giải, Võ lại xoay đòn nhanh như chớp, lão chỉ kịp kêu "ối" một tiếng, cả thân hình đã bị ném bổng ra ngoài, lúc này xe lửa lại đang bò qua cầu, cầu Trấn Phong cũng hẹp, Võ lại dùng tận lực, sợ lão bị quật vào thành cầu, nên lão bắn vòng cầu hàng mấy thước, vọt qua thành cầu hổng, rớt xuống sông vun vút, coi không khác tay lực sĩ từ trong toa nhảy ra theo lối "pê - ri - lơ Thụy Điển".

          Rất nhanh, Quản Kình nhảy vọt ra chảy đuổi theo bám thành cầu, tru tréo líu lo tiếng Quảng Đông:

          - Thổ phỉ! Thổ phỉ ăn cướp! Nó cướp cái vòng ngọc của ngộ! Tỉu nà thằng ăn cướp.

          Trên toa súc vật, Võ Minh Thần cũng nhảy xuống theo, Quản Kình làm bộ tiếc của định nhảy xuống sông, Võ giữ lại, tàu chạy chầm chậm, hai người vừa chỉ trỏ, chạy dọc thành cầu. Quả nhiên, trên nóc toa có tiếng hét:

          - À! Sâu rượu! Sâu rượu nhảy xuống sông? Nó vớ được vòng rồi!

          Song Ma nhất tề nhảy vèo xuống như con cắt, kẻ bíu thành cầu dòm xuống sông, kẻ túm vai thầy trò Võ, hét:

          - Đứa nào đó?

          - Hầy à! Ngộ đang ngồi ngủ gật, nó qua làm quen, nó tuốt cái vòng ngộ đeo, nó nhanh như con cáo! Cái vòng gia bảo... ngộ... ngộ phải đi trình các quan Tây quan Tàu...

          - Tỉu nà cái nị! Sao không lên toa hành khách... để nó cướp giật? Tỉu nà!

          Dưới sông trăng, cái bóng đen, trắng đã rớt "tõm" giữa vùng nước đầy hơi trắng. Tửu Chúa quả tay cao nghệ đã kịp giang tay hạ xuống đứng lên chùm bầu vẫn đeo lủng lẳng.

          Song Ma càng tin Tửu Chúa đã đoạt vòng "chẩu", lẹ như chớp cả hai nhảy véo véo xuống sông như bầy chim bói cá. Hành khách trên các toa thò cả đầu ra, dòm, kêu, chỉ trỏ, cho là ma quái, lính gác cầu cũng sổ ra dòm, tàu chạy xình xịch, thầy chém tên lửa vừa chém quái, mở đường định nhảy lên triền, may sao phía bờ hồ, chợt có người đàn bà đi theo vùng cười ré lên nhọn sắc, phất "phạch" đêm biên thùy, phút chốc đã vượt khỏi cầu Trấn Phong, chạy sang đất Lào Cai.

          Đoán chắc đám quái nhân kia thế nào cũng lên bờ đuổi theo Tàu, Võ Minh Thần, Quản Kình nhân khi xe lửa chạy qua ga Lào Cai, hai thầy trò cõng cả ngựa, nhảy luôn xuống đất, ung dung kiếm quán nghỉ ngơi qua đêm...

          Ngay sáng sau, hai người rơi Lào Cai, dùng thượng đạo xuyên sơn qua Hà Giang vượt mấy rặng Si Công Linh, Pi A Ya, sang đất Cao Bằng tìm đến vùng xảy ra cuộc thảm sát mười bảy năm xưa.

          Vùng người mẹ Võ Minh Thần bị nạn quỷ tinh nằm giữa vùng Trùng Khánh Sóc Giang, tận biên phận phân mao hoang dã, hai người theo lời Chúa núi Mã Đầu căn dặn, tìm được tới chỗ gốc cây tùng xưa, gần con suối cũ. Mười bảy năm qua, rừng núi biên thùy như cũng già đi, nơi gốc tùng, cỏ mọc xanh um, bờ suối cũng đầy hoa dại, đặc biệt con đường mòn xuyên sơn hình như lâu lắm không có người qua lại, cỏ mọc cao bằng đầu.

          Suối tuôn lơ lửng, vô tình, bốn bề quạnh quẽ vắng lặng, chỉ có tiếng gió rào cành lá, chim kêu vượn hú, gà gáy hoẵng than, ngơ ngác, miền biên giới đìu hiu cô tịch hoang liêu... chẳng thấy bóng quỷ sứ biên thùy đâu, cũng chẳng còn lấy chút di tích của người xưa lưu lại. Tất cả như đã bị thời gian vùi xóa, thời gian xóa hết, chỉ còn niềm lẹ như chớp, chàng trai nhảy luôn sang một mỏm đá bên hữu cách bảy, tám thước.

          Nào dè, Giao Long chúa chỉ chờ có thế, Võ vừa nhảy vọt ra khỏi miệng theo.

          Võ Minh Thần đem xác ướp mẹ ra đặt ngay dưới gốc cây tùng, thắp hương khấn vái, cầu oan hồn từ mẫu dun rủi cho tìm thấy gốc nguồn, kiếm được quân thù báo oán.

          - Con quyết rửa nhục hờn cho mẹ! Thân xác này của mẹ sinh ra, con xin dâng báo cừu đem máu tẩy oan, con sẽ giết loài ác quỷ bắt con tinh chúa cáo tế vong hồn mẹ.

          Khấn xong, lại bỏ xác vào khăn gói đeo lưng, Võ Minh Thần cùng Quản Kình lần khắp mấy dải rừng thung biên địa, lưu lại biên giới suốt hai đêm đi lang thang vẫn chẳng thấy gì lạ.

          Hai thầy trò bèn bàn nhau lần về chốn cũ Cao Bằng, tìm viên giám binh xưa, không thấy, hai người liền xuống thẳng Bắc Kạn. Ngày kia! Buổi chiều xuân trọng đìu hiu, hơi rừng thượng du đất Bắc còn vương cái lạnh cuối mùa, hai người dừng cương bên bờ Hồ Ba Bể.

          Hồ Ba Bể vốn là thắng cảnh Việt Nam, thường hàng năm lôi cuốn rất nhiều du khách tới, nhưng chỉ hay ngắm cảnh về mùa hè. Dạo này, mới là độ trọng xuân, vùng hồ chiều vắng vẻ người qua lại.

          Thầy trò Võ Minh Thần tới bên hồ thấy cảnh sơn kỳ thủy tú muôn hoa đua nở trong lòng cũng thư thái nhiều phần. Bèn cho ngựa lững thững bước một quanh hồ, nhìn khắp nơi không thấy một bóng thổ dân nào, hai người cứ tiếp tục đi sát bờ nước, dừng lại bên phía nam hồ, đưa mắt ngắm trời nước mênh mông.

          Bỗng có tiếng ai gọi líu lo phía sau:

          - Hai ông cưỡi ngựa kia!

          Hai người ngoái dòm lại, thấy một lão Mán cưỡi một con ngựa thồ nhỏ bé dừng ngoài đường mòn vẫy, hai người bèn tiến ngựa ra, ngạc nhiên chưa kịp hỏi, lão Mán trợn mắt nói luôn:

          - Hai ông khách chắc mới Cao Bằng xuống? Chiều sắp tối rồi, đứng ở bờ hồ này nguy hiểm! Con ma con quái nó nhảy lên lôi xuống hồ ăn thịt cả người ngựa.

          Hai người vội hỏi, lão Mán tiến lại gần vẻ dáo dác sợ sệt cho hay: Cách đây khoảng mười bảy, mười tám năm trước bỗng có nhiều giống người giống quái kéo tới Hồ Ba Bể làm kinh thiên đảo địa rồi biến đâu mất. Từ đó thỉnh thoảng lại có một vài người đi chơi hồ mất tích, đêm đêm lại có bóng ma bóng quái dị hình dị thú lượn khắp trên bờ dưới nước khiến du khách không dám đến xem thắng cảnh, cả thổ dân quanh miền cũng chẳng dám tới gần.

          Như thế đến hai, ba năm, lâu rồi không xảy chi lại, thiên hạ lại tới Hồ Ba Bể đông như cũ, suốt mười mấy năm không thấy chuyện gì. Nhưng cách đây hơn tháng, bỗng khắp miền thường xảy ra những vụ mất tích khói đen, chợt có tiếng sáo véo von vọng ra, nổi chìm quái gở nghe không khác tiếng ma kêu quỷ khóc trong sương mờ trăng lạnh. Giao Long thần đảo mắt dòm ra lên hai, ba hình thù quái đản vồ nghiến mấy cô gái trẻ đẹp nhất bọn, nhảy xuống hồ mất dạng. Có người thoáng nhìn được hình thù quái, nhận ra nó dài lê thê coi tựa con rồng, con rắn chi đó, đoán là giống thuồng luồng.

          Có một lần, mới cách nửa tuần trăng, chính lão có việc về qua, khoảng tám giờ đêm trăng thượng tuần, cũng vừa đến khu rừng nãy, chính tai lão nghe văng vẳng có tiếng đàn sao dưới hồ đưa lên, tưởng du khách, lão rón rén lần ra sát lợi nước, thấy chỉ một loáng mắt, chàng tuổi trẻ đã nương đường dao chém khiên che, vượt qua vùng tên giáo thủy quái, lao như gió ra khỏi tử địa". Ngoảnh trông lại thấy ánh lửa xa dần, Võ bỗng chột lòng, nghe văng vẳng từ dưới hồ có tiếng âm âm chờn vờn đuổi theo ma quái:

          - Nhỏ con! không phải người chèo đò, mà là một giống quái thú. Lúc đó lão mới hay đó là con thuyền ma quái, lão sợ toát mồ hôi chạy mất.

          Tiếng đồn về tận Bắc Kạn, lính khố xanh có phái đội tuần tiễu tới cắm trại ngay bờ hồ để trấn êm, dò la, nhưng chỉ một đêm, cả một đội hơn bốn chục tay súng bị mất tích gần hết, còn vài kẻ sống sót chạy luôn về tỉnh.

          Từ ngày đó, không ai dám bén mảng tới khu hồ này, đến nỗi mấy cái quán bán nước cho du khách quanh vùng phải đóng cửa gần hết, một hai quán chỉ bán tới ba, bốn giờ chiều, cứ từ hoàng hôn đến sáng hôm sau, cả đến dân Kinh, Thổ quanh miền cũng chẳng ai dám tới. Lão Mán này ở xế Tây Nam hồ, có việc đi Bắc Kạn về qua thấy bóng người, đoán khách phương xa, nên mau miệng gọi bảo cho biết hầu tránh tai nạn bất ngờ.

          Nghe qua chuyện lão Mán, Võ Minh Thần nhớ ngay tới chuyện bị đòn tinh! Lấy ngựa mau!

          Hai thầy trò chạy về chỗ buộc ngựa. Nhảy vọt lên yên, Võ Minh Thần hỏi nhanh:

          - Sao... dưới Giao Long thuyền?

          - bất thần giữa cảnh hồ chiều vắng lặng vùng nổi lên từng tràng cười the thé nhọn hoắt rồi lại đến tiếng kêu rú lê thê chẳng khác gì tiếng ma quỷ rên rỉ dưới mộ địa, âm dị từ phía Tây Bắc xế vọng đưa lên khi gần khi xa, nổi chìm đứt nối cực kỳ quái gở, mặt vùng thất sắc như gà cắt tiết, lão Mán rung giọng kêu líu lưỡi:

          - đem cô gái quỷ này về Bắc Kạn trước.

          Dứt lời, không đợi Quản Kình kịp đáp, Võ xẹt tới, trao luôn cô gái quỷ cho y và lập tức giật cương, phi vẻ kiệt sức, mặc con thú dại, kêu rống lên cực thảm:

          - Mười mấy năm tu luyện, không trả được thù sâu... Ôi! Cha đâu? Mẹ đâu? Sức con đã kiệt rồi còn đâu?

          Tiếng kêu thống thiết động đến tai chàng họ Võ, làm Võ rúng động tâm gan, bỗng thấy thương bóng quỷ nữ kia vô cùng.

          - Ôi! Gái quỷ kia kiệt sức lắm rồi! Ngoài kình phong hình như nàng ta còn bị liễm cả yêu khí nữa. Luồng huyết khí hình chân vuốt Giao Long vô cùng lợi hại, sức người chịu đựng không phải dễ. Gái quỷ, Giao Long kia là hắc ám vật hay giống quái nhân quái vật, chưa rõ, nhưng cứ nghe tiếng gái quỷ kêu rống rõ ràng nàng ta có cha mẹ thân nhân bị chết dưới vuốt Giao Long chúa! Cha mẹ mình cũng thác oan vì loài tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, đồng bệnh tương lân, nay gái kia sắp bị con quái ăn thịt, lẽ nào mình chỉ nấp nhìn? Nhưng còn chiếc Giao Long thuyền kia, bên trong rõ có bóng người. Lạ thật! Làm cách nào lần tới coi mới được.

          Đang nghĩ ngợi phân vân, nửa muốn nhảy xuống cứu nữ quỷ, nửa lại muốn mò tới cạnh Giao Long thuyền thám thính, Võ Minh Thần sực nhớ tới Quản Kình vẫn nấp đợi xa xa.

          Vốn có sức hơn người, nhờ viên chúa Mã Đầu Sơn cùng Voòng luân phiên rèn luyện, truyền bí thuật, Quản Kình ngày nay tài nghệ đã vượt khác xưa, có thể lãnh việc thám thính được.

          Cả mừng, Võ Minh Thần vừa quay lại định giả cú mèo rúc gọi, vừa may Quản Kình đã bị óc tò mò thôi thúc, đang nương bóng tối men lại.

          - Lạ dữ à! Con tinh thuồng luồng thần hồ Ba Bể yêu thuật gớm ghê, súng bắn không chết! Gái quỷ kia sắp bị nó ăn thịt rồi! Cậu hai!

          Võ quài tay nắm Quản Kình kéo nằm xuống "xuỵt" trỏ xuống hồ thì thào:

          - Chiếc thuyền ma quái vừa giờ vẫn đậu trong đám khói mù. Trong thuyền chắc có nhiều cái lạ, Vậy khi tôi nhảy ra đánh với con thuồng luồng tinh, chú mau tìm cách lặn lại gần chiếc thuyền quái xem sao.

          - Cậu hai định liều mạng? Chà, phải cẩn thận! Con tinh thuồng luồng quyền lực phi phàm.

          - Biết! Nhưng gái quỷ kia sắp nguy rồi, không thể đứng nhìn người bị nạn mà không cứu.

          - Chắc nàng ta có phải người không? Cậu hai không thấy mặt mũi nàng ta sao? Hai cái nanh chìa... coi dễ sợ...

          Quản Kình vừa dứt lời, đằng ghềnh đá, con beo đen đã cất mình nhảy vọt lên bờ, nào dè Giao Long chúa quả lợi hại phi thường, không chút vội vã, Giao Long chúa cười ré khủng khiếp, thò chân trước chụp một cái. Nghe "bùng" một tiếng, thầy trò Võ Minh Thần nhìn lại đã thấy cả quỷ nữ lẫn con beo cùng rống lên, quỷ nữ bắn lộn xuống nước cách bờ chừng hai sải, con beo đen theo đà chồm mạnh sa "huỵch" xuống nền ghềnh đá.

          Cả hai cùng bị đòn kình, nhưng xem chừng con thú nhẹ hơn, vừa rớt xuống, nó lăn đi mấy vòng, chồm luôn dậy, nhảy sổ lại gần bờ nước, kêu rống lên lồng lộn kiếm chủ.

          Quỷ nữ rớt "bõm" xuống hồ nước, thu hết toàn lực quẫy nước bắn mình lên nhưng đầu choáng mắt hoa, sức suy kiệt, nàng ta chỉ chồm lên khỏi mặt nước vài gang lại sa xuống, thở hộc, nghiến răng ken két trỏ mắng Giao Long phều phào, con beo đen nhảy tót xuống cõng chủ lên lưng. Giao Long chúa cười the thé:

          - Quỷ cái! Mị chịu sao nổi đòn bản mệnh Giao Long chúa? Đêm nay chính mi tới nộp mạng, mặt mày xấu xí, Giao Long chúa không dùng được. Dải nô! Thưởng cho mi con mồi cái đó! Con beo đen bắt về chúa nuôi có việc.

          Lạ thay! Con dải khổng lồ dưới chân Giao Long chúa nghe chủ truyền, nó như hiểu rõ, lập tức phát ra một tràng rít âm quái dị gai gai, nó lừ lừ bơi tới rất ung dung, há hốc cái mõm ngoác đỏ lòm phun nước phì phì, thoắt đã trôi lại gần quỷ nữ, con beo đen cõng chủ vùng thường, vội ra hiệu cho Quản Kình tạt vào quán gọi gọi cửa. Người ra mở phên cửa là một lão Kinh lai Mán. Vừa thấy Quản Kình bồng cô gái quỷ vào, đã kêu lên sợ hãi:

          - Ôi chao! Quỷ dạ xoa! Dạ xoa đêm ngóc cả thân hình bánh xe lên khỏi mặt nước, lắc lư phì phì mép dải mồm loa coi giống con rắn hổ mang bành sắp đớp ngóe. Chỉ một tíc tắc, quỷ nữ sẽ vào bụng quái, bất thần từ phía tả, có một bóng người bắn vụt lại như con chim cắt theo tiếng quát sang sảng tựa chuông đồng:

          - Yêu quái nghiệt súc kia không được hại người.

          Tiếng quát kéo lê vút trong không khí, tiếp theo liền một tiếng "soạt" mạnh như xé lụa, từ phía bóng kia bay vụt ra một luồng sáng bạch cầu vồng sáng chụp xuống mõm con dải quái, ngay khi bóng kia còn lơ lửng trên cao.

          Phập! Chát! Nhanh như điện, luồng sáng cầu vồng chém trúng mõm, răng con dải, phạt bay luôn một mảng răng lợi mép, khiến con quái khổng lồ rú lên vang động, ngậm luôn mõm lại, máu phun phì phì. Con dải đau quá từ từ chìm xuống, rất tinh khôn, con beo đen xé nước chạy. Sự việc xảy ra nhanh như cơn lốc, đến nỗi Giao Long đang ngồi lưng dải cười the thé vừa nghe tiếng quát, dòm xuống, dải đã bị thương gục mõm, nỗi giận xung thiên, Giao Long chúa vùng múa vuốt, đảo đầu, quét lia nhãn tuyến hét như sấm:

          - Đứa nào dám chém dải nô của chúa thần hồ?

          Véo! Luồng sáng bay sạt đầu Giao Long, vụt tắt, bóng người hạ xuống ghềnh, hiện ra một chàng trai mặt đẹp như trăng rằm, lạnh như nước đá, hai con mắt xanh biếc, mày xếch ngược mười phần uy vũ, trên tay còn kẹp một thanh liễu diệp đao sáng rỡ: Võ Minh Thần! Chàng trai trẻ tuổi hô lớn:

          - Cô... quỷ áo đen! Cứ rút khỏi vùng tử địa, đã có mỗ chặn con tinh thuồng luồng!

          Giao Long chúa hú lên dữ tợn, giục dải rượt theo quỷ nữ:

          - Quỷ cái! Mi trốn đâu thoát? Thằng con nít kia, mày tới số, dám chọc giận thần hồ!

          Không chút nao núng, Võ Minh Thần trỏ quát:

          - Dừng lại! Không ta chém!

          Con dải phì phì, nhưng lúc này nó có vẻ thấm đòn, lướt đi đã nặng, Võ Minh Thần nghĩ thầm:

          - Tiên hạ thủ vi cường! Giờ nó còn cách ba mươi bộ, chém vừa "đẹp"!

          Véo, liễu diệp đao xả vụt xuống, phạt dọc mõm dải cách mấy bộ, bỗng thấy Giao Long chúa thò vụt chân vuốt ra vồ đao nhanh như cắt. Keng! Liễu đao chém trúng luồng huyết khí, phát tiếng khô giòn, bật dội lại đến hai sải. Võ Minh Thần thấy toàn thân rúng động, Giao Long chúa cũng rút tay về, luồng huyết khí hình chân vuốt cũng biến mất.

          Nhanh như điện, chàng trai họ Võ thả luôn tay trái, tay phải đảo phóng vụt dưới bụng, Giao Long chúa cũng lại thò hai chân vồ lẹ ghê gớm.

          Nào ngờ quỷ nữ đã vung tay gạt phắt tay Võ ra, nhảy xuống ghềnh đá, lảo đảo, thở dốc, trợn trừng hai con mắt, mắng lớn:

          - Tên nhóc con! Sao dám sờ vào vai ta? Ai khiến mi xem vào việc riêng của ta? Mi giống đực hôi thối, mó vào đàn bà không biết xấu hổ ư? Tên đực khốn kiếp này! Bị mắng, chàng trai thất kinh trố mắt dòm quỷ nữ, ngơ ngác như vừa trên cung trăng rơi xuống, chàng trợn mắt kêu ấp úng:

          - Ơ...ơ... cô... cô... quỷ sao thế? Mỗ đây lòng thành cứu cô quỷ bị nạn mà...

          Quỷ nữ rít lên, giận dữ:

          - Ta khinh tởm mi, giống đực khốn kiếp! Đứa nào cũng dâm ô bẩn thỉu, thấy giống cái như mèo thấy mỡ. Giống đực người, giống đực vật, giống nào cũng vậy! Ta đã thề moi gan mổ ruột cắt giống bọn mi!

          Võ Minh Thần hết sức kinh dị, cho là gái quỷ phát điên, chàng trai trố mắt dòm gái quỷ, lúc này đứng gần mới trông thấy rõ mặt, môi bầu nanh chìa, sẹo bóng, coi càng phát gớm.

          Thông thường, người ta dễ có thiện cảm với người dị tính đẹp và cử chỉ tử tế, hy sinh nhiều khi cũng bắt nguồn phần lớn từ đó, vì xưa nay, người càng văn minh càng ưa cái đẹp, hiếu sắc. Nhưng Võ Minh Thần từ nhỏ toàn sống với rừng thiêng nước độc, nghiệt số biến chàng trai thành cô độc, từ hạ sơn, đầu óc chỉ nghĩ đến nguồn gốc thân thế, thù nhà, nên khi thấy một kẻ ôm nặng thù nhà, chỉ thiết lấy gan báo oán cho phụ mẫu, chàng trai chỉ thông cảm chuyện đó thôi, không hề để ý tới dung mạo, dị tính, đồng tính chi cả. Nhất người đồng cảnh, lại sắp nguy dưới móng vuốt loài tinh chúa cũng giống yêu quái như con tinh Hồng Cẩu Quẩy hại cha mẹ chàng, nên Võ nhảy ra xả thân cứu nạn không quản hiểm nguy trước Giao Long chúa cực lợi hại này. Chẳng ngờ vừa rớt dưới nước lên lại bị gái quỷ sỉ vả thậm tệ. Chàng trai thu hồi liễu dao, liếc xuống hồ thấy Giao Long cưỡi dải đang lắc lư trôi lại, chàng trai lật đật phất tay ra hiệu, giục:

          - Kìa côhông bị cây rậm, gai góc cản lối.

          Đi liền hàng chục dặm, nhìn lại phía hồ Ba Bể chỉ thấy một vùng quạnh quẽ đồi núi nằm im trong trăng vơi, hai thầy trò mới hạ nước ngựa chạy kiệu băm.
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #6
            Hồi Thứ Sáu - Người Đẹp Hồng Cẩu Quẩy

            Đường khuya rong ruổi, lát sau vừa leo lên một ngọn đồi thưa, chợt một cơn gió rừng thổi vù vào mặt, Võ Minh Thần bỗng thấy tối tăm mặt mũi, lảo đảo muốn sụm xuống bờm ngựa. Hai tai ù hẳn, trong một thoáng giây, tiếng động rừng đêm như vụt lùi về cõi xa xăm nào, chàng tuổi trẻ chỉ kịp la lên một tiếng, rồi tứ chi bủn rủn, đồi núi đổ nhào, chàng tuổi trẻ lăn xuống chân ngựa.

            Bỗng nghe bên tai mơ hồ có tiếng ai gọi mình, giọng trong vắt thánh thót như suối đàn, rõ giọng đàn bà Kinh:

            -Minh Thần! Minh Thần! Tỉnh dậy mau! Chàng tuổi trẻ giật mình mở choàng mắt ra ngạc nhiên thấy mình ngồi trên lưng ngựa, trên ngọn đồi gió, dòm trước sau chẳng thấy Quản Kình đâu. Kinh ngạc, chàng trai vừa toan cất tiếng gọi, bỗng thấy từ đâu trôi đến một đám sương mù dày đặc, lơ lửng dừng lại ngay trước đầu ngựa cách khoảng năm, sáu thước. Trong đám sương mù bỗng có tiếng âm trầm phát ra thỏ thẻ như tiếng chim oanh:

            -Minh Thần! Mau tắt rừng đi lên hướng Cao Bằng! Tính mạng đang nguy, chỉ mấy chục giờ nữa sẽ lìa trần! Đi mau! Đi mau! Gần đây có đường xuyên sơn!

            Giật thót mình, chàng trai nghĩ ngay đến câu đe dọa của Giao Long chúa sau khi vồ trúng lưng chàng, chàng trai vùng kêu lên:

            -Bà... là ai... mà lại biết kẻ này lâm nguy?

            Vầng khói mù lừ lừ trôi lại gần thêm, tiếng đàn bà thánh thót vụt trở nên não nùng khôn xiết:

            -Minh Thần con ơi! Mẹ con đây! Mười bảy năm rồi, hồn oan nương theocây cao bóng mát sương gió canh khuya vật vờ trong cõi u minh, nghiệp chướng nặng nề, chưa thể siêu sinh. Mẫu tử tình thâm, thương con côi cút, mẹ dạt về báo tin dữ cho con hay! Mau lên thẳng Cao Bằng may còn cơ sống sót!

            Nghe tiếng dị xưng là mẹ, chàng mồ côi bỗng rúng động tâm thần, mừng mừng tủi tủi, vùng lên kêu:

            -Trời! Mẹ... mẹ ơi! Mẹ! Từ ngày mẹ thác oan, mười bảy năm lưu lạc, lớn lên, con không nhớ mặt mẹ. Trời ơi! Mẹ đâu? Sao mẹ không cho con thấy mặt? Im mấy khắc, rồi tiếng đàn bà lại nổi lên buồn thảm lạ thường:

            -Âm dương cách trở, ngàn đời cách ngăn. Con chớ hỏi gì! Để mẹ chữa tạm cho con "vết thương oan nghiệt" kéo dài mạng sống mong gặp được thầy hay.

            Tiếng nói giọng Kinh êm ái như xoa dịu tận linh hồn cô đơn của chàng tuổi trẻ mồ côi, khiến chàng trai hốt đánh Vạn. Vạn dựng cây kích xuống, tay trái gạt, tay phải đấm một quả trúng hàm Cừu Mục, vỡ nát đầu óc, răng bắn ghim vào cửa cung như lông nhím. Đoạn hiện lên một bóng trắng toát như vôi.

            Rào cơn gió nhẹ, cái bóng nổi rõ từng đường nét rồi dưới ánh trăng khuya, sực hiện ra thành một thiếu phụ trẻ đẹp tuyệt trần, tuy khuôn mặt dáng thân vẫn phảng phất có một làn sương mỏng che phủ như tấm "voan" trắng, nhưng Võ cũng cảm thấy rõ ràng đường nét đậm đà: Mắt phượng mày ngài, mũi dọc dừa, môi cong, má lúm đồng tiền, cổ cao thon, mặc xiêm y Thái trắng phá lãnh quét gót, gấu thủy ba kim tuyến vàng óng ánh bó sát thân tròn lẳn, đẹp nghiêm trang phúc hậu khác thường, riêng hai con mắt long lanh sâu thăm thẳm và bí ẩn như dòng sông khiến gỗ đá cũng phải mủi lòng như thấy "cả nỗi buồn số kiếp oan tình thê lương trùm thiên địa khôn nói nên lời".

            Vừa thấy thiếu phụ, Võ Minh Thần chợt mang máng như đã gặp đâu rồi, hình ảnh mười bảy năm xưa in sâu trong tiềm thức đứa bé lên hai vụt dậy. Chàng tuổi trẻ vùng kêu "mẹ, mẹ" vọt luôn ngựa tới, định sà ôm lấy. Thiếu phụ đưa hai tay như đỡ lại, ngựa đã chồm lên đứng hai chân sâu, hạ xuống, mãi khắc đó Võ mới để ý thấy trước mặt chỉ là vực thẳm vì ngựa đứng chênh vênh chỏm núi.

            Chàng trai vừa toan gọi nữa, tự nhiên lưỡi như cứng đơ không sao nói được nữa, toàn thân tê dại, chỉ đứng giương mắt nhìn. Thiếu phụ nhè nhẹ lướt đến bên cổ ngựa, đứng ngó chàng sâu thăm thẳm. Dưới trăng rõ ràng cặp mắt phượng từ từ ứa lệ, thiếu phụ đi ra phía sau lưng chàng.

            Võ cảm rõ có bàn tay mát dịu xoa vào lưng chàng, dưới gáy chừng nửa ngón tay, nhưng không ngoái trông lại nổi. Độ mấy khắc, thiếu phụ lại đi ra phía trước, đứng ngay đầu ngựa, ánh mắt chứa đựng đầy vẻ thương mến khổ đau.

            Võ định gào lên, nhưng không sao mở miệng được. Chàng thấy rõ sương mù bỗng đùn lên đầy dần, thoắt đã xóa nhòa hình bóng thiếu phụ, bên tai mơ hồ có tiếng thánh thót như tiếng chim oanh:

            -Minh Thần! Âm dương cách trở... Mẹ về cõi u minh... con mau đi về hướng tắt Cao Bằng! Đi ngay cho kịp!

            Võ ú ớ, sương mù lùi xa dần, bỗng có một bàn tay đưa ra xô mạnh một cái, cả người ngựa lộn nhào xuống vực.

            Võ Minh Thần kinh sợ la lên tiếng lớn, vùng tỉnh dậy, mới hay như vừa trải giấc chiêm bao. Chàng trai mở mắt ra, thấy mình đang nằm trên mặt cỏ ngọn đồi gió, gối đầu lên đùi Quản Kình.

            Thấy chàng tỉnh, Quản Kình bật reo mừng rỡ, mặt mày chưa dứt vẻ lo sợ:

            -Trời cậu hai sao thế? Cậu hai! Tự nhiên cậu hai la lên ngã lăn xuống, may đỡ kịp! Tưởng trúng phong tôi giật tóc lay gọi, vẫn nằm đờ, tôi sờ lưng thấy vết thương rất lạ đúng năm lỗ đỏ chót như chấm son đã tưởng...

            Võ Minh Thần bàng hoàng hết sức, vội nhỏm dậy, kể qua cho Quản Kình nghe chuyện vừa xảy ra... như trong chiêm bao. Quản Kình cũng cho là lạ, vội vạch áo giáp tiểu chủ, bật đèn bấm soi lại.

            Áo chàm ngoài, áo giáp trong có một vết búa chém trúng sâu, xế dưới gáy, lại có đúng năm lỗ thủng xuyên qua như năm lỗ khoan dùi rất "ngọt" chạm mặt da in lằn năm vết rành rành.

            Nhưng Quản Kình bỗng bật kêu kinh dị, vì năm vết đỏ chót vừa rồi y thấy rõ, giờ chỉ còn là năm vết đỏ rất mờ như năm vết cắn nhẹ, nhìn kỹ mới thấy.

            -Ồ lạ chưa! Vết đỏ mờ gần hết! Thôi đúng vong hồn bà linh thiêng về độ cho cậu hai rồi! Đằng kia, đúng có lối mòn xuyên Cao Bằng, biên giới ta phải đi ngang ngả đó mới được, chớ lấy làm thường.

            Võ thấy đỡ choáng váng, lưng không còn tê như trước, chàng trai tin là hồn oan mẫu thân về chỉ bảo cho con côi, chàng trai phủ phục xuống vọng thinh không, khấn khứa, nước mắt đầm đìa, càng đau nỗi mẹ thác oan.

            Đoạn gạt lệ, lần túi kiếm linh đơn uống, chàng tuổi trẻ cùng Quản Kình nhảy lên lưng ngựa, đi liền.

            Qua mấy cánh thung đồi, vừa tới gần đầu đường mòn, bỗng thấy phía đường Bắc Kạn có một toán nhân mã lố nhố đi tới, ngựa chạy nước kiệu nhỡ, hai người chưa nhìn rõ bọn nào, vội tránh dạt sang vệ đường, cố ý ẩn sau cây rậm cho tiện.

            Nhưng vừa dạt vào thì toán kia cũng vừa sịch tới, mới hay đó là một toán lính nhà nước khoảng hơn ba mươi người, vừa bộ vừa kỵ, vừa võng, tàn che, trống gióng, loa kêu, tiền hô hậu ủng coi rất lạ mắt.

            Đoàn người tiền hô hậu ủng này đi rất nhanh, thoắt đã gần kề. Dưới trăng, dòm kỹ, coi càng lạ vì thấy có bọn mặc áo nâu, đội nón chóp cầm giáo dài, kẻ che tàn vàng tán tía, túi roi tay thước, bắc loa dẹp đường, lố nhố lại có lẫn lính khố xanh, lính dõng, lính khố đỏ, sắc phục đúng lính nhà nước Đông Dương đương thời. Ngạc nhiên, Võ ghé tai Quản Kình thì thào:

            -Sao lại có đám rước giữa rừng khuya thế này? Cả lính, có cả tàn tán... lạthật!

            Quản Kình nghển cổ dòm, chưa kịp nói chi, bỗng thấy tên lính áo nâu đỏ cao lênh khênh chạy bộ, bắc loa hô vang rền:

            -Phủ... u... ủ phụ... u... ục...! Bái! Tiếng loa đồng rên rỉ canh khuya kéo lê thê khắp cánh thung rừng âm chưa tắt hẳn, đoàn nhân mã kỳ dị đã trẩy tới chỗ thầy trò Võ đứng, cứ nghiễm nhiên đi qua, mắt ngó thẳng. Ngay lúc đó, bỗng một tốp kỵ lực xăm xăm đi tới, dừng trước mặt hai người, dẫn đầu là một người to lớn râu ria xồm xoàm mặc lối quan võ cổ, tay xách cây búa to, dòm hai người, trợn mắt hỏi:

            -Không thấy xe giá chúa thượng giáng lâm sao? Triều bái mau! Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Quản Kình buột miệng hỏi:

            -Chúa thượng nào? Mà ngài là ai?

            Viên tướng cổ râu xồm đảo cây búa lớn tiếng hét chìm như sợ kinh động thánh giá:

            -Khắp thiên hạ thượng du này còn ai không biết, các ngươi ở xó rừng nào không hay? Ta là quan Tư Mã Điện Tiền chỉ huy cấm vệ! Quỳ xuống mau! Xe giá tới nơi rồi!

            Càng ngơ ngác, thầy trò Võ Minh Thần đưa mắt dòm ra, thấy một tốp áo nâu bốn người chạy bộ khiêng một cái cáng gấm lớn, bốn người đều cao lêu nghêu, cái cáng còn có khung cao quá đầu, vắt vẻo trên cao coi như cái kiệu, có mui gấm, hai bên có bốn người che tàn vàng tán tía, sát hai bên lại có mấy cô gái xiêm y rực rỡ khiêng đòn gánh chạm trổ, trên treo lủng lẳng đủ thứ.

            Dọc trước sau tả hữu lại có lính khố xanh, dõng, khố đỏ cưỡi ngựa theo "phò", sau cùng còn có một đội mang đủ kèn Tây trống Tây, đi cùng một đội bát âm đàn sáo kèn Tàu như sênh tiền... v. v... coi càng lạ, tài thánh cũng không đoán nổi đám rước thần rước vua hay một đám rước cổ kim hỗn hợp từ cõi âm lên.

            Nên khi đoàn khiêng cáng tới gần, thầy trò Võ vẫn cứ ngồi nguyên trên lưng ngựa lẩm bẩm: "lạ dữ", "người hay ma", "lính trần hay lính âm", "cái cáng sao bảo xe giá"... Viên tướng cổ trợn mắt quát:

            -Khi quân nghịch thượng tội đáng chém đầu!

            Lời dứt búa đã khua tít bổ xuống đầu thầy trò Võ nhanh như chớp. Võ

            Minh Thần giật mình còn ngơ ngác, Quản Kình đã giơ tấm khiên lên đỡ "xoảng" tiếng lớn, lưỡi búa trườn đi, viên tướng mất đà chúi người, Quản Kình rút luôn gậy xương Mạc thú gạt "chát" cái văng ngay lưỡi búa lên cành cây cắm "phập".

            -Lão này là ai dám chém chủ mỗ? Quen thói nạt người!

            Viên tướng cổ bị mất búa suýt ngã, vừa thẹn vừa giận, vùng lui ra, hét:

            -Phạm xe giá, đánh quan Tư Mã! Quân đâu! Bắt lại! Toán lính nhao nhao xông tới, Võ Minh Thần vùng quát lớn:

            -Dang ra! Bọn ta đã tránh bên đường còn muốn gì nữa? Các chú là binh vua lính chúa thật, cũng phải có phép chứ! Cáng vừa tới, bỗng trong cáng có tiếng người cười nói lớn vọng ra:

            -A, người nào ăn nói nghe được lắm, vừa tai trẫm đó! Bay dừng! Bay lui! Tiếng truyền nghe rất tự nhiên, nhưng đầy oai quyền, sĩ tốt dạ ran, lùi dạt cả lại răm rắp. Cáng gấm tàn vàng tán tía dừng xế trước mặt thầy trò Võ. Hai người dòm vào, mui phủ kín chẳng thấy gì cả. Bỗng có tiếng phát ra:

            -Nhà ngươi là ai đêm hôm khuya khoắt còn lang thang trên đường này? Phải mới từ hồ Ba Bể tới không?

            Hai thầy trò Võ Minh Thần liếc nhìn nhau ngạc nhiên vì chợt nhận ra tiếng vừa nói câu trước đúng giọng đàn ông, câu sau lại đúng giọng đàn bà. Võ từ tốn cũng đáp bằng tiếng Thổ:

            -Quả nhiên đúng vậy. Bọn mỗ đang có việc gấp, cần phải đi liền, xin có lời chào quý nhân.

            Dứt lời, hất nhẹ Quản Kình cùng nghiêng chào, giục ngựa đi luôn. Chợt trong cáng tiếng dị lại đưa ra, lần này lại là tiếng trẻ con léo nhéo, hai người lấy làm lạ:

            -Khoan! Chớ vội! Trẫm hỏi đã! Gặp nhau giữa đường, không duyên cũng nợ, nghe khẩu khí rõ khách hào hoa! Bay đâu! Thắp đuốc lên, quả nhân xem mặt xem duyên hay nợ, vợ hay chồng, ông hay cụ, cú chết hay chim sa, mặt xấu như hoa hay đóa hoa vương giả, kết tinh cặn bã hay kết quả tinh hoa, dòng dõi con nhà hay giống mãng phu ngũ đại!

            Tiếng từ trong cáng hắt ra dập dồn như nước chảy, có vần có điệu như đọc vè, cứ mỗi câu, thầy trò Võ lại giật tim một cái vì cứ mỗi câu lại một thứ giọng, đủ giọng nam phụ lão ấu, giọng Kinh giọng Thổ, êm ái, chói tai, ồm ồm lệnh vỡ, nỉ non tiếng đờn v... v và càng nói càng nhanh, cứ mỗi tiếng lại một giọng khiến hai người tưởng chừng có hàng trăm miệng chõ vào lại cùng nói nghe như chiêng khua trống thúc lệnh vỡ chuông rè, như dùi xiên vuốt cào muốn điên đầu nhức óc.

            Quản Kình chợt biến sắc mặt ghé tai chủ thì thầm:

            -Ôi thôi! Đúng "nó" rồi! Tai họa! Tai họa! Hung thần trăm giọng! Phải liệu cách rút mau! Đúng "nó"!

            Võ nghe bốn tiếng "hung thần trăm giọng" giật mình vừa sực nhớ đến lời chúa Thập Vạn kể về một nhân vật quái gở có cả trăm giọng trăm bộ mặt, chưa ai thấy mặt thật, bỗng nghe "xòe xòe" nhiều tiếng điểm đánh, ánh đuốc đã sáng rực khúc đường rừng, bọn vệ tốt cổ kim dàn hàng ngang tiến luôn lại gần hai người, ánh lửa soi bừng lên mặt, rõ từng chân tơ kẽ tóc. Võ Minh Thần, Quản Kình hơi cau mày, nâng luôn vành khiên lên tận cằm phòng hờ, bỗng nghe trong cáng có tiếng cười thét vọng ra:

            -Ha ha! Hảo tướng quân! Hảo tướng quân! Một chủ một tớ, mỗi người một vẻ xứng bậc trượng phu! Chủ đẹp như Công Tôn Ái, Tử Đô, mặt lạnh như nước đá mà gỗ đá phải mê, tớ mặt đen đủi cô hồn gan lì cóc tía, lấy vợ Dạ Xoa, Dạ Xoa phải sợ! Gặp gỡ giữa đường, ngàn năm một thủa, có nợ nhau rồi! Bay đâu! Đình binh! Tiến tửu!

            Võ Minh Thần đang có việc gấp, vội đưa mắt cho Quản Kình, hai người lững thững men dọc đường, toan bỏ đi, nào ngờ sĩ tốt đã nhích lại, dàn ngang trước ngựa, một ả nữ thoăn thoắt tiến lại gần cúi rạp đầu kính cẩn:

            -Thỉnh công tử hạ mã, thiếp dâng ngự tửu! Võ cứ ngồi nói lớn:

            -Cảm ơn! Bọn mỗ có việc, cần gấp không thể trì hoãn! Xin miễn cho... khi khác!

            Mặc! Mấy ả nữ đã lôi bình vàng chén ngọc xuống rót rượu, cầm tiến lại đứng giữa khoảng cáng và bọn Võ. Ả vừa nói với Minh Thần vừa toan giơ tay cầm chén rượu dâng, chợt tiếng dị trong cáng phát ra trầm khô:

            -Cho lui! Khách kỳ ngộ, đối ẩm, quả nhân ban! Tử Đô! Hãy uống cùng ta chén rượu đào!

            Võ nói luôn:

            -Cảm ơn! Mỗ đang bệnh phải cữ!

            -Rượu vua rượu chúa uống vào bá bệnh tiêu trừ! Nào!

            -Mỗ không uống rượu của người ẩn mặt! Mỗ kiếu!

            -Khoan! Phải uống! Ai gặp trẫm cũng phải uống, không được chối! Bay đâu! Đưa "con trùng rượu" ra đây cho khách coi!

            Từ nẻo hậu, có tiếng "dạ" ran, rồi hai tên lực lưỡng khiêng lên một cái cáng phủ vải điều, đứng xế bên cáng gấm. Chợt mảnh vải điều lật cuộn lên, để lộ trong cáng có một người mặc áo đoạn, đội khăn xếp, quần ống sớ, mặt mũi phương phi, nằm ngáy khò khò, mê man như chết.

            -Y xưng Tửu Chúa, đấu rượu với ta mới có hai ngày đêm, uống có mười hũrượu độc đã gục! Ta phải cho khiêng y từ miệt Phổ Lu xuống đây, vẫn chưa tỉnh đó!

            Nhờ ánh đuốc, thầy trò Võ chú mục dòm nhận ngay ra ra chính Tửu Chúa mới gặp bên Hồ Kiều. Tiếng trong cáng gấm hắt ra:

            -Y đấu thua, từ nay làm đầy tớ, quân hầu y cũng thuộc về ta! Nào!

            -Khoan! "Người" là ai? Nếu không nói tên đàng hoàng, mỗ quyết không thèm uống!

            -Hà hà! Cứ cạn ly đầu, sau diện kiến! Ta cùng nhau có nợ, sao nỡ chối từ? Bỗng thấy mép mui tua cuộn lên, rồi một chén đầy rượu lừ lừ dâng lên bay vù lại đầu ngựa Võ.

            Đã vận sẵn điện công, Võ đẩy phắt lại, cứ thế chén rượu nay qua lại đến chục lần, vẫn không đổ, chợt xẹt lại gần một ngọn đuốc, dốc ngược, rượu đổ luôn vào ngọn lửa, "bùng" một tiếng, lửa bốc cao tận tàn cây, cháy không còn một giọt.

            Võ quát:

            -Vô thù vô oán sao đãi rượu độc? "Vạn độc cường toan tửu", tượng sắt uống vào cũng thủng ruột, định hại mỗ sao?

            Tiếng cười ré lên:

            -A! Giỏi! Ngửi qua đã biết! Uống nổi chăng?

            -Sao không? Nhưng ta đang bệnh không thích "đắng cay ngậm bồ hòn"! Vừa nghe Võ nói xong, tiếng cáng cười ré lên, khoái chí:

            -Ông Tử Đô này còn giỏi rượu hơn lão Tửu Chúa kia. Y biết đủ thứ, lại không biết ngậm bồ hòn uống rượu cường toan. Có ngủ không? Sâu rượu! Dậy coi! Dậy coi!

            Lạ thay! Đang gáy gỗ khò khò, vừa dứt tiếng gọi, người nằm võng bò nhỏm dậy ngay như kẻ ngủ vờ. Mắt nhắm mắt mở, kêu lớn:

            -Ôi chao! Buồn ngủ chết thôi! Đứa nào gọi... phá giấc ngủ của trẫm tội khi quân đáng chết.

            Kêu xong, dụi mắt, định lăn ra ngủ tiếp, nhưng vừa ghé xuống lại lật đật chồm dậy, dáo dác nhìn quanh kêu:

            -Bay đâu! Phải chúa thượng gọi ta? Ôi chao! Ta ngủ ai gọi nổi, trừ chúa thượng! Phải chúa thượng gọi trẫm... úy! Gọi hạ thần có chuyện chi?

            -Quả nhân có khách, mời không chịu uống, quả nhân muốn nhà ngươi mời khách thay cho trẫm! Cứ ngồi nguyên trên cáng!

            Võ Minh Thần, Quản Kình nhìn quả Tửu Chúa không sai, nhưng coi lúc này y chẳng còn vẻ chi là oai vệ tuy vẫn xưng mình là bậc đế vương tửu có ngai vàng, mà coi vẻ xun xoe khép nép không khác một viên lý trưởng đang đứng trước quan huyện, lại nghe y "khải chúa thượng", hai thầy trò suýt phì cười, tưởng coi diễn tuồng.

            Tửu Chúa cúi lom khom, liếc dòm sang phía cáng gấm, vừa nghe dứt, y vùng nói lớn "hạ thần xin lĩnh mệnh", và ngẩng mặt lên, đưa cặp mắt còn ngái ngủ dòm về phía trước, miệng cười nhạt dọa dẫm:

            -Người anh em nào đó đêm hôm khuya khoắt đi đâu có phước được gặp "bực đế vương thánh tửu bách diện thiên âm" cho không uống mà lại từ chối? Uống rượu thua còn được ngủ vài ngày, không uống rượu nghe âm nhạc, ngủ giấc nghìn thu đàng nào hơn chú?

            -Nhà ngươi khoe Tửu Chúa không dám uống rượu cường toan, y còn trẻ chỉ ngửi qua đã biết "đắng cay ngậm bồ hòn" uống rượu át xít thành vôi đó.

            Tửu Chúa chói mắt, giơ tay che ngang mày dòm lia, lúc đó thầy trò Võ cố ý đứng khuất xế sau cành cây rủ, thoạt tiên y tưởng quân hộ tống, chợt lại có hai tên cầm hai ngọn đuốc lớn tiến đến y mới sực thấy dáng áo chàm, khiên loe, giật nảy mình trợn mắt vùng kêu lên một tràng như lệnh vỡ:

            -Y a! Tưởng khách nào, hóa "chú Thổ vòng xanh"! Ôi chao! Chính chú Thổ đeo cái vòng càn khôn đây! Đêm nọ đã ném kẻ hạ thần từ trên cầu Trấn Phòng xuống sông, quỷ quái tinh ma, bà già gặp kẻ cắp! Mặt lạnh hơn tiền, lắm mẹo nhiều mưu, Song Ma đều bị lừa đau hơn hoạn! Ha ha! Trấn Hồ Kiều, đường Bắc Kạn hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, chú mày chẳng chịu. Vô duyên đối diện bất tương phùng, không chịu không xuôi!

            Ngay khi đó, trong cáng gấm, tiếng dị vọng ra đầy kẻ cả:

            -Sâu rượu hoa ngôn uống nhiều nói lắm! Thôi! Cho nhà ngươi nằm ngủ thêm vài ngày nữa. Để trẫm đích thân tiếp món khách quý này!

            Đang nói bô bô, Tửu Chúa im luôn nằm lăn ngay xuống, nhưng y vẫn cố ngóc cổ lên "tâu":

            -Khải... Thổ vòng xanh nhiều mẹo, cao tài. Chúa thượng nếu soi lửa, vạch coi, chợt kêu lên:

            -Lạ dữ chưa! Coi như vuốt thú, mà lại không phải thú. Coi như đòn công, mà không hẳn đòn công. Từa tựa như thứ đòn rượu! Muốn ngủ giấc ngàn thu? Đấu nổi ba ngày ba đêm mới được thấy mặt, đã quên sao? Gáy gỗ!

            Lạ thay! Lời vừa dứt, Tửu Chúa lập tức kêu: "dạ dạ xin tuân lệnh... Gáy gỗ" và nằm thẳng cẳng ra võng, bắt đầu nhắm nghiền mắt ngủ im thin thít, không dám hé, không đầy mười khắc đã nghe tiếng y ngáy khò khò không thua một kẻ vô tư lự nhất đời. Thầy trò Võ Minh Thần bất giác đưa mắt nhìn nhau, càng lấy làm lạ.

            Quái gở! Một kẻ phương phi bệ vệ, cao bản lãnh như Tửu Chúa kia sao có vẻ phục tùng kẻ nằm trong cáng đến thế được, không khác một đứa con nít nghe theo lệnh người lớn vậy, coi chẳng còn gì là thể thống con nhà võ nữa! Chắc kẻ kia phải là tay lợi hại khác thường! Lôi thôi! Làm cách nào rút lui cho êm mới được!

            Đang thì thầm, chợt nghe trong cáng tiếng dị truyền ra:

            -Khiêng xuống phía sau cho ngủ! Quân dạ ran, khiêng luôn cáng Tửu Chúa về nẻo hậu, tiếng khò khò hét chìm. Thầy trò Võ đưa mắt nhìn địa thế, chỗ đứng ngựa là đồi cây rậm, xế phía trước con đường chạy quanh co vào một khu có nương đồi thưa, có thể xuyên được, nhưng bọn này lại cản mất lối vây quanh. Đang tính kế, bỗng lại nghe tiếng dị quát trầm:

            -Đình binh! Kiếm chỗ phong quang sơn thủy! Chúa mời khách uống rượu tương phùng! Lệnh vừa ra, lập tức có tiếng dạ ran, bọn lính cổ lính kim xách súng ống dáo mác chạy như đèn cù quanh chỗ thầy trò Võ đứng.

            Võ tò mò đứng dòm, thấy bọn khiêng cáng cùng đám gái hầu vẫn đứng nguyên, nãy giờ tuy thản nhiên, nhưng Võ vẫn ngầm vận điện công, thình lình thấy nóng mặt khiên, rồi rõ ràng như có một bàn tay vô hình đang trôi trên nền thép "đi" về phía mép khiên, chạm vào khuỷu tay trái. Giật thót người, Võ Minh Thần vội ngầm vận thêm nhân điện, bất thần thấy rõ động ống tay áo, Võ đưa luôn tay phải đẩy vụt một cái, đồng thời đè luôn lên cái vòng đeo tay.

            Bàn tay vô hình rụt ngay lại. Võ đẩy vụt cái nữa, bỗng thấy hết chạm sức nóng, chàng trai liếc nhìn ra cáng gấm, thấy góc mui động nhẹ rõ vừa cuốn hạ xuống. Sực nghe phát một tràng cười lanh lảnh:

            -Sâu rượu nói không ngoa! Đúng khách có vòng xanh! Hà hà! Kỳ ngộ! Khách vòng xanh! Hãy nán uống cùng ta vài hũ rượu, ta có điểm muốn nói cùng khách.

            Ngặt nghèo khó xử. Kẻ bí mật trong càng vừa sờ thấy chiếc vòng tay, giọng người nhu hòa đầy áp lực, bản lãnh y tới mức nào cứ nhìn Tửu Chúa thân bại danh liệt nằm gáy gỗ đủ rõ. Khi theo tôn sư và ngày tới miền Thập Vạn chàng đã được nghe qua một nhân vật thần bí khét tiếng võ lâm nhưng chưa từng thấy mặt.

            Nhân vật này có hàng trăm bộ mặt, nói trăm giọng và bản lãnh cũng lợi hại hàng trăm mặt... Y không tên, không tuổi, thiên hạ không biết gọi bằng gì, chỉ bằng cứ vào "trăm giọng" và lối tự xưng của ý để gọi.

            Nhân vật thần bí này có tính quái gở là rất ghét ai gọi "vương, chúa, đế", ghét luôn kẻ xưng thế, y chỉ thích chữ "quân", xưng "trẫm, quả nhân", nhưng ai muốn gọi chi cũng mặc, không hề nói ra, chỉ biểu lộ bằng hành động.

            Thiên hạ thường gọi y là "ma quân", "thiên diện", "thiên âm" và những kẻ được gọi là "ma quân", "thiên diện"... v. v xưng vương, chúa, đế đều được y mời "uống rượu", không uống, sẽ "nghe nhạc", gục chết như chơi. Ngược lại, nếu gọi đúng ý, dẫu kẻ thù, y cũng đáp lại bằng mấy cử chỉ tốt đó, nếu vô can y lại giúp hết mình. Nhưng rất ít ai biết được ý y.

            Nên giới tứ chiếng coi như một hung thần, thường cứ thấy tàn vàng tán tía nghênh ngang loa dậy là kiếm cách lánh cho xa. Thầy trò Võ Minh Thần không may ngộ hung thần giữa lúc khí lực suy kiệt, tiến thối lưỡng nan, nghe tiếng trong cáng phát ra, lại thấy thủ hạ y chạy như đèn cù, Võ hơi nhíu mày, chưa biết tính cách nào cho ổn, chợt Quản Kình sực nhớ ra điều chi, vùng ghé tai chủ thì thào:

            -Cậu hai à! Nguy dữ! Đúng "hắn" rồi! Sát thần! Bá diên thiên âm quỷ sát ma quân... v. v... lắm tên không kể xiết! Gặp "hắn" là gặp tử thần rồi! Cậu hai đã bị thương, địch sao nổi. Ông Trưởng Sềnh có lần suýt chết về tay hắn đó. Không ai biết hắn là giống gì. Tuy nhiên ông Trưởng Sềnh nhà ta có kể: Hắn có tính lạ hình như không thích người ta gọi "quân" như "ma quân", "tinh quân" là nguy, phải gọi là "thánh quân", "bá diện", "bá âm" đi kèm nữa càng hay.

            Quản Kình vừa dứt, đã nghe tiếng loa rền rĩ không khác tiếng loa đồng dẹp đám rước thần, tiếp theo có tiếng hô "tiến... iến... nhạc... ạc" dõng dạc trịnh trọng không khác quan viên tế đọc "khải trình cô" trước bệ thờ vậy. Tiếng loa rền vừa dứt, chợt "rập"! Người ngựa đứng im phăng phắc, thầy trò Võ nhìn quanh đã thấy ánh đuốc sáng rực cách bên chỗ Võ đứng khoảng bốn năm chục thước, ngay trên một gò đất xế bên hữu đường đi, từ gò đến chỗ cáng đậu, ngựa đứng cũng có lính cầm đuốc, khí giới dàn quanh co như khúc rắn đến tận sau lưng hai người thành hai hàng, chung quanh lại cắm cả cờ coi rất lạ mắt.

            Ngay khi đó, âm nhạc bỗng nổi dậy inh ỏi kèn Tây trống Tây, đàn sáo bát âm, sênh tiền lẫn lộn, trôi theo điệu "Lưu Thủy" nhịp nhàng vang động rừng khuya. Quản Kình xưa từng đi lính nhà nước, nghe buột miệng kêu:

            -Ngộ dữ! Kèn "bú díc" hòa với "bát âm", thổi bài đi tế... cổ kim lẫn lộn. Sực nghe tiếng loa kéo dài, thình lình bọn khiêng cáng nâng vụt cáng lên cao, lừ lừ tiến lại trước mặt Võ Minh Thần, còn cách chừng hai thước tây, chợt mấy ả gái hầu thoăn thoắt bước lại, viên tướng cổ xưng Điện Tiền Tư Mã văng búa vừa nãy cũng dẫn một tốp lính áo nâu nón chóp sấn tới, cùng cúi đầu lễ phép, rồi tốp lính kèm hai bên, cứ thế tiến về phía gò. Cáng đi được hai, ba thước, Võ vẫn đứng yên, chàng trai vụt quát:

            -Khoan! Mỗ muốn hỏi! Đoàn nhân mã dừng lại, tiếng nhạc hạ trầm. Minh Thần nói lớn:

            -Bá Diện Thánh Quân! Mời vào Bát quái Trường xà có ý gì? Nếu không nói rõ, mỗ quyết không vào!

            Im mươi khắc. Bỗng trong cáng gấm tiếng dị vọng ra cao giọng:

            -À khách đeo vòng càn khôn cũng biết ta sao? Hà hà! Khách cưỡi ngựa bắn súng phải lập trận đồ uống rượu mới được chứ! Uống rượu còn nghe nhạc.

            Võ Minh Thần định kiếu bận, nhưng lại thôi, tính cứ thử coi, sẽ tùy cơ ứng biến bèn nói lớn:

            -Bá Diện đã có hậu ý mỗ há phụ lòng! Nào nhập!

            -À có thế! Tiếng nhạc nổi cao, rừng khuya xao động, chim chóc bay tan tác, thầy trò Võ theo cáng tiến lên gò, không khỏi khen thầm tụi phu cáng chạy lên gò nhanh như kiệu bay. Thoắt đã tới đỉnh gò. Đuốc cháy bập bùng, gò khá thưa, đứng trên gò nhìn thấy khu nương đồi nằm dưới trăng vơi, xa xa có ánh lửa nhà sàn le lói trong sương như ngọn đèn ma. Bọn phu đặt cáng xuống dưới một tàn cây, khúc "Trường Xà" đã nhập cả vào bốn "bát quái", lính tráng cổ kim kỵ bộ tràn lố nhố khắp mặt gò, cách Võ khoảng vài mươi bộ. Tên cầm đầu chợt hô:

            -Tiến... tiến... tư... tửu!

            Tiếng nhạc trỗi bài khác, nghe như "đăng đàn cung", mấy ả nữ lăng xăng sửa soạn dâng rượu, Võ thấy tình thế cấp bách vùng nói lớn:

            -Bá Âm thần quân! Nghe tiếng Bá âm Bá diện ai cũng phải sợ! thua. Thấy Đổ Bác Thần thua, ai cũng lạ, chỉ có Đổ Bác Thần và một kẻ nữa biết: Tây Sắc! Vì không ai bịp, nhưng Tây Sắc, Đổ Bác Thần chẳng rõ vô cho trọng thể, khách không thích, ta cho triệt sao đâu! Tư Mã! Giải trận! Xuống! Sĩ tốt dạ ran, nháy mắt đã cắp đuốc, kéo nhau xuống chân gò đứng tụ cả một chỗ. Chỉ còn mấy tên khiêng cáng, che tàn, cùng mấy gái hầu. Nhưng lại có tiếng truyền ra, lũ khiêng cáng cũng rập đầu rút đi nốt.

            Gái hầu ôm ra một vò lớn bằng pha lê, trong đựng một thứ rượu đen kịt như mực tàu. Hai nàng khác cầm hai cái ly lớn, bước lại, tiếng dị trong cáng phát ra:

            -Dâng khách vòng xanh ly đầu mừng cuộc gặp gỡ giữa đường! Võ Minh Thần tuy không phải tay chúa rượu, nhưng ở với tôn sư từ nhỏ, tôn sư vốn tay hay rượu nhất thiên hạ, từng dạy chàng đủ thứ, nên Võ có thể chỉ nhìn qua ngửi thoáng, đã phân tách được loại nào. Chàng lại còn học được thuật uống rượu độc bằng cách lọc thải độc tính, nên cũng không ngán mấy, ngặt trong mình lại đang thọ thương nguy hiểm uống vào bất lợi khôn lường, nên vừa nghe dứt chàng trai đã vùng cao giọng:

            -Cám ơn có hậu tình cho mỗ uống "rượu nhựa sui" nguyên chất, rất tiếc mỗ phải cữ lúc này, xin hẹn khi khác.

            Tiếng dị phát trầm âm:

            -Khách vòng xanh biết được tính rượu, phải biết uống! Bay đâu! Tiến tửu! Võ vùng bảo:

            -Khoan! Tiền chủ hậu khách! Không một tiếng đáp, nhưng cặp gái hầu vừa rót đầy hai ly, chợt mép mui phủ cáng hơi cuốn lên mấy phân, rồi cách khoảng thước rưỡi, gái hầu đội khay đứng im, bỗng thấy rượu trong ly xao động, rồi "chót" tiếng, rượu vọt lên thành một luồng nước cầu vồng nhảy tót vào trong cáng không khác con rắn nước trườn quăng, khiến Quản Kình hơi giật mình một cái, dòm vào ly đã cạn sạch không còn một giọt rượu đen nào. Võ nghĩ thầm:

            -À! Y dùng nội lực hút rượu... hay ma thuật nào? Phải "đánh tháo" mới được!

            Bèn vùng nói lớn:

            -Bá Diện Thánh Quân! Hút rượu không thấy người, đổ đi chán chết! Mỗbình sinh chỉ quen đối ẩm nhãn tiền, uống cách bức bách quả tình không thích.

            Tiếng bí ẩn trong cáng vọng ra rất trầm:

            -Sợ ư? Nãy giờ, mỗi lần phát lại một thứ giọng, mỗi giọng một thổ ngữ nghe chẳng khác trong cáng có hàng chục người Thổ Thái Mán Mèo Mường Nhắng

            Tàu... đủ già trẻ lớn bé nam nữ nằm trong cáng khiến thầy trò Võ Minh Thần càng lúc càng ngạc nhiên, trí tò mò bị khích động hết sức, bất giác nghĩ thầm:

            -Chưa kể bản lãnh, cứ nguyên tài nói thạo nhiều thổ ngữ, giả giọng lắm hạng người y hệt, kể cũng... thánh thật! Bất luận chính, tà, thiện, ác, nhân vật thần bí này tất phải là tay trí xảo hơn người, hiểu nhiều biết rộng. Biết đâu y chẳng rõ vụ con tinh hấp sát mẹ ta mười bảy năm trước trên biên thùy phân mao? Đối diện y, may ra dò hỏi được vài tia sáng không chừng! Tiếc thay gặp y đúng lúc vừa thọ thương, nhưng chưa đến nỗi vong mạng ngay, ta phải kiếm cách lân la trò truyện mới được!

            Bèn nghiêm sắc mặt lạnh lùng bảo:

            -Mỗ bình sinh chỉ biết mỗi cái sợ là giết kẻ vô thù hận! Nhưng chưa hềuống rượu với kẻ nào mà không thấy mặt! Đã gọi đối đãi, đối ẩm, đối đầu hay đối địch, đối thủ... chi cũng phải đối diện mới là bực chính đính. Đối mà không thấy mặt, khác nào uống rượu với cái bóng nói chuyện với tiếng vang, ma quái còn thú gì.

            Có tiếng cười thét trong cáng bất ngờ phát ra một tràng tiếng Tây, lần này là giọng đàn bà thánh thót nghe không khác giọng "đầm":

            -Ha ha! Khách vòng xanh có tài biện thuyết, khéo kiếm cớ thoái thác! Nhưng lệ đã đặt không làm khác được! Phải uống ba ngày ba đêm liền, hết các thứ rượu của ta, nghe thêm nhạc, mới được diện kiến! Không nhìn thấy Tửu Chúa ư? Hắn uống có hai ngày hai đêm đã ngủ vùi, cũng chưa được đối diện.

            Võ Minh Thần giật thót mình. Tuy chàng lìa gia đình từ nhỏ, theo tôn sư đi khắp thiên sơn vạn thủy, suốt mười bảy năm ròng thường ở rừng, ít khi ra phố, nhưng tôn sư chàng là bực thông kim quán cổ, đa tài, đa cảm, biết nhiều thứ tiếng, nên có dạy cả tiếng Tây, một dạo còn gửi chàng học tại Quảng Châu mấy năm. Tuy thông minh hiếu học, nhưng cũng chỉ biết qua, lại ít chung đụng với Tây đầm, nên giờ chợt nghe tiếng đầm nói như gió, chàng chỉ lõm bõm đôi ba phần, muốn ngẩn ra, đưa mắt nhìn Quản Kình.

            Rất may Quản Kình lại hiểu tiếng Tây, tuy chẳng giỏi gì hơn tiểu chủ, nhưng nhờ trước từng đi lính sang Tây đóng đến "quản ách", nên chú ta nghe Tây đầm nói đã quen, nhanh mấy cũng hiểu. Thấy Võ ngơ ngác, chú ta ghé sát làm "thông ngôn" liền, Võ Minh Thần vùng lớn tiếng:

            -Lệ đó đâu phải phép vua luật nước, bắt thiên hạ theo? Ngu mỗ đây cũng có lệ riêng, nếu không thích...!

            Lần này Võ nghe tiếng dị vọng ra lạnh lùng, lần này lại léo nhéo y hệt quan viên có giọng kim uống say cãi lý giữa đình:

            -Phép vua thua lệ làng, lệ làng hàng phép thánh, phép thánh cũng tránh luật "quân"! Luật "quân" đã ra, không uống rượu, phải nghe nhạc!

            Tiếng bí ẩn nói một tràng như đọc vè. Võ Minh Thần càng cho là quái gở, óc tò mò nổi lên cực độ, vùng cười lớn:

            -Hay dữ à! Đêm trăng, rừng khuya, gió lộng, gò cao nghe nhạc kể cũng thích. Nhưng tiếng nhạc nổi đêm trường, mà không thấy người tấu nhạc, khác nào nghe đàn ma Sư Diên gảy khúc My My cung âm vong quốc!

            Dứt lời, chàng trai vận điện, tay trái nhẹ nâng khiên lên tận cằm, tay phải chống trên đùi sau vành khiên kín đáo thò ra hai ngón, phát ra hai luồng điện chỉ nhón ngay lấy mép mui phủ cáng, vén phứa lên.

            Ánh đuốc hắt vào lòng cáng lót tía thấy đầu cáng có để một cái gối da sơn son thếp vàng coi như gối thờ, nhưng... chàng trai họ Võ cùng Quản Kình bỗng rởn óc muốn dựng tóc gáy cả lên vì trên lòng cáng trũng vòng cung nông chẳng có người nào nằm cả, chỉ là một cái cáng không.

            Trống trơn, chan hòa ánh hỏa đuốc vật vờ, cũng không thể có người đu bám trần cáng, vì Võ lật soạt lên cao, tia mắt thấy rõ toàn diện. Nói rõ hơn, chỉ có một cái gối sơn son đặt hàng đầu "nhìn" thẳng ra chỗ hai người đứng ngựa, chỉ cách có ba thước, và một chùm vài lá cây in bóng đen ngòm lắc la lắc lư vật vờ trên nền vóc, dưới cái gối son vài gang tay, coi không khác chính mấy cái bóng lá đen thui nằm đó vừa nói chuyện với hai thầy trò, Võ cũng phát ớn!

            Đến hơn phút, Võ sực nhớ, thu điện chỉ, rèm lại phủ xuống như cũ.

            -Sao? Muốn xem mặt thánh quân ư? Đã bảo phải uống rượu, nghe nhạc đã... Hà hà! Khách Thổ vòng xanh sao cứ muốn...

            Tiếng dị lại từ trong cáng vang lên, vẻ cao hứng. Đang khi tiếng vang trăm giọng thao thao bất tuyệt, thình lình Võ xòe luôn trảo kình túm hất "phạch" rèm mui cán thêm lần nữa, rất nhanh.

            Song, rèm cửa vừa hất cao, hai thầy trò nhìn vào trong liền bật kêu lớn, giật nảy mình như chạm phải điện. Vì ngay giữa lòng cáng, một hình thù bốn chân, lông vàng, có bờm đang "nằm khểnh" đầu gối lên một chiếc gối son, hai con mắt đỏ khé dòm chết ra ngoài. Một con Hồng Cẩu quẩy!

            -Tinh sói! Bá Diện Bá Âm... là giống sài lang tứ túc! Hừ, hay nó chính là...

            Vụt tưởng nhớ đến chuyện mẹ hiền sa vào nanh vuốt quỷ dữ bị bức hại thảm tử, Võ Minh Thần xúc động ghê gớm, thở phì liền mấy giây, cố trấn tĩnh tinh thần.

            "Phạch" rèm mui như bị ngọn gió nhẹ hất xuống lại. Võ mím môi, đưa mắt ngó sang Quản Kình, định nhau càng khó tìm hỏi, lão Thổ cũng chẳng biết gì hơn. Võ Minh Thần đành cảm ơn lão, cùng Quản Kình lên đường, nhắm hướng Đồng Văn đi miết. Mấy giờ chủ. Hai con mắt y còn mở trợn ngược như đã mất tinh lạc và dù rèm đã buông kín, mắt y vẫn trừng trừng như tê dại vành mi không chớp được nữa.

            Thì ra Quản Kình kinh dị đến chết lặng người đi, muốn tê cứng cả giác quan và "con tinh sói nằm trong cáng" đã làm y thành pho tượng đất, chừng cũng liên tưởng ngay đến chuyện thảm sát năm xưa. Mãi khắc Võ Minh Thần ngó sang, thích nhẹ vành khiên, Quản Kình mới sực tỉnh cơn kinh sững, ngoảnh sang khều tay tiểu chủ, thì thào:

            -Trời! Ghê dữ a! Con chó sói nằm trong cáng... Vừa giờ cáng trống trơn... Nó nói trăm giọng, biến hiện, con chó sói thành tinh!

            Hai thầy trò nhìn nhau, nhìn cáng rồi như không còn đủ bình tâm tính toán lợi hại, Võ Minh Thần thở phào một hơi, vùng quát chìm, giọng vẫn còn rung mãnh liệt:

            -Tinh sói! Bá Diện Thánh Quân ngươi... ngươi là con chó sói thành tinh? Trong cáng tiếng quái gở phát ra thé nhọn:

            -Khách Thổ vòng xanh lạ lắm sao? Hà hà! Thánh quân trăm giọng trăm mặt có gì là lạ? Sao hai thầy trò vòng xanh mặt ngẩn như chúa Tàu nghe kèn? Giờ nghe "khúc nhạc oan hồn" cho tăng tuổi thọ!

            Võ Minh Thần cắn răng trấn tĩnh tinh thần, quắc mắt hét:

            -Sói tinh! Còn nhớ chuyện trên biên thùy phân mao mười bảy năm về trước? Người đàn bà mặc xiêm y Thái trắng bị sói hấp sát dưới gốc tùng, một chiều thu muộn... còn đứa bé lên hai sống sót, mười bảy năm về trước...?

            Tiếng dị hắt ra:

            -À ta có biết chuyện đó! Nghe đồn người đàn bà ấy là trang quốc sắc, con tinh hồng cẩu quẩy mê say nàng như điếu đổ, đuổi ép làm vợ không được, nó nổi hung giết chết, đi sục tìm đứa bé vòng xanh mười bảy năm liền không ra! Ta có biết! Thôi! Nghe nhạc đã! Võ nghiến răng:

            -Im! Con tinh sói đó lông vàng bờm sư tử biết nói tiếng người, sau khi hấp sát người đàn bà đó, nó dùng đủ thuật ma pháp quái đánh hơi tìm bắt nốt đứa bé vòng xanh. Nhưng lòng trời còn tựa, đứa bé được dị nhân cứu mạng dưỡng dục, đem đi khắp thiên sơn vạn thủy... đất, đứng ngay cửa hẻm, đưa mắt nhìn vẫn không thấy gì. Chừng hai phút, bỗng nghe tiếng sói tru vang động, tiếng ngắn, cộc, dữ dằn, lẫn cả tiếng gừ hộc, nanh ác đó là... mi!

            Tiếng Võ rung nghẹn, trong phút sôi hận cừu chàng trai quên cả chuyện mình đã mang thương trầm trọng, khí lực giảm nhiều, nói xong chàng từ từ nâng khiên lên sát mi mắt dưới, mắt đảo lia một vòng, không khỏi ngạc nhiên thấy lũ phu cáng gái hầu vẫn đứng im phăng phắc mặt không hề đổi sắc, kẻ đội đèn, ả đội khay, như không hề nghe rõ lời "khách vòng xanh" vừa mắng vị chúa tể của chúng.

            Cáng gấm cũng yên như không, mấy giây, có tiếng cười vọng ra, đượm chút ngạc nhiên:

            -À khách Thổ chính là đứa bé vòng xanh ngày nào đó đấy ư? Ta có lời chia buồn! Chính ta cũng đang tìm "nó"!

            Cau mày, Võ dằn giọng:

            -Sói tinh! Khỏi mất công tìm, "nó" đã đứng trước mặt mi! Tiếng trong cáng vẫn nhu hòa:

            -"Nó"... con tinh tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đã giết mẹ nhà ngươi lẩn quất không kém loài ma quỷ, kiếm "nó" như kiếm bóng chim tăm cá!

            Võ Minh Thần muốn thừa cơ xả luôn súng vào cáng gấm, nhưng lại muốn biết rõ ngọn ngành thân thế, đành nén, quát bảo:

            -Sói tinh! Mi chối tội? Tưởng ta hậu sinh không biết rõ hình dung con quái vật giết mẹ ta sao? Bờm sư tử, lông vàng, mắt khé, nói tiếng người, nanh chìa... nó chính là...

            -Hấp sát quỷ tứ túc tinh quân Hồng Cẩu Quẩy Ma Vương Sắc! Nó là con sói chúa đầu đàn, hiểu tiếng loài người, loài vật, khắp mấy cõi người, vật đều sợ hãi, con chó sói tinh chỉ mê nhan sắc đàn bà, nó là Tây Sắc Hấp Tinh quân!

            Chàng trai họ Võ sững sờ liếc nhìn người đồng hành, cau hẳn chân mày, nhớ lại lời căn dặn của viên chúa núi Mã Đầu Quảng Tây cùng vợ chồng chúa tể miền Mười Vạn Núi Vân Nam.

            Khắp lục địa Á châu, hiện có nhiều quái nhân quái thú dị thường, lắm "con" phi nhân phi thú, lẫn lộn với chính nhân hào kiệt! Với những câu truyền tụng lắp thiên hạ, trong đó có câu "Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ", câu "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu"...

            Trong Tứ Hung, Tứ Khoái, Bát Quái, Lục Yêu, Tam Kiều, Ngũ Quỷ, Lưỡng Dị, Nhất Khùng, phương Tây có Ma Vương Sắc bản lãnh cao cường, cứ mỗi năm lại cao một bậc, xuất quỷ nhập thần, chúng nhân đồn "vua nhan sắc" này có hàng trăm vợ đẹp, thuộc nhiều sắc dân, không kể gái hầu mỹ nữ, động vương phủ của y không thua cung con nhảy ghếch lên chồm táp. Rất bất lợi là đầu núi đá chỗ này ghềnh mọc nhấp nhô, sườn thoai thoải nhiều rất tiện cho các giống sơn dương, beo, gấu, động của Ma Vương Sắc, chẳng ai biết "động nhan sắc" này ở phương nào. Lòng ngờ vực, Võ Minh Thần vùng cao giọng:

            -Tây Sắc Ma Vương có thể là loài chó sói được ư?

            -Chính thế! Tây Sắc chiếm hàng tứ trụ tứ hung, còn hào hoa phong nhã hơn người, biết thưởng thức sắc đẹp người ta, nhưng người đẹp nào vô phúc lọt vào động nó, không có ngày ra, như nhập lãnh cung!

            Võ Minh Thần dằn giọng:

            -Hư ngôn! Tìm cách đánh lạc hướng thù! Tây Sắc không phải sói tinh! Chính mi là con quỷ chó bốn chân năm xưa đã hấp sát mẹ ta!

            Bất ngờ có tiếng cười ré trong cáng, tiếp liền tiếng quát lanh lảnh, lần này là giọng nữ nhân:

            -Ngốc tử! Ta sợ gì ngươi mà phải nói dối? Ta Bá Diện Bá Âm Thánh quân có cả trăm mặt, ta là Âm Sát Thánh Quân "Đông Âm" sao có thể là Tây Sắc? Dẫu mi có cho hình sói là đích diện Thánh quân, ta cũng không là kẻ hấp sát mẹ ngươi, vì... chỉ là Hồng Cẩu Quẩy nữ!

            Lời nói trong tiếp tục ào tới vồ mồi, bắn không kịp, lại thương hai con vật, chàng trai hét lớn:

            -Lang sói hung tàn! Không được bắt ngựa của tao! Lời dứt, chàng áo, cũng dễ nhận ra đực cái!

            Bèn xuất kỳ bất ý thò luôn chỉ thủ phát điện nhón mép vải phủ cáng soạt lên! Và lại một phen giật thót mình kinh dị, chưng hửng đến ngẩn người ra, vì... trong cáng trống trơn! Con hồng cẩu quẩy lông xồm xoàm vừa rồi như đã biến vào trăng gió rừng già, chỉ còn lại cái gối son.

            Cả hai người đều thuộc hạng lỳ, không hề biết sợ bóng sợ gió là gì, vậy mà cả hai đều giật thót mình trước "cái cáng không người nằm vừa phát âm đủ giọng". Võ buột miệng kêu "ơ", Quản Kình bật "ơ", Võ còn cố nghiêng ngó mấy khắc mới vội buông rèm che xuống, hai thầy trò trợn mắt nhìn nhau, chưa dứt kinh dị. Quản Kình thở phì, lẩm bẩm ghé sát tai chủ:

            -Cáng ma cáng quỷ! Thầy trò ta gặp con yêu rồi! Con yêu trăm giọng! Đúng rồi! Mới léo xéo đây, đã biến đâu mất!

            Võ đảo mắt dòm khắp gò, chỉ thấy lá cây lòa xòa, gió thổi rì rào, chàng trai ngơ ngác, rờn rợn, tuy từ nhỏ chưa biết mọc ốc "sợ ma":

            -Ma! Lạ thật! Thế còn lũ gái đứng kia? Còn đoàn nhân mã? Tửu Chúa nằm kia?

            Đầu óc đảo lộn, hoang mang, nghĩ ngay đến mấy tiếng "ma thiêng nước độc", bỗng nghe tiếng quái gở vừa trở lại từ trong cáng vọng ra:

            -Trai vòng xanh sao dám nhìn trộm? Tội khi quân phạm thượng đáng trừng phạt! Vòng xanh phải nghe một cung âm túc sát! Lời dứt, từ trong "cáng không người" bỗng phát ra mấy tiếng kỳ dị, nghe như tiếng kèn, mỗi tiếng như một nhát búa đóng vào màng tai Võ Minh Thần!

            Rồi như một cơn phong ba, âm thanh vụt hắt ra ầm ầm như sấm sét, chẳng có cung trầm bổng gì cả, toàn một loạt tiếng túc sát lắt léo trúc trắc nặng nề thình thịch không khác tiếng chày vồ, có đoạn lại như dao nạo mặt nứa, cứ thế cuồn cuộn tuôn tràn như thác đổ, sấm rền sét đánh, dùi xiên vuốt cào móc nạo, gió rít mưa gào đạn réo, quật vào màng tai Võ gây một cảm giác đau buốt, ngứa ngáy tê cóng, giá băng nhức nhối, cực kỳ khó chịu, đến ớn da ớn thịt, đảo ruột lộn gan điên đầu nhức óc, loạn thần như đang chứng kiến cảnh tuốt nứa, bị tuốt, lóc thịt, nạo xương, đục tủy, cưa gân, mài óc, làm cho kẻ vững tinh thần mấy cũng phải đảo điên, ớn xương sống.

            Trước còn thấy cung âm túc sát này đi qua thính giác vào người gây cảm giác, sau tiếng nhạc quỷ này trực tiếp như những mũi dùi, răng cưa, lưỡi "lam" xiên nạo thẳng vào tế bào, chui qua lỗ chân lông cào cấu ngũ tạng lục phủ, tưởng kẻ thiếu bản lãnh không chịu nổi giây phút, khiến Võ rúng động tâm thần, không khỏi kinh tâm, nghĩ thầm:

            -Cung âm quái gở này giết người trong nháy mắt! "Âm thanh công" này lợi hại hết sức, quện lẫn điện công, ma quỷ gì lại sử dụng được môn võ công cao siêu của con nhà võ? Sơ ý nguy ngay!

            Bèn ngầm vận điện công bế tỏa huyệt đạo, ngồi im như cây gỗ mặc cho sấm sét nổ bên mình. Lại lo cho Quản Kình và hai con ngựa, nhưng rất may Kình và hai con ngựa vẫn đứng như thường. Nhìn ra, lũ gái hầu, tụi khiêng cáng xế ngoài cũng vậy. Mới rõ "cáng không người" có tài thu gọn âm thanh chỉ hướng độc vào chàng.

            Được một phút, bỗng lại nghe tiếng dị trong cáng vọng ra như đọc một bản án, cứ mười tiếng lại thay một giọng, bảy thứ thổ ngữ, sắc, gai, nhọn, ầm, léo nhéo nhanh vô cùng hòa với tiếng nhạc, trúc trắc the thé, nhức nhối, như có cả một cái chợ người vạn quốc, chõ cả mồm loa mép dải vào lỗ nhĩ chàng mà gào thét, nghe đinh tai nhức óc, đã thế, tiếng vạn quốc Tây Tàu Ta Thổ, v.v... lại cứ vang lên toàn tiếng trúc trắc nghe còn ngứa tai khó đọc hơn nghe hàng ngàn đứa con nít ê a học: "a xê ác, ê xê hát ếch, a xê hát ách, co co, y cờ rét ê y yêu...".

            Biết không phải chuyện chơi, Võ phải vận sức chịu đựng hóa giải có lúc đến chấn động toàn thân, lại không may đang lúc thọ thương sức giảm nhiều, nhưng cũng có cái may là mặc giáp, đỡ được nhiều. Vừa chống, Võ vừa lấy làm lạ hết sức, khó tưởng tượng một người có thể cùng lúc phát ra lắm âm ma tiếng mãnh đến thế.

            Tới phút thứ ba, chàng vừa thấy trong lòng xao xuyến, thì âm quái vụt im, Võ thở phào, lưng ướt đẫm mồ hôi. Sực nghe tiếng kia hắt ra lẫn tiếng cười the thé:

            -Cung phạt túc sát đã hết, giờ canh khuya rừng vắng, vòng xanh nghe khúc "dạ khấp" cho tăng thêm sức khỏe!

            Lần này, tiếng trong cáng giọng lanh lảnh rõ giọng gái còn trẻ, đài các nói. Võ Minh Thần vụt nghĩ:

            -"Y" lợi hại như ma quỷ! Sức ta bị thương, nghe một cung đã mệt, ở đây nghe nữa e nguy hại! Xem ý "y" muốn tấn công dồn dập cho ta gục, chưa thể gợi dò gì được, đành chờ dịp khác! Tức thật! Y làm gì mà như ma xó!

            Nghĩ là làm liền, vừa nghe dứt chàng trai vận sẵn nhân điện, lại thò tay ra, lần này đưa cả trảo thủ chụp mép rèm phủ lật phăng đến "phạch" cái, rung cả cáng, đến độ cáng đu đưa như võng.

            Và, như chạm phải điện, không nén nổi, chàng trai vùng hét lên một tiếng "trời", kinh sững, gai ốc mọc lởm chởm đầy mình, vì dưới vùng sáng đuốc vật vờ trên cáng chỉ thấy một hình thù bốn chân nằm gối đầu lên gối son cực kỳ quái đản: một con sói to như người, mõm nhọn hoắt, hai con mắt đỏ ké dòm ra phát tia nóng bỏng!

            Chỉ suýt nữa, Võ Minh Thần đã kêu thét lên kinh dị vì quá bất ngờ. Nhưng nhờ sống khổ độc gian lao từ nhỏ bên cạnh vị tôn sư kỳ dị mặt lúc nào cũng đầy nét suy tư trầm mặc như buồn thảm "kiếp người mong manh phi lý", hết lòng rèn luyện, lại thường ở rừng sâu cốc thẳm, chàng tuổi trẻ có tình bình tĩnh hết sức, ít khi hoảng động ra mặt, nên lúc thấy hình thù con chó sói to lớn dị thường, chàng trai chỉ giật người một cái đã hãm ngay được tiếng kêu, lặng người đi khá lâu.

            Và cắn chặt hàm răng, nín thở mở trừng hai con mắt dòm chòng chọc, đầu óc bàng hoàng tưởng mê ngủ. Ánh đuốc bập bùng soi tỏ, vẫn chùm lá trên cành hắt bóng đen vật vờ nham nhở vào lòng cáng, lắc la lắc lư trên hình thù quái đản, đúng là một con chó sói, không thể lầm lẫn được. Một con sơn cẩu thuộc giống sài kíu to lớn, hung tợn nhất trong các giống bốn chân hung tợn, nói rõ hơn là một con "Hồng Cẩu Quẩy" lông vàng óng ánh, đầu có lông bờm như bờm sư tử cái, nó nằm nghiêng gác đầu lên cái gối son, mõm ngậm còn chìa ra mấy cái răng nanh dài trắng nhởn như mấy cái dùi nhọn hoắt. Thấy mép rèm vén lên, nó chỉ hơi ngóc đầu lên dòm ra coi dáng điệu như người ta, kẻ bạo gan cũng phát ớn.

            Ngó trừng trừng vào lòng cáng đến bảy, tám giây, chàng trai họ Võ mới rung giọng kêu "trời" rất trầm như phào nhẹ ngoài miệng, buông rèm xuống.

            Choáng váng, kinh hoàng cực độ! Rung động tâm thần vì sự hiện diện của con sài kíu to lớn trong lòng cáng, hình thù chó sói lông bờm, nghĩ ngay tới con chó sói thành tinh đã hấp sát mẹ chàng trên biên thùy phân mao mười bảy năm xưa! Võ Minh Thần liếc mắt nhìn người đồng hành đứng ngựa sát cạnh.

            Quản Kình cũng nhìn thấy rõ vật gì trong cáng, người đàn ông gan lỳ này ngồi im không động đậy trơ như đá, trong dáng của tay bình tĩnh phi thường, nhưng dòm kỹ nét mặt, lại khác hẳn.

            Lần này thì sự kinh dị lên đến cực điểm. Ngọn gò thưa gió thổi rì rào, vài tán lá loang lổ vật vờ lay động ánh đuốc ánh trăng quện giao nhau, cáng gấm hơi đu đưa, lũ phu cáng gái hầu đứng im như tượng gỗ, khung cảnh càng trở nên quái gở. Không còn ngờ vực gì nữa, đúng con tinh mới có thể chợt hiện chợt biến như thế.

            Không hẹn nhau, cả hai thầy trò cũng dằn động vành khiên, đưa mắt lừ lừ nhìn mấy phía cùng có cảm giác như bóng vô hình nanh ác lởn vởn quanh mình, mất thần chụp vuốt xuống. Quản Kình thì thào, tiếng rung mạnh vì xúc động:

            -Nguy rồi! Thì ra "nó" là con tinh, "nó" biết biến hóa. Bá Diện Ma Quân là con tinh quỷ bốn chân! Phải tìm kế rút mau... Cậu hai! Ta chờ dịp khác! Phải có phép phù thủy mới trị nổi nó.

            Võ Minh Thần cũng hiểu hiện hai hai người chưa đủ tài thuật trừ loài yêu quái. Vì loài này thuộc âm, đã thoát khỏi các định luật thông thường về vật lý trên cõi dương trần, súng gươm thường khó phạm nổi. Chàng trai vụt nhớ giấc mơ kỳ lạ vừa nãy trên đồi cao, hồn oan mẹ chàng đã giục đi mau, và hôm rời miền Thập Vạn, vợ chồng chúa soái lạc thảo vô địch có căn dặn phải tìm đến vùng Thanh Âm động học thuật pháp sư rừng của bà Chúa ngàn thiêng, phòng trừ loài yêu nghiệt.

            Thoáng khắc, chàng trai nghĩ ngay tới chuyện bôn tẩu, chờ dịp khác phục thù, nhưng trong lòng mang cừu hận như biển, lại vừa xúc động cảnh mẹ hiền thác oan, hiện về, chàng tuổi trẻ chí hiếu nhịn sao nổi, bèn quắc mắt long sòng sọc, nghiến răng thét:

            -Sói tinh! Chính mi là con "quỷ mắt đỏ" bốn chân đã hấp sát mẹ ta trên biên thùy năm xưa... sao còn dám đổ cho Tây Sắc? Chỉ loài tinh mới biết biến hóa. Mẫu thân! Mẫu thân! Hồn mẹ khôn thiêng hãy về phù hộ cho con tru diệt con tinh, báo cừu tuyệt hận!

            Dứt lời, Võ Minh Thần cắn nghiến chót lưỡi bắn máu tươi giơ luôn tay phải phun phù vào lưỡi dao gài dọc cổ tay, chưa kịp chém xả, bỗng nghe trong cáng có tiếng cười khanh khách ma âm vọng ra:

            -Vòng xanh! Nhà ngươi làm gì thế? Sao lại cắn lưỡi phun máu? À! Phải nhà ngươi định thư phù? Ha ha! Ngốc tử! Bá Diện Thánh Quân có trăm mặt trăm giọng, cứ gì phải Hấp Sát Tinh Quân Tây Sắc mới có tài ẩn hiện?

            Võ Minh Thần không nói nửa lời, đưa mắt nhìn quanh, thấy đám quân mã vẫn tụ cả dưới gò, chàng trai vùng lẩm bẩm "mẫu thân chứng giám hồn thiêng độ trì", bất thần đánh vụt tay phải về phía cáng gấm.

            Từ cổ tay, lưỡi liễu diệp đao sắc như nước vấy máu thâm cừu bay vút ra phát một tiếng "véo" gần như tiếng đạn đi, nháng luồng sáng cầu vồng đâm xuyên qua lần mui rèm che phủ cáng, luồng sáng tắt, bức rèm hơi động chút, tiếp theo tiếng thụt phập rất ngọt, mạnh đến nỗi Võ Minh Thần muốn chồn cả tay.

            Vẫn im phăng phắc! Nhưng khi Võ giật tay di động đường thép, bỗng giật mình kinh hãi thấy rõ lưỡi dao cắm sâu lút cán như bị vật kia hút chặt lấy, không vọt bay đi được. Võ vội vận hết sức kéo mạnh về cố rút dao ra, bỗng nghe tiếng trong cáng phát cười sằng sặc:

            -À! Vòng xanh tài nghệ cao cường, biết cả thuật phi đao! Gan nhà ngươi to lắm! Dám chém Bá Diện Thánh Quân! Nhà ngươi tên họ chi! Ta quên chưa hỏi! Nói mau còn uống rượu nghe nhạc! Đêm này kỳ ngộ, phải cũng ta say một bữa ngả nghiêng.

            Võ Minh Thần phụt luôn dao tay trái, đưa mép khiên lên miệng cắn chặt, nhanh như chớp, phóng vụt lưỡi dao vào chỗ phát âm trong cáng. Véo, phập! Lần này chàng cũng phóng đâm như phóng giáo, mũi thép nháng sáng cái đã xuyên qua lần rèm phủ, và cũng bị vật kia hút thụt, Võ rúng động cả thân hình, tay chồn lại, y hệt nhát chém trước! Cả kinh, chàng trai lật đật vận hết sức lay giật rút ra, chỉ hơi nhúc nhích, vụt nghĩ thầm:

            -Lạ dữ à! Sao quái gở thế này? Từ khi hạ sơn, chưa bao giờ ta phóng dao lại không rút về được, dẫu có cắm vào thân xác, cũng không đến nỗi hút dính thế! Nó có sức phi phàm hút dao kiếm chăng? Bất biết, tình thế khẩn cấp rồi, không làm không xong!

            Bèn quay sang phía Quản Kình, Kình cũng vừa liếc sang ra hiệu, Võ hất hàm, Kình chụp luôn cây súng cối Saint Etienne bên sườn, vẩy "đoàng" một phát vào trong cáng, nào ngờ đạn vừa bắn ra, bỗng "bùng" một tiếng, một luồng kình phong quật trúng mặt khiên đến "xoảng" một cái mạnh như trời giáng, cả thân hình to lớn của Quản Kình lập tức bật ngửa về đằng sau, khoác cả tấm khiên ngã nhào xuống chân ngựa.

            Võ Minh Thần mắc cả hai tay rút dao không đỡ kịp, thấy Kình ngã thất kinh, đang khó nghĩ, đã thấy Quản Kình nhảy vọt lên lưng ngựa, tiếng trong cáng hét ra:

            -Thổ hầu sao dám bắn Thánh quân? Lần sau, ta quật chết! Vòng xanh! Tên họ?

            Nổi giận, Võ vừa rút dao vừa hét:

            -Sói tinh! Chính ta đang định hỏi mi điều đó! Mi còn lạ gì mười bảy năm xưa, chiều đó, ta còn là đứa bé lên hai lên ba!

            Tiếng dị phát âm trầm:

            -À, kẻ không biết cội nguồn! Vậy nhà ngươi đúng đứa bé vòng xanh cả thiên hạ đang đi tìm rồi! Hà hà! Càng phải uống rượu nghe nhạc cùng.

            Võ Minh Thần vẫn đinh ninh "con tinh" sẽ hạ đòn độc, vẫn thấy yên, Võ vừa bực tức vừa cay đắng gặp địch thủ đang lúc thọ thương, vùng quát:

            -Tinh sói! Ta muốn uống máu mi, không uống rượu với sài lang!

            -Không uống rượu nghe âm nhạc ta rộng ban ân, nộp vòng xanh vậy! Để thân lại báo cừu, ta sẽ giúp cho!

            Võ toan mắng, sực nhớ ra "bí ẩn của vòng xanh điểm huyết" đeo tay, chàng trai thở phào dịu hỏi:

            -Tại sao mi cùng cả thiên hạ loài người, loài vật thành tinh đều tìm chiếm đoạt chiếc vòng xanh? Nếu nói rõ, ta tính sau!

            Tiếng trong cáng cười âm âm:

            -À khách vòng xanh lại không biết vòng xanh là gì! Lạ dữ! Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo lộn! Hà hà! Nếu nhà ngươi biết rõ, nhà ngươi sẽ mất mạng, vì nhà ngươi sẽ liều chết giữ lại, mà sức ngươi chưa giữ được đâu. Tốt nhất đưa ta cầm cho!

            -Nếu vậy ta càng cần giữ cái vòng này! Sói tinh! Năm xưa...

            -Ngốc tử! Ta đã bảo con tinh chúa ép mẹ ngươi làm vợ là Ma Vương Sắc Hấp Tinh quân, nó là Tây Sắc, đứng trong hàng Tứ Khoái. Còn ta, ta là Bá Diện Bá Âm Thánh Quân, là Đông Âm, trong Tứ Dị! Nó là con tinh đực, còn ta dẫu có hình diện đồng giống, nhưng giống cái!

            Trong đầu óc Võ vang lên câu truyền tụng về bốn nhân vật dị hình hiện nay: "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu", chàng vận hết điện lực bất thần giật mạnh hai tay, bật ngửa về đằng sau rút ngay được hai ngọn dao lá liễu.

            Cả mừng, liếc coi, không dính sợi máu nào, chỉ có vết xam xám dính sát chuôi, đưa vội lên mũi ngửi, bật kêu "à". Mãi lúc đó mới hay cả hai lưỡi đã xuyên qua không khí chỗ con tinh nằm, cắm vào thân cây lớn sau cáng còn vấy nhựa tươi, cắm ngập và có lẽ còn bị cả "nó" đè ghìm chặt nữa.

            Không để phí một giây, Võ thò luôn hai ngón tay nhón mép rèm phủ lật phắt lên định xác định rõ vị trí mục tiêu rồi hãy liệu. Nào ngờ rèm phủ vừa vén soạt lên, thầy trò Võ lại thêm một phen kinh ngạc đến giật bắn người như điện giật vì... con Hồng Cẩu Quẩy mõm nhọn mắt khé bờm sư tử, lông vàng đã đâu mất, trong lòng cáng giờ đây lại có một thân người nằm đó, ánh đuốc hắt soi rõ mặt mũi dáng thân, làm hai thầy trò Võ cùng lạnh toát sống lưng, bật kêu "ớ", "trời" lê thê.

            Vì đó là một người đàn bà mặt hoa da phấn, mắt phụng mi tằm, môi cung, mũi thon, ngực phây, bụng thắt, mông bạnh, đùi thuôn, phá lãnh đan bó sát mông hờ nếp thủy ba, người thiếu nữ coi hệt các "bà nàng, bà chúa" rừng thiêng nằm nghiêng chống một tay lên má, nghiêng đầu đăm đăm ngó Võ không hề chớp mắt.

            Hai con mắt nữ lang xanh biếc dưới ánh đuốc chập chờn, nhãn quang phát ra tia lạnh lẽo đầy uy lực, và từ khuôn mặt, dáng thân, ánh mắt toát ra một sức hấp dẫn đến nổi da gà đàn ông.

            Tuy mỗi lần vén rèm phủ lại bị một phen kinh dị, lần này chàng tuổi trẻ họ Võ giật thót mình kinh ngạc như thường, đến lặng hẳn người đi tưởng tê tái cả da thịt, đến mươi khắc vén rèm vẫn giữ nguyên không buông xuống. Choáng váng chạm tia mắt biếc dị, chàng trai thoáng nghĩ thầm:

            -Sắc đẹp hồ ly! Yêu tinh! Nhan sắc phi phàm! Không phải gái trần!

            Trong cáng, nữ lang vẫn nằm chống tay nhìn ra, không nhúc nhích, Võ Minh Thần cũng nhìn vào không động đậy, như bị hai luồng bắn giết, lỡ phạm bầy thú của lệnh tôn, cô nương, thật cam đắc tội!

            Cô gái chúa Pi A Ya đăm đăm nhìn chàng trẻ tuổi hỏi:

            -Chuyện lầm lẫn và người đàn ông gan dạ này cũng lại bị một phen kinh hoàng như chủ. Hình dáng nữ nhân trong cáng làm y giật nảy mình, trố mắt dòm, kêu "ớ", nhưng chỉ năm, bảy giây, ánh mắt nữ nhân không chiếu vào y, y chớp lia lịa, tự nhiên rởn ốc, len lén ngó sang tiểu chủ muốn coi xem mình có ngủ mê hoa mắt chăng.

            Thấy ngay chàng trai ngồi lặng đi trong dáng kinh sững đến ngây đờ vì tia mắt nữ nhân quái đản trong cáng, Quản Kình vội dùng khuỷu tay khoác khiên thích nhẹ liên hai, ba cái, miệng kêu khẽ:

            -Con tinh cái! Cậu hai... Võ hơi giật mình, chớp lia vành mi, mãi khắc đó mới chợt nhận thấy vành mi trên bắt đầu tê nặng như sắp bị đờ ra. Nhớ ngay đến hai con mắt đỏ khé của Giao Long chúa hồ Ba Bê.

            Võ sực tỉnh ngộ liền:

            -À hai luồng hàn quang của nữ nhân kia có sức mạnh thôi miên có thể ru người vào "giấc ngủ thôi miên"! Lần trước cáng không, lần sau con chó sói mắt khé, lần này lại người đàn bà đẹp như bà chúa rừng thiêng... con tinh biến hóa ra chăng? Gươm máu thư phù chém cũng không ăn thua, súng Quản Kình bắn cũng như bắn vào cõi hư không... bất biết "nó" là con quái gì, Bá Diện Đông Âm hay Ma Vương Tây Sắc, cũng nguy rồi! Sức suy lực kiệt, không còn cách trị, giờ lại càng phải bình tĩnh tính kế mới được!

            Bèn quắc mắt vận nhân điện chống chọi lại hai luồng hào quang ma quái của nữ lang có sắc đẹp yêu tinh nằm trong cáng! Và chỉ mươi khắc, chàng trai đã thấy vững chí như thường, bèn liếc mắt trông quanh. Bọn gái hầu phu cáng vẫn đứng im phăng phắc, tất cả đều cúi mặt nhìn xuống, không kẻ nào dám trông lén vào cáng, chừng như sợ phạm nghiêm lệnh mất đầu như chơi. Thoáng cái Võ Minh Thần lại nghĩ:

            -Chó sói nằm, rồi lại nữ nhân... biết đâu chỉ là một hình tượng, "nó" đặt nằm đấy... nãy giờ sao không cử động? Lập tức thò tay lấy đèn bấm, bật "tách" chiếu rõ từ trên tán cây xuống cáng, không chi lạ. Võ lại chiếu đại luôn vào mặt người đàn bà.

            Rào một cơn gió đêm thổi lộng, bao nhiêu cây đuốc cắm quanh cùng rạp ngọn, vật vờ giãy dụa, kéo dài ngoằng, một mùi thơm hăng hắc đượm mùi hoắc hương lan xạ theo chiều gió thổi tạt vào mũi hai thầy trò Võ Minh Thần, đúng giống cả cách xưng hô sao. "Con gần MẸ nhen" rồi đến bây giờ Dương bảo "Anh gọi em là MẸ có được không?" Nước mắt Nguyệt tự nhiên tuông xối xả. Nếu nước mũi Nguyệt không tuông thì Dương không trần...

            Qua mấy bữa thuốc thang ăn uống đều, Võ thấy khỏe hẳn, bèn đến ra cửa, nhưng cửa đóng kín.

            Một sáng, vừa tỉnh giấc, đã thấy gái khuya tiếng cười ròn tan như thủy tinh vụn cất lên chờn vờn dùi vào lỗ tai nghe như tiếng dao nạo mặt nứa, khiến cả hai người đàn ông nghĩ ngay đến mấy tiếng "ma rừng", "giọng cười yêu tinh", tự nhiên Võ Minh Thần buông vụt rèm xuống, trong cáng tiếng người đàn bà lanh lảnh vọng ra theo nhịp cáng đu đưa:

            -Không chịu uống rượu, nghe nhạc, tự tiện vén rèn nhìn trộm, dám chiếu cả đèn điện vào mặt, lại nhất định bảo Thánh quân Đông Âm là Tây Sắc tinh quân... vòng xanh nhiều tội khó dung! Hỏi tên họ cũng không xưng, thấy giá thánh quân không phủ phục, để đầy tớ bắn thánh quân, lại chém làm thủng cả rèm... tội không kể xiết! Khôn hồn thành kính cởi nộp càn khôn điểm huyết, quả nhân tha cho toàn mạng cả hai, bằng cãi lệnh... hà hà! Cãi lệnh thì... thì... cường toan bạch cốt! Hà hà!

            Tiếng đàn bà vãi ra, to dần, tỏa rộng dần, rõ ràng như một tấm lưới vô hình kết bằng âm thanh chụp xuống đầu hai thầy trò Võ Minh Thần, chưa hết một câu, tiếng đàn bà đã chuyển sang tiếng đàn ông, cứ thể đổi giọng, chỉ vài mươi giây, cứ mỗi tiếng một giọng, từ nam phụ lão ấu Tây, Tàu, Ta, Mán, Thổ, Mường, Lô Lô nghe như vỡ chợ, cả một chợ người tạp chủng chõ mồm vào tai hai thầy trò mà hò hét không khác đóng búa vào màng tai, còn gấp mấy lần ban nãy, nhức nhối đầu óc không sao chịu nổi khiến hai người vội vận sức nhân điện chống cự lại, khi tiếng nói vừa dứt, lại vụt chuyển sang tiếng đàn sáo kèn trống ấm ầm như sấm rền sét đánh phong ba xô quật ầm ầm, hai thầy trò Võ Minh Thần tưởng chừng màng tai thành cửa kính bị sấm sét, gió mưa đánh đập vào, làm cho châu thân rúng động, tâm thần choáng váng, không thể nào tưởng tượng chỉ có một cái miệng mà lại có thể phát âm thành một cuộc "đại hòa tấu" thần sầu đến thế.

            Võ Minh Thần lại đang lúc thọ thương trong mình không được mạnh như thường nhật, phải hết sức ngăn chống mới đỡ điên đầu, nhức óc, riêng Quản Kình tuy người to lớn, nhưng về điện công chưa khổ luyện mấy, nên choáng váng cả người.

            Thất kinh, Quản Kình kêu khẽ:

            -Không xong rồi! Chạy mau không vỡ lỗ tai!

            Cả hai tế ngựa như gió, trăm giọng vãi theo, như sấm sét, vẳng tiếng hét the thé:

            -Điện tiền! Bắt lại cho ta!

            Tiếng người thét ngựa phi ầm ầm đuổi theo, vài phút đạn vãi trốc đầu, may vùng đó rừng cây um tùm, lối mòn nhiều, cả hai ngoắt luôn vào rừng, chạy nhanh như gió, quanh co ngang dọc, lúc sau không còn nghe tiếng dữ đuổi theo, hai người mới dám hạ nước ngựa xuống kiệu nhỏ. Lối ngàn khúc khuỷu quanh co hun hút, nào ngờ ngựa vừa lao ra khỏi đoạn thước thợ, bỗng cả hai giật nảy mình thấy trước mặt một đám nhân mã sịch tới, không sao tránh kịp.

            -Ôi chao! Bị chặn đầu rồi! Cậu hai! Quay ngựa mau! Quản Kình bật kêu nhỏ, ngựa chưa kịp lộn lại, đám nhân mã kia đã trôi ập tới, tiếng quát thét lên, muốn vỡ màng tai. Đám người lạ xuất hiện thình lình, chỉ cách có một con suối. Võ Minh Thần, Quản Kình sịch thấy, tưởng đám quân dị của Bá Âm Thánh Quân, cả hai đều giật mình, chừng nghe tiếng người sang sảng như chuông khánh hắt lên, toàn tiếng Kinh, hai thầy trò vội định thần nhìn kỹ, nhờ ánh trăng mờ, lúc đó mới nhận rõ đám đông này vừa cưỡi ngựa vừa đi bộ, nhiều gấp rưỡi bọn Bá Diện Bá Âm ban nãy. Và giống hết một đám rước thần thường thấy tại Việt Nam. Cờ ngũ hành bay phấp phới, tàn tán lọng xanh lọng vàng nhấp nhô như nấm, người cũng mặc quần ào như trong đám rước, tốp mặc áo tứ thân khăn mỏ rìu cầm túi roi, tay thước, mã tấu, dao bảy... Tốp áo nâu đỏ nón chóp vác dáo, khiên. Tốp áo đoạn áo the đen, quần ống sớ. Tốp áo thụng xanh hệt các bô lão quan viên đi tế lễ, có cả phường kèn bát âm, chiêng, trống, thêm một đội kèn tây trống tây như trong đám rước "văn minh" đương thời. Ngoài ra, còn một toán lính hầu lính rước chi đó, mặc áo dài đen, thắt lưng xanh đỏ, đi ủng, vác súng, coi từa tựa lính triều đình thời vua Tự Đức. Nhác coi dáng điệu thảy đều trang trọng hết sức, nếu không nghe tiếng người nói vọng vừa rồi, thầy trò Võ lại tưởng một đám dân địa phương đi tới chỗ tập trung, đình chùa nào đó, để rước sớm. Đang chạy gặp quái nhân, thầy trò Võ lật đật rẽ cương sang phía hữu đi vòng ngang tránh đường. Nhưng mới được vài thước, bỗng nghe phía sau đám rước kia, có tiếng loa vang rền, rồi tiếp liền một hồi chiêng trống nổi lên vang động rừng khuya, đám nhân mã kia đồng loạt chuyển dịch cờ quạt tàn lọng dập dờn, chân người vó ngựa chạy rầm rập thoắt đã dàn ngang bên kia suối đứng nghiêm chỉnh. Thầy trò Võ thử tiến thêm mấy bước, đám người này cũng chuyển dịch theo, hai thầy trò lộn lại phía tả, cũng vậy. Hồi chiêng trống dứt, chợt từ phía sau đám người này bay vụt lên một cây đuốc lớn. Ngọn lửa cháy xèo xèo kéo dài vút thẳng tới đầu ngựa hai người, chiếu sáng rực khu suối. Bực mình, Quản Kình chực chụp bắt ném đi, nhưng ngọn đuốc đã chạy ngang đảo vù trốc đầu hai người như đèn cù, Võ Minh Thần cũng bực mình bỗng dưng bị soi mặt, chàng trai bất thần thò tay vụt thoi đuốc trở lại, dòm theo. Ánh lửa bay qua nhiều đám đông, kẻ một vệt sáng, soi tỏ cây cối bờ bụi, hai thầy trò thấy dưới tán cây có một chiếc kiệu sơn son thếp vàng chạm hình rồng phượng.

            Giống hệt kiệu rước thần, chỉ khác là kiệu này nhỏ hơn, kiệu cao ngất nghểu sát tàn cây do tám lực sĩ cao lớn khiêng, xung quanh có quân hầu mặc áo nâu đỏ che tàn lọng san sát, lại có mấy trai, gái loại đồng nam đồng nữ bưng điếu, tráp, các đồ tạp dụng.

            Khi cây đuốc bay gần cỗ kiệu, chợt thấy bức rèm trước lay động, rồi cây đuốc bay vụt vào trong kiệu, tắt ngấm.

            -Kha! Kha! Một chủ một tớ mặt mũi lạnh như tiền, quần áo Thổ rừng, mặt mày Kinh đặc. Lục lâm tứ chiếng thua lỳ, tay chơi trong mấy cõi Tây Tàu Ta chắc tay nào ăn đứt? Mặt kia mà đánh xì phé, bất xất cẩu, tàu ngầu... khối thằng mất nghiệp! Kha kha! Bán mặt "nàng ta". Ăn chết! Ăn chết! Chơi một canh! Chơi một canh! Xuống ngựa! Xuống chơi với tớ!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe rõ tiếng người từ trong cỗ kiệu sơn son thếp vàng vọng ra nói toàn tiếng sang sảng như chuông lại nghe khen "Mặt mày đánh xì phé ăn chết". Hai thầy trò đưa mắt cho nhau, Võ Minh Thần càng ngẩn ra chẳng hiểu "chơi một canh" là cái quái gì, nhưng nghe bảo xuống ngựa, Võ cũng nói lớn:

            -Xin có lời chào bậc quý nhân nào đó! Thầy trò mỗ có việc khẩn cấp, chẳng thể dừng chân, xin quý nhân nào đó xá cho.

            Dứt lời định giục ngựa đi, nhưng tiếng lạ lại hắt ra:

            -A! Tớ đoán không sai! Ăn nói văn vẻ lịch sự, đúng là dân có học, con nhà gia giáo "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa"! Ngó qua cái mặt lạnh như tiền, biết ngay chú mày là tay tổ. Thấy mắt tớ có tinh đời không? Chớ chối! Tớ đây nghiện dữ rồi! Ôi chao! Mấy tháng nay đi khắp cõi Đông Dương, đến xó nào chúng nó cũng bảo "vái tớ cả nón", chẳng đứa nào dám "chơi" với tớ! Tỉnh nào chúng nó cũng bầu tớ làm tiên chỉ, vua chúa, tổ sư, không đứa nào chịu chơi với tổ sư! Đứa nào cũng bảo tổ sư bịp! Nó có biết đâu tớ có mắt tinh đời, mắt tháu có thể dòm qua bát! Đêm nay lớ ngớ vớ ngay được chú mày! Lãnh diện tiền! Chơi một canh! Cửu vạn bát sách chi chi thông tâm lèo thập hồng kính cổ, xì tây đầm chức xập, lưỡng phế, mìn sầu, sấp một sấp ba ông cụ tống cửu thập, tài giỏi mấy cũng thua thằng vận đỏ cửu văn rút nửa ly ông cụ, gặp hồi đen, nhị văn tống cửu, kha kha!

            Tiếng cười cất lên hết sức khoái trá. Quản Kình khẽ bảo tiểu chủ:

            -Y hai chục bực đá nữa, đến khu "động trên" rất tĩnh mịch ấm cúng, vào thẳng một gian phòng trang nghiêm bày biện trang hoàng theo lối tư phòng tư thất lớn có biết đánh bài đánh bạc gì đâu!

            Tiếng người cười ré lên:

            -Hí ngôn! Hí ngôn! Lãnh diện tiền đồng! Mặt hai chú mày là mặt dân trùm xì phé, tháu cáy như ma! Tớ đây mài thủng mấy chục cái đũng quần trên chiếu bạc, mất mấy cái cơ nghiệp ông cha nội ngoại để lại, mới học được cái nghề lấy cơ nghiệp thiên hạ nhãn tiền, xem mặt bắt hình dung, sai thế nào được! Hồ lì đâu! Vào cuộc!

            Lập tức từ phía cỗ kiệu lại bay vù ra một cây đuốc, tiếp theo có tiếng gọi:

            -Đốt đèn đuốc lên cho bọn tao làm một canh! Mặt tiền cẩu! Tiền chủ hậu khách, châm lấy khước!

            Theo tiếng hô, ngọn đuốc chạy dọc từ dưới lên, cứ chạy tới đâu, đuốc lại cháy bừng bừng tới đó, đến hàng người đứng ngang suối, cây đuốc chạy hình thước thợ, lại hàng đuốc nữa cháy lên.

            Nhờ ánh lửa rực soi, thầy trò Võ Minh Thần mới nhận ra mỗi người cầm sẵn một cây "hồng".

            -Lại quái nhân dị khách nào đây? Thù hay bạn? Hung hay ác? Khoe mắt tinh đời mà cứ nhất định liệt kẻ không biết đánh bạc vào hàng trùm xì phé... Nhân vật nào đây? Chưa thoát khỏi "đám rước vua" đã tới nạn "đám rước thần"! Phiền thật!

            Đang nghĩ vẩn vơ, cây đuốc đã bay qua suối lao thốc vào mặt, Võ tiện tay kẹp cán lửa, đoán có lẽ y muốn thử mình chăng, chàng trai vận điện công quăng vù cây đuốc, ánh hồng chạy theo hình thước thợ bay vút về phía kiệu son, cả khu suối đã thành hình chữ "T" in kép lửa. Cây hồng đuốc chui tọt vào kiệu, Võ sực hỏi lớn:

            -Quý nhân chưa cho biết tên họ!

            Tiếng cười ha hả vọng lên hồn nhiên hết sức:

            -Ha ha! Vậy ra chú mày vẫn chưa biết tớ là đứa nào ư? Thấy đám rước thần tàn lọng, kiệu sơn son thếp vàng, còn chưa biết ai ngồi trong. Thôi! Đúng chú mày mới ở bên Tàu bên Tây về nước rồi! Tớ là Thần đây mà!

            Ngạc nhiên, Võ buột miệng:

            -Thần? Lạ dữ chưa! Trùng tên với mỗ!

            Lập tức tiếng trong kiệu bốc cao giật giọng:

            -Sao? Chú mày cũng là Thần? Hay dữ a! Thần ngộ Thần! Nhưng chú mày là loại thần gì chứ?

            Ngơ ngác, Võ nhíu mày:

            -Thần là Thần chứ còn gì nữa! Minh Thần! Còn quý nhân...

            -A! Thần Minh Thần! Tớ là thần Đổ! Vẫn ngơ ngác, Võ hỏi:

            -Thần Đổ? Mà sao lại đổ?

            Võ định hỏi "Đổ" gì? Đổ vỏ hay đổ đất đổ cát, lại hãm được. Tiếng trong kiệu quát:

            -Còn đổ gì nữa? Đổ Bác chứ còn gì? Chú mày là dân trùm xì phé, xóc đĩa, không biết Đổ Bác thần này sao?

            Cả Minh Thần, Quản Kình bỗng giật nảy mình, nhìn nhau chột dạ. Mãi khắc đó, hai người mới sực nhớ đến "Tứ Hung Tứ Khoái". Trong thiên hạ có bốn nhân vật khét tiếng được giới giang hồ tứ chiếng Tàu Ta liệt vào hàng chúa tể bốn món khoái hung nhất đời: Tửu, Sắc, Yên, Đổ! Với câu truyền tụng "Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ", mỗi vị một phương, bản lãnh cao cường, nghề chơi cũng trác tuyệt, bốn vị hung thần khoái thần này được thiên hạ kể như "bốn món ăn chơi" ai gặp chưa hẳn là có phúc! Vì cả bốn nhân vật này đều là hạng quỷ khốc thần sầu ẩn hiện bất kỳ, tính nết dữ hiền tỉnh say không lượng! Và cùng với tứ dị "Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu" thành bát quái khắp mấy dải Lĩnh Nam, Bắc Quốc ai cũng phải ngán.

            Bất giác, Võ vùng hỏi lớn:

            -Đổ Bác thần... có phải thiên hạ thường gọi Nam Đổ chăng?

            -Còn gì nữa! Nội nước Nam này chỉ có một tên trùm Đổ Bác, đánh bạc như thần, vơ tiền như chớp, thóc đụn tiền kho, đứa nào không biết! Hồ lì đâu? Giải chiếu! Đánh ngay trên suối cho mát mẻ!

            Thuộc hạ dạ ran, người ngựa chợt di động như đèn cù, từ dưới, một người cao lêu nghêu mặc áo the, thắt lưng đỏ, chít khăn, tay cầm loa đi một cặp cà kheo lênh khênh gần chạm ngọn cây, bước lên đứng giữa suối, gọi loa rền rĩ, bọn cầm túi roi tay thước chạy lăng xăng dẹp đám, mấy tên vạm vỡ khiêng lên một bộ ghế ngựa đặt phăng giữa suối thành một cái sập rông, một tên gầy gò áo the rộng lùng nhùng trải một chiếc chiếu hoa cạp điều, vẻ rất thạo, quát một tên đàn em đội ra một cái rương đặt phịch góc sập. Bọn chúng làm rất nhanh, gọn, bọn hồ lì quen giải chiếu mời khách đến độ "đồng thuộc".

            Thầy trò Võ Minh Thần ngó đám người chạy lăng xăng thoắt đã thấy giữa một vòng nhân mã, đuốc sáng rực như hồi nãy trên gò, bỗng thấy một đám tàn lọng cờ quạt nhấp nhô tiến tới, bọn khiêng kiệu đặt phịch xuống đất, kiệu vẫn còn cao đến gần tám thước tây, một bọn cầm cờ quạt cắm lia lịa quanh khu kiệu, sập, tàn lọng che nghiêng cả về trước cỗ kiệu. Bọn đồng nam đồng nữ thoăn thoắt trèo lên kiệu, chợt bốn tên cầm lọng xanh lội sang suối che luôn trốc đầu hai thầy trò Võ, chàng trai ngơ ngác lúng túng chưa biết tính sao, vùng hướng sang cỗ kiệu nói lớn:

            -Đổ Bác Thần! Mỗ xin khất tuần sau! Thú thực mỗ bị trọng thương, đang chạy kẻ thù nguy hiểm, trong mình khó chịu không thức chơi được!

            Tiếng trong kiệu hắt xuống:

            -Chơi một canh! Tớ ghiền lắm rồi; gặp thần đổ bác, không làm một canh sao được! Bị thương? À! Không sao, tớ có món thuốc bổ âm như thần uống một viên thức hàng tuần vẫn tỉnh như con sáo à! Sao? Chú mày chạy kẻ thù à? Không hề gì! Cứ ngồi chơi, nó đến, tớ bắt đánh một canh được rồi!

            Võ Minh Thần, Quản Kình hết sức khổ tâm bực mình bối rối, muốn bỏ đi xem chừng rất khó, phải hạ hết mới đi nổi. Đang nát óc, dòm lại, bất thình lình sực thấy ánh đuốc hiện chập chờn trên ngọn đồi sau lưng, Quản Kình bật kêu:

            -Nó kia rồi! Nó đuổi tới... phải đi mau!

            Minh Thần chưa kịp đáp, tiếng trong kiệu đã vọng ra:

            -Phải lũ đuổi chú mày? À! Cứ đứng chơi! Bay đâu! Đón mời đám khách mới! Hồ lì! "Đèn thần" đâu sao chưa đưa ra? Đánh bạc phải chơi đèn mới phải phép chứ!

            Thầy trò Võ nóng lòng như lửa đốt, chợt thấy gã hồ lì trưởng tốp khệ nệ bưng ra một cây đèn đặt giữa sập. Phải gọi là cây đèn quái mới đúng vì tuy chỉ là một cây đèn thắp bằng dầu hôi, nhưng cả đời hai người chưa thấy cây đèn nào vĩ đại đến thế. Đèn cao viễn chiếu, nguyên chiều cao của nó đúng bằng một người cao nhất, chân đèn to như cột đình, còn cái phao còn quá cỡ, chu vi đúng bằng cái nia đường kính tới thước rưỡi tây, không biết đổ mấy thùng dầu mới đầy. Cái bóng đèn bằng pha lê còn to gấp mấy cái chân, nguyên ngọn đèn mỗi bấc cũng hơn ba gang tay đường kính. Thấy hai người trố mắt dòm cây đèn quái gở, nhân vật trong kiệu nói vọng ra:

            -Cây đèn thần này phải "thửa" mấy hãng mới được đó. Tớ đã "thửa" một cây đèn "măng xông" tận bên Tây chưa thấy gửi sang!

            Võ ngoảnh nhìn ánh lửa sau lưng rõ dần, vùng nói lớn:

            -Đổ Bác Thần! Để mỗ đi cho tiện! Bọn chúng lợi hại vô cùng, mỗ không biết đánh bạc, trong túi chỉ còn ít đồng "xòe"! Vừa dứt lời bỗng cả hai cùng giật mình một cái nghe tiếng cười hắt xuống:

            -Không sao! Tớ có vàng bạc, chú mày có vòng ngọc điểm huyết, đủ rồi! Chớ ngại! Đổ Bác Thần chơi rất đường hoàng, được ăn thua chịu, không bịp đâu!

            Minh Thần động tâm, vùng hỏi:

            -Sao biết có vòng xanh?

            -Kha kha! Đổ Bác Thần tinh mắt, chú mày đeo vòng xanh lè đỏ khé trong ống tay áo lại không thấy ư?

            Hai người dòm xuống, lúc đó quả chiếc vòng bị ánh lửa phản chiếu phát sáng xanh, đỏ rực như dạ minh châu, đến nỗi chỉ nhìn xuống suối cũng thấy ánh dị lấp lánh.

            Còn đang túng xử, đã thấy gã hồ lì cầm đuốc thắp đèn, ánh sáng bừng lên, khói lửa vĩ đại chiếu sáng rực cả khu chiếu bạc. Bọn đồng nam đồng nữ khiêng từ trên kiệu xuống mấy cái rương, mở ra, đầy ắp bạc "xòe", bạc giấy, vàng lá, vàng thoi sáng chói.

            Quản Kình buột miệng bảo Minh Thần:

            -Thần Đổ Bác giàu dữ à! Không thua Thạch Sùng, Mao Diên Thọ, đi chơi còn đem theo hàng mớ chắc ở nhà đầy kho!

            Kình thì thào ghé sát tai chủ, nào dè vừa dứt lời bỗng nghe tiếng quát từ trong kiệu hắt xuống:

            -Nói càn! Phỉ thui! Oải đen! Đóng cái miệng lại! Thiên hạ đông tây nhiều đứa còn máu mê cờ bác, của cải cơ nghiệp nhà nó là của tao, vàng bạc châu báu thiếu chi, nhà băng còn chưa ăn đứt tao, sao ví với mấy thằng đó! Vương Khải tiền phúc hậu bần, hạng ngu dốt, ngáp phải ruồi, có ít của, hết vận may sạt nghiệp chết hóa con thạch sùng tiếc của tặc lưỡi nghe ngứa cả tai. Còn lão Mao Diên Thọ là hạng gian thần mãi quốc, thừa cơ ăn hối lộ, tích của ngồi dòm, của cũng hết mà đầu cũng đứt. Còn như lão Quách Khai nước Triệu, cực phẩm đại thần mà còn tham của địch Tần. Vàng tích mấy mươi xe, khi Triệu mất, vàng, đầu cũng mất. Còn tao đây Đổ Bác Thần làm giàu chính đại, được ăn thua chịu lầm thua dốt nát mất tiền, giỏi cứ việc vơ tiền thiên hạ giàu có cả đời, tụi nó máu mê bao giờ tao hết của? Tao đã giầu vậy, chủ mi kém gì, có cả càn khôn trong túi, vàng bạc nào mua nổi càn khôn?

            Hai thầy trò đều kinh ngạc không hiểu sao nhân vật trong kiệu bên kia suối lại nghe nổi lời Quản Kình nói nhỏ, cả hai còn đang ngơ ngác nhìn nhau đã thấy sau lưng rầm rập, ngựa hí quân hò inh ỏi, từ nẻo rừng già đèn đuốc đổ ra sáng rực, nhác trông tàn vàng tán tía biết ngay lính tráng cổ kim của Ma Quân Bá Âm đuổi tới, tiếng trong kiệu vọng ra:

            -À tụi nó đến kia! Phải tụi rượt chú mày? Coi như cáng võng của "con ma trăm giọng"!

            -Dạ chính y! Con chó sói thành tinh lúc hóa đàn bà, Ma Quân Bá Diện đó!

            -A! Vậy đợi chút, tớ tính cho, làm canh sau chưa muộn!

            Lời vừa dứt, đã thấy đám tàn tán dàn đối diện vòng ngoài, có tiếng loa vang động chõ vào:

            -Nghe đây! Xa giá Thánh quân tới, truyền dẹp đường lặn trốn xuống sông tẩu thoát! Nhưng sao nạn nhân bị chúng hại lại biến hình như nhau?

            Chúa Pi A Ya gật đầu:

            -Lão mỗ có nghe thiên hạ đồn vào chơi, không thích, bỏ đi tùy ý. Đây sòng bạc của Thần, không có giặc, địch lôi thôi, chỉ có chẵn lẻ.

            Tiếng loa vang dậy, cứ bên kia hô "dẹp đường" bên này hô "xáp chơi", bên kia hô vào bắt giặc, bên này lại hô chỉ có khách đỏ tới vây đánh, nó phải chạy biến, mới để lại xác nạn nhân. Chính viên chính giám binh đã tới động này, kể cho lão mỗ nghe! Lão mỗ một thời đã tiếp đấy, phải Đổ Bác Thần? Sao không bảo đầy tớ lui ra, cho Thánh quân bắt hai tên trọng phạm?

            Lúc đó tiếng trong kiệu mới vọng ra như chuông khánh:

            -Tàn tán thoáng ngơ ngác ngó chàng khách trẻ đang nghe bỗng sa nước mắt. Pi A Ya ngạc nhiên hỏi:

            -Kìa! Sao công tử lại khóc? Lão phu có... làm công tử buồn bực thua chịu, tinh ăn lầm thua vô ý mất tiền, đứa nào bịp, ba đời đi hành khất"!

            Tiếng cười thét nổi lên:

            -A, con ma đổ bác này khôn dữ, chuyên rủ người đánh bạc để lột tiền của, đồ gia bảo. Nhà ngươi định lột vòng càn khôn của hắn?

            -Chớ lộng ngôn, nói giỡn! Hắn có thể lột hết nghiệp của ta. Đã gọi đỏ đen, ai dám chắc? Đổ Bác Thần lại không thể thua thằng vận đỏ được ư? Tài giỏi mấy cũng thua thằng vận đỏ, ta đôi xì đôi tẩy, nó hai con sất, nó tháu, ai biết nó tẩy xì, tẩy sất? Không bắt có mà điên, bắt vào nó tẩy sất chết không kịp ngáp!

            Im lìm, khu rừng vụt chờn vờn sát khí. Mũi súng gươm lừ lừ lăm le nhả đạn. Chợt xa xa cáng gấm theo tàn tán lướt lên, có tiếng quát sắc đủ mọi thứ giọng làm ngựa đồng hí loạn bậy cả lên:

            -Nếu ta không thích đánh bạc?

            -Thì đánh nhau! Lệ ta đã đặt, sòng bạc dựng, chiếu hoa trải sẵn, đèn thần đã châm, toàn quyền thống sứ đến cũng vào chiếu bạc muốn phá sòng cứ đánh bạt Thần đi!

            Lại im. Cáng gấm khôn", nhất Tây Sắc tinh mười bảy năm trước nó sục sạo rất dữ nhưng lâu nay tự nhiên mất tung tích, chỉ còn nghe nói có con thuồng luồng cùng lũ quái nhân. vừa đánh bạc! Ta có nhiều rượu ngon!

            -Càng hay! Bay đâu! Mời khách quý vào! Gã đi cà kheo lênh khênh bước qua suối, bắc loa gọi rền rĩ, đám quân hầu đầy tớ của Đổ Bác Thần lập tức dạt ra mở một lối đi rộng ngay qua con đường mòn. Tít ngoài xa dưới vầng sáng đuốc chập chờn thấy nhô vụt lên cao, tàn vàng tán tía dập dờn chạm ngọn cây có tiếng quát vọng vào, mỗi tiếng một giọng nghe như đóng búa lỗ tai.

            -Uống rượu nghe nhạc đánh thắng bạc, quả nhân sẽ dẫn thầy trò khách vòng xanh đi, còn nhà người cũng phải theo quả nhân làm nội thị!

            Tiếng trong kiệu hắt ra:

            -Không những thế bao nhiêu của cải quân hầu, đầy tớ của ta sẽ nhập cả vào kho ngươi! Còn nếu ngươi thua?

            Lưỡng lự ít giây, tiếng Bá Âm vọng tới:

            -Thua tất nhiên quả nhân sẽ để của quý lại cho ngươi! Và quả nhân sẽ để cho ngươi mọi điều tùy ý người sai khiến! Nhưng cấm làm trò quỷ thuật!

            -Yên chí! Ngươi sòng phẳng lắm, nếu ta lắt léo gạt người, thiên lôi đả chết! Kiến mục dị chi... hèn! Thần Đổ Bác nổi danh thánh sư cờ bạc vì tài nghệ cao thấp, chơi đúng đỏ đen, được ăn thua chịu, ta dẫu máu mê, rất ngán danh cờ bạc bịp! Nếu ta chơi cờ bịp tam đại ăn mày! Vào mau! Thần Đổ Bác nhập rồi! Còn thầy trò chú Thần kia cứ đứng chầu rìa cho tăng phần long trọng! Canh bạc này to nhất Đông Dương!

            Ngoài xa chợt tiếng nhạc trỗi lên, vừa đàn sáo bát âm sênh tiền, vừa kèn Tây, trống Tây dập dình trầm bổng, cứ một cung Lưu Thủy, lại một cung Bình Hành, hòa tấu lẫn lộn nghe rất lạ tai, thầy trò Võ Minh Thần nhìn ra, tiếng tốp quân mặc áo lốt lính khố xanh, khố đỏ, phò cáng gấm lên vào tàn vàng tán tía, nghênh ngang đi đầu là viên râu xồm xưng là Điện tiền chỉ huy với mấy tên quân mặc áo màu đỏ cầm giáo dàn mặt đúng nghi thức vương Tàu xưa, bên tả vẫn mấy ả phi hầu mang các đồ tửu khí nhật dụng, dàn nhạc theo sau. Đoàn người ngựa kỳ dị đi êm như lướt trên mặt cỏ, đã thoắt chuyển dịch tới gần chỗ thầy trò Võ đứng ngựa cách đường năm bảy bộ. "Rạp" đứng cả lại âm nhạc tắt, lúc đó cáng còn cách bờ suối khoảng bốn năm thước. Lập tức, phường kèn nhạc của sòng bạc cất lên một bản nhạc như đón chào khách quý. Khi nhạc hết lập tức có tiếng quát lui trong cáng, đám quân phò cáng cúi đầu kính cẩn đi vòng lại bên cáng, buông súng gươm giáo mác chào nổi nhạc, lục đục lội ra thẳng tít phía ngoài xa, dàn đợi xa xa, chỉ còn bọc che tàn tán phủ cáng, gái hầu.

            Ngay lúc đó, đám quân phu kiệu cũng rút hết ra sau chỉ còn để lại bọn đồng nữ, phu kiệu cùng tốp hồ lỳ. Trong kiệu có tiếng vọng ra, giọng thấy cao hứng:

            -Khách quý vào sòng! Hồ lỳ đâu! Đồ nghề!

            Hồ lỳ dạ ran, tiến lại bên sập mở nắp rương lôi dụng cụ đổ bác ra.

            Võ Minh Thần bình sinh chưa hề chơi cờ bạc bao giờ, ngoại trừ vài lần theo tôn sư, bạn bè chầu rìa đám bạc, hoặc theo vào sòng bên Hồng Kông, trên Packha nhưng chàng trai không có máu mê nên đến nay vẫn hoàn toàn mù tịt, như chim chích vào rừng.

            Trái lại, Quản Kình lại là một tay chơi một thời, nhất hồi còn "đi lính sang Tây", nên cũng thạo nhiều món, ghé sát bên, thì thào giảng từng môn một cho chủ hiểu. Hồ lỳ trịnh trọng bày đồ nghề ra sạp, đâu vào đấy, chợt y bưng ra một cái bát hương, một cỗ bài vị sơn son, có viết ba chữ vàng "Đổ Bác Thần" lấp lánh. Đoạn y thắp một bó hương lớn cắm bát hương rồi cùng đám "đàn em" đứng chắp tay kính cẩn hướng vào "bàn thờ".

            Từ trong kiệu, bỗng có tiếng vọng ra, "khởi chinh cổ" ngân nga hệt giọng văn tế. Rồi sau mấy tiếng "hương bá" kéo dài, trong kiệu bỗng vọng ra đúng giọng "phụ đồng ếch" vang động cả cánh rừng khuya:

            -"Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn đổ bác hồn lạc phương nào nhập vào chiếu bạc! Mấy tầng lính gác cũng cố mà vào, mấy tầng gươm đao cũng vào cho được! Phụ đồng bạc thỉnh hồn đổ bác về ngự chiếu bạc, về vác đống tiền, ba bề bốn bên đồng lên cho chóng, mấy tầng cửa đóng cũng cố mà vào, mấy tầng nhà rạp cũng vào cho được!

            Phụ đồng cờ, phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác! Nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết cho chân vào cùm, về nhà vợ chửi um sùm, hết tiền hết bạc nhảy ùm xuống sông. Đổ bác phụ đồng vào trông chiếu bạc, phụ đồng cờ bạc thỉnh hồn đổ bác nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác thằng giàu, tiền làng vơ hết tậu trâu tậu bò, canh bạc tốt, tậu nhà mấy hồi sắm ngựa cưới ba vợ liền!

            Bạc tốt như tiên, bạc tiền bạc của! Phụ đồng cờ bạc! Thỉnh hồn đổ bác nhập vào con bạc! Cờ bạc là bác đỏ đen, ngồi vào chiếu bạc như tiên non bồng, cờ đen mất vợ mất chồng, mấy canh bạc đỏ như rồng gặp mây. Máu mê chơi suốt đêm ngày, tổ tôm xóc đĩa cò quay tài bàn. Một canh khát nước đời tàn, mấy hồi tháu cáy tiền nàng vào tay. Máu mê cờ bạc đêm ngày, một canh bạc bịp mặt ngây cán tàn.

            Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Thỉnh hồn đổ bác nhập vào chiếu bạc, nhập vào con bạc, nhập bác thằng bần, nhập gần nhập xa, nhập qua nhập lại, nhập tái nhập hồi, nhập vào chiếu bạc".

            Tiếng phụ đồng đổ bác tuôn như nước chảy, bó hương lập lòe như lên đồng, khói xám tàn bay. Võ Minh Thần liếc nhìn không khỏi ngạc nhiên thấy bài vị bát hương sập gỗ chiếc cạp điều, bọn hồ lì cùng tàn lọng, kiệu son, đồng nam đồng nữ cũng đảo theo coi hết sức quái gở. Chàng trai liếc sang bọn Bá Diện Ma Quân, cũng thấy cáng gấm, quân hầu nam nữ lắc lư hòa nhịp!

            Bèn ngó sang Quản Kình định nói chi bỗng trố mắt sửng sốt, thấy Quản Kình cũng lắc theo. Rồi chợt ngạc nhiên bỗng thấy chính mình cũng lắc lư như lên đồng. Võ vội định thần chú ý mới hay chính con ngựa đang lắc lư ngả nghiêng theo nhịp phụ đồng đổ bác. Võ vội gò cương, vỗ nhẹ ngựa, thích Quản Kình. Y bàng hoàng chớp mắt, lật đật định thần. Võ khẽ bảo:

            -Coi chừng! Phải tỉnh táo! Nhân vật Đổ Bác Thần trong kiệu rất giỏi thôi miên đó! Giọng tống cho phụ đồng của y có mãnh lực "ru ngủ" người vật như không! Điện lực y càng ghê, phát ra chấn động cả tàn lọng bát hương đảo nghiêng ngả mà vẫn ung dung! Cuộc chiến đấu sẽ gay go hết sức! Đông Âm, Nam Đổ này là loại gì đây? Sao không thấy xuất hiện? Chiếu trải kia chắc phải xuống ngồi.

            Chợt tiếng phụ rất người chợt vụt im phăng phắc, tiếng trong kiệu cất cao:

            -Thần nhập rồi! Vào cuộc! Xóc đĩa, thò lò, quay đất, bất, đố mười, còquay, trạc tếch... thích chơi món nào trước cứ chơi! Nào! Xuống chiếu cạp điều!

            -Khoan! Ta không ưa xuất đầu! Ngồi trong cáng kiệu, được rồi! Rượu, nhạc đã!

            -Ôi chao! Chơi vậy đâu có khoái! Lại mệt nữa! Thôi cũng được! Tiền chủ hậu khách, ta bàn thế này: mời sang nhà nhau uống vài tuần rượu rồi chơi! Dân đổ bác chính tông phải hào hoa phong nhã! Ta mới cất được vò "rượu quý" ngâm "hổ tu trùng" ngon hết sức!

            -Hay lắm! Quả nhân có vò "mỹ tửu" cất toàn phân rãi "kim tằm trùng" thơm dữ, chắc ngươi vừa ý!

            Thầy trò Võ nghe qua hai nhân vật trong Tứ Hung Tứ Dị giới thiệu rượu quý cũng đủ ớn gáy. Vì cả hai món đều thuộc loại cực độc trên thế giới. "Hổ tu trùng" là giống sâu râu cọp sinh, còn "kim tằm trùng" là cũng do độc chất mà ra. "Hổ tu trùng" dân miền núi Đông Dương cũng có một số dòng họ nuôi còn "kim tằm trùng" nguyên của dân Miêu bên Tàu, một sắc dân quán quân về môn đầu độc chế ra...

            Thầy trò Võ còn đang ngó nhau phát ớn, chợt nghe tiếng hô "nào quý khách đâu", bỗng thấy rèm phủ cáng lay động cuộn lên rồi dưới vùng đèn đuốc sáng rực, một bóng đỏ chót lăn xòa, bắn vọt từ cáng qua suối phi tọt vào cỗ kiệu son!

            Từ chỗ cáng gấm đậu đến cỗ kiệu son khoảng cách độ chục thước, bóng đỏ bắn sang nhanh đến nỗi hai thầy trò Võ Minh Thần chỉ kịp thấy một khối đỏ như con bướm xòe cánh bay sang, không ai nhận ra hình dạng "con" gì cả!

            Và khi con bướm đỏ đã chui vào kiệu, luồng gió tạt lại phả vào mũi hai người một mùi thơm thơm hăng hắc kỳ ảo lạ, phảng phất rõ mùi da thịt đàn bà. Quản Kình dòm trố mắt, ghé tai chủ trầm trồ:

            -Ghê dữ à! Nó nhảy sang như tên bắn chim bay, cậu hai có thấy rõ hình thù không? Lại có mùi giống cái!

            Chàng trai ngó cỗ kiệu kín, trong rèm còn lay động, nhíu mày, vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu:

            -Lạ thật! Lần này lại giống hệt con bướm đỏ, nếu không phải hóa hình, có lẽ "nó" khoác mảnh lụa hình con bướm, dang tay nhảy sang. Kỳ dị nhất là "nó" tiết ra mùi "người" đàn bà hệt ban nãy trên gò! Mùi nữ nhân này, thường xưa nay người nào nhuận thịt, thắm da lắm mới có!

            Cả hai lòng đầy thắc mắc, cùng nghĩ đến "con tinh đực Hồng Cẩu Quẩy chúa" đã ép duyên hấp sát mười bảy năm về trước, và đầu óc càng hoang mang, nghi vấn nặng.

            Lúc đó, bốn bề im phăng phắc, nghe rõ cả tiếng ngựa thở phì quất đuôi. Chợt trong cỗ kiệu son bật lên một thứ ánh sáng xanh lè như đom đóm lân tinh, nhưng rèm kiệu dày, không rõ hình bên trong. Chợt nghe tiếng oang oang phát ra:

            -Đông Âm nổi danh hiếu khách thường mời khách uống rượu nghe nhạc, tất là bậc hiếu âm! Nay mời Đông Âm uống rượu, không có nhạc, chẳng hóa

            Đông Câm! Ta cũng võ vẽ học nhạc, xin thổi một bài mừng quý khách nghe chơi trước khi uống rượu!

            Lời dứt, âm thanh nổi lên ngay, không phải tiếng đàn địch chi cả mà là tiếng kèn đồng. Tiếng kèn ồ ề gióng lên nghe thê thảm hết sức làm thầy trò Võ Minh Thần đứng bên này chợt nổi da gà, chạnh niềm tưởng ngay tới tử biệt não nề, vì cung âm quen thuộc muôn đời, bất cứ người Việt nào nghe cũng mủi lòng thảm thiết nghĩ tới cảnh chết cha chết mẹ đưa đám bà con. Vì đó là "tiếng kèn đám ma" thổi điệu Lâm Khốc! Trong đêm khuya rừng vắng, trăng nhạt sao mờ, giun kêu dế khóc, tiếng kèn não ruột bổng trầm rên rỉ ò e, trước còn nghe ra tiếng kèn, sau một hai cung tiếng kèn "đi" luôn vào chiều sâu linh hồn tâm tư tri giác hòa với lòng người thành ra như tiếng người than khóc gào rống hàng chục, hàng trăm, hàng chợ người tóc xõa, đội mũ rơm, mặc áo xô gai, chống gậy rơm lăn lộn kêu gào than khóc... trong lỗ tai, làm chàng trai mồ côi nghĩ ngay tới đám tang ông già họ Võ nghĩa phụ, đến cái chết thê thảm của mẹ chàng, tự nhiên nước mắt chảy ròng. Thầy tớ đều cúi đầu lặng lẽ, hai con mắt đỏ hoe. Cho đến khi tiếng kèn ma dứt hẳn, thì cả cánh rừng khuya như biến thành một bãi tha ma. Bỗng nghe tiếng hét lanh lảnh trong kiệu:

            -Ma đổ bác này! Mừng khách sao thổi kèn đám ma?

            Tiếng oang oang vọng ra như vừa khóc vừa quát:

            -Kiếp phù sinh nhanh như gió thoảng hữu hình hữu hoại, người ngợm ma quỷ thần thánh gì cũng không thoát khỏi vòng sinh diệt. Nhà ngươi giống gì, đã có hình tất có hoại, ta đãi ngươi rượu quý, có thể đưa về âm phủ, ta phòng xa tống tiễn, kèn đám ma thì vừa! Bài nay Nam Khấp có lần đãi ta, nghe buồn chết cha chết mẹ, ba vạn sáu ngàn ngày nhanh lắm, nghe một lần chết khỏi nghe! Ồ! Coi kìa! Bọn chúng đều chảy nước mắt! Ha ha! Thiên hạ Đông Tây sớm muộn đều chết cả, kèn đám ma của ta ăn khách, thua chi Nam Khấp. Cám ơn các chú mày đã khóc vì tiếng kèn ta!

            Võ vội lau nước mắt, bỗng giật thót mình sực nghe tiếng lảnh trong kiệu vọng ra cười khanh khách:

            -Đổ Bác! Ngươi đã lẫn rồi ư? Bá Âm Bá Diện Thánh Quân không cần nghe tiếng kèn chó chết của ngươi! Để dành thổi... đưa đám tang nhà ngươi! Hà hà! Còn ta! Càn khôn, càn khôn, hựu càn khôn, càn khôn đảo lộn! Hà hà! Càn khôn sắp vào tay quả nhân! Rượu quý đâu? Đưa uống cho rồi!

            Tiếng oang oang ré lên khoái trá:

            -À à! Nếu ta quên! Nếu vậy càng phải đãi ngươi kèn đám ma. Còn ta! Kha kha! Càn khôn đảo lộn càn khôn vào tay ta! Kha kha! Chơi một canh, đứa nào ăn nổi Đổ Bác Thần? Nào! Rượu quý đâu, cùng nhau cạn chén! Đây đây!

            Thấy chứ? Con "hổ tu trùng" này thuộc giống hổ vằn, nó lên mười đó! Một hòn phân mắt muỗi, cả chợ nghe kèn!

            Rồi trong kiệu chợt im. Mọi thứ đột nhiên im lìm như trong quan tài. Hai thầy trò Võ lắng nghe, mắt không rời kiệu, tưởng tượng cảnh đối ẩm bên trong "cỗ kiệu rước thần".

            Võ khẽ bảo Quản Kình:

            -Chú vừa nghe rõ chứ? Hai "nhân vật" ma quái kia vừa nhắc đến câu "càn khôn... đảo lộn", Tửu Chúa từng đọc trên Hồ Kiều! Chắc có điều bí ẩn liên quan đến cái vòng điểm huyết này.

            Quản Kình gật đầu:

            -Tôi cũng nghĩ thế! Cứ như lời họ vừa nói, vòng cậu hai đeo dính dấp tới càn khôn vũ trụ chăng? Nên thiên hạ nhiều người muốn chiếm, ông bà trước bị hại cũng vì thế!

            Hai người bàn bạc to nhỏ chừng mươi phút, trong kiệu vẫn im lìm. Kình thì thào:

            -Hổ tu trùng độc ghê gớm... ma quái uống vào cũng chết như không, hay họ gục cả rồi?

            Võ đang nghiêng ngó, lắng tai, sực nghe trong kiệu có tiếng vùng nói lớn, lần này năm bảy thứ giọng:

            -Cám ơn! "Hổ tu trùng" của ngươi ngon lắm! Giờ sang nếm thử "Kim tàm cổ tửu" của quả nhân! Nào!

            Hai người trừng nhìn không chớp, lòng hồi hộp, bỗng cửa rèm trước lay động, rồi bóng con bướm đỏ to bằng người bắn vụt sang phấp phới, đúng con bướm vỗ cánh, vút cái, đã chui tọt vào cáng gấm mất dạng, Lần này Võ nhận rõ thêm chút... thấy càng giống một con bướm khổng lồ, cũng rõ cả cái đầu đúng đầu bướm có cả ria, mắt trố lồi như hai hòn bi ve sáng loáng.

            -Hừ, bí mật! Người hay ma quái? Thời buổi điện lực máy móc này có thể có loài tinh hiển hiện nhãn tiền có trăm mặt? Hay...

            Nghĩ loanh quanh chưa dứt đã thấy rèm động lần nữa, rồi cả hai giật mình sửng sốt thấy một con dị điểu đo đỏ đen đen to bằng người từ trong kiệu son bay vù ra xòe cánh vút qua suối, vừa tới cáng thu cánh, chui luôn vào, êm như không.

            Nhờ ánh đèn lửa, hai người thấy mình nó đỏ, mỏ đỏ, cánh đen, chân đen, đầu đen tựa con quạ, coi hết sức quái đản. Hai thầy trò nhìn nhau lại một phen điên đầu chẳng hiểu chim ma chim quái, hay người vật khoác lốt chim.

            -Mình có cánh đen... khoang đen đỏ như quạ. Đổ Bác Thần là con quạ? Vô lý!

            Im mấy khắc, bỗng trong cáng vọng ra từng tràng âm thanh dữ dội, như xé rách không khí, chiêng khua trống gióng, kèn thổi tiêu lộng như trời long núi lở vang động rừng khuya... Tiếng "đại hòa tấu" hai thầy trò Võ đã nghe qua, nhưng không trực chỉ vào họ, nên chỉ thấy chói tai, không cần vận sức chống. Mấy phút sau, âm thanh tắt, có tiếng ong ong cất lên:

            -Vạn tạ Đông Âm gẩy đàn ồn hay dữ à! Rượu quý đâu? Uống vào còn chiến! Ta ngứa tay lắm rồi! A! Đẹp chưa! Ma quân nhà ngươi nuôi được con trùng ngộ lắm, coi không khác con chim trùng "thần nanh đỏ mỏ".

            -Kim tằm cổ trùng này một người Miêu cống cho quả nhân đó. Lên mười rồi! Một giọt nước rãi, hòn phân mắt muỗi, đủ cho cả mấy họ về âm!

            Lời dứt, trong cáng im lìm. Không khí muốn ngạt thở. Khoảng năm phút sau, bỗng có tiếng lệnh vỡ khua chói tai hắt ra:

            -Ngon dữ à! Rượu chi uống một muốn mười! Nào! Rượu quý ngà ngà! Chơi một canh đỡ ghiền! Chớ để thần Đổ Bác chờ lâu! Xuống sập ngồi chiếu cạp điều mới thích!

            -Không! Chơi cách không! Nhà ngươi không bịp được!

            Cáng động rèm lay, bóng quạ khoang bay vụt qua suối, chui vào kiệu mất dạng, rồi có tiếng hắt ra:

            -Con bạc thích chơi món nào? Bất? Tài xỉu? Cò quay? Xóc đĩa? Món nào trước đây?

            -Năm món! Mỗi món ba tiếng! Ba ván thôi! Xóc đĩa trước!

            -Hồ lì đâu! Đồ nghề! Gã cao mặc áo the "dạ" ran, bưng ra một bộ bát đĩa đặt giữa sập, mở ra trong có bốn đồng "trinh" Khải Định sáng loáng. Gã quơ vạt áo the lau bát đĩa, tiện tay lấy vạt áo phủi lia lịa mặt chiếu, đoạn lui ra chắp tay đứng một góc. Bỗng có tiếng lanh lảnh trong cáng vọng ra:

            -Tên hồ lì của ngươi coi như gã cờ bạc bịp! Sao không chơi tiền diêm? Tiếng trong kiệu cười ha hả:

            -À! Ngươi tưởng tiền diêm khó "nghe" tiếng bạc sao? Nếu vậy nhà ngươi phải bán vài cơ nghiệp nữa mới chơi nổi với ta! Phải biết dân chơi xóc đĩa huyết loang lổ gần hết vòng, thế thôi. Cũng không mọt vết nứt rạn.

            Xem lại bỏ xuống, ngồi uống nước, uống chán, lại xem. Lòng càng lạ lùng thấy mặt khác nhau là nghe được ráo. Kha kha! Cái mặt diêm có dán giấy khi ngã nằm xuống đĩa nó "sền sệt đùng đục" nghe càng sướng tai hơn tiền trinh. Thực ra, dân xóc đĩa bày đặt ra chơi diêm chỉ cốt cho êm ru, sợ lính nhà nước rình bắt. Ôi chao! Xóc đĩa mà lại im ỉm như pháo tịt ngòi, khác nào Bá Nha, Tử Kỳ, Sư Khoáng lấy phải con vợ điếc! Tiền đồng khua rền âm thanh nghe khoái lỗ tai! Coi! Bát đĩa của ta toàn đồ gia bảo, truyền đã năm đời! Nội khắp Đông Dương này, không có "bộ" nào sánh kịp!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần khoe bộ đồ nghề chi bảo, tưởng ít nhất cũng bát vàng chén bạc, mạ kim cương chi đó. Chừng dòm kỹ muốn cười phì vì chỉ là một thứ bát đĩa rất thường mà lại rạn vỡ nham nhở coi như bát đĩa ăn mày. Chừng bằng sắt, gỗ chi đó, tráng sứ ngoài, men sứ đã nứt nẻ, tróc lở lỗ chỗ, lòi cả lần cốt trong.

            Bộ bát đĩa này chỉ to bằng bát đĩa ăn cổ, nếu có đặc biệt, là màu men tráng bát đĩa đều chỉ hai màu đen đỏ, chừng tượng trưng cho món chơi đỏ đen. Hai thầy trò nhìn nhau, không dám cười, bỗng nghe tiếng trong cáng hắt ra thé lảnh:

            -Bát đĩa hủi! Đồ gia bảo gì coi như chén bát thằng ăn mày! Nhà ngươi vét bao nhiêu cơ nghiệp con bạc, không sắm được món đồ nghề nào dễ coi hơn? Keo bẩn!

            Tiếng trong kiệu vọng xuống đầy cao hứng:

            -Thị bất tri kỳ vật. Nhà ngươi là hạng hiếu âm ta mới cho chơi bộ đồ nghề quý hóa này. Nếu hạng trọc phú bò sữa ta sẽ để chơi bát vàng đĩa bạc! Phải biết về đời vua Gia Long, hồi triều đình còn lệ xử phạt nặng dân cờ bạc như đời vua Lê Thái Tổ, một lần, ông nội ta mở sòng tại một tỉnh có ông quan tỉnh rất ghét cờ bạc. Ông nội ta đang ngồi xóc cái bằng bộ đồ này, thì ông quan tỉnh kia dẫn lính ập vào êm ru, không ai biết. Và khi nghe tiếng xóc rồi, ông ta thành luôn một con bạc chính tông, ấy chỉ vì... mê đồng tiền xóc bằng bộ đồ nghề này!

            Thầy trò Võ Minh Thần nghe Đổ Bác Thần tán tụng mãi "bộ đồ hủi". Hai người không nhịn được cười. Quản Kình ghé tai tiểu chủ vừa định nói chi, bỗng nghe tiếng "cái xóc". Rồi "cạch cạch", chiếc bát động đậy, bất thần nhảy lên khỏi mặt chiếu chừng nửa thước tây, rồi lại úp chụp xuống, như có bàn tay vô hình mở ra "trình làng" nhìn cho tỏ bốn đồng tiền ngửa.

            Và lập tức cả bộ bát đĩa lại nhảy lên, lần này chỉ độ hai gang, hơi nghiêng, rồi cứ thế xóc liên hồi. Thầy trò Võ Minh Thần hơi giật lùi, nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức, vì bốn đồng trinh xóc trong bát úp thoát ra từng huyết rõ ràng đậm hơn trước, chàng trai vội soi sát ngọn lửa, bỗng nhận ra có điểm khác thường, vùng kêu lên tiếng "à" sửng sốt.

            Ngạc cả tiếng đàn cồng xứ Mường hay dùng, tiết tấu nhịp nhàng rộn rã, có hồi lại như chiêng khua, trống gióng, vui tai hết sức! Bát đĩa xóc rền đủ ba hồi, rồi mới từ từ hạ xuống mặt chiếu, dư âm còn thánh thót vang ngân trong tai mãi còn chưa dứt, cái bát xoay nửa vòng. Trong cáng tiếng dị bật lên lanh lảnh:

            -A... đàn xóc đĩa! Đàn xóc đĩa! Hay dữ! Ngộ dữ! Nghe vui tai lắm! Xóc thử hồi nữa mau! Quả nhân mê rồi đó!

            -Kha kha! Kha kha! Thấy không? Ta đã bảo đồ gia bảo ngũ đại mà! Đồ nghề bát đĩa thần nghe mà khoái chứ? Vậy mới xứng với món "đệ nhất khoái" chứ!

            Nhờ bát xoay nửa vòng, lúc đó Võ Minh Thần mới thấy rõ trên mặt bát có cẩn mấy chữ vàng lấp lánh như có cả dạ quang. Bên men đỏ có hàng chữ: "Thiên hạ đệ nhất khoái, hí cuộc tuyệt cùng". Bên men đen có hàng chữ "Thiên hạ đệ nhất hung, gia tài khánh tận".

            Vừa đọc nhẩm xong, bát đĩa lại nhảy lên mấy hồi nữa. Lần này âm thanh càng vang vọng giữa đêm rừng khuya, nếu không thấy bát đĩa xóc, người ta có thể tưởng tay nhạc sĩ rừng già nào đang dạo đàn, cũng như trước, cái bát chợt xoay nửa vòng, rồi nằm im.

            -Mở thử tiếng chơi!Tiếng trong kiệu vừa vọng xuống, chợt nghe tiếng trầm trồ suýt soa bên tai: "Sấp ba! Nhất định sấp ba!" Võ Minh Thần vội liếc nhìn sang, thấy Quản Kình đã hạ khiên xuống từ khắc nào, mắt nhìn lau láu vào bộ bát đĩa đặt giữa sập, miệng lẩm bẩm, xắn tay áo lia lịa, nhấp nhổm y hệt con bạc khát nước lăm le thò tay mở bát! Thì ra tiếng tiền đồng xóc rền trong bát đã khơi dậy "máu cờ bạc" trong người Quản Kình.

            Chàng trai họ Võ thích nhẹ khuỷu tay vào sườn người đồng hành, Quản Kình giật mình ngơ ngác, chợt ngượng, kéo vội khiên lên, nhe răng cười:

            -Sòng xóc đĩa... ma! Không người bát đĩa cũng xóc, tiền khua như gẩy đàn! Tiếng này chắc sấp ba!

            -Điện lực y mạnh lắm! Phát trảo xóc đĩa vững như cầm tay! Chú hiểu sao tiền phát âm lạ thế không? Bát đĩa này trong rỗng, sáng chế ra từ công phu dùng kim khí, dây vàng dây bạc, ve chai, da trâu... ghép vào lòng bát đĩa, có chia ra mấy bộ cung, mỗi cung nhiều âm, thành một cái "đàn bát", khi xóc, nhân điện ảm vào cũng như người ta đánh đàn cắm điện trời, nên tiếng mới kêu to đến thế! Coi chú có vẻ khoái đánh bạc dữ, chú đánh khá không?

            Quản Kình ghé tai chủ:

            -Biết đủ thứ! Tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa, quay đất, bất, tài xỉu, xì phé... ngón nào cũng được! Nói cậu hai đừng cười, hồi đi lính sang Tây tôi bịp cả tụi quan Tây, tiền vào như nước. Nghề bịp không đứa nào bằng!

            -À! Thế ra chú cũng là "vua cờ bịp" một thời! Hay rồi! Vậy mình đỡ lo! Chú nhớ giảng từng món cho tôi nghe! Đang thì thào, bỗng nghe tiếng trong cáng hô: "lẻ". Cái hô "bán lẻ"; cáng hô "lẻ", nhau kiện cáo lôi thôi. Sau Quản Kình được biết đó là cái vòng nhuộm.

            Bèn bảo Võ Minh Thần:

            -Bọn kim hoàn lắm người ma mãnh vẫn nhuộm vòng trắng biết chơi sao? Cái "cân hồ" mặt được thì hòa, mặt thua cho hồ. Hồ là ta, ta là hồ mà!".

            Lại xóc "lẻ", cái hô "bán chẵn". Con bạc nói lớn: "Cân". Chiếc bát bay vụt lên quật đến chát vào tên hồ lì, tưởng vỡ bụng. Tên hồ lì đưa luôn hai tay bắt dính. Sấp hai, Bá Âm thua một tiếng.

            Đến tiếng sau, Bá Âm lại thua. Con bạc thét:

            -Đổ Bác! Để ta xóc! Nhà ngươi bịp?

            -Chớ đổ oan! Đổ Bác Thần nghe tiền sấp, ngửa như... thánh, cần gì phải bịp!

            Im, rồi bát đĩa lại nhảy lên, xóc lung tung hai, ba hồi. Khi hạ xuống chiếu, Quản Kình thì thào:

            -Cái bát đàn này, nó xóc, nghe dễ hơn Đổ Bác Thần! Mặt có chữ hạ xuống đĩa sào sạo rõ thật! Cái này sấp ba!

            Chợt nghe Đổ Bác Thần trong kiệu hô "chẵn". Hồ lì xướng "chẵn đánh", cái hô "cân", xoay nửa vòng bát. Quản Kình ngạc nhiên bảo chủ tiếng này Đổ Bác Thần thua như chơi, bạc sấp ba rõ quá mà, nhưng khi mở bát ra, lại đúng sấp hai. Bá Diện Ma Quân hất tung cái đĩa tiền, hét:

            -Ma Đổ Bác đánh bịp! Sao lại sấp hai? Đổ Bác Thần cười ré lên:

            -Ngộ dữ chưa? Nhà ngươi xóc cái kia mà! Đã bảo: Thần không chơi bịp đâu! Sao không hỏi mấy đồng tiền?

            Bá Âm giận rít lên, cứ hỏi: "sao lại sấp hai", "sao lại chẵn", "tưởng"... Đổ Bác Thần cười ha hả:

            -Bất quá tam! Món khác!

            -Tài xỉu!Võ Minh Thần chợt bật cười. Bá Âm hét:

            -Vòng xanh! Cười gì? Sao lại cười?

            Võ điềm nhiên:

            -Mỗ cười... sao lại sấp hai! Đáng lẽ sấp ba mới phải!

            Có tiếng thở phì rung cả cáng rồi im bặt. Quản Kình vẫn chưa hiểu, cứ ngơ ngác ngó chủ. Võ ghé tai:

            -Chú chưa hiểu sao? Tiếng bạc vừa rồi đáng lẽ sấp ba. Đổ Bác Thần thừa biết sấp ba, nhưng y già đòn, đoán Bá Âm sẽ lật ngược nước bạc y đánh, vì Bá Âm biết Đổ Bác là vua cờ bạc, nghe không sai, nên tính bịp Đổ Bác. Bá Âm đinh ninh không sấp hai thì sấp bốn, ngửa tư nên dùng luôn điện công gẩy lật một đồng tiền, nào dè, bạc lại sấp ba, gẩy đồng nào cũng hóa ra chẵn hết.

            Quản Kình vỡ lẽ, chịu Đổ Bác ma mãnh. Canh tài xỉu bắt đầu. Quả nhiên Đổ Bác Thần đánh như ma xó, thắng cả ba tiếng bạc. Tiếp theo quay đất, xì phé, tam cúc, Bá Âm đều thua, tuy cũng có vài tiếng được, nhưng điểm số Đổ Bác Thần vẫn trội hơn. Cuối cùng, Bá Âm hét "cò quay". Vì hai con bạc, nên phải chia số, kẻ lấy chẵn, người lấy lẻ. Bá Âm nhận lẻ: một, ba, năm, bảy... hô:

            -Vòng xanh, quay tiếng bạc này!

            -À phải đó! Đánh bạc định mạng chú mày, chú mày làm cái giùm là phải.

            Minh Thần búng vù một nhát chỉ phong. Cần quay tít, bàn cò quay có gài thêm một bộ phận phát tiếng leng keng cho vui tai. Tiếng leng keng chậm dần, từ từ dừng lại số bốn. Tưởng dừng, nào dè lại lừ lừ trôi nhích sang số năm. Nhưng vừa chớm hàng kẻ vạch, chợt dừng lại nhích vào chút, rồi lại trôi, tới vạch lại nhích về bốn. Quản Kình thì thào:

            -Cả hai đang đấu lực ngầm! Cả hai bịp!

            -Không! Bá Âm thua, dùng ma thuật. Đổ Bác tự vệ, cuộc lôi, ghìm còquay còn ngụ ý thử lượng sức nhau.

            Võ vừa nói xong, bỗng cả bàn cò quay rung động bần bật, rồi "rắc" tiếng khô dòn, cần gỗ gãy làm hai, bắn tung lên cao. Rầm! Cả bàn quay cũng bắn lên theo. Gã hồ lì nhảy vọt lên đỡ lấy trịnh trọng đặt xuống chiếu. Bá Âm vùng rống lên cực kỳ bi phẫn:

            -Đổ Bác! Ta thua ngươi rồi! Giờ ngươi được một điều sai ta! Muốn gì nói ngay!

            Chỉ có tiếng Đổ Bác cười ha hả, Bá Âm hét:

            -Muốn gì? Muốn ta cởi trần không? Hay muốn ta nộp hết cơ nghiệp, quân hầu đầy tớ...?

            -Hà hà! Chưa muốn gì cả! Cho ngươi khất đấy! Và hình như vòng xanh đợi ta lâu rồi thì phải?

            -Đổ Bác! Vậy ta sẽ trả sau! Vòng xanh! Mong đánh giỏi hơn ta! Bay đâu! Hồi loan!

            Tiếng hô trăm giọng vang âm rừng đêm, lính tráng, phường kèn chạy vào, âm thanh Đông Tây kim cổ hòa âm bài "tẩu mã", cáng gấm nhô lên, tàn tán ngả nghiêng, đèn đuốc vật vờ, đoàn nhân mã bỏ đi vùn vụt theo âm điệu bôn hành, thoắt đã chìm hút cuối cánh rừng xa xa... Ánh lửa nhỏ dần trong sương mờ rồi chìm hẳn như đoàn âm binh rút về cõi âm bên kia thế giới. Ai nấy trông theo. Đổ Bác Thần phát cười sằng sặc:

            -Con ma trăm giọng định bịp cả Đổ Bác Thần! Ta cứ việc đánh sao cho nó lật ngược, thế là ăn hết! Ta đã được canh bạc to, nó thua liểng xiểng còn bị "tam đại đi ăn mày" đau hơn hoạn! Nào đến lượt chú mày!

            Biết không khất nổi, Võ Minh Thần nói lớn:

            -Thú thực mỗ đánh bạc dốt lắm, có khi chưa sạch nước. Nhờ cả chú người nhà đây bàn bạc được chứ?

            Lập tức có tiếng cười thét vọng sang:

            -Ôi chao! Cái mặt chú mày lì như cái phản hàng thịt, mặt vua xì phé thò lò xóc đĩa bầu cua mà! Làm gái mãi! Cờ ngoài bài trong kéo cả làng cả nước bàn bạc, ai cấm? Lạ đếch gì nữa, còn hỏi vờ.

            Võ đang thắc mắc chẳng rõ chơi cách nào, sực lại nghe tiếng Đổ Bác Thần kêu lớn:

            -Bá ngọ Bá Âm bày trò giấu mặt đánh mò như sẩm sờ, chán như cơm nếp nát. Giờ chỉ còn chú mày với tớ, mấy thằng ung dung chễm chệ ngồi chiếu cạp điều chơi mới khoái chứ. Nào! Hạ mã, thượng sàng thượng sập!

            Võ thấy hồi hộp lạ, chẳng rõ Đổ Bác Thần minh đặc biệt, học rộng biết nhiều, nên cha con Bạc Khao Lan đều thông minh xuất chúng, nào dè xem mãi cũng không đoán ra kiểu gì, chúa Pi A Ya nhíu mày lẩm bẩm: dọc từ cỗ kiệu ra đến sập, rồi bức rèm kiệu chợt lay động, vén lên, bóng con quạ khoang đen đỏ từ trong đập cánh bay vù ra, lao chúc đầu xuống sập kê giữa suối, nhưng khi tới nơi, chợt con quạ ngóc đầu lên, lẹ làng đáp xuống ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đúng dáng con bạc vào chiếu.

            Ánh đèn vĩ đại, ánh đuốc hắt sáng rực, soi tỏ mặt mũi, dáng hình, thầy trò Võ đứng cách có mấy sải trông rõ mồn một, lòng càng kinh dị, cứ giương mắt ngó chòng chọc không thôi. Vì đúng hình một con quạ, to bằng người ta, chỉ khác là quạ thường khoang đen trắng, quạ này lại khoang đen đỏ, từ thủa lọt trữ cái vòng có lẽ người sống cùng một thời đại, hay ít nhất cũng cùng biết về một loại chữ tượng hình! Chữ tượng hình này có lẽ không phải loại con "thần ô" hay "ma ô" cũng vậy, gật đầu vẫy cánh gọi léo nhéo tiếng người giọng Kinh:

            -Xuống đây! Sao còn đứng giương mắt ếch dòm tớ như cú dòm bệnh vậy?

            Vừa gọi vừa vỗ chiếu, thầy trò Võ cứ trố mắt nhìn ngơ ngác, Quản Kình buột miệng kêu:

            -Ồ... Sao lại có "ông" quạ to lớn thế này?

            Võ thích nhẹ khuỷu tay mãi đến lúc Đổ Bác Thần giục đến lần thứ ba, hai thầy trò mới hoành khiên, nhảy vèo xuống sập. Vừa ngồi xuống sập, chàng trai nói luôn:

            -Quả thực bọn mỗ không thể tưởng tượng trên đời này lại có... quạ làm

            Đổ Bác Thần nói sõi cả tiếng người như tiên sinh.

            Quạ Đổ Bác Thần cười khanh khách:

            -Chú mày coi tớ ngộ lắm sao? Kha kha! Làm đếch gì có con quạ to như người, có quạ ma! Chú mày thích thấy mặt thật tớ không? Mừng rỡ cả hai gật lia lịa.

            Quạ đen hô "ngoảnh mặt đi", hai thầy trò vừa quay đi bỗng nghe "bóp" một tiếng, lật đật xoay mình lại chỉ thấy một khu suối khói um còn đặc hơn cả tạc đạn khói mù, chẳng thấy bóng quạ đâu nữa, khói lên cao dần xóa nhòa cả tàn lọng trốc đầu. Võ Minh Thần hỏi lớn:

            -Đổ Bác Thần đâu rồi?

            -Tớ vẫn ngồi đây! Kha kha! Chú mày đã xem tụi nó làm xiếc quỷ thuật chưa? Nó nổ một cái pháo, cái lồng không bỗng hóa có con chim bồ câu bên trong, tớ khoái từ hồi còn để chỏm. Nay tớ cũng "nổ" phát cho quạ khoang hóa ta... kha kha...

            Khói tan dần, mọi vật hiện ra, thầy trò Võ hơi giật mi mắt, trố dòm, thấy con quạ vĩ đại kia biến đâu mất, trước mặt hai người hiện ra một ông già tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào như người say rượu, tướng phương phi béo tốt coi còn hơn cả Tửu Chúa. Ông ta đầu đội khăn xếp, mặc một cái áo gấm xanh cúc đại đóa, quần ống sớ, đi giày bản giống giày vải Tàu, nhưng đôi giày để bên cạnh. Ông già này ngồi xếp chân bằng tròn, cười rung cả má phính, đưa tay vuốt chòm ria cá chốt vểnh như "ghi đông" xe máy, hai con mắt thì sáng long lanh vẻ tinh nghịch hết sức. Chỉ nhìn qua, cũng có thể đoán sơ được đó là một ông "lão đồng tử" thông minh tuyệt hảo, ma mãnh khác thường mà lại có tính phóng dật hồn nhiên như con nít, bất giác Võ Minh Thần bật kêu khẽ:

            -À... Đổ Bác Thần đấy ư? Ồ, tóc đã bạc phơ, da dẻ vẫn hồng hào, thanh niên không ăn đứt! Bác làm cách nào mà vẫn còn phương phi đẹp lão vậy? Đổ Bác Thần vươn tay vỗ đôm đốp vào vai chàng trai, cười ha hả:

            -Chẳng làm đếch gì cả! Nguyên có món cơm ăn ba bữa, áo mặc cả ngày, bạc đánh quanh năm, không thê tróc tử phọc! Nào! Giờ chú mày chơi món gì được?

            Minh Thần đưa mắt nhìn Quản Kình, Quản Kình vừa bảo "xì phé", Đổ Bác Thần đã chụp luôn trong mớ dụng cụ đổ bác ra một bộ xì phé còn mới tinh đặt phịch xuống chiếu.

            -Coi! Mới gửi mua tận bên Tây!

            Võ Minh Thần cầm cỗ bài "xì" lên xem qua, trao cho Quản Kình, Kình trang mấy cái, lật lên ngắm mặt bài khen trầm trồ:

            -Chà! Cụ lớn mua đâu được cỗ bài Tây đẹp thế này? Chưa thấy bài nào in rõ bằng! Phải cụ lớn "thửa"?

            Đổ Bác Thần cười ha hả:

            -À, anh này nói một câu biết tay chơi có hạng! Giống bài tây này là phải "thửa" bên Tây chớ còn gì! Sao biết? Này coi tớ có cả chục cỗ mới tinh.

            Miệng nói tay quơ mấy cỗ bài trao hai người xem. Quản Kình lật qua lại ngắm, anh lễ phép đáp:

            -Bẩm! Coi cái mặt ngoài biết ngay! In chéo đỏ đen thế này bài in bán làm gì có! Bẩm, mặt nó nhẵn không hoa không ô kẻ, coi biết ngay cụ lớn là bậc chơi phân minh cao thấp đường hoàng, chứ cụ lớn còn lạ gì dân bịp cao thường cứ dòm mặt hoa ngoài là biết mặt trong con nào rồi!

            Vừa nói y vừa trang cái "xoạc", để trả, Đổ Bác Thần mặt mày cao hứng nói vang:

            -Đúng! Đúng! Chính tớ thấy cờ bịp hay chơi xấu thói vậy, tớ sợ thiên hạ có đứa tưởng Đổ Bác Thần cũng giỏi cái khoản đó, tớ phải thửa có kỹ. À mà sao anh này lại gọi tớ là cụ lớn? Nghe lạ dữ à? Ai lại gọi thần là cụ lớn bao giờ? Cái này anh mày hỏng!

            Võ Minh Thần lễ phép bảo:

            -Dạ chú Quản đây quen mồm đó! Xưa nay, người ta vẫn gọi thế để tỏ lòng kính trọng, chẳng hạn như quan lớn tuần tranh đó.

            Đổ Bác Thần thích chí cười sằng sặc, vỗ đốp vai Quản Kình hét:

            -Phải! Phải! Chí lý! Vậy tớ hỏng! Anh này ăn nói có văn tự lắm! Phải! Phải! "Quan lớn tuần tranh", quan lớn là quý lắm! Quan công sứ, quan thống sứ, toàn quyền to hơn vua, quan dưới âm thì có quan ôn... ờ! Vậy mà tớ cứ tưởng quan là nhỏ, quan huyện, quan phán, hai ả đào cũng là quan... viên. Nếu vậy cụ lớn lại còn to hơn quý hơn! Kha kha! Bay đâu! Bảo tụi nó từ giờ kêu tao là cụ lớn nghe. Cụ lớn Thần à! Nghe kêu dữ!

            Quân hầu đầy tớ dạ ran, gã hồ lì chắp tay ngang mặt như quan tế đình:

            -Bẩm... thỉnh cụ lớn thần chủ khai bài!

            Đổ Bác Thần cầm mấy cỗ bài xếp vào góc sập, đoạn cầm một cỗ trang lia lịa, úp vào đĩa, bảo:

            -Nào, tiền khách hậu chủ! Võ Minh Thần bình sinh chẳng biết đánh xì phé là cái quái gì, nay mới nghe Quản Kình giảng qua, biết lõm bõm "xì tẩy đầm", cũng cứ thò tay rút đại một cây đặt ngửa xuống chiếu, cây "xất" cây tẩy, lại cây "xất", cây thứ ba con

            "bạc", thứ tư con sập, bên Đổ Bác Thần bài đã đôi tây, còn "xì" lấy "xì" nốt, Đổ Bác Thần "phe" luôn, Quản Kình ngạc nhiên:

            -Bài cụ lớn diện đẹp quá sao lại "phe"?

            -Kha kha! Anh mày còn lạ gì nữa! Nghề xì phé, thường mất nghiệp vì các ván bài diện đẹp như vậy đó! À tố vào gặp thằng tháu cáy, rút bừa được luôn con "xất", khà khà, cây "xất" là bỏ mẹ thiên hạ rồi!

            Tuy nói vậy, nhưng khi Quản Kình xui chủ tố, ông ta lại tố liền.

            -Chú mày có giỏi chơi độc ván này?

            Võ Minh Thần gật đại, Quản Kình rút giúp, quả nhiên rút trúng con "xất"! Đổ Bác Thần rút con "sập" ông ta cười khà:

            -Thấy chưa? Tớ nói đúng chưa? Tớ bảo như thần bảo mà! Chú mày tẩy

            "xất"! Hết "láng" rồi dám vay vào món khác không?

            Lạnh lùng, Quản Kình bảo:

            -Bài cụ lớn lấy gì cũng chỉ có hai đôi lưỡng phé ăn sao được ba con? Đổ Bác Thần dòm mặt thầy trò Võ, sắc mặt hồn nhiên ngờ nghệch của Võ khác hẳn với bản mặt lạnh lùng cương nghị cố hữu, khiến lão đâm khó hiểu, nghĩ thầm:

            -Chà! Chà! Thằng này vua xì phé có khác! Mặt thật cứ như đếm, hỉ nộbất xuất hỉ lạc bất phát, ghê chưa! Nhưng cái mặt thằng tùy tòng hắn lạnh như tiền! Khà khà! Cái mặt tháu cáy! Ông là Đổ Bác Thần lại bị tháu cáy, có mà loạn!

            Lật lên, tẩy "xất", lão thua. Ấn định chỉ chơi năm canh, mỗi canh ba ván, vậy là thầy trò Võ được luôn hai canh, chỉ còn ba. Đổ Bác Thần thét:

            -Được rồi! Tao đã biết là vua xì phé, thua cũng đỡ đau! Món khác! Gì nào?

            -Quay đất! Hồ lì dẹp bài tây, bưng mâm "quay đất" ra, nhưng đến quay đất, chẳng biết búng sấp, ngửa ra sao, Đổ Bác Thần ba canh chỉ ăn một. Bèn quay ra

            -Công tử muốn đi lão mỗ chẳng dám giữ, nhưng có lẽ công tử nên xét lại trước khi tìm cừu. Về võ công, điện công, khinh công, bắn súng, cưỡi ngựa, trúng, không ai chịu chơi. Giằng co mãi, Đổ Bác Thần dòm quanh chọn đồ nghề khác, Võ Minh Thần buột miệng:

            -Đã vậy sao không đánh cờ? Đánh cờ mới đúng cao thấp!

            Quản Kình thuộc tay cờ thấp, vì xưa y chỉ thích chơi đỏ đen, nghe chủ nói, lật đật gạt ngang:

            -Đánh cờ không có đỏ đen, đâu phải đánh bạc? Bạc có cả đỏ đen cao thấp!

            Nhưng Đổ Bác Thần đã cười thét gật lia:

            -Được đó! Cờ mà lại hay đấy! Sao không được? Không phải môn, sao gọi cờ bạc? Cờ cũng là bạc, bạc là cờ, canh bạc này thực ra là đánh cuộc, đâu phải ăn tiền thưởng. Vậy là cờ cuộc, cuộc cờ... Kha kha! Hay dữ à! Hồ lì! Đem bàn cờ tướng ra đây!

            Quản Kình hoảng nhìn chủ, đinh ninh Võ là hạng "chưa sạch nước cản", nhưng y không ngờ về môn này, Võ lại là tay thượng thặng, có thể nói là thiên tài. Xưa nay theo hầu tôn sư, hồi mới lên năm, lên bảy, Võ xem thầy chơi cờ tướng, đã phát lộ kỳ tài, tôn sư là tay đánh cờ tuyệt giỏi, không hẳn ăn đứt Võ. Thấy Kình lo, Võ trấn an:

            -Để tôi hầu lão tiên sinh vài nước, không sao! Có thua tiên sinh cũng được! Tôi cũng biết vài thế!

            Mãi đến khi "ra quân", Quản Kình mới hơi yên trí. Đi hơn chục nước mới hay tiểu chủ là tay cao cờ. Đổ Bác Thần đánh rất hay, đi toàn nước hóc hiểm, Võ vẫn gỡ như không. Chừng đến nước thứ mười lăm, mười bảy thì Võ đã đưa ông ta vào thế bí.

            Thêm hai nước nữa, lão hết nước đi, đành chịu thua. Sang ván thứ hai lại thua nữa. Võ Minh Thần liếc dòm, thấy mặt Đổ Bác Thần đỏ gay như người say rượu, hai con mắt long sòng sọc, lão đang ngồi xếp chân bằng tròn vụt ngồi nhỏm lên "hừ" một tiếng kèm theo hơi thở phì dao, làm bắn cả vào lòng Võ, Quản Kình.

            Lão lắc lắc cái đầu, nhổm người, thò tay mặt nhặt con cờ, tay trái thọc lên đầu gãi sồn sột, trễ ngược cả cái khăn xếp về đằng gáy, và đưa tay vuốt soạt bộ ria cá chốt, vẩy lia lịa. Mãi khắc đó, Võ mới để ý thấy mồ hôi lão chảy ròng ròng, mặc dầu lúc đó đã canh tư từ lâu, đêm rừng lạnh ngắt! Và chàng trai lại càng chột dạ thấy tay trái lão buông ra một mớ ria bạc như cước.

            -Tức nước cờ! Ông ta tức nước cờ. Ông ta là Thần Đổ Bác mà nãy thua mấy canh liền, vẫn giữ được vẻ ung dung phong lưu tiêu sái không lộ vẻ giận dữ vì thua mình là đứa vô danh hậu sinh. Mà giờ mới thua hai ván cờ coi đã cay cú ra mặt. Đến vã mồ hôi hột, vuốt ria mà vặt cả ria không hay. Lão tức nước cờ dữ rồi! Nguy lắm! Xưa nay trò thua cờ dẫu không mất tiền cũng thường tức khí bằng mấy thua bạc, gây án mạng như chơi! Mình phải thầy trò Võ ra đi. Dự tiệc tiễn hành xong, tối đó hai thầy trò Võ đi ngủ sớm, lấy sức viễn hành. Rượu tiễn say, cả hai vừa đặt mình trùm chăn đã ngủ như chết, mặc bên ngoài gió lạnh sương sa.
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #7
              Hồi Thứ Bảy - Tây Sắc Ma Vương

              Chẳng hiểu sao, tự nhiên Võ Minh Thần chợt tỉnh giấc. Rồi không sao ngủ lại nổi, chàng tuổi trẻ nghĩ vẩn vơ đến thù nhà, thân thể, canh khuya trằn trọc miên man, nằm nghe tiếng động đêm rừng. Đêm nay, hai người vẫn nằm nơi thạch động ngày dưỡng bệnh, bên giường lửa đã lụi, than hồng đỏ rực hắt soi mọi vật một màu đỏ khé, ngoài động tiếng gió chạy trên triền vi vu buon xa xăm mơ hồ, từ nẻo cuối thung một con sài kíu tru "quăng" vút tận thinh không nghe lạnh như tiếng tru trong mộng ảo. Và tiếng Quản Kình "kéo gỗ" khò khò.

              Chợt thấy khô họng, Võ Minh Thần nhè nhẹ lật chăn bước xuống kiếm nước uống, uống xong lại ngồi cho thêm củi vào bếp, ngồi bó gối, lấy cái điếu cày của Quản Kình hút một, hai điếu thuốc lào cho đỡ buồn.

              Bỗng nghe văng vẳng có tiếng sài kíu tru phía Tây Bắc động, âm nhọn gai bốc mãi lên không. Rồi lại có tiếng tru phía giữa các thung lũng động, giữa các khu nhà cửa. Cứ thỉnh thoảng lại có tiếng tru rồi lại nghe rõ cả bầy Hồng Cẩu Quẩy canh ngoài cửa động chàng năm cũng tru lên một tràng, nghe vang âm xa xôi...

              - Quái! Sao đêm nay sài kíu lại tru lắm thế này? À! Đêm nay... thượng tuần, có trăng! Giống sơn cẩu vẫn ưa tru sủa trăng gọi tiếng nhau...

              Võ Minh Thần sực nhớ tối nay là tối mùng bảy mùng tám rồi. Chàng trai chợt lại ra ngắm trăng khuya, vì từ nhỏ Võ rất thích xem trăng, bất cứ mùa nào, nhất là những đêm đông giá lạnh, mây che mặt trăng, chỉ có ánh trăng bềnh bệch phủ chiếu núi đồi thung lũng, rừng trăng đông khan đẹp một vẻ quái gở xa xăm như trong giấc mơ tiền kiếp, chàng trai mê từ nhỏ. Bèn nhìn lên chiếc đồng hồ nước treo trên vách, đã vào giờ Tý nửa đêm.

              Khoác áo ấm, Võ Minh Thần lững thững đi ra cửa động. Cửa sắt, như cửa nhà tây, lại thêm then ngang, nhưng khi Võ vừa mở ra được, từ ngoài bỗng một cơn gió ùa vào tối tăm mặt mũi, chàng vội tựa vào một cây cột gần đấy.

              Két! Cánh cửa từ từ đóng lại. Võ Minh Thần đứng mấy giây thấy de chịu lại đưa tay mở, nào dè vừa mở ra, mới thoáng thấy khung trời trắng nhạt in hình núi bên kia thung bỗng Võ lại xây xẩm mặt mày, rõ ràng thấy một bóng trắng lù lù to lớn đứng chắn ngay trước cửa rồi chàng trai như bị một sức mạnh vô hình đẩy vào trong. Cửa đóng ập. Kinh dị, chàng trai nghĩ luôn tới ma thiêng nước độc, lập tức lùi một bước, quát:

              - Sao lạ thế này? Ma trêu quỷ ghẹo? Vừa khi đó Quản Kình sực tỉnh không thấy chủ, lật đat chồm dậy chạy ra:

              - Gì đấy cậu hai? Đêm khuya cậu ra đây làm gì? Kìa cậu sao thế?

              - Tôi mở cửa xem trăng, như có ma giữ cửa! Quản Kình bước ra mở giúp cũng bị tối mặt, gió lùa ớn xương sống, kêu lên. Võ Minh Thần vụt nghĩ "hay ma Pi A Ya", chàng trai lập tức bấm cung bản mệnh vụt ra một luồng huyết khí bay vút chếch lên chỗ chàng nấp sau rèm.

              Vừa kịp nhận ra đây là một luồng đỏ hình giống hệt bàn chân sơn cẩu có vuốt ai

              gọi "quay vào toàn mạng", Võ ngạc nhiên trừng mắt chẳng thấy gì lạ, vội hỏi Quản Kình:

              - Chú nghe thấy gì không? Kình lắc đầu, hai thầy trò lững thững bước hẳn ra ngoài động. Nơi đây ghềnh đá cheo leo, lưng chừng núi có lối đá chạy về phía núi xa nơi động thất của chúa Pi A Ya, đứng đây có thể nhìn bao quát một vùng thung lũng núi đồi chập trùng, từng bản thổ dân nằm dưới trăng khuya. Và rải rác khắp thung lũng dưới núi trên, có từng bầy sơn cẩu đứng ngồi lố nhố, hình thù in đậm vào nền núi xanh xám, thỉnh thoảng có con lại rít lên một tràng. Còn bấy sơn cẩu canh thạch động cũng đã chạy ra đứng ở mép ghềnh, đứng như thạch cẩu. Lúc đó, trăng thượng tuần đã gục xuống sát núi Tây, khung động mơ hồ, gió đông chạy vi vút, buồn tênh. Thầy trò Võ đứng xem mãi cảnh trăng đông, bỗng nghe tiếng sơn cẩu tru lẻo

              đầu thung, tiếng tru gọi đàn. Những con sơn cẩu quanh đấy chạy cả ra mép ghềnh, con đầu đàn cũng tru lên đáp ứng. Quản Kình bảo chủ:

              - Cậu "lông dông" chếch xuống đầu mặt đá, nhưng chàng đã kịp đề khí, quạt mạnh hai cánh tay, quay một vòng, hạ chân như con chim đáp xuống.

              Đang lúc đó, rồi nẻo xa xa bỗng hiện ra một bầy sài kíu đông như kiến, chạy như gió vào thung lũng Đông. Tới chỗ xế dưới đàn sơn cẩu dừng lại, những con sơn cẩu quanh đấy cứ ngồi im. Hai thầy trò Võ thấy sài kíu từ mạn

              ngoài kéo vào đông như kiến không khỏi ngạc nhiên bèn lùi vào chỗ khuất nhìn xuống. Bỗng Kình thì thầm:

              - Trời! Cậu hai coi kìa! Lạ chưa! Theo tay Quản Kình trỏ, Võ Minh Thần nhìn sang bên kia thung lũng, bỗng giật thót mình thấy một hình thù quái đản đứng lù lù trên đỉnh núi, cao ước bảy thước, in như hình tượng đá nếu không thấy ánh mắt long lanh. Tuy cach một con thung lũng hẹp cổ chày, nhưng nhờ hình thù này khắc vào

              nền trời trăng nhạt, coi rất rõ, hai con mắt xếch đỏ khé như mắt cú mèo, phát tia bỏng, hai cái tai vểnh cao, ánh trăng tà chảy trên thân hình soi rõ mớ lông xồm

              xoàm óng ánh như tơ tằm, đầu có bờm như đầu sư tử, hình thù quái đản này đúng hình thù con thú bốn chân đứng hai chân sau.

              Vì thân xác con thú to lớn quá khổ thường, Võ Minh Thần còn đang phân vân chưa biết giống chi, bỗng nhiên biết mắc cỡ?

              Trường lẹ tay tuột hết quần ra, và cố tình đứng như thề đỗi lâu, cho Loan nhìn thấy con cặc chần dần của chàng.

              - Anh đâu có mắc cỡ. Em muốn nhìn anh bao lâu cũng được. trắng, lại một tia khói mê khói ngạt. Thất kinh, chàng trai đưa mắt tìm đoạn tứ giác, tuy vốn tay nhanh trí nhưng nhất thời chưa kịp khám phá ra, giận lòng từng nghe qua:

              - Sơn cẩu! Một con sài kíu đầu đàn! Chà! Sao vùng động Pi A Ya này lại có con sài kíu to lớn thế kia?

              Quản Kình thì thào, Võ Minh Thần "xuỵt" nhẹ, ngực bỗng nhiên bị vật chi đè khó thở lạ. Tiếp liền tiếng tru hú của con sài kíu trên núi, tất cả bầy sơn cẩu rải rác quanh đấy cùng tru lên một loạt, nhiều con phát tiếng kêu "hí hí" mừng rỡ.

              Từng được hai cha con vị chúa tể Pi A Ya truyền bí thuật thu phục sơn cẩu, thầy trò Võ Minh Thần hiểu được "tiếng nói" của sơn cẩu, cả hai không khỏi ngạc nhiên, nhận ra đó chính là tiếng phủ dụ, khiến lệnh truyền sài kíu đâu cứ đứng yên đó, thứ tiếng chỉ có con sơn cau chúa đàn mới biết phát âm, con đầu đàn trung bình nếu dùng đến, lập tức bị các con đầu đàn khác cấu xé ngay. Tiếng lệnh này, cha con vị chúa Hồng Cẩu Quẩy cũng đã bí truyền cho hai người, nhưng căn dặn: Chớ nên dùng bưa bãi khi mình chưa thu phục được một số sơn cẩu đầu đàn, vì tiếng này là tiếng riêng của loài "cẩu vương", cũng như loài người, vua chúa dùng ngự ngữ truyền vương lệnh khi đã có đủ quần thần văn võ, được thiên hạ tôn phò rồi!

              - Một con sài kíu vua của loài sơn cẩu! Cậu hai à! Lạ dữ chưa! Mình ở đây đã lâu có thấy con sài kíu nào to lớn thế kia đâu! Đúng một con Hồng Cẩu Quẩy chúa!

              Tiếng Quản Kình thì thào bên tai làm Võ Minh Thần chợt nghĩ lời Đổ Bác Thần, họ Bạc cùng chúa núi Mã Đầu, chàng trai vụt run giọng lẩm bẩm:

              - Chúa đầu đàn sài kíu... có lông bờm vàng... trời! Thôi đúng con "quỷ mắt đỏ" tứ túc Hồng Cẩu Quẩy... con tinh chúa hấp sát mẹ ta mười bảy năm xưa trên biên thùy Trùng Khánh phủ? Trên đời này, theo lời các bậc tiền bối, chỉ có "nó" có hình thù to lớn thế kia...

              Quản Kình nghe chủ nói, cũng thì thào vẻ xúc động:

              - Cậu hai bảo... nó là Hấp Sát Tinh Quân?

              - Không còn con nào khác nữa! Tây Sắc Ma Vương... con tinh ác quỷ mắt đỏ hại mẹ ta kia rồi!

              Qua phút kinh ngạc, máu sôi sục trong người, chàng tuổi trẻ thở phì một cái lao vụt mình vào trong, quơ cây súng cối dù, ao giáp, khiên kép choàng dắt vào người, gài liễu dao, nhảy ra cửa động. Nhưng Quản Kình đã lẹ tay nắm lấy:

              - Khoan! Cậu hai! Đi đâu vội! Nếu đúng Tây trống chạy ra giữa trần như một khoảng tam giác dài nhọn, tất cả tám vệt, khả dĩ là đường sống, tuy cũng chỉ vừa người lọt nhưng là đường trống liên Thần nghiến răng, thở phào đứng lại, giọng trầm buồn:

              - Cứ thấy bóng tinh tôi lại nhớ đến di hài mẹ chết oan uổng khổ... không cầm được! Chú nói phải! Nó tới đây chắc có chuyện gì quan hệ! Ta cứ bình tâm! Kìa! Thầy trò Võ dòm sang, bỗng chỉ kịp thấy con sài kíu có bờm lắc đầu một cái đã biến đâu mất như cơn gió thoảng.

              Hai người trừng mắt quan sát, chỉ thấy đàn sơn cẩu dưới thung đang lượn quanh quẩn các gốc cây, bỗng vụt cái, sịch thấy con sài kíu có bờm đứng giữa đàn chó sói dưới thung. Chàng tuổi trẻ bất giác rúng động tâm thần trước sức hạ sơn như gió thoảng của con Hồng Cẩu Quẩy chúa, vì rặng núi gập ghềnh nhấp nhô toàn nhũ tai mèo, phải tay khinh thân phi phàm mới xuống le được như thế, nhất lại vào đêm trăng tà đầy bóng đá loang lổ rất khó định bước chân.

              Chợt thấy con Hồng Cẩu Quẩy có bờm lắc lư quay dòm tứ phía rồi bỗng nhiên nó ngửa mặt tru lên mấy tiếng. Võ Minh Thần kéo vội Quan Kình vào xó tối, thì thào:

              - Nó gọi đàn lên núi! Hình như nó đánh hơi thấy người! Quả nhiên dứt tiếng tru, cả đàn Hồng Cẩu Quẩy lập tức vọt thành hàng bốn

              hàng năm, kéo rốc ngay lên rặng núi có động Võ ở.

              Không chậm trễ, Quản Kình nắm vội tay tiểu chủ:

              - Đúng chó sói lạ rồi! Chó động nhà không dám cản chó tinh! Động này cửa sắt, nó không tràn vào được! Dứt lời, lôi luôn Võ Minh Thần vào trong khép cửa lại

              Nhưng chàng trai tuy kinh dị thấy đàn sơn cẩu hung tợn đông như rươi, nhưng lòng sôi hân cừu, luồn tay mở hé cửa, chĩa súng ra, chìm giọng:

              - Chắc nó kéo lên núi, trước động có lối đá, cách hơn mươi bộ, dịp may hiếm

              có, phải bắn con tinh!

              Quản Kình lo lắng:

              - Liệu đạn có giết nổi "nó" không... cậu hai? Chắc đâu "nó" là Tây Sắc? Ta nên thận trọng, cần lắm mới liều!

              Võ im lặng, hai họng súng chĩa ra. Không đầy năm phút, đã ngửi thấy mùi hôi hám nồng nặc bay theo gió luồn tạt thốc vào động, rồi giữa canh khuya im lặng, bóng từng bầy sài kíu sịch hiện sau vách đá phía tả, lố nhố, đông như rươi.

              Đàn sơn cẩu chạy vùn vụt trên lối đá, thoắt bầy đầu đã tới trước cửa động. Hai người nín thở, tay tỳ cò súng.

              Nhưng bầy này cứ đi thẳng. Lại đến bầy khác, cứ khoảng vài mươi con lại có một con đầu đàn to hơn, đi ngoài hàng ngũ, có con đang đi bốn chân vùng đi hai chân như người, nháy mắt đã hai, ba trăm con chạy vụt qua như cơn lốc, mùi hôi hám tạt vào nồng nặc. Đặc biệt là cả bầy lớn nhỏ chỉ chạy qua, không con nào kêu một tiếng, chỉ nghe tiếng chân thú dẫm thành một hồn tinh để nó sai khiến, nên trành tinh cang hung tợn hơn nữa! Tiếng hú lê thê vút gần thêm, mơ hồ như có cả tiếng vật lộn di chuyển theo, bỗng "đùng" ống lệnh, huyết hình vụt lắc lư chờn vờn sấn qua vùng cát đá gió mưa, xông sang vồ Võ. Hình nó to lớn dị thường, vầng huyết khí như có một sức kỵ độc lạ lùng, rõ ràng nó sấn vẫn trông thấy được.

              Đàn sơn cẩu lạ cứ thế đi như trong cơn mộng ác đêm trăng khuyết. Thầy trò Võ tính phỏng có đến bốn, năm trăm con vụt qua, bỗng nghe có tiếng tru nhọn hoắt, lũ sơn cẩu nhất loạt dừng cả lại, rồi từ vách sau cả một bầy đến hai mươi con sơn cẩu lớn vọt ra đứng sững ngay trước cửa động phát tiếng nho nhỏ "hí hí" như đánh hơi, cả lũ dòm vào phía động, rồi bất thần vùng lên đi hai chân, ngửa cổ tru một tràng.

              Như trong ảo mộng, từ sau vách, bốn bóng sài kíu khiêng một cỗ kiệu con vụt ra, có một bàn "tay" vuốt vén màn, một cái đầu thò ra, đúng con Hồng Cẩu Quẩy bên kia núi vừa nãy. Nhanh như gió, kiệu xẹt lên xẹt xuống hai con mắt xếch đỏ như than tàu dòm thẳng vào chỗ hai người nấp, phát tia nóng rực.

              Cách hơn mười bộ, coi "nó" càng quái đản, giữa vùng bóng núi đen mờ, vẫn thấy mớ lông vàng óng bờm sư tử, cái mõm nhọn hoắt, mấy cái nanh chìa ra trắng nhởn, hiện rõ trên nền mõm đen giữa khung cửa kiệu.

              - Lo mất rồi! "Nó" thấy!...

              Cả hai cùng một ý nghĩ, không bảo nhau, cả hai cùng chĩa súng nhằm thẳng vào mặt con tinh chúa, định nổ, nhưng chàng trai bỗng thì thầm:

              - Chắc "nó" có là Tây Sắc không? "Nó" chưa nói tiếng người! Mà nếu "nó" là Tây Sắc, bắn nó chết, còn nguồn gốc thân thế, biết tìm đâu ra? Mà chắc gì "nó" đã bị đạn? Theo chú Thoòng chúa Mã Đầu Sơn, loạt, dạt luôn sang chỗ giáp môn, bắt quyết, hú vang âm, các mụ ké đầu tóc xõa sợi, mặt mày nhăn nheo, mắt long sọc coi rất dữ. Lập tức trong hậu cung, ào con sơn cẩu bờm lắc lư tiến luôn vào lối động, lũ sài kíu cũng đi theo. Nhưng tự nhiên "nó" lắc đầu nghiêng ngó, được vài bộ chợt quay luôn lại lắc mot cái đã cùng bầy sài kíu đi như gió thoảng. Võ Minh Thần thở phào, ngạc nhiên cực độ chẳng hiểu sao "nó" lại bỏ đi, bỗng Quản Kình thích nhẹ chủ, thì thào:

              - Lạ dữ à! Trời giúp ta... cậu hai coi kìa!

              Võ trợn mắt định thần, mới hay vừa có một làn sương mờ từ vách đá hữu xông ra như tấm "voan" trắng mỏng đến nỗi chàng tưởng sương lam nhưng có lẽ màu sương đã che mờ cửa động, nên "quỷ đầu đàn" tưởng núi bỏ đi.

              Hai thầy trò ngơ ngác, màn sương tan loãng ngay sau lưng sài kíu, nháy mắt bầy thú độc đã biến nẻo cuối núi.

              Võ Minh Thần lúc đầu cho là tình cờ nhưng chợt nghĩ lại bóng dị ban nãy lòng càng thắc mắc. Lắng nghe rừng khuya chìm sâu trong im vắng, hai người liền mở cửa đi ra, thấy đàn sơn cẩu bản động đã rút đâu mất, chỉ còn mấy con canh động chàng vẫn quanh quẩn trong xó tối. Sực nghĩ tới Khao Lan, chàng trai vụt bảo:

              - Nó đi về phía thạch động thất của vị chúa Pi A Ya! Đêm khuya canh vắng, gió sương lạnh... động ngủ kỹ, "nó" lần tới có chuyện chi đây? Ta phải đến đó mới được! Chú nên ở lại!

              Nhưng Quản Kình không chịu, lập tức mặc giáp theo đi. Hai thầy trò tới gần khu thạch thất, thấy cả khu động vẫn quạnh vắng như tờ. Cả hai cứ theo lối đá tiến tới, cách khoảng bảy mươi sải, cả hai vụt nap vào mỏm đá. Vì phía trước hiện ra một cảnh hết sức kỳ dị, lúc này ánh trăng tà chiếu vào khu thạch thất loang lổ thành từng vừng sáng, tối, coi càng mơ hồ như tranh vẽ dưới trăng vơi. Im đến độ chỉ nghe tiếng côn trùng tỉ tê cùng tiếng gió rì rào bâng khuâng hai đầu núi khuya, tiếng chim khảm khắc rã rời đổ xuống thung lũng buồn tênh. Khu này nhật dạ bao giờ cũng có quân Thổ Mán canh trấn, từng bầy Hồng Cẩu Quẩy, chó săn, nhưng lúc này lại chẳng thấy một bóng người vật nào, cửa động đóng im ỉm trên sườn cao. Hai người còn đang ngạc nhiên, chợt định nhãn tuyến nhìn kỹ mới sực thấy sài kíu lúc đó đã bao vây quanh thạch động, đứng lù lù bất động, xoay lưng lại, thoạt coi tưởng các mô đá. Trước động, cỗ kiệu đứng im.

              - Lạ thật! "Nó" đâu rồi? Hay "nó" lọt vào trong? Không có lý! Khao Lan có bảo thạch thất này chỉ có mỗi cửa tiền vào được, nay cửa đóng, vào ngả nào?

              - Cậu hai quên cửa bí mật trên nóc rồi sao? Hai người đang thì thào, bỗng rào một cơn gió thổi mạnh, nhìn lên đã nhịp rơi sâu mãi. Trong thoáng giây, chàng tưởng cả tấm thạch bàn lớn cũng sa theo, nhưng vụt cái chàng đã cảm rõ bàn thạch giật rời khỏi chân, chẳng hiểu sải, hình như đang tìm cách vào. Võ Minh Thần bảo Quản Kình sáp lại, đoạn rón gót theo sườn núi chỗ này

              lượn cánh cung. Võ ấn ngay tay cung tả, cách độ năm mươi bộ, nhìn rất rõ. Bỗng thấy con sài kíu có bờm nhảy xuống đứng trước cửa.

              Đêm khuya sương lạnh trăng tà, trong động vẫn im lặng như tờ. Bất thần cửa động sịch mở. Két két! Hé dần rồi ngoác rộng để lộ một vùng tối thui. Con sài kíu có bờm lui sang bên.

              Trong động, bỗng có tiếng tru lên thê, ầm ầm, vang dậy như trời long đất lở, rõ ràng có hàng trăm, hang ngàn con sơn cẩu, chó săn cùng tru một lúc. Lập tức, con sài kíu bờm cùng đàn vây ngoài cũng tru lên, canh trường vang tiếng sơn cẩu nghe xốc óc.

              Rồi vụt im, có tiếng hắt ra, trầm uy giọng Thổ:

              -Chúa đầu đàn sài kíu! Phải Hấp Tinh Quân Tây Sắc Ma Vương? Ma Vương Tinh! Ta nghe đồn nhà tinh tuy là hạng phi thú phi nhân, bán âm bán dương, nhưng cũng là tay khét danh trong "Lĩnh Nam Tứ Hung Tứ Khoái". Có chí độc bá quần hùng, xử sự đường hoàng, sao tối nay lẻn vào bản động không thông báo? Hành động như phường đạo tặc, không sợ xấu hổ sao?

              Con sài kíu to lớn phi phàm đứng im mấy giây, Võ Minh Thần hồi hộp đợi, bỗng giật mình nghe tiếng con sài kíu lông vàng xom phát nói tiếng người âm âm rợn rợn:

              - Chúa tinh Ma Vương Sắc giáng đâu không báo trước! Chúa Ma Vương Sắc vào động họ Bạc đi đường chính đã báo động cho quản thúc động nhà ngươi rồi, sao dám bảo chúa Ma Vương vào lén? Nghe chúa Hồng Cẩu Quẩy Pi A Ya thông văn võ, sao mở lời ngạo khách?

              Im mấy giây, rồi có tiếng cười vọng ra, càng rõ tiếng chúa Pi A Ya bảo khách:

              - Ma Vương! Ta biết có khách từ giờ Tý, ta không muốn khách bận sức triet hạ quân canh, nên tiếng hú vang âm ruột núi, nghe rõ giọng nàng nữ chúa Pi A Ya, Võ Minh Thần cả mừng gọi lớn:

              - Ai đó? Phải cô nương nữ chúa? Chính mỗ đây! Độc xà sơn một chuyện quan hệ!

              - Hà hà! Thế ra không phải đến ám hai chúa Hồng Cẩu Quẩy, theo câu "Bất

              độc bất anh hùng"!

              Ma Vương vùng cười ré quái gở:

              - Nhà ngươi ẩn cư cùng cốc miền Đông Bắc, bỏ ngoài thị phi, giang sơn ai kẻ đó ngự, không phạm chúa Ma Vương, chúa cũng để Bạc ra ngoài sổ tử!

              - À! Vậy cũng không phải lưới vài sải, uy nghi lộng lay trong chiếc áo vàng dát kim tuyến, tay cầm cờ, nhạc tiên.

              Thấy sơn cẩu, độc xà, cô gái lại thổi tiêu, khua nhạc, lập nếu nói không đúng, sẽ bắt không muộn!

              Lại có tiếng trong thạch động hắt ra, lần này là tiếng oanh vàng thánh thót của Bạc Khao Lan:

              - Quỷ mắt đỏ! Nhà ngươi nói nghe kiêu ngạo lắm! Động chúa tể các loài sơn

              cẩu, chó săn, không phải nơi ngươi lộng hành đâu!

              Tây Sắc ngửa mặt tru một tràng, tiếng chúa Pi A Ya hắt ra:

              - Muốn điều chi, hãy quá bộ vào tệ xá! Chúa Bạc Pi A Ya rất vui được đãi Ma Vương một tuần trà sơ kiến!

              Tây Sắc không đáp, nhảy vèo chui kiệu ngồi chồm chỗm, hú lên một tiếng ngắn, lập tức cả đàn mấy trăm con sài kíu nhất loạt phóng ào lên trước thạch thất, kéo rốc luôn vào cửa động như dòng thác lũ, không một tiếng tru. Khi đàn sơn cẩu đang cuốn vào, bỗng thấy cả cỗ kiệu lẫn bốn con sơn cẩu khiêng kiệu bay vọt luôn theo, là là trốc đầu bầy sơn hai đều lúng túng ngượng nghịu khó tả. Mấy khắc Võ mới lắp bắp:

              - Con tinh Tây Sắc không ngờ lợi hại thế! Cô gái chớp hàng mi cong, thỏ thẻ:

              - hư.

              - Quái! Hay "nó" bị sa hầm hố hay sa lưới? Sao lại im thế này? Thấy phía ngoài đã vắng hoe Võ Minh Thần toan lao vào, nhưng lại nghĩ tất thú độc tràn đầy, chàng trai đổi ý, nhảy vọt lên nóc tiền môn tìm cửa bí mật. Nhờ Bạc Khao Lan đã chỉ, Võ kiếm ngay được đầu mối, chỉ giật một cái cần trục đã mở ra một lỗ trống vừa người chui lọt. Võ leo vèo vào trong một hốc chếch chừng mười lăm thước đã tới một cửa khác có song sắt mở ra, vén nhẹ bức rèm đã nhìn xuống dưới được. Lối này sát ngọn cột đá, ăn thẳng xuống giữa căn chính sảnh bữa nọ chàng đánh rớt vòng. Bên dưới tối thui, không rõ người vật, song lố nhố khắp mấy bên thạch thất mênh mông đầy rẫy mắt Hồng Cẩu Quẩy đỏ than tàu, không khác những đóm

              hương khổng lồ khắp vòng trong vòng ngoài.

              Im đến rợn người, vờn tử khí, âm khí. Sực nghe tiếng ma âm nổi lên:

              - Bất tất trà nước! Chúa Ma Vương chỉ hỏi một điều! Chúa họ Bạc nhát gan không dám ra tiếp khách sao?

              Không hiểu "nó" đứng đâu, bỗng lại nghe tiếng chúa Bạc lạnh lùng: "Chúa Hồng Cẩu Quẩy ra đây", rồi có tiếng Ma Vương cười thé, Võ Minh Thần thắc mắc không hiểu tinh chúa muốn gì, bỗng chàng trai giật mình, nghe "nó" phát giọng chìm khô:

              - Chúa Ma Vương muốn biết: Có một đứa trai điển mặc quần áo chàm, mang khiên giáp, lạc tới động này, cùng một tên đầy tớ hơn bốn mươi tuổi! Hiện "nó" ở đâu? Ma Vương không ưa dài lời, hãy nói thật gọn.

              Im mấy khắc, có tiếng chúa Bạc cất lên sang sảng:

              - Phải chàng trai có tên Thần?

              - Đúng! Thần mặt lạnh!

              - À! Rất tiếc nhà tinh đến muộn! Y có được ta cứu độc thương Giao Long tinh,

              khỏe, ở chơi mấy tháng, mới rời động hồi chiều.

              Tiếng Ma Vương khô:

              - Khó tin! Chúa Tây Sắc cho quân vây quanh các yếu lộ từ trưa qua, không

              gặp! Nhà ngươi che chở giấu nó?

              Lại có tiếng Khao Lan thét lảnh:

              - Tây Sắc! Mi không phải kiếm chàng, chính chàng sẽ đi kiếm mi tru diệt! Cứ

              về sào huyệt rửa cổ cho sạch, sẽ gặp chàng.

              Có tiếng "hừ" nhẹ, tiếp giọng âm:

              - Chúa chưa hỏi nữ nhân! Họ Bạc giấu nó đâu nói mau! Tiếng ông già lạnh lùng:

              - Hắn đi rồi! Nhà tinh khỏi lo! Hắn đi tìm mi đó!

              - Tìm chúa Ma Vương làm gì? Tìm nộp vòng xanh chăng? Ta hỏi lần cuối: Nó

              đâu? Nếu chối, chúa Ma Vương không dung thứ, chúa bắt con gái làm tin! Tiếng Tây Sắc nghe càng dữ tợn, ngay lúc đó, tiếng nàng nữ chúa hét:

              - Chó tinh! Quen thói ức người cô thế, dám tới động Bạc nói càn! Mi muốn đánh động như những con thoi, lửa nến kéo dài ngoằng, và giữa đám người, hình thù đỏ lòm đặc sệt của Ma Vương Sắc lắc lư vật vờ nhảy nhót, gầm hú vang âm, rồi đó. Chúa Ma Vương đem về động, rồi đi kiếm thằng trai điển!

              Tiếp liền hàng loạt súng nổ vang động. Đạn xói vách đá bắn chíu lung tung, hàng đốm mắt đỏ xẹt ngang dọc, rồi giữa khi súng no có tiếng sơn cẩu hú chồm vồ cấu xé nhau cực kỳ hung tợn, lẫn cả tiếng gió rít ghê hồn, rõ bên dưới đang diễn ra một cuộc

              Bọn thầy mo, mụ ké, cô then, cùng đám đồng nam đồng nữ đội bàn độc thảy đều nhanh nhen tiến lui nhịp nhàng, còn tám con chó đực chó cái đã chui vào ré:

              - Họ Bạc đánh Mê Hồn trận giỏi! Nhưng quân gia sài kíu chết ích chi? Có dám đấu trận mê tay đôi không?

              - Được! Ta đang muốn biết tinh lực quỷ tứ túc đến mức nào đây! Khao Lan! Thắp lửa! Có tiếng hú, rồi từng vệt sáng bay vèo vèo khắp tứ phía, bay đến đâu, hồng đuốc cháy bừng, hiện ra một cảnh tượng tàn sát gớm ghê.

              Hàng trăm con sơn cẩu hai bên nằm gục, có con hấp hối, nhiều con đã bị địch táp mất đầu lẫn xác, huyết lưu mãn địa, cỗ kiệu con quái đặt bên cột. Võ dòm

              xuống không khỏi ngạc nhiên thấy nhiều con sài kíu đeo cả dây đạn, tay cầm súng như người.

              - Trời! Ma Vương Sắc quả nhiên lợi hại đến mức luyện được cả chó bắn súng như thế kia sao? Hay đội lốt? Nhưng ngó kỹ, lại không phải, vì có con đeo dây súng bị bắn nát mặt, bày mõm nhọn rõ rành rành.

              Chợt nghe hai chúa sơn cẩu cùng hú, quân động, chó động đem xác vào trong còn lũ sơn cẩu lạ cũng ngoạm tha luôn thây đồng loại ra ngoài nhai rau ráu! Bỗng nghe "đùng đùng" như ống lệnh nổ, nháy mắt cả khu thạch thất khói um dày đặc như sa mù.

              Cửa động thất vẫn mở rộng, ánh trăng nhạt chiếu mơ hồ, bềnh bệch, nhưng Võ Minh Thần nấp dòm xuống, chỉ thấy mấy gian thạch động khói mù mịt như một trận mê hồn, cuong phong ào ào, từng vầng khói bay tạt lung tung, giữa những tiếng "bùng bùng" dữ dội, thỉnh thoảng lại bật lên tiếng thét ghê hồn, thoáng bóng người vật xẹt qua lại như những luồng ảo ảnh hồn ma phách quế.

              Bỗng nghe liền mấy tiếng "bùng" to như sấm, ánh điện đảo nhoằng, một mùi khét tạt thốc lên trần khiến Võ vội nín hơi, cảm rõ một luồng nhiệt khí táp vào người nóng như lửa. Chàng trai không khỏi ghê thay cuộc đấu chiến bên dưới, nghĩ thầm:

              - Lửa điện công hay lửa ma quái mà nóng dữ thế này? Xem chừng Tây Sắc Ma Vương lợi hại phi thường, khó lòng lượng nổi. Nhưng vị chúa tể Pi A Ya cũng chẳng phải tay vừa, liệu ta đã nên ra mặt hay chưa?

              Còn đang suy tính, bỗng tai nghe phía dưới có tiếng thét âm âm:

              - Tù trưởng Bạc! Đứa con trai mặc quần áo Thổ lạc tới động này, ngươi giấu

              nó đâu, nói mau!

              Tiếp liền tiếng chúa Pi A Ya quát:

              - Sài Lang chúa! Ta đã bảo hắn vừa đi khỏi! Không chịu tin, còn độc thuật ma cứ giở ra, chúa Bạc sẵn sàng tiếp nhà tinh! Chúa Bạc không cần huy động quân gia!

              Võ Minh Thần lại nghĩ:

              - Ta còn đây sao hai cha con vị chúa Bạc lại bảo đi rồi! Có lẽ người lo ta se bị

              nó hại, xem ý người muốn thử đòn tinh coi lợi hại đến mức nào đây!

              Bỗng lại nó đứng trên hai mũi giáo có treo tạc đạn lủng lẳng.

              Bạc Khao Lan ngó sững hình huyết ảnh to lớn đứng lù lù trên bàn chông như đứng trên mặt đất, dưới vụt rơi vào im lặng, chỉ còn khói mù mù, chợt có tiếng Bạc Khao Lan cất lên xa xa nẻo hậu cung:

              - Tinh chó nói càn! Chính ta se bắt mi bỏ vào cũi! Có tiếng cười gai rợn, lẫn tiếng người di động vút ra, chúa Pi A Ya nạt lớn:

              - Khao Lan... lùi! Việc con không phải đấu với tinh Tây Sắc!

              Hình như lão ngụ ý báo ngầm điều chi, Võ lại nghe rõ tiếng chân người lao vút vào trong, tiếng chúa sói bờm sư tử cười rú:

              - Tù trưởng Bạc già khôn! Đuổi nàng vào là phải! Chúa Sài Lang hỏi lần cuối,

              "nó" đâu? Im mươi giây, chợt nghe tiếng chúa Pi A Ya cất lên, lần này dịu hơn:

              - Tây Sắc! Ta đã nói rồi! Nhưng nhà tinh tìm hắn làm chi?

              - Há há! Bát quái trận đồ của cha con tù trưởng Bạc đấy ư? Hà hà! Thành đồng vách sắt coi chắc lắm! Chúa Ma Vương vẫn nghe thiên hạ đồn chúa động Pi A Ya có bát quái trận trấn núi, đêm nay lại bày trận tiếp đãi chúa Ma Vương!

              Võ Minh Thần từ dạo lưu lại miền động thâm sơn này, cũng từng nghe nàng chúa rừng xanh nói qua về bát quái trận động thất, nhưng vốn tế nhị, Võ không hề tìm hiểu, cho là trận địa ẩn giữa núi của chủ nhân, người ngoài chẳng nên hỏi tới. Nay tình cờ thấy họ Bạc chợt bày trận, chàng mới hay khu động thất ngoài coi thơ mộng thần tiên, trong còn yểm tàng nhiều cạm bẫy phòng gian lợi hại, nhưng thấy chúa Sài Lang không hề nao núng, chàng trai vụt nghĩ thầm: "Thiên hạ đồn đại con tinh Hồng Cẩu Quẩy này ghê gớm khác người, sức phi phàm khôn lường! Thử coi nó phá nổi trận dữ này không? Âu cũng là điều hay cho ta!"

              Nghĩ vừa dứt, đã nghe tiếng vị chúa Pi A Ya quát phía sau trận:

              - Tây Sắc tinh! Chính mi tìm tới gây sự! Giờ có cần cho đàn thủ hạ vao tiếp cứu, ta mở cửa cho vào!

              Giữa vùng khói sệt bỗng nổi lên hai con mắt xếch đỏ tựa than tàu xẹt đảo vùn vụt rồi chợt tắt:

              - Ngươi còn được hai mươi bốn giờ sống, tưởng vách sắt này nhốt được bản Ma Vương ư? Biết điều khai đứa trai kia trú đâu, chúa Ma Vương sẽ cho toàn mạng! Một mình Ma Vương thừa phá động này!

              Ngay lúc đó có tiếng Bạc Khao Lan thét lảnh:

              - Sói tinh Tây Sắc! Mi đã vào cũi sắt, ta bắt mi rửa hận cho đàn bà chết oan trong thiên hạ!

              Theo tiếng thét, bóng Khao Lan chợt hiện ngoài khung cửa sổ tò vò, tay cầm lá cờ đuôi nheo đỏ, tay cầm thanh gươm gỗ sơn son, nơi cổ tay còn thắt một tấm lưới bằng chỉ ngũ sắc.

              Dưới vùng ánh sáng lân tinh huyền ảo, coi nữ chúa rừng sâu lúc này không còn vẻ thùy mị thường ngày, dáng hình thanh tú choàng một cái áo rộng dát kim tuyến vàng chói, cặp mắt phượng có lẽ giảm sút dần sau khi xuất phá mấy cửa dữ! Uy lực nó ghê nhất vòng huyết khí, tình thế này nếu kéo dài trận đánh chắc lợi cho nó.

              Hai cha con vị chúa Pi A Ya cùng biểu đồng tình, chúa Bạc giục:

              - Khao Lan! Kéo dài trận đánh, xem sao! Còn công tử nên ẩn kín trong hậu là gái chua động biết nhiều bí thuật rừng thiêng, ngày đó nàng bị sa tay quỷ đỏ kia vì bất ngờ bị nó phun nọc độc khí hơi mê. Nay tài nghệ nàng đã vượt hơn trước, lại sẵn mưu phòng, Tây Sắc tuy lợi hại, chắc gì đã hạ dễ, ta không lo!"

              Dưới cục trường, chợt có tiếng tinh chúa ré lên:

              - Gái Bạc đẹp! Chúa Sài Lang bắt về làm thiếp!

              Lời chưa dứt, đã thấy luồng khoi xám xẹt thốc tới cửa sổ tò vò như một mũi giáo phóng. Võ Minh Thần vừa nhướng mày chú mục, đã thấy luồng khói vút vào sát cửa chấn song, nhưng Khao Lan nhanh không kém, cô đây?

              Nàng nữ chúa Pi A Ya cười lảnh:

              - Mi chưa thoát nổi trận mê hồn, chớ vội nói chuyện người! Hắn cũng như mi, vô cớ đột nhập thạch động, cửa trống. Luồng khói vừa lướt tới chưa kịp quật qua, bất tức hú lên mấy tiếng lê thê, lao vụt vào cửa tò vo vồ Khao Lan. Nhưng khi nó vừa xẹt tới gần, thì từ các cửa khác, đám pháp sư rừng cùng đàn "xó" dữ đã trường bay đảo lung tung, sức quật kinh người.

              Hơi lạnh âm phong ùa cả lên chỗ Võ Minh Thần nấp khiến chàng phải vận sưc cho ấm, nhưng luồng khói ma phía dưới chỉ dừng lại chút rồi cứ sấn qua cửa tò vò. Chát! Từ trên nóc cửa chém vụt xuống một lưỡi đại đao bản to hơn hai gang tay, rõ ràng trúng khối vật trong làn khói, tưởng chừng đến tường sắt cũng bị xả làm đôi.

              Đồng thời từ hai bên hông cửa có hàng chục mũi giáo nhọn đâm vụt ra, bên nọ gài chéo sang bên kia thành một tấm phên dày cách tầm đao lớn chừng nửa gang. Nào dè nghe "chát, xoảng" một tieng lớn chói tai, bao nhiêu cây đao cũng bật tung, cái gãy, cái cong queo, lưỡi đao dừng lại cách mặt đá chừng bảy tám thước cũng cong vẹo bản khiến Võ Minh Thần rúng động tâm thần, kinh dị:

              - Trời! Con tinh chúa này đúng mình đồng da sắt, không gươm đao nào phạm nổi! Thần công cương khí, gồng linh? Hay tà thuật?

              Đang sửng sốt, sực nghe Khao Lan hú lảnh, giữa luồng âm phong loạn cuồng lạnh buốt, vụt hiện ra một tên Mán trung niên mặc quần áo chàm, hai con mắt trắng dã long sòng sọc, mặt mày khô đét nhợt nhạt dúm dó như miếng thịt phơi khô, tay cầm một cây búa lớn, nhác coi biết ngay là một xác chết biết đi. Tên Mán khật khưỡng tiến ra cửa tò vò. Sau lưng y lại hiện ra một cỗ quan tài độc mộc, ván thiên mở dựng lên, cỗ quan tài lắc nghiêng ngả đi theo sau tên Mán hơn thước tây, giữa luồng âm phong quái gở như có bóng vô hình vẫn đi ngay phía sau cỗ quan tài, có một cô gái Man quấn xà cạp trắng, mặc quần áo thêu viền chỉ ngũ sắc, trùm khăn ngũ sắc, đội một chiếc bàn độc trên có bát hương bài vị, nến cháy vật vờ, xế phía sau cô gái là một thầy mo trạc ngũ tuần, mắt sáng quắc, hai tay cam chắc vào nhau theo lối bắt quyết.

              - À... ma xó thầy mo! Võ Minh Thần vừa lẩm bẩm trong miệng, bỗng nghe thầy mo hú lên mấy tiếng vang âm, con Mán xó đang khật khưỡng lờ đờ, vụt long sọc mắt sấn vọt qua cửa tò vò, vung luôn cây búa trên tay. Giữa âm phong ào ào, nghe mơ hồ có tiếng

              Mán rú âm u xa xôi, nhọn hoắt, luồng khói xám đang hung hăng vượt qua cửa tò vò lập tức lùi lại mấy bộ, có tiếng hú hét gai gai uy lực cực kỳ hung mãnh:

              - À con Mán xó này làm lộng, dám phạm tới Ma Vương chúa Sài Lang sao? Lui! Chúa Hấp Tinh Quân hớp hồn mi hồn tiêu phách diệt!

              Tên Mán xó đứng đờ ra, lá cờ cắm trên bàn độc rung dữ dội, rõ ràng giữa vùng khói mù, có mấy bóng lờ mờ ảo ảnh xẹt đảo vùn vụt, phát âm mơ hồ rồi im, luồng khói xẹt lùi ngang mấy bộ nữa, vẳng có tiếng hú ma âm quái đan. Ngay khi đó, lại thấy Bạc Khao Lan xuất hiện sau khung cửa tò vò, cách chừng năm bảy bước, thét uy nghi:

              - Sói tinh! Mi bị nhốt lò bát quái rồi! Muốn toàn mạng mau đứng nguyên hình

              phục lệnh bản cô nương khai rõ đầu đuoi!

              Trong khói mù có tiếng hét nhọn:

              - Gái Bạc không được lộng ngôn trịch thượng! Khai chi?

              - Ta muốn hỏi: Phải mười bảy năm xưa chính mi hấp sát một thiếu phụ xinh đẹp trên biên thùy Trùng Khánh phủ? Người đó là ai? Tên chi...

              Võ Minh Thần nấp trên, nãy giờ đang đắn đo chưa biết cách nào hỏi con tinh chúa Tây Sắc về chuyện mười bảy năm xưa cho rõ thật hư trước khi trả thù, bỗng nghe Bạc Khao Lan lại hỏi đúng như chàng nghĩ, chàng trai khong khỏi mừng thầm cảm động, vội nín thở nghe ngóng, không ngờ vừa nghe dứt câu hỏi của Bạc Khao Lan, Tây Sắc Ma Vương đùng đùng nổi giận, hét lớn như gầm lên trong sương khói:

              - Gái Bạc khốn kiếp! Cha con mi liên can gì lại hỏi chuyện xấu xa tàn tệ đó với Ma Vương chúa? Ta phá tan thạch động, giết hết bọn mi! Lời dứt, đã thấy luồng khói bốc luôn tới cửa tò vò rượt bắt Bạc Khao Lan.

              Nhanh như cắt, Bạc Khao Lan rú lên tiếng dị, phất vụt la cờ đuôi nheo, lùi dạt sang bên, một cửa chấn song sịch mở, từ trên chém phập một chiếc bánh xe mắc hàng trăm lưỡi dao sắc như nước quay vù vù xé gió, lạnh người, đúng lúc luồng khói xám lao vút tới.

              Cửa này gần chỗ Võ Minh Thần nấp hơn nên chàng trai trông càng rõ guồng dao che vừa kín khung cửa tò vò chém tung luồng khói xám đặc, tưởng nát nhừ cả khối luẩn quẩn trong, nào dè đúng lúc guồng dao giáng xuống chém xoe xóe, từ trong luồng khói dị bỗng tung ra hai luồng huyết khí đỏ chói không khác hai con hồng xà, một luồng vòng từ trên xuống, một luồng ngược từ dưới lên, ngậm xoáy ngay luồng dao. Chỉ nghe "chát xoảng keng" mấy tiếng gộp cực mạnh, gió ngưng, cả chiếc guồng sắt lớn bị giật bắn tung lên trần quật rầm vào mặt đá, rồi lại giáng xuống nền động, lôi theo từng mớ đá rào rào vung vãi, nhìn xuống guồng sắt đã cong veo bẹp dúm, hàng mớ lưỡi dao sáng loáng gãy lìa rớt loảng xoảng leng keng khắp cục trường, ngưỡng cửa tò vò như nắm lá lìa cành.

              - Trời! Sức mạnh phi phàm! Cả chiếc guồng dao tủa tủa bằng thép chỉ giật một cái đã bắn tung, gãy cong vẹo cả trục, như giật phá guồng bằng giấy... ghê thay thần lực của Ma Vương tinh! Luồng huyết khí đỏ này sao giống luồng khí

              Giao Long tinh đã chụp trúng lưng ta đêm nào suýt táng mạng dưới hồ Ba Bể. Hai con tinh "tu luyện" cùng một pháp môn chăng?

              Nghĩ chưa dứt hẳn, đã thấy luồng khói xám tuôn vụt qua cửa tò vò, giữa vòng ánh sáng lung linh, rõ ràng, hai luồng huyết khí vụt ra đằng trước ngo ngoe như hai cái chân bạch tuộc quơ quậy phía trong lẫn tiếng cười ma âm từ luồng khói phát ra, ngay lúc đó, sau vách sắt tả trên, có tiếng Bạc Khao Lan vùng thét lớn, Võ Minh Thần cả kinh tưởng nàng bị nó vồ, định nhảy xuống.

              Nhưng ngay khi đó, bỗng nghe tiếng tinh hét nhọn, luồng khói xám lùi vụt lại, hai cái vòi đỏ ngo ngoe đảo lộn "ào", "bùng" từ nẻo hậu trận vụt tràn bay ra một khối lửa khổng lồ, tát tóe vào luồng khói xám, giữa trận cuồng phong ào ào, lửa theo gió kéo dài, cháy rực, kín cả khung cửa tò vò khiến luồng khói xám vụt tan loãng ra, hiện lờ mờ một bóng phi nhân phi thú, hai con mắt đỏ khé than tàu.

              Hình thù rít lên, vọt lùi ra ngoài cục trường, ngọn lửa dài ngoắt như cái lưỡi khổng lồ theo gió liếm vụt theo, chực thiêu đốt khiến hình thù phải lùi luôn mấy bộ. Tự nhiên thấy nước rỏ tong tong xuống nền hang, luồng khói vụt chuyển dịch dọc ngang, từ trong cửa trận hỏa phong, vun vút mắt ra hàng loạt ngọn giáo lửa phóng vù vù vào luồng khói, kín tựa mưa đan. Từ trong luồng khói mờ, thò ra một bàn "tay" lông lá xồm xoàm quơ đại mớ giáo ném tứ tung, ném cả vào cửa lửa.

              - À cha con tù trưởng Bạc giỏi! Dám dùng hỏa công định đốt cả Ma Vương! Coi Ma Vương vào trận lửa bắt gái Bạc về làm thiếp!

              Lời vừa dứt, luồng khói bỗng trở nên đặc sệt, rú mạnh mấy cái, thu ngắn lại, ào một cơn gió âm phong lạnh lẽo từ đám khói nổi lên, lập tức giữa cục trường hiện ra một khối khói đỏ lòm như máu, trông đúng hình thù con thú đứng hai chân coi hao hao như người, cái bóng huyết này lắc mình một cái lại trương phềnh thêm to, như trái bóng bơm hơi. Khí âm phong vừa tắt thì khói xám đã tan hết, giữa động chỉ còn một huyết ảnh khổng lồ cao hơn hai thước rưỡi, to như con "Kinh Kông" tiền sử, làn khói đỏ sệt coi hết sức quái đản.

              Trong hậu cung thất bỗng có tiếng vị chúa Pi A Ya vùng kêu lớn, giọng đầy sửng sốt:

              - À, Tây Sắc hấp tinh, nhà tinh luyện được cả pháp môn kỳ bí "huyết ảnh kỳ hình" đó ư? Ôi! Sát nghiệp cổ kim hãn hữu, Tây Sắc Ma Vương huyết ảnh tinh quân tai ách của trời!

              Hình phi nhân phi thú khổng lồ càng lúc càng đặc sệt, coi không khác một pho tượng hổ phách, không rõ mặt mũi, coi lại càng quái đản, lời chúa Bạc vừa dứt bỗng nghe trong vầng khí sệt co tiếng âm âm phát ra không khác từ cõi u minh xa xăm nào:

              - Chúa Ma Vương Sắc có ngày đảo lộn càn khôn. Tù trưởng Bạc biết "huyết ảnh kỳ hình" có uy lực tàn phá gớm ghê, sao không khai chỗ đứa con trai mang họ Võ tên Thần đó? Khôn hồn dẹp ngay bát quái trận!

              Có tiếng Khao Lan hú lảnh, cuồng phong, lửa cháy từ hai cửa trận vẫn ào ào thốc ra, nhưng giáo lửa không phóng nữa, từ trong khối lửa bừng bừng có tiếng dị phát ra xa xăm lạ. Rồi lại nghe có tiếng chúa Bạc quát sang sảng:

              - Tây Sắc tinh! Mi theo pháp môn hấp sát luyện tà thuật ma công, giết hại đàn bà con gái để mi thành công, sinh linh mang họa. Ta phải đem mạng trừ mi! Khao Lan! Bát môn đồng khai!

              Lời vừa dứt, đã thấy hình đỏ màu hổ phách lắc lư một cái mạnh, từ từ bước luôn vào khói lửa đang bay tuôn qua cửa tò vò.

              Kỳ dị! Bóng huyết vừa chạm tới đầu luồng, tức thì thoát ra những tiếng xèo xèo, lửa rụt co ngay lại, thoắt đã co vào trong cửa tò vò. Võ Minh Thần không khỏi kinh ngạc trước sức kỵ hỏa hiệu nghiệm không thua "tỵ hỏa dạ Minh Châu", bảo Khao Lan giữ trận, đoạn cùng thầy trò Võ Minh Thần theo dấu con tinh, nhưng không thấy gì cả, lúc đó mơi về. Ngay sáng sau, Võ Minh Thần bái biệt, lên đường. vọt qua cửa tò vò, hình nó to lớn quá, chạm cả khung cửa thép nghe "rầm" một tiếng, mép cửa cong veo, ngoác rộng, vòi lửa chạm hình huyết co rụt tít vào trong, lập lòe chưa tắt.

              Ngay khi đó từ trong hậu cung vọt ra một hình người núi sắc phục Mèo, cao khoảng thước tám tây, gầy đét, khô như que củi, mắt trừng, cổ loải, nanh nhe, hai tay quều quào coi ra thần quái tợn, chắn ngang trước mặt hình huyết.

              Lúc này, hình huyết khí màu hổ phách đã lắc lư vượt qua cửa tò vò. Võ Minh Thần cúi dòm thấy nẻo hậu trận như có một bộ phận phun lửa hừng hực như cái lưỡi lửa khổng lồ, cứ chạm phải hình đỏ là rụt lại. Hình huyết vừa thò ra một cái vòi đỏ chon chót quơ quệt bên trong thì người Mèo từ trong ngọn lửa vụt ra, đầu chạm cái vòi quái, vòi quái chụp ngay lấy người Mèo khô đét Từ Thứ. Từ Thứ về Hứa Đô thề không bầy một kế nào cho Tào Tháo, còn Võ Minh Thần lên Tây Bắc biên thùy quyết tìm học thêm bí thuật, lần tận hang ổ chúa tinh tứ túc, rửa hờn cho bậc sinh thành.
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #8
                Hồi Thứ Tám - Nam Khấp, Tây Gầm

                Từ biệt hai cha con vị chúa tể họ Bạc, Võ Minh Thần cùng Quản Kình

                rời miền động Pi A Ya theo các đường xuyên sơn chắp nối, đi lên miền Tây Bắc biên thùy, định lấn đến vùng động Thanh Âm.

                Bạc Khao Lan có tặng thầy trò Võ một đôi chó hết sức tinh khôn thuộc giống sơn cẩu to lớn đã được huấn luyện rất thuần thục, biết nghe theo sự sai khiến của chủ như người vậy. Chúng lại là một cặp vợ chồng, con đực đen sì, con cái trắng bông, gọi là Hắc cẩu và Bạch cẩu.

                Đôi sơn cẩu này đã quen thầy trò Võ từ lâu nên rất quyến luyến, được đi theo chúng rất thích. Bạc Khao Lan thường dùng chúng làm thám cẩu, nên khi theo Võ bao giờ chúng cũng tung tăng vọt đi trước, sục sạo, đánh hơi thấy gì lạ chạy về báo ngay nên thầy trò Võ xuyên sơn tới cánh rừng nào, cũng có chúng thám sát trước, đỡ nhiều bất trắc. Đường núi khó đi, mãi xế chiều hai thầy trò Võ mới ra khỏi miền lãnh địa Pi A Ya.

                Bèn theo phương đao, nhằm hướng Chang Poung đi miết. Định tới đâu ngủ đó nhưng khoảng năm giờ, vừa trên đồi lao xuống một cánh rừng rậm bỗng cả hai giật mình gò vội tay cương, vì cặp Hắc, Bạch cẩu bỗng từ hai phía đó chạy như gió lại, kêu "hí hí" báo hiệu có điều nguy hiểm.

                Nhờ được Pi A Ya truyền bí thuật thu phục sơn cẩu, hai thầy trò Võ có thể "nói chuyện" được với loài chó, nên nghe hiệu, hiểu liền. Quản Kình, Minh Thần lập tức xuống ngựa, theo hai con Hắc Bạch nương bờ bụi, chạy tới cửa rừng. Đến một con suối rộng, trông sang, thấy vắng tanh, hai người còn đang ngạc nhiên, chợt ào một cơn gió rừng thổi thốc tới, phả vào mũi một mùi tanh hôi nồng nặc.

                - Mùi quen thuộc của giống sài kíu! Võ thì thào cùng Quản Kình, nghiêng ngó đến mười khắc, mới trông thấy

                bóng sơn cẩu lố nhố đứng sau các bụi cỏ, gốc cây, đặc kịt cửa rừng. Giật mình, Quản Kình thì thào:

                - Hồng Cẩu Quẩy! Hình như không phải chó hoang, coi chúng đứng như chờ chực cái gì? Tôi ngờ quát trỏ xuống như lệnh vỡ:

                - Phải đó! Ma trăm giọng nói đúng. Cả Đông Âm, Tây Sắc đều muốn chiếm đoạt vòng, vậy muốn cho tiện việc hai người không cử động, không tru, mắt hau háu nhìn ra con đường mòn cửa rừng, coi phát ớn. Chàng trai khẽ bảo:

                - Đúng "quân" Tây Sắc! Nó phục rình bọn ta? Lạ thật! Sao nó biết ta đi

                ngả này?

                Quản Kình gãi râu:

                - Ma vương tinh mà, cậu hai. May mình đứng cuối gió cậu hai à! "Chúa nàng" Pi A Ya có biếu chai thuốc trừ hơi người, ta nên bôi vào vòng lối khác.

                Võ Minh Thần gật đầu. Quản Kình lấy thuốc vẩy khắp người, đoạn hai thầy trò dẫn Hắc, Bạch cẩu lộn lại chỗ giấu ngựa, lặng lẽ xuyên rừng vong về nẻo Đông Bắc, tránh xa cánh thung sói.

                Đi chừng nửa giờ, lại gặp một bầy hồng cẩu quẩy nữa đứng lố nhố trên một rặng núi đá dòm xuống đường qua thung. May nhờ có Hắc Bạch đánh hơi rất thính nên hai người kịp phat giác, lại xuyên rừng kiếm ngả vòng lên. Lần này, vượt khỏi hàng năm, bảy dặm, vẫn không thấy chi lạ, chừng đã thoát khỏi tầm phục.

                Lúc này, nắng đã tắt hẳn, sương đùa lớp lớp, bắt đầu kéo trăng ngang lưng đồi. Chiều đồng sơn cước buồn âm u gợi hình ảnh bếp lửa nhà sàn. Quản Kình bảo chủ:

                - Sương nhiều dữ, đi không tiện nữa! Ta nên kiếm nhà trọ qua đêm! Võ gật đầu, lại bàn:

                - Bọn ta đã lạc hướng Thanh Âm. Tốt hơn hết ta cứ đi thẳng, tới đâu có nhà sàn thì nghỉ!

                Hai người lại lóc cóc xuyên sơn. Bốn bề vẫn toàn rừng núi trùng trùng nhưng đi thêm khoảng hai dặm ngàn nữa bỗng tới một miền cảnh thổ rất đẹp. Trông lên rặng đồi Tây, thấy ẩn hiện nhiều mái sàn chon von, coi như chuồng chim câu treo trong mây.

                - Bản Mèo kia! Đi gấp cũng phải hơn giờ ngựa. Lên đó chắc hỏi ai cũng biết được đường đi. Hai thầy trò giục ngựa chạy kiêu băng, kiếm lối lên bản Mèo. Vì e trơi sắp tối, nên cả người vật đi cùng một toán.

                Ngựa đang bon bon, vừa tới có lối rẽ lên bản Mèo, bất thần Quản Kình vụt giơ tay làm hiệu, hai người đứng vội. Kính rút ống nhóm chiếu về phía trước, đoạn bảo chủ:

                - Cậu hai coi... Hình như có đám rước thì phải. Võ Minh Thần cũng vội lấy kính quan sát. Quả như lời Kình. Xa xa, trên một trái đồi thưa cỏ non, nhấp nhô nhiều bóng tàn tán từ phía bên kia vọt sang

                cuồn cuộn, cứ thoáng hiện, thoáng ẩn giữa lá cây, sương chiều. Nếu không nhìn thấy hình tàn tán in vào nên mây trời ngọn đồi, có lẽ khó lòng nhận dữ à! Nổ chứ cậu hai? Võ xua tay, Tây Gầm vuốt râu cười khà, vẻ đắc ý hết sức:

                - Cứ để coi nó giở trò gì đã! Thầy trò ngươi cứ ngồi xem. mặt, cách có con thung hẹp. Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

                - Không phải đám rước! Có lẽ tàn lọng ma quân!

                - Tàn vàng tán tía... Ô kìa! Không thấy kiệu không phải rước thần Đổ Bác!

                Đúng "con ma trăm mặt trăm giọng" rồi! Không xong! Tránh đi thôi... cậu hai! Võ Minh Thần điềm nhiên:

                - Việc gì phải sợ chạy? Chú quên lúc đó tôi bị trọng thương sao?

                - Cậu hai! Muốn báo cừu, xin cậu hãy nén lòng, tránh mọi chuyện rắc rối! Cậu chớ quên "con ma trăm giọng" nó có ngón "cường toan bạch cốt" không kém Ma vương!

                Chàng nghiêm mặt:

                - Chính vì thế ta nên gặp lại y, coi đòn đó là đòn âm hay đòn ma công bí pháp? Và chú quên hôm nay chúng ta đều mặc quần áo khác, đeo cả mặt nạ, ra người khác sao?

                Tuy nói vậy, nhưng chàng trai cũng phải nghe lời Quản Kình, cũng vọt ngựa rẽ về hướng bản Mèo non cao. Chẳng may đám rước tàn tán lố nhố kia đã trông thoáng thấy bóng ma nhân mã dưới thúng, lập tức xuyên ngang vọt theo chặn lại. Rập! Tàn tán người ngựa lính cổ lính kim thời, võng lọng đã đứng lố nhố bên đường mòn, khiến thầy trò Võ phải đứng lại.

                - Này hai chú kia! Đứng lại cho quan Điện Tiền chỉ huy hỏi chuyện! Lúc lửa, vụt bảo Tây Gầm:

                - Chó sói lên núi không kém sơn dương! Tây Sắc có thể cho quân bọc hậu hoặc đánh từ đuôi hạc lại. Núi này nhiều điểm tựa, rước cổ kim hòa điệu này đứng cách độ ba mươi bộ, dàn quây lấy chiếc cáng gấm đúng cang Ma Quân Bá Diện đêm nào "ngự" dưới tàn cây, có gái hầu khiêng giá vật dụng đứng sau, tàn tán che ngay ngắn coi rất nghiêm chỉnh, một viên tướng phương phi râu chòm xách búa oai vệ giục ngựa tới, dòm kỹ không phải viên Điện Tiền đêm nọ mà là viên Điện Tiền mới, không ai khác Tửu Chúa Tửu Đế. "Vua rượu" coi vẫn hồng hào, nơi cổ ngựa có đeo một chùm bầu lớn, nhưng áo đoạn khăn xếp đã trút bỏ. Bữa nay y mặc một bộ giáp cổ sặc sơ mũ trụ lại thêm hai cái lông trĩ, lưng giắt thêm mấy lá cờ sặc sỡ, coi oai phong lẫm liệt không thua "tướng Quảng Lạc Lữ Bố" đất Sầm Công. Võ Minh Thần là kẻ ít cười nói, thấy lão Điện Tiền Tửu Chúa mặc nhung

                phục coi như chúa tuồng cũng suýt phì cười, phải làm mặt lạ, cùng Quản Kình tung hô. Tửu Chúa quát:

                - Các ngươi đi đâu? Quản Kình dùng tiếng Thổ đáp:

                - Chúng tôi lên biên giới thăm bà con

                - tiếng loa gọi, chợt dàn hàng ngang, theo hình cánh cung ôm lấy khu đầu núi. Bất thần Tây Sắc hét "À, Tây Gầm giỏi!" Nam Khấp đang chép vùng bảo:

                - Đó thấy ngươi không?

                Quản Kình chưa đáp, Minh Thần đã đỡ lời:

                - Dạ có! Ôi chao! Một đàn cẩu quẩy đang vây cả hai người Thổ. Có con đầu đàn lông vàng bờm sư tử, bọn tôi suýt đụng bầy quỷ nếu không nhờ hai con chó săn khôn. Hai người Thổ dùng đao chém chết rất nhiều chó sói, nhưng con chó đầu đàn thành tinh, chạy như gió, chắc hai người kia khó thoát.

                Tửu Chúa hỏi thêm mấy câu, đoạn vọt ngựa tới chỗ cáng gấm đậu. Thầy trò Võ cũng giục ngựa đi liền. Được mươi bộ, bỗng nghe tiếng trong cáng phát ra một câu hàng chục giọng:

                - Giữ hai tên đó lại! Trẫm ngự vấn!

                Sĩ tốt ào ào rượt theo, hai thầy trò vừa dat ra xa, thì chiếc cáng gấm đã lướt tới nhanh như tên bắn, có tiếng cười thét ma âm:

                - Trai Thổ lấy vải thưa che mắt thánh. Hé hé! Độn trẫm linh ứng như

                thần, Ma vương xua cá vào lưới trẫm! Vòng xanh đâu? Hai thầy trò biết lộ. Võ Minh Thần vụt nghĩ ra một kế, phát cười lạ lùng:

                - À mỗ thử chút chơi! Ma Quân Bá Diện tinh mắt lắm! Sao không tìm Đổ

                Bác Thần mà hỏi?

                Tiếng cười âm âm nhiều giọng:

                - Hà ha! Trẫm mất hai tháng mới tìm được lão trùm cờ bạc! A! Lão bịp ta, thầy trò ngươi bịp lão. "Bợm già mắc bẫy cò ke"! Vòng ngọc ngươi vẫn giữ. Đưa đây!

                Biết nói dài dòng vô ích, Võ Quát lớn:

                - Nếu định cướp, có giỏi xuất đầu lộ diện đấu với mỗ!

                - Không được! Thánh Quân Bá Diện không cho người thấy rõ mặt. Ngồi

                trong cáng thánh quân đủ hạ ngươi rồi!

                Minh Thần nghĩ thầm:

                - Coi cáng kia nó trùm kín như buồng tắm, hay nó sáu tên xách thang tre chạy vù tới giật cạch nối dài gấp hai, ba lần đặt phịch lên hai vai tên đi kheo. Bọn này nhanh gọn, răm rắp không khác bọn người máy, ma quân bắn lén!

                - Thánh quân gia ân cho tự vệ. Thua, phải nộp vòng, không được hai lòng! Tiếng hú trong cáng phát ra, cả "đám rước" lập tức lùi mấy bộ, im phăng phắc, chỉ có bốn ả gái hau khiêng luôn cáng chạy vù lên cánh rừng xế trước,

                cách độ bảy, tám chục thước. Tửu Chúa Điện Tiền theo sau. Thầy trò Võ dẫn chó phi tới. Đưa mắt cho Quản Kình, Võ bảo:

                - Dang xa, mặc mỗ giao chiến!

                Quản Kình hội ý, lập tức phóng ngựa, đàn chó đi trước.

                Bốn ả nữ hầu đặt cáng xuống, dạt xa, thấy cáng chơ vơ sát đất, chùm kín.

                Võ cũng nhảy xuống đất thả ngựa cho chạy ra ngoài xa, hô "Đấu bộ cho cân" Tiếng trong cáng phát ra:

                - Vòng đâu? Cho ngươi đánh trước! Võ rút vòng giơ lên rồi cất ngay, nghĩ thầm:

                - Nhát đầu phải dùng dao chém bay vải gấm, trúng cáng mới được! Nghĩ xong định xuất thủ liền, nhưng lại muốn dò xem Ma Quân Bá Diện

                ngồi chỗ nào, chàng trai liền xẹt xa chừng bốn mươi bộ, ngầm vận điện công, hỏi lớn:

                - Này Bá Âm! Mỗ đứng phơi ngoài trời, ngươi nấp trong cáng trùm kín mít, cuộc đấu bữa nay liệu đã công bằng chưa? Nếu ngươi bắn trộm...

                Có tiếng quát chát chúa phát ra the thé hàng chục giọng đóng búa vào lỗ tai:

                - Mặt lạnh! Nếu quả nhân định bắn lén, thầy trò Thổ vòng xanh mất mạng lâu rồi! Thánh quân không bắn đâu! Mặt lạnh đánh đòn gì thánh quân ra đòn đó!

                Vừa nghe dứt lời, Võ Minh Thần nhảy xẹt chếch vài thước, vung tay phải chém lia một phát xuống cáng! Đường thép Võ thả ra bất ngờ, nhanh hết sức, liễu đao lại từ trong tay áo khuất bay ra, chỉ thấy nhoáng một làn ánh áng cầu vồng, lưỡi thép đã sả tới, chỉ còn cách non gang tay, tưởng sẽ chém bay mũi cáng, nào dè từ trong cáng gấm đã vụt ra một vệt xanh lè quạt trúng liễu đao đến "chát" tiếng khô dòn, khiến Võ Minh Thần thấy tê chồn ca cánh tay, liễu đao bật dội lại hơn thước. Chân cũng vừa hạ xuống, đã sẵn chú ý, Võ đập tay vút liễu đao len chực quật đao, chàng trai phát điện công sang cánh tay trái, thuận tay chặt vào bờ vai Tư Vạn, đeo cứng, hai chân bà hỏng mặt sàn nhà.Lúc bà nứng lồn trông mặt khờ dại đáng yêu làm cho Tư Vạn nứng cặc vô cùng.

                Tư Vạn dìu thân thể bà xuống thấp cho sợ không dám đánh nhau hao lực lượng sao hai tên chúa trùm không đánh tay đôi cho gọn.

                Nam Khấp đang mải ghi chép vừa nghe dứt lời Tây Gầm, Nam Khấp vùng xảo, và lòng cáng gấp hiện ra lồ lộ dưới ánh trời chiều... trống trơn! Chẳng có bóng người, vật nào nằm trong đó, hay nói rõ hơn, chỉ có một cái gối sơn son thiếp vàng coi không khác bàn thờ. Như chạm phải điện, Võ Minh thần kêu lên kinh ngạc, thu vội liễu đao,

                xẹt lùi một bước dài, giương mắt trừng trừng nhìn lòng cáng rỗng, đầu óc đảo điên, tưởng mơ ngủ.

                - Lạ dữ chưa? Rõ hắn vừa léo nhéo xong, sao cáng lại không có người? Quái đản! Không lẽ Bá Diện Ma Quân là con rừng ma núi? Đêm nọ, ta lừa vén vải lên, mỗi lần thấy một hình thù, giờ vén lên lại chỉ có cái gối thờ...!

                Ma quỷ nào lại hiện giữa ban ngày? Đông Âm Bá Diện là giống gì đây? Hay "hắn" là "nhân vật" biết thuật "tàng hình"? Càng vô lý nữa! Chuyện tàng hình xưa nay chỉ là chuyện hoang đường, thời nay làm gì có?

                Chàng trai nghĩ nát óc, đưa mắt nhìn Tửu Chúa Điện Tiền, "sâu rượu" lúc này đã xuống ngựa đứng thẳng người xế sau cáng gấm, vác cây búa lên vai coi như lính bồng súng, và khi thấy Võ lột soạt vải phủ cáng, y bỗng giật nảy mình trợn mắt trừng trừng vươn cổ dòm cái cang không người, vẻ ngơ ngác sững sờ còn hơn cả Minh Thần. Bỗng một cơn gió chiều thổi lùa cáng trống nghe "xoạt" tiếng mạnh, mảnh gấm lại nhảy lên phủ luôn lên cáng kín như bưng. Có tiếng thét nhọn phát ra, giọng nữ thet lảnh:

                - Mặt lạnh! Sao dám tự tiện mở cáng thánh quân? Đêm nọ thánh quân đã

                tha tội khi quân, giờ sao tái phạm? Muốn "cường toan bạch cốt"?

                Võ Minh Thần đảo mắt nhìn qua, nghiêm mặt:

                - Đông Âm Bá Diện! Ta không ưa kẻ lẩn mình giao chiến! Hãy mau ló mặt đánh với ta!

                Dứt lời, sực nhớ đến cảnh âm binh chiến đêm qua trong động Pi A Ya, chàng trai vội bấm cung bản mệnh, miệng đọc chú, phòng hờ. Chợt nghe tiếng cười ré lên vẫn giọng mơ hồ"

                - Mặt lạnh! Ngươi làm gì đó? Đọc chú hộ thân? Hà hà! Ngốc tử! Ngươi cho thánh quân Bá Diện là loài ma quỷ hồ ly sao? Hà hà! Ngươi bị trành Tây Sắc đuổi, nhìn thiên hạ, ai cũng ra ma. Trẫm sai khiến cả ma quỷ, sao lại là ma?

                Theo tiếng cười, cáng gấm lắc lư đu đưa rồi từ từ bò lên mấy bước, lại trôi về. Võ Minh Thần cứ đứng yên, đảo tia nhãn tuyến quan sát, lại bất thần hét lên một tiếng "sát" như lối đoạt khí của võ sĩ đạo Phù Tang, tung luôn dao

                chém lia lịa liền ba nhát nhanh như chớp. Cũng như lần trước, "cái mống xanh" từ đâu vọt lên gạt "chát" liễu đao. Võ thừa cơ bí mật đưa trảo chỉ nhón mép vải thử lột "soạt" chuyến nữa.

                Tiếng cười lanh lảnh thé cất lên xoáy óc, hình thù trong cáng vụt hiện ra, đập vào mắt chàng trai, khiến chàng bất giác vọt lùi một bước, thu đao, định thần dòm, sửng sốt. Vì hình nằm trong cáng là một thiếu phụ còn trẻ măng, một nữ lang mắt phượng mày ngài môi son má phấn, trâm cài lược giắt, mặc lối Thổ thái, váy lãnh viền thủy ba kim tuyến, áo bó sát dáng thân thanh tú. Nữ làng nằm nghiêng duỗi chân, chống một tay nhìn ra, vẻ đẹp lộng lẫy uy nghi vẻ các "cô nàng" miền núi, phảng phất nét "bà chúa rừng thiêng" thiên hạ vẫn đồn thấy hiện trước miếu linh đêm trăng ngàn.

                Vì lúc này trời chiều còn sáng tỏ, Minh Thần nhìn rõ từng đường nét, chàng trai vừa nhác diện mạo, là hồi tưởng ngay lại khuôn mặt chàng từng thấy đêm nọ trên đường hồ trò Hàn Tín đánh Trần Thương, định đoạt tay trên!

                Thầy trò Võ Minh Thần giật mình trông lên ngọn núi xế trốc đầu, thoáng chiếc cang gấm hiện ra sặc nữa, chắc lại thấy một con Hồng Cẩu Quẩy nằm trong cáng đó thôi! Việc ai nấy lo, hơi đâu khám phá, ganh đua hơn thua với "hắn".

                Chàng trai nghĩ vừa dứt, bỗng "soạt" gấm chùm kín, tiếng dị hắt ra chói tai:

                - Mặt lạnh! Trời muộn rồi! Đưa vòng đây! Tây Sắc sắp tới! Võ Minh Thần nghe "Tây Sắc sắp tới", vội nghiêng đầu lắng tai, bỗng dội lòng, nghe từ nẻo bên kia rặng núi về phía Đông Nam, vụt có tiếng tru hú xa

                xăm nổi chìm trong hơi gió rừng chiều, chàng trai lập tức chém bậy một nhát rồi xẹt mình hú gọi, chạy vụt về phía con ngựa, miệng nói lớn:

                - Đợi đó! Mỗ còn quên món bửu bối phải đi lấy! Chạy được mười bước, bỗng nghe léo nhéo hàng chục giọng nam phụ lão ấu hét sau lưng, "véo" luồng gió vút theo. Võ xẹt ngang tránh, tung đao đỡ "chát" trúng "cái móng xanh", dòm lại cáng không người khiêng bỗng chạy vùn vụt rượt theo. Chàng trai vừa chạy vừa nhót lên lưng ngựa, phi như gió trên đường mòn xuyên thung. Võ Minh Thần nhờ ngựa hay, chạy thật nhanh trông lại, thấy lão Điện Tiền Tửu Chúa cũng nhảy ngựa xua quân nam nữ kim cổ rượt theo, tàn vàng tán tía cuộn như gió. Trước hai mối nguy lớn trong thiên hạ, vừa lo mất hy vọng tìm ra nguồn gốc thân thế mình, them nỗi xót xa không tự tay giết được con tinh thú, chàng trai buột miệng lên chồm chồm, vọt đi như tên bắn, có lúc nhấp nhô bốc cao

                trên mặt đất đến hai thước, mép gấm phủ tua kim tuyến, dải rèm sặc sỡ bay lộng phấp phới, coi rất quái gở. Thoắt, "nó" đã chồm theo chỉ còn cách bảy tám chuc bộ rồi năm sáu chục, hét giọng nữ:

                - Mặt lạnh! Ngươi không thoát nổi đâu! Đưa thánh quân mượn còn hơn lọt

                vào tay Tây Sắc quỷ mắt đỏ nuốt sống cả người.

                Võ ngoái cổ lại cười lớn:

                - Nếu vậy cho nhà ngươi mượn, no lại ăn cả cáng gấm, mỗ đâu đành lòng. Lời vừa dứt, ngựa đã lao vào một kẽ đồi rậm, vụt từ khóm lá um tùm, có một họng súng chĩa ra khạc luôn một tràng vào cáng gấm. đúng lúc cáng vừa tới đầu hàng, "tặc tặc" đan trúng dọc từ đầu tới cuối cáng, quật cáng bốc lên cao móc vào cành cụt đu đưa.

                Từ trong khóm lá Quản Kình vọt ngựa ra chạy theo Minh Thần, ngoảnh lại nhả thêm mê man như không nghe cả rặng núi đang chuyển động ầm ầm như sắp vỡ đôi.

                Chợt nghe y phát âm:

                - Này trai điển! Ruột cái vòng này coi vậy mà nhiều ái ngại đã bày

                kế phục bắn tự vệ hơi ác, bỗng giật mình, thấy cái cáng nhảy bọt xuống bụi mất dạng, rồi tiếng Bá Âm hét gai gai:

                - À thằng mặt lạnh này thâm độc, lừa tao tới bắn trộm. Vậy thánh quân phải hồn cả thầy trò mi!

                Dứt lời, đã thấy từ trong bụi rậm bên đường một luồng sáng xanh lè bay vù ra, chém xả xuống đầu hai người. Võ Minh Thần đã kịp đề phòng, lập tức tung đao liễu đỡ gạt. "Chát"! Cả hai luồng sáng bật văng ra tóe lửa. Minh Thần thấy rúng động cả chân thân, chém bừa một nhát, giục ngựa phi.

                Quản Kình chạy về trước, ngoái lại bắn đan một loạt, vụt kêu giật:

                - Rạp xuống!... Cậu hai! Võ Minh Thần vừa lao cúi xuống đã nghe "xoảng, xoảng" mấy tiếng khô xẹt như vãi đâu quanh mình, mũi bị khét lại, tạt thốc vào nhức óc. Dòm sang, thấy Quản Kinh vừa nhổm dậy, vành khiến úp nửa mình người ngựa, dưới ánh sáng chiều, vừa hiện ra mấy lỗ thủng sâu hoắm xuyên qua vải bọc, thép, có lỗ

                còn nguyên giọt nước đang bốc khói. Quản Kình dòm sang chủ, may mũ, khiên khoác sau lung che kín, mặt khiên cũng có mấy lỗ thủng khét mù.

                - Cường Toan Bạch Cốt!

                Hai thầy trò vội giục ngựa chạy như giông, ngoái trông lại đã thấy cáng gấm rượt theo, phía sau tàn vàng tán tía lố nhố, súng nổ, tên bay, giáo phóng theo vun vút.

                Hai người rạp mình phi, chạy qua hai con thung lũng nữa, bong tới một chỗ rẽ. Hai con Hắc Bạch cẩu lập tức dẫn hai con ngựa lao thốc vào vùng cây cỏ um lên cũng chỉ độ năm, bảy thước! Tuy vậy, chẳng thấy bóng giặc nào, sườn núi cũng vắng hoe,

                quân giặc lại vòng sang tới mình hạc đánh lên.

                Không vắng lặng, hai thầy trò mới yên trí đã đánh lạc đường được "con ma trăm giọng".

                Vừa toan hạ nước ngựa, sực lại nghe tiếng sói tru xa xa xế mạn rừng tả, hai thầy trò không dám chậm trễ, cứ giục ngựa, chó đi miết.

                Băng qua một con suối trong veo, hai người bắt vào một con đường mòn, trong ra thấy đang đi vào một cánh rừng rất đẹp tuy đang vào độ cuối đông nhưng hoa cỏ tốt tươi, như vào tiết xuân thiên, tứ phía xa xa bản thổ rải rác lưng đồi, núi đá trập trùng, suối khe róc rách, gà rừng gáy êm đềm.

                Ngựa vừa đi qua một ngọn núi, vụt ra một thung lũng đầy hoa lạ, tùng bách xum suê, suối tuôn róc rách. Cảnh phong quang kỳ tú đột hiện giữa rừng già khiến hai người thấy nhẹ hẳn tâm thần, hạ nước ngựa, đi bước một, nhìn cảnh trí. Quản Kình thường qua lại miệt biên, cũng chẳng rõ đây là miền nào, chiếu hướng mặt trời lặn, bảo chủ:

                - Ta đã lạc hướng Tây Bắc đi Thanh Âm rồi! Miệt Thanh Am ở miền Chang Poung cùng hướng Đồng Văn, còn đây ta tạt về phía Đông Bắc. Đi loanh quanh nãy giờ, có lẽ đang chạy đến miệt Coc Pan, Loung chi đó.

                Nhận thấy lối mòn xuyên sơn chạy về miền Tây Bắc, Võ Minh Thần bảo Quản Kình:

                - Vậy ta cứ đi theo ngã này đi, chừng tối sẽ liệu kiếm chỗ trọ hỏi thăm. Ma Quân Ma vương chắc đang sục sạo phía sau ta, càng xa hơn càng tốt.

                Hai thầy trò tiến qua thung lũng đẹp. Khỏi thung, lại đến cảnh thổ khác còn đẹp hơn. Đang thả bước một giữa rừng, bỗng Võ Minh Thần nghiêng tai bảo:

                - Chú Quản à! Sắp tới bản động thổ dân rồi. Chú nghe thấy tiếng gì

                không?

                Kình nghe, kêu:

                - À tiếng kèn đám ma!. Bản động này có người chết.

                Ngựa đi thêm quãng nữa, quả nhiên càng nghe rõ âm thanh chìm nổi đàn dây, chờn vờn, thê lương kỳ lạ. Lúc đầu nghe còn phân biệt được âm phát từ

                kèn Tàu ra, sau không còn là âm kèn nữa mà như tiếng người khóc than tỉ tê, nức nở, rõ tiếng đàn ông, rồi giọng đàn bà, rồi đủ mọi hạng nam phụ lão ấu cũng than khóc thảm như cha chết.

                Rồi không phải tiếng kèn táng nữa mà kể nghe thấy rõ kèn đám tang y, chính "y, hồn y" đang khóc còn thảm hơn chết cha chết mẹ, chết chồng... Người ngựa, chó vụt đứng im nghiêng tai rũ đầu nghe âm giai khóc lóc như mưa. Và tự nhiên Võ Minh Thần, Quản Kình vùng sa nước mắt, ngựa chó cũng ngẩn ngơ ứa lệ ròng ròng như khóc kiếp khuyển mã phù du...

                - O o è ý o... ý ý e ý ò... ý e... Tiếng kèn đám ma nức nở ò e càng lúc càng như lăn lộn kêu gào thê thảm, tưởng chừng cây cỏ núi đồi cũng sắp khóc theo. Bỗng âm thanh ré lên

                trong Nào dè, chỉ

                mươi khắc sau, bỗng nghe tiếng hét vang âm, sau mỏm núi còn gần hơn chỗ vừa rồi.

                -À! Quỷ phương Tây gớm thật! Nó nấp làm cách nào mà thê thảm đến thế? Còn thảm hơn kèn lão Đổ Bác Thần thổi đêm nọ... Hình như có cả Lâm Khốc

                - Mà lạ thật! Không lẽ đây có bản người Kinh? Chỉ người Kinh mới thổi kèn "Lâm Khốc".

                Đang bàn, bỗng tiếng kèn thê lương lại cất lên, lần này càng bi đát hơn, âm nức nở nghe rõ chính người thổi kèn đang đưa đám y, làm mấy con vật cứ thở phì phì, nước mắt chảy ròng ròng.

                Bị óc tò mò thôi thúc, hai thầy trò Võ bèn giục ngựa lần theo tiếng kèn. Tưởng gần, không ngờ lần qua một cánh rừng, một rặng đồi nữa mới nghe rõ hướng phát âm, tiếng nghe ồ ồ như cả chợ người chõ vào tai mà khóc, khiến cả hai phải bịt tai lại.

                Nhìn lên, thấy bóng người ngồi trên một ngọn núi cao độ bảy tám chục thước, đang thổi kèn. Chung quanh chẳng có nhà cửa bản động nào cả, không kể những mái sàn thổ dân rải rác tít lưng đồi xa. Ngọn núi này lẫn đất đá, tùng bách xanh um, có một con thác đổ trên cao xuống cuối thung, hình như một con hạc cúi đầu uống nước. Người thổi kèn xoay nghiêng về phía thung, mặt hướng về phía tây.

                Bỗng Quản Kình thì thào:

                - Cậu hai à! Coi hình kia... đâu phải người? Coi như con ma thổi kèn. Võ vội chiếu ống nhòm, hơi nhíu mày lại. Vì trong ống kính hiện rõ hình

                trắng toát, chẳng có đầu mình tay chân gì cả, có thể nói chỉ là một khối vôi "ngồi" lù lù coi như một đụn da với một hình loa kèn thò ra trên ngọn.

                - Phiến đá vôi? Không phải. Y coi như người ngồi trùm chăn... à. Lạ dữ! Chú trông ngựa, chó để tôi thử lên coi. Võ nhảy xuống, dắt ngựa vào chân núi, và mot mình dùng thuật khinh thân bám mỏm đá leo lên, phía gần dòng thác đổ qua. Thoáng đã đến nơi, Võ bắc đá, nương cây, nhô lên dòm, cách độ hai mươi bộ.

                Chỉ suýt nữa, Võ Minh Thần đã buột miệng kêu kinh ngạc. Vì hình thù trắng toát ngồi kia, coi đúng là một "con ma thổi kèn". Đứng xa tít dưới thung trông giống dân Ả Rập trùm khăn trắng sa mạc, giờ cách hai mươi bộ, trông khác hẳn, chỉ là một khối trắng như vôi tỏa vây giữa cảnh chiều sơn lâm. Người bạo gan nhác thấy cũng phải rợn. Nhất là tiếng kèn đưa đám của "nó" phát ra nghe thê lương quái gở lạ lùng đúng tiếng "ma kêu quỷ khóc". Nín thở, định thần cho lòng khỏi xao xuyến đảo lộn vì "tiếng kèn ma", chang tuổi trẻ chú mục dòm từ trên xuống dưới, bỗng lại thêm kinh dị, thấy cái khối trắng lù lù chỉ là một khối mây mù đặc sệt quánh lại như bột, phải nhìn lên đến mười khắc mới thấy rõ lớp mây sệt này cuộn đậm nhè nhẹ gờn gợn và tan từng chút một mỏng đầu:

                - Chuyện đó không khi nào xảy ra! Tien sinh đừng đợi mất công! Giống sơn cẩu này có thói quen ăn thịt tất cả giống sinh vật nào gục chết! Con tong tong xuống bàn thạch, không khác một tảng nước đá đang tan dần. Và cùng lúc đó chàng mới chợt cảm thấy thân mình lạnh lẽo lạ thường, mặc dầu lúc đó đang mặc quần áo ấm.

                Bèn đưa mắt quan sát khối kỳ dị kia, mới hay cành lá hoa cỏ xung quanh đều lấm tấm hư ảm hơi sương, chàng liền vận nhãn tuyến ngó thêm, mới khám phá ra khối lạ ngồi kia chính là một khối băng tuyết có hình người trông không khác một hình tượng đã bị tuyết đọng phủ kín vậy.

                - Lạ dữ chưa? Khối tuyết thổi kèn... là cái chi đây? Chẳng lẽ ma rừng hiện giữa ban ngày? Thường ma quỷ thuộc âm, mấy khi hiện lúc còn nhiều khí dương?

                Tò mò hết sức, Võ Minh Thần lập tức khom mình chen dưới ghềnh, nhô lên dòm xế trước mặt "khối tuyết". Và lại một phen phát rợn, thấy khối tuyết này càng giống hệt hình người ngồi, tay đang cầm kèn thổi, nhưng cả hai cánh tay cũng chỉ là hai cánh tay nước đá rỏ tong tong, ngay cả kèn cũng ướt đầm đìa, đọng đầy tuyết. Đến cái mắt lại càng gớm ghiếc, vì là hình mặt người nhưng giống hệt một cái đầu tượng mới khắc sơ hình, không tai không mũi không mồm, hay nói đúng hơn nó là một cái đầu tuyết cục đang bốc khí lạnh như sa mù, co hai lỗ mắt, hai lỗ mũi và một lỗ mồm ngậm kèn thổi. Hai lỗ mắt

                lại càng ghê, vì là hai cái lỗ xếch đỏ tựa như than tàu, xếch như mắt hùm beo "ăn" đèn săn, long lanh như cũng có tuyết đọng bên trong.

                Tuy nhìn nghiêng, Võ cũng cảm rõ hai lỗ mắt đỏ kia phát ra một thứ uy lực dị thường va theo nhịp kèn thê Đông Âm, Tây Sắc. Lập tức các bọn người, vật phía dưới vụt biến mất, và đạn từ dưới vãi lên như mưa rào, rót cả vào mỏm đá chỗ Võ Minh Thần, Tây lôi cuốn lạ lùng, từ thê lương thống thiết, âm dị đang chuyển dần sang thảm thê đau khổ đến rùng rợn, tưởng chừng tích ẩn cả ngàn vạn nỗi kinh sầu ghê gớm của kiếp phù sinh tang tóc mất mạng "không cách nào thoát nổi trước oai lực trùm vũ trụ của Hóa Công".

                Gọi là tiếng kèn nhưng thực ra không còn là âm thanh nữa. mà nó đã hòa hợp vào hồn người để thành như "tiếng nói riêng", "ngôn ngữ thanh âm" mà bất kể sắc dân nào, người nào nghe thấy cũng linh cảm thấy ngay như đang nghe tiếng nói của sắc dân nước mình vậy.

                "Quái gở! Khối tuyết thổi kèn? Chẳng lẽ con ma tuyết thổi kèn. Mà sao trên đời này lại có thứ âm thanh cung điệu thê lương bi thống đến thế này? Hình thù tuyết kia rõ ràng phải là một linh hồn cực kỳ minh mẫn, ôm ấp tâm sự buồn đau ghê gớm lắm, mới có thể thổi được nhịp kèn thảm đến thế. Tiếng kèn phi phàm".

                Chàng trai nghĩ vẩn vơ, nhất thời chưa hiểu "nó" thuộc chủng loại gì? Khoáng sản, tinh quỷ vật, ma quái, chợt nảy ra ý táo bạo, thử dùng điện công đưa tay sờ thử hình thù xem sao, nhưng lại do dự chưa dám khinh suất, hình thù tiếng kèn ma đã im bặt. Rồi bàn tay tuyết hạ cây kèn xuống vẩy luôn hai, ba cái. Tuyết rơi lả tả rào rào xuống nền lá vụn, có hòn bắn vãi tới chỗ Võ Minh Thần. Bỗng có tiếng người nói ồn ào:

                - Ôi! "Con ma" này ngồi gần ngươi đã rét như ngồi trên bắc cực, nghe ngươi thổi kèn không ai muốn sống nữa. Cứ như người cõi đời này mà một đám ma, chán chết. Thôi! Thôi, một giờ ta giao ước lại: Phải thổi bản nào vui tai chút!

                Võ giật mình ngó quanh, không phải khối tuyết nói, nhưng ngay khi đó lại nghe khối tuyết phát âm, giọng xa xăm như từ cõi nào "vọng" về.

                - Quỷ tướng phương Tây. Cõi Linh Nam này can dự gì đến phương Tây màcác ngươi sang cướp. Các người làm người ta vong quốc, lại còn muốn người ta vui được ư? Lại còn kiếp nhân sinh phù thế, người bảo Lĩnh Nam như ta đây, không thổi kèn đưa đám sao được? Gặp ta là quỷ phương Tây có duyên đó. Người khác, ngươi phải nghe kèn đồng, đâu được nghe kèn đám ma? Chớ nhiều lời, tránh đi cho sớm ngươi chỉ được nghe kèn đám ma. Mà ngươi không thể làm cho người ta vỡ màng tai được sao?

                Có tiếng cười khà, lần này tiếng ồm lệnh vỡ, có tiếng Kinh lơ lớ hơi khó nghe:

                - Ma phương Nam! Chẳng nên nhắc tới chuyện mất, còn. Thịnh suy bĩ thái sinh thành trụ diệt chẳng qua cửa tuần hoàn... Chẳng nên làm con ma oan nghiệt với ta cho mất giao tình. Ngươi cũng biết ta lặn lội khe sâu rừng thẳm, cũng chỉ vì không muốn thiên hạ chết oan mà. Ôi rất tiếc ngươi lại buộc ta phải thi tài mới nghe ta. Khốn thay cho dân miền núi, dân Lĩnh Nam.

                Võ Minh Thần nghe trộm thấy rõ có hai kẻ đối thoại nhau, gọi nhau bằng "ma", "quỷ" lòng kinh, nghĩ thầm:

                - Nghe tiếng rõ một kẻ nói giọng ta, một kẻ nói giọng Tây thì phải. Hình như "con quỷ" đang cầu "con ma" giúp điều quan hệ đến vận mạng dân gian thì phải... Lại còn nhắc đến... à... Có lẽ...

                Vừa nghĩ, vừa đảo mắt dòm quanh từng tảng đá, khóm cây, vẫn chỉ thấy một khối tuyết lù lù, bỗng nghe tiếng ồm ồm phát ra từ một bui hoa dại xế trước mắt khối tuyết, Võ Minh Thần vội chú mục dòm, chợt phát giác có một bóng người ẩn hiện giữa hoa lá.

                Vì bóng ma này xanh, nhòa vào bóng lá xanh che gần trọn hình, nhìn thật kỹ mới thấy nổi, bèn rút ống nhòm nhìn mới hay trong lá có một người to lớn ngồi sừng sững, tay cầm một cái ba toong gộc, bên mình lại đặt một khẩu kích pháo và một cái túi rất lớn.

                Nhìn quanh lại phát giác thêm con ngựa đứng sau phiến đá lớn, vì rặng núi này là núi đá pha đất nên cây cối cỏ hoa xanh um rất khó thấy.

                Chợt nghe tiếng hô "Nào! Pháo đầu", tiếp theo tiếng "cùng pháo đầu". Võ Minh Thần bèn nghểnh cổ nhìn phía trước mặt ai hình thù, chẳng thấy gì ca, lúc đó mới hay hai hình thù kia "đánh cờ tướng". Trong "nghề" chơi tài bàn, tổ tôm, cờ tướng, phàm chơi được tổ tôm, tài bàn, chơi cờ tướng phải là tay cao thủ, "nhập tâm" quen mới không lầm lẫn. Võ Minh Thần vốn tay ky nhân có hạng từ nhỏ, nên vừa gặp cảnh đánh cờ tướng là "dính" luôn, nhập tâm từng nước cờ liền.

                Chàng trai chăm chú nhìn hình xanh, nhận ra đó là một người mặt đỏ, râu rậm, mũi cao, tóc râu ngô, đúng là người Tây phương. Hai con mắt mèo xanh biếc, tuy khuất nhiều giữa hoa lá những coi vẫn lộ vẻ oai, râu xồm coi tướng nói tính nhưng hai con mắt xanh biếc lại hiện rõ tinh khôn hết sức. Bất giác, Võ nghĩ:

                - Chẳng lẽ một con quỷ Tây đánh cờ với một con ma ta? Lạ thật! Hình tuyết kia giống hệt một câu cụ Nguyễn Du đã tả hồn Đạm Tiên trong truyện "Kiều". Sương in mặt, tuyết pha thân... Coi đúng hình thù ma sương tuyết.

                Bỗng nghe "quỷ" Tây chợt hỏi:

                - Ma phương Nam. Liệu "nó" có tới không? Sao nghe... im lìm thế? Hình thù tuyết khối phát âm, vẫn xa xăm lạ:

                - Ta đã nói "nó" sắp tới, thế nào "nó" cũng tới. Ta còn biết: Cả hai tên kia

                cũng có mặt. Quỷ Tây không cần hỏi vội. Ta chưa nhận lời mà.

                Bóng xanh cao than:

                - Ma phương Nam! Ngươi biết không? Ta đã tìm bao năm vẫn chưa gặp Tây Sắc Ma Vương, bữa nay "nó" lần tới vùng này, là cơ hội ngàn năm. "Nó" không được nghe kèn đám ma, kể tiếc cho dân gian mấy cõi lắm. Tiếc cả cho ngươi nữa, ngươi đưa đám "nó" mới phải. Ôi! Không ngờ lòng sầu thảm thanh cao mà lại ít từ tâm đến thế!

                Minh Thần nghe bốn tiếng "Tây Sắc Ma Vương" bỗng giật mình kinh dị:

                - Sao y lại có thể biết rõ Tây Sắc sắp đến đây? Ôi chao! Nếu vậy kia có le là hai con ma rồi! Xem ý, bóng xồm mắt xanh kia muốn cầu hình tuyết trắng diệt Tây Sắc thì phải. Nếu Tây Sắc đến đây, với đàn quỷ bốn chân, chắc... nguy dữ à...

                Lại nghe hình tuyết phát âm:

                - Này quỷ phương Tây! Chính ra ta cũng chẳng yêu gì "thằng quỷ sói hiếu sắc" đó. Nhưng tính ra sòng phẳng, nó không sinh sự, ta chẳng muốn sinh sự. Nhưng ta e lần này nó dám sinh sự lắm. Vậy ván này quyết định. Nếu ngươi ăn, ta sẽ giúp ngươi một tay, miễn nhà ngươi chớ động tới "của quý" của ta đó. Ôi không ngờ ngày nay ta lại có hy vọng cưỡng nổi luật thiên địa. "Xe hà".

                Bóng xanh mắt mèo kia cất tiếng ồm ồm:

                - Ồ! Điều đó chớ ngại. Nhưng một kẻ tử tế như nhà ngươi sao lại tham tài vật của người, kể cũng lạ. Ta chắc "món đó" phải có gì đặc biệt lắm. "Tốt ba"!

                Cứ thế hai hình dị vừa đánh cờ, vừa nói chuyện. Võ Minh Thần nấp nghe giây phút, thì xanh mắt mèo đã lâm vào thế bí, nghĩ mãi không ra được một nước. Bỗng nghe hình thù tuyết giục:

                - Quỷ phương Tây! Tụi nó sắp kéo đến vùng này rồi. Nhà ngươi đi nhanh lên mới được. Này! Có cả "con ma trăm mặt" nữa đó.

                Minh Thần nghe hình tuyết trắng ngồi trên mỏm núi khuất, mà coi cứ như ma xó, biết cả Bá Diện Ma Quân sắp tới, chàng trai càng cho là lạ, nghĩ:

                - Ôi chao! Y là giống chi mà thần thông đến thế? Xem tình thế này, ta bị bọn Tây Sắc, Đông Âm theo sát, chúng lại có đàn quỷ vật, quân gia, ta cự sao

                nổi. Ma quỷ đánh nhau mới nổi. Sao mình không kiếm cách làm cho "con ma tuyết thổi kèn" xuống chặn Tây Sắc, Đông Âm.

                Ngay lúc đó, tay. Trời nhá nhem tối, ai nấy vẫn nhìn thấy rõ đó là một bộ xương trắng hếu, hai con mắt lân tinh xanh lè nhấp nháy ống xương tay xương chân lêu nghêu, xương sườn xương quai xanh khua lục cục, coi phát gớm.

                Tây Gầm hơi giật mình chĩa luôn khẩu bích kích pháo định thả sau lưng, chàng trai cả mừng bèn bò luôn lên mặt đá lẩn, phục sát phía sau. Càng gần càng rõ y đúng là một người Tây, mặc binh phục có gắn phù hiệu hẳn hoi, mỗi bên cầu vai có hai ngôi sao, cấp hiệu tướng, y khoác một chiếc măng tô dạ màu cứt ngựa, chiếc mũ đặt trên túi rết.

                Võ Minh Thần bất giác thêm ngạc nhiên, sau khi nghênh ngó một hồi, nghĩ:

                - À một viên quan võ tướng nhà nước Đông Dương. Lạ dữ chưa? Quỷphương Tây này lại là một vị tướng tây. Ma Tây chăng? Có lẽ không phải. Chỉ là tiếng gọi đó thôi. Xưa trong sấm, Trạng Trình thường gọi bóng thế, thiên hạ quen miệng đi.

                Lúc đó, bóng sâu mắt mèo bỗng lại bị lâm vào thế bí, gỡ không ra. Hình thù tuyết trắng vùng than:

                - Ôi! Vậy là lòng trời đã định tự lo lấy việc riêng. Không cho ta dự vào. Quỷ phương Tây chớ trách. Mau lên! Ta còn thổi kèn cáo biệt.

                "Quỷ phương Tây" ngồi bóp trán nghĩ mãi không ra nước gỡ bí, y gầm gừ như con thú bị sa bẫy, than:

                - Tiếc thay! Nếu ta, ngươi hợp tác ma quái còn lộng hành giết hại người ta sao được. Hừ hừ giận thay ta không phải tay cao cờ, chẳng có hồn Trương Ba nào phụ nhĩ?

                Võ Minh Thần vốn tay cao cờ, nãy giờ đã nhập tâm hét các nước đi của đôi bên, bèn dùng thuật truyền âm rót vào tai "quỷ phương Tây".

                - Mã giằng! Viên tướng Tây đang ngồi nghĩ, giật nảy mình, ngơ ngác nhìn lại, điềm nhiên như thường vờ quay lại, với túi lấy "xì gà hút" để dòm nhưng Minh Thần

                lấp khuất sau phiến đá, y không thấy nhưng cũng hô "Mã giằng". Minh Thần lại "phụ nhĩ" tiếp.

                - Pháo giác!

                Viên tướng Tây lại hô "pháo giác" tuy cũng chưa rõ nó hay ở chỗ nào.

                - Ôi chao! Vừa nhắc đến Trương Ba đã có ngay lời "phụ nhĩ". Chắc có hồn ma cao cờ qua đây giúp ta đây.

                Y lẩm bẩm, thỉnh thoảng lại quay dòm. Không quá năm, sáu nước, hình tuyết kia bỗng bị dồn vào thế bí. Hình tuyết vùng kêu:

                - A! Quỷ phương Tây! Nhà ngươi lại có thể đi được mấy nước cờ tuyệt

                diệu thế sao? Chuyển bại thành thắng? Lạ dữ! Lạ dư.

                Bỗng viên tướng Tây vuốt râu cười lớn.

                - Cũng như việc binh bất yếm trá, xuất kỳ bất ý, công vô vi. Ha ha! Ván này nhà ngươi thua đến nơi rồi.

                Võ Minh Thần nấp sau lưng "quỷ phương Tây" chỉ sợ bại lộ, vì phàm các loai ma quái tinh tiệm cùng những giống linh vật, kỳ nhân dị khách thường rất thính giác quan, có thể phát giác sinh vật ngoài vài mươi bộ.

                May sao "ma phương Nam" kia vì cả khối tuyết sương bao phủ nên hút hết các nguồn điện lực, không bắt được các âm ba ngoại, chẳng khác một chiếc tàu ngầm lặn dưới băng dương, bao nhiêu máy vô tuyến điện đều hóa vô dụng, chỉ còn cách liên lạc bằng khoa học siêu hình nhờ các tà thuật sĩ thần giao cách cảm.

                Lại thêm Võ đã bế hết nhân điện, không cho phát tán nhiều. "Ma phương Nam" mải tính nước cờ, tuyệt không hay biết nên chàng trai cứ núp kín mách nước "quỷ phương Tây". Quả nhiên, thêm một, hai nước nữa "ma phương Nam" đã bị rút vào thế hoàn toàn bại, nghĩ nát óc không gỡ nổi.

                Võ Minh Thần nhìn trộm sang, thấy sương mờ càng lúc càng bốc tỏa mù, nước rỏ tong tong đẫm cả thạch bàn, chảy lênh láng cả xuống dưới, chàng trai bất giác nghĩ thầm.

                - Quái! Y là thứ chi mà xem chừng càng nghĩ, tuyết càng tan mạnh. Không khác khối nước đá gặp khối nước nóng, rõ ràng y đang tiêu hao chân lực vì vận nhiều chân hỏa. Lạ dữ! Biên thùy hồi này sao lắm quái nhân dị vật thế?

                Đang thắc mắc bỗng nghe khối tuyết phát âm:

                - Quỷ phương Tây! Ván cờ này ngươi toàn đánh thế lạ, cứ như lối chơi này, ta tưởng không phải ngươi đánh, coi đúng ngón "hồn Trương Ba da anh hàng thịt". Đế Thích nhập vào hại ta đây. Phải nhà ngươi được "kỳ thần phụ nhĩ"?

                Võ Minh Thần nghe dột cả tai, lật đật lùi lại xuống bờ núi, chợt nghe "quỷ phương Tây" cười lớn:

                - Thần kỳ phụ nhĩ? Ôi ngươi nói nghe lạ tai dữ à? Ta đây chơi cờ tướng ca

                đời lại không có được vài thế bí truyền chơi với ngươi sao? Thua chứ? Hình thù tuyết càng rỏ nước nhiều, bỗng y vung mạnh một cái, than:

                - Ôi! Ta thua ván này rồi. Chuyện đời đã gác bên tai, lòng như băng tuyết, nay ta lại phải lao đầu vào cảnh sinh sự sự sinh rồi. Ôi! Ta biết phù du, còn phải tranh đua chém giết, tưởng ngu nhất là ta.

                "Quỷ phương Tây" vuốt râu cười ngất:

                - Ma phương Nam! Ngươi chán kiếp phù du sao còn ham "bảo vật"? Hình tuyết bỗng đổi giọng kêu:

                - A! A! Nhà ngươi khong hiểu chuyện đó đâu! Chẳng phải ta tham lam bảo vật đâu mà cả mấy cõi âm dương này, còn bao giống theo đường đó. Ôi! Ngươi nhắc đến ta lại bắt đầu vui rồi, đổi cả ngai hoàng đế, cũng không bằng. Để ta thổi một bài đưa ma tụi nó, rồi ngươi hãy ăn mừng.

                Lập tức tiếng kèn đưa đám lại cất lên, thê lương bi thảm như ma quỷ hàng bầy than khóc trong tai người ta. Võ Minh Thần ghé mắt dòm, thấy hình tuyết đang ngửa mặt thổi, lúc này khối tuyết bay mù mịt che kín cả cái kèn, xóa gần trọn cả hình thù dị.

                Bỗng nhiên tiếng kèn chuyển âm khác hẳn. Mỗi tiếng nghe tựa gió gào mưa hú, búa dùi xiên vào lỗ tai, không còn thê lương não ruột như trước nữa mà vụt trơ nên uy mãnh vô cùng. Chỉ trong phút giây, tiếng kèn phát ra chẳng khác một tràng súng bắn vào màng tai, thân thể người ta, khiến bóng người râu xồm mắt mèo vùng đưa tay bịt lỗ tai, la lớn:

                - Ma Nam này! Sao tự nhiên ngươi lại dở chứng thổi kèn khiếm nhã. Định đóng búa vào tai ta sao?

                Võ Minh Thần cũng lật đật vận vội điện trễ sẽ nguy như bỡn. Hai đứa nó

                hợp sức đồng công sắp sai ma trành ma xó tới. Khấp giao chiến chế ngự hai đứa lẫn bầy trành xó không phải dễ. Rút chiếu tia lạnh buốt, âm đang chìm nổi, bỗng "ồ, ề", từ trong loa kèn bắt phọt ra một mớ tuyết vụn trắng xóa như bông.

                Vốn phản ứng nhanh, chàng trai vội thụp đầu tránh. Chát! Chát! Chát! Tuyết vụn bắn trúng mép đá, cành lá, "véo" trốc đầu chàng trai. "Chíu" như đường đạn đi, làm đá vung, cành lá bắn rào rào, rụng cả xuống đầu, mình chàng.

                Tiếng kèn im bặt. Võ núp dưới thanh đá chợt nghe tiếng hắt ra am u đúng giọng hình tuyết:

                - Này chú Thổ kia! Sao nấp đó? Nghe trộm, nhìn trộm, đánh trộm? Lên chơi. Không lên ta bắn xuống chân núi.

                Bỗng có hiệu "quỷ phương Tây" hô to hình như có ý nói ngầm với kẻ vừa mách nước cho mình:

                - Này Nam Khấp! Nhà ngươi nói gì lảm nhảm. Ai còn lạ chi tính ngươi ưa giết người kỳ ngộ, mà lại nấp nghe trộm tiếng kèn đám ma của nhà ngươi! Thôi! Để ta làm phát ăn mừng.

                Võ Minh Thần nghe rõ lời "quỷ phương Tây" vừa hô lớn, chàng trai bỗng dột lòng, xúc động:

                - A! Nam Khấp. Hình thù con ma tuyết ngồi kia chính là Nam Khấp, một trong "Nam phương tứ dị" khét tiếng biên thùy. Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu! Nhân vật thần bí này đã dậy cho lão Đổ Bác Thần thổi kèn đám ma, vậy mà ta chậm đoán ra. Cư như lời "quỷ phương Tây" kia vừa nhắn, Nam Khấp này tính nết khó lường, gặp y chắc hung nhiều cát ít. Nhưng không biết bóng quỷ đen hai sao kia là nhân vật nào? Ngươi hay ma quỷ? À thôi. Nếu vậy có lẽ y là...

                Vừa nghĩ đến đấy, bất thần nghe "cạch, bùng" liền hai phát đại pháo như trời long đất lở, đá vụn rơi rào rào bên mình Võ. Chàng trai vội nép mình dòm lên thấy ngọn núi xế trên nổ bay liền thêm cái chỏm, đá lại vãi tứ tung, bèn nho lên nhòm, thấy người có hiệu quỷ phương Tây kẹp khẩu kích pháo tám mươi vào hai đầu gối, tay chụp một viên đạn có cánh quạt hô như lệnh vỡ:

                - Nam Khấp! Coi chơi! Bên kia thung lũng có cái chỏm núi tựa cái đầu con chó sói, thấy rõ chứ? À! Ta bắn phát này, trước chúc Nam Khấp chiếm được bảo vật như sở ý, sau gửi Tây Sắc, nếu cái đầu đó là Tây Sắc.

                Võ Minh Thần liếc vụt theo, quả nhiên tít bên kia thung lũng, rặng núi đá ôm lấy cánh rừng Quản Kình đang ẩn, có một chỏm núi đá nhỏ giống hệt đầu con chó sói đang đớp trời, cách chỗ đầu núi này ít nhất khoảng hai cây số. Nhưng khi chàng trai vừa kịp nhận ra, thì người râu xồm mắt mèo hai sao đã thả "cach" viên đạn lớn vào miệng súng. Tiếng đạn cánh quát xé gió xế trốc đầu Võ, tiếp theo một tiếng "bùng" chát chúa, ngọn "cẩu đầu sơn" kia vụt biến mất.

                Vốn tay thạo nghề bắn, Võ Minh Thần không khỏi rúng động tâm, tham nghĩ:

                - Ồ..."Quỷ phương Tây" kia quả tay thần xạ có một không hai trên đời về môn "đại pháo". Bắn pháo kích, lấy mắt lượng giác đo tọa độ, bắn trúng con trâu, con dê cách hai, ba cây số "thần pháo đại dương" tướng pháo thủ túc cửa chú thông đã nổi danh bách phát bách trúng. Nhưng đó là "bắn vòng đầu" còn đây "quỷ Tây" kia lại nã theo lối trực xạ như bắn súng trường, cái đó mới thần tình hiếm có. Ôi chao! Cứ như tài bắn kích pháo cua y, một tay pháo này có khi còn lợi hơn một đội quân! Bắn pháo như thế, nếu được một điểm tựa tốt có

                sợ chi đàn cẩu quẩy đông như rươi của Tây Sắc. Ôi! Nếu vậy có lẽ y là tướng Tây Gầm rồi. Mỗi phen gầm đại pháo, nhiều kẻ nát thân tan xác. Ngay lúc đó, bỗng nghe hình tuyết Nam Khấp kêu lớn:

                - Tây Gầm! Gầm thế đủ rồi. Tây Sắc sắp kéo đến, để đạn mà "mừng" nó. Để ta tính chuyện tên trộm đã. Thổ rừng! Sao chưa lên?

                Võ Minh Thần lại nghe cả hai hình "ma quỷ" kia bàn nhau diệt Tây Sắc, Võ cũng động trí tò mò, nay nghe gọi, nghĩ mình vô thù oán, chàng trai vùng lên tiếng:

                - Ngu mỗ tình cờ qua đây, nghe tiếng kèn thê lương, chạnh niềm phù thế mới lần lên núi, không dám làm kinh động nhị vị đó thôi, chớ đâu chủ tâm nghe trộm. Xin có lời chúc tốt lành.

                Dứt lời, chàng nhảy vọt lên chỗ hai "nhân vật" đánh cờ tướng, vừa tiến lại vừa nghiêng mình thi lễ rất lịch sự. Hình dị hơi gật cái đầu đáp lễ, hai con mắt sâu chiếu chòng chọc vào Võ bỗng phát tiếng Thổ âm âm:

                - À! Coi nhà chú không phải Thổ rừng. Dáng điệu trông tao nhã dữ mà cái mặt xám ngóet. Sao lên núi không báo?

                Võ chưa kịp nói chi, bỗng hình tuyết đưa bàn tay tuyết lên như bấm độn, vùng kêu:

                - Ôi! Nhà chú không phải Thổ rừng thật. Bỏ cái mặt nạ da người cho ta nhờ. Quần áo nhà ngươi mặc coi giống kiểu dòng họ Bạc Pi A Ya. A! Phải nhà ngươi chính là kẻ đang bị Tây Sắc đuổi?

                Võ Minh Thần không khỏi động tâm trước tài thần của Nam Khấp, lại nghĩ cũng chẳng cần chi phải dấu bèn gật đầu luôn:

                - Nam Khấp tiên sinh đoán chẳng sai. Ngu mỗ đang bị rượt, nghe tiếng kèn lạ, lần đến đây. Nhưng không riêng Tây Sắc, thực ra, ngu mỗ bị Đông Âm Bá Diện xua quân gia đuổi, mỗ vừa đến đây cùng người quản gia.

                Dứt lời, chàng đưa tay lột luôn mặt nạ da người. Bộ mặt điển trai lộ ra, lạnh buốt như băng giá đông phân, Tây Gầm "ồ". Nam Khấp nói như reo:

                - Ôi chao! Cái mặt chú em coi như tảng băng, phải chán đời buồn thế? Tiếc thay! Tiếc thay. Gặp mặt thích hơn, có thể làm tri âm mà lại giết nhau. Nam Khấp ngồi đợi nhà ngươi lâu rồi.

                Ngạc nhiên, Võ hỏi:

                - Tiên sinh nói sao? Ta phải giết nhau? Sao lạ vậy? Tiên sinh có thù lớn? Hình thù tuyết thở phì một hơi, phát ra giọng trầm ai oán:

                - Có lẽ tiên sinh lầm rồi. Vòng chẳng có gì lạ. Nếu tiên sinh không có gì tà tâm, mỗ ngại gì không đưa coi để tỏ lòng thành.

                Hai lỗ mắt hình tuyết chợt sáng long lanh, ánh vẻ ngạc nhiên trước sự hồn nhiên của chàng trai. Nam Khấp phát tiếng đanh thép:

                - Nếu cần ta sẽ chặt đầu ngươi lấy vòng cho ngươi biết. Nhưng nếu mượn xem, lại khác. Chính ta phải giữ cho ngươi. Nam Khấp là giống súc sinh, vật đó mới không hoàn cố chủ.

                Tây Gầm nói theo:

                - Đúng đó! Nam Khấp không nói hai lời đâu. Võ Minh Thần rút luôn chiếc vòng điểm huyết trong mình ra, tiến lại trước hình tuyết đưa cho y. Nhân lại sát, chàng trai lại nhìn rõ hơn, thấy rõ đúng là hình người ngồi như lối tham thiền của các nhà sư, quanh mình là một lớp tuyết phủ kín, rắn như đá cục, hai chân còn in hình xếp bằng tròn, một tay đặt lên gối, một tay cầm kèn, hơi lạnh bốc mờ mịt, nhưng lúc này vỏ tuyết váng băng đã mỏng đi, trông lờ mờ thấy hình khối, trông rõ nhất là cái đầu. Nhưng

                đầu dòng băng giang mùa nước lũ. Tiếng kèn tha thiết bỗng cuộn cuộn ào ào, cảm giác hệt như đang cưỡi thuyền độc mộc, đổ thác bà thác ông mien Lục Yên Châu. Cái tay tuyết cứng đờ... Giơ lên chắc gãy. Nếu gãy, ta khám phá được nhiều bí mật.

                Quả nhiên, cánh tay từ từ đưa ra gỡ lấy chiếc vòng. Võ nhìn thấy rõ lớp tuyết băng nứt ra rồi gãy "rắc" lạo xạo, tạo thành một đường rảnh sâu chỗ khuỷu tay.

                Cánh tay co về, đưa vòng lên tận lỗ mắt. Nách lại nứt "rắc", thành đường rãnh. Y lại đat cây kèn, đưa cả tay kia cầm vòng, xoay, ngắm. Hai bàn tay chỉ có tám ngón co quắp coi như vuốt thú.

                Tây Gầm xách cả khẩu kích pháo tiến lại gần Nam Khấp, y phải cúi khom hẳn mình mới vừa tầm. Võ nhìn, nghĩ:

                - Cái vòng phải rớt vào lửa mới nhìn nổi tượng hình. Y đóng băng còn thấy gì nữa. Quả nhiên, xem xét giây lát, soi nghiêng lật ngược đủ thứ, cả hai hình dị

                vẫn chỉ thấy đó là chiếc vòng xanh điểm huyết ngoại khổ, vậy thôi.

                Cả hai lắc đầu, Nam Khấp bỗng thở phì, phát âm nghiêm giọng:

                -

                Quản Kình lên tiếng giục: "Đi thôi cậu hai". Ba người vừa bíu đá đổ triền, lại nghe tiếng Nam Khấp quát lớn:

                - Ta đã học được khúc My My sao tiếng quái gở, tung vút cái vòng lên không. Võ giật thót mình, kinh hoàng định nhảy lên bắt cái vòng, sợ rớt vỡ tan,

                nào dè Nam Khấp đã hô "Đứng im", tay múa tít trước mặt cái vòng vừa rớt xuống dần dần lại bắn vút lên, cứ thế quay tít trên cao. Nam Khấp hô lớn.

                - Thần phục vọng tôn sư... Càn khôn tốc biến... biến! Võ Minh Thần, Tây Gầm cùng trố mắt dòm lên, thấy sau tiếng đọc chú hô thần, cái vòng cứ quay tít rồi rơi xuống, không có gì thay đổi.

                Nam Khấp hô đến hai, ba lần "vọng tôn sư" vòng vẫn trơ trơ. Nam Khấp quắc tay bắt "chót" vòng, thở phì chán chường:

                - Không biến hóa chi cả! Ôi chao! Chú hô thần không nghe, chắc chắn

                vòng này giả, không linh, chang phải vòng càn khôn pháp bảo. Bèn trao trả Minh Thần. Chàng trai sực hiểu, suýt phì cười đỡ lấy vòng:

                - Đó tiên sinh thấy chưa? Mỗ nói sai đâu? Vòng này bộ ba mới linh!

                Nói dứt toan cất vòng đi cho nhẹ thể nhưng Võ vốn người chân thật không nỡ dấu, chàng trai bèn giơ vòng lên bảo:

                - Tiên sinh không khám phá ra pháp bảo hay sao? Đây chính là vòng thực

                đó!

                Cả hai đều ngạc nhiên dòm. Nam Khấp phát âm thê lương lạ:

                - Thế là hết! Chao ôi! Kiếp phù du lại vẫn kiếp phù du... không thoát nổi

                diệt vong. Võ Minh Thần tiến lại gần Nam Khấp, chìa vòng sát mặt dịu dàng:

                - Vòng này không phải là pháp bảo nhưng là cái vòng yểm tàng mật thư, bí pháp bí kíp, hoặc những điều bí mật nào đó về càn khôn bát quái chi đó! Chẳng hay tiên sinh coi lại xem có đọc được thứ chữ nghĩ kỳ dị này không?

                Nam Khấp phát âm chìm buồn vô cùng:

                - Càn khôn! Càn khôn! Hựu càn khôn! Càn khôn biến hóa. Mỗi cái vòng là một điều bí mật về càn khôn, cộng cả ba điều bí ẩn lại có thể biến hóa càn khôn. Hình như đảo lộn cả luật sinh thành trụ diệt. Ôi chao! Giờ còn gì nữa đâu, chỉ còn ngồi chờ bánh xe luân hồi nghiền nát thành tro bụi.

                Võ Minh Thần hơi nhíu chân mày suy nghĩ, bỗng cao giọng nói với Ma Nam, Quỷ Tây:

                - À! Nếu vậy có lẽ vòng yểm tàng điều bí mật về sinh tử chi đó. Đây nhị vị tiên sinh coi lại xem có đọc được thứ chữ nghĩa kỳ dị trong này không?

                Tây Gầm lại gần cầm lấy vòng giơ đưa Nam Khấp coi, hình thù tuyết thò tay cầm lấy khô giọng:

                - Xem kỹ rồi có chi lạ đâu? Võ Minh Thần từ tốn:

                - Càng lạnh càng không thấy gì, vòng này đem lửa nung sẽ phát giác mật

                thư, viết theo lối tượng hình rất lạ.

                Nam Khấp sáng hẳn hai lỗ mắt, đặt luôn kèn xuống, nói lớn:

                - A hiểu rồi! Nếu vậy cứ nóng là được, cần gì lửa nung! Tay ta nung cũng

                đủ.

                Võ Minh Thần cười bảo:

                - Cả thân hình tiên sinh là tảng băng lớn, ướp lạnh mới tốt, nung nóng sao nên?

                - Hà hà! Vậy nhà ngươi cho ta là ma tuyết không có sức nóng sao? Vừa dứt lời, Võ đã thấy Nam Khấp chuyển chiếc vòng sang tay phải, bàn tay to lớn như tay hộ pháp kia nắm kín cái vòng, bỗng nghe "xèo, xèo" như

                tiếng nước nhỏ xuống viên gạch nung, bàn tay tuyết bốc khói mù mịt nháy mắt đã biến xóa mờ hẳn chỉ còn là một đám khói mù. Võ nhìn xuống thạch bàn

                thấy nước rỏ tong tong đầm đìa cả, chỗ y ngồi cũng chảy nước ra ướt đầm, tuyết váng mỏng thêm. Chợt Võ chú mục nhìn, thấy một số đường loằng ngoằng nhấp nháy chạy trong lớp váng ánh ra ngoài coi như chớp lóe, bao nhiêu đường loằng ngoằng này đều vụt cả ra ngoài bàn tay cầm vòng và chỉ nháy mắt, trên mặt váng tuyết lại nổi trũng hẳn thành nhiều đường rãnh sâu như cầm dao rạch.

                - À! Đường điện khí chạy ra đâu soi mỏng lần tuyết váng. Y đang điều điện lực ra bàn tay... âm điện hay dương điện?

                Bỗng "rắc, rắc"! Có tiếng gãy ròn, khối bàn tay vung vãi theo từng mảnh tuyết váng gãy rớt xuống mặt đá. Võ trông vào đã thấy tuyết khối gãy rụng hết, thì ra một bàn tay người đỏ như than Tàu nắm gọn cái vòng. Rắc rắc. Lại đến tay kia, hai bàn tay như chợt mở xoè cầm cái vòng giơ cao, ban tay nào cũng chỉ có bốn ngón.

                Nam Khấp bỗng kêu lên sửng sốt:

                - À thấy rồi! Kỳ dữ chưa? Đúng chữ tượng hình.

                Tây Gầm khom mình dòm, mặt lộ vẻ ngạc nhiên thích thú, cũng reo to:

                - Lạ chưa? Trong ruột vòng đặc lại có chữ tượng hình? Ồ nét tinh vi đẹp thật!

                Hai hình dị cũng châu đầu xem xét hồi lâu lật ngang lật ngửa, xoay tứ phía, trầm trồ. Nam Khấp chợt hỏi:

                - Quỷ phương Tây nhà ngươi học giỏi biết chữ gì trong này không?

                Tây Gầm rút ra một tấm hiển vi soi, lại đưa cho Nam Khấp cùng soi, tặc lưỡi:

                - Ồ lạ! Chữ này đúng chữ tượng hình thật, nhưng không phải chữ tượng hình tiền Hán. Coi như đồ ma quỷ tính chuyện nghe cung thần, có phen mất mạng. Nghe ta nói chứ? Đi mau đi! Đi cho khuất! Chớ nghe Thanh Đốc! Thanh Đốc nổi lên sẽ có chớp loè sấm động ngươi biết thứ chữ quái quỷ trong này chứ? Chàng trai lắc đầu:

                - Ngu mỗ mới tình cờ khám phá hình nét trong ruột xong nhưng chưa đọc nổi. Ngày no mỗ cùng hai cha con vị chúa Pi A Ya đã ngồi cả buổi họp bàn, vẫn chịu. Đây chắc viết tượng hình đặc biệt, phải có "chìa khóa" mới được.

                Nam Khấp, Tây Gầm cùng nhau bàn bạc, Nam Khấp chợt bảo:

                - Quỷ phương Tây! Ta nghe dưới Hà Nội nhà nước Đông Dương có lập cái viện chi đó để khảo cứu đồ cổ, cái viện này nuôi nhiều tay học giỏi, đào được

                các bộ xương, cái đĩa, cái cốc, biết ngay đồ đó có từ đời nào, họ lại đọc được lắm thứ chữ... phải không? Liệu chúng nhìn hình nét này, hiểu chăng? Tây Gầm vỗ đùi nói oang oang:

                - À viện khảo cổ! Phải đó. Ta có quen mấy nhà khảo cứu giỏi lắm, đã từng đào nhà mồ tìm xác ướp bên Ai Cập, may họ đọc được hình nét quỷ quái này. Đem cái vòng này về cho họ coi, chắc khám phá ra.

                Võ Minh Thần nghe y nói đem về Hà Nội, lòng đã ngại, bỗng lại nghe Nam Khấp bảo:

                - Bất khả! Bất khả. Nếu để tụi khảo cổ dưới phố coi, tụi họ làm ồn ào, thiên hạ biết hết còn gì bí mật? Vả lại cái vòng này là vật kỷ niệm của trai điển đây, vật bất ly thân, mượn đem về sao tiện. Để ta nghĩ coi.

                Nói đoạn Nam Khấp ngồi im chừng mười khắc, chợt y vùng phát âm nhọn:

                - À tính ra rồi! Tây Gầm nhà ngươi cứ đem ta về Hà Nội, trỏ kẻ nao khéo giỏi, ta bắt cóc y nhờ đọc là êm nhất. Phải đó, tuyệt kế. Nhưng này trai điển, nhà ngươi có bằng lòng cho ta mượn vòng này giây lát chép lại các hình nét bên trong không?

                Võ Minh Thần thấy Nam Khấp không có ý lừa chiếm đoạt bảo vật trong khi biết rõ trong có chứa điều bí mật đặc biệt, lại chỉ đòi mượn chép ra như Bạc Khao Lan đã từng làm, chàng trai không chút do dự gật đầu liền:

                - Được mà! Đã bảo mỗ chỉ cần vật kỷ niệm thôi! Có điều lạ chứa trong tiên sinh muốn cứ tự tiện lấy đi. Nhưng những hàng nét hình này trông vậy mà nhiều vô kể, chép phải mất cả buổi dày kín mấy ống bương đó.

                Ma Nam Quỷ Tây dòm nhau, dòm Minh Thần. Nam Khấp kêu lớn:

                - Ôi chao! Nói vậy thì ra ngươi đã để người ta chép điều bí mật quý báu này ra đó ư? Bí mật ngàn vàng, đảo lộn càn khôn mà ngươi coi như chép một bài thơ lếu láo. Ôi! Trên đời này chỉ có nhà ngươi... kỳ quái vậy? Ôi vay ra ta còn xấu thói hơn ngươi nhiều dữ à. Lời nói của ngươi làm ta hiểu thấu thêm được cõi đời khốn nạn này. Có kẻ độc bụng giữ môn thuốc gia truyền, giữ một cái nghề chó chết kỹ hơn mèo giấu cứt, lại cũng có người coi càn khôn bát quái bí mật vô song chỉ như một câu thơ phiếm. Vậy kể ra cõi đời này càng nên sống lắm.

                Tây Gầm giục:

                - Này! Đàn quỷ bốn chân sắp đến. Liệu kiếm đồ chép lại cho xong, còn tiếp quỷ. Ngồi than mãi, toi đến nơi rồi đó.

                Nam Khấp chưa nói chi, bất thần dưới thung vọng len nhiều tiếng chó sủa, tru, tiếng ngựa hí, tiếp liền tiếng thét ma âm:

                - Mặt sắt! Mi có chạy lên trời cũng không thoát khỏi chúa Ma Vương. À! Báu vật thế gian sao dám cho ma dòm quỷ ngó?

                - Thổ rừng! Đứng trẫm hỏi! Chủ mi đâu đứng lại? Không trẫm chém đầu! Võ Minh Thần vọt ra bờ núi, dòm xuống, không khỏi thất kinh thấy Quản Kình dắt ngựa, chó từ chân núi chạy túa ra ngoài thung, sau lưng là một đàn sài kíu đông như rươi, nhưng ngay khi đo bên kia thung lũng hẹp lại sịch vọt ra một đoàn nhân mã cờ quạt tàn tán rực rỡ chắn ngay trước mặt Quản Kình.

                Kình hoảng hốt chạy xé về nẻo đầu núi chỗ Võ đứng trên, nhưng sài kíu phía này đang ào tới.

                - Trời! Kình nguy rồi. Cả Tây Sắc, Đông Âm cùng rượt bắt.

                Võ rút phăng cây súng dù, định bắn chặn nhưng ngay khi đó Tây Gầm đã bước tới bên, ồm giọng:

                - Phải người nhà? Để ta cản cho! Keo này mới tốt. Lời vừa dứt, y đã thả lia đạn vào họng kích pháo. Cạch bùng. Liền bốn năm phát nổ trước quân Tây Sắc, Đông Âm tung đất cát. Quả nhiên người, thú chạy xé ra xa, có bầy sài kíu hung tợn cứ chồm tới, bị bắn nổ tan xác như bầy

                ngóe. Nhờ vậy, Quản Kình đủ thì giờ dẫn ngựa, chó vọt lên núi. Nhưng khi Võ Minh Thần chạy xuống lưng chừng, đón Quản Kình cùng

                ngựa, chó vượt lên ngọn, thì đàn sài kíu đã men sát chân núi, vọt chồm lên định táp lôi xuống, tình thế hiểm nghèo hết sức.

                May Tây Gầm đã kịp thời nhả đạn kẻ dọc đường tiến của lũ sơn cẩu, nên chúng không sao chồm tới nổi, nhờ thế người, vật lên hẳn được đầu núi. Ngó xuống, khắp nữa con thung lũng đã đầy chó sói và từng nẻo rừng, "quỷ mắt đỏ" vẫn kéo đến từng đàn từng lũ, lố nhố như rươi, cơ nào đội đó rất có trật tự, con nào cũng hếch mõm nhe nanh, múa vuốt tru lên vang động, chỉ chực liều mạng kéo rốc lên vồ người, coi mười phần hung tợn.

                Nhìn sang thung tả, lại đầy bóng tàn lọng, nhân mã, lính cổ lính kim xẹt ngang xẹt dọc, gươm đao, súng ống tua tủa, hết sức uy mãnh. Lính Đông Âm, quân Tây Sắc đều châu đầu vây ầm ầm kê đi ngang núi ra thung tả ngay hướng hai người sắp thoát đi.

                Đan chần gần quá đến nỗi bọn Minh Thần phải lùi ngựa lại, quay nhìn Tây Gầm mặt nứa:

                - Một khẩu kích pháo dám thả đạn ngăn cản đàn thú binh của Ma Vương Tây Sắc, phải Tây Gầm trên đó? Loạn óc sao? Dám liều mạng phạm tới Ma Vương?

                Tiếng nhọn vừa dứt, phía tả thung vụt cất lên một tràng âm thanh quái gở chuyển hàng chục thứ tiếng nam phụ lão ấu, Kinh, Thổ, Tây, Tàu, Mán, Mèo không khác cả chợ người chõ miệng lên hét đến điếc tai:

                - Chưa thấy mặt đã nghe tieng kích pháo nổ ầm, phải Tây Gầm? Rừng sâu gió lạnh ngồi thổi kèn đám ma buồn như cha chết, một khối trắng xóa như tuyết băng, vôi tỏa, phải Nam Khấp ngồi trên? Quỷ Tây, Ma Nam. Súng ngươi gầm, kèn ngươi khóc, mặc sức khóc gầm, chuyện vô can sao nhảy vào phá đám?

                Nam Khấp hỏi Võ Minh Thần:

                - Trai điển! Nhà ngươi chép giùm ta chứ?

                Chàng trai gật đầu:

                - Sao không? Nhưng ngu mỗ chép có lẽ chậm lắm, nhanh cũng mất nửa ngày? Nếu cần ngu mỗ sẽ ở lại vùng này thêm một buổi. Chỉ phiền Tây Sắc, Đông Âm chắc chúng chẳng chịu đứng dưới núi đâu.

                Nam Khấp cười khan:

                - Coi hình nét trong này phải tay vẽ giỏi chép mới đúng được. Thôi! Để ta chép lấy vậy. Nhà ngươi chắc cần đi ngay?

                - Vâng! Kể cũng gấp. Nhưng cứ xong việc tiên sinh đã. Vả chúng cũng còn chực dưới kia.

                Dưới thung lũng bỗng lại có tiếng tru ma âm, có một đàn hơn một trăm con sơn cẩu chạy như gió sang bên kia. Giữa đan sơn cẩu có một hình Hồng Cẩu Quẩy to lớn lông vàng như tơ, bờm sư tử, mặt hướng lên ngọn núi khác, chạy giật lùi hai chân nhanh như tên bắn:

                Minh Thần trỏ vụt:

                - Tây Sắc đó!

                Nam Khấp gật đầu "ta gặp một lần mười năm rồi". Tây Gầm giơ ống dòm chiếu theo, hình sài kíu vàng đã xẹt biến vào bụi lá. Quỷ phương Tây trợn mắt:

                - Ôi ta! Vua nhan sắc thượng du đất Bắc khét tiếng hào hoa phong nhã đa sát đa tình là một con chó sói thật ư? Ta van tưởng dân gian đồn chuyện hoang đường? Hay là một con quái vật nhân cuồng tặc nào đội lốt sài kíu?

                - Nếu là người đội lốt, lại dễ trừ diệt. Đây nó lại là chúa sói thành tinh, có sức phi phàm, súng gươm không chạm nổi. Nó lại còn linh mẫn hơn cả loài ma quỷ mới nguy cho thiên hạ.

                Võ Minh Thần vừa dứt lời, bỗng phía tả, từ chân núi chợt vụt ra một cáng gấm tứ phía có che tàn vàng tán tía xẹt đi như mũi giáo phóng, thoáng đã lao vút sang bên kia thung, khuất giữa hoa, lá, quân gia. Đuôi càng mảnh gấm phủ vén tốc lên mấy gang tay, để lộ cả một góc lòng càng, không người. Quản Kình trỏ kêu:

                - Đông Âm kìa! Con ma trăm mặt trăm giọng lạ dữ chưa? Sao loài yêu ma tinh lại "hiện" giữa ban ngày?

                Võ Minh Thần vội đưa mắt ngầm bảo Kình nên giữ lời, nhưng Nam Khấp đã phát âm lạnh lùng:

                - Thời loạn âm loạn dương, rừng sâu nặng âm khí, ma quỷ sống lâu với người thường, ma thuộc khí âm, nhưng nếu nó hấp được nhiều nhân khí, thọ khí thiên hương, nó hiện giữa thanh thiên bạch nhật, có gì lạ? Biết ai người ngợm, tà ma? Mà đâu chắc chúng là loài ma. Như ta chẳng hạn, các ngươi cũng có thể tưởng là ma tinh được chứ.

                Hai thầy trò Minh Thần nhìn nhau, cũng kinh nghi, thầm nghĩ:

                - Hình tuyết ngồi lù lù, không là ma thì là giống gì? Không lẽ là... quái vật thành tinh như Tỳ Bà tinh, Thạch Cơ trong tích Phong Thần.

                Đang nghĩ vẩn vơ, bỗng Nam Khấp lôi "rắc" trong mình ra một cây đại phù, bản to bằng cái quạt xoè, lẩm bẩm:

                - Chép lên cái này chắc đủ. Cầm tay tiện lắm. Nào! Bắt đầu! Cho mượn cái kính hiển vi!

                Vừa nói y vừa lôi ra một cái kim khá lớn khâu bao, mũi nhọn hoắt, đoạn đỡ lấy kính "lúp" Tây Gầm đưa nhét dính vào lỗ mắt, thản nhiên soi vòng lên bắt đầu chép.

                Võ Minh Thần quan sát thấy Nam Khấp ngồi lù lù, đứng dưới thung lũng trông thấy rõ, chàng trai vội bảo:

                - Tiên sinh nên ngồi xế vào trong! Chỗ này lộ mục tiêu, nó có thể "tỉa" súng!

                - Không hề gì! Chính ta đang muốn bắn trước, còn có cớ gây sự. Nhưng nó

                không bắn ngay đâu.

                Võ lại bảo:

                - Chỉ ngại nó bắn vỡ tan vòng. Không ăn được nó đạp đổ!

                -

                Vừa nghe mấy tiếng "vỡ tan vòng", Nam Khấp bỗng giật lên một cái như đỉa phải vôi. Thầy trò Võ Minh Thần chỉ thấy loáng, khối trắng di động, dòm lại, chỉ còn thạch bàn không, ướt đầm đìa, còn Nam Khấp đã ngồi lù lù sát vách núi phía trong, khuất sau tảng đá, khiến ai nấy đều lấy làm quai gở về thân pháp của Ma Nam, rời chỗ như gió thoảng.

                Sực nghe rõ tiếng Tây Sắc tinh quân hét gai gai:

                - À! Mặt sắt ngu đần... Sao dám đem bảo vật cho hắn xem. Nam Khấp, Tây Gầm! Ma vương Chúa theo sục mặt sắt khắp mấy dải biên thùy. Muốn tròn hòa khí, các ngươi khắc rời ngay đầu núi, Ma Vương sai quân lên bắt hắn, bằng cưỡng lời, chớ trách Ma Vương.

                Chợt có tiếng Ma Quân Bá Diện hét léo nhéo:

                - Tây Sắc! Đâu đã đến lần mi? Quả nhân gặp hắn đã mấy tuần trăng, giờ mới tìm lại được, mi quyền gì động tới? Tây Sắc! Nhà mi nên lui về, kiếm món khác. Thế gian này còn hai vòng càn khôn nữa! Ta nhường mi đó.

                Tây Sắc cười thét:

                - Ma trăm giọng! Mi tới số rồi mới đòi "vòng điểm huyết"! Ta lên bắt nó,

                mi có giỏi cứ lên! Vào bụng sói, chớ trách Ma Vương này độc ác!

                Tây Gầm hô như sấm:

                - Phải đó! Việc ai nấy làm. Bọn mi cứ tính xong chuyện dưới đó đi. Kẻ nào thắng, lên đây chơi không muộn.

                Nam Khấp ngồi xó núi lúc này như không buồn để ý chi tới bọn Tây Sắc, Đông Âm phía dưới, y cứ soi "lúp" dòm ruột vòng, chép lia lịa. Thỉnh thoảng lại phát ra một vài tiếng nghe khoái trá hết sức, rõ ràng cả thung lũng, trời đất, người vật, quân thù đã biến sạch, chỉ còn y với những hàng chữ loằng ngoằng khó hiểu.

                Võ Minh Thần bước lại gần xem, không khỏi sửng sốt, thấy y vừa dòm vừa cầm kim vạch lia lịa trên mặt lụa, đường kim đi tới đâu thành đường rãnh sâu hoắm, mà đi rất mau, có lẽ còn nhanh hơn thần cầm bút thảo trên mặt giấy vậy. Chàng lại để ý những hình tượng thú, điểu, núi non, cây cối, suối khe... hình nào y cũng chỉ vach lia một nét loằng ngoằng theo đúng lối vẽ nét liền xem chừng còn khắc lẹ hơn cả Bạc Khao Lan dùng mũi châm khắc lên mặt nứa.

                - À! "Ma Nam" này quả trang họa sĩ có hoa tay khác người! Y thảo mau thế này, may xẩm tối xong.

                Bèn để mặc y ngồi đó, chàng trai vọt ra mé ghềnh, chiếu ống dòm quan sát, bỗng hơi chột dạ thấy cả hai cánh quân Đông Âm, Tây Sắc vụt biến đâu

                mất. Rê ống dòm khắp dưới trên thấy thế núi dựng đứng giống hình con hạc uống nước từ cổ xuống đuôi, từ lưng chừng núi lên thành đá có chỗ thoải lại cũng chưa hẳn tốt trước tài khinh thân đăng sơn của bọn giỏi võ. Bèn bảo Tây Gầm, Quản Kình:

                - Bọn chúng lần đâu mất rồi? Địa thế này nếu chúng leo lên phía sau núi

                rồi kéo ào xuống đây, thật khó lòng ngăn nổi.

                Quản Kình quan sát, thấy lo nhưng Tây Gầm đã vuốt râu bảo:

                - Bọn ta ngồi phơi mình chỗ này cốt nhử cho chúng mò lên đót mẹ, hiểm nghèo rình rập, chàng tuổi trẻ nghĩa tử mình linh họ Võ quyết lần đến miền động lạ Thanh Âm, tìm bà chúa ngàn thiêng học bí thuật kỳ môn, giết loài linh chúa hòng rửa nhục hờn cho mẹ.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #9
                  Hồi Thứ Chín - Duyên... Oan Trái

                  Khi nghỉ khi đi, đường trường rong ruổi, toàn noi theo thượng đạo xuyên sơn, không gặp chuyện chi nguy hiểm. Ngày kia hai thầy trò Võ Minh Thần chợt đến một miền địa, bản dân rải rác lưng đồi, cảnh lâm tuyền kỳ tú, sương mờ quyện vào cả vó ngựa quan san. Hai người bèn cho ngựa đi bước một, gặp một bọn thổ dân trong rừng ra, đón lại hỏi mới hay đây là miệt Chang Poung.

                  Võ Minh Thần bèn lấy tấm bản đồ của Chúa tể miền Mười Vạn núi Vân Nam ra coi, lại thấy vùng dã tặng em những cuốn dâm thư như thế. Đọc xong bốn cuốn thầy tặng là em đã trở thành một người con gá i đã trưởng thành trong chuyện ái ân với người khác phái. Thầy có hiểu là hình ảnh của lời như búa bổ vào đầu óc hai thầy trò Võ Minh Than, làm cả hai đứng ngẩn người nhìn nhau trước lời lẽ lạ tai đảo lộn hết cả mớ định luật thông thường về nhan sắc xưa nay! Cả hai bất giác nghĩ thầm:

                  - Cứ như tới vùng này phải qua nhiều đường xuyên sơn chắp nối, chưa biết bao nhiêu dặm, đường mòn không ghi hết nhưng có chú nhiều điểm chính về địa hình địa vật, với kẻ quen xuôi ngược thượng du, cũng không lấy gì làm khó.

                  Nhìn kỹ bản đồ mới hay hai thầy trò đã lạc đường, đi hướng khác, vì từ bữa thoát vòng vây Tây Sắc, Đông Âm, hai người cứ đi theo đường chạy lên Đông biên thùy.

                  Võ hỏi Quản Kình:

                  - Vùng này chú đã đi lần nào chưa? Kình nhìn quanh, gật đầu:

                  - Miền này tôi có qua hai lần thì phải, nhưng không phải mạn Tây Nam Chang Poung. Tôi đi từ mạn Cóc Pan, Loung Lan tới Chang Poung, roi vượt biên giới sang Tàu. Một lần, "động" nhà đoan và lính khố xanh phục gắt, mới phải đi xuyên sơn theo hướng Tây Bắc, vào sâu rặng núi đá hiểm tiếp giáp Đồng Văn. Nay ta cứ đi chếch lên Bắc xế Chang Poung, nếu gặp địa thế trước, tôi sẽ nhớ ra đường, chắp nối ít nhất cũng tới được vùng Thanh Âm, không cần hỏi thăm.

                  Võ Minh Thần mừng rỡ, ngước nhìn lên trời:

                  - Hay lắm! Giờ mới giữa trưa, ta kiếm bản nào nghỉ ngơi, người ngựa ăn uống xong sẽ lên đường.

                  Hai thầy trò lẩn vào một ngôi nhà lớn nhất, nghỉ nhờ chốc lát và hỏi mua thực phẩm cho người, vật. Chủ nhà là một viên lý Thổ trước có đi lính Tây

                  đóng đội, biết nói cả tiếng Kinh, tiếng Tây bồi. Gặp thầy trò Võ, lão tiếp đãi rất nồng hậu, sai người nhà làm gà thiết khách, lại đem rượu cẩm pha mật ong ngâm mật gấu ngựa ra đãi, chuyện trò vui vẻ.

                  Lại cung cấp đủ thóc ngon cho ngựa. Khi biết khách có việc phải đi liền, lão lý Thổ lại sai sửa soạn thêm thức ăn đường rất chu đáo. Nhờ vậy hai thầy trò Võ cũng được thư thái nhiều phần, tạm quên những phút hiểm nghèo.

                  Cơm nước, nghỉ ngơi xong, vào khoảng đầu giờ Mùi, hai thầy trò lại từ biệt chủ nhà ra đi. Quản Kình lấy bạc " ôxoè trả, nói mấy lão lý Thổ cũng không chịu nhận. Hai thầy trò đành lên ngựa rời sơn thôn, đi ngược lên mạn Bắc.

                  Quả đúng như Quản Kình phỏng đoán, chỉ đi chừng năm dặm, đã gặp đường xưa. Quản Kình nhận ra địa thế núi đèo, cả mừng, lập tức đưa tiểu chủ xuyên sơn, vừa đi vừa phăng lần thượng đạo, chắp nối các đường liên, đường bản buôn lậu, suối khe. Nhờ vậy, hai thầy trò vượt nhiều vùng hoang dã không cần kiếm thổ dân hỏi thăm đường.

                  Quanh co vượt suối băng đèo, đi tới hoàng hôn, kiếm hang hốc ngủ qua đêm, mai sớm lại lên đường, càng đi càng vào sâu các đợt núi điệp trùng hoang vắng, không một bóng người qua.

                  Vào khoảng ba giờ chiều, vừa xuyên qua mấy rặng núi hiểm, bỗng hai người thấy phía trước mở ra một miền sơn lâm thủy tú, thác đổ ào ào, núi đá dựng thành cao vời vợi, suối khe róc rách. Tuy vào cuối đông, nhưng cảnh lâm tuyền như vào độ xuân, hoa cỏ tươi tốt hết sức, bốn bề chim kêu vượn hú, mặt trời mây che, sương mỏng chăng ngang sườn đá, coi không khác bức tranh thủy mặc Tàu, vẽ cảnh thần tiên nơi thạch động của một vị đạo sĩ, tiên ông nào.

                  Võ Minh Thần, Quản Kình cảm thấy nhẹ nhõm hẳn tâm thần, bao lo toan lắng xuống, lòng khách lữ hành bỗng lâng lâng như lạc tới cảnh sơn kỳ thoát tục.

                  Chàng trai cho ngựa bước một trên lối mòn cỏ non, rải rác đầy hoa rừng, bất giác bảo Quản Kình:

                  - Người ta thường bảo chỗ nào phong cảnh đẹp, hoa nở tốt tươi, thường là chốn cao nhân ẩn trú. Cứ theo lời vị Chúa Thập Vạn Đại Sơn thì bà chúa động Thanh Âm cốt cách thanh cao phóng khoáng như tiên cô, tuy võ công, bí thuật, kỳ môn dị pháp cao cường, ma tâm hồn lại chỉ ưa cảnh nước chảy chim kêu, hoa trôi vượn hú, không khác bậc ẩn sĩ. Nơi đây cảnh trái khác thường, quả là chốn linh địa, hợp với người cao khiết. Có lẽ đã đến miền động Thanh Âm rồi chăng?

                  Quản Kình bảo chủ giở bản đồ ra coi, quan sát địa thế, thấy con đường mòn chạy ôm chân núi đã thành, hai thầy trò đang đi vào một cánh rừng phong quang nhiều hoa dại. Bạch cẩu, Hắc cẩu xem chừng cũng có vẻ thích ý, chạy tung tăng đi trước, sà cả vào bờ bụi hít hoa thơm.

                  Thầy trò Minh Thần đang xem xét thế núi, bỗng thay hai con sơn cẩu phóng lộn lại như giông, nhảy lên cắn ống quần hai người. Biết có chi lạ, cả hai giục ngựa xẹt luôn vào chân núi, nấp sau lùm cây rậm.

                  Bỗng nghe có tiếng chân chạy rầm rập, lẫn cả tiếng nhạc đồng khua loong coong, lẫn cả tiếng chim vỗ cánh phành phạch, tiếng quạ kêu inh ỏi, lại có cả tiếng hú gầm dữ tợn, vẳng tiếng quát tháo the thé.

                  Võ Minh Thần vạch lá chiếu ống dòm quan sát phía Nam, thấy lố nhố bóng người, thú, vừa phi vừa quần thảo nhau như vũ bão, thoắt cái mấy bóng mất dạng. Chừng nửa phút, lại thấy một bóng đen cưỡi thú đen vọt về phía Minh Thần, phía sau có hàng đàn chim dữ, quạ khoang, ó cắt, chèo bẻo, diều hâu... rượt theo từng bầy, xẹt xuống vọt lên không khác đoàn khu trục nhào lộn bắn phá. Phía sau đàn quái điểu có hai bóng áo xanh, áo da bò, cưỡi thú rượt theo gấp gấp.

                  Nhưng xem chừng bóng ao đen không có vẻ hoảng chạy, cứ mỗi quãng lại đảo lại, đánh loạn với hai bóng kia, coi rất dữ dội.

                  Võ Minh Thần lấy kính chiếu xem, nhờ cánh rừng thưa nhìn khá rõ, loáng mắt bóng áo đen đã vọt lại gần, chỉ còn cách non trăm bộ, trong ống kính bóng đen hiện rõ. Đó là một nữ nhân mặc quần áo đen, khoác một mảnh vải đen lòa xòa, mặt mày dữ tợn coi phát gớm. Nữ nhân cầm một lá cờ đen, mỗi lần phất ra, phát những tiếng "bùng, bùng" như sấm nổ, quái điểu rụng lả tả, không dám sà xuống làm dữ. Võ bật giọng bảo Quản Kình:

                  - Kìa!... Cô gái quỷ gặp Hồ Ba Bể đêm nào!

                  Quản Kình coi ống dòm, gật gù:

                  - Đúng rồi!... Cậu hai! A! Cách mấy tháng, xem ra bản lãnh cô ta lợi hại

                  dữ à!

                  Võ Minh Than chăm chú theo dõi cuộc động chiến, gật gù:

                  - Đêm nọ, nàng ta có cờ Lôi Phong đã bị Giao Long Chúa đốt ra tro, nay chắc mới luyện được cờ khác. Xem chừng nàng ta không có vẻ bại trận, sao lại phải vừa đánh vừa chạy?

                  Nháy mắt, cuộc chiến đã chuyển lại gần trong ống kính, bộ mặt bóng đen, thấy rõ mồn một. Quả đúng là quỷ nữ đã từng giao chiến với thuồng luồng tinh Hồ Ba Bể. Cô gái có bộ mặt cực kỳ xấu xí, dữ tợn, với cử chỉ ngôn ngữ

                  khác người đến nỗi Võ Minh Thần cứ tưởng nàng là gái phi phàm thuộc giống yeu ma nào đó đi tìm thù báo oán. Nhưng sau được biết quỷ nữ đó liên hệ với Bạc công chúa. Chàng trai căn cứ vào lời Tửu Chúa, đoán được quỷ nữ chính là đứa bé đẻ rơi mười bảy năm xưa trong quán nước Hồ Ba Bể giữa hôm mưa to gió lớn. Người đàn bà sơn cước mặc quần áo Thổ đi cùng người chồng Kinh mặc quần áo ka ki vàng. Hai vợ chồng bị mấy phái quân thù rượt bắt, đã sinh ra trên đường chạy trốn đã được bà già Dao kỳ dị cứu đem đi. Vo Minh Thần mới đỡ ngỡ nàng ta là giống phi phàm, mặc dầu nàng chưa hề xác nhận điều chi, ngay cả khi giao chiến với Giao Long Chúa. Và hiếu tử xót hiếu nữ, Võ đã liều thân cứu nàng gái quỷ lạ lùng kia, đến nỗi thọ đòn Giao Long suýt vong mạng, lại bị nàng ta mắng nhiếc thậm tệ.

                  Giây khắc, quỷ nữ đã chạy tới gần chỗ bọn Minh Thần nấp, cách chỉ còn chừng non ba mươi bộ chếch. Hai người càng nhìn rõ mặt, quả trên đời này không còn cô gái nào xấu phát ghê rợn hơn thế, trái ngược hẳn dáng thân đẹp thon thon như tượng nặn. Bất giác Võ nghĩ:

                  - Theo lời Tửu chúa, cả hai vợ chồng công chúa Bạc đều đẹp, sao có thể có người con gái xấu dữ đến thế? Theo lời Tửu Chúa, có lúc lão đã tới gần chỗ vợ chồng công chúa Bạc nấp, lão đã thấy mặt đứa trẻ mới sinh. Lão bảo đứa trẻ đó mặt mày đẹp như ngọc chuốt... Nếu phải nàng là con Bạc công chúa, sao lại biến dạng khác hẳn? Có dịp, ta phải hỏi mới được!

                  Ngoài kia, cô gái phi vòng qua chỗ thầy trò Võ nấp. Hai luồng nhãn tuyến quét kia dọc chân núi, thầy trò Võ phải kéo cành lá lòa xòa che trước ngựa. Cô gái quỷ xẹt qua xế chỗ hai người đứng. Thình lình nghe tiếng cười the thé ngay đầu núi, âm vang thung lũng, gai rợn như lưỡi dao nạo mặt nứa:

                  - Nhỏ con chạy đâu đó? Hé hé! Nương nương đứng đây chưa thấy sao?

                  Võ Minh Thần nghe tiếng hét the thé quen vội ghé mắt dòm theo quỷ nữ, thấy nàng ta đang giục beo phi như gió, bất thần đảo xẹt qua nẻo thung ngoài.

                  - Quỷ cà kheo! Hấp Huyết quỷ nương! Lại gặp con đàn bà cà rồng kia rồi... Cô gái nguy mất!

                  Võ Minh Thần bật kêu khe khẽ, thoang lo cho cô gái quỷ. Quản Kình nhác dạng bóng cà kheo giật mình thì thào:

                  - Ôi chao! Lại mụ chuyên hấp huyết! Lôi thôi to! Cậu hai, ta phải cẩn thận!

                  Lời vừa dứt, đã thấy bóng Hấp Huyết quỷ nương vụt hạ thấp mấy nấc kheo, xẹt thốc về phía cô gái quỷ, lấp ló sau ghềnh, đưa tay vẫy:

                  - Nhỏ gái lại mùi hoa thủy tiên! Nhưng hương thơm thoát túc làm hai người nhẹ hẳn nỗi sầu dương thế, tưởng mình đang gạn lòng trần lụy, đi vào cảnh sắc Bồng Lai.

                  Cả một vùng mọc đầy thủy ta sợ mi sao?

                  Hấp Huyết quỷ nương cười ré:

                  - À con nhỏ bướng bỉnh. Gái bướng luyện tinh mới tốt. Về chị truyền thuật lạ còn hơn luẩn quẩn bơ vơ, nhỏ con xấu xí, còn muốn kén chồng nữa sao? Hé hé!

                  Dứt lời Quỷ Nương di động cặp cà kheo. Chỉ thấy loáng, bóng trắng chập chờn như con bướm bay, hình Quỷ Nương đã đứng sát bên kia mỏm đá, thò tay vồ gái quỷ.

                  Cô gái thét lên, phất lá cờ trên tay, nghe "bùng bùng", cả hai giật lùi mấy bộ.

                  Nhưng như tên, Quỷ Nương hú lên một tràng vang âm, dơi kêu chí chóe, đập cánh ào ào bay cắn. Quỷ nữ cả giận đợi Quỷ Nương lại gần, lập tức nhảy vọt ra, vỗ beo, quay vụt một vòng, phất cờ xoè vải khoác, miệng hô "sát" nhọn hoắt.

                  Quỷ Nương đã đề phòng lập tức phát kình phong quật đỡ. Cả một khu khá rộng thình lình như có chớp loè sấm động, khói bay, gió thốc, áp lực nặng nề, đá chạy cát bay, cành gãy, từng khối lửa bay vun vút từng trang liên thanh khạc thập phần dữ dội.

                  Thầy trò Võ chú mục dòm lên, thấy xuống, chạy vào hốc. Hành trang ướt hết,

                  Quản Kình vơ lá trải tạm cho Võ đặt nàng xuống. Y moi sắc lấy thuốc men ra, lại kiếm cành khô nhóm lửa sưởi như tên. Liền đó Hấp Huyết quỷ nương xua đàn dơi tràn tới, tình cảnh cô gái quỷ thập phần nguy kịch.

                  Chẳng hiểu sao Võ Minh Thần thấy nôn nóng khác thường, như chính chàng bị vây khốn, chàng trai vũng kêu khẽ:

                  - Quỷ cà kheo lợi hại lắm! Cô ta nguy đến nơi rồi. Phải ra giúp một tay mới được.

                  Dứt lời, toan giục ngựa vụt ra, nhưng Quản Kình đã nắm vội lấy tay cương nhanh giọng:

                  - Khoan đã... cậu hai! Chớ nên hấp tấp! Để coi...! Quay nhìn Quản Kình, chàng trai chẳng biết nên buồn hay giận, khi đọc thấy ngay ánh mắt người quản gia "tất cả sự thương yêu, lo lắng trọn vẹn dành cho tiểu chủ".

                  Lại thấy Quỷ Nương cà kheo đứng sau mỏm đá, thì tay quái phát trảo vồ sang, cô gái quỷ lập tức phất lia lịa lá cờ dị trên tay chặn trảo kình lại. Sức cờ

                  tuy mạnh, cô gái quỷ cũng bị dạt lùi mấy bộ, quỷ nữ hét lên một tiếng "sát" lanh lảnh, vỗ đầu beo vụt boc ra vị trí trống.

                  Võ Minh Thần thấy nàng ta liều lĩnh phơi mình trước mũi cường địch, không khỏi nhột lòng lo ngại, bỗng thấy cả con beo lẫn gái quỷ chợt biến mất, chỉ còn mảnh vải trùm kín một khối như tổ kén khi vừa vụt ra khoảng trống.

                  Chợt hiểu người, vật đã cuộn tròn tấm "giáp pháo hỏa phong liên châu tiễn", Võ Minh Thần cùng Quản Kình cùng nhảy vọt xuống, kéo cả ngựa nằm rạp xuống. Quả nhiên đã thấy "tổ kén lớn" bốc lên khỏi mặt cỏ non thước, quay tít hai vòng, đúng lúc cường địch tứ phía cùng lao tới. Bất thần, từ tấm "giáp pháo", đạn thường, đạn lửa, tên thường, tên lửa bắn vãi ra bốn bề như vãi đậu, đồng thời từng khối lửa, khói vút ra cháy bùng bùng, cả một khu thung vụt nhoáng hào quang, lửa lóe lên, từng vật bay vi vút lẫn tiếng đạn "chíu, chíu" xé gió. Chung quanh quỷ nữ khói bắn ra từng luồng, luồng xám, luồng trắng đi nhanh như tên, khí thế còn dữ hơn lần trước. Thầy trò Võ Minh Thần phục sau mỏm đá thấp cũng bị luồng tên đạn bắn túa vào, may cả hai đã kịp giơ khiên che trước đầu ngựa, chỉ bị một, hai pháo vào khiên còn hầu hết vút trốc đầu, hoặc găm trước mặt, gay cành, rụng lá... rào rào. Hai người ghé mắt dòm ra.

                  Thầy trò Võ Minh Thần nằm theo dõi cũng bị một luồng khói bắn vào chỗ hai người, luồng khói xám nhỏ như giây võng xói trúng mép khiên Quản Kình nghe "xoảng" tiếng như đá vụn bắn vãi, sạt cả bên vai Kình. Giật mình, Quản Kình vừa hít hơi thở đã bật kêu:

                  - Ôi! Khét dữ à! Mùi gì như mùi a xít! Võ Minh Thần nghe kêu, liếc sang mấy mép khiên, có hai lỗ thủng cả vải bọc, dùi luôn lần thép, lúc đó mới hay chính hệt nước cường toan. Còn đang kinh ngạc, đã nghe tiếng quát như sấm ngoài kia, hai người trông xa, thấy đang kia quỷ nữ cũng bị kình phong đẩy lùi mấy bộ về phía Quỷ Nương Hấp Huyết ngay khi tấm "giáp pháo" khạc đạn. Tên Quỷ Nương là tay lợi hại, không cần coi, mụ chỉ lắc mình một cái, thân hình trắng toát như bươm bay vụt vào một ghềnh núi khuất mất dạng, mặc tên lửa vãi như mưa rào cành lá, chỉ còn trơ cặp cà kheo bằng xương cắm đó như hai ống chân ma, cùng với mảnh vải trắng xóa giống như con bướm đậu. Bắn xong loạt tên đạn, quỷ nữ hé mép vải, thấy hình bướm đậu loáng thoáng lại tưởng Quỷ Nương vẫn đứng đợi, gái quỷ phất vờ đánh luôn Quỷ Nương, một khối lửa trúng cánh bướm cháy rực. Quỷ Nương trông thấy định

                  dập tắt, bỗng thấy gió mạnh quật ào, mụ vội nổ kình ngăn lại, đẩy bắn gió đi, nhưng cặp cà kheo vẫn bị đảo như lên đồng, mảnh vải cháy rui mất. Quỷ nữ

                  còn lia thêm mấy luồng khói độc, đúng lúc Quỷ Nương ló đầu ra, bị một luồng "a xít" bắn thốc qua mũi, khét lẹt. Quỷ nữ mở giáp choàng thân dòm ra không thấy Quỷ Nương vùng kêu lên kinh ngạc:

                  - À con quỷ cà kheo đâu rồi? Chỉ có áo khoác! Chẳng lẽ mụ rớt xuống bụi cây?

                  Vừa kêu, nàng ta vừa xẹt vòng bao lại gần cặp cà kheo, đảo mắt dòm bờ bụi, kẹt đá quanh đó, bỗng giật thót mình nghe có tiếng cười thét hắt xuống:

                  - Chị đây! Chị rơi trên sườn núi! Giờ chị xuống đón em đây! Theo tiếng cười, một bóng trắng từ đâu vọt ra đậu ngất nghểu trên ngọn cà kheo, tà áo phấp phới. Bộ mặt đẹp như yêu tay vào lỗ cua bị rắn nằm trong mổ. Đúng là chạm phải điện.

                  Không phải điện trời, điện đất bình "ắc quy", nhưng chẳng hiểu sao cũng làm chàng tuổi giật bắn người, muốn tê dại toàn thân. Vì thực ra đó là "âm điện", bàn tay Võ vốn có "dương điện", chạm vào nhũ hoa quái gở, luôn tay vồ nghiến trái lửa như cầu thủ bắt banh, và được trái nào, mụ ném lại phăng trái đó, mạnh phi thường, khiến gái quỷ phải phất cờ gạt. Còn đang gạt đã thấy bầy rắn độc lớn nhỏ từ trong kẹt đá, bụi rậm phóng ra đông như rươi, tấn công cô gái quỷ. Loài rắn vốn trườn đã nhanh, rắn Quỷ Nương lại là giống đã được chuyên luyện, cực tinh khôn, bất thần phóng ra như mớ tên, khi thấy, chúng đã cập kề. Lại thêm trên đầu đầy trăn gió, nhất tề phóng xuống quấn người, vật nhanh như "ném thòng lọng". Nếu khi cô gái quỷ kịp thấy rắn, lại đang bận gạt trái lửa thì dưới chân đã đầy rắn độc lúc nhúc khắp tứ bề. Nhưng nàng ta không phải tay thường, trong cơn nguy cấp, nàng ta đã kịp thò tay phát điện công "quét" rắn. Con beo khôn cũng ngóng mõm, khua chân, táp gạt. Có mấy con kịp phóng vào mình, đều bị quăng đổ. Cô gái quỷ vũ động lá cờ dị quất Quỷ Nương, vọt beo chếch chân núi, đồng thời khoa rộng tấm giáp khoác trùm người và vật, trong mấy cử động gọn vô cùng. Ngay khi giáp vừa trùm, từ trên tàn cây rũ một con trăn gió đã quăng vèo mình xuống, quấn nghiến "tổ kén" như sợi dây thòng lọng xiết cổ bò. Vút! Một con nữa quấn chéo. Cô gái quỷ bên trong biết ngay, lập tức vận lực dùng sức điện công vỗ mạnh lòng giáp, cả hai con trăn gãy xương rụng tay... mới được chứ! Có khi đạn còn nằm trong, phải gắp à! Vả lại... va lại...

                  Chú ta còn muốn nói: "Vả lại rất ngán cô quỷ cái, bắn địch cứu cô còn ngờ huống hồ đụng vào người cô... Vả lại cậu hai tiện hơn", nhưng chú ta im luôn, sợ Võ

                  lắc mình một cái đã đứng sừng sững, cao lênh khênh ngay xế trước mặt cô gái quỷ. "Chát", cặp cà kheo đã hạ thêm mấy nấc, quái nữ cười ré:

                  - Gái nhỏ! Nào chị đưa về động phủ! Trăn, rắn quấn chặt, cô em còn định chạy đâu?

                  Vừa nói vừa thò tay chụp. Từ chiều cao chếch xuống cách chừng bảy, tám sải tay, bàn tay quái nữ phát trảo kình nghe vút tiếng, đã vồ láy búi tóc cô gái quỷ kia. Đang bị trăn rắn làm ngat, kéo ghì xuống, dùng đòn tấn công đánh từ trong ra không xuể, con beo cũng bị rắn quấn chân, cô gái hé mắt trông ra, lập tức phất mạnh lá cờ nghe "bùng" một tiếng, kình phong, lửa khối, a xít luống lại tia vọt ra vun vut, khiến nữ quỷ phải rụt tay lại, lắc mình tránh nhưng đồng thời lẹ tay vồ lấy lá cờ làm cô gái phải múa đảo nửa vòng tránh trảo thủ, tay kia vẫn áp đánh độc xà lúc nhúc bao quấn quanh mình. Nhưng phải chống đỡ Quỷ Nương, sức bị phân chia nên cô gái bị bầy trăn phóng xuống, lôi ngã vật ra đất.

                  Vừa chồm beo dậy lại bị Quỷ Nương chụp. Tình thế hiểm nghèo, chỉ chậm chút sẽ mất mạng vì quái nữ. Võ Minh Thần nấp trong thấy thế bèn bảo Quan Kình:

                  - Cô ta nguy hiểm rồi! Mình phải giúp một tay!

                  Quản Kình chẳng biết tính sao cho tròn, kêu "Ối chao", vừa lúc quỷ nữ lại

                  bị trăn rắn kéo ngã. Thấy nàng ta lúng túng, Võ Minh Thần buột miệng kêu lớn:

                  - Giải y nhị thoát! Sao không làm như Lưu Bá Ôn? Chừng cô gái đang mải thoát nguy, chưa nghe rõ. Võ hô xong, vẫn thấy

                  nàng ta lúng túng trong tổ kén đánh trăn. Quỷ Nương lấp ló ẩn hiện thừa cơ vồ bắt. Minh Thần lại thét:

                  - Sao không trút vải khoác? Sao không rời lưng beo? Lần này cô gái mới nghe rõ, lập tức từ trong tổ kén phát ra tiếng thét lanh lảnh ròn như thủy tinh vụn, tiếp theo mấy tiếng "bùng bùng, tặc tặc, coong coong, tách tách", đạn tên, lưa khói, a xít bắn ra nhanh như chớp. Hàng năm hàng bảy con trăn bắn tung xa, từng khối lửa xé gió lao vút tứ phía. Cả "tấm giáp pháo" đang bị trăn siết chặt bỗng nở phình ra, nới hẳn, các khúc trăn quấn còn đeo riết, rồi từ trong tổ kén, một bóng đen thanh tú bắn vọt lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Tấm giáp pháo đổ xuống một mớ trên lưng beo, nhưng con beo nghe hiệu cũng đã dùng tận lực táp rắn, vung chân kịp thời nhảy chồm vào bên ghenh đá gần đấy. Vừa vọt lên, cô gái quỷ đã vũ động lá cờ đánh thốc vào phía Quỷ Nương,

                  nhưng Quỷ Nương đâu mất, chỉ còn lại cặp cà kheo. Chừng cô gái quỷ hạ chân xuống lưng beo thì mụ quái nữ đã từ đâu vọt ra đậu ngọn kheo, quăng vút

                  ra một vật loằng ngoằng thắt nghiến luôn cả người lẫn thú, nhạy không thua day "khổn tiên thằng" của Phàn Lê Huê trong truyện Chinh Tây.

                  Sự việc diễn ra nhanh vô cùng, Thầy trò Võ Minh Thần vừa kịp nhác thấy, cô gái quỷ đã bị nghiến chặt, trói gô cả hai cánh tay vào mình, bắt quàng qua bụng con beo. Quỷ Nương đắc chí cười the thé:

                  - Cô em tài giỏi dữ à! Không tay chị, đứa nào bắt nổi. Đừng cựa quậy vô ích. "Dây xích thần" của chị còn chắc hơn dây tam cô. Hé hé! Cô gái vùng vẫy, dùng tận lực bứt dây. Quả nhiên dây dai kỳ dị, còn quá gân cọp. Cả người, vật bị kéo xềnh xệch về phía Quỷ Nương. Lúc đó Thầy trò Võ Minh Thần nấp chân núi, cách chênh chếch khoảng sáu, bảy chục lộ.

                  Không cần suy nghĩ, chàng xốc vụt khiên, giật luôn súng, dù cắp nách nhảy vèo ra đứng sau một mỏm đá thấp, thoáng trong không gian thấy một đường chỉ chạy từ người gái quỷ chân núi kế bên. Võ Minh Thần nảy cò liền. Tặc! Tặc! Quả tài bắn xạ kích môn đồ vô địch than xạ tướng quân, "dây xích thần" đứt liền.

                  Quỷ Nương đắc chí nắm chắc con mồi trong tay. Dây đứt bất ngờ, mụ bật ngửa về phía sau, suýt đổ cà kheo. Nhưng mụ đã kịp vung tay lấy lại thăng bằng, thét lớn:

                  - A, đứa nào dám bắn đứt "xích thần" của ta?

                  Đạn đã ra khỏi nòng, không thể giấu tung tích, Võ Minh Thần vùng kêu to:

                  - Đằng này có điểm tựa, chạy lại đây mau! Dứt lời, chàng trai chĩa luôn dù súng, bắn xối ra chỗ cô gái quỷ, quét lia là xem kỹ vết thương. Đắn đo mươi khắc, chàng vùng tặc lưỡi:

                  - Không thể để lâu được! Giờ mới bị phải lấy ngay! Đành liều vậy! Quản Kình Nương đã kịp thời xẹt sau mỏm đá khuất, vẫn bị liến xoạc vai áo nong rát da thịt. Không đợi tiểu chủ bảo, Quản Kình cũng vọt ra trấn sau một mô đá tốt, chĩa mũi trung liên quật nhầu lên đám dơi, ác điểu, trăn gió, rắn độc. Quản Kình ngừng tay. Võ Minh Thần sợ Quỷ Nương xông ra vồ cô gai quỷ nên cứ bắn cầm chừng hai phát một. Cô gái đang nguy, thấy dây đứt, cũng mất đã ngã rạp cả beo. Vốn tay nhanh trí, nàng lập tức giật dây trói, dùng trảo thủ nhón trăn rắn vừa chết quăng ra xa, nhưng lúc này chỗ đó có đến hai ba

                  chục con lúc nhúc khắp dưới trên, tuy nàng bứt lẹ tay, cũng không kịp. Đúng lúc đó, Quỷ Nương lại nấp trong ghềnh đá xế trong chân núi, cách hơn chục

                  sải, tay áo phất phạch ra một luồng quái phong định lôi nàng ta vào, gái quỷ nhác thấy, phải phất cờ cản lại, con beo vẫn chưa vọt đi nổi.

                  Võ Minh Thần nấp sau mỏm đá xế phía nam đằng này, thuộc vị trí trung độ giữa Quỷ Nương, không trông thấy mụ nhưng thấy cử động của mỹ nhân nào có thể sánh kịp, tượng điêu khắc hình bán thân vệ nữ cũng còn thua, đường nét đăng đối tuyệt vời, thật hoàn toàn trái ngược hẳn bộ mặt đao chém mấy con trăn gió, độc xà rõ, không còn ngờ gì nữa. Đúng la một bộ mặt thực méo mó, dúm dó, sạm nắng, chẳng khác có bàn tay trớ trêu nào đã chặt cái đầu Dạ Xoa đem lắp vào cổ khúc, tiện đà phạt thốc một đường cực mạnh lại chỗ Quỷ Nương ẩn.

                  Rào rào, phập phập! Cành lá đứt lìa, Quỷ Nương đứng sau mỏm đá rậm, đang vồ mồi bỗng thấy ánh thép nháng vòng cầu chém thốc vào, mụ không kịp đỡ, vội hụp đầu tránh, lắc mình vọt cà kheo sang chỗ khác, ghé mắt dòm tìm địch thủ.

                  Không phí nửa giây, cô gái quỷ vỗ beo đen lao thốc về phía có tiếng người gọi, tuy chưa biết kẻ nào. Nhưng vừa lao được hai, ba thước, nàng ta sực nhớ ra, quay vụt lại, vừa lúc tấm "giáp pháo" rớt nằm trên cỏ có mấy con trăn quấn bỗng nhảy vọt lên như có người đội.

                  Giật mình, quỷ nữ lật đật vừa vọt beo lại vừa thò tay chụp lại, thoắt tấm giáp bốc lên khỏi mặt cỏ chừng nửa sải, thì trảo kình Quỷ Nương túm được. Tấm giáp xoay ngang lờ lửng, một đầu hướng vào gái quỷ, một đầu quay vào núi. Thì ra Quỷ Nương tìm địch, con bệnh. Minh Thần cũng vậy, chàng lại từng

                  học thôi miên nên ý chí rất mạnh, lúc này không còn thấy gì nữa, chỉ còn vết thương của người con gái hơn, tấm giáp cứ lên cao dần, lôi cả tay gái quỷ với theo. Nàng ta chưa kịp phất cờ đánh, lại bị bầy độc vật quăng vèo tới một bầy, hơn hai mươi con dơi dơi tách đàn vỗ cánh bay vù xuống mổ gái quỷ, tình thế ngặt hết sức.

                  Võ Minh Thần nhác thấy, chưa kịp ra tay thì Quản Kình đã quay súng sang quạt một tràng, dơi dơi rụng như sung. Võ đang lựa chiểu lấy viên đạn ra thì cô gái bỗng thở phào một hơi dài, giật mình mở choàng mắt ra. Ánh mắt ngơ ngác đảo lia từ Minh Thần xuống ngực, chính xác, liễu đao sà xuống trúng ngay chỗ Quỷ Nương ẩn, nhắm giữa bàn tay mụ thò ra bay tới, khiến mụ phải rụt vội tay lại, lấy vai nàng, nghiêm mặt khẽ kêu:

                  - Nằm yên! Động mạnh máu ra có thể chết được! Viên đạn nằm trong sườn ngực.

                  Nhưng qua mấy khắc bàng hoàng, dùng hết sưc rũ mạnh một cái, mấy con độc vật không bám nổi bị hất tung đi, quật cả vào thân cây chết tươi. Gái quỷ cả mừng, khoác lộn lên mình, giục beo vọt.

                  Quỷ Nương bị mất giáp pháo, mồi thơm, nổi giận hét như điên:

                  - À tên khốn nào dám cứu gái dạ xoa, tao cho dơi hút hết máu mày. Soạt! Mụ rút phăng ra một lưỡi hái nhỏ, lưỡi dài hơn gang, hình dao bầu,

                  sáng rỡ. Mụ xẹt sang mỏm khác, nghiêng ngó dòm xa gần, thấy quỷ nữ giục beo chạy về phía Nam chân núi, mụ ré lên như dao cạo:

                  - Chạy đâu? Muộn chạy đi đâu, để đầu lại đã! "Véo" lưỡi hái chém xả vết thương xế gần nhũ cô gái lại vọt máu đỏ tong tong. Thì ra viên đạn xói trúng huyệt làm nàng xỉu đi, lúc Võ lùa kéo vào tìm viên đạn, tuy chàng vẫn có nhưng Võ Minh Thần đã đề phòng, lập tức chém xả liễu đao ngăn lại. Đúng lúc lưỡi hái bay tới cách gáy gái quỷ độ hai sải, chạm liễu đao. "Chát" cả hai khối thép bật văng trở lại, cả hai địch thủ cùng chấn động châu thân. Quỷ Nương đảo tay chém nhát nữa vẫn bị đao cản, đến nhát thứ ba

                  thì gái quỷ đã vọt ra sau ghềnh đá cây lá rườm rà mất dạng.

                  Võ Minh Thần thu đao, gọi to:

                  - Đây! Phía này, phía này! Vừa gọi chàng vừa vọt lui về phía phục ngựa. Quản Kình vẫn ôm súng

                  trấn xế ngoài chút, phòng có kẻ ẩn theo chân núi. Nghe tiếng gọi quen quen, gái quỷ vừa giục beo chạy tới, vừa cất vụt tay, phá chạy khỏi Võ Minh Thần, nhưng chàng trai lại không dám ôm lấy, hai người đang dằng co, may sao lúc đó Quản Kình vừa xách súng ra dọc núi quan sát, Vèo! Beo đen cuốn gió luồn dưới tàn cây lòa xòa, chạy tắt bìa đá nhấp

                  nhô, thoắt đã lại gần. Võ Minh Thần ẩn sau mỏm đá khuất, thấy bóng gái quỷ cả mừng, giơ tay vẫy vẫy:

                  - Đây! Chạy thẳng tới đây, chúng không làm gì nổi! Chỗ này có nhiều điểm tựa tốt!

                  - Ai đó? Tiếng quen quen... Lời vừa dứt, beo đã mang gái quỷ vọt tới. Nhác thấy có bàn tay, đầu người lấp ló sau mỏm đá, gái quỷ vỗ beo chồm lại. Rập! Beo dừng.

                  Hai người đối diện. Lúc này Võ Minh Thần không đeo mặt nạ, quỷ nữ vừa trông thấy đã sững sờ, trợn mặt, kêu lên:

                  - Ôi chao! Tưởng ai... Hóa lại là gã trai điển đêm nào dưới Hồ Ba Bể! Sao

                  đi đâu cũng nhà anh?

                  Võ Minh Thần không giận, từ tốn bảo:

                  - Vâng, mỗ đây! Thầy trò mỗ có việc vưa đi tới đây, thấy chúng đang rượt cô nương. Cô nương không bị thương tích gì chứ? Cô nương nấp vào đây! Mỏm đá này làm điểm tựa tốt lắm.

                  Miệng nói, tay ra hiệu trỏ, cô gái quỷ "hừ" lạnh, xẹt beo quay lại, vẻ bực dọc het sức:

                  - Bất tất! Ai có thân lo, trai điển nhiều lời! Hừ! Nhà anh tưởng đánh lừa được gái này sao? Ôi! Bạch diện thư sinh lang tâm tú sĩ! Dứt lời, nàng ta cũng beo định vọt thẳng. Nhưng vừa lướt qua mặt Võ, lại đụng mấy con vật, gái quỷ nạt lên một tiếng, vòng luôn ra sau mỏm đá.

                  Tuy không giận nhưng thái độ quá ư miệt thị của nàng ta cũng làm chàng trai họ Võ sững sờ, ngạc nhiên hết sức. Nhưng lúc đó chợt nghe tiếng Quỷ Nương hét, bắn núi. Võ vội giơ tay, điềm đạm:

                  - Cô nương cẩn thận! Chúng có thể bắn sẻ đó. Quỷ cà kheo tài nghệ lợi hại, coi chừng nó lẩn bờ chui bụi, vồ trộm đó. Cô nương nghe mỗ này, hãy bảo trọng lấy thân, sơ sẩy lọt tay lũ quái kia... nguy dữ à.

                  Gái quỷ cũng có vẻ ngài ngại mấy phía địch thủ, nhưng nàng ta chỉ đảo vào sau một mỏm đá nhỏ khác dòm ra, quay vào cười nhạt:

                  - Cám ơn! Nhưng lọt tay quái chưa bằng mắc mẹo sa tay quỷ mặt trắng. Hừ! Nam nữ thụ thụ bất thân, không quen thuộc, sao nhà anh cứ đón đường gây rối.

                  Võ Minh Thần thấy nàng dạ xoa xấu xí quá, không nỡ làm nàng ta tủi, chỉ mỉm cười khoan dung như đứng trước cô bé trái tính, nhưng Quản Kình đứng xế chịu ngoài không nhịn nổi, Kình xách súng nhảy vọt vào, gái quỷ hơi giật mình, giơ luôn cây búa lên, Kình thở phì nhăn mặt:

                  - Ôi chao! Cô nương này nói toàn câu ngược tai, không ai nghe nổi. Cậu hai tôi mấy lần liều thân cứu nạn cô cho cô, đến nỗi bị đòn thuồng luồng tinh suýt mất mạng, đã không được lời cám ơn, lại còn nói toàn lời bạc bẽo, miệt thị ân nhân, còn trời đất quỷ thần nào chứng cho cô nữa. Phải biết... cô phải biết...

                  Chừng tức quá, Quản Kình tắc họng, nuốt ực nước bọt, thở phì. Cô gái quỷ cười lạnh:

                  - Biết sao? Biết không quen thuộc, tự dưng lại nhảy ra cứu, không ai khiến! Suýt mất mạng? Ôi chao! Bi đát đến thế ư? Cứu ta chủ ngươi suyt mất mạng? Còn biết gì nữa? À! Biết đàn ông thấy gái như mèo thấy mỡ, không vồ được lại vờ ra ơn cứu nguy để gái cám ơn, mỡ hiến miệng mèo khỏi tốn công vồ nấp. Biết gì nữa?

                  Võ xua tay ra hiệu cho người quản gia, nhưng Quản Kình tức quá không nhịn nổi, vùng nói oang oang:

                  - Ôi tức như bò đá! Cô nương này thật khong biết người biết mình gì cả. Cậu tôi từ ngày xuống núi, đến đâu, gái đẹp như tiên mê, cậu còn không thiết, lại phải bầy trò nhỏ trong to, chạm xương càng rắn càng phá dữ. Viên này bị giáp cản, khi chui vào đó nằm đó đã hết đà mạnh rồi, nên không phá quá. Nhưng gắp đạn, thường hết hồn, đàn ông nào cũng chạy. Cậu hai tôi đui con mắt hay sao mà lại mê cô quỷ? Chẳng qua cậu tôi có thù yêu quái, thấy cô đồng cảnh ngộ thì thương, thấy cô nguy, cậu tôi liều thân cứu giúp, vậy thôi. Chớ nào phải cô chim sa cá lặn gì mà cậu tôi theo đuổi.

                  Tưởng không mới lựa được, chàng trai từ từ lôi ra, viên đạn lại nằm chiều ngang chếch, phải vừa lôi vừa xoay xuôi cho vừa lỗ thủng phía ngoài. Cô gái rất gan, nhưng câu khó ngửi! Ta xấu xí như dạ xoa? Ô... Ngu! Không biết xưa này nhiều gã vua chúa, nhà giàu, hào kiệt mất ngôi, mất mạng, tan cơ nghiệp toàn vì gái xấu hay sao? Ôi! Sao chúng lại không điêu đứng vì gái đẹp? Thế nhà chú không thấy cả từ con thuồng luồng dưới nước đến tụi đầu râu tóc bạc như bọn Tửu Chúa kia, đến cả con mụ cà kheo nó cũng theo ta như bọn cố liều mạng, tốn công rượt bắt ta làm gì? Nhà chú biết vì sao không? Sao chúng không đi tìm đứa đẹp? Gái đẹp nhiều như chó con sao không bắt? À, chỉ vì ta xấu! Ôi! Nhà chú ngu dữ, ngu dữ! Đàn ông gì mà ngu như bò! Xưa nay gái càng đẹp làm đổ quán xieu đình, mà gái xấu càng làm khuynh thành khuynh quốc, tan nhà mất cửa còn hơn gái đẹp. Ấy chỉ vì gái càng xấu lại càng là gái đẹp, đàn bà càng xấu, dạ xoa càng làm tụi đàn ông mê như điếu đổ, nhà chú không biết điều đó ư? Ôi! Ngu như heo!

                  Lời nói của gái quỷ làm Quản Kình đứng ngẩn mặt ra, dòm nàng, rồi quay dòm Minh Thần như thầm hỏi. Nhưng Minh Thần càng ngẩn hơn. Cô gái quỷ lạnh lùng "hừ" một tiếng khô khốc, cười nhạt:

                  - Ngu! Khong biết tại sao ư? À! Thế nhà chú có biết tại sao mấy gã đàn ông thường chết mê chết mệt vì con đàn bà hôi nách không? À, đó! Chúng mê mùi hôi nách hơn mùi thơm, cũng tỷ như thiên hạ Đông Tây kim cổ xưa này nó thường chỉ nghiện chua, cay, mặn, chát, nghiện "mắm tôm", "nậm phia", "bọ hóc", mắm ngóe phó mát khắm, ròi bọ, chứ có mấy ai nghiện đường, nghiện chè? Đó! Cho nên đàn ông mê gái xấu, cậu hai chú cũng giống đàn ông, gái dạ xoa như ta đây lại không làm chủ chú sanh lòng càn rỡ được ư?

                  Lần này, Quản Kình chết đứng hẳn. Lời nói của gái quỷ nghe lạ tai hết sức, nhưng lại khiến Kình nghĩ ngay đến thói quen quái gở của người đời, của Kình, vì chính y từ nhỏ đã nghiện mắm tôm. Hồi tiền Nhật đi lính sang Tây,

                  chú đội Kình xưa đã hai lần suýt bị lột lon vì mê hai cô đầm hôi nách. Câu nói của gái quỷ làm quá khứ kéo về lớp lớp giữa cảnh lâm tuyền biên giới Việt Trung trong gió chiều thoảng đưa mùi hoa ngàn cỏ nội, mũi y như có cả mùi đầm quái gở tận bên Tây "hiện" về.

                  Bất giác, người quản gia buột miệng kêu "thật vậy sao", ngoảnh nhìn tiểu chủ. Võ Minh Thần thở phào, hơi bực vì bị ngờ có ý mê dạ xoa như thiên hạ nghiện mắm tôm, hôi nách. Chàng trai chỉ còn biết giơ hai tay kêu "Quái gở! Quái gở!".

                  Nhưng đến lúc cô gái quỷ giục beo định vọt đi, chàng trai chẳng đành lòng để mặc nàng ra chỗ nguy hiểm, vội giơ tay cản lại, giọng thành khẩn bảo:

                  - Cô nương chẳng nên cố chấp, nghi ngờ quá thế! Neu không muốn đứng sau mỏm đá này với ngu mỗ, cũng nên ẩn sau tảng khác. Cô nương không thấy mụ quái nữ cà rồng vẫn chặn đứng ngoài kia sao?

                  Cô gái quỷ vén cành, vừa ghé mắt dòm ra, bỗng vút, rào, từ đâu một mũi giáo phóng xuyên cành lá, cắm phập ngay vào cành cây nàng ta vịn, sát bàn tay. Cả giận, nàng ta giật luôn ngọn giáo, vọt lên vẹt cành, phóng vút ra ngoài thung lũng trước mặt, đoạn vòng luôn lại, nấp sau tảng đá xế bên thầy trò Võ Minh Thần cười gằn:

                  - Hừ! Đứa đực nào thấy gái cũng như mèo thấy mỡ! Đi đâu cũng gặp đứa theo như bọ chó, đực nào cũng như nhau. Hừ! Bao giờ cõi đời này mới tiệt giống đực chó!

                  Quản Kình nghe nàng ta phàn nàn đi đâu cũng bị đàn ông theo, lại ví đàn ông như bọ chó. Kình ta tức như bò đá, đưa cả mũi súng lên cằm gãi sồn sột, chỉ trực nói lại. Nhưng chú ta rất ngán khoản ăn nói ngược tai của gái quỷ, biết mình không đủ mồm miệng đối địch lại. Tuy vậy, chỉ nhịn được mấy khắc, lại buột miệng nói to:

                  - Cô nương này ăn nói thật hồ đồ, trái tai không chịu nổi. Cô bảo đàn ông người ta theo cô như bọ chó, thế chắc cô... cô là...

                  Chú định nói "cục phân" trả thù cho bõ tức, nhưng lại thấy tiếng đó có bề thô quá, thêm có tiểu chủ đứng đấy, không tiện, chú ta lúng túng ngừng bặt, định kiếm tiếng nào nói bóng dễ nghe hơn. Nào ngờ cô gái quỷ đã chõ sang, điềm nhiên nói toạc móng heo:

                  - Là cục phân chứ gì? Phải chú muốn nói cục phân? À, phải nói là "đống phân" mới phải! Có là phân sống, bọ mới ưa bu. Chính ta là vậy đó. Nên mới bị lũ bọ đực nhau nhau theo đuôi vây lấy, chứ còn gì nữa.

                  Vậy là quá nước rồi. Quản Kình trợn mắt tắt họng luôn.

                  Võ Minh Thần đang chiếu ống dòm quan sát mấy phía, thấy Quỷ Nương mất dạng. Chàng liền huýt cặp chó đồng cho đi thám thính, tai vẫn nghe gái quỷ nói với Quản Kình, chàng trai bèn ngoảnh sang, điềm đạm bảo:

                  - Cô nương vì quá đau thù mẫu thân, lại bị bọn ac nhân theo bức bách, nên mắt nhìn đàn ông thiên hạ có phần lệch lạc đó thôi. Thực ra xưa nay nam nữ bao giờ chẳng có nhiều hạng. Quỷ Nương kia rất có thể lắm, nhưng Liễu Hạ Huệ, Vân Trường chẳng phải không có. Chẳng lẽ vì Văn Khương, Võ Hậu mà quyết cho thiên hạ thiếu Bá Cơ, hay cô gái giặt vải bên sông Lạc Thủy. Vả chăng, nếu đàn ông hiếu sắc hơn hiếu đức thì tất phải xu phụng mỹ nhân, lẽ nào mất công mất nghiệp vì người không nhan sắc? Tưởng cô nương chẳng nên quá bận tâm nghi hoặc nhiều mới phải.

                  Cô gái quỷ cười khanh khách:

                  - Ôi chao! Nhà anh này tối dạ, không kém chú gia nhân. Đúng thầy nào tớ đó. Nói toàn chuyện ngược đời. Đã chẳng hiểu tình đời, lại không thuộc sử. Đọc vài cuốn sách của mấy anh ngốc sĩ, cứ tin như chết không cần rõ thực hư. À! Nhà anh cứ nhất định bảo lũ đàn ông mê nhan sắc, mà chẳng hay cái sắc ra sao, cứ tưởng mắt phượng mày ngài mới làm chúng đảo điên mất nghiệp, mất của, mất đầu. Cứ tưởng mấy ả làm đảo lộn thiên hạ đều đẹp cả. Này, xưa nay những hạng đàn bà làm chồng tan cơ nát nghiệp, trong ngàn mụ, được mấy ả chim sa cá lặn, hay hầu hết toàn thị chó sủa bò kêu, ngựa lồng cú chết? Được mấy nàng mắt phượng mày ngài, da ngà sâu róm, môi thâm, da thiết bì, khô đét như cá mắm lại mập như chum? Chân không bằng chĩnh lại giống chân lươn, ống đồng. Ôi! Nếu như nhà anh bảo đó là xấu, không nhan sắc, thì sao phá nổi nghiệp chồng, sao làm lũ đàn ông điêu đứng? Muốn làm điêu đứng, tất nó phải mê, nếu nó không mê, làm sao phá đổ? Vậy là các mụ đều có nhan sắc, mỗi người mot vẻ, vẻ nào cũng chết mệt đàn ông?n nấy mặt mày hung tợn như chực ăn tươi nuốt sống khách lạ.

                  Mặt trời cũng vừa hạ xuống non Tây, sương mờ, bóng dạ thần chụp lấy miền thung động thâm sơn như tấm màn bí ẩn trùng trùng...
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #10
                    Hồi Thứ Mười - Nữ Chúa Rừng Sâu Truyền Bí Thuật

                    Đột nhiên chàng tuổi trẻ bừng tỉnh giấc mê, mở choàng mắt, ánh đỏ khé làm chói mắt, chàng vội đưa tay dụi, mới hay mình bị trói chặt như bó giò, chân bị xiềng lòi tói to bằng cổ tay người và nằm ngửa trên một tấm thạch bàn rộng.

                    Sực nhớ lại chuyện chiều bị thuốc mê lưới chụp, chàng trai vội lăn mình nằm sấp, dòm quanh, mới hay bị nhốt trong một căn nhà đá, chừng một cái hang đục lòng núi, bốn bề vắng lặng, trên vách có cắm một thoi nhựa trám lớn hắt từng vùng sáng đỏ khé nham nhở, khắp lòng hang trống trơn chẳng có vật chi khac ngoài hàng chấn song to như cây tre chắn ngay trước mặt. Bên ngoài chấn song, là một khu hang nữa ăn thước thợ hun hút.

                    Không một bóng người. Không cả tiếng động. Cũng chẳng thấy Quản Kình cùng cô gái quỷ kia đâu.

                    Dòm quanh mình, súng ống, khiên giáp, hành lý, ngựa, chó cũng đâu mất. Cả đến áo giáp cũng bị lột đi, di vật, vòng điểm huyết cùng sợi dây chuyền mang trong mình cũng biến sạch. Sực nhớ đến bọc di hài mẹ để dưới giỏ hành trang, chàng trai vụt thấy đau nhói tim lo ngại xót xa.

                    - Bao phen vào sinh ra tử đều thoát khỏi, không ngờ mới lạc đến vùng động dữ này, lại bị chúng bắt dễ như không! Lạ thật! Sao có thể bị khói mê chóng đến thế? Dẫu mình có hít phải một chút, huyệt đạo có mở ra mấy khắc lúc vọt ra đánh giải vây, mọi khi đâu ngất ngay được? Hừ! Thuốc khói mê loại gì lại ghê đến vậy? Sẩy chút sa cơ liền! Xem chừng bọn này lợi hại dữ.

                    Chàng trai nghieng đầu lắng tai nghe, hình như đêm khuya chỉ có tiếng gió vi vu xa xa, mơ hồ vọng về một vài tiếng hoẵng kêu hoang vu. Thoảng lại có tiếng chim khắc khảm từ ngọn núi cao rớt xuống, giọng chim vang nghe cũng mơ hồ xa xôi... ra rời bâng khuâng...

                    Thình thịch... bỗng có tiếng chân nặng dậm nền hang, rồi thấy hai con cọp vằn mộng lững thững bước vào, giương mắt dòm, rồi lại lững thững đi ra mất dạng.

                    Võ Minh Thần xoay mình ngó vào trong, bỗng phát giác bên hữu có một cái cửa thông nhỏ ăn sang một gian tối mờ. Chàng trai khẽ gọi, đến lần thứ ba, chợt nghe tiếng Quản Kình:

                    - Cậu hai! Cậu hai! Nó "bó giò" chặt dữ à! Cậu hai! Có cô nương kia đấy không? Cậu có bị điểm huyệt không?

                    - Suỵt! Khẽ chứ! Để coi! Chàng trai nghe Kình hỏi, sực nhớ ra, lập tức thử vận hơi lấy sức, mới hay chỉ bị khói mê, không bị điểm huyệt. Chàng cúi xem dây trói, mới hay toàn gân cọp, thứ dây trói chắc còn hơn dây thép, dây gai tắm máu chó. Bèn vận lực kình bứt dây trói, nào dè dây gân

                    cọp nhuyễn đến lạ lùng, hình như còn được chế luyện thêm, nên dai kỳ dị, càng dùng sức, dây gân càng thắt nghiến chặt thêm, không chịu đứt.

                    - Hừ! Không ngờ dây chúng dùng lại dai đến thế! Trước đã có lần ta bứt đứt dây gân cọp, giờ chắc là thứ dây gân đặc biệt! Có lẽ phải dùng sức nóng?

                    Võ Minh Thần lóe mưu, lập tức vận luôn sức điện công hỏa lực trong mình, truyền ra nung các vòng dây gân. Quả nhiên, sức nhân điện nóng làm gân cọp mủn dần, giây khắc, bứt mạnh cái đứt bung luôn.

                    Cả mừng, chàng trai vùng đứng dậy. Dây lòi tói tuy to nhưng không nghĩa gì nữa. Chàng trai dùng cương khí giật lọi ngay khóa xiềng, tung luôn xích gông. khoá Phù. Võ phẩy tay tắt luôn ngọn lửa trám, chạy sang gian bên. Gian này ăn xế vào trong chút, chỉ có Quản Kình, không thấy cô gái.

                    Chỉ mươi khắc sau, hai thầy trò Võ đã vọt ra chấn song, bẻ cong veo, chui ra.

                    Thung lũng hiện ngay trước mặt, đồi cây hoa cỏ nằm bặt dưới trăng khuya đông khan. Cả miền động lạ im lặng sâu thẳm chỉ có tiếng hoẵng kêu xa xa. Chợt từ đâu có tiếng cồng nổi âm thanh chìm bổng lan gợn màn sương trắng, nghe huyền bí như dư âm từ thủa du mục hoang sơ vọng về.

                    Tình à tang... tang à tình... Như một cung đàn chơi vơi, hư hư thực thực, cung âm chưa bao giờ hai người được nghe... chập chờn đứt nối. Cả hai cùng lấy làm lạ, nhưng như hùm thoát cũi không có thì giờ nghe âm dị, thung lũng thênh thang đang chờ hùm về ngàn. Võ Minh Thần, Quản Kình thấy bốn bề vắng lặng, không một bóng người vật, lập tức vẫy nhau, nhẹ gót tiến ra ngoài cửa hang. Nào ngờ vừa đặt bước xuống bậc đá, bất thần cả hai bị đẩy thốc trở vào. Giật nảy mình, cả hai vùng dạt sang bên vách thủ thế, dòm. Vắng ngắt, chỉ có bóng cỏ cây hoa lá sương vờn. Bỗng nghe tiếng quát chìm âm u:

                    - Đi đâu? Hai cái người này? Vào trong nằm!

                    Võ thả vội một nhát chỉ phong "véo" vào cõi không. Hai thầy trò lướt theo ra. Nào ngờ một bàn tay vô hình đã túm ngực đẩy mạnh vào, sức khỏe phi thường làm cả hai phải bật lại.

                    - Không được ra khỏi đây! Còn ra bị vật! Cả hai phát chợn. Quản Kình thì thào:

                    - Xó! Ma xó! Xó Hồng Thần... Minh Thần lùi nửa bộ. Hồng Thần đã dữ, ma xó Hồng Thần còn dữ gấp mười. Nhưng cả hai không chùn, nhớ ngay lại phép cự "xó" của cha con vị chúa Pi A Ya truyền. Lập tức bấm độn chú, nạt lên mấy tiếng Mán, lừ lừ tiến ra, song song. Quả nhiên ra ngoài cửa không bị cản trở. Nhưng "rap", vừa đặt chân xuống mặt đất, thình lình từ trên một tấm lưới ập xuống, kéo luôn hai người xuống. Cả hai vừa chạm đáy hầm, dòm lên, đã thấy lố nhố đầy người in hình vào nền trắng sương mờ nhạt, vật vờ bóng cây, bong lưới. Chưa kịp nhảy đã bị khói mê phun xuống, tiếp theo luồng nước thơm ngát dội ụp. Cả hai vận hơi chống, nhưng vẫn bị hoa mắt, rủn gân rồi mê đi rất chóng. Lần này tỉnh dậy cũng mau. Hai người thấy mình bị nhốt chỗ cũ, không bị trói. Nhưng hỡi ôi! Gân lực đã tiêu, chẳng hiểu bị triệt điểm hay bị thuốc dữ, vận khí lên không nổi. Và chuyến này, chúng mặc hai người tự do trong hai gian nhà đá. Như cọp thiêng bị chặt đứt nanh vuốt, hai thầy trò đành thúc thủ ngồi nghe tiếng động đêm dài sang cạnh. Tuy vậy vẫn còn thấy may là không bị chúng giết luôn, vì Hồng Thần xưa nay vốn nổi tiếng giết người lạ như ngóe. Nhưng nghĩ tới cô gái dòng máu rơi của "Bạc công chúa", Võ Minh Thần không khỏi lo ngại nhiều cho tính mạng nàng, hiện đang mang thương tích chỗ yếu huyệt. Chừng hơn giờ sau, đang yên vắng, bỗng nghe mơ hồ có tiếng tù và rúc xa xa, tiếng cồng khua âm u, lẫn tiếng hùm beo tây tượng gầm rống, tuy rất xa, nhưng nghe như động rừng, động núi, mãnh thú lần về.

                    Ngạc nhiên, hai người ngồi lắng nghe, chừng mươi phút sau, động lạ lại rơi vào im lặng.

                    - Lạ thật! Sao lại nghe tiếng tù và thổi? Hay tiếng tù và của Ma Quân? Đang thắc mắc bàn nhau, bỗng lại nghe có tiếng Mán líu lo "đi"vào, hai

                    người vờ nằm ngủ, hé mắt thấy một lũ Hồng Thần bước vào, đứng ngoài song dòm, lố nhố có cả đàn bà con gái.

                    Một cô gái Hồng Thần quấn xà cạp, đeo tiểu liên, dao quắm, ngăn ngắt.

                    Ngũ Quỷ vẫn nổi âm thanh, say sưa trong vũ khúc phi phàm. Bỗng xích nghiến xoảng, từ trong làn khói trắng vụt hiện ra hai đốm sáng bằng hai hai cái nanh chìa mép, coi như ma! Hắn nói líu lo, nhỏ quá, không nghe lọt, mới chỉ thoáng nghe có câu: "nguy hiểm... lẻn vào cửa thác... có cả khiên giáp... súng ống lạ...". Chang nghe gái Hồng Thần nói chi, chợt thấy cô ta bỏ ra, chừng vài phút, quay vào, mang theo một bộ khiên giáp, cặp súng... của Minh Thần. Gái Hồng Thần soi lửa xem, bỗng nhanh giọng bảo: "phải cẩn thận, cái người này đáng ngờ, phải báo Chúa Ngàn ngay" đoạn tất cả bỏ đi mất. Thầy trò Võ nghe chúng bàn nhau "đáng ngờ", lòng càng lo ngại, hai thầy trò bàn nhau không hiểu "Chúa Ngàn" là người thế nào? Lát sau, hai người nằm quay ra cố ngủ cho lại sức. Đang thiu thiu, bỗng

                    nghe tiếng chân rầm rập rồi bọn Hồng Thần kéo ập vào, mở cửa nói líu lo, khẩn cấp:

                    - Dậy! Dậy! Hai cái người này! Lên hầu Chúa Ngàn! Thầy trò Võ lẳng lặng nhỏm dậy, đi theo chúng. Ra đến ngoài đã thấy một toán ngót chục gái Hồng Thần võ trang, tất cả độ vài chục thổ dân nam nữ cho hai thầy trò lên ngựa, áp giải đi luôn. Mới hay chỗ chúng giam là giữa khu núi đá thâm u, ngồi ngựa, cả lũ đưa hai người đi quanh co qua một vùng thung lũng đồi nương trùng điệp, rồi lại qua một vùng toàn hoa thơm cỏ lạ, phần nhiều trồng hoa thủy tiên, bạt ngàn sơn dã, mùi thơm ngát gợi phong vị mùa xuân ăn Tết đầm ấm của người ta, người Tàu, làm hai thầy trò có cảm giác như đây không phải là miền đất nước Nam nữa. Vì bên Nam vẫn thường phải mua cả cây thủy tiên bên Tàu về tỉa ăn Tết, xưa nay chưa nghe nói miền nào trồng ở ta. Nhưng đồng thời, Võ Minh Thần cung sực nhớ ra lời dặn của Chúa "Mười Vạn Núi" từng cho biết Thanh Âm Động thuộc miền có thủy tiên. Võ chợt lóe tia hy vọng được dịp sẽ hỏi thăm bọn sơn dã dị kỳ này. Rừng thủy tiên trải ra bạt ngàn, tưởng chừng như ca miền trồng hoa vương giả. Cứ thế bọn sơn nhân giải hai người đi miết qua những vùng kỳ thú, cuối

                    cùng đến khu trồng đủ kỳ hoa dị thảo, qua vườn phong lan, dừng dưới chân rặng núi cao chót vót, khung cảnh thần kỳ hiện dưới trăng vơi gần sáng.

                    Thang mây dập dềnh quanh co thành sơn đạo chạy dọc ngang chi chít như màng nhện suốt từ lưng chừng núi cao, từng khu nhà treo lơ lửng sườn đá mây vờn như một thế giới kỳ lạ.

                    Dưới chân núi, vườn hoa bát ngát, hùm beo tây tượng nằm đứng lố xẹt dọc, loáng cái mấy khúc xích đã cởi thây Song Ma. Ngũ Quỷ vọt theo hai khối tinh lạc ra phía bờ sông. Hai cái xác Song Ma vẫn chết đứng, vì điện khí "đóng lấy làm lạ trước cảnh vật dị kỳ. Gái Hồng Thần chừng bộ tướng Chúa Ngàn, hú lên một tràng. Từ trên cao buông xuống một khúc thang mây.

                    Nữ bộ tướng Hồng Thần ra hiệu lên thang. Nàng ta đi trước, tới thầy trò Võ, viên tướng Sơn Đầu trấn sơn và hai, ba tên nữa, còn tất cả ở lại phía dưới. Sơn đạo quanh co vắt vẻo chênh vênh không có tay vịn, hai thầy trò Võ đã bị điểm triệt võ cong, lúc này như người thường, vượt lên rất chậm và khó nhọc.

                    Nữ tướng Hồng Thần luôn miệng giục, cả tên Sơn Đầu đi sau cũng ép dữ, làm Quản Kình nổi giận mắng lớn:

                    - Bọn mi đã triệt sức của thầy trò tao, còn giục gì nữa? Muốn mau sao không cõng bọn tao?

                    Tưởng nó giận, nào dè gái Hồng Thần đã kêu "phải" ra hiệu cho lũ trai Sơn Đầu hai tên lực lưỡng sấn lên ghé lưng cõng luôn hai người leo phăng phăng. Quản Kình to như con bò mộng, vậy mà tên Sơn Đầu cõng vẫn đi vùn vụt, quanh co dập dềnh giây lát, cả lũ đã tới khu nhà treo.

                    Đúng là một bản động trên mây. Nhà treo san sát từng chòm xóm, ánh đèn le lói, hiện trước hiện sau, trên mái đều có hoa coi rất đẹp. Sơn đạo trên này rộng hàng mấy thước, hai bên đều có luống đất trồng hoa thơm ngào ngạt, nhiều giống lan rừng, thủy tiên, dị thảo.

                    Điều lạ nhất là dưới hiên nhà, sơn đạo, hùm beo sừng sững qua lại. Trên mái cầy, cáo, mèo rừng, sóc, vượn, khỉ nhởn nhơ coi như bầy gia súc, làm hai người càng lạ tưởng lạc tới một thế giới huyền kỳ, người, thú sống với nhau.

                    - Dưới động Pi A Ya Bạc, người sống với sơn cẩu tinh khôn, dễ dạy. Đây Chúa Ngàn là nhân vật thế nào lại có lắm thú dữ thế này, toàn giống dữ khó sai khiến.

                    Đang nhìn quanh, nghĩ vơ vẩn, bọn Sơn Đầu đặt hai người xuống. Gái Hồng Thần đưa cả bọn qua khu nhà treo ngang dọc tả hữu như phố xá, thấp thoáng chỗ nào cũng có bóng người, toàn bóng nữ. Khỏi khu nhà treo này, còn vượt một đoạn sơn đạo lên nữa mới tới một khu biệt tịch, cũng toàn nhà treo, có nhà ăn vào ghềnh đá, điếu kiều đầy dãy.

                    Cả bọn dừng trước một khu nhà rộng mênh mông nằm dựa núi, hình như còn ăn sâu vào ruột đá nữa, có sân, có cổng, điếu kiều rất lạ mắt. Người thú lố nhố, cung tên súng ống tua tủa, cờ quạt phấp phới, ánh sáng rực rỡ như ban ngày ngoài cổng. Nhưng khi bọn này dẫn hai người vào căn nhà lớn, thì ánh sáng vụt đổi màu, chuyển sang ánh dịu, nhưng sáng soi rõ từng sợi toc.

                    - Đứng dậy! Tên tướng Sơn Đầu ra hiệu, còn bọn gái Hồng Thần đi thẳng vào trong.

                    Hai thầy trò nhìn vào nhà sâu hun hút, bàn ghế từng dãy, quần nữ Hồng

                    Thần, Sơn Đầu, Mán Tiền, Mán Cóc, Mán Cao Lan, Thổ, Thái, H"mông, Lô Lô, Nhắng, Kha, lố nhố dàn từng đội, gươm giáo súng ống tuốt trần coi rất uy nghi, nhác qua hầu hết các sắc dân bộ tộc Mán, Thổ đầy vẻ gan góc, thiện chiến.

                    Im phăng phắc. Không tiếng động. Tít trong cũng có một bục cao nhiều bậc gỗ, rèm đỏ đã vén lên, để lộ một cái ghế tay ngai cao lênh khênh, trước có một cái bàn thấp, rộng, trên đặt nhiều đồ vật... xế bên ghế còn có giá binh khí cắm đủ thứ cổ kim. Ghế tay ngai không ngươi, sau ghế còn hai thước nữa mới tới bức màn đỏ buông cờ treo rủ hai lá cờ lớn. Bỗng có tiếng cồng nổi âm u, khoan nhặt, nghe dõng dạc chơi vơi lạ. Cồng dứt, có tiếng một nữ tướng Hồng Thần hô lảnh giọng Mán Hán:

                    - Chúa Ngàn! Chúa Ngàn! Quân nữ các sắc cùng mấy tên Sơn Đầu nam giật sững người. Chỉ nhác qua quang cảnh đã biết đối với chúng Chúa Ngàn là một vị cực linh thiêng, linh còn hơn cả sơn thần, vì sơn thần còn phải do Chúa Ngan tù trưởng phong chức. Thầy trò Võ đang chú ý dòm vào, chợt nghe thình thịch chân dẫm sàn, rồi một bầy hơn chục cọp beo lững thững đi ra, đứng sững một dãy sau ghế tay ngai dòm ra, con nào con nấy to như bò mộng. Bỗng nghe tiếng nhạc vàng, vòng bạc, hoa tai, xà tích khua "xoảng, coong" một tiếng tổng hợp thoáng nhẹ như hơi gió, tên Sơn Đầu trấn cửa đứng xế sau thúc nhẹ vào lưng thầy trò Võ, khẽ hô "quỳ xuống", hai người dòm vào bỗng hơi giat mình thấy đã có bóng người ngồi vắt vẻo trên ghế tay ngai, lẹ

                    như "hiện" lên, hai người chỉ thoáng thấy một vật sặc sỡ như cái mống bay từ trong ra, đủ biết thân pháp bóng kia kỳ ảo đến bực nào.

                    - Quỳ xuống mau! ba người đứng hơn hai thước. Đứa con nít và bà già móm trông thấy, cùng hét lên, vung tay đánh chụp, trong khi mấy hình kia xông tới bắt bọn Minh Thần. Đang

                    Hai thầy trò cứ đứng trơ trơ, dòm vào. Đúng lúc Sơn Đầu lại hô "quỳ xuống", bóng trên ghế chợt giơ tay vẫy, truyền "vào đây", tên Sơn Đầu vội hừ một tiếng, đẩy hai người vào. Theo lối đi hun hút đến bốn mươi bo nữa, hắn mới dừng lại chỗ cách ghế chừng hai mươi bộ, chìm giọng vừa hô vừa ấn vai xuống:

                    - Quỳ mau! Lúc này hai thầy trò đã nhận rõ mặt người trên ghế tay ngai. Cả hai chợt động lòng trước sắc diện của Chúa Ngàn. Vì đó chỉ là một nữ nhân, chẳng rõ thiếu phụ hay thiếu nữ, trông mặt trạc vào hai nhăm, hai sáu, đẹp như thiên tiên giáng hạ, mặc quần áo ngũ sắc rực rỡ như tiên cô, tóc búi đỉnh đầu, lược dắt trâm cài, hoa tai lủng lang lấp lánh sáng chói kim cương, cổ tay cổ chân đều đeo nhạc vàng nhỏ như hạt đậu, mỗi khi cử động phát ra những tiếng vang thoảng âm trong vắt. Mắt phượng hơi xếch, mày ngài dài quá mắt không vẽ, mi cong, môi cung san hô, mũi dọc dừa, ngoài vẻ nhan sắc tuyệt trần còn phảng phất nét uy nghi, hai con mắt sáng như sao, phát tia điện vô cùng thần bí, khiến kẻ ngang ngược mấy cũng phải nể kính. Võ Minh Thần thấy bà Chúa Ngàn đẹp uy nghi chợt

                    sinh lòng kính trọng, bỗng tên Sơn Đầu lại thúc "quỳ", chàng trai bực mình ngoảnh lại mắng:

                    - Ta không biết quỳ! Mi muốn quỳ cứ quỳ đi!

                    Hắn có lẽ sợ thất kính với Chúa Ngàn nên phải nín, chỉ trợn mắt, thò tay ấn định ấn xuống, nhưng Quản Kình thấy y phạm tới chủ mình, vùng quát lớn:

                    - Bọn mi dùng thuốc mê hạ thầy trò tao, lại bế cả sức, còn nạt nộ gì nữa? Có gan cứ giải võ đi! Thầy tao không biết quỳ! Mi phải biết, oai như chúa "Mười Vạn Núi" còn chưa biết quỳ nữa là!

                    Tên Mán giận lắm, chưa kịp nói chi bỗng nữ Chúa Ngàn cất tiếng lảnh như Thánh Gióng, truyền:

                    - Gian ngay chưa rõ sao dám thất lễ với khách lạ? Lấy ghế cho khách ngồi! Giải huyệt ngay cho khách! Tên Sơn Đầu này dạ ran, hối thủ hạ đem ghế ra mời hai thầy trò ngồi. Võ vừa ngồi xuống bỗng thấy bà Chúa Ngàn phẩy tay hai cái. Hai người thoáng cảm rõ một luồng khí điện nóng, thoảng mùi thơm kỳ

                    ảo, cả hai rung mình một cái, yếu huyệt mở liền, sức quy hồi như cũ. Sinh lòng nể vì, Võ Minh Thần cất cao giọng nói một tràng tiếng Kinh:

                    - Cảm ơn ba Chúa đã cho ngồi, còn giải huyệt cho!

                    Bà Chúa Ngàn này hiểu biết tiếng Kinh, đăm đăm quan sát Minh Thần, chợt quay hỏi:

                    - Đem đồ binh giáp của khách lạ ra đây!

                    Từ trong, mấy nàng sơn nữ đội một mớ hành trang đặt lên bàn. Tên Sơn Đầu ứng tiếng:

                    - Bẩm Chúa Ngàn, hành lý đồ vật của cả ba đều để nguyên vẹn, chưa dám tự tiện khám xét. Có cả hành lý của gái quỷ!

                    Bà Chúa Ngàn cầm khiên, giáp lên xem, chợt giơ cao dây súng dòm, chân mày thoáng cau lại. Chúa Ngàn rút hẳn cặp súng cối ra, lật coi, quay tít trên hai đầu ngón trỏ vẻ thiện nghệ vô cùng, chợt quay nhìn Minh Thần, vùng hỏi lớn:

                    - Khiên giáp này là của Thập Vạn Đại Sơn, cặp súng nay là cap súng thần của Chúa Mười Vạn Núi, Thần xạ vô địch tướng quân. Người quý cặp súng này như sinh mạng, sao khách lại có?

                    Võ điềm nhiên đáp:

                    - Bà thật tinh mắt! Đúng của vị chúa núi Vân Nam! Chính người đã tặng

                    ngu mỗ làm kỷ niệm đó!

                    Bà Chúa Ngàn thoáng tươi nét mặt:

                    - Vô địch tướng quân tặng? Lạ thật! Mấy năm nay "người" đâu có về Nam? Chàng trai cứ thực bảo:

                    - Ngu mỗ gặp "người" tại bản doanh, ngu mỗ được "người" cũng phu nhân cho nhiều vật!

                    Nghe chàng đáp, Chúa Ngàn vẻ mặt bâng khuâng thoáng nét vui pha trộn u hoài, chợt hỏi:

                    - À! Nếu vậy khách phải là người quen lớn với vợ chồng người? Nhưng đi đâu lại lạc vào cấm hữu! Ha ha! Quý hữu! Êm tai, êm tai. Hình như đã nghe... quý hữu là chi? Chư vị? Gió mát trăng vàng, nước trôi sóng vỗ... Ha ha! Trai tiên nói êm tai.

                    Xích Quỷ lễ phép bảo:

                    - Thực tình bọn ngu mỗ không biết đây có người ở! Bọn mỗ chạy dọc lối mòn rồi lọt vào, lại mắc gắp đạn cho người đồng hành. Ngu mỗ đi từ miệt núi Pi A Ya ngược Đồng Văn có ý đi tìm động Thanh Âm, đang đi gặp giặc.

                    Bà Chúa vụt sáng hẳn mắt, hỏi dồn:

                    - Sao? Đi kiếm Thanh Âm động làm gì?

                    - Thưa có chút việc, do chúa Mười Vạn Núi chỉ dạy!

                    -Việc chi?

                    -Việc riêng bà chẳng nên hỏi tới! Việc này mỗ chỉ có thể thưa với bà

                    chúa động Thanh Âm!

                    Chúa Ngàn cất tiếng thánh thót như suối đàn:

                    - Chính ta là chúa động Thanh Âm đây! Nhưng nếu Vô địch tướng quân

                    Thần Xạ bảo tới, chắc phải có vật làm tin?

                    Võ Minh Thần mừng rỡ chẳng cùng, reo:

                    - Trời! Thế ra đây là động Thanh Âm! Trách sao đêm nằm cứ nghe tiếng lạ như tiếng đàn cồng! Ôi chao! Giờ mới nhớ ra, ân huynh, tỷ tỷ có dặn: Phu nhân thường mặc áo ngũ sắc, cưỡi cọp mộng. Người có trao cho một lenh tiễn để trong giỏ hành trang.

                    Bà Chúa Ngàn vẫy hai người lên. Võ Minh Thần lục sắc, mừng hết sức, thấy bọn Sơn Đầu chưa lục soát mảy may. Mũi lệnh tiễn còn để trong. Bèn rút ra, hai tay kính cẩn trao bà Chúa.

                    Bà Chúa đỡ lấy liếc coi, mặt vụt hiện vẻ xúc động lạ thường, lẩm bẩm "ôi! đúng nét chữ của "người" đây". Võ lại lục được mảnh họa đồ Chúa Thập Vạn vẽ phác đưa bà Chúa, bà ta xem, ngồi lặng giây lát, chợt quay hỏi:

                    - Mấy năm cách biệt, chẳng hay vợ chồng người có được mạnh chăng?

                    - Dạ mạnh! Còn cháu Hồng Kiệt giờ đã cưỡi ngựa đi săn được!

                    Đoạn nhân thể, Võ Minh Thần kể qua chuyện gặp gỡ vợ chồng chúa Mười Vạn Núi và lễ phép bảo:

                    - Người có nói không chừng sẽ sang Nam và có dặn kẻ này vấn an phu nhân!

                    Bà Chúa Ngàn truyền ảnh xưa nằm trong tiềm thức.

                    Quả nhiên Xích Quỷ bị cuốn theo lời Võ, thỉnh thoảng lại lên tiếng phụ họa theo. Nhưng chàng đang đưa dần họ vào trả thù nhà, cúi đầu xin bà chấp nhận.

                    Từ lúc biết Chúa Ngàn chính là bà chúa động Thanh Âm, "người vợ không bao giờ là loài yêu quái, rủ ta lên bộ sống với

                    sài lang. Bắt nó dìm sông như hai con ma vừa rồi.

                    Giao Long Nữ cười thét:

                    - Bọn này đến kết bạn, rất cảm phục đức hi sinh thanh cao của bà ta; yêu chúa Thập Vạn ghê gớm, mà vẫn chịu nhường Phượng Kiều nêu duyên trước, còn mình chiếc bong cô đơn sống trong động thầm đếm từng mùa hoa rụng mang mang. Nên vừa cúi đầu ngỏ ý xong, Võ sụp ngay xuống, tâm thành nhớ đến thâm cừu, mắt vùng sa lệ. Không chút đắn đo, nữ chúa Thanh Âm sà xuống kéo Võ lên bảo:

                    - Chớ quá thủ lễ! Em đã được phu quân chị coi là nghĩa đệ, cũng như em chị! Thù nhà em cũng như thù nhà chị! Em đã có công lặn lội, chị sao thể từ nan. Từ nay hãy ở lại động này, chị sẽ truyền hết bí thuật cho! Cứ an lòng luyện tập.

                    Bất ngờ thoát nạn, lại có nanh là quỷ hiện hình thật, vì bộ mặt nàng ta, thoạt nhìn, chính thầy trò Võ cũng còn tưởng mặt ma quỷ. Lại nghe nàng nói khoác một tấc thấu mây, khoe xuống làm lễ tôn sư. Nhưng nữ chúa động Thanh Âm đã phất tay nâng thốc chàng lên, dịu dàng bảo:

                    - Bình sinh ta không hề thu nhận môn đồ! Phu quân ta muốn ta dạy em ít bí thuật để báo cừu phụ mẫu, ta sẽ hết lòng truyền bí pháp. Phu quân ta đã coi em như nghĩa đệ, ta cũng muốn được em coi như một người chị lớn, chớ xử theo lễ trọng. Em năm nay bao nhiêu?

                    - Dạ, gần hai mươi.

                    - À, vậy chị chỉ hơn em có năm, sáu tuổi, càng không nên như thế! Ngồi xuống kể qua chuyện đời em cho chị liệu sức kẻ thù ra sao.

                    Võ Minh Thần, Quản Kình ngày ở bên Vân Nam vẫn cứ tưởng bà chúa động Thanh Âm ít nhất cũng độ tam thập, cứ như uy danh lừng lẫy, tài nghệ phi thường, nào ngờ gặp mặt thấy bà ta còn trẻ không khỏi ngạc nhiên. Lại nghe chúa động coi mình như em, Minh Thần chẳng còn biết sao hơn đành chắp tay vái, ngồi xuống ghế. Chợt nữ chúa động cất tiếng lảnh như Thánh Gióng hướng xuống dưới:

                    - Công tử đây chính là nghĩa đệ của soái gia Thần xạ vô địch từ Vân Nam sang tìm ta. Trong mình có cả lệnh tiễn, bút tự của soái gia, tướng trấn sơn Khiêu La sao bắt giữ?

                    Viên tướng có tên Khiêu La tiến lên, cung kính:

                    - Thưa Chúa Ngàn, lúc đó có mấy đám quân lạ kéo tới bắn nhau ngoài mành thác. Khiêu La thấy bóng lạ vượt qua mành thác vào ẩn trong hốc, mới đem quân trấn sơn đến bắt, đem về nộp Chúa!

                    Nữ chúa nhìn Minh Thần, chàng trai ngại bà xử phạt bọn Sơn Đầu, Hồng Thần, nên vội từ tốn thưa:

                    - Bọn em bị quỷ Cà Kheo Hấp Huyết rượt, chạy tới mành thác, lại bị Ma Quân Bá Diện xua quân chặn bắt, đang chạy, một người bị đạn xuyên mép giáp, lại bị một bọn lạ khác ào ra chặn lối, túng thế đành vọt vào mành thác ẩn nấp, nào ngờ lọt qua cửa hang, vào động, bởi kẻ đồng hành bị thương, nên vội vào hốc đá gắp đạn, sẩy gặp quân động tới vây bắt, bị khói mê ngất liền. Cũng chỉ là ngộ nhận, dám mong nữ chúa bỏ qua cho.

                    Bà chúa Thanh Âm hỏi Khiêu La:

                    - Còn người bạn công tử đâu?

                    Tướng Sơn Đầu cung kính:

                    - Thưa Chúa, cái người gái dạ xoa bị thương, đội tuần núi dã đem đến nhà

                    bệnh, coi sóc.

                    Nữ chúa hơi nhướng mày quay ngó Võ:

                    - Gái Dạ Xoa? Tại sao vậy? Bạn đồng hành của em có gái Dạ Xoa? Minh Thần lễ phép gật đầu:

                    - Dạ đúng vậy! Đó là một cô gái, em đã quen miền hồ Ba Bể, mới gặp lại chiều qua. Cô ta xấu xí như Dạ Xoa, nhưng lòng dạ ngay thẳng quang minh, lại cũng chịu cảnh cha mẹ bị hại, đang đi tìm cừu báo oán, tình thật xót xa.

                    Dứt lời, Võ Minh Thần kể qua lại chuyện kỳ ngộ cô gái quỷ trên hồ Ba Bể, chuyện nàng tử chiến với Giao Long chúa, rồi lại bị Quỷ cà kheo rượt... nhất nhất kể hết, kể luôn cả tính nết kỳ khôi giữ tiết của nàng, cùng vết đạn vô tình bắn trúng nách. Nhân dịp Minh Thần định kể luôn chuyện mình cho bà chúa nghe, nhưng bà chúa đợt đứng lên bảo:

                    - Để lát nữa, chưa muộn! Giờ phải xem bệnh tình cô gái đó ra sao đã. Vết thương tuy không quá nặng, nhưng lại vào huyệt yếu, nếu vô ý chút, có thể trở thành bán thân bất toại như không đó. Peng Lang! Cho nữ binh về trại nghỉ! Sửa soạn võng cáng! Dọn sàn nhà khách trên Phượng Hoàng dinh.

                    Một nàng Thổ, Thái chi đó mặc áo chẽn coi rất xinh tiến ra cúi đầu lĩnh mệnh, cồng đồng khua rền rĩ, các đội nữ binh Thổ Mán tung hô chào nữ Chúa Ngàn cùng quý khách xong, lập tức kéo theo các nư tướng Hồng Thần, Sơn Đầu, Mán Cóc, Cao Lan, Mán Tiền, Thổ, Thái, H"mông, Kha, Nhắng lục tục kéo khỏi sảnh đường,

                    Bà chúa Thanh Âm phất tay truyền:

                    - Đem tất cả hành trang, beo, ngựa, sơn cẩu của công tử tới khách dinh. Mấy nàng sơn nữ chạy ra, nhanh nhẹn vớ lấy mớ hành lý, súng ống, khiên giáp để trên bàn. Từ lúc mê sực tỉnh, Minh Thần vẫn nơm nớp sợ mất các món di vật thiêng liêng, nay lại thấy bà chúa truyền đem đi, chàng trai vội tiến lên

                    cầm lấy hành lý, súng ống. Bà chúa khuyên để gái động mang cho tiện, Minh Thần cực chẳng đã phải khẽ thưa:

                    - Trong sắc em có ít di vật thiêng liêng... quan hệ tới nguồn gốc, nên lúc

                    nào cũng phải mang theo bên mình...!

                    Bà Chúa khẽ cười bảo:

                    - Không hề gì! Nếu là di vật thiêng liêng càng nên để dâm thủy, nó phập phồng chờ cái đầu khấc đỏ au mổ vào và chui nguyên cái thân cứng ngắc xù lông qua cái lỗ lồn nóng hổi đó...

                    Trận làm tình thứ hai này thì chị bọn ngươi là quỷ? Đứa con nít coi bộ thích chí nhất, nó dịch lại dòm tận mặt, cười tít mắt:

                    - Trai tiên vợ quỷ trò hay. Phép biến này không phải động mang đi.

                    Đoạn hai thầy trò theo nữ chúa Thanh Âm ra sân, Khiêu La tướng Sơn Đầu tiến lại cúi đầu kính cẩn:

                    - Khiêu La coi núi, không biết công tử là người của chúa soái Mười Vạn

                    Núi, công tử bỏ tội cho Khiêu La!

                    Minh Thần cười, vỗ mạnh vai y:

                    - Chính tôi phải cảm ơn chú bắt, mới gặp được Chúa Ngàn chứ! Chú chỉ làm phận sự mà! Nhưng thuốc mê dữ lắm. Bình sinh, khi tôi bế huyệt, thuốc độc cũng khó vào.

                    Bà chúa động dịu dàng bảo:

                    - Động Thanh Âm có nhiều thứ trấn thủ! Thứ nào cần có để cự thù, rồi đây ta sẽ truyền cho em! Lòng cảm kích, Minh Thần cúi đầu bái tạ. Bà chúa hú một tiếng, một bầy thú rừng sịch tới, bà truyền tất cả lên lưng thú. Thầy trò Võ Minh Thần chưa sống lẫn với hùm beo, nhưng đã sống với sơn cẩu Pi A Ya nên cũng không lạ mấy, trèo lên liền.

                    Một đoàn ngót chục gái động, cùng bọn Khiêu La nhất loạt "phò" bà chúa, quý khách xuống đó.

                    Ngũ Quỷ ngó lá cờ đen, vẻ tò mò nghi hoặc, hình như trong bầy chỉ có lão quái, bà móm là nhớ mang máng những tieng "Ngũ Hành nương nương, Thái Thượng Hai thầy trò Võ cưỡi hai con cọp mộng không yên cương. Quản Kình khổ người cao lớn vạm vỡ, chân muốn quét sàn. May cả hai đều tay kỵ mã có hạng nên không rụng.

                    Nhìn gái động thấy từ bà Chúa đến gái tùy tòng ai nấy đều ngồi vắt vẻo gác hai chân sang bên mông dính hờ trên lưng thú, êm như ngồi trên sập, khiến hai người phải khâm phục.

                    Thoáng... bầy thú đã xuống mặt đất. Bọn Khiêu La vọt đi trước, Minh Thần, Quản Kình đi sau bà Chúa, hướng theo lối quanh co vượt qua những vùng đầy kỳ hoa dị thảo, các sơn thôn tuyệt đẹp, tới chân núi Tây đã thấy một vùng doanh trại nhà cửa san sát, quân mã lố nhố. Khiêu La đưa bà Chúa, thầy trò Võ vào một căn nhà rộng lớn bằng gỗ hai tầng, thấp thoáng nhiều bóng nữ.

                    - Đây là trại bệnh thương cho cả động điều trị.

                    Bà Chúa dẫn khách lên lầu, các y sĩ Thổ Mán cúi chào kính cẩn, cả bọn đi dọc hành lang dài hút, tới một của người. Cây cờ lạ này Võ đã biết vốn được chế rất tinh vi, cộng thêm kình lực của Giao Long Nữ, tuy có lợi hại hơn hồi tử chiến với thuồng trên giường có một cô gái xấu như quỷ đang nằm.

                    Bà Chúa lại gần nhìn cô gái, không khỏi ngạc nhiên trước bộ mặt có chủ ý nên đã bí mật rắc chất dẫn lửa đặc biệt vẫn mang trong người, chắc cả hai không còn ngạc nhiên nữa. Ngọn lửa cháy đùng đùng. Cô gái quỷ lòng chí hiếu khác thường, nàng có cha mẹ bị Giao Long chúa tróc hãm, nên rất thù ghét "giống đực".

                    Mụ Mán Tiền thầy thuốc kêu lên:

                    - Đúng vậy à! Cái cô gái quỷ này vừa tỉnh, thấy bóng đàn ông là nhót lên

                    đấm đánh, suýt có người gãy xương, mụ phải bơm thuốc mê cho ngất à. Nữ chúa Thanh Âm lại sát bên, ngắm cô gái giây khắc, gật đầu bảo:

                    - Trên đời này quả thật khó có cô gái nào coi xấu xa dữ tợn, có cả răng nanh như nàng. Kể cũng khác đời. Thôi, để ta xem qua mạch đã! Dứt lời, ra hiệu cho tất cả ra ngoài, chỉ để mụ Mán Tiền ơ lại.

                    Nữ chúa Thanh Âm rửa tay, chẩn mạch, nghe mấy phút, đoạn sai cởi áo xem kỹ vết thương. Nhờ đắp "lông cu ly", đã cầm máu từ hôm qua, nhưng miệng tím bầm, còn rộng ngoác. Bà sai rửa sạch các vết thương bằng thuốc sát trùng, đưa tay vuốt thử các yếu huyệt, kinh mạch, dùng thủ thuật "nghe" các luồng điện khí trong mình cô gái, chập bảo mụ Mán Tiền:

                    - Đúng viên đạn chạm huyệt! Chỉ một, hai bữa nữa là bán thân sẽ bị liệt rất khó chữa. Đẻ ta phải trị ngay kinh huyệt mới được!

                    Bèn dùng điện công xoa nắn một hồi, đoạn lấy ra một lọ thuốc bột đỏ như chu sa ra rắc vào vết thương, sai băng bó lại như cũ, xong, bước ra ngoài hiên, bảo Võ:

                    - Quả đạn chạm huyệt, bán thân còn chịu được hai ngày nữa sẽ liệt hẳn. Nhưng ta đã trị! Minh Thần nghe nói cũng yên tâm. Rồi, bà Chúa sai võng cô gái lên khu dinh treo.

                    Nữ chúa Thanh Âm động cùng mọi người xuống thú, truyền võng cô gái quy vào một căn nhà xinh xắn khu nữ khách, đoạn dịu dàng bảo nàng nữ tướng Thổ thân tín:

                    - Peng Lang! Hãy tạm trao cả việc binh cho nữ đầu lĩnh Hồng Thần Sơn Đầu Theng Phay! Em có việc giúp ta ngay từ đây, hãy thay ta chăm sóc công tử, gia tướng của người và cô nương. Công tử và cô nương đây đều thuộc dòng chúa Tây Bắc, gặp gia biến lạc tới Thanh Âm. Công tư đây, soái gia và phu nhân Mười Vạn núi đã gửi gắm cho ta truyền bí thuật.

                    Nàng nữ tướng Thổ cúi đầu lĩnh ý. Chúa Thanh Âm lại bảo:

                    - Cô nương đây hơi trái tính vì ra đời giữa cơn sấm sét gió mưa. Mới lọt lòng đã phải lìa cha mẹ. Vậy em khá yên tâm, hãy làm cô nương yên lòng khi tỉnh dậy.

                    Dứt lời, nữ chúa vẫy thầy trò Võ Minh Thần theo sơn đạo sang khu dành cho khách nam. Đã thấy mấy nàng sơn nữ hầu cận túc trực sẵn cúi đầu chào kính cẩn.

                    Vừa theo nữ chúa bước lên thềm, hai người hết lòng mừng rỡ, thấy hai con ngựa con beo, đôi sơn cẩu đã buộc sẵn hồi nhà. Gặp lại chủ, mấy con vật vẫy đuôi, muốn giật dây xích nhảy lên mừng đón.

                    Nữ chúa mỉm cười bảo:

                    - Mấy con vật này tinh khôn lắm! Giờ có thể cởi dây xích được rồi! Minh Thần, Quản Kình tháo dây bảo con beo:

                    - Nữ chủ mi đang dưỡng thương bên kia, mi có thể sang thăm, hãy ngoan ngoãn chớ gây sự với đồng bạn tốt của mi đó! Lạ thay, con beo như hiểu tiếng người, nó dáo dác dòm theo tay Võ trỏ, hếch mũi đánh hơi, rồi kêu "hí hí" chạy vụt sang khu nữ khách. Đám gái hầu đưa ba người vào nhà. Căn nhà rất xinh xắn, ấm cúng, đầy hoa lá, phong lan, thủy tiên nở thơm ngát, không khí núi cao nhẹ lâng lâng.

                    Hành trang, vật dụng để sẵn trên giá. Quản Kình thu để gọn vào buồng, thấy mọi thứ vẫn y nguyên. Bèn lấy chiến vòng điểm huyết và sợi dây chuyền buộc nửa đồng tiền vàng, đưa chúa Thanh Âm. Đoạn nghe bà chúa truyền gái hầu ra ngoài, rồi thánh thót bảo:

                    - Đây là nhà của em! Ta là Giáng Tiên! Giờ em có thể kể lại thù nhà cho ra rõ.

                    Gái hầu dâng trà nước rồi đi ra. Võ Minh Thần cầm chiếc vòng điểm huyết và chiếc dây chuyền vàng dâng nữ chúa:

                    - Nguyên do, nguồn gốc, dĩ vãng, đầu đuôi, thảm cảnh hình như do mấy vật vô tri này... Khởi đầu huyết hận thâm cừu vào khoảng thời gian không biết, chỉ biết rằng chuyện thê thảm nhục nhằn đó xảy ra vào một buổi hoàng hôn

                    trên biên thùy Trùng Khánh, chuyện hấp sát cực kỳ ghê gớm, dã man, quái gở, khó lòng tưởng tượng nổi... Em là đứa bé không biết mẹ không biết cha, không biết cội nguồn, không biết quê hương, cũng không biết chắc mình thuộc dòng giống nào, sắc dân nào: Thổ, Thái, Mán, Kinh hay Tàu, Kha, H"mông, Nhắng... Cho đến nay vẫn chẳng biết tên họ thực là gì. Cái tên Minh Thần họ Võ chỉ là tên nghĩa phụ đặt buổi hoàng hôn thê thảm đó, khi người nhận đứa con nít lên hai ngồi trong túi da lạc loài giưa đàn Hồng Cẩu Quẩy. Hơn mười bảy năm rồi... chiều hôm đó...

                    Giọng nói Võ Minh Thần càng lúc càng rung mạnh; tay cầm chén trà bốc hơi, chưa vào chuyện nước mắt chàng tuổi trẻ đã chảy ròng ròng.

                    Cho đến khi chàng trai nghẹn ngào kể đến mấy tiếng cuối cùng, thì hai má chàng trai đã ướt đẫm lệ thảm và cả hai vạt áo sớm phong trần đã sũng nước như mưa sa.

                    Ngoài khung cửa sổ, một tầng mây đặc sệt kéo qua, cả căn phòng sa sầm lại. Chén trà trong tay Võ Minh Thần rung mạnh, "rắc", vỡ tan, nước bắn tung tóe, chàng trai giật mình, gạt lệ:

                    - Xin bà tha tội! Em thật vô lễ, khóc trước mặt bà... lại làm vỡ cả chén quý...

                    Nãy giờ ngồi yên nghe, nữ chúa rừng thiêng bỗng chớp mắt nhìn Võ, đưa tay ra, rung lời:

                    - Không không... em có lỗi gì đâu! Hãy gọi ta bằng chị! Chuyện đời em thảm quá... Minh Thần! Qua màng lệ, chàng trai ngó đôi mắt long lanh của bà chúa ngàn, đôi mắt phượng cung đầm đìa.

                    Bồi hồi xúc động, Võ đứng lên, dùng cả hai tay nắm lấy bàn tay trắng ngà của nữ chúa có những ngón búp măng tuyệt đẹp:

                    - Chị... mong ân chị bao dung... em cô độc trên đường đời... không cha mẹ chị em... nghĩa phụ cũng không còn... bao giờ... trả được nỗi thù chung thân.

                    - Em... đời người thật lắm oan khiên... đầu xanh em tội tình gì mà sớm chịu đau thương chất chồng? Chị sẽ giúp em.

                    Như thế khá lâu, hai người nắm tay nhau, không noi, nhưng nỗi lòng thầm cảm thật sâu xa. Quản Kình cảm động ngoảnh mặt che giấu mấy giọt lệ sa trên bộ mặt sạm nắng rắn đanh.

                    Chợt Võ Minh Thần buông tay nữ chúa Thanh Âm, bước vào buồng bên, đem xách giỏ hành trang ra. Ngạc nhiên, Giáng Tiên khẽ hỏi:

                    - Gì thế em? Chàng trai không đáp, lẳng lặng moi ra một cái hộp, mở và lôi ra một khối sáp ong vàng, chợt nhìn ra, thấy bóng gái hầu thấp thoáng xa xa, chàng lại cầm cả vào buồng thắp ba nén hương, vái lạy lầm rầm. Nữ chúa Thanh Âm ngạc nhiên bước vào, thấy Minh Thần lấy dao rạch mấy đường khâu trên khối sáp và lật nhac ra từng mảng lớn. Bỗng chàng trai lôi xoạc ra một khối đen đen trắng trăng, rũ phạch một cái, phát ra một tiếng "rục" dòn, và nữ chúa Thanh Âm bỗng giật thót mình kinh sững lạ lùng vì giữa vùng ánh sáng mờ nhạt, trên tay Minh Thần đã hiện ra một hình thù cực kỳ gớm ghiếc, đúng hơn là một cái xác đàn bà mặc phá

                    lãnh Thái thủy ba kim tuyến chỉ còn da bọc xương, mặt mày chỉ còn xương sọ, coi cực kỳ gớm ghiếc.

                    - Trời! "Cái túi da người"!...

                    - Vâng! Đúng cái túi da người. Chính di hài mẹ em đó! Theo lời chúThoòng Pạc Hoọc chúa núi Đầu Ngựa Quảng Tây và nghĩa phụ em thì trước đó mấy phút mẹ em còn là một tuyệt thế giai nhân, tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy đã biến thành "cái túi da" này sau mấy phút hấp sát và trước khi chết thảm, nó đã hành hạ mẹ em đủ điều tủi nhục. Nó dùng tà thuật, vũ khí chi đó khiến đàn bà như hóa điên, cam chịu nhục nhã, lạy van xinh hiến hình hài cho nó. Hơn mười bảy năm rồi... âm khí vẫn chưa tan. Có một đêm hồn "người" đã hiện về báo mộng cho em... đúng như lời chú Thoòng kể lại.

                    Bị rượt, biết không thoát, bà đã bỏ em vào túi da bên cổ ngựa thả đi còn bà cầm súng bắn cả bầy "quỷ đỏ mắt", nhờ thế em còn tới ngày nay...

                    Nói xong, nước mắt chảy dòng. Nữ chúa Thanh Âm kính cẩn đỡ lấy di hài người đàn bà xấu số, ngắm hồi lâu, lại đặt nằm trên bàn, lật áo, tóc, xem xét thật kỹ, miệng lẩm bẩm "ghê thật", "thật là khủng khiếp", "quái đản", xong thở phào một hơi dài, lòng thương xót vô cùng, bà ngó cái xác da bọc xương lổn nhổn, ngó chàng trai bất hạnh ngậm ngùi:

                    - Thật ngoài sức tưởng tượng! Không còn nanh ác tàn độc hơn nữa! Trước thỉnh thoảng chị có nghe nhắc đến chuyện "con tinh tứ túc hấp sát" nhưng cũng chưa mấy ai thấy xác nạn nhân. Sau được tỏ hành vi quái đản của Ma Vương Sắc, thường bắt gái đẹp đem về làm vợ, không ngờ mẹ em lại là nạn nhân của nó! Âu là nghiệt số không may. Thôi! Dẫu sao chuyện đã xảy ra, giờ phải cố nén sầu đau, tính cách rửa hờn, trừ hại cho dân gian là hơn. Em biết

                    thêm gì về Tây Sắc, cứ kể tỉ mỉ cho chị rõ, để chị còn liệu đo lường sức lợi hại của nó đến bực nào, còn luyện thuật cho em.

                    Minh Thần lãnh ý, kể lại từng chi tiết phi phàm quái dị đã được chứng kiến trong mấy lần gặp Tây Sắc Ma Vương, Nữ chúa ngàn vừa nghe vừa chăm chú quan sát lại di hài người đàn bà quốc sắc bị hấp sát, lật ngang, ngửa, lần soi từng huyệt đạo, thất khiếu.

                    Chừng Minh Thần kể hết, bà chúa lộ vẻ trầm ngâm suy nghĩ rất nhiều, lát sau bảo:

                    - Thôi! Em hãy gói di hài mẫu thân lại, nghỉ lát ăn cơm, mai sẽ liệu. Đoạn từ giã hai thầy trò, bà rời khu nhà khách, trở lại biệt dinh. Minh Thần gói di hài lai, bọc sáp như cũ, cất kỹ, cùng Quản Kình ngồi uống nước, nói chuyện. Gần trưa có gái hầu vào mời hai thầy trò sang biệt dinh nữ chúa. Hai người cho cả Hắc Bạch cẩu đi theo. Đã thấy bàn tiệc san sàng. Nữ chúa Thanh Âm, có thêm nàng Peng Lang cùng hai thầy trò vào tiệc rượu. Quản Kình thủ lễ, cố từ chối không được, phải cùng ngồi. Nữ chúa động tuy rất uy nghiêm ngự trị cả miền lãnh địa thâm sơn huyền bí, nhưng lại rất tự nhiên phóng khoáng nên tiệc rượu đầm ấm lạ. Nhờ vậy hai thầy trò Minh Thần không phải quá gò bó trong mớ lễ nghi phức tạp của các dòng vương gia tù trưởng miền núi. Giáng Tiên còn được khắp các thổ dân Man miền động phủ Thanh Âm tôn kính, vượt cả ngôi nữ vương sơn cước, đến độ sùng tín như đối với một vị nữ thần thiêng liêng. Càng nhìn lâu, hai thầy trò càng thấy bà ta có một cốt cách thần tiên thanh thoát kỳ lạ, từ mat mũi, dáng thân, cử chỉ lời nói, đều toát ra một vẻ thanh cao khác thường, nhất là lại mặc xiêm y rực rỡ nhiều màu coi càng giống tiên trong tranh cổ. Hai thầy trò Minh Thần có biết qua mối duyên lai kỳ diệu của bà vơi chúa Mười Vạn Núi, mãi lúc này mới hiểu tại sao bà có thể hi sinh nhường chồng chưa cưới kết duyên cùng Trần phu nhân để sống cô đơn trong động thẳm. Trong tiệc, Giáng Tiên hỏi thăm rất nhiều về hai vợ chồng vị Chúa soái lạc thảo bên Vân Nam. Minh Thần cũng cho bà biết từng chuyện nhỏ. Khi nhắc đến phong độ cùng cuộc sống của vị chúa Mười Vạn Núi, hai con mắt phượng sáng long lanh, chừng như chính bà là Trần phu nhân vậy. Và trong

                    ánh mắt, tuyệt không vẻ chi ghen, tiếc như phần đông những người đàn bà không được chung sống với người yêu.

                    Minh Thần cũng cho là lạ, nhân vui chuyện bèn buột miệng hỏi về tâm sự của bà, bà mỉm cười khoan dung, kể cho hai người nghe chuyện cũ, mới hay mối duyên lai của bà chúa ngàn với Thần xạ vô địch tướng thật huyền kỳ, không kém thần thoại.

                    Nguyên phu thân nàng cùng tôn sư tướng Thần xạ là một gia môn chính phái. Tôn sư Thần xạ phiêu bạt xuống tận miền Nam Băng Dương, tình cờ hải thuyền bị cuốn vào một dòng thủy lưu giữa vùng biển đầy băng nổi không tàu nào qua đươc.

                    Luồng thủy lưu đưa hải thuyền tới một hòn đảo lạ, giữa đảo là một miền bốn mùa xuân, cây cỏ xanh tươi mơn mởn, khí hậu tốt lành, sống rất lâu. Tôn sư cùng đoàn thám hiểm gọi nơi đó là đảo Thần Tiên, bèn định cư tai đây. Sau lại khám phá ra một luồng thủy lưu đổ qua Băng Dương ra Đại Dương, tôn sư bèn xây dựng Không hề biết làm khách, Xích Quỷ keo ùa lại, tiếp tục ăn uống như long cuốn thủy. Vừa ăn vừa nhảy múa ca hát líu lo, chừng lâu lắm mới được bữa tiệc tài tới đây không ai muốn rời nữa, cứ thế mở mang dần cuộc sống, mọc lên Thần Tiên đảo thành một thế giới ngũ đại châu thu hẹp, với nhịp sống thần tiên, và tôn sư thành đảo chúa đảo Thần Tiên miền Nam cực địa cầu.

                    Trong khi đó phụ thân Giáng Tiên đi chu du thiên hạ, rồi về khám phá ra động Thanh Âm đầy hoa thủy tiên, với kỳ hoa dị thảo, khí hậu mát mẻ quanh năm như mùa xuân. Ông bèn ẩn cư chốn này, quy tụ các sắc dân Thổ Mán, chẳng bao lâu thành một động phủ lạ, động Thanh Âm có tên Thủy Tiên cung miền "Phượng Hoàng dinh" với những mái nhà treo trên mây. Sinh thời, ngoài tài văn võ tuyệt học bí thuật, ông còn là bậc nho y lý số rất giỏi toán dịch, chiêm tinh như thần. Ngày sinh Giáng Tiên, ông lên ngọn núi xem sao, tính cả toán dịch, đã biết rõ người chồng của con gái là ai.

                    Nên mới vẽ mấy bức tranh để lại, treo đầu giường Giáng Tiên, bức chính vẽ miền Thủy Tiên cung, nhà treo, hoa nở, có một chàng tướng núi ngang tàng nằm mọp trên lưng ngựa bờm sư tử lạc tới động phủ, ngày... tháng... năm rõ ràng.

                    Trước khi chết, ông chỉ bức tranh tướng núi nằm lưng ngựa, cho biết đó là chồng Giáng Tiên.

                    Tranh còn kèm một bức hình bán thân họa khuôn diện một chàng trai uy võ. Giáng Tiên ngồi đợi duyên lại. Quả nhiên đúng ngày, đúng tháng, năm đó, năm nàng vừa hai mươi theo đúng lời ghi chú, có một tướng núi đeo sung, lạc tới động phủ: Ngựa bờm sư tử, cặp súng trễ sườn, vai dắt gươm, quần áo chàm, mặt mày giống hệt người trong tranh vẽ. Đó chính là Thần xạ vô địch cưỡi con Hắc Phong Câu, bị phục kích, chạy lạc tới. Giáng Tiên chạy chữa cho "người

                    chồng tiền định". Lúc chàng tỉnh, nàng trỏ tranh vẽ hai mươi năm xưa cho hay tự sự bàng hoàng. Thần xạ cùng Giáng Tiên đính hôn, nhưng đính ước xong chàng lại phải ra đi. Nào hay đường đời xoay chuyển, nàng hi sinh cho phu quân kết duyên cùng Trần Phượng Kiều để trả thù hai họ, còn nàng lẻ loi chiếc bóng sống nơi động thẳm với hình ảnh "người chồng chưa bao giờ cưới" đếm từng mùa lá rụng thâm sơn/

                    - Chắc em lạ tại sao ta sống được? Đó là vì em chưa yêu! Nếu yêu tuyệt vời em sẽ rõ tình yêu tuyệt

                    - Nhớ! Dọc hàng một kia, bắt đầu vào thế chiến Liên Hoàn. Ngũ Quỷ vây quanh địch thủ theo hình ngũ giác một, hai, ba, bốn, năm. Đứa bé số một, nữ ánh lửa tình thiêng liêng đó không đủ sưởi ấm lòng ta sao? Đó mới thực là tình yêu thuần thành.

                    Võ Minh Thần chỉ còn biết cúi đầu kính cẩn cảm phục tấm lòng thanh cao của nữ chúa ngàn, nhưng chàng trai tự nhiên khẽ thở dài nghĩ thầm:

                    - Duyên lai kỳ dị, đẹp như tình sử dệt bằng hoa gấm! Nhưng dẫu sao đoàn tụ vẫn hơn, sống cô độc với mối vọng tình sao cho khỏi lạnh lùng mang mang. Như mình đây, mang di hài, hình bóng mẹ trên vai, trong lòng, sao bằng nếu được thấy mặt, nghe giọng nói, được hầu hạ sớm khuya...

                    Tuy nghĩ vậy, nhưng Võ chẳng dám hé môi gợi sầu cho bà chúa. Tiệc tan, hai thầy trò về nghỉ. Tối đó lại được mời dự tiệc với hang động, bà chúa cho tổ chức dạ hội mừng khách phương xa, có cả rượu cần, ca hát. Trong tiệc, các nam, nữ tướng Thanh Âm thay nhau chúc mừng thượng khách, tình thật thắm thiết, khác hẳn lúc đầu, Sơn Đầu, Hồng Thần như chỉ muốn nuốt tươi kẻ lạ. Minh Thần, Quản Kình từng giao tiếp với dân rừng nên cũng không lấy làm lạ. Nếu nghi ngờ, coi ai là địch, dân thâm sơn thường xử rất dữ, nhưng khi coi là bạn, khách lại hết lòng quý mến, không tiếc thứ chi, kể cả dám đem sinh mạng ra giúp khách. Các sắc dân Thanh Âm vốn tôn sùng bà Chúa Ngàn như thần linh, xưa nay lại het sức tôn kính vị chúa Mười Vạn Núi Vân Nam, giờ biết hai khách lạ được chúa núi coi như thân thích nên ai nấy đều một dạ tin yêu. Nhờ vậy, hai thầy trò cũng thấy lòng ấm lại sau những ngày lận đận gian lao khắp mấy rưng già hoang liêu đầy bất trắc. Gần nửa đêm, dạ hội mới tan, Võ Minh Thần, Quản Kình cưỡi cọp theo Giáng Tiên chúa ngàn, Peng Lang nữ tướng Thổ, Theng Phai nữ tướng Hồng Thần cùng đám bộ tướng về khu Phượng Hoàng dinh. Gio rừng khuya lạnh ngắt. Vừa tới ngang khu nhà khách, thình lình nghe có tiếng quát tháo lanh lảnh lẫn tiếng thú dữ gầm gừ, lẫn cả tiếng binh khí quật chan chát.

                    Vẳng rõ tiếng cô gái quỷ, Minh Thần không khỏi thất kinh kêu lên:

                    - Trời, cô ta đã tỉnh... đang làm dữ. Đoàn người thú vọt vào khu nhà khách. Giáng Tiên, Peng Lang, Minh Thần đi trước. Quả nhiên vừa tới cổng sàn treo dòm vào, đã thấy cô gái quỷ cầm cây búa đang quần thảo với mấy nàng sơn nữ, trong nhà ngoài hiên lố nhố gái Hồng Thần, Thổ, Nhắng. Thì ra thuốc trị thương của bà chúa Thanh Âm vô cùng thần hiệu, vết thương đang ngậm miệng không còn đau nhức mấy, bà Chúa lại dùng thủ thuật, linh đơn điều trị trong khi nàng ngủ tựa lối chữa của Lãn Ông tái thế. Bất ngờ cô gái đã choàng tỉnh, sưc nhớ chuyện ngộ nạn, thấy gái Hồng Thần, Thổ, Nhắng, chụp búa chém liền, phá chạy. Bọn sơn nữ phải ùa vây cản lại, giải thích, nhưng nàng ta không tin, đang quần thảo thì mụ Mán Tiền chạy tới. Bọn đàn bà rừng này toan tay giỏi võ nhưng không cự nổi cô gái quỷ, nàng ta chém nhầu một búa, nhảy vọt qua cửa sổ trông ra sân, con beo lướt tới, nàng

                    ta thót lên lưng, mấy con thú trấn quanh khu này cũng phóng tới gầm gừ. Võ Minh Thần thấy thế toan tạt vào can, nhưng Giáng Tiên đã ngăn lại:

                    - À cô em này có căn lắm! Thương tích chưa lành đã xông xáo mạnh dữ, có lẽ trong mình nàng điện khí súc tích khác người nên tỉnh sớm hơn dự tính.

                    Minh Thần chỉ lo xảy chuyện chẳng lành, nhưng Giáng Tiên cứ đứng cổng nhìn vào. Bỗng "chát chát", liền hai nàng sơn nữ bị cô gái quật bay dao quắm. Cô gái múa tít cây búa, nhảy vọt qua đầu một con cọp vằn, lao vụt ra cổng nhanh như tên bắn. Sực thấy bóng người lố nhố chặn lối, cô gái hết lên một tiếng, giục beo phóng thốc tới, chém vèo búa vào đầu Giáng Tiên. Minh Thần đứng xế sau khuất cành xòa giật mình la lên "khoan" dợm xốc thú xông lên cản.

                    Nhưng không kịp nữa! Con beo đen đã lao vút ra, chân cách mặt đất hơn thước tây, lưỡi búa sáng quắc đã bổ xuống đầu Giáng Tiên. Bà chúa vẫn đứng im, chỉ thấy đến loáng một cái, cả cô gái, con beo, tay búa đã dừng phắt lại, sát bà chúa, rồi cứ thế rớt xuống đứng sững như hình nộm nhồi trấu, tay cô gái vẫn còn giơ cao chực bổ.

                    Thầy trò Minh Thần kinh dị hết sức, nhất Minh Thần lại đứng xế bên bà chúa, tuyệt không thấy bà ta phác một cử động nhỏ. Đến nỗi khi cô gái, beo rớt xuống, không ngã, chàng vẫn tưởng nàng gò lại, chừng dòm kỹ mới thấy bốn mắt trợn trừng bất động như mắt bi ve, Võ mới kinh sững bật kêu khẽ:

                    - Trời! Sao lại thế kia?

                    Vừa kêu chàng vừa lật đật tiến lên dòm kỹ, ngoái lại hỏi:

                    - Nàng bị điểm cách không? Nhưng em đâu thấy cử động?

                    Bà chúa tiến vào, bọn bộ tướng nữ cũng ùa tới xung quanh. Bà chúa mỉm cười, thánh thót:

                    - Không phải điểm huyệt bằng chỉ phong! Điểm chỉ cũng phải động thủ, địch thấy. Đây thuộc "Mê hồn công bí pháp", gọi "Thần công phù", "Mê công phù". Bí pháp này cũng tựa như đòn "Khẩu phong lôi" thần công của Thần Xạ vô địch soái gia Thập Vạn, nhưng "Khẩu phong lôi" chủ dùng uy lực sấm sét, còn "Thần công phù" chủ dùng kình khí. Đây cũng là một bí pháp môn "Vô ảnh công" hạ địch không cần động thủ.

                    Nghe mấy tiếng "Mê hồn", "Vô ảnh thần công", Minh Thần bất giác rúng động tâm can, vì chàng đã được nói qua về bí pháp thượng thừa này, nhưng chưa kịp nói lời nào, thì đã xây xẩm mặt mày đứng ngây ra như tượng gỗ, không biết gì nữa.

                    Quản Kình thấy thế, phát ghê thay bí pháp của bà chúa ngàn. Kình vừa tiến lại bên chủ, thì Minh Thần lại tỉnh, cử động được như thường.

                    - Kỳ diệu! Kỳ diệu! Như trong cơn mê...

                    Giáng Tiên mỉm cười, bảo:

                    - Còn cô em này, nên vực vào nhà bệnh cho tĩnh dưỡng qua đêm! Minh Thần thưa:

                    - Xin cho em kể qua cuộc hạnh ngộ này đã! Lời vừa dứt, đã thấy cô gái chớp mắt tỉnh như cũ, tay búa khoa len, con beo cũng gầm gừ lùi lại.

                    Cô gái hét lên một tiếng, chém luôn Giáng Tiên. Minh Thần xốc tới, giơ tay hô:

                    - Cô nương! Chớ vọng động! Chưa trông thấy mỗ sao? Đây là bà chúa động Thanh Âm ân nhân cứu tử đó!

                    Cô gai dừng tay, ngơ ngác nhìn thầy trò Minh Thần, chừng trí giác vẫn mông lung, mấy khắc mới kêu lên:

                    - Kìa thầy trò trai điển! Sao lại ở trên mây? Đây là đâu? Dương gian hay âm phủ? Tôi bị đạn... tưởng vong mạng! Quỷ cà kheo, Ma Quân Bá Diện đâu?

                    Vừa hỏi nàng ta vừa liếc xuống miền thung lũng sâu hun hút mờ trăng sương, rồi ngó vùng nhà treo kỳ lạ. Biết nàng mê mê tỉnh tỉnh từ khi bị đạn gục, nay sực thấy cảnh trí "khác phàm" còn ngỡ ngàng, nên Võ Minh Thần vội ứng tiếng kể qua mọi chuyện, đoạn trỏ Giáng Tiên bảo:

                    - Bà chúa, chính bực ngu mỗ vẫn đang lặn lội đi tìm, nay trời run rủi gặp, bà rất thương ta mang thù phụ mẫu chưa báo nổi.

                    Cô gái nhìn sững Giáng Tiên. Dưới ánh trăng, vẻ đẹp uy linh phảng phất nét huyền bí trong lớp xiêm y tiên cô, hai con mắt phượng long lanh biếc như hai vì sao sáng trong đêm tăm tối, làm nàng ta vụt sinh lòng kính phục, bao nhiêu tính bướng lạ đời chợt biến đâu mất. Phúc chí tâm linh, nàng ta bỗng trở nên ngoan ngoãn khác thường, vùng cầm ngang cây búa, nhảy tót xuống phuc luôn, dập đầu thỏ thẻ:

                    - Gái mồ côi này ôm hận từ buổi lọt lòng, mẹ cha bị hại, một thân lủi thủi đường đời, đầu óc hoang mang, tâm hồn đen tối, ngờ vực loài người, nhìn ai cũng thành quân độc ác nham hiểm, thấy gì cũng tưởng âm mưu... nên gặp bực cao nhân không rõ, có khi ngạo mạn, xin cả lòng bao dung cứu vớt, thật cam chịu tội thất lễ, dám mong bà chúa rộng tình tha thứ.

                    Có lẽ lần đầu tiên từ đêm gặp gỡ, thầy trò Minh Thần đem nay mới nghe cô gái dạ xoa này mở miệng nói những lời lễ độ khiêm tốn dịu dàng đến thế, giọng nàng nói tiếng Thổ lại líu lo trong vắt như tiếng chim phượng, thấy hoàn toàn khác hẳn bộ mặt Chung Vô Diệm, làm thầy tro Võ cũng thấy lạ tai, nhưng lòng thấy thoải mái. Cả bà chúa Thanh Âm cùng đám nữ bộ tướng miền núi nghe động lòng, bà chúa nhảy xuống đỡ nàng lên, dịu dàng ngậm ngùi bảo:

                    - Không nên quá thủ lễ! Chuyện khổ của em ta đã biết qua! Nay tình cờ cùng Minh Thần lạc tới đây, âu cũng là duyên kỳ ngộ. Em cứ an lòng tịnh dưỡng cho mau hồi phục. Đáng lẽ phải một đêm nữa mới khô, ba ngày nữa miệng vết thương mới liền, bắt đầu ăn da non, nhưng sức em dồi dào, tỉnh dậy vận công quá sớm, vết thương có thể lại bật máu, lực hao mòn, người bị chấn động đó. Thôi! Hãy vào nhà nằm! Peng Lang! Hãy ở lại đây làm bạn với nàng.

                    Nói đoạn bà chúa quay từ giã Minh Thần, về biệt dinh. Nào ngờ cô gái quỷ vừa cúi đầu chào, bỗng la lên một tiếng, ôm ngực, lảo đảo ngã dụi xuống. Bà chúa lẹ tay đỡ ngay được, bồng thốc lên, nói gọn:

                    - Vết thương tái phát! Đoạn đem thẳng vào nhà bệnh, đặt nằm ngửa trên giường mây, thoăn thoắt cởi áo, cởi băng. Thầy trò Võ thấy thế vội lảng ra ngoài thềm. Quả nhiên vết thương ra máu xối xả, cô gái nằm mê man. Bà chúa vội truyền Peng Lang sang dinh lấy ngay túi y dược linh đơn, đổ

                    thuốc bột vào vết thương cho cầm máu, đoạn cho uống linh đơn. Xong xuôi, kéo chăn đắp cho nàng. Minh Thần nhẹ bước vào, lo ngại hỏi:

                    - Chẳng hay có nguy lắm không?

                    - Cũng hại, nhưng không sao đâu! Thương thế cũng nông, thuốc rất hiệu! Lần này cho nàng ngủ ba ngày ba đêm! Thôi! Em cứ về ngủ cho khỏe!

                    Thầy trò Võ Minh Thần tiễn bà chúa ra tận sơn đạo mới quay về nhà riêng. Rượu ngà ngà, lòng mừng gặp kỳ nhân, cả hai không ngủ ngay được. Chàng trai nghĩ mông lung xa gần. Đem di hài mẫu thân ra, thắp hương khấn vái lâm râm. Quản Kình lấy đen cầy ra nấu nước pha cà phê, trà tàu ướp sói, ngồi nói chuyện mãi mới đi nằm.

                    Gió cao sơn ru hồn hai người đàn ông phong trần vào giấc ngủ mang mang.

                    ... Sáng hôm sau, hai người tỉnh dậy lúc bình minh. Đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài đã thấy mây hồng lơ lửng ngoài trời, chim kêu vượn hú véo von, gió mát lạnh như gió xuân, không giá buốt như mùa đông ngoài biên thùy. Phương đông ửng hồng, báo hiệu một ngày đẹp trời.

                    Hai người chưa kịp nấu nước uống, đã thấy gái hầu đưa tới gặp bà chúa động Thanh Âm. Bà chúa ngàn ánh mắt đầy thương mến, dịu dàng bảo:

                    - Tây Sắc Ma Vương luyện ma pháp, rất giỏi kỳ môn dị thuật. Ngoài trí lực phi thường, cứ mỗi một con trăng, lại tăng gấp bội. Em muốn báo thù, phải thạo nhiều môn. Hãy ở đây, chị sẽ truyền cho mấy pháp môn bí thuật rừng sâu cùng kỳ công Thanh Âm động.

                    Võ Minh Thần sụp xuống làm lễ tôn sư, nhưng bà chúa đỡ lên, bảo:

                    - Phu quân chị coi em như nghĩa đệ, chị không là chị của em được sao? Em còn cần học nhiều kỳ môn, cứ gì phải tôn sư mới được.

                    Ngay đêm đó, bà chúa ngàn bắt đầu giảng dạy về bí thuật rừng thẳm, lại vì Tây Sắc bị ngờ là con tinh Hong Cẩu Quẩy, bà chúa giảng cho Võ nghe rất kỹ về các giống tinh, các loại trành, xó rừng thiêng. Theo truyền ngôn thâm sơn, các giống ác thú cứ vồ hơn trăm người ăn thịt đều linh mẫn, thành tinh được, bất luận hùm beo sói.

                    Bà chúa Thanh Âm truyền các khẩu quyết, phép tắc phù chú, hô ma, bắt hồn, luyện xó, gà, quỷ xó, cùng các chú linh đánh ma xó, quỷ xó. Lại dạy các dị thuật về chài ngải, trù ếm, chống bị trù ếm...

                    Mở đầu về ly thuyết, ngôn từ khẩu quyết, cách thức, thứ đến thực hành, hòa ôn các điều đã dạy. Học được ba ngày thì cô gái quỷ tỉnh dậy, hồi phục, vết thương ăn da non.

                    Bà chúa lại cho nàng uống mấy viên linh đơn gia truyền, khỏe trông thấy.

                    Sau hai, ba ngày nữa, khi biết Võ Minh Thần bắt đầu được chúa Thanh Âm truyền bí thuật, cô gái hiện nét mừng cho Võ, pha trộn ít u hoài, bảo:

                    - Thiếp sinh ra trong một chiều mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, cha mẹ đang chạy nạn, đẻ rơi trong quán nước bên đường hồ Ba Bể. Cũng như đại huynh, không biết tên. Đêm được ân sư cứu vớt, đem đi khắp sơn lâm giang hồ. "Người" thường ôm thiếp, nựng đùa là "gái bạc mệnh của bà đây", rồi bà đặt tên thiếp là Giao Long nữ để ghi nhớ đinh ninh kẻ hại mẹ cha là thuồng luồng tinh hồ Ba Bể. Lại còn tên là Bạc Mệnh Nương, lấy họ Bạc vì "người" chỉ nghe chúng kêu "Bạc công chúa". Thiếp rất ưa tên này, hợp với mạng số lọt lòng đã khổ. Thù riêng canh cánh, lòng oán đàn ông, khinh thường giống đực, mang ơn huynh mấy lan cứu giúp mới thoát nạn dữ. Nay huynh đã tìm được danh sư học thuật. Vậy thiếp có lời mừng và xin bái biệt!

                    Tần ngần, Võ hỏi:

                    - Giờ cô nương tính đi đâu?

                    Giọng buồn rầu, cô gái lạ khẽ đáp, mắt nhìn đám mây trắng trôi trên không:

                    - Thù nhà chưa báo nổi, thiếp định đi tìm bậc danh sư học thuật quyết sao giết nó, rửa nhục thù song thân. Mây trôi trên trời còn biết dạt về đâu, nhất định...

                    Chàng trai ngó nàng, lòng ngậm ngùi suy nghĩ, chợt bảo:

                    - Giao Long chúa lợi hại kém gì Tây Sắc. Bà chúa Thanh Âm tài thuật dị thường, danh sư nào vượt nổi? Để ngu mỗ xin "người" dạy cô nương. Cô gái mừng hết sức, nhưng lại e bà chúa không nghe.

                    Võ Minh Thần lập tức đi kiếm bà chúa ngàn ngỏ ý xin bà dung nạp cô gái đồng cảnh ngộ. Bà chúa có vẻ ngẫm nghĩ, dè dặt, sau Võ nói mãi, bà ái ngại cảnh gái côi, bèn nhận lời dạy cả cho nàng.

                    Mừng rỡ, Minh Thần vọt chạy đi báo tin cho cô bạn Dạ Xoa, dẫn nàng vào bái tạ.

                    Từ đó, cả ba người cùng được bà chúa Thanh Âm dạy bí thuật. Giao Long Nữ Bạc Mệnh Nương tuy rất xấu nhưng lại thông minh, chịu gian lao cơ cực rất giỏi nên vẫn theo kịp Minh Thần, riêng Quan Kình tài trí kém hơn nên không theo kịp. Nhưng Quản Kình lập phò tiểu chủ, cố học tập, bà chúa lại cử Peng Lang kèm thêm, lúc rỗi, Minh Thần cũng bảo, nên cũng theo tạm được.

                    Nhờ tinh lực, thần khí tạo uy lực sẵn trong người, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ học bí thuật rất có kết quả.

                    Bí thuật rừng của bà chúa ngàn lại có nhiều điểm thần bí, có hiệu lực mạnh hơn cả bí thuật Pi A Ya, nên chỉ sau mấy tháng bọn Minh Thần đã thành pháp sư rừng có hạng.

                    Bà chúa Thanh Âm lại bắt đầu truyền bí thuật bí pháp thu phục sai khiến mãnh thú. Từng loại hùm, tây, tượng, gấu, lợn lòi, chồn cáo... nhất nhất bà đều truyền dạy cho. Trước Võ đã học được phép thu dụng sai khiến sói, ngựa, nay mới rõ thu phục các loại dã thú kia còn khó hơn nhiều.

                    Các giống này, mỗi giống đều có "ngôn ngữ" riêng, và nhiều giống dùng biểu tượng thay ngôn ngữ... Các giống này thường kém linh mẫn hơn chó sói, lại sẵn tính hung dữ của dã thú. Nói chung không chịu khuất phục, ưa sống tự do, vô kiềm tỏa. Giống sống có đàn như voi còn dễ, giống quen sống đơn độc như lợn lòi, rất khó. Lợn lòi đần, cục, thật khó bảo.

                    Nhưng bí thuật Thanh Âm vốn là một "khoa dạy thú" thần tình bí truyền từ xưa, bọn Võ lại sẵn thông minh, uy lực, võ nghệ, nên lãnh hội được het, tuy lúc thực tập không kém phần nguy hiểm. Khi thu dụng được giống nào, cũng đều phải cho tay vào mõm nó, thử sức phục tòng, nếu có dở chứng bất ngờ, còn liệu. Vì thú dữ cũng như người, có con mắc bệnh điên vì thần kinh, vì ăn phải chất độc, phát tác không lường. Nên nghề sai khiến thú dữ vẫn có những chuyện bất ngờ, chết như bỡn.

                    Bà chúa Thanh Âm còn dạy cả cách phòng hờ đủ trường hợp, mọc, đem ninh hầm với

                    súp lơ, su. Cái món Tàu Ta ô hợp, để ăn sau cùng chắc Nam thích lắm. Bữa nay có cả xôi đồ trứng kiến cho lạ miệng. Các cụ vẫn như các loài ong, rắn rết, dơi dơi, bọ cạp, còn khó hơn cả thu phục mãnh thú một tầng.

                    Bữa kia, bà chúa gọi mấy người lại bảo:

                    - Phu quân ta bên Vân Nam gửi em sang có ý bảo ta truyền bí thuật để chống cự lại con tinh chúa có tà pháp chó đàn, trành dữ. Nay các em đã thông bí thuật pháp môn, không còn ngại đàn Hồng Cẩu Quẩy, trành, cùng tà pháp khí yêu của nó nữa. Nhưng xét ra vẫn còn thiếu nhiều món cần thiết vì Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy tinh và Giao Long chúa đều là hai con tinh chúa lợi hại hết sức. Như Tây Sắc có vầng huyết khí, Giao Long cũng có luồng vuốt khí móc thủng được cả giáp sắt, chưa rõ là pháp môn chi. Bàng môn tả đạo? Huyền môn kỳ bí thuộc võ học bí mật? Bất biết. Nhưng nó phải có uy lực phi thường, hai em có đến gần nó cũng chưa lấy gì hạ thủ. Nên còn phải học nữa. Nay ta có môn kỳ công bí pháp trấn sơn bí mật lưu truyền trong dòng sơn chúa Thanh Âm động, xưa nay chưa hề truyền ra ngoài. Lòng ta rất chua xót thương hai em chịu nỗi nhục quá lớn, nay ta mật truyền cho hai em, Quản Kình, đồng thời

                    truyền cho Peng Lang, khá luyện cho kín đáo, chỉ khi nào khẩn cấp mới dùng đến. Đó là "Mê Hồn công" và "Mê Công phù", thuộc huyền môn "Khẩu phong lôi". Đòn này vô ảnh vô hình, rất lợi hại, làm địch trở tay không kịp, nhưng phải giữ thật kín mới đắc dụng.

                    Bọn Minh Thần cảm kích khôn cùng. Từ đó, cả năm người gia công tập luyện môn kỳ công kỳ bí này.

                    Nguồn gốc là các thứ hương kỳ hoa dị thảo, tổng hợp lại là một thứ "Mê hồn hương" vô cùng hiệu nghiệm, chỉ ngửi thoáng chút, mê liền. Khác hẳn các loại mê hồn hương của giới hac đạo, hương mê này gốc ở hoa, người nằm ngủ trong buồng kín, hít phải, sẽ ngủ luôn giấc ngàn năm. Đặc biệt đây có mấy loại hoa thơm như thủy tiên, các loại lan rừng, hoa sói... rất sẵn tại động Thanh Âm.

                    Hấp thụ các tinh hoa, tinh thảo vào người cho hòa hợp tụ kết rồi phát ra theo luồng điện kình, kích thẳng vào thất khiếu, các lỗ trong kia.

                    Xích Quỷ dòm theo tay Võ trỏ, cả lũ khua xiềng chạy ùa vào khu miếu sơn thần. Mùi thịt nấu nướng thơm lừng. Bữa nay Quản Kình còn giã tỏi ngất liền, mạnh có thể chết.

                    Nhưng Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Quản Kình, Peng Lang, đều đã chuyên luyện võ công, nên luyện kỳ môn rất thông. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ đã có thể thu luồng kình khí nhỏ như cái roi đánh thốc vào lỗ huyệt kẻ đứng cách năm, sáu thước, người đứng ngoài không nghe rõ tiếng động "vù" đi.

                    Thấm thoát đã hết xuân qua hạ, sang thu. Trời nổi gió vàng hiu hắt. Võ Minh Thần nhìn lá ngô đồng rụng, lòng sầu mang mang tưởng đến thâm cừu... chiều xưa trên biên thùy lá rụng trên đường quan san, trời cũng vào mùa tà huy vàng úa sơn lâm...

                    Một chiều, nghỉ luyện tập, Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, xuong thung dạo chơi, hai người thơ thẩn đến bên dòng suối giữa rừng, nhìn nước chảy nao nao dưới chân cầu tre, hai người cùng nóng lòng báo phục, nhưng chưa dám ngỏ với bà chúa ngàn. Lững thững leo lên đứng trên cầu mơ màng, Võ Minh Thần khẽ thở dài ngâm:

                    Ngô đồng nhất diệp lạc

                    Thiên hạ cộng tri thu

                    Tiếng chàng tuổi trẻ buồn hiu hắt nghe như ẩn chứa cả nỗi sầu thu mang mang từ vạn cổ.

                    Đứng bên, Giao Long Nữ tự nhiên khẽ thở dài, đìu hiu như hơi gió đầu mùa xào xạc lá ngô đồng bên khe. Bỗng cả hai hơi giật mình, nghe có tiếng đàn bà thánh thót bên tai trong vắt như tiếng suối đàn:

                    - Hai em muốn lên đường? Võ Minh Thần, Giao Long Nữ chưa kịp ngó lên đã thấy bóng hình thanh tú của bà chúa ngàn lung linh đáy nước, ngay cạnh Minh Thần. Cả hai xoay

                    mình lại chào, thoáng vẻ lúng túng, sững sờ trước thân pháp êm thoảng như gió của bá chúa trẻ đã nhìn thấu tâm can hai người. Võ khẽ hỏi:

                    - Nghĩa tỷ vừa tới? Bọn em mải ngắm cảnh không hay, thật vô lễ. Em thấy

                    lá ngô đồng rụng, lại nhớ mùa thu.

                    Bà chúa Thanh Âm dịu dàng bảo:

                    - Chị biết hai em nóng ruột muốn đi. Thấy lá mùa thu rụng lại nhớ đến thâm cừu. Chính chị đã định nói với hai em.

                    Đoạn bà chúa bước lại đứng giữa, đặt tay lên vai hai người, nghiêm sắc mặt nói luôn:

                    - Thần công bí thuật mênh mông, không lấy chi định được đạt thành. Nhưng tài nghệ hai em nay cũng có thể đương đầu với kẻ thù cùng bọn quái nhân dị vật trên giang hồ, rồi sẽ tùy cơ ứng phó luyện tập thêm mãi. Tuy vậy, Tây Sắc tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy cùng Giao Long chúa tiếm xưng hồ Ba Bể đều là quân lợi hại, tài thuật của chúng e ngày càng gia tăng nhờ luyện được bí pháp chi đó, nên hai em phải thận trọng lắm mới được. Ấy là chưa kể đến chuyen chúng đều có trảo nha độc vật hàng đàn, nhiều con sử dụng được cả súng. Vậy trước khi đối đầu, hai em phải luyện ngay mấy môn cần thiết nữa mới có thể tìm gặp chúng được.

                    Cả hai cúi đầu lĩnh ý. Ngừng mươi giây, bà chúa ngàn lại bảo:

                    - Phải thu phục độc vật, mãnh thú. Càng nhiều càng tốt. Nhưng không phải luôn đem theo bên mình, mà là tới đâu thu đấy, rồi lại thả nó lại một vùng rừng núi nào đó, rải khắp nơi, càng nhiều càng hay, đặc biệt quanh miền sào huyệt chúng, phòng ứng dụng bất cứ vùng nào gặp chúng thình lình. Và chỉ đem theo mình ít con tinh thục nhất. Lưu ý đặc biệt khỉ vượn là vật do thám, ong, rắn rết, bọ cạp, dơi, các loài nhỏ để bỏ túi đem theo. Phải luyện quỷ xó, ma gà, ít nhất là một cặp thật dữ.

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ xin tuân. Bà chúa ngàn lại tiếp:

                    - Chưa hết! Hai em còn phải luyện một môn cần thiết để phòng thân, phòng dùng đến khi vào vùng sào huyệt chúng. Lui, tẩu càng đắc dụng. Kìa! Hai em hãy nhìn lên đỉnh núi Đông! Thấy gì không?

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ dòm theo tay bà chúa trỏ, chỉ thấy rặng núi ngất trời xanh, sương mờ chăng từng dải.

                    Còn đang ngạc nhiên, sực nghe tiếng bà chúa gọi, hai người quay lại, sững sờ chẳng thấy bà ta đâu nữa. Rõ ràng bà ta vừa đứng giữa hai người va mới lùi lại sau chút. Hai người ngơ ngác dòm quanh. Khu suối thưa cây cối, vài cây tùng bách xum suê, mấy khóm hoa rừng, ít cây ngô đồng... rải rác, gió thu rì rào, sương mờ khí đất...

                    Cả hai vội tìm quanh bờ, nhìn kỹ bụi cây, tán lá, vẫn chẳng thấy, chợt nghe tiếng bà chúa ngàn cười khanh khách, rồi dáng hình rực rỡ tiên cô từ trong một khóm sương mờ đặc vọt ra như một trò quỷ thuật. Bà ta cười bảo:

                    - Đây là thuật ẩn thân. Dùng khói sương che kín mình như dùng tạc đạn

                    khói mù.

                    Minh Thần trầm trồ:

                    - Thuật này, chính tôn sư em đã dùng khi cứu em, che mắt con tinh cùng đàn "quỷ mắt đỏ" như rươi. Người bảo em chưa nên học vì hao đằng mồm, lọc lấy dưỡng khí. Thở bằng lỗ chân lông, hút dưỡng khí vào phổi. Ở cả ngày dưới nước cũng được.

                    Minh Thần khen:

                    - Thích nhỉ! Nếu địch biết nó đánh thẳng vào, khó đỡ, vì chính mình cũng không thấy rõ nữa. Nhưng hai em đã học "Mê hồn công" rồi, không sao. Và lại có khói nhân tạo dự vào. Điều khó là làm sao khói không có mùi lạ

                    Dứt lời, bà ta lấy trong mình ra một ống sắt tây bằng hai ngón chân cái đưa cho hai người coi:

                    - Ống này chứa một thứ khói có mùi cây được chế luyện đặc biệt, không tỏa cao, không loãng mau, màu giống hệt sương mù. Để phòng khi vội, chưa kịp tiết khí hàn trong người ra. Đã sẵn điện công học mau lắm, mặc dầu đây là một bí pháp khác thường. Chị sẽ truyền cho, cả cách chế khói nữa.

                    Minh Thần, Giao Long Nữ mừng khôn xiết, lòng cảm kích chẳng nói nên lời. Tưởng hết, nhưng bà chúa đã ra hiệu lên cầu, trỏ xuống nước bảo:

                    - Còn một món quan hệ nữa! Không gioi, hai em không thể tới sào huyệt được. Bơi lội, lặn hụp. Nhất Giao Long Nữ, kẻ thù là loài thủy quái. Cả Giao Long chúa lẫn Tây Sắc, cung động chính chắc chắn ở dưới nước. Hoặc ít nhất đường vào cung động chúng cũng ẩn chìm dưới nước. Nên chưa ai khám phá

                    được sào huyệt nó. Sông hồ sâu thẳm đã che kín miền phủ động. Nếu không bơi lặn giỏi, tới sao nổi?

                    Cả Minh Thần, Giao Long Nữ đều cho biết đã bơi khá. Minh Thần lại được Hải Sơn Vương Voòng trùm hải tặc và cả chúa Mười Vạn Núi luyện thêm. Nhưng bà chúa lắc đầu:

                    - Riêng đối đầu với hai con tinh chúa, nghề bơi đó đâu đủ. Không kể chuyện vùng vẫy, hai em phải làm sao lặn hụp dưới đáy sông hàng giờ, hàng ngày mới được. Đeo bình dưỡng khí, lộ ngay. Cắm ống cao su càng bất tiện mà nguy hiểm. Nếu bị cắt ống, vây hãm dưới sâu, chac sẽ chết ngạt. còn gì quan hệ hơn?

                    Võ Minh Thần chép miệng:

                    - Bọn này thấy các bạn vui chơi vùng vẫy thèm hết sức! Nhưng bọn này còn chuyện quan hệ hơn, chưa thể chỉ mười lăm phút. Em luyện gắng, có thể lâu

                    gấp đôi là quá rồi. Sao nhịn thở hàng giờ, hàng buổi?

                    Bà chúa Thanh Âm gật đầu:

                    - Em nói đúng! Sức người tài đến mấy cũng khó lòng nhịn thở được hàng giờ dưới nước. Nhưng xưa Quận He, Bá Vành lặn dưới nước cả buổi, nhờ tài thuật nào? Quận He Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa đánh chúa Trịnh có lần bại binh, thuyền chiến đắm hết, bị Phạm Đình Trọng vây kín tại Cửa Lộc, Quận He phải nhảy xuống sông chạy trốn. Cửa Lộc ngã ba rộng mênh mông, thuyền chiến trieu đình đậu như lá tre. Phạm Đình Trọng đích thân cùng các tướng ngồi thuyền nhẹ xuôi ngược dọc sông, trên bờ quân kỵ quân bộ đóng dài, tất cả chỉ đợi Quận He hết hơi trồi lên là xạ tiễn. Nhưng hàng giờ, rồi cả ngày đêm không thấy tăm dạng Quận He đâu. Nguyễn Hữu Cầu đã lặn sát lòng sông, và đã bơi một mạch từ Cửa Lộc ra tận cửa Ba Lài.

                    Phan Bá Vành khởi nghĩa chống triều đình nhà Nguyễn Minh Mạng, làm rung động cả đất Bắc. Có lần bại binh bị quân triều rượt theo bén gót, Bá Vành hết đường chạy, cứ thế một mình chạy ra bể Quất Lâm. Quân triều thấy Bá Vành chạy tới bãi là mất hút. Lúc đó mặt biển vắng hoe, không một bóng thuyền mảng. Quân trieu sục sạo cả ngày đêm, không thấy, đành rút đi, tưởng Bá Vành đã chết chìm. Nhưng chính Bá Vành đã trầm mình xuống cát sát lợi nước. Thủy triều lên, Bá Vành lại một mạch ra khỏi đám mảng, chạy về vịnh Hạ Long, họp giac khách, du đãng, lại nổi lên đánh phá. Và lần thoát khỏi quân triều đình, Bá Vành đã lặn sâu dưới nước nhiều giờ. Cũng như tại nước Nam ta, thỉnh thoảng vẫn có một dân thuyền chài có tài lặn hụp mấy giờ liền mới troi lên, trước khi lặn uống hàng bát nước mắm cho khỏi thiu người.

                    Vậy Quận He, Bá Vành, các bậc kinh nghệ tưởng cũng như Yết Kiêu, Dã Tượng đời Trần kia, đã lặn dưới nước sâu hàng buổi phải chăng nhờ thiên tài

                    nhịn thở? Không phải! Vì dầu có tiết kiệm không khí đến mấy, thì hai buồng phổi không khí có sẵn cũng không nuôi nổi bộ máy tuần hoàn hàng giờ.

                    Vậy muốn trừ kẻ thù, hai em phải thật thông thủy tính, giỏi nghề độn thủy mới được. Phải tìm học bí thuật độn thủy, vùng vẫy lặn cả ngày không cần lên mặt nước.

                    Võ Minh Thần, Giao Long Nữ ngó nhau. Cả hai đều thấy rõ lời bà chúa ngàn rất chí lý. Giao Long Chúa là thuồng luồng tinh, loài thủy quái chúa tể dưới nước, động phủ nhất định phải dưới hang sâu vụng thẳm nào đó. Còn Tây Sắc Hồng Cẩu Quẩy, chính Đổ Bác Thần, Nam Khấp cung từng cho chàng biết cung động Ma Vương tứ túc này cũng dưới nước, hay ít nhất cũng trong lòng hang động sâu thẳm nào, mà cửa vào ẩn chìm dưới bao nhiêu thước nước. Và tất nhiên còn kèm theo lắm thứ nguy hiểm quanh đáy nữa, không có tài lặn hụp vùng vẫy như Giao Long thì vào sao nổi. Chàng trai chép miệng nói như than:

                    - Ân tỷ dạy thật đúng. Nhưng trên đời này chúng em biết tìm đâu bực cao

                    nhân có bí thuật kỳ diệu đó?

                    Nghiêm sắc mặt, bà chúa ngàn khẽ gật đầu, thánh thót:

                    - Có! Chị biết trên đời này, có kẻ biết bí thuật đó. Không xa đâu, ngay tại miền thượng du đất Bắc này, và không chừng cũng chẳng xa hồ Ba Bể là bao. Kẻ này độn thủy còn ghê hơn cả loài Giao Long. Nếu được y dạy, các em có thể coi như các cõi sông hồ vụng dữ nhất đã nằm trong lòng tay. Nào dè Ngũ Quỷ bị rớt kiếm giận như điên, chụp lấy kiếm, nhảy ùm xuống sông lặn mất tăm. Quản Kình sợ bầy quái nhân này bỏ đi luôn, nhưng Giao Long Nữ sức báo cừu rửa nhục, nguy

                    mấy, khó mấy cũng không hề gì. Xin ân tỷ chớ ngại.

                    Bà chúa nét mặt đượm bâng khuâng:

                    - Kẻ không sợ chết thường thành đại sự. Nhưng nếu chết vì kẻ thù, lại khác. Đằng này các em đi tìm thầy học thuật, báo cừu, mà chịu nguy mạng là điều oan uổng. Ta chỉ nghĩ thế thôi. Vì kẻ này cứ thấy bóng người là chỉ muốn giết, nói chi đến dạy.

                    Giao Long Nữ ngạc nhiên hỏi luôn:

                    - Thưa, có lẽ người đó hung tợn lắm sao?

                    - Gọi là người, không đáng. Vì y đã lạc nhiều nhân tính và y không ở trên mặt đất. Y ở dưới nước, đêm ngày lặn hụp vùng vẫy như loài cá. Gọi là cá cũng không đúng vì y có hình thể tứ chi ngu quan như ta. Có lẽ phải gọi là

                    "người rái cá" mới đúng. Vì y có hình người mà sống lặn hụp độn thủy suốt ngày như con rái cá. Ngừng giây phút, bà chúa ngàn chậm rãi bảo:

                    - Chưa ai rõ nguồn gốc, nhưng ta cứ tạm cho là người cho tiện. Vì rái cá nuôi từ nhỏ, hay vì thích nước, hoặc vì tiền thân thuộc loài dưới nước, hay vì một lẽ nào đó chưa rõ, y bỏ cuoc sống loài người, xuống nước sống như loài thủy tộc. Y thuộc loài máu nóng, mà lại chuyển dần ra như loài máu lạnh, lặn hụp dưới nước cả ngày không thiu người, cảm lạnh. Phải chăng cái gì làm nhiều quá cũng hóa quen? Khoan bận tâm! Có điều rõ nhất là: Y đã hấp với Đổ Bác Thần. Cuối cùng Quản Kình phải trổ hết ngón bịp ra mới đánh bại nổi Ngũ Quỷ.

                    Mặt trăng khuyết liền ngả bệch, gà rừng bắt đầu dưới đáy nước hàng ngày là thường. Y di chuyển dưới lòng sông, thuyền bè đi trên không hay. Có thể nói hai bốn giờ, y ở dưới nước tới mười bảy giờ. Và y chỉ thích ở các thượng nguồn, nước xiết, lắm đá ngầm, thác, vụng. Y cũng thích ở trên cạn. Có lẽ y là con rái cá hoặc giống kình ngư sinh lầm ra kiếp người? "Người rái cá" ấy là chúa tể bơi lặn, biết bí thuật hít nước lọc dưỡng khí, thở dưới nước.

                    Minh Thần nghe nói, lạ hết sức, lẩm bẩm:

                    - Thưa, hay kẻ đo tình cờ sinh ra có bộ phận đặc biệt giống mang cá? Bà chúa lắc đầu:

                    - Khi nghe dân gian đồn đại, ta cũng nghĩ như thế. Nhưng sau chính ta đã được thấy nhân vật thần bí này vọt lên bờ, ta được chứng kiến nhãn tiền, mới rõ y có bí thuật thở dưới nước.

                    Giao Long Nữ tò mò hỏi khẽ:

                    - Thưa đại tỷ, chẳng hay "người rái cái" bí ẩn đó... có danh tính gì chăng? Và hiện ở vùng nào?

                    - Dân chài lưới gọi là "Con Nam năm đầu", "Ngũ đầu Nam", còn khách

                    thương hồ gọi "Liên Hoàn Quỷ", "Ngũ quỷ liên hoàn".

                    Ngạc nhiên, hai người đồng thanh hỏi:

                    - Sao lại "Liên Hoàn", "Ngũ Quỷ"?

                    Bà chúa Thanh Âm không đáp ngay, vẻ trầm ngâm suy nghĩ giây phút, mới dịu dàng bảo:

                    - Ngũ Quy Liên Hoàn thường lặn lội khắp miệt sông rừng Bằng Giang, KỳCùng, sông Chảy, sông Lô, sông Gầm, Hắc Giang, sông Bờ... sông nước nào cũng nhởn nhơ lặn ngụp, có khi lại đi tới các vùng suối thác, thường tại các thượng nguồn sông, những khúc vắng người chảy giữa miền sơn lâm hùng vĩ.

                    Ta gặp cách đây mấy năm, tại thượng nguồn sông Lô, khúc gần biên giới Việt-Trung. Nay ta được tin Liên Hoàn Quỷ đã về vùng vẫy tại sông Gầm, nhưng hiện chưa rõ khúc nào, vì y thường di động như loài cá. Ta đã nghĩ ra cách khuất phục y, theo tâm tính. Các điều khác không kể, có đieu phiền phức nhất đối với em là được dạy tận tình, bọn Minh Thần luyện tập nghề độn thủy rất mau chóng, chỉ hết tuần trăng đó đã có thể thở dưới nước.

                    Ghe! Những đêm bọn em không biết chuyện đỏ đen, nhưng Quản Kình lại là vua cờ bạc bịp. Đêm nọ, Kình đã giúp em đánh bịp Đổ Bác Thần một canh mới thoát nạn. Đổ Bác Thần không ngờ tới.

                    Nữ chúa Thanh Âm cả mừng, tươi nét mặt:

                    - À vậy được! Bịp nổi Đổ Bác Thần là gớm rồi! Nếu vậy, tối nay hai em cùng Quản Kình đến biệt dinh, chị sẽ căn dặn các điều cần thiết. Nhưng chớ quên Liên Hoàn Quỷ cực kỳ linh mẫn, thấy bịp, sẽ hỏng việc ngay.

                    Minh Thần, Giao Long Nữ cúi đầu lĩnh ý, cùng nhau lên Phượng Hoàng dinh.

                    Ngay tối đó, ba người tới biệt thất bà chúa động Thanh Âm. Bà chúa bèn đem "Ẩn thân bí pháp" ra truyền dạy cho cả ba, tường tận từng ly từng tý. Từ đêm đó, bọn Minh Thần yên lòng ở lại Thanh Âm động, luyện thuận "ẩn thân", học luôn cả cách chế khói mù đặc biệt.

                    Lúc nhàn rỗi, trà dư tửu hậu, bà chúa ôn lại các điều đã dạy, và đem các sở học sở kiến ra truyền bảo, lại chỉ bảo cách thức đối phó với Ngũ Quỷ Liên Hoàn sau này. Lòng thành truyền dạy, đức bao dung của bà chúa ngàn tưởng người ruột thịt cũng không hơn, khiến bọn Võ Minh Thần nhiều phen cảm động đến chảy nước mắt, lòng đôi trai gái đơn côi này cũng vơi đi rất nhiều nỗi xót xa oán trời hận đất.

                    Thấm thoát đã vào giữa mùa thu. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Quản Kình đã luyện tạm xong "Ẩn thân bí pháp". Tính đốt ngón tay, đã lưu lại miền động thẳm này gần một năm trời và cả ba đã học được khá nhiều bí thuật huyền môn.

                    Tài nghệ cả ba đã vượt lên mấy bậc, đặc biệt về huyền môn công và bí thuật rừng thiêng. Một bữa, bà chúa động Thanh Âm gọi bọn Minh Thần tới bảo:

                    - Võ học huyền môn bí pháp, cũng như văn học nghệ thuật đều vô cùng vô tận, chẳng biết lấy chi làm tuyệt mức. Chị biết các em mang thù huyết hận kéo dài mười bảy, mười tám năm ròng nên luyện tập là giỏi lắm. Chị biết các

                    em nóng lên đường. Vậy các em có thể dời động phủ, tùy tiện vừa đi tìm học nghề độn thủy vừa thu luyện mãnh thú độc vật, gà, xó... liệu chuyện báo thù. Nay đang độ trăng thượng tuần, các em đi rất tiện. Chị đã sửa soạn cho mọi thứ cần thiết, mai có thể lên đường.

                    Bọn Minh Thần cảm động chẳng nói nên lời. Ngay chiều đó, bà chúa truyền mở tiệc tiễn hành, họp cả chức sắc nam nữ tướng sĩ hàng động, chung vui, người người lưu luyến.

                    Sớm mai, hàng động lại đưa khách ra tận cổng, tình rất thiết tha. Nơi đây là một cửa khẩu bí mật có mấy trục vận chuyển từng khối đá lớn, về hướng Đông, ba chúa Thanh Âm cùng bọn nam nữ tướng Peng Lang, Theng Phai, Khiêu La... đưa ba người ra tận rừng ngoài. Bọn Võ còn ngoảnh lại nhìn vùng động lạ Phượng Hoàng dinh nhà treo chót núi, lòng mang mang hắt hiu biệt ly.

                    Ra đến rừng ngoài, tuy biết tính bà chúa Giáng Tiên không ưa chuyện lễ nghi câu thúc quá nhưng lòng thầm cảm ân sâu dào dạt, ngậm ngùi phút chia tay, bọn Võ Minh Thần sụp xuống lạy ba lạy, báo ân dung dưỡng truyền dị thuật?ày đứng giữa "ngục trần gian" vọng về tiền kiếp...

                    Âm thanh quái gở vẫn chập chờn, bốc tận trăng sầu với vợi, bất thần đổ gục xuống mặt sông rừng... nghẹn mắc nước thượng nguồn...
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #11
                      Hồi Thứ Mười Một - Cung A Phòng Dưới Đáy Hắc Giang

                      Tây Bắc biên thùy!

                      Độ Xuân, cữ tháng giêng, hai tuần hạ. Xứ Thái Sơn La, Lai Châu đang vào hội mùa Xuân.

                      Rượu cần chảy như suối, "khèn" lan dìu dặt, âm thanh nguyên thủy uốn khắp rừng ngoài rừng trong, những hình dáng các cô nàng Thái đen, Thái trắng đang chờn vờn lả lướt theo nhịp "xòe" chùm "xòe" cặp tiếng ca chuốc rượu của cô sơn nữ bốc lên cao vút như tiếng linh hồn đồi núi chơi vơi... Tây Bắc thần tiên mơ mộng, hội tung còn rách giấy hồng điều, trai gái bói nhân duyên.

                      Dòng Hắc Giang uốn khúc giữa núi đồi trập trùng, hai bên bờ hoa "bướm" nở trắng xóa rừng xuân, con sông vẫn khét tiếng "nghịch" nhất biên thùy, về mùa này, nước chảy lững lờ thao thiết cũng dịu "tính rừng" trong tiết Xuân thiêng.

                      Một buổi chiều...

                      Mây quang lảng vảng, trời đẹp, không gian trong như ngọc lưu ly.

                      Con sông Hắc trôi dưới nắng, khúc thượng nguồn Tây Bắc cực Lai Châu,

                      hai bên bờ đồi núi trùng trùng hoang dã, vẫn không mất vẻ thần tiên.

                      Vào khoảng bốn giơ chiều, bỗng có một con thuyền độc mộc từ đâu nhô ra, lướt về thượng nguồn.

                      Trên thuyền có hai người Thổ, Thái chi đó, một trung niên, một già đăm chiêu lạnh lùng như không biết đến cảnh sông xuân tươi đẹp. Cả hai ngoi câm nín, thỉnh thoảng lại nhìn lên các ngọn núi hai bên bờ những hình quái vật hồng hoang đứng soi mặt dưới đáy nước sâu thăm thẳm, trên con thuyền độc mộc, có đặt một cỗ quan tài mộc, một đôi chó con đen con trắng đứng ngay đầu quan tài, tất cả im lìm. Mới trông, ai cũng tưởng con thuyền đưa xác đi chôn.

                      Hình như thuyền từ mạn Lai Châu trấn lên vừa bữa nay đang lần ngược dòng trườn lên thượng nguồn, đã qua mạn Mường Tè từ lâu, giờ ngược sâu vào vùng hoang vắng có nhiều khúc "dữ" có tiếng.

                      Trời chiều chợt sa sầm, mây đùn lớp lớp, khí đá bốc mù, mặt trời bỗng trương phình lên đỏ gay như mặt người thắt cổ, gục xuống rặng núi tây.

                      Chợt từ nẻo thượng lưu, có một chàng Mán hối hả xuôi xuống, lướt sát mạn thuyền độc mộc, lão chài trạc lục tuần trợn mắt, nói vang vang:

                      - Quay lại mau! Khúc trên mới có bầy thuồng luồng dữ lắm! Chớ đi nữa. Ông già trên thuyền độc mộc cao giọng:

                      - Cám ơn! Nghe đồn khúc trên nó có ma thiêng dữ lắm, phải không? Lão chài hạ giọng, vẻ sợ hãi:

                      - Hình như vậy! Nhưng mãi trên ngã ba! Thuyền đắm nhiều lắm! Khúc đó có nhiều vụng xoáy, lâu nay không ai dám đi qua. Hai bác tới đó... nguy! Hai bác đi lên đó làm gì?

                      - Kiếm chỗ tang thủy! Vũng sâu mới tốt! Chiếc chài xuôi đi, thuyền độc mộc cứ ngược. Cảnh chiều sông ảm đạm, huyền bí, hình như hai người Thổ kia có vẻ hài lòng... Chừng hai mươi phút, chợt lại gặp một chiếc chài nữa, trên chài có một chàng Kinh gầy gò xanh xao, người này cũng khuyên chớ ngược nữa... áp mạn, thấy cỗ quan, người này có vẻ ái ngại, hỏi vài câu, đưa tay vuốt nhè nhẹ trên mặt ván thiên. Người Thổ trung niên vạm vỡ đang ngồi khua chèo, bất thần xòe tay chặt xuống một nhát nghe "rắc" một tiếng, cổ tay người chài Kinh gãy

                      liền! Y vừa lảo đảo gục, đã bị người Thổ túm lấy mạch môn, phát giọng khô khan:

                      - Tự nhiên mi gây sự, định vuốt nát xác người trong quan, phải mi là thủ hạ của Ma Vương? Cung động nó đâu? Gã kia nhổ toẹt bãi nước bọt, nghiến răng két, mặt xám xịt, mềm nhũn, cạy miệng ra xem thì ra y đã nuốt cả chiếc răng nanh giả chứa đầy thuốc độc.

                      Người Thổ trung niên chép miệng, ném cái xác sang chài, bồi một nhát. Thuyền độc mộc lướt đi, chiếc chài chìm nghỉm. Người Thổ lẩm bẩm:

                      - Đúng rồi! Đã vào vùng sào huyệt tinh. Ông già gật đầu, mặt vẫn lạnh như xác chết.

                      Lúc sau, tới một khúc rừng hoang vắng lạ, con thuyền dạt vào bụi lau kín,

                      người Thổ lao vụt xuống nước mất dạng. Hơn giờ sau mới thay trồi lên, lắc đầu. Ông già buông gọn:

                      - Đợi khuya! Giờ tìm chỗ thật kín!

                      Rồi dạ thần trùm áo đen xuống vùng sông Hắc.

                      Con thuyền chở quan tài lại hiện trên dòng, lướt trên sông lạnh sương mờ,

                      không khác một bóng oan hồn đi tìm xương cốt cũ.

                      Hai người lạ mặt này không ai khác thầy trò Võ Minh Thần, chở quan tài "quỷ xó" đi tìm miền cung động Ma Vương. Ngày nọ, sau khi rời vùng sông Gầm nhánh, bọn Võ rời vùng Tĩnh Túc xuống miệt chợ Rạ, rồi chia tay hai ngả. Giao Long Nữ dẫn beo đen, chở xác "xó Ma Kinh" xuyên sơn sang mạn hồ Ba Bể, còn bọn Minh Thần dẫn Hắc Bạch Cẩu, Ma Khách xuyên rừng, sang miệt Tây Bắc Lai Châu.

                      Và trải nhiều đêm ngày vất vả, hai thầy trò ngược dòng sông Đà qua xứ Thái, vượt nhiều khu hiểm hóc, chiều nay dò theo tăm cá, hai người hóa trang lần mãi lên miệt thượng nguồn sông Hắc, lòng mừng biết đã tới "miền lanh địa Ma Vương Sắc", nhưng sông rừng bí ẩn trùng trùng, chưa biết đích cung động Sói tinh ở đâu.

                      Chỉ biết động ở tận dưới đáy sông Hắc, thượng nguồn, thế giới riêng Ma Vương Sắc có cả một "Cung A Phòng" đầy đàn mỹ nữ, toàn hoa khôi các bộ tộc thượng du, một nơi huyền bí như trong truyền thuyết, chưa kẻ nào tới nổi. Vì "Cung A Phòng" này có mấy "hàng rào thần chết", kẻ nào bén mảng tới là bị thần chết đến thăm luôn "không bao giờ báo trước".

                      Có điều lạ là thần chết thường hay viếng khách lạ, bất luận quan binh, du khách, giới giang hồ tứ chiếng, khách buôn... còn thổ dân vẫn sống yên ổn. Sông Hắc, chính là thượng nhánh sông Đà với nhiều nhánh bắt nguồn bên Vân Nam và bên Việt, từ miệt Mường Lẹo Tẩu chảy qua vùng biên địa xuống mạn Mường Tè xuống xuôi nữa, vốn là con sông "dữ", ghềnh thác hang vụng nhiều, có lắm thủy quái hung tợn như giao long, dải, táp cả người đi thuyền lôi xuống đáy nước ăn thịt, trên bờ lại không thiếu mãnh thú, cướp rừng, thổ phỉ biên thùy... nên xưa nay vùng thượng nguồn Hắc Giang vẫn là "vùng nước nghịch" hạng nhất biên thùy. Từ dạo khách qua miệt sông biên này thường mất tích bí mật, trong dân gian có tin đồn ngầm về "một cung động bí mật của một con tinh chúa phi phàm", thì miền đất giang biên Tây Bắc xứ Thái này càng trở nên "lãnh địa của tử thần", khách phương xa co việc tới vùng Mường Tè không dám ngược lên miệt "đất chết" này nữa".

                      Nhưng hai thầy trò Võ Minh Thần đã đi khắp mấy dòng phụ lưu sông Hắc, và tối nay, hai người đang lầm lũi đi sâu vào lãnh thổ tử thần như hai bóng oan hồn "dò theo bóng chim tăm cá" đi tìm cung động Ma Vương.

                      Sông rừng quạnh vắng, núi dựng trăm hình thù quái dị xuống dòng Hắc Giang, nhưng đợi đến lúc trăng hạ tuần lên, vẫn chẳng thấy gì lạ cả. Sông núi rừng già như ngậm kín bí mật trùng trùng không chịu nhả ra một dấu vết nhỏ.

                      Võ Minh Thần khẽ bảo Quản Kình:

                      - Lạ thật! Theo quẻ độn Lục Nhâm và các điều dò hỏi được, nhất định sào huyệt Tây Sắc tinh phải nằm về nẻo thượng nguồn, khúc trên Mường Tè, dòng chính, không phải phụ lưu. Ta đã đi qua Mường Tè, sắp tới ngã ba rồi, sao vẫn chưa thấy gì? Ít nhất phải vào vùng ngoại cứ của "nó" chứ? Tên chài chiều qua chính quân giữ mặt ngoài.

                      Quản Kình nhìn sông trắng im vắng thì thầm:

                      - Nghe đồn cung động Ma Vương dưới đáy nước hang sâu vụng thẳm. Nhưng "nó" có cả quân người. Vậy quân người chắc ở trên mặt đất, đóng vòng ngoài cung động và có le đóng khá xa, có thể ở trong hang núi hoặc ở nhà hầm đào vào đồi đất, nên bề ngoài vẫn không thấy gì cả. Tôi ngờ ta chưa vào cứ địa nó. Ta đã cố tìm con tinh tại sao không ra mặt nhử chúng, bắt một tên hỏi đường?

                      - Ra mặt sợ "động ổ" chúng. Vả tụi quân người, chắc gì đã biết cung động ở đâu. Con tinh dùng thủ hạ, chỉ cho biết từng chuyện một.

                      - Cậu hai nói đúng! Nhưng ít nhất cũng kiếm được chút đầu mối, còn hơn cứ mò mẫm trong bóng tối như mấy ngày nay. Để mình tôi ra mặt đủ rồi.

                      Minh Thần ngẫm nghĩ giây phút, đành để Quản Kình đi thám sát. Hai người khiêng quan tài Ma Khách đặt vào hốc núi cho Quản Kình lấy thuyền chèo ngược lên nẻo thượng lưu.

                      Đem trăng nhạt, con thuyền độc mộc trôi giữa dòng sông Hắc, lát sau đã tới ngã ba phụ lưu. Quản Kình vừa chèo vừa hát nho nhỏ mấy câu đồng dao. Bốn bề vắng lặng, trăng khuyết lồng bóng nước nhấp nhô gợn sóng.

                      Đang vơ van nhìn mặt sông rừng huyền bí, bất thần để ý thấy có một ngọn sóng khác thường từ phía bờ Đông chạy ra.

                      - À có con cá lớn? Hay người đang bơi dưới nước? Cá cắn câu chăng? Kình ngồi bên mạn, khua nhẹ tay chèo, gợn sóng chạy quanh rồi chợt mất. Bất thần, con thuyền độc mộc nghiêng hẳn lại, rồi dưới nước có một vật loằng ngoằng bắn vọt lên, túm nghiến cổ Kình kéo xuống nước, coi không khác chân vuốt thuồng luồng, vòi tuộc vậy. Quản Kình lộn cổ xuống sông. Và chỉ hai phút sau đã thấy y vọt nhô lên, nách cắp một người trần trùng trục chỉ đóng có mỗi cái khố.

                      Hắn bị điểm huyệt, mở mắt trừng trừng nhìn Quản Kình. Giải huyệt, Quản Kình lạnh lùng hỏi:

                      - Cung động Tây Sắc đâu? Nếu mi nói ta thề sẽ tha mạng. Tên này cười dữ tợn, nói tiếng Mán:

                      - Mày có cánh cành lá cỏ hoa dòm vào, thấy bên kia cầu có bốn cái cổng uốn cong, mở rộng, đường hoa mơn mởn dưới làn sáng hoa cà, chạy hút vào sâu, tuyệt không một bóng bọt mép, "đi" luôn. Xem lại tên này cũng có một cái răng giả nhét đầy độc dược.

                      Tặc lưỡi, Quản Kình buộc một hòn đá lớn, thả "tõm" xuống giữa ngã ba, đoạn quay thuyền về bảo Minh Thần:

                      - Chỉ một tên độn thủy định lật thuyền, bắt người lạ, nhưng nó cũng nuốt độc chết liền. Bắt ánh mắt nó, hình như sào huyệt con tinh mãi phía biên thùy, có "trành" canh gác.

                      Minh Thần ngẫm nghĩ, bảo:

                      - Tất nhiên cung động nó cực kỳ bí mật, có "trành xó" canh và nhiều thứ nguy hiểm nữa. Vùng này chắc xa sào huyệt chính, có đi cũng chỉ hạ được mấy tên canh gác rải rác dọc sông, bất lợi lắm. Mai ta rà trên bộ ngược tận biên thùy.

                      Hai người bàn bạc giây lát, đoạn cho thuyền về nẻo hạ lưu. Sớm mai, trời vừa hửng sáng, đã thấy con thuyền độc mộc chở quan tài lướt ngược dòng Hắc Giang, trên thuyền có mỗi Quản Kình ngồi chèo trong lốt người Thổ trung niên. Còn Võ Minh Thần cưỡi ngựa đi trên bờ trong lốt một ông già có mấy chòm râu muối tiêu. Lát sau qua khỏi ngã ba sông, Quản Kình cũng vờ khiêng thuyền lên, giấu vào hốc núi, dựng quan tài xó, để các món nặng lại, đoạn cưỡi ngựa, đem theo Hắc Bạch Cẩu, vai đeo cung tên, tiến về nẻo biên thùy. Thượng nguồn Hắc Giang khúc này từ vùng núi Vân Nam đổ sang chảy chếch từ Tây sang Đông, tới ngã ba mới chảy xuôi vát Đông Nam xuống Mường Tè Lai Châu vốn miền sơn kỳ thủy tú, càng lên gần biên giới ba nước cảnh trí càng hùng vĩ hoang sơ. Nhưng hai thầy trò Võ Minh Thần vẫn đinh ninh đây là lãnh thổ ngầm của Ma Vương Sắc, nên nhìn đâu cũng thấy phảng phất vẻ quái gở lạ thường. Hai người men theo bờ sông đi được một quãng, chợt gặp một lối mòn chạy từ trong núi ra. Lối đi cỏ bị dẫm khô héo, chứng tỏ vẫn có người qua lại, viện bắc cung" lẫn giữa cỏ hoa bóng tối kiếm chỗ Ma Vương.

                      Hết bắc cung, loanh quanh lại tới năm cung gặp thêm mấy viện khác, "viện Khẩu Hoa" chứa núi chắn, ta cũng phải theo lối này một quãng rồi sẽ liệu.

                      Bèn bắt ngựa vào đường mòn. Đi hơn dặm, quả nhiên gặp một con đường từ mạn Tây Bắc chạy tới, hai người rẽ luôn sang.

                      Vó câu lóc cóc xuyên qua nhiều cánh rừng sơn lâm trùng điệp, vào khoảng giữa trưa, vẫn chẳng thấy nhà cửa bản dân nào.

                      Vừa tới gần một con suối khá rộng, chợt từ đâu có một con trĩ lớn bay qua. Quản Kình bắn luôn một phát, một con trĩ xòe cánh rớt ngay xuống bờ suối. Hai người cùng tiến đến định nhặt con trĩ, nhân tiện cho ngựa uống nước, bỗng hai con chó chạy xồ lên, sủa rộ, tiếp liền mấy tiếng "cà uôm" vang động, trông sang thấy hai con mãnh hổ đứng sừng sững giữa bụi lau bên kia bờ, cách khoảng ba mươi bộ xế. Xoạt! Quản Kình rút phắt ngọn lau thép cài bên sườn ngựa, định phóng. Võ Minh Thần vùng hô "Khoan! Để bắt sống". Kình dừng vội.

                      Hai con hổ này toàn hùm xám, còn to hơn hai con bên sông Gầm trong rặng Phi Mã. Chúng lừ lừ dòm người, vật, mắt tia đỏ coi rất dữ, đầu hơi lắc lư. Minh Thần nhảy xuống ngựa, cùng Quản Kình tiến lại, hú lên một tràng âm dị. Chẳng hiểu sao hai con hùm xám kia vùng rống lên, xoay mình nhảy chồm qua khóm lau dày, bỏ chạy.

                      - À lạ dữ chưa! Sau chúng nghe hiệu âm lại phá chạy? Đuổi bắt! Hai con cọp này khôn lắm.

                      Hai người vội lên ngựa, phóng qua suối rượt theo. Hắc Bạch Cẩu vọt trước. Hai con cọp cứ cong đuôi chạy, bị kẹp hai đầu, chúng cứ theo đường mòn xuyên thung lũng lao như gió.

                      Qua một rặng núi, bỗng cảnh hoang sơn đột biến, trước mặt vụt mở ra một cảnh lâm tuyền cẩm tú, hoa "bướm" nở trắng xóa như hoa mai, rụng đầy đường mòn, mặt cỏ. Hai con cọp bỗng trốn biến đâu mất.

                      Bọn Minh Thần dừng ngựa bên một dòng suối rộng, đưa mắt nhìn quanh. Hai con ngựa thở phì, gặp suối mát, bước ngay lại cúi mõm định uống. Trong khi đó, Hắc Bạch Cẩu đã vọt qua, đang sục sạo phía trước.

                      Tình cờ, Võ Minh Thần cúi nhìn xuống dòng suối xuân, vừa lúc hai con ngựa ghé sát mõm sắp uống. Bóng người ngựa lung linh đáy nước, về mùa xuân, dòng suối lại đục lờ vì nước chảy qua rặng núi có nhiều chất vôi làm bóng nhân mã cũng mờ mờ. Chàng trai giật vội tay cương, la:

                      - Suối nước độc!

                      Quản Kình cũng kịp làm theo. Hai con ngựa thở phì phì, hếch mõm. Bất

                      thình lình bên suối có tiếng chó kêu rống vút. Hai người giật mình trông sang, đã thấy Hắc Bạch Cẩu bị treo ngược bốn vó lên ngọn cây, đang giãy giụa.

                      - Chó mắc bẫy treo! Vùng này có người ở!

                      Quản Kình kêu lên. Trên sơn cước, thổ dân vẫn dùng cạm bẫy bắt thú, đào hầm phủ cỏ lá, hoặc vít các cành dẻo, nhất các loại tre, vẫn gài bẫy dưới phủ kín, thú rừng dẫm phải, lập tức bị dây trói nghiến bốn vó bật vụt lên, treo lơ lửng. Mãnh thú hung tơn mấy đạp nhằm bẫy gài cũng chịu phép. Và trên rừng, chuyện đánh bẫy bắt thú là thường.

                      Thấy hai con vật trung thành bị treo ngược, bọn Minh Thần bèn vọt qua suối, chạy tới cứu. Còn cách mươi sải, Minh Thần đưa mắt quan sát, thấy gần đấy có nhiều tre xần, cành xòa, chàng trai vội giơ tay làm hiệu, cả hai vung tay đánh thử mấy đường phản phong vào quanh chỗ hai con thú bị treo.

                      Bùng, bùng, rào, rào! Lập tức rải rác hàng chục cành bật lên, tung tóe cỏ, đất sát bên chân ngựa. Hai người giật cương, dạt sang phía hữu.

                      Bất ngờ "sụp sụp", mặt đất bỗng tụt ngay xuống thành hầm sâu, cả hai con ngựa sa theo nhanh như ảo mộng. Khi hai thầy trò Minh Thần kịp biết thì người ngựa đã rớt sâu hai, ba sải giữa khu cành lá um tùm.

                      Nhưng cả hai đều cao bản lãnh, đã kịp thời vọt thẳng lên, bám được cành trên cao. Dòm xuống, thấy hai con ngựa rớt sâu tít, lưng đầy đất, cỏ, lá. Rừng vẫn vắng lặng như không.

                      Đang định nhảy xuống cứu mấy con vật, bỗng nghe mấy phía xôn xao, rồi đến ba bốn chục tên mặc quần áo chàm xách súng ống, giáo mác, lưới rọ, câu liêm, móc sắt, đổ tới như bầy thú dữ.

                      Quản Kình, Minh Thần cùng bíu một cây, sang cành khác, thấy quân lạ kéo tới, Kình làm "chú quyết", Minh Thần xua tay. Bọn kia reo hò thích chí, lũ vít cần xuống bát chó, lũ đem câu liêm, thòng lọng lại bắt người ngựa, đứng lố nhố dưới gốc cây. Mấy tên chợt kêu:

                      - Chỉ có hai con ngựa, không có người. Lại coi! Lại coi!

                      - Rõ thấy cả người ngựa rớt xuống mà! Hay nó vọt được? Chúng bu quanh hầm, cúi dòm, nhiều tên ngửa mặt dòm lên cây cối.

                      Không thấy bóng người, cả lũ ngơ ngác kêu "ma quỷ", chợt nghe tiếng

                      quát xa xa:

                      - Cứ đem ngựa lên, khám đồ vật xem! Tìm chúng sau! Thầy trò Võ vẫn nấp trên cây. Nhưng hai người đã giở thuật "ẩn thân" dùng sương mù nhân tạo bao phủ nên chúng không thấy. Chỉ mấy phút sau,

                      chúng đã lôi được ngựa lên. Thầy trò Minh Thần định dùng "Mê hồn công" đánh bọn áo chàm này, bỗng nghe tiếng quát rợn người:

                      - Hai tên phạm cấm địa, không ra mặt, trong mười giây sẽ bị đạn quét! Tản!

                      Tiếng hô dứt, tự nhiên bọn áo chàm vùng xa hết, để cả ngựa, chó lại. Minh Thần, Quản Kình đứng trên nghe tiếng quát không khỏi kinh tâm, khó nghĩ. Nhảy trên sẽ bị đạn quét, nhảy xuống lấy khiên, súng dài cũng có thể cự địch được, nhưng phải hi sinh mấy con vật. Thả độc vật cũng không kịp, hai người định xuất đầu nhử địch rồi bất thần hạ thủ. Thình lình tiếng quát rõ giọng đàn bà:

                      - Bọn ngươi làm gì ồn ào thế?

                      Có tiếng đáp đầy vẻ cung kính:

                      - Bẩm chúa nàng, có hai tên Thổ lạ vào vùng cấm lâm. Chúng nô bộc đã

                      giật hầm bẫy được ngựa, chó, còn chúng trốn đi mất.

                      Tiếng đàn bà quát:

                      - Sao bọn ngươi dám chắc họ là gian tế? Có khi người ta lạc đường, lạc lối hoặc đi săn bắn là thường. Nếu không, dại gì cưỡi ngựa, dắt chó, đi giữa ban ngày cho bọn mi vây bắt? Hừ! Ta đã dặn, phải thận trọng kẻo giết oan người vô toi, bọn mi đã quên sao? Lui!

                      Có tiếng dạ ran, rồi bốn bề im phăng phắc. Nhưng hai người vẫn cứ ẩn trên cây. Bỗng nghe hơn không và cho rằng mình may mắn có vợ biết chịu đựag, thâm hiểu tình trạng của mình mới có lồn để bú. Cặc ông đã teo lại. Nhỏ hút vào bên trong da thịt nhưng có chổ cho đường ra khí cặc Cho nên ánh đèn, vạt áo để bay phất phi, coi không khác một bầy tiên hạ giới đang lướt theo nhịp vũ tuyệt vời!

                      - À! Cung viện chứa gái lưng eo, nhũ đẹp là hơn giọng nói, nghe thánh thót, êm ái hết sức, có mãnh lực quét sạch bầu không khí dữ tợn quanh khu rừng. Hai thầy trò Võ nghĩ mươi khắc, đoạn tặc lưỡi, giải tỏa sương mù nhan tạo, dòm xuống. Bọn áo chàm đã đi đâu hết. Xa xa có một bóng nhấp nhô phi tới, thấp lè tè sát đất, ẩn hiện sau cành lá. Thoắt bóng này đã tới chỗ hai con chó bị mắc bẫy vẫn bị túm bốn vó nằm trên cỏ, hiện ra một thiếu nữ mặc lối Thái đen cưỡi một con cọp mộng lông xám có cái bờm sù. Thiếu nữ dừng cọp, khuôn mặt lộ hẳn sau cành lá. Đó là một cô gái đẹp lạ thường, xiêm y toàn lãnh đen tuyền, nẹp cổ tay cổ áo chần kim tuyến, "phá" gấm thủy ba cũng bằng kim tuyến chấm gót, chân đi hài sảo, ngực phây căng nét nhũ, bụng nhỏ thắt đáy, mông bạnh, chân tay mình mẩy đều thon lẳn, coi bằng khổ người Giao Long Nữ nhưng khuôn mặt nàng này tuyệt đẹp, không xấu xí như nàng kia. Mắt phượng, mày liễu, mũi thon dọc dừa, môi cong, da dẻ trắng ngà. Cô

                      gái trạc mười bảy, mười tám, coi rất thông minh, nhưng không có vẻ chi điêu ác, dáng đúng gái quý tộc miền núi.

                      Nàng vừa dừng cọp, đã thấy hai con chó bò dậy sủa. Cô gái ngước mắt trông lên cây. Võ Minh Thần, Quản Kình buông mình xuống ngồi trên lưng ngựa, chưa kịp nghiêng mình chào cô gái, nàng đã chào luôn thỏ thẻ:

                      - Hai quý khách miền nào tới? Bọn gia nhân đầy tớ mạo phạm, xin khách thể tình tha thứ cho.

                      Minh Thần, Quản Kình ngó chòng chọc, lòng đầy nghi vấn, chẳng hiểu nàng là hạng gái nào mà lại ở ngay cánh rừng bị coi là "lãnh địa ngầm" của Ma Vương Sắc. Tuy vậy, thấy nàng ăn nói dịu dàng lễ phép, Võ Minh Thần cũng vuốt râu, lịch sự bảo:

                      - Chúng tôi đi săn voi, tê giác, hổ báo, gấu ngựa. Chúng tôi từ Lai Châu, Mường Tè tới. Vừa đuổi hai con cọp xám, tự nhiên bị sa bẫy. Chẳng hay đây là đâu? Sao lại cấm người lạ vào?

                      Cô gái mỉm cười:

                      - Đây là đất của bộ tộc Thái đen. Nhưng hai ông khách không phải là ông lão có râu dài. Hai ông đeo mặt nạ da người.

                      Thầy trò Võ giật lòng sửng sốt, không ngờ hóa trang khéo hết sức, nàng ta vẫn biết. Chợt nàng lại tiếp:

                      - Nếu không có việc cần, hai ông đi săn sao phải hóa trang? Hóa trang thường bị ngờ định làm điều ám muội.

                      Võ Minh Thần biết đã đến lúc phải ra mặt, bèn đưa mắt cho Quản Kình, cả hai cùng thò tay bóc hẳn tấm mặt nạ da người, từ tốn:

                      - Chẳng dám giấu cô nương, bọn ngu mỗ cũng có chút việc, nên buộc lòng phải đeo mặt nạ, phòng quân gian ám hại bất ngờ. Bọn mỗ tính lên biên giới.

                      Cô gái nhìn chàng khách trẻ tuổi có bộ mặt khôi ngô lạnh lùng khó tả, chừng như nàng ta có cảm tình đặc biệt, dịu dàng bảo:

                      - Chuyện riêng, thiếp chẳng dám quan tâm. Nhưng nếu ông khách muốn nghỉ ngơi chốc lát, xin mời quá bộ thêm quãng ngắn nữa. Chốn này giáp ba biên giới, thổ phỉ, giặc cỏ, thú dữ nhiều nên chúng nô bộc phải canh phòng cẩn mật, xin ông khách cứ an lòng. Bộ toc thiếp rất vui sướng được tiếp rước khách phương xa. Hai ông không phải người Thổ?

                      Câu hạ bất thần của cô gái lạ làm thầy trò Minh Thần không khỏi chột dạ. Cô gái cười tiếp:

                      - Hai ông cũng không là thợ săn, vì thợ săn phải có súng khai hỏa, thợ săn

                      thoát sao được hầm bẫy.

                      Minh Thần đành cười nhẹ:

                      - Cô nương tinh mắt lắm. Bọn mỗ không phải thợ săn thật. Nhưng cũng gọi là thợ săn được vì cung đi... săn giống vật, một thứ rất khó săn, hay chui tận hang sâu động thẳm.

                      Cô gái nhìn hai người, chừng như không lưu ý nhiều về câu nói đó, nàng cười tươi bảo:

                      - Vùng này rừng nhiều nghịch lắm, lâu nay ít người tới săn. Nhà tôi cũng gần đây, mời hai ông tới nghỉ chân.

                      Hai thầy trò Minh Thần thấy cô gái đẹp cùng với một toán quân rừng xuất hiện tại vùng lưu vực thượng nguồn Hắc Giang, nơi đồn có động Ma Vương, hai người hết sức ngơ vực, nhưng đã quyết xuất đầu tầm cừu, chưa thấy tăm hơi, ngay nghe nàng ta mời, bèn nhận lời ngay, không chút do dự.

                      Cô gái thấy khách lạ nhận lời có vẻ thích lắm, lập tức nghiêng mình vẫy tay, thánh thót:

                      - Nào, mời hai ông!

                      Đoạn giục cọp mộng, quay đầu, đi về hướng Tây Bắc. Hai thầy trò Võ Minh Thần cố ý đi sau giữ phép, nhưng được mấy bước, cô gái lạ bảo:

                      - Vùng này chúng tôi đặt nhiều cạm bẫy, hầm hố, có cả địa lôi phục nữa đó. Hai ông phải đi sát bên tôi mới được. À quên! Hai ông phải bảo mấy con vật đi bên, chớ chạy lung tung và chớ uống nước bậy bạ. Suối nước tại đây về phía hạ lưu đều có bỏ thuốc độc, uống vào cấm khẩu, chết liền, khó thuốc trị.

                      Nghe nàng bảo, hai thầy trò không khỏi kinh tâm, sực nhớ dòng suối vừa qua, lờ nước hến, không tinh ý chút, chắc nguy rồi. Bèn đưa mắt nhìn quang cảnh, lâm tuyền, nơi lưu vực sông Hắc dưới trời xuân coi hết sức kỳ tú thần tiên, tuyệt không có vẻ chi dữ dội. Lại lấy làm ngạc nhiên sao nàng ta chỉ vạch cho mình hết cạm bẫy yểm tàng. Bọn Võ vội giục ngựa lên, nhìn nàng như dò xét. Quản Kình hơi lui lại một chút, nói luôn:

                      - Thưa, tôi là kẻ theo hầu tiểu chủ.

                      Thản nhiên như không, nàng thé:

                      - Chưởng pháp ngũ cung, lập viện A Phòng cung, gái già Dạ Xoa xin chúc Tây Phi trường thọ, cai quản cung Tây đúng uy pháp Chúa Vương gia, và đi tắm "thủy

                      Vẫn tự nhiên, cô gái lạ mỉm cười:

                      - Hình như tôi đã nói với ông vùng Hắc Giang này "nghịch" lắm. Lãnh thổ tù trưởng phải là nơi khó xâm phạm. Còn những thứ cạm bẫy đó để phòng

                      gian tế cừu nhân, đâu phải để hại khách lạc hướng như hai ông. Vả chăng với người như ông, các thứ đó cũng là đồ vô dụng.

                      Minh Thần không nói gì. Chàng nghĩ: Nàng này không phải gái thường, hoặc hiểm hơn rắn độc, hồ ly, hoặc hồn nhiên phóng khoáng, lòng như tờ giấy trắng.

                      Hai thầy trò theo nàng đi qua khỏi cánh rừng, vừa lên một trái đồi, bỗng thấy trước mặt mở ra một khu sơn đình tuyệt đẹp, nhà sàn nằm như bát úp, bóng người, ngựa, gia súc, gà vịt, chim câu rải rác đầy đàn, quang cảnh hết sức tấp nập, có lẽ từ khi xuống núi, chưa bao giờ Võ Minh Thần gặp một sơn thôn, sơn trại như thế. Ngay khu đồn điền của nghĩa phụ chàng để lại dưới Yên Bái cũng còn kém xa.

                      - Chà! Vùng sơn thôn tuyệt đẹp. Không ngờ tại miền lưu vực Hắc Giang gần biên thùy hẻo lánh mà lại có khu dân cư đông đúc lạ thường. Cô nương ở đây đúng cảnh "biên thùy một cõi".

                      Cô gái cười khanh khách, khoát tay trỏ quanh:

                      - Vậy mà tôi lại cứ tưởng chốn sơn đình này là một nhà tù lồng son giam hãm chim sơn ca. Tôi chỉ muốn phá hết đi, chia hết cho gia đinh, lính tráng rồi cưỡi hổ đi rong chơi khắp mấy miền sơn cước thủy, tìm thênh thang như giống chim người.

                      Minh Thần theo nàng đi qua thung lũng, vào khu sơn trại đầy hoa thơm cỏ lạ, chàng trai cười bảo:

                      - Cảnh đẹp thế này mà cô nương lại muốn bỏ đi, nhưng ai cấm cô nương? Cô gái cười:

                      - Thói quen bộ tộc! Tôi phải thay cha mẹ, nối chức tù trưởng. Bỏ đi, bộ tộc tan, không đành lòng.

                      Con đường đá đưa vào khu trại, quân rừng cúi chào kính cẩn, thảy đều gọi "chúa nàng", qua mấy xóm cư dân, bọn Võ thấy có cả đàn bà, trẻ con qua lai, ai nấy rạp đầu cung kính. Nàng cứ dẫn khách đi hết con thung lên một rặng đồi tươi đầy hoa nở, vào một vùng có tường gỗ lim phiến bao quanh, có cả hào lũy, đồn canh, coi đúng khu dinh tiểu vương sơn cước lại giữa "pháo đài rừng" không kém phần kiên cố.

                      Từ trên vọng lâu, chợt nổi lên một hồi cồng đồng khoan nhặt, tiếp theo một hồi tù và chìm nổi âm u. Từ trên lũy, hạ xuống một chiếc điếu kiếu bắc qua hào. Quân canh đứng hai hàng bên cần trục. Điếu kiều bắc lên một dãy hành lang chạy vòng từ ngoài vào vọng lâu như chiếc cầu vồng dài.

                      Cô gái đưa hai người tới bên hào, leo qua điếu kiều, đi thẳng vào "pháo đài dinh", qua khỏi vòng ngoài pháo đài, bên trong lại hiện ra một cảnh trí hữu tình, tòa ngang dãy dọc, hoa viên, vườn tược, võ trường, tàu ngựa, chỗ đóng quân, nhà thủy tạ giữa ao hồ nhân tạo, một lạch nước uốn quanh, cỏ cây tươi tốt, khu chính dinh có cả điếu kiều vào tận nơi, coi vừa xinh, vừa lạ mắt.

                      Bọn Minh Thần theo nàng vào, nhìn trên dưới đường xuyên qua vườn hoa trước có hàng chục cọp beo lững thững đi lại, nhiều con nằm lim dim dưới gốc cây. Hai người nhớ đến hai con cọp khôn ban nãy, không khỏi phục thầm tài dạy thú của cô gái lạ.

                      Nàng đưa khách vào tiền sảnh, tiến vào một căn phòng rộng rãi trần thiết rất uy nghiêm thanh lịch. Bọn Minh Thần thấy cảnh thâm nghiêm, lính rừng lấp ló, không khỏi chột dạ nghĩ thầm:

                      - Tình thế này, nếu nàng dụng tâm đánh lừa đưa mình vào tròng, bất thần hạ độc thủ, kể cũng đáng ngại lắm. Tốt hơn động Ma Vương là cả cảnh mặt trời hoàng hôn ngụy chiếu cấm cung, nhưng trên cõi thế, đã qua nửa đêm lâu rồi, lòng đất lạnh, đá hàn đang xông khí trắng nàng vào. Quản Kình rút luôn cả cây trung liên xách theo, mắt ngó cô gái coi phản ứng nhưng nàng ta không hề lưu ý tới, vẫn tươi cười uyển chuyển an tọa.

                      Võ Minh Thần ngồi vào ghế, Quản Kình giữ lễ, nhất định chống súng đứng "hầu" sau lưng chủ. Một bầy gái hầu từ nẻo hậu dinh chạy ra, cô nào cũng chỉ trạc mười sáu, mười tám, xinh xắn, tươi tỉnh, lễ phép, đúng cung cách gái hầu trong nhà các tù trưởng tiểu vương sơn cước.

                      Cô mặc lối Thổ, Thái trắng, cô mặc lối Thái đen, bộ tộc miền núi mặc quần áo đen tuyền để phân biệt với dòng Thái trắng chứ không phải vì da đen. Không cần khảo sát, thầy trò Minh Thần chỉ nhác qua dáng dấp, đã biết ngay toàn hạng gái có võ, quen chuyện súng gươm cũng như têm trầu, dâng nước.

                      Đám gái hầu cúi chào khác, cô bưng khay trầu, cô bưng điếu, cô bưng đồ trà toan dâng khách. Cô chủ phất tay bảo:

                      - Trầu điếu để đó, còn đồ trà hãy đem vào. Công tử đây quen giang hồ đây đó, tất là bực ẩm giả sành trà, để ta phải tự tay nấu nước pha trà đãi khách. Các ngươi khá đem hỏa lò vào đây. Hai ba em theo ta vào lấy bộ đồ trà đặc biệt cùng "Diệp sương liên", "Phi Mã trà".

                      Gái hầu dạ ran, thừa lệnh răm rắp, thoăn thoắt đi vào nẻo hậu cung, còn cô gái chủ cùng hai, ba gái khác để khách ngồi lại, kéo nhau đi về phía hữu phòng. Nhà sàn các tù trưởng thượng du to lớn, rộng mênh mông, có cái chứa hàng ngàn khách chỉ mới đầy một gian, mỗi cây cột to mấy vòng, đục làm tủ

                      đứng, tủ gương đựng võ khí, căn sàn dinh này lại kiến trúc pha lối Tây, Kinh, trông càng đồ sộ nguy nga, từ chỗ khách ngồi tới căn phòng kế cận dài hun hút.

                      Lòng đấy áy náy bất an, Quản Kình thấy cô nàng dẫn gái hầu đi vào, cũng xách cây trung liên đi theo liền. Cô gái chủ quay nhìn lại chợt hiểu, nhướng mày cười bảo:

                      - Chú ngại gì mà phải theo bén gót? Cứ yên lòng ngồi lại phòng khách, tôi vào lấy đồ trà đó thôi. Lòng thành đãi khách, nếu có âm mưu, đâu có cần đưa khách vào tận nơi đây mới hại được. Tôi đã nói vùng này đầy cạm bẫy. Nếu chú chẳng ác tâm, để tôi mất công triệt vậy.

                      Dứt lời, nàng bảo Quản Kình lui lại chỗ Minh Thần, đoạn bước tới bên cây cột lớn, vỗ chát một cái, hô lảnh:

                      - Vệ đội! Triệt cơ quan, rút khỏi chính dinh! Reng reng, liền hồi chuông trong tủ nổi lên, vụt nghe rầm rầm sập sập liền năm, bảy tiếng, cả khu nhà khach như chuyển động, từ hai bên vách ván gỗ hé mở, phóng vút ra hàng chục mũi giáo nhọn, là là sát mặt sàn lên tới đầu người, cứ hàng giáo này phóng sang vách bên kia mất hút, đạn xuyên qua hàng có tiếng gái Thổ vọng ra:

                      - Em không dám vào đâu! Tối nay em không sạch, vào hầu Chúa phạm

                      tội, Dạ Xoa cũng tội lây!

                      Mụ Dạ Xoa cười ré:

                      - hàng chục tay súng rừng lùi lùi nhô lên, hàng năm, sáu con mãnh thú trồi lù lù, lừ đừ sừng sững đi ra phía cửa tiền hết.

                      Ngoài hành lang, bọn gác cũng xách súng bỏ đi. Cô gái vỗ tủ, rút hết lưới lên, đóng các cơ quan cạm bẫy lại, cười bảo:

                      - Các thứ này trước do phụ thân tôi chế ra, phòng quân gian đột nhập, chúng quân vệ vẫn giữ lệ cũ. Không muốn làm tiên sinh kinh động nên tôi chỉ lẳng lặng để tiên sinh ngồi chơi nơi tử giác. Giờ chắc hai thầy trò đỡ ngại, tôi có thể đi lấy đồ trà được chứ? À quên, còn tủ súng nưa.

                      Dứt lời, nàng lại ngồi nơi bộ ghế cẩn đá xế bên bộ hai người và vỗ vào tay ghế một cái. Nghe cạch hai tiếng, từ hai gốc cột tủ, bỗng mở ra một đường rộng hơn phân, ló dạng hàng mũi súng đen ngòm chĩa vào khu ghế nàng ngồi.

                      - Nếu vỗ hai tiếng, súng khai hỏa luôn. Dứt lời, nàng ta cũng gái hầu bỏ đi về phía hữu.

                      Hai người nhìn theo bóng uyển chuyển mất hút sau rèm, thật tình vẫn

                      chưa biết nữ chúa rừng xanh này là loại hảo nữ hay hồ ly đột lốt. Vì nếu nàng có thể thành thực tiếp khách không ác ý, nàng ta vẫn có thể là tay "cao đòn" cho biết năm, bảy món "bảo bối" và làm cách nào biết được nàng còn giữ lại

                      vài ba món khác nguy hiểm gấp mười để chờ dịp ra tay? Quản Kình lẩm bẩm: "một cô gái khó hiểu". Minh Thần bâng khuâng "bí mật như thượng nguồn sông Hắc" và chàng trai quyết tâm dò hỏi thực hư.

                      Rất kín đáo, chàng trai đưa tay phát điện nhè nhẹ quanh chỗ ngồi, quả không còn chạm một luồng nhiệt khí nào nữa. Bèn thử rê vào tận cửa thông, bỗng hơi giật lòng nghe trong phòng có tiếng cô gái chủ thánh thót vọng ra:

                      - Tiên sinh này đa nghi như Tào Tháo. Tôi một lòng thành thực tiếp khách, chàng cứ mãi ngờ vực lòng người, gái này còn biết tính sao cho chàng khỏi nghi?

                      Giọng nàng ta có vẻ hơi trách móc, lại bị bắt quả tang đang dò trộm, Võ Minh Thần ngượng hết sức, vội co tay, gãi cằm, cười xòa bảo:

                      - Xin cô nương miễn trách. Nhất nhật tương kiến, lại gặp cô nương trong cảnh khác thường, nên ngu mỗ lấy làm... thắc mắc vậy thôi. Nếu có lòng như Tào A Man, chắc ngu mỗ chẳng dễ tin mà vào chơi trong "pháo đài kỳ lạ" này.

                      Cô gái cười khanh khách, cầm bình trà cùng bọn gái hầu uyển chuyển bước ra. Đám thị nữ khác cũng vừa mang hỏa lò tới. Cô gái xua tay cười bảo:

                      - Thôi! Bỏ chuyện nghi nan áy náy đi. Tiên sinh! Ta uống trà cho vui. Đời người nhiều oan trái. Gặp gỡ bất ngờ ngàn năm dễ lấy gì mua nổi.

                      Minh Thần nghe nàng nói, bỗng nhiên lòng cảm động lạ. Bề ngoài coi tươi tỉnh, cứ nghe khẩu khí, cô gái này chẳng phải gái quý tộc chỉ quen vui hưởng đời sống cơm bưng nước rót, ra giày vào dép, nàng vẫn còn có tâm hồn vô cùng phong phú, tế nhị, thiên về đời sống tinh thần và hình như còn một tâm sự u uẩn mang mang, thật khó hiểu.

                      Có điều kỳ khôi nhất là chỉ một câu nàng vừa nói, tự dưng chàng trai thấy hết nghi ngờ, sinh vững dạ hơn, mặc dù chưa rõ nàng là hạng gái nào. Tần ngần ngồi ngắm nàng quạt hỏa lò than nấu nước và các "đồ nghề", rõ ràng nàng ta đã quen sinh hoạt lối người Kinh và rất sành "điệu nghệ" uống trà của giới phong lưu ẩm giả dưới xuôi, có thể nói đã thông thạo "trà đạo".

                      Ấm thuộc loại "Cò bay" có "kim hỏa " để tính độ nước sôi "mắt tép, mắt cua"; bộ đồ trà nàng vừa đem ra thuộc loại cổ, khay khảm ấm chén đều cổ, bốn cái chén trôn quýt, một cái chén tống, thứ nào cũng đặt trên đĩa cổ, vào bộ, có mảnh vải điều phủ; ấm có ba cái, một cái độc ẩm bé như ngón chân cái, một song ẩm và một quần ẩm, gọi là quần ẩm nhưng cũng chỉ vài ba ẩm giả vậy thôi; đặc biệt cả ba đều thuộc bộ "Ngọc phủ" màu chu sa đỏ thắm như vành môi nữ chủ.

                      Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần (Đức Bội là Thế Đức, Lưu Bội). Liếc sang bàn nước, bình trà, chàng trai nghĩ thầm:

                      - Bàn nước kia là "Diệp sương liên", "Diệp thủy tiên dạ vũ", trước tôn sư vẫn dùng, sau trận mưa đêm, lá sen sạch sẽ tinh khiết còn đọng lại vài giọt nước mùi hoa lá, sáng sớm chèo thuyền ra hứng từng giọt nước sau cơn mưa đêm, gọi "Diệp thủy tiên dạ vũ" hoặc với những giọt sương đêm còn đọng trên lá sen gọi "Diệp sương liên", tay ẩm giả ít khi vớt sương đọng trên cánh, đài sen, sợ mùi vị sen thơm quá "giết chết" hương trà. Món này, trước mình vẫn phải đi vớt về dâng tôn sư uống trà sớm. Nhưng con "Phi Mã trà" chẳng hiểu trà gì? Thường nghe người ta nói "Trảm mã trà" cho ngựa đói ăn trà ướt, chặt cổ mổ bụng lấy trà pha uống, trà ướp thêm "chất trong bụng ngựa" uống vào tuyệt ngon, thiên hạ đồn Tây Thái Hậu hay dùng như món óc khỉ, chuột sâm bao tử. Nhưng quả mình chưa nghe nói "Phi Mã trà" bao giờ.

                      Tuy nghĩ vẩn vơ, nhưng chưa tiện hỏi, và vừa khi có nước sôi, cô gái lấy trà pha, đưa khách chén "tống khẩu", cười bảo:

                      - Tiên sinh uống thử coi thứ trà này ngon chăng? Từ trước, thiên hạ vẫn ca tụng trà hái trên ngọn Vũ Di Sơn, tôi cũng đã uống được đúng thứ trà khỉ hái trên ngọn đỉnh. Nhưng tôi lại thấy thua thứ trà "Phi Mã" này. Do chuyện tình cờ, một bữa tôi cùng phụ thân lên rặng Pi A Ya chơi, có đem theo mấy con vượn lớn rất khéo. Đàn vượn leo lên ngọn Phi Mã cao hơn 2000 thước, kiếm trái ăn và bứt xuống một cây trà rất lạ. Thân bằng cổ chân, lại thấp lùn chỉ sáu, bảy chục phân, cành cũng to, sù sì, coi như loại cây cảnh có những chiếc lá, búp nhỏ bằng nửa trà thường. Bèn hãm sống uống thử, thấy ngon, đem sao ướp, uống vào tuyệt hảo. Có lẽ đất xứ ta vốn trồng trà rất ngon, thứ thượng sơn trà này mọc đỉnh núi đã lâu nên hấp thụ được lắm màu mỡ, khí trời cao sơn nên mới ngon hơn trà Vũ Di bên đất Quý Châu.

                      Thầy trò Minh Thần uống thử, quả thấy ngon đậm lạ thường, không sai lời nàng nói. Lúc này Quản Kình cũng đã yên trí đôi chút, cùng ngồi uống. Chủ khách uống trà đàm đạo rất tương đắc, nhưng toàn chuyện trà nước, sơn thủy, phong tục gần xa, nàng chẳng đả động gì tới chuyện "lạc lối" của khác. Võ Minh Thần chợt hỏi:

                      - Chẳng hay lệnh song thân đâu, không thấy? Ngu mỗ ước được bái yết,

                      tiện chăng?

                      Cô gái dịu dàng đáp:

                      - Song thân tôi đi vắng đã mấy ngày chưa về! Người xuống Lai Châu. Tôi hiện chỉ có một mình, còn chú em cũng đi vắng.

                      Võ lại hỏi:

                      - Cô nương có thể cho biết quý danh? Rất tự nhiên, nàng đáp:

                      - Tôi tên Nguyệt Kiều, họ Đèo! Còn tiên sinh?

                      Không cần dấu, chàng trai đáp liền:

                      - Ngu mỗ Minh Thần, họ Võ, người dưới Yên Bái. Còn đây là chú Kình.

                      - A! Thế ra tiên sinh người Kinh gốc, tôi thấy, đoán ra ngay. Coi tiên sinh

                      hình như lệnh từ mẫu là người miền núi.

                      Minh Thần chịu nàng tinh mắt, cười bảo:

                      - Còn cô nương tuy công chúa Thái đe, ngu mỗ coi chắc lệnh từ mẫu là

                      người Kinh.

                      Cô gái mỉm cười:

                      - Tiên sinh thấy tôi giống người Kinh nhiều sao? Nhưng điều này, ông

                      đoán sai rồi.

                      Minh Thần ngạc nhiên nghĩ:

                      - Không có máu Kinh sao coi giống Kinh rất nhiều. Chẳng lẽ cha họ Đèo lại là dân ta? Hay nàng du học lâu dưới xuôi?

                      Chàng trai uống từng ngụm nhỏ trầm ngâm, đang mơ màng nghĩ cách hỏi dò thêm, sực nghe cô gái họ Đèo vùng hỏi:

                      - Chẳng hay tiên sinh lên miền thượng nguồn sông Hắc này có chuyện chi?

                      Như được gãi đúng chỗ ngứa, Võ ngó cô gái họ Đèo, không đáp ngay mà chậm rãi hỏi:

                      - Chẳng hay cô nương ở đây có biết miệt lưu vực Hắc Giang nguồn thượng

                      này có sào huyệt một con tinh cực kỳ nguy hại?

                      Nàng nhướng mày:

                      - Một con tinh? Tiên sinh muốn nói loài quái vật thành tinh? Chàng trai mắt ngó thẳng mắt nàng:

                      - Vâng! Một con tinh, chó sói thành tinh, thiên hạ vẫn gọi "Tinh chúa tứtúc Hồng Cẩu Quẩy", một trong hàng tứ khoái tứ hung, cực kỳ độc ác. Chính ngu mỗ đang đi tìm cung động Tây Sắc Ma Vương.

                      Mặt vẫn không đổi sắc, cô gái hơi nhíu mày, liền hỏi:

                      - Có chuyện chi quan hệ, tiên sinh có thể cho biết chăng?

                      Giọng u buồn, Võ nói chậm muốn nghẹn hờn:

                      - Nó giết hại sinh linh, gieo oán khắp biên thùy, nó hấp sát mẹ mỗ, sau khi đã tàn hại gia đình, còn tìm tận diệt ngu mỗ từ lúc chưa rời vú mẹ. Oán ấy tích đã mười bảy, mười tám năm, mỗ chỉ sợ chết đi chưa được moi gan mổ ruột nó tế vong hồn cha mẹ. Cô nương ở miền này có nghe chuyện nó?

                      Cô gái họ Đèo khẽ thở dài:

                      - Nếu vậy thật là điều bất hạnh cho tiên sinh. Quả tôi có nghe nói tới nhân vật kỳ bí đó, nhưng hình như ở mãi tận bên kia hữu vực mạn gần ba biên giới, vùng A Pa Chải, Pam Pou Txe, có khi bên kia đất Vân Nam, hay Phong Salỳ chưa ai biết rõ. Xưa nay, miền này chưa bị nhân vật đó phạm tới. Tôi có nghe nói nơi Ma Vương ở vô cùng bí mật, xưa nay chưa ai tới nổi, hình như có cả ma trành, ma xó canh gác nữa. Lũ âm binh này sẽ vật chết tươi kẻ nào tới gần. Chắc ông cũng biết? Vào chỗ đó là vào "cửa tử thần", sao ông không đợi cơ hội đợi hùm thiêng ra khỏi hang?

                      Minh Thần ngậm ngùi:

                      - Cừu hận kéo dài ngót hai mươi năm rồi, nay gươm mài đã sắc, không thể đợi thêm.

                      Chủ khách ngồi đàm đạo, xem ý nàng ta có vẻ lo ngại cho khách gặp phải kẻ thù vô cùng lợi hại, nên nàng cũng không khuyên bỏ đi. Tàn tuần trà, Đèo Nguyệt Kiều mời thầy trò Võ Minh Thần dùng bữa tiệc đủ món sơn hào.

                      Rượu cẩm hạ thổ lâu năm ngon lạ, hai người uống mềm môi, còn muốn uống cho đến say mềm. Nhưng nữ chủ pháo đài vẫn không để khách quý say, thầy trò Võ cố ý vờ say, Đèo Nguyệt Kiều thấy thế mới hết nghi ngại,

                      Xong tiệc, Minh Thần cáo từ ra đi. Nàng lưu lại không được, bèn đưa tiễn hai người ra tận cửa rừng. Lúc đó, trời đã xế chiều.

                      Lời cô gái họ Đèo vẫn không căn cứ. Hai người bàn nhau không đi ban ngày nữa, lộn vô chỗ để quan tài, chờ đêm xuống để ngựa lại, dẫn theo hồn "quỷ xó" nương đêm sương lạnh rừng già, đi ngược lên thượng nguồn.

                      Vào khoảng giờ Hợi, đã tới khu giang biên vẫn chẳng thấy chi lạ. Tới ngay vùng ranh giới trông sang lãnh địa Vân Nam, giữa cảnh sơn lâm thiên hiểm, bỗng gặp mấy con đường mòn ngang dọc cũng ra mạn Hắc Giang. Thượng nguồn thác réo, bốn bề hoang vắng không một ánh lửa nhà sàn, giang biên trùm bí mật, núi đồi chớm chở kia! Khu này vẫn nằm trong mấy cái khối vũng nước này, tới bàn chông, thấy phải đi lên mũi nhọn à! Giẫm xuống dưới không được.

                      Ngọn đèn ma lừ lắm. Biết đâu không phải nơi có hang động "nó". Trên bờ hoang vắng, tịch liêu, biết đâu dưới nước không là Cung A Phòng Tây Sắc? Tinh chúa khôn quỷ, làm vẻ hoang sơ, không quân gác vì nó có trành xó rồi. Ta đợi quanh đây.

                      Quản Kình đưa mắt nhìn tứ phía, bảo chủ:

                      - Chỗ này địa thế, thủy thế đều hiểm trở, có thể là vùng thiết lập cung động chúa tinh. Đêm nay, ta cứ phục đây, nếu chẳng thấy chi lạ, mai ta sang lưu vực bên kia. Tôi nghĩ cậu hai cứ khiến "xó" tới sát biên giới, phòng có việc dùng ngay.

                      Minh Thần gật đầu:

                      - Rất tiếc "xó quỷ" không thể lìa xác được xa, phải chi ta có đủ thì giờ luyện "gà", "gà" có thể thám sát hàng trăm dặm. Nhưng đấu chiến, "xó quỷ" này lợi hại nhiều, vậy ta cứ triệu tới. Có lẽ cho cả cặp sơn cẩu đến.

                      Khoảng gần giờ Tý, hai người đã ngồi trên một ghềnh núi cao, ngay bên con đường xuyên biên hiểm trở, gần bờ Hắc Giang, sát biên thùy.

                      Biên địa chập chờn âm khí. Bốn bề quạnh vắng không một bóng sinh vật, ngoại trừ tiếng "khắc khảm loọng sôi" hai bên đầu núi, tiếng chim oan gia "trót thì bóp" gọi đôi rót vào linh hồn chàng tuổi trẻ cô đơn gợi oán sầu mồ côi thê lương. Gói thi hài mẹ bọc sáp ong vẫn đeo dính sau lưng, chàng tuổi trẻ ngồi bó gối nhìn xuống dòng sông Hắc nhấp nhô ghềnh thác, nước réo ào ào như tiếng... mơ hồ từ cõi xa xăm...

                      Quạnh quẽ, hoang vu, man dại, khắc khoải... Đến lúc trăng lên, vẫn hoang vắng vô cùng, mảnh trăng khuyết nhô khỏi rặng núi Đông, chảy mảnh vàng vọt xuống vùng Hắc Giang, sương khuya từng dải trôi lơ lửng, cảnh trí coi càng quái gở như trong thế giới hồng hoang. Minh Thần lẩm bẩm:

                      - Lạ thật, que độn Lục Nhâm ứng "giang biên hữu sự hung cát bất phân" sao... vắng vẻ mãi thế này? Con đường mòn tuy cỏ mọc cao, nhưng vẫn có mùi cỏ dập chứng tỏ vẫn có người đi, không lẽ thổ dân?

                      - Đã sao, mình cứ nấp đây... mai sẽ đảo vùng khác... Hay thử thám sát một vòng?

                      Quản Kình vừa dứt lời, thình lình từ nẻo trăng lên, có tiếng chó sói tru một tràng, âm nhọn hoắt vãi lên không chân giáo nhọn chạy lùi vùn vụt, nhưng rõ ràng trước mặt, đường hầm cứ thu hẹp lại mãi. Khi Võ vượt được hơn chục thước, chàng không khỏi thất Hồng Cẩu Quẩy. Vùng này vẫn có chó sói...

                      Minh Thần vừa dứt lời, lại nghe vẳng tiếng sói tru tràng nữa. Vừa dứt, dư âm chưa ngấm hẳn vào ánh trăng mờ, bỗng xế nẻo thượng lưu sông Hắc có tiếng sói tru nhọn hoắt, vãi lên không liền hai tràng. Rồi cả vùng sơn thủy hiểm cố lại rơi vào im vắng sâu thẳm, bặt cả tiếng khảm khắc.

                      Cặp Hắc Bạch Cẩu phục bên Võ hếch mũi lên đánh hơi, chúi mõm vào chàng, kêu "hí hí" nhỏ.

                      - À nó báo có người. Hắc Bạch! Xuống coi mau! Minh Thần ghé tai truyền mật hiệu, hai con sơn cẩu phóng vụt xuống núi như hai mũi tên đen trắng, thoắt mất dạng. Nhưng chưa đầy ba phút, đã thấy hai con vật tinh khôn này vọt về, cắn áo phát âm nhí nhí. Minh Thần vỗ đầu chúng, người vật phục im sau ghềnh đôi cành xòa. Vụt đã nghe tiếng vó ngựa rầm rap chuyền sịch tới. Rồi từ sau núi, hiện ra một tốp nhân mã rầm rập đi thẳng ra bờ sông Hắc. Chỗ này đường mòn lượn ngay dưới chân núi bọn Võ phục rồi chạy quanh co sát lợi nước về nẻo thượng lưu giữa những mỏm đá nhap nhô cao thấp không đều, rất thưa cây cỏ. Thấy tốp người ngựa đi tới, Võ Minh Thần, Quản Kình vội rời chỗ ẩn, men xuống dưới. Chỗ này kín, nhiều mỏm đá che chắn hết sức thuận lợi, hai người cùng Hắc Bạch Cẩu vọt xuống còn cách mặt đất độ mười sáu thước thì tốp người ngựa kia cũng vừa ra tới bờ sông. Cả đám dừng lại, hướng cả về phía dòng trăng. Chừng hơn chục bóng khỏe mạnh, cưỡi ngựa, đeo súng, dàn đứng hàng một, tất cả mặc quan áo chàm rừng, chít khăn Mèo. Bọn này hộ tống một chiếc "cáng" lớn đóng trên lưng hai con ngựa khỏe giống Nước Hai. Cáng dài ngót hai thước, rộng khoảng bảy mươi phân, toàn bằng thổ cẩm màu sặc sỡ, mảnh phủ có tua, viền thủy ba màu, có một khoảng dệt trống làm cửa sổ hình tròn nhật nguyệt, trong còn có bức rèm trúc nhỏ, mỗi cơn gió thổi, trúc mành khua lách tách dòn khô. Phía sau càng có hai cô gái cưỡi ngựa Thổ nhỏ nhắn, mặc lối Mèo, chít khăn nhiễu vành như cái rế, chân quấn sà cạp trắng, đeo "xà tích" khua loảng xoảng. Cuối đoàn có một người Mèo trạc ngũ tuần, râu ba chòm lưa thưa, đi với hai gã cao lênh khênh, cưỡi ngựa cũng cao, hai tên này mặc quần áo đen tuyền, mặt trùm vải đen, chỉ hở hai con mắt coi âm u quái gở như hai bóng cô hồn vì cả hai con ngựa cũng trùm vải đen hệt ngựa kéo xe đòn đám ma. Dưới chân ngựa còn có hai con sơn cẩu lớn nữa. Cả bọn coi đung đoàn lữ hành từ miền xa tới, vì người ngựa đều ướt loáng

                      mồ hôi, yên sau có cả hành trang. Vừa dừng lại, lão Mèo nói chi với hai gã trùm mặt, hai gã cúi xuống ra hiệu, hai con sơn cẩu vùng lên đi hai chân khật

                      khưỡng tiến ra sát bờ sông, trèo lên một mỏm đá trống, ngửa mặt tru mỗi con một tràng "quăng quăng" âm nhọn vãi về phía mặt trăng lạnh. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng. Minh Thần thì thầm:

                      - Trùm mặt, sói tinh đi hai chân... đúng quân Ma Vương Sắc rồi. Không lẽ nó ngồi trong cáng? Nó thường ngồi kiệu, có chó đàn đi theo. Bọn Mèo kia là bọn nào đây?

                      Lúc này, cả người vật đều bôi thuốc không sợ sói đanh hơi, hai thầy trò Minh Thần ẩn sau ghềnh, chiếu nhãn tuyến quan sát đoàn lữ hành lạ, cả hai mừng khôn xiết, cố đợi nghe lỏm, nhưng tất cả câm nín như lũ oan hồn.

                      Bỗng nghe có tiếng kêu "kia rồi", lão Mèo cùng hai tên trùm mặt tiến ra phía bờ sông. Từ sau mỏm đá thượng lưu xế Bắc ngạn, phóng vụt ra một con sài kíu to lớn thuộc giống Hồng Cẩu Quẩy mắt đỏ, trên lưng "cõng" một bóng lòa xòa đen thui. Hình người sói chờn vờn dưới trăng khuyết, coi huyền bí hết sức, thoắt đã tới sát đoàn lữ hành, bóng lòa xòa nhảy xuống. Đó là một tên khổ người tầm thước, gầy đét, khoác mảnh chăn đen, cũng trùm kín mặt.

                      Tên này vừa nhảy xuống, hai tên kia lập tức nhay xuống theo, cúi rạp chào, vẻ kính cẩn hết sức, lão Mèo cùng toán người cưỡi ngựa hộ tống cáng cũng rạp chào xuống đất.

                      Một tên cao trùm mặt phát âm:

                      - Phìn Mường La Nam Cương trên núi cao đem con gái quý tiến cung, xin

                      Quỷ Môn Tiền Độn Thổ cung tiếp nhận.

                      Tên này nói giọng Thổ, nói xong quay lại bảo lão Mèo:

                      - Đây quan Chưởng vệ trấn cửa tiền vương cung Thủy! Phìa cứ nói. Giờ

                      bọn này hết nhiệm vụ, phải quay lại cửa rừng.

                      Dứt lơi, bọn này định đi luôn, lão Mèo gọi giật:

                      - Chưa mở mắt mà! Tới sao chưa mở mắt? Hai tên này lừ lừ tiến lại cạnh lão Mèo. Mãi lúc đó, bọn Minh Thần mới kịp để ý thấy lão Mèo Phìa cùng bọn hộ tống, cáng gái hầu, ke nào mắt cũng dán tem đen. Hai tên này dùng thứ bông gòn tẩm thuốc riêng quét lên mặt tem trước khi bóc. Xong quay đi liền. Bọn Minh Thần mừng hết sức. Trên Mèo, ông Phìa cũng như chức chính tổng dưới Kinh, và Phìa là một chức quan coi một vùng lãnh thổ. Mường La

                      nằm trên sông Nậm La thuộc Vân Nam, Nam Cương thuộc đất Việt vùng biên thượng.

                      Phong Thổ là miền sơn lâm trùng điệp và cũng như các miệt thượng du suốt từ Lĩnh Nam sang tới Quý Châu, Tứ Xuyên, sắc dân Mèo ở rải rác trên các ngọn núi đồi chót vót mờ sương.

                      Gái Mèo mắt hơi xếch coi giống mắt phượng, đùi dài thuôn lẳn, bụng thắt, nhũ căng đầy sức sống, nước da hồng hào vì khí hậu cao sơn rất tốt, xưa nay xứ Mèo thường sinh nhiều gái đẹp.

                      Vậy nay lại chính ông Phìa miệt Mường La, Nam Cương phải thân dẫn con gái tới tiến dâng cho Tây Sắc. Dẫu Phìa nhỏ hơn tù trưởng lớn, nhưng cũng là một thứ tù trưởng nhỏ địa phương, cũng đủ để bộ tộc thí mạng đương đầu.

                      Hai thầy trò Minh Thần bỗng sinh tò mò muốn coi mặt cô gái tiến cung. Sực nghe tên gầy đét có chức "Quan Chưởng vệ trấn cửa tiền" hỏi dõng dạc kho âm bằng tiếng Mèo:

                      - Phìa được lệnh Chúa Ma Vương cho tiến cung con gái, có thẻ bài chăng? Lão Phìa Mèo gật đầu moi trong mình ra một... miếng xương trắng hếu, có lẽ là xương người, mài giũa rất nhẵn, chừng trên có khắc hình chữ chi đó, nấp

                      trên không thấy rõ. Chỉ thấy tên kia vừa cầm lấy soi ánh trăng coi qua, chợt kêu lên sửng sốt:

                      - À thẻ bài huy hiệu Tây Cung. Tây Phi mới mất, con gái Phìa được phong phi cung Tây.

                      Kêu xong, tên "quan Chưởng vệ" này lại cúi chào lão Mèo, đoạn xăm xăm tiến lại chỗ cáng đậu, nói một tràng tiếng Mèo:

                      - Chưởng vệ quỷ môn tiền, Độn Thổ cung nô tướng, xin bái yết Tây Phi và thỉnh Tây Phi nhập cung môn.

                      Bên trong có tiếng khóc thút thít đưa ra, lão Phìa Mèo đứng bên cáng vùng sa nước mắt bảo tên Chưởng vệ:

                      - Phìa hiếm hoi, trên ba mươi mới sinh được mụn con gái này. Nó tên Kheng Lan, mới mười tám tuổi, từ nhỏ chưa hề xa nhà, nay Chúa Sài lang tứ túc truyền đem tiến cung, nó sợ lắm, khóc suốt ngày đêm, xin Chưởng vệ tâu với Chúa Sài lang hãy rủ lòng bao dung, dạy dỗ. Phìa đội ơn.

                      Dáng vẫn lạnh lùng âm u, bóng đen lòa xòa có tôn hiệu "quan Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn" hơi nghiêng mình, lễ phép:

                      - Soái Vương Tinh vốn có thiên tính thích mỹ nữ lưng eo như Sở Linh Vương Hùng Kiều xưa. Nội trong Ngũ Cung Thập Viện, các nương nương cai quản cung viện đều thuộc bực "Tế Yêu Nương", cả năm cung đều là "Tế Yêu Cung" phi hậu. Lệnh Kheng nương đã được Soái Vương Tinh phong phi, cai quản cung Tây, đứng đầu hàng trăm mỹ nữ khắp hai viện, chẳng những đã

                      được vương gia sủng ái, tất nhiên oai quyền trùm cung thất, không còn phải ngại điều chi nữa. Xin cho bái yết nương nương.

                      Dứt lời, y gọi con sài kíu lớn tới, cả người vật phủ phục luôn xuống đất, coi không khác thần dân, quan chức làm lễ triều phục trước ông hoàng, bà chúa vậy.

                      - Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn Độn Thổ cung xin bái yết Tây Phi Chúa nương nương trường thọ.

                      Thầy trò Võ Minh Thần nấp ngay ghềnh núi xế trên nghe y "tấu yết" không cười nổi. Cử chỉ ngôn ngữ y kể ra cũng đầy vẻ trào lộng, giữa vùng biên hoang dã, nhưng lòng hai người đang hồi hộp, chỉ thấy rõ là miền biên địa quạnh hiu vắng vẻ này chỉ có bộ mặt hoang sơ cô tịch, nhưng bên trong là cả một triều đình bí ẩn, với đủ thứ quái nhân, quái thú, cạm bẫy, ma xó, ma trành ẩn nấp tiềm tàng dưới đất, dưới nước và tuyệt đối trung thành với Ma Vương Sắc như lũ thiêu thân say mê nhảy vào "ngọn lửa ma".

                      Chợt nghe trong cáng có tiếng phụ nữ Mèo vọng ra líu lo, giọng vẫn đầy nước mắt:

                      - Thôi thôi! Mi đứng dậy, không phải lấy lời ngon ngọt lừa ta nữa. Đàn bà con gái vào cung Tây Sắc, còn gì mà chúc sống lâu! Chúa Sài Lang nhà mi chuyên hấp sát đàn bà con gai, vào cung Chúa Sài Lang ghê hơn vào địa ngục. Ta còn lạ gì thân phận gái tiến cung.

                      Nói xong, lại nghe tiếng hắt ra bi thảm hết sức, làm lão Phìa Mường La Nam Cương thương con gái quá, lại vùng sa nước mắt, miệng kêu "Kheng Lan con ơi"!

                      Tên "Chưởng vệ" cô hồn đứng dậy, tiến lại sát cáng, vẫn lễ phép bảo:

                      - Tây Phi nương nương lầm rồi! Mỹ nữ trong Thập viện sao sánh nổi các bậc "Tế yêu nương nương" trong Ngũ cung? Mỹ nữ Thập viện như loài hoa bứt đem cắm lọ, và "Tế Yêu Nương" Ngũ cung là những đóa hoa vương giả đời đời đậu nguyên trên cành để vương gia thưởng ngoạn nâng niu. Trong Ngũ cung đâu không có tiếng cười, chim ca hoa nở. Tế Yêu Nương đi một bước chuong khua nhạc nổi, đi hai bước hoa nở gót hài. Dương Quý Phi ở cung Đường, Tây Thi ở Cô Tô Đài Ngô Cung cũng đến thế thôi! Hàng vạn mỹ nữ trên đời ôm giấc mộng vàng son chưa được, dưới Cung Thủy chỉ có năm bậc quốc sắc mới được phong phi, hậu. Đời thục nữ tiến cung làm phi hậu là điều đại hạnh, hoa nở vườn thượng uyển càng thêm hương sắc, cớ sao lại héo sầu? Tây Phi hãy vui lên, để kẻ nô bộc này rước xuống Cung Thủy, vui duyên A Phòng.

                      Giọng y nói tiếng Mèo rất hay, tuy vẫn lành lạnh, mà nghe êm hết sức, hình như cũng làm gái tiến cung trong cáng đỡ lo buồn, héo hắt, kinh mang.

                      Thầy trò Minh Thần đều thông nhiều thổ ngữ sơn cước, nghe rõ từng lời tên "Chưởng vệ" cô hồn kia nói. Chàng trai bất giác thoáng ngạc nhiên nghĩ thầm:

                      - À tên cô hồn này xem chừng không phải chỉ biết nghề canh cửa cho Ma Vương. Y nói văn vẻ, chải chuốt như hạng "xuất khẩu thành chương", chứng tỏ đầu óc phong phú khác người. Ma Vương Sắc không hổ tiếng "thành tinh", đến kẻ nô bộc của nó cũng là tay điệu nghệ, còn nói chi nó nữa. Người như tên này cam tâm thờ Tây Sắc, chẳng hiểu do "ngải yêu" hay chỉ vì liệu tài hâm mộ? Tối nay, không ngờ lại nắm được "đường dây mật" đi cung động Ma Vương, phải cẩn thận giấu tung tích lắm mới được.

                      Đang bế điện, nín thở, theo dõi, chợt thấy mành trúc sào sạc, rồi bưc rèm che khung trống vén hẳn sang bên, có một khuôn mặt đàn bà lấp ló, nghển trông sang.

                      Chừng cảnh sơn thủy thượng nguồn Hắc Giang dưới trăng khuyết đầu xuân làm nàng xúc động, người nữ nhô hẳn cả nửa mặt ra với bơ vai thon lẳn. Ánh trăng xiên chiếu chếch khung cửa sổ, soi rõ mặt hoa rừng làm hai thầy trò Võ Minh Thần trông thấy phải khen thầm là trang mỹ nhân biên thùy, tuy mặt nàng vẫn che một lần "voan" mỏng như tơ trời, coi như gái Thổ Nhĩ Kỳ che chàng mạng. Dầu vậy cũng trông thấy dung nhan. Đó là một cô gái Mèo trạc mười bảy, mười tám, mắt hơi xếch, sáng long lanh, mũi thon, mặt hoa còn hoen nước mắt sau lần "voan" rất thưa, mỏng coi mờ mờ huyen ảo đẹp như bông hoa rừng còn ướt sương sớm.

                      Nàng đưa một tay lên nắm mép "voan" trùm, cất tiếng líu lo thánh thót như chim sơn ca:

                      - Đây là đâu... chú "vệ"?

                      Tên quan "Chưởng vệ" ngó lên hơi cúi đầu như không dám nhìn thẳng vào mặt Tây Phi sợ mòn mất nhan sắc Tế Yêu Nương của Chúa Sài Lang Tinh:

                      - Dạ, đây là thượng nguồn Hắc Giang ngoại cung thủy.

                      Cô gái Mèo tên Kheng Lan này đưa mắt nhìn cảnh sơn thủy nằm bặt dưới trăng khuya sương mờ, khẽ hỏi:

                      - Cung động đâu? Sao chỉ thấy núi đồi rừng cây như bên Mường La?

                      - Thưa nương nương, cung Thủy mãi dưới đáy sông Hắc phía trên nguồn nước kia.

                      Tên cô hồn "Chưởng vệ" đưa tay trỏ xuống Hắc Giang nguồn thượng xa xa chút, nơi sóng rừng cuồn cuộn, đá nhọn nhấp nhô ngăn dòng lưu thủy thành

                      từng ngọn nước bạc đầu như hình quái nhân quái thú từ dưới vụng vừa chui lên chực nuốt người bội thủy.

                      Nghe y bảo cung động dưới sông, cô gái Mèo đầy vẻ kinh ngạc, lên tiếng hỏi nhưng tên này không đáp, có lẽ y vừa sực nhớ đã đi ra ngoài nhiệm vụ trấn nhiệm tiền môn, nên vội giang tay nói lớn:

                      - Giờ xin rước Tây Phi qua tiền môn, kẻ nô bộc này còn bào cho dưới cung Thủy lên đón. Còn Phìa và gia nhân có thể quay về Mường La. Phìa thân dẫn Tây Phi tiến cung tới tận tiền môn này, là tròn bổn phận rồi. Soái Vương Tinh sẽ hài lòng, chac sẽ tặng Phìa nhiều châu báu.

                      Lão Phìa Mèo nói luôn:

                      - Phìa không cần châu báu vàng bạc. Nhà Phìa có. Phìa chỉ cần đưa đứa con gái quý của Phìa xuống cung Thủy dâng cho Chúa Sài Lang là Phìa vui. Dẫn Phìa đi.

                      Tên cô hồn trùm mặt nghiêm giọng:

                      - Xưa nay vẫn có lệnh "nội bất xuất, ngoại bất nhập", "ai muốn vào chặt đầu để ngoài". Không có lệnh Chúa, kẻ này không dám dẫn. Phìa hãy trở về. Dưới Độn Thủy cung, ma trành, ma xó vật chết người. Kẻ này cũng còn chưa biết cung Thủy mà.

                      Lão Phìa xua tay:

                      - Không không! Phìa phải đưa con gái Phìa xuống gặp Chúa Sài Lang. Chúa đã bảo Phìa. Phìa không trao con gái Phìa cho ai đâu. Nếu không gặp Chúa Sài Lang, cha con Phìa về Mường La.

                      Tên cô hồn "Chưởng vệ" vẫn không nghe, chỉ một mực đòi thỉnh Tây Phi xuống Độn Thủy cung, có lẽ vì y quá sợ cấm lệnh của Ma Vương. Y dùng hết lời lẽ ngọt ngào khuyên lão Phìa, viện đủ điều khó khăn nguy hiểm, nhưng lão Phìa cũng nhất quyết đòi trao con gái tận tay Tây Sắc Tinh. Cuối cùng, chợt lão Phìa nói lớn:

                      - Chúa Sài Lang đã có lệnh cho Phìa đưa con gái xuống cung động. Nay "vệ" coi cửa ngoài cứ đòi Phìa về, một mình đem Tây Phi đi, hay "vệ" có ý như Phí Vô Cực? Phìa đã đọc Đông Chu, Phìa biết mẹo Phí Vô Cực à.

                      Chẳng hiểu sao, nghe lão Phìa Mèo nhắc tới thơm kỳ dị, thoảng như mùi hoắc hương phả nhẹ vào mũi chàng trai, gây cảm giác lâng lâng thanh thoát.

                      - Nàng là ai lại ở giữa Cung A Phòng? Xem chừng nàng mang vạ vào thân.

                      - Kẻ này không dám đem Phìa theo chỉ vì cấm lệnh. Để Phìa theo, phạm cấm điều, một mình lãnh Tây Phi còn lo tai vạ hơn nữa. Vậy cũng đanh dẫn cả

                      Phìa tới Độn Thủy cung để trong đó định liệu. Thôi. Phìa cùng hai thể nữ mau rước Tây Phi theo kẻ này, còn toàn quân hộ tống hãy theo bọn tiền sát trở ra.

                      Lão Phìa cả mưng, vội truyền đám gia đinh lập tức quay ra, mắt vẫn bịt kín, đoạn cùng hai cô gái hầu "phò" nàng Kheng Lan theo tên "Chưởng vệ Quỷ Tiền Môn" đi thẳng lên nẻo thượng nguồn Hắc Giang.

                      Đợi bọn này đi khỏi quãng ngắn, hai thay trò Võ Minh Thần bèn truyền "xó quỷ" mở đường, dẫn Hắc Bạch Cẩu theo hút luôn chúng.

                      Nhờ có hồn quỷ xó Ma Khách và cặp sơn cẩu thính hơi, bọn Minh Thần phát giác ra được tất cả các trạm gác ngầm dưới đất, trong kẽ đá. Khu này cũng chỉ có một vài trạm gác, có lẽ vì đã lọt nội cung, thủ hạ đóng ngoài vòng đai. Nhờ tại dạ hành điêu luyện, hai người đã vượt êm thắm không hề bại lộ.

                      Tên Chưởng vệ dẫn đám lão Phìa đi dọc bờ sông quanh co ẩn hiện giữa mỏm đá, cây cỏ, bờ bụi, chừng nửa dặm nữa, chợt dừng lại, con Hồng Cẩu Quẩy vênh mõm tru lên ba tiếng dài, tiếng sói tru trăng khuyết đêm sương lạnh, kẻ bạo gan nghe cũng phát rợn vì âm gai quái gở như trong ác mộng hồng hoang. Lập tức có tiếng sói tru đáp ứng giữa sông.

                      Bọn Minh Thần đứng cách đó chứng 20 thước ẩn trong bụi rậm đưa mắt quan sát, thấy khu này địa thế, thủy thế hiểm hóc, vừa cẩm tú lạ thường. Hai bên tả hữu ngạn, núi đồi rừng rú trùng trùng điệp điệp, nhấp nhô hình quái tượng, tuy về cữ giêng, hai không có mưa nguồn nước lũ, Hắc Giang khúc này coi vẫn "nghịch" hết sức, nhiều ngọn bạc đầu, vụng xoáy đựng đầy ánh trăng, nước réo ào ào phát ra một thứ âm rất lạ tai, nghe ầm ừ như tiếng thú dữ "gừ" mồi, có lẽ xói vào những hốc ghềnh chìm nổi dị thể.

                      Bọn Minh Thần đảo mát nhìn, phỏng đoán có lẽ khúc này nằm giữa hai lãnh thổ, bốn bề tuyệt không ánh lửa le lói. Sực nghe tên Chưởng vệ trùm mặt bảo lão Phìa, tay trỏ ra sông:

                      - Cung Thủy dưới đó.

                      Cả hai cha con lão Phìa cùng hai cô sơn nữ tỏ vẻ kinh ngạc, cô gái được phong Tây Phi vén rèm trúc, thò hẳn đầu ra dòm:

                      - Cung Thủy đâu? Có thấy căn nhà nào đâu?

                      Tên Chưởng vệ phát ra tiếng chìm âm u:

                      - Quỷ tiền môn Độn Thủy cung đến đây là hết nhiệm vụ kẻ này. Từ đây lên phía thượng nguồn Tây Bắc thuộc "vệ" khác. Từ đây xuống dưới thuộc Độn Thủy cung. Kẻ này cũng chỉ biết cung động soái vương Tinh Quân dưới đó, kẻ này trấn đã mười năm trên này, vẫn chưa được thấy cung son. Lệ của Tinh Quân Chúa, đàn ông cứ hầu một giáp sẽ được xuống xem thủy cung.

                      Hai cha con lão Phìa vẫn chưa dứt kinh nghi sửng sốt, lão Phìa chợt bứt râu than:

                      - Ôi chao! Cung ma cung quỷ gì lại xây dưới nước như lâu đài vua Thủy Tề. Chúa Sai Lang ngự được, con gái lão là người cõi thế, xuống bội thủy mất thôi.

                      Tên Chưởng vệ lạnh lùng:

                      - Chúa Tinh Quân cho ai xuống, kẻ đó có kỳ duyên được ở động thần như trên mặt đất. Dưới cung A Phòng có cả Ngũ Cung Thập Viện, đầy chim kêu hoa nở, kỳ diệu như miền nước nhược non Bồng, giống Ông chớ nên ló mặt. Chúng còn lảng vảng khắp nơi.

                      Dứt lời nàng thoăn thoắt đi ra. Chừng nửa phút bỗng nghe có tiếng nàng reo "a đây" rồi thấy nàng xách từ dưới đáy nước bắn lên một con đại chiêm ngư cực kỳ quái gở. Con cá bắn mình lên khỏi mặt nước hơn sải, mang theo cả một khối nước trắng xóa theo chiều chếch 45 độ, quạt nước thốc về phía đuôi coi như cái dải quạt. Khi nước tóe cầu vồng đã trút hết xuống, con đại chiêm ngư mới vật mình nổi phờ trên mặt sông, bơi vụt vào chỗ lão Phìa đứng. Dưới trăng khuya, thì ra không phải con cá quái, mà là một cái thuyền độc mộc không mái, hình thuyền coi như con quái nước kỳ dị. Trên thuyền có hai bóng người đen thui, mũi thuyền sơn son, có thiếp vàng chạm trổ lấp lánh coi như thuyền thờ.

                      Hai bóng người đứng cứng đơ, thỉnh thoảng mới ngoáy bơi chèo nhẹ chọc xuống nước, coi như hình gỗ đá. Nhưng chỉ vài mái chèo chọc nước, con thuyền sơn son đã lao vụt vào bờ, nhanh xé nước.

                      Bỗng nghe "bựt" một tiếng, ai nấy nhìn xuống đã thấy thuyền bật lên một cái núm chống nổi đàn "trành" dữ đâu. Chưa nói quanh đây còn nhiều chỗ có "khoán"

                      Minh Thần lĩnh ý, truyền "Xó Khách" ẩn luôn trong phòng. Phút chốc, nước giác chứng kiến một cảnh phi phàm. Tên Chưởng vệ cô hồn trỏ tay, giọng trở nên háo hức:

                      - Coi kìa! Thuyền son dưới cung Thủy lên rước Tây Phi. Ngồi trong cáng, nàng con gái ông Phìa nghe nói có người lên đón, có vẻ xúc động, vén rộng mành trúc, thò cả đầu ra dòm, miệng hỏi "đâu, đâu? ". Còn lão Phìa lật đật bước theo tên "quan Chưởng vệ Độn Thổ cung" ra sát bờ sông. Nấp xế gần cáng, bọn Võ Minh Thần chú mục trông ra, thấy con thuyền quái từ dưới đáy sông vọt lên, bao nhiêu nước trong lòng thuyền chảy ồ xuống

                      sông hết, y hệt thuyền độc mộc đổ thác Bà thác Ông miệt Lục Yên châu, và khi thuyền hạ xuống theo đà chèo lao đi vùn vụt theo một vệt thẳng băng kẻ

                      chếch từ ngoài vào, hai thầy trò không khỏi khen thầm cho tài chèo thuyền của hai bóng đen thui. Võ Minh Thần nghĩ ngay đến sức đẩy khác thường, ghé tai bảo Quản Kình:

                      - Dưới nước, nếu không do một sức đẩy phi phàm, tất dưới đó có dây cáp cần trục đầy lên. Chắc còn nhiều cạm bẫy.

                      Chàng vừa dứt lời, con thuyền dị đã cập bờ, lượn vòng thúng, đậu quay mũi vô hướng thượng lưu, mặt nước cách mặt đất độ ba thước cao, hai bóng đen chỉ lắc nhẹ một cái đã vọt lên đứng cạnh tên Chưởng vệ trên bộ.

                      Hai bóng này đứng lù lù như tượng đá, câm nín như cô hồn. Nhìn gần, bọn chúng trông càng giống tượng, coi càng gớm ghiếc, vì thân thể chúng không mặc quần áo, mà lại bọc một thứ sáp hay chi đó, tựa thứ nhựa của sắc dân Mán sơn đầu vẫn dùng để làm "bê rê nhựa". Suốt từ bàn chân lên đầu đều bọc một thứ nhựa sáp đen thui, vẫn giữ nguyên hình tứ chi mình mẩy, cái đầu nhẵn thín hệt Mán sơn đầu, chỉ có các khớp xương chính là có đường để cử động. Dưới ánh trăng khuyết, coi cái mặt chúng, kẻ bạo gan cũng phát rợn, vì mặt bọc nhựa và giữ nguyên hình mồm miệng mũi mắt, nhưng đã hóa một cái mặt nạ có mấy lỗ mắt mũi mồm tai như mấy lỗ huyệt, sau lần nhựa sáp, hai cặp mắt chúng đỏ khé như mắt thú rừng ăn đèn săn, coi không khác hai cái "xác ướp" giữ mồ Kim Tự Tháp vừa đội mồ sống lại sau mấy ngàn năm đứng trong lòng đất Ai Cập.

                      Không chậm trễ nửa khắc, tên "Chưởng vệ Độn Thổ cung" nói:

                      - Đây ông Phìa Mường La đem gái tiến cung. Soái Vương chúa sắc phong Tây Phi, chưởng quản cung tây Tế Yêu. Còn đây là quan Chưởng vệ Độn Thủy cung tiền môn dưới cung Thủy.

                      Hai bóng vẫn đứng như xác ướp giữ mồ, phát âm trầm khô:

                      - Kiểm chứng! Khách quý có tín bài?

                      Lão Phìa lấy mảnh bài ngà xương chi đó trao cho hai tên bọc nhựa. Tên

                      cao hơn chút đỡ lấy, lật đi lật lại coi, đoạn trả lại lão Phìa, hai tên nhất loạt tien lại bên cáng phục luôn xuống kính cẩn:

                      - Độn Thủy cung Chưởng vệ hạ quan nô thuộc xin bái yết Tây Phi, chúc

                      nương nương sống lâu trường tồn.

                      Cô gái tiến cung thò tay ra xua lia lịa, kêu líu lo:

                      - Ôi chao! Còn bày chuyện lễ lạy, phi phi nương nương là gì cho thêm tủi người ta. Chúa Sài Lang các người bắt ta phải nạp mình hầu chăn gối Sài Lang, không chịu cả nhà bị chó sói ăn thịt, có vinh hạnh gì đâu mà các người cứ mãi

                      xưng hô bái lễ mãi. Nay ta đã đến đây, mau đưa xuống động ma động quái cho xong kiếp hồng nhan. Hai tên vẫn phủ phục, một tên ngước trông lên, nghiêm giọng:

                      - Tây Phi chưa biết cung Thủy nên nói vậy đó thôi. Cung Thủy của vương chúa nhan sắc là miền nước Nhược non Bồng trên trần, cung vua điện chúa chưa sánh kịp. Nương nương được phong Phi, chưởng quản Tế Yêu cung Tây, địa vị tôn quý không ai bằng, trăm ngàn my nhân vọng ước suốt đời chưa được. Tế Yêu cung tháng ngày chỉ có tiếng đờn ca, chim hót, hoa nở, rượu ngon, yến tiệc vàng son, gấm vóc; mỗi bước Phi đi gót nở hoa vàng... Kẻ nô bộc này tưởng nương nương xuống cung Thủy một lần, suốt đời không muốn trở lên cõi thế trên bộ nữa.

                      Dứt lời, cả hai gã "người bọc nhựa" nhất loạt đứng dậy. Võ Minh Thần nấp nghe, không khỏi ngạc nhiên, thầm nghĩ:

                      - Lạ dữ chưa! Tụi cô hồn canh cửa Tây Sắc Tinh sao tên nào ăn nói cũng văn hoa bóng bẩy, xuất khẩu thành chương? Hay Tây Sắc bắt chúng học thuộc lòng? Hừ! Cứ nghe lời chúng ta, cung A Phòng của Tây Sắc là miền hoan lạc như chốn Bồng Lai, ai dám chắc là cái "lò hấp sat", "ngục giam giữ đời hoa"?

                      Sực lại nghe một tên "người bọc nhựa" lên tiếng thỉnh Tây Phi sửa soạn xuống cung Thủy. Tên Chưởng vệ trên bộ bảo:

                      - Phìa muốn theo dẫn Phi xuống gặp mặt Soái Vương gia. Phìa bảo Soái Vương gia đã cho lệnh tại Mường La.

                      Hai tên quái nhân bọc nhựa sáp cũng sợ phạm cấm lệnh. Lão Phìa nhất định đòi theo con gái, nói mãi không được, lão lại đem chuyện Phí Vô Cực tráo hôn nàng Mạnh Doanh ra dọa, gã "bọc nhựa sáp" lúc đó mới chịu nghe lời. Cực chẳng đã, tên cao Chưởng vệ Độn Thủy cung phải chép miệng bảo:

                      - Xuống cung Thủy rất khó khăn, cách trở nước sông, hang sâu vực thẳm. Vậy Phìa và nương nương hãy cho gái hầu trở về, còn theo kẻ nô thuộc này. Ngựa cũng phải để lại trên bộ.

                      Cô gái ngồi cáng nói vọng ra:

                      - Thị nữ sẽ hầu ta dưới đó, ngươi cứ dẫn cả theo. Chúa Sài Lang không

                      trách phạt đâu.

                      Hai tên bọc sáp ngó nhau mấy khắc. Tên cao vùng cao giọng:

                      - Đêm khuya rồi! Thỉnh Tây Phi xuống thuyền, còn tới "lò nấu sáp"!Lão Phìa ngơ ngác nhắc "lò nấu sáp". Tên cao phát âm Thổ:

                      - Cung Thủy không giống trên bộ. Ai cũng phải nấu sáp mới xuống dưới đó được.

                      Lão Phìa Mèo Mường La lại gần cáng, nói vọng vào:

                      - Kheng Lan con! Theo cha! Giờ phải xuống thuyền! Để nó tháo cáng, cuốn lại!

                      Hai gái hầu lập tức lấy ra một cái thang gấp nhỏ, bắc dựng len ngựa. Nàng Kheng Lan vén rèm phủ, bước qua lưng ngựa, xuống thang. Cặp gái hầu nhanh nhẹn tháo cáng, cuốn lại cùng một bó hành trang.

                      Dưới trăng vơi, hai thầy trò Võ Minh Thần lúc này mới nhận ra nàng Mèo Kheng Lan mặc lối Mèo hoàn toàn, chân có quấn cả xà cạp, nhưng có điểm khác là xà cạp cùng màu với khăn chít, màu cá vàng, rất ăn ý với bộ quần áo Mèo tay rộng, màu xanh không phải xanh chàm cố hữu mà là màu xanh đậm. Minh Thần thì thào:

                      - Chú thấy không? Nàng Mèo tiến cung này văn minh lắm. Vẫn dùng y phục bộ tộc mà màu sắc lại phảng phất lối cô dâu Kinh bên Nam. Kể cũng không lạ. Bên Tàu đất rộng, nhiều vùng biên thường giao tiếp với bên Nam nhiều hơn nội địa. Dân Mèo sống trên núi cao, biên giới bị họ xóa nhòa là thường. Cô Mèo này lọt mắt Tây Sắc Tinh kể cũng khổ. Gái đẹp phải làm vợ chó sói.

                      Quản Kình im bặt, quay nhìn tiểu chủ, chàng trai vừa thở dài, cắn chặt hàm răng. Hình ảnh dĩ vãng lại hiện về, đầy nắng quái hoàng hôn nơi biên thùy Trùng Khánh phủ mười bảy, mười tám năm xưa, người đàn bà quốc sắc thuộc bộ tộc Thái, Thổ chi đó bị Chúa Sài Lang hấp sát thành cái "túi da người" chỉ vì không cam tâm thờ chó sói... Người đàn bà đã chết thảm nhục giữa thời xuân sắc, để lại trên đời một giọt máu mồ côi với mối thù chung thân chưa báo được.

                      Hai thầy trò Võ trông theo, thấy con thuyền không theo hướng cũ, mà cứ lướt vùn vụt lên thượng lưu. May khúc này cũng quang, trăng chiếu nên vẫn thấy rõ. Đợi cho tên Chưởng vệ trên bộ khuất hẳn, hai người mới truyền "xó Khách", Hắc Bạch Cẩu đi trước mở đường, rồi mới theo sau. Nhưng may từ chỗ này đi, không còn trạm độn thổ nào nữa.

                      Hai người nương bóng tối mờ, vọt theo thuyền cung Thủy, chừng trăm thước, không thấy đâu nữa, bèn lướt thẳng tới, phát giác con thuyền đậu sâu một ghềnh đá, lau lách mọc đầy, dưới thuyền chẳng còn bóng nào. Nhưng với "xó Khách", chó thính, bản lãnh cao, hai thầy trò Minh Thần cũng tìm luôn được chỗ hai tên Chưởng vệ cung Thủy đưa cha con lão Phìa Mèo vào, cách chỗ thuyền đậu chỉ độ ba mươi thước xế.

                      - Cậu hai! Tôi làm cậu buồn! Bậy quá!

                      - Có gì đâu. Hừ! Loài cẩu trệ! Đêm nay tôi sẽ làm cho vong hồn mẫu thân được ngậm cười trong cõi u minh.

                      Ngay khi đó, tên Chưởng vệ trùm mặt cúi chào bọn lão Phìa, nhảy lên lưng sói, dắt ngựa lộn ra phía ngoài, lao vọt qua chỗ hai người nấp. Hai tên dưới cung Thủy thỉnh bọn Phìa Mèo xuống thuyền cáng mui gấm vóc. Thuyền quái lướt ngược dòng Hắc Giang.

                      Đó là đầu dải núi, mấy bề cây cỏ um tùm, nơi chân núi có một cái cửa tò vò đen ngòm như cửa địa ngục.

                      Hai tên cung Thủy "bọc sáp sơn dầu" vẫn đứng xế bên cửa tò vò với bọn lão Phìa Mèo như chờ đợi chi, đứng xa xa thầy trò Võ thấy tên cao chỉ trỏ làm hiệu, chừng như đang căn dặn điều chi.

                      Chừng mười phút, bỗng trong cửa tò vò lừ đừ đi ra hai bóng đen lòa xòa, trùm mặt. Tên chưởng vệ Độn Thủy cung vùng cao giọng:

                      - Mọi thứ xong rồi! Giờ Phìa có thể đưa Tây Phi vào lò nấu sáp. Xin chớquên lời dặn. Coi chừng sơ ý có thể nguy hiểm.

                      Lão Phìa Mèo lập tức cùng cặp gái hầu đưa cô gái Kheng Lan vào bốn lò nấu sáp. Hai tên chưởng vệ cung Thủy vẫy tay, truyền hai bóng lòa xòa kia cùng đi ra phía bờ sông đợi.

                      Minh Thần, Quản Kình tò mò, chẳng hiểu trò "lò nấu sáp" có chi lạ. Hai người đứng vài mươi giây, Minh Thần nảy ý muốn vào do thám xem sao, bèn bảo Quản Kình đứng ngoài, đoạn đi vòng sang phía hữu, nương bóng tối lách vào cửa tò vò.

                      Tối mờ, nham nhở. Trước mắt Võ có một bức rèm màu đỏ buông sát nền chia đôi gian đá. Trong màn, lửa cháy rừng rực, hắt soi mấy bóng nữ đen ngòm, cao lêu nghêu như bóng quỷ nhập tràng. Có nhiều tiếng líu lo thánh thót hắt ra, toàn tiếng Mèo.

                      Chàng trai rón rén bước lại bên rèm, nhẹ kéo hở chút, ghé mắt dòm vào. Thì ra là lò nấu sáp. Mot cái bếp rất to, bếp kiềng đường kính rộng hơn thước, chiếu cao non thước không đậy vung. Bếp đốt củi thông, lửa bốc cao liếm thành chảo, trong chảo đang sôi sùng sục một thứ chi đặc sệt như cháo kê, cạnh đấy có máng nước chảy ồ ồ và một bể đá, bên kia là cái bể nữa đựng những cục vàng vàng, đen đen như sáp ong, nhựa đường. Cô gái Mèo tiến cung và cặp gái hầu đứng bên bếp, một cô gái cầm gáo múc nước đổ vào chảo, còn một cầm xẻng xúc sáp nhựa đổ vào.

                      Chảo sáp sôi sùng sục xông mùi hắc, chợt nghe một cô gái hầu lên tiếng giục:

                      - Sáp chảy hết rồi kìa, xin "cô nàng" thay xiêm áo.

                      Vừa nói, cô sơn nữ này vừa lại xách lấy một mớ quần áo mỏng như giấy, đứng gần Kheng Lan.

                      - Nào thì thay! Vừa nói, Kheng Lan vừa lần tay cởi khuy áo.

                      Chợt cặp gái hầu khiêng trong hốc đá ra ba pho tượng gỗ. Giật mạnh một

                      cái tượng bể làm hai, mới hay tượng rỗng. Cặp gái hầu áp luôn vào mình mẩy Kheng Lan. Chát! Pho tượng rỗng "ăn mộng" vừa khớp, nàng đã chui vào ruột tượng.

                      Rất nhanh, hai gái hầu lại giúp nhau chui vào ruột tượng, thoắt cả ba đều hóa ba pho tượng gỗ đứng lù lù.

                      Hai cô gái kêu "giờ bắt đầu đổ khuôn", và mỗi cô vớ lấy một cái gáo múc nhựa sáp đang sôi sùng sục đổ rót luôn vào đỉnh đầu tượng, nơi có một lỗ thủng bằng đồng xu, cắm một cái phễu sắt.

                      Võ động lòng, chợt hiểu:

                      - À! Chúng đổ khuôn mặc quần áo sáp nhựa cho gái chủ. Sôi sùng sục thế kia nêu không có chất chi kỵ nóng chắc thành heo luộc mất. Bọn gái Mèo lúc nãy coi ủ ê sướt mướt, giờ coi mạnh bạo không sợ hãi chút nào, kể cũng lạ.

                      Hai gái hầu đổ một chập mấy chục gáo đặc sệt, phát tiếng "ọc ọc" như đổ chè đặc vào chai, bỗng nghe âm âm có tiếng cười từ tượng gỗ vọng ra:

                      - Ha ha! Không đến cái cung chó má này làm sao được nếm mùi "đúc tượng đúc chuông"? Kể Chúa Sài Lang cũng khôn dữ à. Đã cho mặc áo phèn chua, lại còn hồ cả người bằng "xà phòng" thơm phép thần thông giỏi lắm! Nào! Xong chưa để ta đổ khuôn cho?

                      - Dạ cũng gần xong! Bỗng thấy hai cô gái hầu dừng tay, trao gáo cho Kheng Lan, nàng Mèo múc sáp nhựa đổ khuôn cho cặp gái hầu. Xong, lại gói các thứ xiêm y cùng thổ cẩm vật dụng thành mấy gói, lấy giấy sơn quang dầu bọc lại, đem bọc sáp het. Giây phút xong, cả ba tháo khuôn tượng cho nhau. Tượng gỗ vừa bể đôi, trong lò nấu sáp đã hiện ra ba "xác ướp giữ mồ" coi gớm ghiếc. Chợt nghe

                      tiếng lão Phìa gọi gian bên, Võ Minh Thần vọt luôn ra, vừa kịp lão Phìa bọc sáp cùng ba gái Mèo ra ngoài, lúc này coi cứng nhắc đúng bốn pho tượng sáp.

                      Bốn hình bọc sáp nhựa vừa ra, hai tên trùm mặt coi lò nấu sáp lập tức đi vào cửa tò vò. Nghe "rịch" tiếng nặng, cửa tò vò biến mất, thầy trò Minh Thần trông vào chỉ thấy vách đá lạnh lùng như ngậm kín bí mật Hắc Giang.

                      Bọn lão Phìa Mèo Mường La Nam Cương theo hai tên Chưởng vệ cung thủy bước xuống con thuyền quái có căng khoảng mui gấm.

                      Hai thầy trò Minh Thần nhìn theo, thấy chúng lấy dưới sạp ra mấy bình dưỡng khí đeo cho bọn lão Phìa, sáu người sáu chiếc như các tay thợ lặn vẫn dùng, nhưng nhỏ gọn hơn.

                      Ngay khi đó, hai tên Chưởng quản đã vớ bơi chèo khuấy nước, con thuyền rời khóm lau sậy lướt chếch ra ngoài dòng.

                      Ánh trăng vàng nhạt chảy đầm đìa mặt Hắc Giang, sương mờ từng dải kéo lê trên bờ dưới nước, bốn bề quạnh quẽ tiêu sơ gió lùa lau lách đìu hiu... con thuyền chạy vát thượng lưu ra tới giữa dòng thì có ngọn nước bạc đầu nhấp nhô, bỗng nghe "bùm" như tiếng mìn nổ dưới nước, khói xám tỏa rộng mặt sông, chắn mất tầm mắt hai người.

                      Nửa phút sau, khói tan hẳn, nhìn ra giữa dong chỉ thấy một vùng sông nước đìu hiu, nguồn đổ ào ào, sương đêm vương vất, chẳng thấy con thuyền quái dị kia đâu nữa.

                      Sực nghe tiếng thét gai rợn như vuốt nhọn cào tai người:

                      - Mùi cỏ dập hăng, có đứa nào vừa đi qua đây! Bọn mi canh "Lò nấu sáp" không thấy? Tụi gác cung độn thổ biết chưa? Hai thầy trò Võ Minh Thần nghe rõ mồn một, lòng không khỏi ghê thay tài đánh hơi ma quái của con tinh chúa.

                      Bỗng nghe tiếng người đáp giọng Thổ cực kỳ cung kính, như tâu với vua chúa:

                      - Khải Chúa thần thông, không gì qua mắt chúa. Mùi cỏ dập đó quả mới

                      có khách đáo lâm, kẻ nô bộc này cũng vừa đóng cửa lò!

                      Có tiếng Ma Vương hét:

                      - Khách nào?

                      - Khải Chúa, Chưởng vệ Độn Thổ cung mới dẫn vào một đám khách bên Tàu sang, xưng Phìa Mường La, đem Tây Phi tiến cung. Chưởng vệ cung thủy tề đã cho mở lò nấu sáp!

                      Có tiếng "à" lớn, tiếp liền giọng Ma Vương Sắc dịu hẳn đi, đượm nhiều hứng khởi:

                      - Phìa Mường La Nam Cương mới tới? Hà hà! Lão Phìa này biết uy lệnh Chúa Sài Lang, đáng thưởng nhiều vàng bạc! Tây Phi đâu?

                      - Khải, nấu sáp mặc áo độn thủy xong, nương nương đã được Chưởng vệ cung thủy đưa xuống cung thủy. Khải, thuyền mui gấm đi khỏi, có cả Phìa cùng hai gái hầu nương nương.

                      - Cho bay lên! Có tiếng dạ ran, tiếp thế sao? Ông cho là tôi đã lẻn xuống báo tin cho Sài Lang Chúa biết để đón đánh ông? Trời... Tôi... Tôi đã xét lầm người rồi. Tôi tưởng ông là bực trượng lướt chếch ra sát bờ sông Hắc, thoắt đã đi qua xế chỗ

                      bọn Võ nấp.

                      Võ Minh Thần xách áo bảo Quản Kình:

                      - Chú cùng cặp sơn cau ở trên này! Tôi đem "xó" xuống tùy cơ ứng biến. Giờ phải bọc súng, quần áo lại! Quản Kình chỉ muốn theo, nhưng thấy chủ có lý, đành chịu phép. Minh Thần cởi phăng quần áo, súng lục, dụng cụ thiết yếu bỏ vào một mớ, dùng sáp đem theo sẵn bọc kín lấy cho khỏi ướt.

                      Đoạn mặc quần áo chẽn bằng da rái cá ghép, đeo gói di hài mẫu thân, chàng tuổi trẻ vỗ mạnh vai Quản Kình. Kình nắm lấy tay chủ, cả hai câm nín, nửa phút mới buông nhau ra. Minh Thần bắt quyết gọi "xó", truyền khẩu lệnh xong, chàng trai lao "bõm" xuống dòng Hắc Giang đêm mất tăm.

                      Người quản gia dẫn Hắc Bạch Cẩu vọt vào bóng cây biên địa, sông rừng chỉ còn trăng khuya treo đầu núi như lưỡi hái tử thần lăm le hạ xuống cổ kẻ nào tò mò dám lần tới vùng "lãnh thổ Ma Vương".

                      Ngay sau khi lao xuống dòng sông lạnh, Võ Minh Thần lập tức vận sức điện công cho ấm người, cứ thế chiếu hướng lao chênh chếch ra phía chiếc thuyền son vừa mất dạng. Sông hồ càng dưới sâu càng ấm, khí lạnh sông hàn thường chỉ có phía trên.

                      Hắc Giang thượng nguồn có lắm đá ngầm nên dưới sâu có nhiều luồng xiết kỳ dị cùng những vụng xoáy sâu thẳm chỉ chực uốn xoắn người vào các nhũ đá tai mèo, răng cưa, kẻ không giỏi bơi lặn bị nước xoáy chạm phải sẽ nát mình như bị hàng trăm lưỡi dao sắc băm vằm, không kém kẻ lội qua suối bị ngã, nước cuốn vào đá ngầm vậy.

                      Nhờ đã học được thuật độn thủy của Xích Quỷ Ngũ Đầu Nam, Võ Minh Thần cứ lao vùn vụt xuống đáy sông, trườn lách qua khu đá tai mèo tìm kiếm cửa động. Khi đã phỏng ước đến chỗ thuyền mất dạng, Võ mới nhô đầu lên quan sát thuy thế, rồi lại hụp ngay, lao hẳn đến khu hiểm hóc.

                      Chỗ này quá giữa sông, nằm xế bên tả, đá ngầm, đá nhô khỏi mặt nước trùng trùng. Võ bám sát đá ngầm nhè nhẹ nhô lên, tai nghe âm thanh dưới nước thật lạ, nhờ đêm trăng, nước về xuân không có lũ nên trong vắt, thấy được lờ mờ.

                      Võ Minh Thần lần vách đá trồi lên suýt đụng phải chùm thủy lôi thả chìm dưới mặt nước khoảng một thước tây xuống, trái thấp trái cao không đều, chàng trai phải lách giữa mớ thủy lôi để nhô lên vì ngay bên có một tấm lưới thép đen xỉn khác hẳn nước chỗ khác.

                      - À lọt vào khu cạm bẫy! Nếu vậy các mỏm đá chắc cũng có tẩm thuốc độc! Có lẽ phải kiếm đúng khu chiếc thuyền trồi lên, mới ra cửa động!

                      Minh Thần nhờ học được nghề bơi lặn của Ngũ Đầu Nam, lúc này chàng có thể vẫy vùng, thở ngay dưới nước như loài thủy tộc nên chuyện độn thủy không còn khó khăn nữa, thoắt chàng đã nhô lên mặt sông lượng định vị trí.

                      Nhưng vừa thò đầu lên chàng đã phát giác ngay một con Hồng Cẩu Quẩy ngồi chồm chỗm giữa khe đá khuất, thò đầu lên dòm mặt trăng khuyết, nửa mình nó in vào nền trời vàng úa, thoạt nhìn có thể lầm tưởng đó là một mỏm đá giống hình con chó sói. Minh Thần nhô xế bên sườn nên nó không hay, chàng trai lại lặn luôn, vòng sang phía tả ngạn.

                      Bỗng chạm phải một sợi dây cáp, dưới chiều sâu khoảng ba thước.

                      - À! Ta hiểu rồi! Chiếc thuyền son ban nãy đã chạy trên dây cáp này, do một bộ máy hay có sức khỏe đẩy lên. Nếu vậy, cuối dưới dây cáp này có thể là cửa động.

                      Minh Thần cả mừng lập tức độn thủy lao chúc đầu theo đường "cáp" xuống mãi. Nhưng chỉ hai sải, dây "cáp" lại chạy ngang sang mỏm đá khác, rồi mới ăn chênh chếch xuống nữa, chỉ chừng mười lăm độ. Chàng cứ theo đường dây lao vun vút mãi, được chừng mười sải, chợt lòng sông tối sầm lại.

                      Vận nhãn tuyến trông, mới hay đang vào giữa kẽ đá, chừng một cái hốc vụng lộ thiên, vách đá có chỗ chỉ cách dây độ thước tây. Chàng có đeo kính lặn có cả đèn rọi, nhưng không bật đèn, sợ lộ. Cứ lần dây lao xuống, thỉnh thoảng dừng lại thở hít lấy khối lọc dưỡng khí vào phổi. Đường xuống cung động Ma Vương này hiểm hóc vô cùng, nếu phải nhịn thở độn thủy chắc khó lòng nín hơi lần tới đích.

                      Lướt vào hẻm đá lộ thiên chừng năm, bảy sải chếch, bỗng trước mặt tối om, trông lên không thấy vệt nước sáng trên mặt sông nữa. Và trên dây "cáp" đậu lù lù một con thuyền cổ quái. Hình thuyền mờ mờ hiện ra với nét quen quen, đúng con thuyền vừa lên đón cha con lão Phìa Mèo.

                      Có một con đường vòng uốn cong như cái cầu vồng nối liền hai vách đá. Minh Thần lướt lên trốc thuyền đi, vận hết nhãn lực quan sát, mới hay đó là một tấm biển. Sờ thử, đó là biển đá nhẵn như mài, trên có một hàng chữ Hán cẩn vàng nổi lấp lánh giữa cảnh tranh tối tranh sáng, hình như chữ bằng vàng y. Chàng ghé mắt nhìn, nhưng đêm trăng nhạt, dưới đáy Hắc Giang tối mờ

                      trông không rõ đủ nét, chàng bèn thò ngón tay sờ thử từng chữ một: "A PHÒNG CUNG" Nét chữ nổi sắc như dao cắt truyền qua xúc giác Võ Minh Thần vang âm

                      trong trí chàng trai thành ba tiếng gọi cực kỳ quyến rũ, khiến cặp mắt chàng trai vụt sáng tia hận thù sau lần kính lặn.

                      - À! A Phòng! Hang A Phòng dưới đáy Hắc Giang sào huyệt của con tinh chúa tứ túc Hồng Cẩu Quẩy đây rồi! Đội ơn thiên địa đã run rủi kẻ mồ côi khốn khổ này tới được cửa Ma Vương Sắc! Song thân oan khuất, hồn có linh xin về chứng kiến giọt máu rơi này vào hang tinh sói, báo thù chung thân!

                      Tự nhiên máu như sôi sục, Võ Minh Thần hiểu ngay đây đã bắt đầu vào cửa tử thần, chàng trai đưa tay bấm cung, triệu "xó quỷ", tay kia bịt kín miệng hú khẽ truyền quyết lệnh:

                      - Ma Khách xó! Đã tới cửa động Ma Vương Tinh Hồng Cẩu Quẩy, khá đi trước dẫn đường cho thầy! Coi chừng cạm bẫy ma trành! Gặp trành xó, phải báo ngay cho thầy bắt nhốt! Chớ để nó thoát đi báo cho Ma Vương!

                      Có tiếng âm âm "tuân lệnh" bên tai, rồi một bóng mờ vọt vào cửa động thủy, tan biến trong bóng tối nước dập dờn.

                      Minh Thần đứng bên mạn thuyền chừng nửa phút, bỗng thấy tít cùng trong một hang có một đốm xanh lè như hạt đâu xé nước lao ra, đậu bên tai, mơ hồ có tiếng Khách Quảng Đông:

                      - Cửa thủy đạo này dài sáu mươi thước! Ngay cửa này có cái máy bẫy thuyền, từ đây đi vào là đường dây cáp khác. Đầu mối cạm bẫy đó, chạm vào sẽ có giáo đâm súng tên bắn, sang tả có nhiều thủy lôi nhỏ thả giữa kẹt đá, phải đi sang ngả hữu, đường "cáp" tối mò! Xó nô dẫn lối, thầy chớ chạm dây "cáp"!

                      - Bật đèn rọi được không?

                      - Cũng được! Nhưng chỉ bốn mươi thước, đến khúc quẹo thầy tắt đi, trong đó có hai con xó trành canh cửa cung! Vào đó xó nô sẽ hiện báo thầy.

                      Minh Thần bật đèn rọi, vệt sáng quét tấm bảng đá cầu vồng, sáng lòa ba chữ "A Phòng Cung" vàng rực. Chàng trai lao mình vào phía hữu dây cáp chăng giữa ruột hang.

                      Ruột hang sâu hun hút, ăn lên ăn xuống không đều, Vừa trườn vừa chiếu đèn sang tả, quả thấy vách đá đầy thủy lôi, mũi giáo, mũi súng lắp sẵn, tên nhô tua tủa, lướt qua cũng thấy gai người.

                      Thoắt đã tới khúc quẹo, Võ tắt đèn, đóm xanh hiện ra, xé nước lao trước dẫn đường, xó Ma Khách rất khôn, cứ lướt sát dây cáp cho chủ liệu chiều độn thủy. Chừng hai mươi thước, bỗng đốm xanh táp vào vách tả đậu sau hốc đá.

                      Ruột hang tối, nhưng phía trong hắt ra một thứ ánh sáng la làm nước đỏ lờ như máu loang, từ chỗ Võ nấp vào trong vài thước, nước réo cuồn cuộn, sông ngầm sói vách đá, phát ra một thứ âm kỳ dị nghe vừa như tiếng biển sóng ngầm vừa như tiếng chạm nước xoe xóe làm mặt hang như sôi sục.

                      Võ Minh Thần quan sát, nhờ ánh sáng le lói chiếu ra, chàng chợt phát giác hai bên vách dựng hai cỗ quan tài độc mộc, mặt ván thiên ghép kính dày, trong quan tài đứng sừng sững hai xác người mặc quần áo rừng núi, một cái nữ quấn xà cạp trắng đeo xà tích, đầu đính khăn Mèo, còn hở một mảng trọc lóc, chừng đàn bà Mán cóc; còn cái kia xác nam, chít khăn chàm, chừng Nùng, Thổ chi đó. Cả hai đều đứt lìa cổ họng, vết lìa còn in ro khuôn nanh răng nhọn, chắc bị Hồng Cẩu Quẩy cắn chết.

                      Sau lần kính nước lung linh đỏ màu máu, hai con xó trành này mắt mở trừng trừng như đang bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn đời.

                      Rất nhanh, Võ Minh Thần đưa tay bắt quyết đọc chú. Đúng lúc, mắt xó trành vụt long lên sòng sọc, nhìn ra xó tối, chừng như nó đã phát giác có người lạ đột nhập cung cấm. Võ nghe rõ hai tiếng xé nước lao tới, chàng trai lập tức đứng thẳng người, chân kẹp mỏm đá, quắc mắt bắt "quyết" chặt hai tay vào nhau.

                      Tiếng xé nước dừng trước mặt. Đốm xó Ma Khách xẹt ra chặn hậu. Đáy nước réo sôi, phát âm dị, sóng quật vách đá, dưới nước trọng lượng nhẹ đi, Võ chao động người, đứng giư tay ấn. Cuộc vật lộn kinh hồn vô ảnh diễn ra chỉ độ mươi khắc, bỗng nước đỏ cuốn réo, hiện ra hai đốm xanh lè bằng hạt đậu, sà xuống nền hàng như hai con đom đóm bị gió thổi bạt. Minh Thần thở phào, che tay lên miệng quat:

                      - Đem nó nhốt vào quan tài! Hai mươi bốn giờ sẽ thả! Nếu nó kháng cự, cho mi tru diệt.

                      Vút! Hai đốm xanh lao vào quan tài. Minh Thần múa quyết cầm xó xong, cùng xó Ma Khách lướt vào. Mới hay đã tới cửa cung Thủy! Giữa một hang có một cái guồng đao quay tít hàng mấy chục lưỡi thép sắc như gươm chém nước xoe xóe liên miên. Xó Ma Khách vụt vào, hãm phắt guồng đao. Hiện rõ một con đao ba mươi sáu lưỡi to bản áp sát nóc trần, có một khoảng trống vừa người hẹp.

                      Võ theo xó trườn vào. Qua hai thước nước nữa, hang đá ăn chếch lên, chỗ này vừa hết hang thủy đạo. Trước mắt, xế trên cao, hiện ra một cái cửa tò vò hai bên có hai tòa thạch thất nhỏ, trong ánh sáng đổ vật vờ. Trên cửa tò vò có một tấm biển uốn cầu vồng nữa bằng đồng hun đen bóng, có cẩn hàng chữ vàng rực. Lần này không là Hán tự mà là quốc ngữ, viết kiểu "La Tinh" hang trên nhỏ hơn hàng dưới:

                      "Động Thủy Cung" A Phòng Chúa Ma Vương Tây Sắc. Không bóng người vật, nhanh như cắt Võ Minh Thần vọt luôn lên bờ, ẩn luôn vào chỗ khuất, chàng trút vội bộ quần áo da rái cá, bỏ bọc sáp lấy quần áo chàm, lau khô mình mẩy, mặc giáp sắt, tra đạn, đeo súng cối, dắt gươm sau lưng, cài liễu dao... Chỉ hơn phút sau, đã gọn ghẽ trong bộ quần áo chẽn chít khăn thổ, dận giày Tàu, đội mũ sắt kéo sụp mặt, vụt trở nên một hình thù dữ tợn. Chàng tuổi trẻ đeo di hài mẹ sau lưng, chụp khiên thép Thập Vạn Đại Sơn, đứng trong bóng tối bắt quyết triệu "xó Khách", đọc chú, chìm giọng hô âm lệnh:

                      - Quỷ xó! Thầy nuôi dưỡng xó mấy tháng trời không như pháp sư chủ khác bắt xó truyền đời hầu hạ! Thầy có mối hận thù với con tinh chúa Hồng Cẩu Quẩy, báo cừu xong sẽ giải nguyền giải chú, làm lễ siêu sinh cho xó hoàn nguyên âm hồn, đi đầu thai kiếp khác. Bình sinh xó là người giỏi võ tinh khôn, nay khá đem tài linh mẫn giúp thầy cho thiêng! Giờ đây thầy bắt đầu tiến vào cửa động Ma Vương Sắc, đêm nay thập tử nhất sinh, vì thầy phải tìm bắt chúa tinh tứ túc, truy nguồn gốc. Trước khi ra tay báo cừu, hành động phải thật êm, "xó" hãy theo sát thầy, lưu ý nhất "ma trành" của nó. Nếu gặp ma trành phải báo thầy biết ngay, chớ để bại lộ.

                      Quỷ xó Ma Khách đã vào cõi u minh, bên tai Võ có tiếng âm u:

                      - Thầy cứ yên lòng, có xó nô hầu hạ. Xin thầy cho xó đi trước mở đường.

                      - Không nên! Tây Sắc Tinh Hồng Cẩu Quẩy trí cao thuật cường. Cung A Phòng này là hang động nó nhốt gái đẹp, có nhiều chỗ "khoán". Xó đi một mình lỡ sa vào bùa "khoán" nguy ngay! Phải đi bên, lỡ gặp thầy còn giải "khoán".

                      Quỷ xó vâng lệnh, từ đó theo sát bên mình người thầy trẻ cao tay. Ánh sáng đỏ khé từ trong hai căn nhà đá nhỏ hắt ra. Võ Minh Thần men vách đá, vừa tới bên cổng, quả nhiên đã phát giác ngay nóc tò vò, dưới chữ "A Phòng Cung" có dán một đạo bùa "khoán" nét vẽ loằng ngoằng, dấu son đỏ chót trên giấy vàng, sau lần đồng trụ có treo một ngọn đèn lồng vải điều, dưới đèn có chăng một tấm lưới ngũ sắc chạy vòng sau tấm biển, đứng phía trước không trông thấy. Giơ tay làm hiện, Võ Minh Thần bắt quyết nhẩm đọc chú giải, đoạn cắn chót lưỡi, nhảy lên đu nóc cổng tò vò, phun phì máu vào lá bùa, tấm lưới ngũ sắc. Lạ thay. Máu vừa bắn vào lập tức loang rộng, lá bùa, tấm lưới ngũ sắc bỗng xông khói, rồi bốc cháy bùng, đốt tiêu luôn cả chiếc lồng đèn xế trên. Võ Minh Thần vẫy tay, thầm gọi xó, vừa lọt qua cổng tò vò, bỗng nghe trong căn nhà đá hắn đâu phải thường nhân. À! Ta lại nghe hình như hắn bị Chúa Vương đánh bị thương, có khi hắn nấp kẹt rồi gục luôn đấy à! Bọn ngươi nên cẩn thận. có hai cái bóng đen thui chạy vụt ra, nhìn lên nóc cổng tò vò. Dưới vùng sáng tối nham nhở, Minh Thần nhận ra hai tên hình người bọc sáp coi như hai xác ướp giữ mồ Ai Cập. Chưa biết tà thuật chúng xòe, Minh Than trông ra thấy Đèo Nguyệt Kiều cầm thoi bạch lạp nhỏ uyển chuyển vén rèm bước vào, cắm nến trên bàn cười bảo:

                      - Lũ "trành" kéo nhau chúng mới giật nhẹ mình vì sửng sốt, trúng đòn, thủng luon lần nhựa bọc, đổ dụi xuống như hai khúc cây, không kịp kêu một tiếng. Minh Thần vọt vào, đứng bên cửa hữu. Hai bóng sáp nữa chạy ra, bị chặt liền hai phát, gục theo, không kịp phản ứng trước tài xuất thủ thần tốc của chàng trai. Võ nhìn vào nhà đá, mỗi gian chỉ có một cây đèn đất có lồng vải to như cái thang treo trên vách với vài món khí giới, điếu cày... cả hai gian không còn tên nào. Lục soát qua, chẳng thấy chi khả nghi, Võ bước, lôi cả bốn bóng nhựa vào. Cả bốn đều ngất lịm, có kẻ tim ngừng đập, sờ thử, có hai bóng sáp còn ẩm ướt, mới hay trong bọn có hai tên xưng Chưởng vệ Độn Thủy cung vừa lên đón cha con lão Phìa Mường La. Võ nhặt tên cao nhất, thò tay búng vỡ lần sáp nhựa bọc mặt, nhắc ra từng

                      mảng lớn. Ánh đèn nham nhở hắt vào mặt thật vừa hiện rõ, đó là một bộ mặt sần sùi đầy sẹo, còn như in vết dao rạch nát, nổi bóng như mơ, coi phát ớn.

                      Tên này nãy nghe y nói văn hoa đúng con nhà văn tự hào hoa sao mặt mũi lại ghê thế này. Minh Thần búng vỡ mặt nạ nhựa tên khác, cũng vậy. Vẫn bộ mặt sẹo chằng chịt xấu chàng vừa có cảm giác êm đềm kỳ lạ, thứ cảm giác chàng chưa hề có, kể cả lúc gần các cô bạn gái, "như vừa thức giấc sau đêm tân hôn, trong căn buồng không sai! Bọn này đều là hoạn quan. Rạch nát mặt mày hủy hình dung, thiến cho hầu dưới cung A Phòng để tránh chuyện thông dâm với mỹ nữ. Hừ! Tây Sắc Tinh áp dụng luật khuê phòng cung cấm còn gắt hơn cả vua chúa đời xưa. Xưa vua chúa chỉ hoạn các quan hầu cận, hoặc chọn kẻ ái nam ái nữ, còn Tây Sắc lại cho hủy cả hình dong, cho dứt hẳn cảm tình của mỹ nữ, kể tàn bạo tính bướng, hay nghịch, nàng đã trấn tĩnh truy luôn:

                      - À... Thế ra ở sơn động, cũng có người gấp chăn, bưng nước "hầu ông" đó

                      ư? Chẳng hay tỷ tên cao tỉnh lại, lôi hắn ngồi dậy. Tên này trợn mắt kinh hoàng, Minh Thần dịu hỏi:

                      - Chỗ con tinh Tây Sắc đâu? Trỏ, ta sẽ tha mạng, cứu ngươi thoát móng

                      vuốt sài lang. Mi là "Chưởng vệ Cung Thủy" này?

                      Tên Chưởng vệ lạnh lùng lắc đầu:

                      - Ta không biết! Biết sao được chỗ chúa ngự! Mà có biết cũng không trỏ

                      đâu.

                      Minh Thần cau mày:

                      - Tây Sắc hủy mặt, thiến giống, tàn hại đời ngươi, ngươi không oán sao? Tên Chưởng vệ mặt lạnh cười khô:

                      - Oán? Hà hà! Mi không điên rồ sao thốt lời ngu ngốc thế? Kiều ngạc nhiên, bước xuống dịu hỏi:

                      - Sao thế... ông? Tôi làm ông buồn...?

                      - Không đâu! Nhắc tới Khao Lan, tự nhiên ngu mỗ không cầm lòng được. cho là lạ, lắc đầu bảo:

                      -Mi bị yêu thuật tinh chúa rồi! Nói đi, trỏ chỗ nó, ta sẽ giải độc cho. Tên Chưởng vệ nhếch mép cười:

                      -Mi vào đây là vào chỗ chết, ta xuống âm trước đợi mi

                      Lời vừa dứt, y đã trợn trừng mắt, ngoẹo cổ sang bên. Nạy miệng coi, thì ra tên này cũng có một cái răng giả nhét sẵn độc dược.

                      - Hừ! Bọn cuồng tín. Chắc bị ngải độc, yêu thuật con tinh. Gớm thật. Tây Sắc dùng người "độc", đúng chúa Sài Lang.

                      Võ Minh Thần đứng lên, xốc bọn chúng đặt gác lên bàn, đoạn lập tức rời căn nhà đá, tiến vào đường hang. Qua chừng mười bước, ruột hang tối dần, quanh co uốn khúc, sâu hút.

                      Nhưng đi chừng ba mươi bước nữa, ruột hang lại sáng dần, lại là thứ ánh sáng xanh lè như lân tinh, khiến cảnh trí càng trở nên quái gở lạ. Nhưng chẳng biết từ đâu phát ra. Đường hầm quanh co khúc khuỷu im vắng đến nỗi Võ Minh Thần nghe rõ cả tiếng đập của trái tim, mơ hồ đâu đây có một thanh âm nổi chìm huyền hoặc, người thường chắc khó phân biệt, nhưng Võ Minh Thần đã học bí thuật độn thủy dưới sông với Ngũ Đầu Nam, nên nhận ngay ra đó là tiếng nươc ngầm xé ghềnh đá.

                      Đoạn thạch đạo ngầm ăn dưới lòng Hắc Giang. Minh Thần cứ xăm xăm đi miết giữa vùng ánh sáng xanh lè. Bất thần, chàng dừng phắt lại. Trước mặt có tiếng nước đổ ào ào như thác lũ. Có tiếng gió hu ghê người, phả lên mũi một mùi tanh đến lộn mửa. Dạt sát vách đá, chàng định thần nhìn kỹ.

                      Cách chừng năm, bảy bước, đường hàng bị cắt đứt bởi một vùng nước rộng khoảng bốn mươi bộ, sóng cuộn nhấp nhô bắn tóe bọt trắng lên bờ. Vẳng như có tiếng phì phò lạ tai hết sức, pha những tiếng chí chóe như dơi kêu chuột chiếp.

                      Võ nhẹ gót tiến sát lại gần, nhưng còn cách độ sải tay bỗng nghe tiếng "xó" thì thào hô "đứng lại". Chàng khựng luôn.

                      Dừng nhìn, không phải vũng nước không mà còn một lạch nước chảy ngang qua, lạch rộng khoảng hai thước tây, nhưng vách đá chụp xuống cách mặt nước hai bên chỉ độ ba gang. Gió thổi vù vù như tù và rúc, từ hữu sang tả, vụng, lạch chừng có nhiều đá ngầm, nhưng chẳng có mỏm đá nào nhô lên mặt nước. Chú ý, chàng còn thấy vụng phảng phất như có màu đen nhạt hơi khác màu không gian chỗ khác. Mùi tanh vẫn theo gió phả xông vào mũi nong nặc.

                      - Ngã ba! Chẳng hiểu ngả nào vào cung? Võ quan sát, thấy hai ngả lạch đen ngòm, nếu đi phải lội nước, chỉ nhô được cái đầu, coi đầy cạm bẫy. Còn ngả thượng bên kìa thì lại rộng quá, nhảy khó, chỉ còn cách vượt theo vách đá hoặc lội qua, nhưng ngả này cũng đầy

                      nguy hiểm.

                      Đang phân vân chợt nghe tiếng xó kêu bên tai:

                      - Hai bên lạch đầy thủy lôi phục. Gió thổi vù vù, trúng người hộc máu chết tươi. Vì nó thổi qua túi thuốc độc bot treo trong vách hữu lỗ chỗ tổ ong. Luồng độc thổi ngang tầm người. Dưới nước vụng, những chỗ nước nhỏ gợn

                      đều là thủy lôi ngầm. Vụng sâu ngập đầu người, toàn nước độc. Nhưng đường bên kia là ngả vào cung. Minh Thần quay nhìn sang vách đã hữu, quả nhiên thấy một khoảng lỗ chỗ tổ ong từ mặt nước lên khoảng hai thước. Võ khẽ hỏi:

                      - Vậy thầy nên vào cách nào đây?

                      - Thầy nhảy qua luồng gió độc mà vào! Nếu cách xa, thầy nhảy hai nấc. Võ quan sát, trần hang cao, nhưng nếu nhảy ngồi co chân rất khó vượt trốc luồng độc vừa băng qua vụng rộng hàng bốn mươi bộ. Hang tranh tối tranh sáng. Thấy bốn bề vắng lặng, Võ bat luôn đèn rọi lên

                      trần, rẽ ngang, chợt thấy xế bên kia luồng gió độc thổi, có hai dòng thạch nhũ cụt chỉ còn độ gang tay.

                      - À đây rồi! Ta lấy nó làm điểm tựa, bíu quăng mình đi, vậy mới có thể nhảy nằm được.

                      Chàng vừa lùi lại lấy đà, bỗng nghe gầm gừ phì phò chí chóe nhiều âm dị tợn, rồi dưới lạch tả kẽ đá bắn ra ngàn con rắn độc, bên kia sóng bỗng nhô cao, có một bầy dải độc, thuồng luồng xé nước lao ra xoe xóe, há mõm, múa vuốt, trố mắt, định phóng lên bờ; ầm ầm lại một bầy hàng năm, bảy con hà mã từ đáy nước nhô lên, phun phì phì, con nào cũng to hơn con trâu mộng, giương mắt trố như đèn pha.

                      - Chà! Bầy thú thật hung tợn! Bên ta xưa nay không có loài hà mã, sao vùng Hắc Giang bên này lại có? Chắc Tây Sắc lấy giống bên Tàu, thả từ thượng nguồn sông Đà sang nuôi trong cung?

                      Rất nhanh, Võ lùi lại, vận dụng luôn bí thuật Thanh Âm động, khẽ cất mấy tiếng hiệu thú âm thú ngữ đã dày công luyện tập. Quả nhiên bầy thú nhất loạt dừng lại, hếch mõm, phì phì, lắc lư. Thấy bầy hà mã, dải, thuồng luồng bơi sát các ngọn sóng thủy lôi, Võ Minh Thần phát ớn, lập tức lùi mấy bước lấy đà nhảy vút qua vụng nước.

                      Vì trần không cao nhiều, luồng độc phong lại tạt ngang từ mặt nước tây, nên Võ Minh Thần phải nhảy theo lối đầu đi trước, phóng vút qua khoảng trống giữa luồng độc phong và trần đá, vừa lao qua trên luồng gió độc, vừa hãm lại, Võ chụp luôn hai dòng thạch nhũ sát trần và hắt ngược lại lấy đà, quăng vút mình qua phần vụng bên kia, hạ hai chân xuống nền hang nhẹ như chiếc lá rụng.

                      Dòm lại, bầy thủy quái vẫn há mõm nhe nanh, trố mắt nhìn theo. Ngọn độc phong vẫn thổi vù vù thành luồng đen mờ trốc đầu vụng. Minh Thần tặc lưỡi cái, dẫn "xó quỷ" tiến luôn vào thạch đao ngầm.

                      Đường hầm sâu hun hút, quanh co uốn khúc, chập chờn một thứ ánh sáng xanh lè lân tinh, chỉ đủ soi lờ mờ các vật thể lớn.

                      Tiếng gió thổi, nước xô bờ lùi lại sau lưng khi Võ Minh Thần vượt thân được năm bộ nữa. Bên tai, thứ âm nước sóng ngầm dưới đáy hồ cũng vụt tắt hẳn, chàng thấy mình đi vào một vùng im lìm kỳ dị, thứ im lìm như trong quan tài làm tay bạo gan mấy cũng phát rờn rợn, cảm giác như rơi vào một cõi "vô vi" nào ben ngoài cuộc sống.

                      Đường hầm rộng khoảng thước rưỡi, trần cao, mắt đảo nhìn quan sát từng mỏm, hốc, Võ Minh Thần còn phải đề phòng cạm bẫy, địa lôi phục, hầm hố... Chàng phải bế huyệt, vận khinh thân phù, lướt hờ trên mỏm đá nhẹ như bấc. Đang tiến bước, bất thần nghe bên tai có tiếng thì thầm "Coi chừng, thầy". Võ ngồi thụp xuống bên vách, vừa kịp thấy sau khúc đường cong, ghềnh chìa, một con sài kíu lông vàng ngực khoang trắng nhô ra, cách hơn chục thước.

                      Đó là một con Hồng Cẩu Quẩy to lớn, nó đi hai chân sau, khật khưỡng, lắc lư lừ lừ, giữa vùng ánh sáng màu lân tinh hình thù quái gở in đậm lù lù, rõ cả nanh vuốt trắng nhởn, hai con mắt xếch đỏ khe. Nó cũng vừa phát giác có bóng người bên vách, lập tức lắc mình một cái, nó lướt tới đi hai chân sau thoăn thoắt, mõm nhe ngoác như gợi hình ảnh loài tinh tứ túc.

                      Nhanh như chớp, Minh Thần thả vụt liễu đao, ánh sáng bach nháng cầu vồng, con "quỷ mắt đỏ" thò chân trước gạt mạnh, bị lưỡi thép chặt đứt lìa. Võ sợ nó kêu, thả vụt lưỡi thứ hai, cái đầu con sói nhảy "bộp" xuống đất, con thú còn đi thêm mấy bước, không đầu, cổ cụt phun máu phì phì, coi gớm ghiếc.

                      Minh Thần thu đao, đứng bên, con sói cụt đầu đổ huỵch. Chàng tiến lại chùi đao vào lông con thú độc, xách thây cụt đầu kiếm hốc tối ném vào, và tiếp tục tiến vào hang.

                      Từ chỗ này không gặp thứ gì cản trở. Đường hầm lồi lõm, lên xuống gập ghềnh, nhưng hình như ăn lên nhiều, sâu hun hút, chàng trai càng vào càng thấy lạ vì đường hầm sâu dị thường, xưa nay cõi trần thượng du, đặc biệt thượng nguồn Hắc Giang chưa hề nghe nói đường hang ngầm nào lại dài đến thế. Võ Minh Thần thấy hang sâu kỳ dị, đoán có lẽ đây là hang nhân tạo, tuy vậy chàng vẫn có cảm giác bàng bạc mơ hồ như mình đang lạc vào một con đường phi phàm dẫn tới cảnh trí thế giới phi phàm dưới đáy Hắc Giang.

                      Mải lần theo đường ngầm quanh co hun hút, Võ cứ đi trong cảnh im lìm quái gở, thình lình đường hầm hết.

                      Trước mắt Võ, là những bậc thềm trùng trùng toàn đá phiến, nổi bật cao khoảng bốn mươi phân, loe rộng như trái bầu, hai bên có hai "ông thạch cẩu" bằng đá trắng to lớn gấp mấy chó thường. Và hai bên, hoa leo chằng chịt, mọc đầy cả vách đá trần, dọc từ dưới lên cao tít, mùi thơm ngào ngạt át hẳn mùi rêu phong ẩm thấp.

                      Đồng thời, chàng cũng chợt nhận ra lồng ngực mình bỗng nhẹ hẳn, không khó thở như lúc đầu vào địa đạo.

                      Ẩn sau cây leo rườm rà trườn lên, ít nhất cũng đến ba mươi bậc thoai thoải, tít lên cao, là một khung cửa hình nguyệt, chạm trổ tinh vi với hai con rồng uốn khúc, đúng thế lưỡng long triều nguyệt, miệng rồng ngậm hai đầu tấm biển hình ống lối cuốn thư, tháp bút, sơn son có ba chữ đại tự bằng vàng diệp nét sắc như dao cắt sáng rực đứng xa đã thấy rõ:

                      "A Phòng Cung"

                      Dưới có hàng chữ nhỏ hơn:

                      "Thủy động Sài Lang Chúa Tinh Quân Tây Sắc".

                      - À tới nội cung sào huyệt Ma Vương tứ túc rồi. Lạ thật! Dưới đáy Hắc Giang ai ngờ lại có "thế giới kỳ dị" thế này? Chắc trên kia phải thuốc trị thương. Đường đời đôi ngả, từnay... biết bao giờ gặp nhau! Chúc huynh... mạnh giỏi...

                      Minh Thần bỗng thấy lòng xao xuyến ngậm ngùi lạ. Thần có cảm giác bàng bạc như thứ âm giai từ dĩ vãng xa xăm vọng về trong các cuộc đăng đàn, tiến tửu cung vua...

                      Giơ tay phát điện, Minh Thần vừa định thám sát, bỗng nghe bên tai có tiếng "xó Ma Khách" âm u:

                      - Thềm không có gì. Nhưng trên cửa "lưỡng long triều nguyệt" có hai con "trành" canh cửa, sài kíu như rươi. Thầy!

                      - Được, để thầy liệu! Theo thầy! Minh Thần men sát vách đá dây leo rườm rà vượt lên ngọn mắt chạm tia nhau, thoáng giây tâm cảm huyền bí, cả hai cùng nao dạ, không lời. Cô gái dưới A Phòng tự nhiên nắm lấy tay Võ. Võ cũng chợt nắm tay nàng, rung then, ván thiên bằng kính ghép, trong quan đứng sừng sững hai cái xác mặc quần áo Mèo, chít khan vành rế, chân quấn xà cạp, mặt mày đẹp lạnh như băng, hai cặp mắt mở trừng trừng, bất động như mắt tượng. Cả hai thây nữ, cuống họng đều há ngoác vết nanh chó sói cắn, dấu máu chảy tím xỉn còn in đậm trên ngực áo.

                      Võ Minh Thần vừa phát giác hai con "trành cái", lập tức hai mắt trành bỗng long lên sòng sọc liếc dòm ra ngoài, chạm mắt chàng trai. Kịch! Kịch!

                      Nắp ván thiên kính chợt chay sang bên, mở rộng quan tài, hai con trành cái lắc lư, cử động tay chân coi cực kỳ dữ tợn.

                      Minh Thần đưa tay bắt quyết, tưởng trành cái vọt ra, nhưng cả hai vẫn lắc lư trong quan tài. Minh Thần nhìn quanh mới hay nóc cổng có bùa "khoán" lưới ngũ sắc y hệt cổng ngoài.

                      - À nó khoán. Nội bất xuất ngoại bất nhập, nên hai con trành cái chỉ chực vồ người vào cung thôi.

                      Bèn đọc chú bấm cung, giải "khoán", đánh hai con trành cái. Hai con trành này uy lực mạnh tợn, mấy phen xô quan nhảy ra đều bị "quyết" đánh bật vào. Cuối cùng, cả hai đều bị Minh Thần nhốt trong quan.

                      Tình thế nghiêm trọng buộc Võ Minh Thần phải xuất đầu lộ diện, đứng giữa cửa cung, tung ấn quyết giải "khoán" nhanh như chớp, nhờ vậy "xó quỷ Ma Khách" đã thừa thế xông vào trở lực chủ, cầm giữ hai con trành cái không cho thoát ra ngoài quan tài. Nhưng hai con trành cái này dữ tợn hết sức, tuy bị chú quyết kiềm chế, chúng vẫn dùng het ma lực để xông ra "vật" người và báo động trong cung. Minh Thần cũng đã dự phòng nên vận hết tinh lực, giữ vững tay quyết, cắn chót lưỡi, phun phì máu vào mặt kính. Điều hơi khó là hai cỗ quan tài trành cái Mèo này lai dựng hai bên hông cửa cung, nên Minh Thần phải đứng chính giữa, tả xung hữu đột. Cuộc vật lộn giữa thần lực ma lực dữ đến độ tay "quyết" của Võ rung lên mãnh liệt, còn hai cỗ quan đảo như lên đồng, ván thiên rung động, phát ra tiếng "lịch kịch loảng xoảng" vì hai hồn ma cứ định thoát ra mang theo cả thây xác giữa vùng ánh sáng lân tinh, hai cặp mắt trành long sòng sọc, nó húc cả đầu vào ván thiên ghép kính, coi mười phần hung hãn. Nhưng chỉ hơn mười giây, tay "quyết" Minh Thần đứng im, không rung nữa, và cả hai cỗ quan tài vụt giãy lên đành đạch như đỉa phải vôi, phát ra những tiếng rên rỉ âm âm mơ hồ xa xăm lạ.

                      Mắt quắc long sòng sọc, Võ Minh Thần tiến lai một bước, uốn lưỡi không chạm miệng đọc chú, ghé miệng phun phì phì hai búng máu tươi vào mặt kính.

                      Hai cỗ quan tài giãy lên một cái rồi đứng yên, sau lần kính lấm tấm máu đỏ, hai con trành cái trợn trừng bốn con mắt trắng dã rồi từ từ nhắm lại, như ngủ giấc thiên thu. Trành cái đã bại trận, bị chú quyết nhốt kỹ trong thân xác, quan tài như kẻ tù bị cấm cố trong ngục tối.

                      Võ Minh Thần thở phào, buông tay quyết lau mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. Chàng hiểu vừa hạ được hai con trành cái linh đến độ sắp thành tinh. Mỗi con bằng hàng đàn xó.

                      Chàng trai xốc áo tiến qua cửa cung, đụng một bức rèm xương trắng hếu, coi như ghép bằng xương ngón tay người. Từ đâu luồng gió thổi vi vu, khua nhẹ bức rèm xương phát âm khô dòn như lau xô trúc cọ. Đứng sát bên Võ ghé mắt dòm vào, bên trong cảnh trí hư ảo lạ. Chàng vén luôn rèm, lách vào.

                      Hai con đường chạy hai bên vòng theo đường móng lừa, lại hai tầng bậc thềm cao vút nữa, và chính giữa, cách bức rèm xương chừng hai, ba thước là một hình chó đá to như con trâu mộng, cao đến ba thước, rất tinh xảo, từng chiếc lông, râu, bờm coi hết sức linh động, nhất là hai con mắt đỏ khé ghép bằng hồng ngọc, phản chiếu ánh sáng long lanh phát cả tia đỏ như mắt chó sói thật.

                      Ngay dưới chân con Hồng Cẩu Quẩy mày vàng này có mot chiếc bàn độc cao, trên có phủ một tấm vóc đại hồng mép rủ che gần hết chân bàn. Chẳng hiểu bàn độc đặt đồ vật chi, Minh Thần thấy nhô hẳn lên, đoán chắc các món đồ thờ.

                      - Hình tượng chó sói lông vàng này, chắc tượng con tinh chúa thờ ngoài cửa cung đây.

                      Lơ đãng, Võ thò tay nhón mép vóc lật lên coi thử. Bỗng chàng trai giật nảy mình, sửng sốt vì vật nằm dưới lần vóc là một hình người nằm ngửa phờ phờ. Hình nữ, hai nói đúng hơn, hình một cô gái khỏa thân đẹp tuyệt trần, nằm ngửa không có gối, dòng tóc dài chảy xuống nền đá vẫn còn thừa để quấn vào cột hai, ba vòng nữa. Ngực nữ rướn cong vút, nét nhũ kỷ hà phây ngọn gần chạm móng vuốt tượng Sài Lang, hay tay tròn khúc rắn giơ lên như đón mời, thân hình thuôn lẳn thắt đáy lưng ong, hai bắp đùi dài búp hoa quỳ buông thoảng mép bàn dáng nửa như cung kính nữa, lại gặp dây leo chằng chịt, chàng đành chạy vòng xuống nước. Điều này thật nguy hiểm vì dưới suối bao giờ cũng trống cả.

                      Được mươi sải, Minh Thần phải tặc lưỡi khen:

                      - Chà! Tay họa sĩ nào lại có tài khắc hình mỹ thuật đến chừng này. Con Hồng Cẩu Quẩy khắc đã khéo, đến hình tượng mỹ nhân này tưởng đến "bà mụ" nặn người cũng chỉ tinh vi đến thế thôi. Hừ, tượng bạch thạch hay bằng sáp... coi linh động như thật.

                      Vừa lẩm bẩm, chàng vừa lơ đãng sờ tay vào ngực tượng mỹ nhân, mắt quan sát hai bên đường thềm lượn móng lừa. Bỗng chàng trai giật nảy người lên như phải điện, cảm thấy rõ mấy ngón tay đụng phải vật mềm mềm lạnh lạnh như đụng phải da thịt đàn bà. Chàng quay phắt lại, nhìn, lấy tay miet thử, vụt ớn mình khi phát giác ra đó không phải là một pho tượng khắc bằng

                      đá trắng hay đắp bằng thạch cao, sáp chi cả mà chính là một cái xác nữ thật, thây cô gái đep khỏa thân nằm đó bằn bặt thiếp trong giấc ngủ ngàn năm.

                      Tuy đã quen sống với ma xó, tự nhiên Minh Thần vẫn thấy lạnh lòng trước cảnh thây nữ nằm dâng mình cho chó sói và chàng nghĩ ngay tới thảm cảnh của người đàn bà có nhan sắc đã bị con tinh chúa hốt hồn đem xác để bàn độc làm đồ cúng vẫn nguyên trong cái dáng vẻ dâng hiến trước khi lìa trần.

                      - Mẹ ta cũng bị như thế! Chỉ khác là nó hấp thành cái túi da, nhưng cũng bị yêu thuật dược của nó làm biến tâm chịu nhục hiến thân xác cho nó hấp. Đêm nay ta vào hang ổ gặp nó, chẳng những báo cừu riêng, còn trừ mối họa gớm ghê cho lương dân mấy cõi! Thiếu nữ vô danh! Xác nằm dày giữa cửa cung lạnh, oan hồn vơ vẩn chốn nào? Nếu có linh thiêng hãy chứng cho ngu mỗ đây vì trả thù oán, quyết vì nàng rửa giúp mối oan.

                      Cúi đầu, Vô Minh thần nhón mép vóc kéo cho kín thây người nữ khỏa, chàng trai xẹt luôn sang đường thềm hữu.

                      Chợt ngửi thấy mùi hôi hám thoáng bay ra, xẹt thử sang tả, cũng mùi hôi hám! đang phân vân chưa biết nên đi ngả nào, bỗng nghe "xó quỷ Ma Khách" thì thào bên tai:

                      - Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng chó sói! thầy cẩn thận. Ngả nào cũng vào trong, hai bên vách là chuồng chó sói! Thầy cẩn thận! Mỗi bên nó nhốt hàng mấy trăm con, cửa chuông mở sẵn! Trên trần cũng vậy!

                      Minh Thần gật đầu, men vào dòm, quả nhiên ngả nào cũng đầy sài kíu nhe nanh nhởn, hai bên vách trên trần cũng đều có chuồng, từng ô cặp một, muốn qua phải đi lọt giữa mấy dãy chuồng sài kíu.

                      Không do dự, Võ lập tức vận công, tiếp khí hàn làm sương mờ nhân tạo ẩn thân, và nhẹ gót tiến luôn vào... chuồng sói độc.

                      Bộ quần áo chàm, khăn mũ giày đã bôi thuốc trừ hơi người ngay lúc tiến vào Độn Thổ cung chàng không phải e ngại chi nữa, nhất lại mới lặn khá lâu dưới nước lên hơi người xông rất nhẹ, chàng chỉ lo chú ý tới làm sa mù nhân tạo cho vừa độ, mỏng quá sẽ lộ ngay vì hang cẩu quẩy tinh mắt hết sức, dày quá cũng dễ lộ! Vận khinh phù nhẹ như bấc, chàng vượt hết mấy bậc thềm, thì sa mù nhan tạo để tỏa khắp châu thân, Võ Minh Thần thì thào:

                      - Thấy hình thầy không? Tiếng "xó quỷ Ma Khách" âm u bên tai:

                      - Từ đầu xuống gối kín lắm, từ gối xuống chân còn mỏng, nhìn kỹ vẫn thấy đôi giầy!

                      Minh Thần lấy ống hơi, lật ngược, bấm nút sì hơi nghe tiếng xó thì thầm "được rồi, thầy"?ợc một tiếng nhỏ rồi đổ gục xuống trên lưng con dị thú, bên tai nghe văng vẳng tiếng "quỷ mắt đỏ" tru vang động rừng khuya, tiếng gió vù vù bên

                      tai... rồi ngất đi lúc nào không biết nữa...
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #12
                        Hồi Thứ Mười Hai - Bắc Yên Thần Nữ Biên Giới

                        Không hiểu bao lâu, tự nhiên Võ Minh Thần choàng tỉnh lại. Hay nằm

                        mê, chàng vẫn không phân biệt rõ được.

                        Chàng thấy mình vẫn nằm mọp trên lưng dị thú, đầu nghẹo sang một bên. Ánh sáng kỳ lạ ùa vào mắt làm chàng tuổi trẻ vô cùng ngạc nhiên thấy cánh rừng bên Cung A Phòng tại thượng nguồn Hắc Giang đã biến mất từ hồi nào rồi! Cả Tây Sắc Ma Vương, đàn quy mắt đỏ, ánh trăng khuya, tất cả đều như lùi về dĩ vãng xa xôi. Chàng thấy quanh mình đầy ánh thái dương trong trắng như ngọc lưu ly, ríu rít tiếng oanh thỏ thẻ, tiếng nhiều giống chim hót véo von, xa chút có tiếng vượn ru con chót vót và gió thổi nhè nhẹ, tiết trời ấm áp lạ.

                        Đồng thời Võ nhận ra con dị thú đang đi bước một thong dong như ngựa được lỏng buông tay khấu!

                        Chàng trai hít một hơi dài. Không khí trong lành hít vào thấy nhẹ hẳn

                        người. Tuy vậy trong người chàng vẫn mệt rũ chẳng khác ốm liệt giường. Cố gượng sức, chàng ngóc cổ lên nhìn quanh, lòng thêm bàng hoàng khó

                        tả. Dị thú đang đi giữa một vùng nương đồi cao vọi, phong quang, hoa bướm bạt ngàn sơn dã. Trên các tàn cây xa, oanh yến líu lo như chào lạc thiên thai, ngay cạnh có mấy bầy công trắng, công xanh đang xòe đuôi múa, thấy thú đi qua, không buồn bay!

                        - Lạ thật! Mình mê hay tỉnh thế này? Đây là đâu? Hay là lạc vào thế giới thần tiên? Võ băn khoăn tự hỏi, con dị thú đi về phía mặt trời mọc, qua mấy cánh nương đồi Võ thấy nhiều rặng núi xanh lam xanh đậm in trên nền trời. Đang nghĩ miên Con không biết! Con chưa ra khỏi động phủ bao giờ!

                        - À quên! Nữ chủ đây là ai nhỉ? Người thuộc sắc dan nào?

                        Võ lại thêm một lần nữa sững tận mấy tầng trời, tỏa rộng, tiếng sáo nổ phía trước, rồi lại nghe tiếng sáo nổi sau lưng, phía tả, hữu, cứ thế veo von réo rắt rồi nhất loạt đổ cả xuống, làm chàng tuổi trẻ bỗng lâng lâng cảm giác thần tiên lạ lùng hết sức.

                        Chàng cố gượng ngóc đầu lên dòm quanh, chỉ thấy bốn bề toàn bướm bay, ngút ngàn sơn dã, chợt hàng đàn tấp vào bờm thú, mặt chàng. Võ giương mắt nhìn kĩ, mới hay lại không phải đàn bướm, mà là hoa, toàn hoa nở xòe cành lá rung rinh trước gió, lao xao như bướm bay, màu hoa cà tuyệt đẹp.

                        - Không phải "hoa bướm"! Miền Tây Bắc Việt Nam rừng rú nhiều "hoa bướm", nhưng "hoa bướm" thường nở tại các bờ bụi, vào cử giêng, hai,... trắng xóa. Đây là đâu? Lại chơi vơi tiếng sáo Thiên Thai?

                        Chàng muốn ngồi dậy nhưng toàn thân như tê dại, dán vào lưng thú. Tiếng sáo véo von "trôi" lại phía chàng, nghe càng gần, rồi bỗng nhiên ngừng bặt. Chợt nghe có tiếng cười khanh khách bên tai, khắp mấy phía nương hoa đổ lại. Rồi tiếng cười cũng im bặt. Võ nghe có tiếng kêu thánh thót, rõ giọng đàn bà con gái.

                        - Ô kỳa... có con thú lạ đâu lạc tới! Lại coi!

                        - Con gì thế kia? Ô coi giống con nai.

                        -Không phải con hoàng thấy một vùng nương đồi rực rỡ hiện ra, bỗng nghe có tiếng hô "kiệu đăng sơn"!

                        Từ ngoài, ba cỗ kiệu khá lớn tiến vào, kê sát hành lang. Mỗi cỗ kiệu có bốn thổ dân cô gái mặc "phá" Thổ! Lại coi xem! Cô gái nằm ngủ! Giọng nói líu lo thánh thót nói tiếng Thổ Thái nhưng âm khác, tuy vậy nghe thánh thót như suối đàn, hình như tiếng một bầy gái trẻ. Ngay khi đó, con dị thú đứng lại, phát ra mấy tiếng kêu lạ tai, tuy nho nhỏ nhưng vang ầm tỏa rộng, chứng tỏ nó khí lực cực sung mãn. Võ Minh Thần nghe nhiều tiếng xôn xao, rồi thấy từ mấy phía kéo Thần Nữ đi trước, tới Minh Thần rồi Thánh Y, theo sau là dòng người nước Yên cuồn cuộn như nguồn thác lũ.

                        Chàng tuổi trẻ phong trần bỗng rơi vào một hai mươi, xinh xắn lạ.

                        Minh Thần nghe bọn gái xúm nhau bàn tán, có nàng bảo đem lưới ra bắt, có nàng lại gạt đi, xem chừng tất cả đều tỏ vẻ ngạc nhiên trước sự xuất hiện của con dị thú chở người trên lưng. Con thú gật đầu, lững thững đi tới. Mấy cô lùi lại. Bỗng nghe có nàng bao:

                        - Con long mã này không làm dữ! Cứ lại gần coi sao! Không chừng cô nàng kia bị nạn!

                        Minh Thần ngóc đầu lên, đã thấy bầy gái lạ rón rén kéo lại gần đứng cách độ hai thước. Võ muốn lên tiếng nhưng lưỡi cứng lại, khong sao cử động nổi. Chàng chỉ biết mở mắt dòm xuống trừng trừng. Chợt một cô gái reo lên:

                        - Lại coi! Lại coi! Người đàn bà mở mắt, còn thức! A lạ chưa! Mở mắt mà không nói! Đàn bà lại có lông chân!

                        Minh Thần muốn đưa tay vẫy, có dấu hiệu làm thân, nhưng không sao giơ nổi. Tình trạng chàng lúc này giống hệt kẻ nằm mơ, ngủ co chân không sao chạy nổi. Chàng thoáng nghĩ chẳng biết mình đang mơ hay thực? Trước mắt, bầy gái lạ bỗng lắc lư chờn vờn to lớn dị thường, đầu muốn đụng trời xanh. Võ ú ớ, mê đi lúc nào chẳng biết.

                        Rồi, lần này chẳng biết bao lâu, bỗng nhiên chàng tuổi trẻ lại choàng tỉnh giấc.

                        Cảm giác đầu tiên cũng kỳ dị, như hồi chợt tỉnh miền động thất Pi A Ya. Vì chàng tuổi trẻ thấy mình nằm trong một căn phòng hết sức nhỏ nhắn, hương thơm ngào ngạt, nhẹ hẳn người.

                        Ngạc nhiên, chàng cúi thờ nào, so sánh với lối kiến trúc Cung A Phòng Tây Sắc dưới đáy Hắc Giang, chốn dinh phủ lâm tuyền này phảng phất nét thiêng liêng kỳ bí, còn A Phòng quái chiếc giường đẹp, chăn nệm thơm tho, màn vắt cánh, các đồ đạc bầy biện trang hoàng trong phòng coi đều lạ mắt, với các đường nét, hình thể hay hay, phảng phất vẻ phi phàm.

                        Từ phía sau cửa màn trông thẳng lên trên vách có treo một chiếc "đồng hồ nước", loại đồng hồ thời cổ vẫn dùng, hình dáng rất lạ. Giọt nước tí tách rơi, cứ mỗi khắc một giọt, rỏ xuống một mảnh kim khí chi đó, phát lên một tiếng "coong" trong vắt êm tai.

                        Im lặng bao trùm, "giọt đồng hồ" rỏ triền miên, đơn điệu, cảm giác Võ Minh Thần như lạc vào cõi xa xăm mơ miền đất lành, khí hậu tốt lạ thường.

                        Qua nhiều rặng đồi nương, thung lũng, tới một cánh rừng thưa cây, đầy dị thảo, kỳ hoa, ba cỗ kiệu lướt lảo đảo nằm dụi xuống.

                        - Đây là đâu?

                        Tự nhiên, chàng buột miệng kêu lên, nghe tiếng mình vang âm xa lạ như tiếng người khác nói, làm chàng bất giác kinh dị, vùng kêu:

                        - Sao lạ thế này? Tiếng mình thốt sao nghe xa lạ thế?

                        Lại phen kinh ngạc nữa, thấy miệng phát âm rõ ràng, nhưng liên tục, tiếng nói như từ đâu tới.

                        - Có lẽ tại mình ốm yếu, thính giác không tốt! Hay có chuyện gì khác đây?

                        Minh Thần nằm nghĩ loanh quanh thấy trong người rất tỉnh, chẳng hôn mê chút nào. Đang hồi tưởng Hùng biết rượu dễ làm cho người nhút nhát nhất cũng trở thành bạo dạn. Mà người đã bạo thì dễ trở thành...liều. Vừa ăn, Hùng vừa khéo léo điều tra về Loan.

                        - Em vẫn vực đền thờ, cả rặng đồi đều trồng "thâu" hoa nở xòe bạt ngàn.

                        Võ Minh Thần vén hé rèm trông lên, thấy sân đền rất rộng, lối đi lót toàn đá trắng, Võ ngước mắt trông ra, thấy đám nữ nhân này mặc xiêm y rất lạ, đi đầu là một người đàn bà rất trẻ, chẳng rõ là thiếu phụ hay thế nữ. Người đàn bà nói:

                        - Mặt mũi thân dáng có đòn tinh ghê gớm thế? Võ không khỏi phục thầm nàng hiểu rộng, gượng lên tiếng:

                        - Bà đoán không sai! Kẻ này xuống Cung A Phòng đánh nhau với Tây Sắc

                        tinh trong Mê Hồn Trận, không ngờ bị đòn tinh!

                        Người đàn bà thở dài, ái ngại:

                        - Thiếp có thể trị được đủ thứ đàn công, nhưng cũng đành bó tay trước vết thương kính. Đám thế nữ chạy lên, vén rèm, tít trên, có hai "lực sĩ" ôm thảm trải vụt xuống, tấm thảm dệt bằng vỏ cây, màu sặc sỡ loang loáng chạy cuồn cuộn đã cho khách uống linh đơn chế ngự độc tinh, chờ người đó! Khách cứ yên lòng nằm nghỉ.

                        Minh Thần khẽ hỏi:

                        - Thưa có phải là vị Thánh y Mai Hoa Thung?

                        - Chính thế, sao khách biết?

                        - Vì "người" đã cứu kẻ này một lần.

                        - À! Nhưng Thánh y hay đi chu du đây đó, chỉ sợ khó tìm, mà bệnh này... chỉ còn hai ngày nữa!

                        Minh Thần kín đáo thở dài. Chàng không sợ chết, chỉ buồn thù mẹ cha chưa trả nổi và lịm đi, khi tỉnh lại thì thấy người đàn bà lạ đứng ngay bên giường, chỉ trạc hai mươi thôi, khoác một cái áo choàng đen viền kim tuyến coi tròn trịa loại "kimônô" Nhật, thân hình cân đối yểu điệu, áo choàng hở, lồ lộ khuôn ngực căng phây phây sức sống, sống cổ cao trắng như ngó, mắt phượng, mày ngài hơi xếch, môi cong, mũi thon, cốt cách thần tiên, khiến Võ vừa nhác thấy phải sinh lòng kính mến ngay.

                        Người đàn bà nhìn vào, thấy Võ mở mắt, nàng vùng nhướng may, thỏ thẻ kêu:

                        - A! Khách đã tỉnh! Khách thấy dễ chịu phần nào chưa? Minh Thần lại một phen kinh ngạc, nghe nàng nói, vành môi động đậy, nhưng tiếng lại như chính Võ nói ra. Chàng cố chống tay dậy thủ lễ, nàng tiến

                        lại rất tự nhiên, kéo ghế ngồi bên giường, dịu dàng ra hiệu cho chàng cứ nằm yên. Không hồn vào cảnh trí thần bí trong đền. Chàng thoáng cảm thấy mơ hồ như mình cũng đã từng thấy lối kiến trúc này ở nơi nào đó trên bước đường luân lạc bị thương nặng, gặp năm trước.

                        - À... coi từa tựa như đền thờ Hồi giáo thì phải! À! Hồi theo tôn sư đến xứ Turkestan (Tân Cương) miền đất Tàu Hồi giáo, ta cũng đã được cứ an tâm nằm nghỉ, sớm muộn sẽ có tin vui.

                        Nghe nàng nhắc đến con dị thú, Võ chợt hỏi:

                        - Thưa... phu nhân, chẳng hay con thú đó đâu rồi?

                        Nữ chủ thánh thót đáp:

                        - Con thú đó đưa khách tới sơn động, cứ đứng chảy nước mắt, hình như linh thú biết khách lâm nguy, sau đó nó đã đưa sứ giả đi kiếm Thánh y rồi! Xem ra nó mến khách hết sức! Có lẽ cũng do kỳ duyên hiếm có, chưa ai hiểu nó thuộc giống chi?

                        Minh Thần nghe chuyện càng lấy làm lạ, chàng gượng kể qua cuộc gặp gỡ con dị thú trên biên thùy Trùng Khánh cho nữ chủ nghe. Chủ khách đàm đạo mấy câu, chàng trai nghe tiếng mình từ đâu vọng tới, còn tiếng người đối thoại lại như miệng mình nói ra, lòng chàng rất kinh dị, nhưng không nói ra.

                        Chợt mặt ba người, đồng nam đồng nữ xếp dọc hai hàng, đứng sau ông lão dáng người thủ đền, tất cả đồng cúi rạp đầu chào. Ông lão kia nói một tràng được dị thú cứu đem tới đây, nào đã hiểu chi đâu, chỉ có

                        cảm tưởng... phu nhân... vì... Chàng chưa tìm được lời dien tả thì nữ chủ đẹp uy nghi đã cười bí ẩn bảo:

                        - Người ta thường chỉ gọi phụ nữ có chồng là phu nhân, có điều lạ là cảm tưởng của khách rất đúng, tuy sơn động này chưa Y.

                        Thần Nữ không nói nửa lời, đưa tay trái đỡ lay chiếc chìa khóa, lão thủ đền đi vòng ra phía sau ba người. Thánh Y Lãn Ông tiến vào trước, hơi nghiêng màu nhiệm, không hề phụ kẻ thành tâm.

                        Minh Thần nghe lời hơi đưa mắt cho Minh Thần, cả hai cùng song song bước hẳn vào đền, giữa hai hàng đồng nam đồng nữ. Minh Thần chân bước song song, đầu óc đầy bỡ ngỡ, rõ chốn này, khách hãy nằm nghỉ, trị bệnh ngặt xong hãy hay!

                        Dứt lời, lấy trong hộp khảm ra một viên linh đơn bỏ vào miệng Võ, tự tay nàng rót nước nóng, đỡ đầu chàng lên cho uống.

                        Tuy đang mệt rũ, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, Minh Thần không khỏi ngượng nghịu thấy nữ chủ săn sóc mình quá tự nhiên. Chàng thấy gáy mát dịu hẳn đi trên cánh tay ngà ngọc, mũi thoáng thấy mot mùi thơm vô cùng huyền bí từ cơ thể nàng tiết ra, hình như là mùi lan xạ đặc biệt của đàn bà tuyệt thế, nhưng trong mùi thơm lại phảng phất một thứ hương "siêu phàm" kỳ ảo lạ khiến chàng tuổi trẻ lại vụt có trên, mâm có đe một trái "thẩu" rất to, thường gọi "cổ tác xác" và một mớ hạt giống thuốc phiện tựa hạt vừng. Nhưng chàng chưa kịp liếc qua, đã phải uống vội ngụm nước, vô tình chạm ánh mắt nàng, ánh mắt sáng biếc như vì sao, vưa âu yếm khó hiểu lại vừa đứng đắn chỉnh tề hết sức, làm người ta xao xuyến bồi hồi và hối hận ngay vì sự xao xuyến đó.

                        Võ lại nhắm nghiền mắt lại, "nghe" rõ nàng vừa đặt đầu mình xuống gối bông, và như miệng mình tho thẻ với giọng suối đàn vui vui rất nhỏ:

                        - Khách này lạ thật! Gần đàn bà không dám thở sợ hít phải hơi nữ, mắt không dám mở sợ trông rõ nhan sắc! Hảo lang quân! Kỳ trượng phu! Yếu bóng vía!

                        Minh Thần muốn cãi lại, nhưng không muốn nghe tiếng mình từ đâu vẳng tới như ma quái nên cứ nằm im. Chừng mươi khắc nghe yên lặng, vội mở mắt ra thì người đàn bà kỳ dị kia đã bỏ ra từ khắc nào với đám thế nữ.

                        - Đây là đâu? Miền nào mà bí hiểm thế? Nữ chủ cũng bí hiểm, nói khó hiểu lạ? Thế giới nào đây? Hay cảnh trong mê? Phải, biết đâu đấy!

                        Minh Thần nằm nghĩ vẩn vơ, đầu óc chập chờn, chẳng dám quyết hiện đang sống thực hay nằm mộng sau lúc đòn thương tái phát! Chàng trai có cảm giác bàng bạc, nhìn vật nào cũng có vẻ Lão Trang, vơ vẩn như Trang Sinh xưa chẳng hiểu mình hóa thành con bướm hay bướm hóa ra mình.

                        Bốn bề yên lặng, chỉ có tiếng đồng hồ nước nhỏ giọt boong boong gợn âm hưởng xa xôi...

                        Rồi chàng lại thiếp ngủ mất. Hình như rất lâu. Và khi tỉnh dậy lần thứ hai, đã thấy người đàn bà lạ và tỳ nữ xúm quanh giường, lần này hàng hai mươi nàng! Vẻ mặt ai nấy đều có vẻ buồn rầu, tất cả đứng vòng trong vòng ngoài, yên lặng không khác đứng... mặc niệm chàng vậy! Còn nữ chủ bắc ghế ngồi bên giường, khuôn mặt đẹp tuyệt trần như phủ một làn mây chiều u ám, coi não nùng hết sức.

                        Lần này Minh Thần không còn tỉnh táo hoàn toàn như trước, tay chân bất động, tuy vậy đầu óc chưa hôn mê, chàng vẫn còn tri giác hơn năm phần để hiểu là bệnh trạng mình chắc đến hồi nguy kịch!

                        Quả nhiên thấy chàng mở mắt ra, nữ chủ lập tức cui xuống hỏi thăm bệnh trạng và buồn bã cho biết tính đến chiều này, đã gần hết hạn kỳ bảy ngày

                        đêm, chỉ còn mươi tiếng nữa là hoàn toàn tuyệt vọng và hiện giờ đã tám giờ đêm.

                        - Chỉ còn đêm nay nữa thôi, không lẽ sứ giả động phủ không tìm được Thánh y? Hay tìm được nhưng vì xa quá, không về kịp? Nếu khách có mệnh hệ nào... thì...

                        Nàng thỏ thẻ, ngó Minh Thần như định nói gì, lại thôi. Võ Minh Thần chỉ nằm im, kín đáo thở dài. Trong cơn thập tử nhất sinh, chàng nghĩ đến mớ di hài mẫu thân, đến gốc nguồn, mối thù bất cộng đới thiên chưa báo được.

                        Chàng tuổi trẻ cố gượng lắp bắp môi định nhờ nữ chủ lấy giùm hành trang, lục mớ di hài, nhờ trối lại cho Chúa Mã Đầu, bỗng ngay lúc đó ngoài xa nổi lên mấy tràng âm thanh lạ, người đàn bà và đám thế nữ lật đật kéo ùa ra.

                        Phút

                        Được chừng mươi thước, bỗng nàng đứng lai trước một sợi dây xích sáng loáng có nắm tay cầm. Nàng nắm lấy đầu dây giật nhẹ một cái! Binh boong bôn hành.

                        Vị khách theo nữ chủ tiến thẳng đến cạnh giường Võ nằm, phiêu phiêu đầy vẻ tiên phong đạo cốt, tay chống cây gậy trúc dài. Nữ chủ nói luôn:

                        - Đến nay vừa đúng bảy ngày, chỉ còn đêm nay nữa! Yên Phủ mong đợi thế giới xa xăm nào bên kia cuộc đời trần lụy.

                        Minh Thần đứng nhìn thấy hình như khu nội tẩm cũng rung động theo âm thanh trầm bổng, rồi cả ánh sáng râu bạc vùng nhướng cau mày sửng sốt kêu len:

                        - Ôi chao nghiệt số! Người lành hiếu nghĩa sao mãi gặp tai ương? Tưởng khách Yên Phủ là ai, hóa chàng khách Pi A Ya trước? Năm nọ chính lão hủ này đã trị bệnh dữ cho chàng rồi! Lần trước bị Giao Long Tinh, lần này Tây Sac Tinh Sài lang Chúa. Hai phen đều bị đòn tinh, lạ thật! Ha ha! Kỳ ngộ, kỳ ngộ! Tưởng khách nào đáo Yên phủ chứ chàng khách này lão hủ có lời mừng! Có lời mừng!

                        Lão ngồi luôn xuống bên giường khẽ hỏi:

                        - Này người bạn trẻ biết lão chăng? Võ gật đầu vì vị khách chính là Thánh y Hải Thượng Lãn Ông tái thế miệt

                        rừng thẳm Si Công Linh.

                        Ông lão vén tay áo, thò tay chẩn mạch, bỗng cau mày nói:

                        - Còn xương da con Mạc ngày nọ không? Bệnh nguy lắm rồi! Phi xương da con Mạc thì không phép nào trị nổi!

                        Võ Minh Thần gật đầu, phều phào được hai tiếng "trong sắc" rồi hôn mê đi không hay biết gì nữa.

                        ... Cũng chẳng biết bao lâu, bỗng một hôm chàng tuổi trẻ vùng dậy! Mở choàng mắt ra, thấy mình vẫn nằm trong gian phòng trước, đồ đạc y nguyên, bốn bề im vắng thâm sâu.

                        Cảm giác đầu tiên của chàng là cảm giác của kẻ chết đi sống lại, trong mình như đổi khác hẳn! Vì bệnh hiểm đã biến sạch bao giờ, chàng thấy thể xác linh hồn như mở rộng đón tiếp cuộc sống mới.

                        - Ta mê hay tỉnh thế này? Đây vẫn dương gian hay thế giới nào? Chàng bật kêu lên, và thấy rõ tiếng nói của mình từ miệng phát ra chứ không nghe như từ đâu vọng tới.

                        Võ vùng chống tay nhổm dậy. Mãi lúc đó mới thấy người còn mệt nhưng chỉ là cái mệt của kẻ mang bạo bệnh mới khỏi, đang thời kỳ "ăn trả bữa"!

                        - Có ai ngoài đó không? Chàng gọi lớn, bước xuống giường, định tìm dép, bỗng hơi giật mình chợt nhận ra ngay chỗ đầu giường, có một bóng nữ ngồi trên chiếc ghế tay ngai cổ, khoanh tay gục vào thành giường. Bóng này nghe động sực tỉnh, choàng thức ngẩng trông lên. Thì ra người đàn bà chủ động phu bí ẩn này!

                        Vẻ mừng hết sức, nàng vội bước lại, dìu Võ nằm xuống giường, thỏ thẻ bảo:

                        - Ấy chết! Khách chớ nên cử động sớm có hại! Thánh y bảo khách còn

                        phải nằm hai mươi bốn giờ nữa mới hoàn toàn hồi phục.

                        Nhìn vẻ lo âu, mất ngủ còn hiện rõ, chàng trai cảm kích đáp:

                        - Cám ơn lượng bao dung của phu nhân, ngu mỗ thấy trong mình đổi khác hẳn, tuy còn hơi mệt chút! Hình như phu nhân đã vì kẻ ngộ nạn này mà... mất ngủ nhiều đêm... ân trọng biết lấy chi đền đáp?

                        Người đàn bà ngó Minh Thần đăm đăm, giọng mười phần sung sướng như chính nàng khỏi bệnh:

                        - Chắc chắn khách thoát nạn rồi! Giờ thiếp mới hết lo! Theo vị thánh y Lãn Ông tái thế cho biết, bệnh khách phải đúng bảy ngày đêm mới khỏi hẳn, đúng bằng thời gian chất độc hoành hành trong mình. Khách đã nằm thiếp đi đúng sáu ngày đêm, chỉ còn hai mươi bốn giờ nữa. Thánh y bảo, dẫu tỉnh trước kỳ hạn cũng vẫn phải đơi chân nguyên khí ngũ hành phục hồi theo đúng ngày giờ. Khách chớ nên khinh suất!

                        Minh Thần cảm động ma quái trong chất Phù Dung và trở thành đám tín đồ nô lệ cho Thần Phù Dung, tiêu mòn dần cuộc đời đến chết vẫn còn say sưa.

                        Đây! Trên một cái bục nàng để tay lên ngực khẽ bảo:

                        - Giờ nhìn khách thiếp mới hết kinh sợ! Đêm Thánh y Si Công Linh tới động phủ, lúc "người" đang làm thuốc trị bệnh, bỗng khách vùng bật đứng giữa giường, hú lên một tràng quái gở như tiếng chó sói tru đêm trăng lạnh, rồi nằm vật xuống, thân thể phập phồng, teo dần lại như trái bóng xì hơi, trong người phát những tiếng oẹ chòm chọp, như có con heo vô hình đang "ăn hèm" hết sức ghê sợ! Chỉ trong vòng năm phút, thân thể khách đã bị xẹp hẳn đi đến nửa phần, coi phát rợn! Đến nỗi Thánh y cũng phải sợ, tưởng đến hồi tuyệt vọng. May sao, nhờ thiếp cũng biết qua nghề thuốc, đã phụ giúp Thánh y bào chế, nên lúc đó, dược liệu cũng vừa xong. Sở dĩ lâu tới mấy trống canh là vì phải cất chế thành nước, thành bột vừa tiện uống vừa đắp vào người. Đêm đó Thánh y đã phải tiêm vào người khách hàng lít dược thủy! Chữa trị xong thì trơi vừa sáng!

                        Nàng ngưng một chút, nói tiếp:

                        - Thiếp ngồi canh, đúng ngọ, mở chăn ra thì thấy thuốc đắp đã vụn từng mảng, chỉ thổi nhẹ một cái đã tan thành bụi khô như cám bay đi! Thân hình khách đã trở lại gần bằng trước, gân thịt đã rắn như cũ! Mãi khi đó mới đỡ lo! Theo lời Thánh y thì bệnh trạng đã tới hồi phát tác, kẻ khác có lẽ nguy rồi, may nhờ khách vốn vững nhân nguyên khí nên mới thoát, nếu không... sẽ biến thành cái túi da người nằm trên giường này, cũng như hàng trăm nạn nhân Tây Sắc hấp sát tinh quân Hồng cẩu quẩy.

                        - Phu nhân và Thánh y đã gia ân tái tạo cho kẻ khốn cùng này! Ân đức thật như trời biển!

                        Minh Thần thở phào, tiếp lời nữ chủ, hai người ngó nhau chưa dứt kinh hoàng, Võ chợt hỏi:

                        - Chẳng hay Thánh y đâu? Xin cho ngu mỗ được gặp!

                        - Thánh y bận việc nên đã rời động phủ ngay sau đêm trị bệnh! Nhưng "người" hẹn sẽ trở lại. Người cũng muốn gặp lại khách và thiếp để... nói... cho khách hay điều gì lạ lùng đó.

                        Câu cuối, người đàn bà có vẻ hơi lúng túng, mãi mới thốt nên lời, làm Minh Thần cũng lấy làm lạ. Tuy còn mệt, lòng đầy thắc mắc, Võ định lên tiếng hỏi nhiều chuyện, thì nàng đã đứng dậy, cáo từ, thoăn thoắt mắt, nói rõ về tiểu sử một vài đệ tử nằm ngồi trên giường, bệ, giảng thêm cả cách thức dùng nha phiến của "bộ xác ướp" đó. Trong số di hài đệ tử suốt như ngọc lưu ly, nhưng thấy ánh thái dương! Không khí rất có cả những tay đã nổi danh một thời trên thế giới như một hai tay quan hoạn trong nhóm "Thập Thường Thị" đời Mãn Thanh, một hai viên quan đại thần Ba Tư bề tĩnh mịch vô cùng.

                        Lắng nghe văng vẳng có tiếng sáo nổi chìm véo von tuổi trẻ giang hồ khẽ chép miệng, chẳng biết nên vui hay nên buồn trước cảnh tiêu mòn thân thể bên ngọn đèn dầu lạc này. Bỗng nghe Thánh Y Lãn Ông dịu dàng khắc kêu... có lẽ là mười giờ đêm. Võ đang nằm nghe tiếng động đêm thâu, chợt có một thế nữ bưng khay thuốc vào, mời uống. Cô ta trạc mười bảy mười tám, mặt mũi xinh xắn, dáng dấp nhanh nhẹn, cử chỉ lễ phép hết sức.

                        Uống xong, thấy Võ vừa đặt bát xuống khay, cô ta định bưng ra ngay. Võ nằm buồn, lại định thắc mắc, vội bảo:

                        - Này cô em! Hãy nán lại chút cho mỗ hỏi vài câu!

                        Thế nữ đứng khựng, vẻ ngạc nhiên, Võ cười dịu bảo:

                        - Này, hình như mỗ có gặp cô em trên nương hoa bướm ngày nọ thì phải!

                        Coi mặt quen.

                        Thế nữ kính cẩn, mắt ánh lên nét vui vui:

                        - Dạ bẩm tướng công vẫn còn nhớ con? Chính con thấy dị thú mang tướng công tới đầu tiên, lúc đầu chúng con lại tưởng "ông thú" có cái bướu.

                        Minh Thần nghe cô ta xưng hô quá kính cẩn lại gọi mình là tướng công, gọi luôn dị thú là "ông thú", chàng trai không khỏi bật cười, nhướng mày kêu:

                        - Ôi chao, cô em chớ xưng hô bừa bãi thếi Ma Giáo gớm ghê kỳ bí này.

                        Và sau cuộc chiến đấu không tiền khoáng hậu, các đệ tử đã bị hành đến thác bằng cả ngàn "tử lộ" không thua hàng ngàn con đường dẫn đến đền thờ Thần Yên.
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #13
                          Hồi Thứ Mười Ba - Bí Ẩn Á Phiện Ma Giáo

                          Lời Nguyền Độc Địa Trên Xứ Phù Dung

                          Minh Thần đi dọc theo các be, giường, sập, dòm từng thân xác chết

                          khô, trên khuôn mặt, dáng thân, vẻ điệu, còn nguyên vẹn nét đau đớn khủng khiếp. Kẻ reo ngược hai ngón chân cái lên xà nhà, kẻ đang đấm đá vào vách tường, người húc đầu vào vách, kẻ ôm bụng rên la, người trợn mắt há hốc mồm nằm dãy dụa, nhiều kẻ cầm chày vồ nện vào thân xác, tứ chi như các ông đạo tu khổ hạnh ép xác, có người thắt cổ treo lơ lửng, nhiều hồng hoàng ném vắt lên vách bên. Tự nhiên chữ vừa hiện rõ, tim Minh Thần bỗng đập mạnh như linh cảm sẽ có chuyện liên quan:

                          "Lời nguyền của Ali Khan trẻ, sang hèn đủ loại, nhiều tín đồ chỉ còn bộ con cháu đời đời:

                          Tổ tiên các người kể như đã vùi xác tại sa mạc Gobi, nếu không được Phù Dung Thần Nương cứu vớt. Tổ tiên các người đem sức khủng khiếp vì "dám cả gan" chống lại Tổ Nương Thần Ma Giáo và đang bị Thần hành...

                          - Nhưng tất cả chỉ là ảo vọng, kẻ nào đã nhập Ma Túy giáo, khó lòng ra nổi! Họ đã gục ngã trước hình phạt của Tổ Nương Thần. Còn một số thì đã đầu hàng Thần Tổ Nương, khi được Thần về gọi đệ tử quay về, trong giấc mơ, trong ảo giác hay trong thực cảnh.

                          Thánh Y Lãn Ông vừa nói vừa dẫn Minh Thần đi sâu vào nội tẩm. Chàng trai đưa mắt ngó, thấy những xác đệ tử Yêu Thần nằm thẳng cẳng, sau cơn vật vã vì thiếu chất "moóc phin" đã chợp mắt thiếp đi, hoặc mắt vẫn mở trừng trừng.

                          Thánh Y mơ màng nhìn quanh điện:

                          - Đó là một cách trừng phạt những tín đồ muốn thoát ly. Lời nguyền của

                          Tổ Nương Thần Phù Dung ngàn đời linh ứng.

                          Động trí tò mò, Võ Minh Thần khẽ hỏi:

                          - Chẳng hay lời nguyền đó, tiểu điệt đây có thể biết được chăng? Thánh Y gật đầu:

                          - Tướng công chẳng những sẽ được biết mà còn biết thêm điều "bí ẩn ngàn đời" của Phù Dung Thần Giáo, liên quan đến vận mạng đời đời của hàng

                          trăm triệu con dân sống nhờ Thần Giáo! Cùng lời nguyền độc địa của Tổ Nương Thần, truyền tử lưu tôn trên các xứ Phù Dung, sáng nay, tướng công sẽ biết hết và cũng sẽ phải giữ kín lời nguyền bí mật ngàn đời đó! Mời tướng công vào đây!

                          Minh Thần theo lão nhẹ gót đi vào khu nội tẩm. Điện thật sâu thăm thẳm, bỗng tới cuối điện tường đá dựng cao vút hai bên, chân uốn như sóng lượn chừng vài thước rồi chạy vòng vào theo hình móng lừa, có một bức rèm vàng kim tuyến buông rũ từ nóc xuống nền đien.

                          Thần Nữ Phù Dung nương nương đi cạnh Minh Thần, đưa tay giật nhẹ một cái mấu chốt vàng khối trên tường.

                          Bing boong bing boong! Tiếng chuông kỳ ảo lại nổi lên, khoan thai rồi đổ dồn, âm thanh chìm nổi như gần như xa, vừa dứt, chợt bức rèm vàng kim tuyến cuộn soạt lên, mở ra một khu nội cung, bệ đá chập chùng vút cao.

                          Thánh Y, Thần Nữ đưa Minh Thần lên, đúng hai mươi bệ. Bỗng chàng tuổi trẻ

                          Minh Thần chưa biết kiếm lời chi an ủi, bỗng Thần Nữ vụt nghiêm sắc mặt nhìn Minh Thần, ánh mắt não nùng sâu thẳm như đáy vực:

                          - Thiếp sẽ từ sinh làm người tới nay chưa bao giờ được thấy ngọn đèn to lớn bằng một phần ngàn ngọn đèn quái dị này. Minh Thần được dan leo lên những hàng bệ bên hông, dòm còn thấy nhiều mâm đựng dụng cụ tiêu thụ nha phiến khác nữa, các loại đồ nghề hồi trung cổ trở lại, vẫn còn thô sơ, chưa tinh vi như các món dọc tẩu mới phát minh ra từ thời cận đại. Và sau bệ đồ thờ này có một chiếc giường thất bảo chạm trổ rất đẹp, sau giường có đặt một cái ngai vàng trang trọng như ngai vua chúa, chân ngai kê mép thành giường, trên ngai có một pho tượng nữ ngồi rất uy nghi, coi như người thực. Đến nỗi vừa thoáng thấy, Võ Minh Thần lại tưởng người bằng xương bằng thịt ngồi đó. Vì da mặt màu trắng ngà giống da người, không khỏi phát ớn xương sống khi thấy dao thương từng dãy cắm chổng ngược mũi lên trời, sáng lòa, loang có những vệt sáng lia soẹt trên ngọn thương, vọng đưa lên những tiếng vút gió như xé lụa! Chừng đó là những lưỡi đại đao, móc câu dính vào các guồng cái giá có nhiều mắc treo mấy cái áo thụng, mau tía hoa láng, màu đỏ, trắng, xanh, nâu... như để tượng mặc thay đổi vậy. Ánh đèn dầu lạc hắt soi lên mặt tượng đẹp long lanh, hai thiên đình sẽ mở rộng nghĩa là người đó có một đời sống sảng khoái, tâm hồn luôn được hân hoan, thơi thới ".

                          GHI CHÚ:

                          Thuật dưỡng sinh của phép thai tức - phái thai tức là Nữ phất tay tắt nến, mở chốt đóng cửa hầm lại. Bỗng thấy vị Thánh Y từ gian ngoài tiến vào. Thoáng thấy nắp hầm đậy kịch, ông già sửng sốt Nữ ra hiệu theo Thánh Y bước tới chỗ kê giường thất bảo. Thần Nữ, Thánh Y ra hiệu cho Minh Thần cùng chắp tay vái

                          lễ một tràng, và Thánh Y lập tức dẫn hai người tiến sang vách hữu, xế bên ngai vàng tượng Thần Phù Dung. Thánh Y kéo soạt bức rèm che vách, hôn nhân di truyền ngôn Yên quốc luật Phù Dung Thần Giáo, nhưng mối duyên hài tưởng đã xứng đôi? Sao công tử lại từ chối?

                          Minh Thần rất đỗi bàng hoàng. Chàng trai rất cảm động tấm lòng rộng điện Phù Dung Thần giáo, trước Tổ Nương Thần, giờ đã tới lúc tướng công biết phụ mẫu. Nghẹn ngào, Võ thở dài:

                          - Đến thân này còn chẳng tiếc, đâu còn tiếc thân với ân nương, ân công! Nhưng đời trai mồ côi không nguồn gốc, di mang người bị nạn tới xứ cháu con ngài, giờ phút này xin hiển linh năm chưa trả, lời thề báo oán còn nguyên, còn tính sao được chuyện đời mình?

                          Thánh Y Lãn Ông đưa mắt nhìn Thần Nữ. Khuôn mặt đẹp thần bí oai nghiêm thuật, từng hàng chữ hiện lên, móc ngược vòng ngang, coi rất lạ mắt. Võ Minh Thần nhờ xưa được theo tôn sư chu du thiên hạ học được khá nhiều thứ tiếng nên vừa trông thấy, đã biet ngay đó là loại chữ của dân Thái Thổ Lào thường dùng nhưng có nhiều thứ hơi khác một chút. Cứ mười chữ lại thấy lẫn vào một hai chữ Bạch thoại Hán tự, có lẽ vì tiếng Thái Lào còn thiếu nên phải mượn tiếng Tàu xưa, vì văn hóa Trung Nguyên đương thời đã tràn lan khắp Á Đông. Ngọn đèn dầu lạc trên bệ thờ tỏa sáng rực, Võ Minh Thần đọc tiếng được tiếng không, vị Thánh Y Lãn Ông dịu dàng bảo:

                          - Những chữ hơi khác này chính là tiếng riêng của xứ Phù Dung, lấy tiếng Nhắng, tiếng Kha, Dao chế biến ra. Những dòng truyền ngôn di bút này đã viết trên sáu thế kỷ, để lão phu đọc giải giúp tướng công cho tiện.

                          Lãnh Chúa Phù Dung Quốc Giáo Chủ Phù Dung Than Giáo truyền ngôn lại cho con cháu thần dân bản quốc:

                          Ta lập đền thờ này vào thời lập quốc. Đền này là đền thờ Phù Dung Thần Nữ Tổ Nương bậc linh thần đã cứu dòng giống hợp tộc này thoát nạn tiêu vong và đã ban cho tổ tiên ta một kho tàng chi bảo để lập quốc. Kho tàng này không bao giờ cạn, nếu các ngươi dốc lòng thờ phụng Tổ Nương Thần cho trọn đạo tôi con đệ tử. Đó là cây Thẩu, nữ hoàng thảo mộc, trái cây mỗi mùa chảy ra "vang đen", hóa thân máu lệ xương của Tổ Nương Thần Phù Dung.

                          Ngài đã ban máu lệ xương thịt ngài cho tổ tiên ta dựng lên nước Phù Dung. Xứ Phù Dung thờ phụng người, lập nên Phù Dung Thần Giáo.

                          Thần Giáo còn, xứ Phù Dung còn, dòng giống Phù Dung hợp tộc này còn. Thần Giáo tàn, vàng đen hết, Phù Dung quốc diệt, người xứ đã mười tám năm rồi, đại cừu cứ báo nhưng việc hôn nhân nào có phạm chi? Tưởng công tử chẳng cần phải... khắt khe với mình quá the, để điện này lạnh cho con cháu thần dân truyền tử lưu tôn ghi nhớ đời đời.

                          Lập ngôn của tổ tiên là phong tục, luật lệ, lời lãnh chúa làm thành ước pháp, lời nguyền theo mộng triệu là lời nguyền độc địa đời đời ứng nghiệm trên xứ Phù Dung. Con cháu thần dân tuân từ dưới chân đồi nổi lên một hồi cồng rền rĩ âm u, tiếp theo là tiếng chiêng trống, đàn sáo, sênh tiêu, "khèn" ba hồi âm thanh rừng rú, bình nguyên pha trộn dâng lên đại điện im lìm xao động không gian. Âm thanh "đi" dần lên đồi, dứt ba hồi. đã kề ngoài cửa điện. đang đi sâu vào chuyện bí ẩn dị thường của nền "huyền giáo nâu" kỳ lạ, như sấm rền:

                          - Thần Nữ Nương Nương đẹp duyên tiền định. Thần Giáo trường tồn, Phù Dung hưng thịnh, thần dân hưởng phúc đời đời!

                          Tiếng nàng giáo chủ nữ chúa xứ Yên và Thánh Y Lãn Ông, lòng càng thắc mắc chẳng hiểu sao hai người lại cho chàng đi sâu vào bức màn bí mật kỳ lạ đó. Dưới đền thờ lúc này khuôn mặt nữ chúa Phù Dung Thần Giáo coi càng thần bí, đẹp phi phàm, còn mặt Thánh Y thì càng nghiêm chỉnh, chừng như ông già hiểu rất rõ là ông đang làm một việc hết sức linh thiêng.

                          - Mời tướng công lại qua đây một chút! Như cái máy, Minh Thần theo hai người tiến sâu vào hai bộ, Thánh Y lại bốc một nắm phấn bụi màu hồng hoàng ném vãi lên tường hai, ba cái. Dưới đèn, từng hàng chữ khác lại hiện lên, nhỏ hơn hàng chữ vừa rồi, Võ đoán chắc mặt tường được viết chữ bằng một thứ mực đặc biệt chi đó, và chữ nổi lên khi phấn hồng hoàng chạm vào, cũng như viết bằng nhựa dính bắt bụi

                          vậy. phải hy sinh đền đáp ân nhân.

                          Dứt lời chàng lùi phắt lại, nhưng Thần Nữ chỉ lắc mình một cái đã xẹt đứng bên, nắm vụt lấy cổ tay chàng nhanh như các sắc dân trồng nó. Chim chóc sẽ mang đi, gieo rắc trên trái đất. Nó sẽ cho các người sự sống phồn thịnh. Nó sẽ trị nhiều bệnh tật, ban nhiều an ủi, nhưng mắc vào, như mắc dây xiềng, vì không cách nào trị nổi! Ta cho các ngươi cây Phù Dung, xứ Phù Dung các ngươi sẽ mở ra một nền Thần Giáo. Với kẻ phụng thờ, ta cho biết điều bí ẩn vô cùng về hóa thân ta. Hãy lập

                          nguyền cho con cháu nối đời gìn giữ. Xứ Phù Dung và dòng giống Phù Dung sẽ bị tiêu diệt nếu Thần Giáo suy tàn...".

                          Minh Thần trầm ngâm:

                          - Thật huyền bí! Cũng như sắc Nùng, nguồn gốc tận bên Nga thượng cổ.

                          Nhưng còn điều bí mật trên xứ Phù Dung?

                          Thánh Y vụt nghiêm sắc mặt:

                          - Lão phu người ngoài cuộc, không được quyền biết đến điều bí ẩn sinh tửđó! Thần Nữ xứ Yên sẽ đưa tướng công vào. Minh Thần ngơ ngác chẳng hiểu tại sao mình cũng là người ngoài cuộc mà lại khác Thánh Y, nhưng chưa kịp hỏi thì Thần Nữ đã đưa tay ra hiệu.

                          Thánh Y đứng lại, chỉ có Minh Thần theo nàng đi vào phía trong, trèo lên bệ tượng phía sau. Nơi đây lại có một khung cửa đóng, nàng mở cửa, đưa Võ vào, trong này có một gian nhỏ, vách đá nhẵn, cũng có một ngọn đèn dầu.

                          Không nói chi, Thần Nữ cầm phấn hồng hoàng ném vãi lên tường. Chữ hiện lên, như nhảy nhót trước mắt chàng tuổi trẻ:

                          "Bí mật truyền đời - Lời nguyền độc địa trên xứ Phù Dung: Đệ tử Phù Dung mang xiềng xích vô hình suốt đời khó cởi. Vì chất Phù Dung bám vào xương tủy, không thuốc nào trừ nổi. Lang y có tài cải tử hoàn sinh cũng bó tay. Vì trên cõi thế gian, không có vị thuốc nào khắc kỵ. Vị thuốc khắc kỵ này chính là một loài thảo dã, chỉ sinh ra tại các xứ Phù Dung. Đó chính là loài "Tam sắc nhật kỳ ký sinh thảo dã", cây cỏ này từ cây Phù Dung hóa sinh ra, mọc ngay dưới gốc Phù Dung. "Tam sắc nhật kỳ thảo" này mỗi ngày đổi đúng ba màu theo ánh thái dương, sáng sớm là màu xanh, đến trưa lá chuyển sang màu bạc, đến chiều hoàng hôn, lá lại đổi màu vàng. Bứt nắm lá cây này dùng cả rễ đem về nấu nước, uống một thang là dứt. Nếu thiên hạ biết, dân Phù Dung sẽ tiêu vong, vậy cứ thấy mọc lên phải làm cỏ đốt liền. Biết giữ thì còn, không biết giữ thì mất, con cháu hãy nhớ lời nguyền trên xứ Phù Dung".

                          Võ đứng im như pho tượng, mắt ngó đăm đăm những hàng chữ lạ ghi chép điều bí ẩn dị thường về chất sấm rền muốn vỡ điện, và trước cặp mắt ngạc nhiên của chàng họ Võ, đám lực sĩ giơ bên ngoài âm thanh hợp tấu bật dậy, kích thích cực độ, đám lực vẫy giẫy giua như đỉa phải vôi múa theo nhịp âm kích thích, nhảy nhót, vờn lượn quanh ba người. Thánh Y dắt cặp trai gái ra trước bệ thờ, lão từ từ hạ của nha phiến lan tràn rất mau, bà Tay Thái Hậu khét tiếng cũng là đệ tử Phù Dung, phàm đã rơi vào hầu hết đều không bỏ nổi.

                          Từ Đông sang Tây, đã có nhiều tay danh y có tài gần như cải tử lão se duyên cho đôi trai gái này. Thần Nữ Phù Dung với Minh Thần họ Võ nên nghĩa phu thê, Thần Nam ứng ngôi phò mã cùng Thần Nữ làm chúa tể Phù Dung Thần sao loài người hiện nay đã khôn ngoan xảo trí tới độ chế ra các thứ "thăng thiên nhập địa, thiên lý thần thông"... lại chưa phát minh ra được món trị bệnh ghien ma túy. Để đến nỗi hàng vạn, triệu đệ tử Phù Dung bị ma túy theo ám suốt đời như một thứ oan hồn. Trong khi đó, chính chàng cũng từng được thấy mấy dân uống "thẩu" lại bỏ dễ như chơi. Vào mùa hái "thẩu" đàn bà con nít có nơi cũng hút thuốc liên miên, như dân Hồi Giáo lễ.

                          Thánh Y vùng hô dõng dạc trầm trầm:

                          - Hỡi anh linh Tổ Nương Thần! Xin người về chứng giám cho con cháu người, giáo chủ Phù vật khắc tinh.

                          Như hỏa kị thủy, chuot kỹ mèo, thuốc phiện chỉ có một khắc thảo khắc tinh là loài cây "mỗi ngày thay ba sắc lá" kia, thứ cây mọc dưới gốc "thẩu", một giống ký sinh thảo không phải cây tầm gửi từ đâu theo gió bay tới bám vào. Ngoài giống "thảo khắc tinh" này, mọi dược tính khác đều vô hiệu.

                          Dân trồng "thẩu" xứ nào cũng gửi vận mạng vào nhựa "thẩu", họ thừa hiểu điều bí mật này nếu tiết lộ ra sẽ không còn khách tiêu thụ nữa, dân xứ "thẩu" sẽ lâm nguy, vì lẽ giản dị là đệ tử Phù Dung nào chẳng muốn cởi xiềng nô lệ, nên tất cả đều nhất quyết giữ lời nguyền độc truyền tử lưu tôn, coi đó là điều sống còn của bộ tộcàng, làm hiệu và nhảy vọt lên bệ thờ, rồi cứ thế vừa dắt chàng trai vừa nhảy múa, chơn vờn theo âm thanh, dẻo như mây rừng, lần lượt chuyển hết các bệ, vào tận chỗ đặt tượng Phù Dung Thần.
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #14
                            Hồi Thứ Mười Bốn - Động Phòng Trong Ruột Tượng

                            Lúc này cả khu nội điện mênh mông im lặng vô cùng, chỉ có cồng "khèn" chìm nổi, đám thần dân đều gục sát nền không được ngẩng lên.

                            Nãy giờ, Võ Minh Thần chỉ còn biết cử động như cái máy, hòa theo nhịp nhảy múa của nàng giáo chủ Phù Dung chẳng còn tâm trí nghĩ ngợi ngược xuôi nữa. Chàng chỉ thầm đoán đây là một "vũ khúc thiêng liêng" mà đôi vợ chồng mới phải hợp diễn trước tượng Thần theo tục lệ bản xứ và theo lời vị Thánh Y nguyệt lão vừa nói, đây là một cuộc lễ để nữ chúa giáo chủ hiến trình tấm thân băng trinh cho Thần Phù Dung chứng giám, trước khi làm lễ hợp cẩn.

                            Phút đầu chàng trai hoang mang thấy mình phải cuốn theo tục lệ kỳ lạ của tiểu quốc thâm sơn, nhận cả lễ tơ hồng, cho "chỉ buộc cổ tay" nhưng sau tưởng đến ân thâm Nữ!

                            Thần Nữ cười bảo:

                            - Xưa nay "anh hùng nan quá mỹ nhân quan" vẫn chuyện thường tình, nên khi khỏa thân thử chàng thiếp vô cùng lo ngại xưa buộc kẻ lạc tới thành giai tế, làm chồng Nữchúa giáo chủ, nhưng Thần Nữ Bắc Yên đâu nỡ buộc mình. Đây chỉ làm một kế quyền biến cho êm thấm bên ngoài qua cơn túng xử theo lời Thánh Y, Thần Nữ cũng rõ! Âu cũng là một cách mình đền ơn trong muôn một cũng khác nào diễn một màn kịch lễ tơ hồng, đóng giả vợ chồng trên sân khấu vậy!

                            Ý nghĩ làm Võ thêm vững dạ, lại gặp dịp mới thoát bệnh nạn hiểm nghèo, tưởng đến chuyện ra đi phục thù, lòng trai càng phấn khởi, vui vui, như được dự trò hay xứ lạ.

                            Thần Nữ mặc hoàng bào, Minh Thần mặc hồng bào, hai người cột tay nhau nhảy múa coi như hai con bướm màu vờn trong điện. Trong đời Minh Thần chưa thấy gái nào vũ hay như nàng. Kỳ diệu nhất là vạt áo sau nàng dài thượt như gấu váy nữ hoàng Tây Phương phải có gái hầu nâng, vậy mà lúc này nàng múa lướt trên bệ thờ ngổn ngang đồ vật, tà áo không hề quét phải theo nhịp, theo nhịp cứ bước, cứ bay cuồn cuộn coi như giải áo tiên cô.

                            Vừa nhảy múa, Võ vừa đưa mắt nhìn nàng. Mặt nàng tắm ánh đèn vàng lung linh coi càng thần bí, toát ra một thứ nhan sắc vừa uy nghi đài các, vừa tình tứ đê mê, một thứ nhan sắc phi phàm đầy sức lôi cuốn người như sắc gái hồ ly, tiên cô cộng lại.

                            Đang chờn vờn vùn vụt luồng âm thanh chậm lại, ngoài Thần đành phải cùng nàng cạn chén giao bôi. Xong tiệc rượu, gái hầu bưng vào một mâm đèn Phù Dung thật xinh xắn. Nàng cười bảo:

                            Gặng đến mấy

                            - Vũ khúc "phu thê đồng diễn" xong rồi, giờ tới "vũ khúc băng trinh", chỉ có cô dâu diễn trình, tân lang chỉ cần đi theo nhịp bước. Trước Tổ Nương Thần, nữ giáo chủ phải vũ chứng minh sự trinh bạch cho Tổ Nương thấy rõ giáo chủ Thần Giáo khong thể là gái thất trinh lấy chồng! Gái thất trinh sẽ bị trừng phạt ngay trên bệ này!

                            Minh Thần ngó quanh, toan hỏi, đã thấy nàng vụt chuyển mình mẩy, múa nhảy chờn vờn, rồi bất thần nhảy vọt lên trốc ngọn đèn. Đèn nay đường kính hàng mấy thước, phía trên nhẵn bóng như nền pha lê, lửa nung nóng như đồng nướng, muốn chảy cả đế giày cao su. Minh Thần phải vội vận sức hàn dồn xuống bàn chân mới thấy mát dịu hẳn. Bỗng nghe "soạt" tiếng ao trôi, Minh Thần ngó sang đã thấy Thần Nữ cởi vụt chiếc áo vàng hở nửa mình. Nàng uốn như mây, lắc mình, áo bào trôi dần sao bên trái, trôi mãi, thoắt đã lộ bán thân chỉ còn mảnh lụa lót đen nhánh như cánh bướm đậu hờ. Chiếc áo bào chỉ còn dính ống tay buộc với tay Võ.

                            Chàng trai hơi giật mình, hoảng hốt, vội ngước mắt dòm lên mặt tượng Thần Phù Dung. Bỗng nghe Thần Nữ hét lên một tiếng lê thê, chói tai, Võ lại vội ngó sang, vừa kịp thấy nàng xoay lưng giật "soạt" chiếc áo hoàng bào, rớt ngay xuống bệ thờ, tay phải nàng đã cầm một mảnh lụa vàng lấy từ áo bào ghép ra, múa phất phơ. Mới hay áo này ống tay trái có khuy cài dọc, giật mạnh, khuy bung sổ, áo rơi luôn ra.

                            Ngoài xa, tiếng cồng chợt im chỉ còn tiếng kèn lan độc tấu, vút cao vờn âm nguyên thủy như quyện xoắn lấy thân hình Thần Nữ. Nàng vẫn xoay lưng lại, lắc vùn vụt như con mồi dãy dụa, mềm mại lạ thường, cả linh hồn nàng lúc này như hiến trọn cho vũ diệu. Dưới đèn, mảnh xiêm y vừa tung vừa trôi dần xuống thành một đường vòng tròn dưới chân. Nàng bước ra khỏi vòng tròn bay xuống bệ dưới.

                            Nàng theo nhịp khèn uốn cong dáng liễu, dưới đèn mảnh lụa vàng kim tuyến lấp lánh bay lượn quấn quanh người nàng như con hoàng xà vẩy khúc, mấy cánh bướm đen bỗng bay vút lên cao phất phới, chao qua chao lại dưới sức gió từ dải vàng kim tuyến hắt ra xoắn bay trông như cơn lốc xoáy.

                            Lúc này, vũ điệu kỳ dị đã đến nước tuyệt diệu cuốn lôi nhỡn quang Võ theo như nam châm hút sắt, chàng ngửa mặt nhìn theo mấy cánh bướm đen tuyền, bướm dờn dờn bay là trốc đầu chàng rồi đáp xuống chân đèn đậu yên đó.

                            Bỗng tiếng "khèn" ngoài kia rít cao, đệm tiếng đàn "cồng", Thần Nữ theo nhịp vũ xoay vụt người lại phía Minh Thần. Cả gian nội điện như giật nẩy lên

                            trước sự hiển lộng nhan sắc ngọc ngà dưới ánh đèn lung linh. Giải khăn vàng trai rộng, uốn éo như con trăn gió vờn thịt tơ, có lẽ không có tay điêu khắc nào có thể khắc nổi một pho tượng ngà đẹp đăng đối đến thế, gọi tượng Thần Vệ Nữ hiện thân cũng chưa đúng, phải nói đây là một tác phẩm tuyet tác của hóa công! Đăng đối đến nỗi chỉ ngắn đi, dày thêm, mỏng thêm một phần trăm ly là lỡ hết.

                            Chưa khi nào Võ được hiểu trọn vẹn cái đẹp hoàn toàn tao nhã, thanh khiết của một hình thể khỏa không mảy may gợi ý dâm tà, như nét đẹp khỏa lộng của Bắc Yên Thần Nữ lúc này trước đền thờ, vẻ đẹp còn tiết ra nét thiêng liêng thần bí lạ thường càng tô thêm sắc cao quý của tấm thân ngà chúa tể "ba biên giới".

                            Mắt phượng mày ngài, dung nhan đã đẹp, thân mềm uốn theo điệu càng lồng lộng nét kỳ hà cong vút, dưới đèn Thần Nữ khỏa lộ trọn vẹn cả tấm nhan sắc thiên kiều bá mị, đúng tượng Thần vệ nữ đang phô trình thân xác băng trinh như đóa hoa ham tiếu phô Tổ Nương duyệt lãm. Và rõ ràng cho cả "tân lang phò mã" chứng kiến theo tục lệ cổ truyền bản xứ vì tay trái nàng vẫn buộc vào tay Võ. Nàng vờn thân dáng hướng về phía tượng thần Phù Dung, xong lại hướng thẳng vào Võ múa vờn "vũ khúc băng trinh" huyền ảo! Minh Thần đã lưu lạc giang hồ nhiều nên biết trên thế giới vẫn có nhiều sắc dân coi chuyện khỏa thân biểu hiện cho sự thanh khiết tuyệt không gợn ý dục trong phong tục như lối tắm một số sắc dân sơn cước, của người Nhật văn minh cũng thế. Nên chàng thầm hiểu cuộc khỏa vũ của nàng giáo chủ xứ Yên mang đầy ý nghĩa thiêng liêng rất tự nhiên. Tuy vậy, Võ cũng vẫn thấy hoảng hốt, bất nhan hết sức khi nghĩ đây chỉ là một cuộc trình lễ giả vờ che mắt thần dân cho chàng có dịp thoát khỏi nơi này.

                            Mặc Võ nghi loang quanh, Thần Nữ hình như đang "nhập hồn" vào nhịp vũ tiếng "khèn" lại chuyển âm hoang dại, nàng vừa múa vờn vừa áp sát thân dáng vào chàng, có lúc chỉ kề ly tấc, thân liếc uốn cong veo, hai con mắt nàng ngó thẳng vào mắt Võ, hiện rõ vẻ kính cẩn, nghiêm trang, đượm ánh mê hồn thần bí, tưởng nếu đời nàng bất thần tan biến theo vũ điệu có lẽ không còn gì sung sướng bằng nữa.

                            Võ chẳng biết tính sao hơn, cứ phải làm gan đi bên vũ điệu lạ đời. Thỉnh thoảng chàng ngước mắt trông lên pho tượng thần Phù Dung quyện khói hương, đen vàng, hai con mắt cẩn ngọc xanh biếc long lanh coi linh hoạt như "có thần" dòm xuống, khiến bầu không khí quanh bệ thờ càng thêm phảng phất vẻ thần bí lạ thường. Giữa âm thanh chờn vờn, bỗng phía ngoài, có tiếng ai hô toàn tiếng bình thanh, lập tức cả khu điện ngoài vang lên những tiếng người hợp tấu trầm trầm, như tiếng cầu kinh.

                            Minh Thần liếc trông ra thấy đám dân Yên thảy đều chấp tay lên trán vái lễ, dập đầu đầy vẻ thành kính. Trên nóc bóng đèn thờ, Thần Nữ bỗng chuyển nhanh động tác, dắt Võ đi vòng quanh ngọn đèn, có lúc nàng phất dải lụa mở rộng ra, chân ngọc cài hẳn vào chân Võ thân dáng ngã rạp cong veo như cành liễu gặp gió vùi.

                            Tiếng cầu kinh ngân dần, bỗng lại co tiếng vị Thánh Y Lãn Ông vang âm khắp khu điện mênh mông:

                            - Hỡi Tổ Nương Thần linh thiêng, phúc thần đời đời của dân tộc PhùDung! Ngài đã duyệt lãm thân xác trinh bạch của ngôi giáo chủ! Xin mở lòng cho nữ giáo chủ đe tử Ngài cùng tân lang phò mã vào làm lễ hợp cẩn. Nguyệt lão se duyên chỉ thắm xin Ngài truyền thần ý! Nếu chuông thần phát âm thần ý tác thành phu thê hoan lạc. Thần giáo trường tồn!

                            Lời vừa dứt, Thần Nữ chợt dắt Võ nhảy vèo xuống bệ dưới. Võ trông ra thấy tít xa, có bóng lão Thánh Y xuất hiên, đứng nhìn lên pho tượng thần Phù Dung trong cùng, cách xa tới sáu bảy chục thước. Một cặp đồng nam đồng nữ dâng cung tên, Thánh Y đỡ lay, xoay tròn bốn mặt, dân chúng im lìm, bất thần lão giương cung thả vút mũi tên lên phía tượng thần.

                            Võ cùng Thần Nữ thoáng thấy mũi tên bắn trúng miệng tượng thần. Coong! Tiếng đồng vang lên, mũi tên chui tọt vào trong mất dạng, bỗng tiếng chuông vùn vụt dậy "boong, boong" chìm nổi ba hồi vang khắp đền thờ.

                            Và sau tiếng chuông ngân pho tượng bỗng nứt làm đôi để lộ một khoảng trống thâm u, bên trong có ánh sáng rực rỡ muôn màu.

                            Thần Nữ dắt tay Võ nhảy vọt lên bệ thờ chính giữa, vừa vờn vừa nhảy vụt lên lên ngọn bóng đèn, dứt ba hồi chuông, Thần Nữ đưa mắt làm hiệu cùng Võ nhảy vọt lên chân tường cao chót vót.

                            Đứng trên này có thể nhìn thấy suốt khu nội, khu ngoại điện thênh thang, chật ních bóng người quỳ dập đầu xuống nền đá nhẵn, không một tiếng động nhỏ. Chỉ còn tiếng "khèn". Ngay khi đó, chợt tiếng đàn sáo nổi lên, Thần Nữ theo nhịp Thần Nữ bị đánh mê liền, Võ Minh Thần vụt chạy tới, vừa kịp đỡ lấy dáng thân nàng đổ xuống. Nhìn nẹp áo đã thấy bung khuy cúc, mấy ngón tay nàng giới nào xa xăm lắm. Vì mọi tiếng động bên ngoài đều chìm tắt hết, tiếng đàn sáo, tiếng chim ngân ngoài đồi, nhất loạt lùi đâu mất cả, bốn bề im lặng mênh mông. Thần Nữ không múa nữa, chàng trai chớp chớp mắt nhìn quanh.

                            Ánh sáng trong ruột tượng thật kỳ ảo, xanh đỏ trắng, tím vàng giao nhau, biến hóa muôn màu, làm loạn cả nhỡn quang, mươi khắc mới định hẳn. Võ bật kêu "ồ" sửng sốt.

                            Vì thấy mình đang đứng sững trong một căn phòng vô cùng xinh xắn màn che trướng rủ, đồ đạc bày biện hết sức tao nhã, ngó qua đã nhận ra được đây là khuê phong của khách đài trang phảng phất vẻ phi phàm thanh thoát lạ.

                            Và xế đằng kia, là nói sao cho chàng tin được? Đêm qua canh tư thiếp mới về, nào thiếp có gặp chàng nửa đêm giờ Tý đâu mà bảo phục rượu dâm tà ép chàng làm chuyện gió trăng? bên nhau như đợi khách trần ghé nhập Thiên Thai.

                            Thấy giường thất bảo, màn bát tiên, chàng trai vùng nhớ đến hai câu Kiều của Tố Như, bỗng dột lòng quay dòm Thần Nữ. Nàng đứng sát bên chàng, tay vẫn cùng buộc chỉ hồng, dưới vùng ánh sáng muôn màu coi nàng đẹp lồ lộ như tiên nga giáng thế, tưởng chừng gỗ đá cũng phải đảo điên. Võ vùng hỏi:

                            - Thưa sao lại vào đây?

                            Thần Nữ phất nhẹ giải kim tuyến vàng quấn quanh mình mẩy như khúc rắn, nhìn Võ, thỏ thẻ:

                            - Hôn lễ xong rồi! Đây là lễ cuối, lễ hợp cẩn! Theo tục lệ, giờ phút này là giờ phút thiêng liêng nhất của thần dân. Chúng dân sẽ cùng Nguyệt Lão đợi ngoài điện đến giờ Ngọ, không thấy ra, chúng thần dân cũng quay cùng... nằm mơ? Hay gặp nàng trong ảo giác? Không thể vậy được!

                            Mùi da thịt đàn bà còn phảng phất gối chăn! Còn chiếc vòng? Thần Nữ muốn điên đầu Nữ mỉm cười, hơi cúi đầu nói nhỏ:

                            - Lễ hợp cẩn đã làm đâu? Minh Thần thực sự rất vụng về các tục lệ hôn nhân:

                            - Tưởng vừa xong lúc chuông khua? Vậy giờ còn phải làm gì nữa đây?

                            Thần Nữ nhìn Võ, thoáng ngạc nhiên thấy chàng ngây ngô quá, nàng nữ chúa vụt trở nên đầm ấm khác thường, nàng khẽ bảo Võ:

                            - Chính lễ xong rồi, chàng với thiếp đã nên duyên phu phụ. Cả linh hồn thân xác thiếp từ nay sẽ thuộc về chàng... Từ nay thân thiếp sẽ trông cậy nơi chàng, trong nhờ, đục chịu... Cát đằng nương bóng tùng quân...

                            Nghe giọng nói thiết tha, Võ đâm hoảng lắp bắp:

                            - Đâu... đâu phải vậy? Nương nương là nữ Chúa giáo chủ... đã cứu mạng kẻ lưu lạc này... Nương nương lại là nhân vật lừng danh "Tứ trụ" võ lâm hiện nay, chính kẻ này mới là cát đằng...

                            Thần Nữ phát cười khanh khách:

                            - Chàng không hiểu... chuyện hôn nhân khác! Mà bọn thiếp như thuyền, đàn ông như bể nước... Chớ! Giờ này là của đôi ta, xin chàng vào quá đây, thiếp dâng ly rượu giao bôi.

                            Nàng vừa nói vừa dìu Võ vào chỗ giường thất bảo. Trên bàn có nhiều trái cây mỹ tửu. Nàng dìu Võ ngồi bên giường, rót rượu dâng. Nàng để ly rượu và miệng Võ, âu yếm thiết tha ép chàng uống liền ba ly. Từ cơ thể nàng tiết ra một mùi lan xạ thật kỳ ảo phả vào mũi Võ làm chàng phải nín thở, hoảng kêu khẽ:

                            - Nương nương... này. Ta bứt sợi chỉ này đi chứ? Để làm gì đây?

                            Thần Nữ nhìn sợi chỉ hồng buộc Gặp các bô lão, chàng sẽ rõ đêm qua thiếp ở bên cạnh họ tới canh tư mới về dinh. Vả lại người mắc bệnh mộng du thường chỉ hành động bất thần, đôi ta lại. Đó là sợi "âm dương tuyến". Nhưng giờ nếu chàng muốn bứt đứt thì cũng được.

                            Minh Than cả mừng đưa luôn hai ngón tay bứt liền. Nào dè bứt liền mấy cái không đứt, tuy sợi chỉ hồng chỉ bằng sợi dây gai, lạ lùng chàng bèn vận sức giật cũng không được. Chàng càng sửng sốt vì tay chàng giật xích sắt còn đứt, giờ sợi chỉ hồng càng giật càng nghiến chặt vào tay.

                            - Ơ... sao lại thế này? Dây ma dây quái gì mà dai gớm?

                            Thần Nữ mỉm cười:

                            - Dây tơ hồng đó! Thiếp đã nói nó sẽ đứt khi... hợp cẩn. Vì nó là một thứ dây được chế luyện đặc biệt để dùng vào dịp hôn lễ. Chàng không muốn buộc liền với thiếp?

                            Võ Minh Thần lúng túng chẳng biết nói sao. Xứ Phù Dung này thật kỳ dị, nguồn gốc, địa thế tục lệ đã kỳ, đến chuyện hôn lễ càng quái gở. Nhưng cái xứ thâm sơn kỳ dị này đã cứu chàng thoát nạn lớn, và người đàn bà giáo chủ này lại là ân nhân chàng. Đại lễ vừa dứt và người đàn bà tài sắc tuyệt vời hiện ngồi bên chàng, trong ruột tượng thần lồ lộ tấm băng trinh. Và dẫu "ngờ nghệch" đến mấy, Võ cũng hiểu nàng đưa chàng vào đây là để động phòng hợp cẩn, và hình như nàng đã sẵn sàng hiến dâng tất cả cho chàng.

                            - Ta làm chồng nàng ư? Ta có vợ? Nàng là vợ ta? Đây là phòng hợp cẩn? Đâu phải thế? Đây chỉ là một gốc thân thế. Nên để cho hai cha con vị Chúa hồng cẩu quẩy Pi Ya A chép lại các dòng chữ lạ trên vòng, ngày nọ gặp Nam Khấp, mỗ cũng chẳng tiếc Nữ đã níu chàng xuống, và bang một cử chỉ vô cùng tình tứ lả lơi, nàng ghé sát mặt nàng

                            vào vai chàng và theo đà ngã luôn tấm thân tuyệt trần vào lòng Võ, giọng thánh thót nổi chìm như tiếng đàn thần tiên:

                            - Giờ phút này là của đôi ta. Trời đất thần linh đã tác hợp duyên kỳ ngộ, xui khiến cho dị thú mang chàng đến đây. Thiếp chưa hề biết yêu, gặp chàng, thiếp đã yêu chàng ngay... Chàng ơi! Chàng hãy coi tim thiếp đang thổn thức vì chàng...

                            Vừa nói nàng vừa nắm tay Võ đặt vào ngực trái nàng, lồng ngực băng trinh làm Võ Minh Thần giật bắn người như chạm phải gai, rụt vội tay kêu lên:

                            - Nương nương... kìa! Nương nương nói chi lạ thế? Xin chớ làm kẻ này mang tội bất kính với ân nương! Chúng ta chỉ vờ làm hôn lễ che mắt dân gian mà.

                            Vừa nói, chàng vừa co luôn đầu gối dềnh dội nàng giáo chủ lên, nàng nhoẻn cười thỏ thẻ:

                            - Chúng ta đã thành vợ chồng trước Thần Nương dân chúng, theo nghi lễ thiêng liêng. Làm gì có chuyện giả vờ? Thiếp đâu phải phường trăng hoa để kẻ giả phu duyệt lãm thân mình? "Vũ khúc băng trinh" chỉ trình diễn cho hảo lang quân được thấy! Làm gì có giả hôn!

                            Minh Thần đứng sổ dậy nhưng khốn nỗi hay tay vẫn dính liền với nhau, chàng hoang hốt nói như van:

                            - Nương nương chớ nói thế... kẻ này mang tội với bậc sinh thành! Cha mẹ kẻ này tay Minh Thần, ngậm ngùi bảo:

                            - Nay chuyện xảy ra, thiếp vô cùng xấu hổ, có lẽ chết cũng chưa giải tỏa được mối oan vô lượng này. Vậy xin chàng cho phép thiếp được đi tìm vòng, chàng cứ ở đây để dưỡng tinh thần, đợi thiếp về sẽ hay!

                            Minh Thần thật bối rối, mâu thuẫn, cứ bị cảnh rượu mê ám ảnh, ngờ Thần Nữ, nhưng đem trí ra suy luận, lại chẳng thấty Thần Nữ lấy cả Thần linh? Chàng thật... ngây thơ, thiếp cũng chẳng gì cũng là nữ chúa giáo chủ, bấy lâu gìn vàng giữ ngọc có khi nào lại để đàn ông lạ thấy cả mình khỏa vũ, nếu chẳng phải là chồng thiếp? Thôi chàng đừng nghĩ ngợi vẩn vơ nữa. Chàng thích dùng chi để thiếp dâng? Trong này có đủ cả!

                            Nàng vỗ vai Võ, thật tình tứ thiết tha, mùi lan xạ tiết ra phả vào mũi chàng tuổi trẻ, gây cảm giác ớn người, một thứ ơn ớn kỳ dị dễ làm ngã lòng người trai bướng với nhan sắc. Thực ra, Võ tuy điển trai, để ta không chối nổi cuộc hôn nhân này! Nhưng lại sợ ta giận bỏ đi, nàng mới bí mật lấy vòng càn khôn đi, rồi kiếm cớ lưu mình lại!

                            Tuy thế Võ lòng nghiêm chỉnh. Như lần bồng Giao Long nữ, mổ vết thương dưới vú, tuy mặt nàng xấu xí mà

                            thân thể thơm tho, xinh đẹp lạ thường, mùi thơm sực nức, Võ vẫn giữ được lòng, những lần kề Bạc Khao Lan, Đèo Nguyệt Kiều, chàng van vượt qua, nguy nhất là thời gian ẩn náu trong buồng riêng Nguyệt Kiều dưới Cung A Phòng, lắm phen gần như má tựa vai kề, chàng vẫn cầm lòng được.

                            Cũng khó nữa là Thần Nữ bình nhật lại đẹp uy nghiêm, đài các, chẳng vẻ chi lẳng lơ, giờ lại lồ lộ tình tứ cũng có sức quyến rũ "ghê gớm". Nàng lại cứ vờn nét kỹ hà thần bí trước mắt Võ, chàng lại không thể chống đối lại như chống đối với Hồ Ly Ma Nữ mới phiền. Bèn nhắm phăng mắt lại như kẻ tham thiền, giọng khổ sở bảo:

                            - Ngu mỗ giờ chỉ thích được đi ngoại cảnh một vòng!

                            Thần Nữ thấy thế không khỏi buồn cười, ghé sát miệng vào tai chàng thì thào:

                            - Thiếp có ăn thịt chàng đâu mà phải nhắm mắt lại? Nam nhi gì mà nhát thiên định! Nào ngờ mối oan vô lượng bỗng từ đâu buộc cổ, đến nỗi chàng gần thiếp cũng phải đề phòng, thiếp còn biết nói sao đây! Chẳng dám trách lang nhẹ vào mang tai, làm Võ rùng mình liền mấy cái, nàng càng được thể dìu chàng ngồi xuống, rồi ngã luôn vào lòng làm Võ giật mình mở choàng mắt ra.

                            Dưới làn ánh sáng muôn màu, nàng như hiện thân của Vệ Nữ Thần khao khát tình yêu, làm Võ bỗng ngạc nhiên hết sức, thoáng nghĩ:

                            - Lạ thật! Sao nàng lại lả lơi tình tứ thế này? Nàng đâu phải hạng gái khát tình? Hay tục lệ buộc phải thế? Có lẽ vậy! Vì trước sau nàng vẫn tuân theo tục lệ cổ trong lòng, hơi lúng túng, lắc lắc đầu:

                            - Không, không! Nang chớ hiểu lầm, Võ này chỉ có ý nghĩ là nàng... nàng

                            muốn lưu ta lại bằng những hành gở đó thôi.

                            Thần Nữ thở dài:

                            - Dẫu muốn thù phụ mẫu chưa báo xong chẳng thể nghĩ chuyện vợ con! Ngu mỗ như con chim bị đạn sa lạc miền Phù Dung, sớm muộn phải bay đi. Nữ chúa sắc, tài gồm đủ xin giữ mình vàng, chớ nên kinh suất. Ngu mỗ không thể ở lại làm giai tế Phù Dung đâu, dầu ngu mỗ muôn phần kính mến Nữ Chúa.

                            Thần Nữ cứ lả lời, dùng đủ cách khêu gợi cho Võ động phòng nhưng Võ vẫn một mực ngồi yên, tình cờ thấy tay áo có hàng khuy dọc, chàng cởi luôn tấm áo hồng bào khoác lên mình Thần Nữ. Nàng vụt cau mày, buồn giọng:

                            - À, hay chàng cho thiếp là gái quen đường hoa nguyệt, chẳng còn tiết trinh?

                            Dứt lời, nàng bước lại bên án thư lấy nghiên son ngửa mặt kiếm trên trần, dùng chỉ phong búng véo một nhát rụng luôn một con thạch sùng. Nàng lấy máu thạch sùng mài son, lấy bút lông chấm son, khoanh mot đường vòng tròn quanh cổ tay trái, bảo Minh Thần:

                            - Đây là "Thủ cung sa" nhà thiếp dâng chàng ly rượu tiễn đưa đã!

                            Võ nóng lòng, chỉ muốn đi ngay nhưng ngay nhưng chẳng nỡ từ chối lời nàng. Đó rồi không thông báo cho thần dân hay, Bắc Yên Thần Nữ kín đáo làm tiệc tiễn hành, sai thế nữ đem sẵn tất cả mọi cung sa" trước mặt Võ, nàng Nữ chúa xứ Phù Dung thỏ thẻ:

                            - Dấu son pha máu thạch sùng này sẽ đen xỉn lại, sau khi giao hợp. Gái nào đã gần đàn ông, vẽ son vào cũng biến sắc ngay. Thiếp giữ gìn cẩn trọng, một tấm băng trinh chỉ để dành dâng hiến lang quân kỷ niệm ngày hôn lễ. Chàng đã tin lời vợ mới chưa?

                            Dứt lời, nàng sà xuống ngồi bên chàng âu yếm ngả vào vai. Minh Thần càng hoảng, ngó quanh phòng loan im ắng vô cùng, màn che trướng rủ, hương thơm ngào ngạt, ánh huyền đăng, chăn bông nệm gấm, gối thêu... tất cả như "đồng lòng" quyện chàng tuổi trẻ vào biển ân ái, khổ nữa là Thần Nữ đã đẹp phi phàm, tiếng êm như suối đàn, da thịt lại thơm tho ngát mùi lan xạ như đúc kết kỳ hoa dị thảo, làm lòng trai không khỏi xốn xang điên đảo. Dẫu Võ chẳng là tay hiếu sắc nhưng sức đang cương phương, đâu dễ cầm lòng. Chàng cố định thần, từ tốn bảo:

                            - Xin nương nương hãy bảo trọng thân vàng. Tấm băng trinh quý giá, đời thục nữ chỉ có một lần. Ngu mỗ là kẻ xấu số chẳng hề làm chồng, nương nương chớ làm thế. Ta nên đi ra chớ để chúng nhân chờ đợi.

                            Mặc! Nàng cứ ôm lấy Võ, kề sát tấm thân tuyệt sắc, nét kỷ hà cong vút chờn vờn, mùi lan xạ sực nức, như thiên tiên giáng hạ, khiến tượng gỗ cũng phải đảo điên.

                            Nang ghé tai Võ, nói lời tình tứ, không khác một con mèo cái khát tình, làm Võ tối tăm mặt mũi chẳng còn biết nói sao! Rõ ràng là nàng nữ chúa Phù Dung nhất định ép chàng làm lễ hợp cẩn, không cho trì hoãn khiến Võ càng bối rối nghĩ tham:

                            - Ôi chao! Đàn bà thật khó hiểu. Quá quắt thế này? À! Có lẽ nàng sợ ta bỏ đi, nên cố ép hợp cẩn cho "danh chính ngôn thuận", sau ta không còn cách nào từ chối được đây! Nhưng đời ta hai vai còn nặng thù cha mẹ, lời thề trước vong hồn mẹ, trước thiên địa, tôn sư. Chú Thoòng Mềnh, Chúa núi Thập Vạn... còn nguyên đó thù sâu chưa báo nổi, mai đây sẽ phải ra đi như cá nước chim

                            trời, nàng là ân nhân, sao mình nỡ để nàng lỡ cả đời hoa? Thà bất nhược cứ giữ cho đừng mắc là hơn hết. Gối chăn hoan lạc, một lần để mang hờn trọn khiếp là chuyện không nên.

                            Bèn lựa lời nói rõ cho Thần Nữ hiểu đầu đuôi, xin nàng bỏ qua cho, nào đâu lúc này Thần Nữ cũng chỉ là một cô gái đang bị lửa tình nung nấu, cả vũ trụ đều tan vào ánh mắt lang quân. Nàng đổ dáng liễu vào Võ ngã trên nệm gấm ghé sát mặt hoa mơn mởn vào chàng, thỏ thẻ lời tình tự thiết tha:

                            - Chàng ơi. Giờ phút này là của đôi ta... Hay chàng chê thiếp xấu? Mặc! Minh Thần đã nghĩ được kế đối phó lối thụ động. Chàng vận ý chí,

                            thôi miên, biến mình thành pho tượng đất vận hết khí hàn băng cho toàn thân lạnh ngắt như đồng.

                            - Mẫu thân... con quyết vì phụ mẫu, lánh đường hoa nguyệt, nuôi chí phục thù, mẹ có linh thiêng, xin về giúp con tránh được cơn cám dỗ với người đã cứu con. Tục lệ buộc nên phu phụ nhưng lòng chỉ biết nuôi thù.

                            Võ nhắm mắt, khấn thầm, lối này chính vị chúa "Mười vạn núi" đã dạy chàng. Bỗng nghe Thần Nữ hỏi:

                            - Chàng muốn ra khỏi đây? Chàng muốn đi tìm thù? Phải vậy chăng?

                            Nghe lời gãi trúng chỗ ngứa. Minh Thần Dung mặt thoáng hiện net mặt buồn mênh mang, trầm giọng như than:

                            - Có gì lạ đâu... chàng! Vì thực sự thiếp có cùng chàng giao hợp, ái ân đâu? Nếu đêm lại? Chẳng lẽ cứ để dây tơ buộc mãi thế này à!

                            Như rớt một tầng mây thẳm, Võ thở dài thất vọng ngó nàng như thầm trách móc. Thần Nữ cười nũng nịu, rúc đầu vào nách chàng. Nàng dùng đủ cách lôi cuốn Võ vào cuộc giao hoan, nhưng Võ vẫn im như tượng đất.

                            Đang cơn "ghê gớm" bỗng Thần Nữ bật nhỏm dậy vỗ vào đầu giường ba cái và tiến lại trước tủ gương ? Bên Tây Tạng, đã có những vị Lạt Ma tu luyện đến độ cao thâm, không những xuất hồn, còn xuất được cả phách nữa, coi như người thực. Nhưng chẳng cái phách xuất ra có thể thành một khối cưng hay vẫn chỉ là một khối như sương kết vậy? Mà chưa biết chừng lối thử trinh bằng son máu lại gần tủ gương khẽ gọi:

                            - Nương nương... có trong đó không?

                            Vừa dứt lời bỗng nghe động, tủ cánh gương hé mở, Thần Nữ bước ra lộng

                            lẫy uy nghi trong bộ áo vàng kim tuyến ban nãy.

                            Giọng trong vắt, nàng run lời:

                            - Trời đất đã se duyên cho thiếp lấy được một bậc hảo trượng phu, đang độ thanh xuân, vẫn không hiếu sắc! Giờ thiếp không còn ước gì hơn nữa! Chàng lại đây!

                            Võ theo nàng tới bên vách tủ, có phủ một mảnh gấm tía rực. Nàng vén rèm lên, trong lại có một cây đèn dầu cháy vật vờ và một bình pha lê đựng bột màu hồng hoàng. Nàng bốc vãi vào vách, từng hàng chữ hiện lên như dưới điện lúc nãy, đại ý:

                            "Hỡi con cháu thần dân hợp tộc Phù Dung quốc. Đây là lời cuối cùng Ali Khan, tổ tiên gởi lại cho con cháu, trước khi chúng ta sẽ lần lượt theo nhau đi vào cõi u minh mịt mùng vô tận, về chầu Allah!

                            Tằng tổ các ngươi xưa đều từng làm hoàng đế, quốc vương lãnh chúa, trị vì lãnh thổ, xông tên đột pháo, rạng uy danh hoàng tộc bao đời. Vậy mà chỉ vì say ham mê tửu sắc, đến nỗi bao nhiêu cơ đồ đổ nát, tổ quốc suy tàn dưới vó ngựa Témoudine (Thiết Mộc Chân)

                            Các ngươi phải lấy đó làm răn, giai tế Phù Dung không thể là người hiếu sắc. Vậy sau hôn lễ, nữ chúa Phù Dung giáo chủ ấy đưa giai tế vào ép cuộc giao hoan không dám giữ, tình thật xót xa.

                            Võ Minh Thần xiết tay nàng nói lời an ủi tạ từ và trong giây phút quá xúc động, hai người ôm chầm lấy nhau như muốn tan cả hình hài trong một cái hôn dài chia ly.
                            Last edited by nahoku; 11-12-2008, 10:51 PM.
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #15
                              Hồi Thứ Mười Lăm - Vị Khách Trên Ngọn Cây Phàn

                              Ngay giữa canh ba đêm đó, Thần Nữ Phù Dung cùng Võ Minh Thần rời đền thờ, lên ngựa ra đi. Hai người bí mật vượt qua vùng sương đồi trùng trùng, noi theo yếu lộ, tiến về hướng Đông Ngạn. Nữ Chúa Phù Dung đích thân tiễn chàng, đưa chàng ra khỏi vùng đất bí hiểm giữa biên giới.

                              Vượt qua nhiều dặm sơn, bản thổ, tới rặng núi dựng thành, bao lấy khoảng giang sơn kỳ bí. Thần Nữ còn đưa Võ Minh Thần vượt qua một thủy đạo thiên nhiên bí ẩn nhao:

                              - Khỏi mua! Đây có rượu ngon nhất thiên hạ! Cậu đem về "ngài" uống thử!

                              Nhiều người mở túi dí miệng hũ vào mũi chàng ta, chàng trai hít, chép miệng lè nhè:

                              Bỗng nghe tiếng vượn hú véo Đây cũng là "tiền môn quan" xứ Phù Dung, chỉ cần đẩy tảng đá sang bên đã vượt hẳn ra ngoài lãnh địa. Khi Minh Thần cùng nàng lách qua mành thác, bên ngoài, trời mới rạng đông.

                              Mãi lúc đó, chàng trai mới hoàn toàn yên dạ. Từ đêm qua, chàng vẫn nơm nớp sợ nàng lừa giữ lại.

                              Vượt qua suối, lên ngọn gò cao, hai người dừng lại. Lâm tuyền đỏ rực, báo hiệu một ngày nắng đẹp. Thần Nữ trỏ về nẻo rừng xa:

                              - Đằng kia chừng vài dặm có con đường xuyên sơn dẫn đi nhiều vùng. Chàng có thể đi về trấn Lai Châu hoặc xuyên mé đi Tsinh Ho, Sa Pa, Phong Thổ... thiếp xin chúc lang quân lên đường mạnh giỏi!

                              Giọng nàng thỏ thẻ cố phạm cấm động. Bọn này chỉ lên yết kiến ngài "bác vật học" thôi! Nương tử vui lòng cho mượn lối.

                              Minh Thần nghe nhận ra ngay giọng "ma trăm giọng", lại lại... Võ này đi...

                              - Dạ... chàng đi... thiếp chúc lang quân... Nàng không nói hết câu. Cuộc chia tay buồn lạ. Gió sớm đìu hiu. Ngày thảm bại, lãnh đòn Tây Sắc, lạc tới xứ Yên, đang còn mùa đông trọng, thấm

                              thoát đã sang hè.

                              Võ Minh Thần vỗ đốp hông ngựa, giật cương bắn vọt xuống đồi.

                              Khi chàng vượt hết con thung rộng, ngoảnh trông lại vẫn thấy bóng Phù

                              Dung Nương đứng ngựa nhìn theo. Khua tay lên đầu, chàng tuổi trẻ nén lòng, rẽ thẳng ra đường mòn, kéo sụp mũ trụ chàng giục ngựa bôn hành, theo hướng Đông Nam đi miết. Chàng tính về trấn Lai Châu, tìm Quản Kình rồi sẽ liệu.

                              Bị nạn nương náu xứ Phù Dung mới có mấy tháng, chàng có cảm giác như vừa từ thế giới xa xôi lần về. Ngày đi đêm nghỉ, dậm ngựa rong ruổi, bữa kia đã tới Lai Châu.

                              Võ Minh Thần bèn tới ngay quán trọ ngày nào thăm hỏi tin tức Quản Kình nhưng chủ quán cho hay Kình không hề đáo lai từ ngày đó. cờ đang vui!

                              Đông Tửu tu rượu, than:

                              - Ôi chao! Ta đã trốn kĩ lắm chứ, nhưng tụi nó như "con ma trăm giọng",

                              lão "vua cờ bạc" dấu sao được lâu?

                              Bạch anh ta đâm bổ vào đầu ngựa. May Minh Thần đã kịp ngoắt ngựa tránh, y có vẻ say mèm, xô cả vào đùi chàng. Y ngẩng mặt lên, lè nhè mấy tiếng rồi lại bước đi, người vẫn đảo như lên đồng. Minh Thần lắc đầu biết ngay dân say rượu, chàng đi được chừng vài chục bước, bỗng nghe tiếng quát mắng sừng sộ sau lưng vội ngoái cổ dòm lại, gã say rượu vừa rồi ngã lộn trên đường, bị một con ngựa lớn xô phải, người cưỡi ngựa là một gã cao lớn vạm vỡ, mặt mày dữ tợn, theo sau có một bọn hơn chục kỵ sĩ, cả bọn cứ theo đà chạy rầm rập, dẫm cả lên gã say rượu ngồi giữa đường.

                              Bất nhẫn, Minh Thần xốc luôn ngựa lại. Vừa khi đó, gã cao lớn quất véo roi ngựa vào gã say rượu, hét:

                              - Thằng mù này sao không đi trên hè? Xuống đây cản lối ngựa xe! Muốn

                              chết? Gã say rượu đứng dậy, ngước mắt dòm gã cao lớn, không giận, y lè nhè:

                              - Đi đâu vội thế? Có gì phải vội? Ồ! Uống chơi vài ngụm! Tiền ẩm tam bôi tửu, hậu tiến vạn cổ sầu, hà hà...

                              Cáu tiết, gã cao lớn vất véo roi nữa vào đầu gã say hét "giỡn hả", Võ Minh Thần vọt lại nắm lấy cổ tay y, dịu dàng:

                              - Không thấy người ta say quá rồi sao? Người bạn hơi quá đó! Gã cao lớn trợn mắt giằng tay quát xẵng:

                              - Buông! Không can gì đến ngươi! Nhưng y giật không ra, nổi giận y giật luôn tay kia. Võ túm nốt lạnh lùng:

                              - Vô cớ đánh người còn hung hăng, thói ỷ mạnh hiếp cô... chết không ai thương!

                              Gã cao lớn trợn mắt, vận hết sức cũng không rút tay ra được, bọn kia đã ào lại bao quanh chưa kịp động thủ, gã cao lớn đã bị nhấc bổng lên. Gã này sợ bị quật, với xuống kêu lớn:

                              - Bọn này có việc gấp... mà! Các chú lui lui mau! Không có chuyện gì can hệ mà!

                              Võ buông tay, bọn này nhìn chàng gờm gờm, rồi giục ngựa bỏ đi. Võ quay hỏi gã say:

                              - Người bạn có sao không? Gã này quần áo lôi thôi lếch thếch, vai đeo trái bầu, móc trên đầu chiếc ba toong song, mặt mày lem luốc, mắt lờ đờ dòm Võ, y lè nhè nói lảm nhảm mấy tiếng không mạch lạc, rồi lại lảo đảo đi liền, không buồn cảm ơn. Võ Minh Thần cũng giục ngựa đi. Loanh quanh giây lát, tới phố chợ thấy đói bèn vào một hiệu khách đã thấy gã say rượu lè nhè đang bị một khách trong quán túm ngực cái hộp lớn bằng mây đan, quang dầu bóng loáng, và một vò rượu màu vàng rực.

                              Đại hán mở hộp, đổ "xoảng" ra sàn cả mớ bạc "xòe" Đông Dương, bạc Hồng Kông, bạc Tàu và những thoi lỡ phạm kẻ vũ phu có

                              ngày chết đòn!

                              Gã say lè nhè:

                              - Ai bảo say? Hai chú nghĩ coi, đâu có say!

                              Dứt lời ngồi xuống, lấy rượu uống tỳ tỳ, chẳng buồn để ý đến ai.

                              Minh Thần ăn xong, trả tiền, toan ra lại nghe ồn ào, tửu bảo vây quanh gã

                              say. Hỏi, thì ra anh ta... quên tiền. Minh Thần ái ngại, liền móc túi lấy bạc trả giúp. Gã say lè nhè:

                              - Cả cái tỉnh rừng rú này không có bán rượu tử tế, toàn bán nước lã, uống mấy lít không say! Lũ bất lương này đáng lẽ phải bỏ tù còn nằng nặc đòi tiền. Hè hè! Thổ điền trả tiền phí của.

                              Gã nói tiếng Kinh, chủ quán là một lão khách ú mập, chỉ còn nước trợn mắt, dang tay, kêu "cái này thằng khùng, không piếc gì, ngộ pán Mai Quế Lộ ngon nhất Lai Châu à!" Võ Minh Thần xua tay, ra hiệu không nên chấp với người say, đoạn vỗ nhẹ vai gã, cười bảo:

                              - Về ngủ đi. Lang thang say sưa quá chén nói nhảm, có ngày ốm đòn!

                              Dứt lời, móc mấy đồng "xòe" dúi vào tay y. Gã say bỏ luôn tiền vào túi không thèm cám ơn, khật khưỡng bỏ đi luôn.

                              Võ Minh Thần lững thững bước ra, vừa leo lên ngựa đã thấy y chếnh choáng vừa đi vừa ngâm váng giữa đường, suýt bị một chiếc xe đụng phải. Đi dạo quanh, lát sau về nơi quán trọ cũ, đã thấy y ngồi uống tỳ tỳ, chẳng biết vì lẽ gì, bỗng có một thực khách vạm vỡ nhảy xổ lại, túm ngực định đánh.

                              Thấy tội nghiệp, Minh Thần lại phải can gián. Hỏi chủ quán, mới hay gã say không phải là dân Lai Châu, y từ mạn Sơn La Vạn Bú mới lên được hai, ba ngày, ngày nào cũng đi nếm rượu khắp các quán ăn quanh trấn, và ngày nào cũng bị túm ngực bạt tai vì ăn nói lảm nhảm, say nhè. Minh Thần đã gặp nhiều kẻ say như điên, mất cả trí khôn, nên cũng chẳng lạ.

                              Chàng lưu lại trấn Lai Châu thêm một ngày, dò la tin tức, chẳng được một tia sáng nào về Quản Kình và Giao Long Nữ. Thất vọng, chàng lên ngựa theo ngả thượng đạo, lần sang miền núi Fansifan. Vượt qua Hắc Giang nhìn nước lũ cuồn cuộn, lại nhớ đến trận Hồng Thủy dưới Cung A Phòng Tây Sac lòng nóng như lửa đốt, nhớ đến thù sâu chưa báo, ruột đau như cắt khúc.

                              Ngày kia vó ngựa lữ khách tới Cha Pa, sơn trấn nghỉ mát nổi tiếng nhất Đông Dương, nằm giữa những đọt núi Phản Tây Phàn.

                              Dạo này đang độ mùa ha, khoảng cuối tháng tư cũng có nhiều du khách tới, nên Cha Pa vừa trút bỏ hẳn "bộ mặt rét mướt" coi rực rỡ nhộn nhịp hẳn lên.

                              Võ Minh Thần tới sơn trấn vào buổi trưa nắng dịu, trông lên ngọn Tây Phàn cao nhất Đông Dương mới vén sạch mây mù, chói sáng ánh nắng như dát bạc.

                              Theo thói quen mỗi lần đến sơn trấn thượng du, chàng trai lóc cóc tạt lại khu phố chợ.

                              Vừa ló ngựa tới, Võ không khỏi ngạc nhiên thấy quang cảnh tấp nập khác thường. Kẻ qua người lại như mắc cửi, mấy quán ăn Tây, Tàu, ta thực khách ra vào từng lũ. Xem dáng diệu có nhiều kẻ vội vã hết sức.

                              Ngồi trên lưng ngựa lững thững đi bên đường, Võ Minh Thần thấy một bọn hơn hai mươi người từ trong quán ăn lật đật đi ra, leo lên ngựa, vẻ vội vã lạ. Bọn này còn dắt theo bốn, năm con ngựa thồ thứ chi trên lưng không biết vì đều phủ gấm vóc, xanh đỏ rực rỡ. Bọn này đi lướt qua bên ngựa Minh Thần, y phục rat lạ, kẻ mặc âu phục, người mặc áo thụng, nhưng tất cả đều chít khăn tựa lối Tây cuốn thừng, chà... coi không phải người Âu. Chỉ có một gã đội mũ, mặc quần áo kaki vàng, coi như võ quan nhà nước. Khi bọn này kéo qua, Minh Thần nghe lão đi đầu trạc ngũ tuần, ria "ghi đông" rậm không râu, bỗng nói một tràng tiếng ta lơ lớ pha giọng tây đen bán vải, cứ vài tiếng lại có "tờ rờ":

                              - Ông quan ta... Phải đi mau mới kịp "tờ rờ"! Hôm nay có nhiều đám đón

                              ngài "tờ rờ". Ta đến sớm mới có chỗ "tờ rờ". Lại có tin ngài lên núi...

                              Người đội mũ gật đầu:

                              - Quan lãnh sự không lo! Có tin chắc chắn "ngài" đang chơi trong biệt thự của quan Tổng đốc Hoàng gia, chưa đi đâu!

                              Giọng y keo thoáng chìm trong tiếng vó câu, Minh Thần ngó theo, nghĩ thầm:

                              - À, chắc bọn này đến yết kiến nhân vật quyền thế nào đây! Lão cuốn thừng kia làm "lãnh sự", và có khối viên thống sứ toàn quyền dưới Hà Nội lên đây nghỉ mát, đi săn. Võ bỏ qua, giục ngựa đi thẳng định kiếm quán vắng nào ăn uống cho đỡ ồn. Bỗng lại thấy một bọn khác đi tới. Võ ngó mặt ngờ ngợ mấy khắc, chợt

                              nhận ra gã cao lớn dữ tướng đã quất gã say rượu bên Lai Châu hai, ba hôm trước. Chàng nghe y bảo:

                              - Ta vào quán giây lát, mấy đứa chạy đi xem lại coi "ngài" còn đấy không về báo ngay! Nhớ để ý coi có đám nào lạ chực sẵn chưa, còn liệu dành chỗ!

                              - Dạ! Bẩm "di wang"

                              - Tỉu nà! Đi mau! Lỡ việc tao chặt đầu!Minh Thần càng lấy làm lạ:

                              - Quái! Lại tụi này nữa! Coi đúng bọn thảo khấu, tụi này cũng đến gặp nhân vật "ngài" nào đây? Không chừng chúng tới khiếu oan gì chăng?

                              Minh Thần đang nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe phố xá xôn xao, con nít gọi nhau ơi ới, chạy lũ lượt về phía bên chợ, vừa khi đó, bỗng chàng nghe rõ tiếng chiêng, trống nổi lên một góc phố, rồi giữa hàng cây xanh um, chợt hiện ra nhiều bóng lộng, tán, cơ ngũ hành bay phấp phới dọc giữa đường xế trước mặt chàng độ năm, bảy chục bộ.

                              Dứt hồi chiêng, trống văng vẳng có tiếng "hát ma" vọng tới, lẫn tiếng "sênh tiền" dìu dặt vui tai.

                              - A, bữa nay Cha Pa có đám rước thần chi đây! Có lẽ là dân Kinh? Chàng trai lẩm bẩm, nghểnh cổ trông lại phía bên chợ, dưới các tàn cây, cờ quạt dập dờn, bỗng nhô lên một cỗ kiệu sơn son, thếp vàng rực rỡ, mấy

                              phía rèm buông, cỗ kiệu tới bên chợ bỗng quay tứ phía y hệt lối "kiệu giáng kiệu bay", rồi chợt nghe tiếng loa vang động khắp phố:

                              - Đi... i... inh... Hạ ki... êu... ệu! Tự nhiên Võ Minh Thần dợn lòng, suýt kêu lên:

                              - À, không phải đám rước! Đúng "y" rồi! Mình phải giấu mặt mơi được. Bữa nay Cha Pa có chuyện chi mà "y" cũng mò tới?

                              Rất nhanh Võ ngoảnh vội đi, lấy trong túi ra một chiếc mặt nạ da người có cả râu ria, vuốt dán vào mặt, hóa ra một lão Thổ trạc lục tuần, nét lạnh lùng như một xác chết nhưng người ngoài khó thể nhận ra được, vì Võ có thuật làm cho làn da mặt nạ cũng động đậy như da thật.

                              Cả tấm khiên sắt chàng cũng đã dùng mây đan bọc ngoài coi giống hệt nón Mường, Thổ, Xạ, Phang. Sực nghe từ phía tàn lọng sặc sỡ, có tiếng hô dõng dạc, nghe thao thao như tiếng "phụ đồng ếch":

                              - Cờ Bạc! Cờ Bạc! Phụ đồng cờ! Phụ đồng bạc! Phụ đồng cờ bạc, phụ thân đổ bác, nhập vào chiếu bạc! Phụ đồng cờ, phụ đồng bạc, phụ đồng cờ bạc... dưới Lai Châu. Thì ra vien Thổ phỉ có hiệu "Nhị Vương" đã quất gã áo trắng hôm trước giờ đi cùng tên "Đại Vương" đại ca hắn.

                              Hắn vùng nắm râu vặt, rào bao quanh cỗ cho tên đại ca, đoạn cả hai nhào luôn xuống phục dưới sàn, kêu rên rỉ:

                              -Tỉu nà! Ngộ có mắt như mù, không biết ngài bác học... Ngộ đâu dám làm tên hồ lỳ đêm nào cùng đám "đàn em" trải chiếu hoa tươm tất đang khệ nệ mang các "đồ nghề" ra bày sẵn một góc. Trong mớ "đồ nghề" cờ bạc, Võ để ý nhận ra ngay bộ "xóc đĩa" gia truyền, chàng đã có dịp chơi qua.

                              Thiên hạ kéo tới đông như kiến, dân có máu mê chưa chi đã đỏ mặt tía tai, nhào vào, chen lấn, bu quanh chiếu bạc mat dòm hau háu như "đồng thuộc". Bỗng bức rèm trước kiệu vén lên chút, bộ đồ xóc đĩa nhảy tót ra chiếu bạc. Và cứ thế nhảy lên, nhảy xuống, xóc rền như có bàn tay nhà nghề xóc vậy.

                              Nhiều kẻ kêu "úy" tròn xoe mắt, keu "ma xó". Tiếng xóc phát âm rền trầm bổng thánh thót như tiếng đàn chai làm ai nấy nghiêng tai ra chiều thích chí. Bỗng có kẻ kêu tướng:

                              - Ôi chao! Lắc ngọt cung, hướng cả về phía căn sàn trong kia, cách độ năm bảy chục sải.

                              Riêng cỗ cáng gấm của Bá Diện Ma Quân đậu xế ngoài ghềnh đá, bên một lùm cây Bác? Chơi với "vua cờ bạc" mất cơ mất nghiệp, bán vợ đợ con chết không kịp ngáp!

                              - Câm mồm! Không chơi cút đi, nhân tâm tùy sở thích, Đổ Bác Thần đánh cao không bịp, chơi ế canh chết cũng đáng đời, cái xướng!

                              Canh bạc vụt trở nên nóng hổi, bát đĩa xóc rền, tiền ra như nước, bạc đốt như tiền.

                              Võ Minh Thần đứng ngoài dòm vào trong kiệu tối mờ chẳng thấy bóng Đổ Bac Thần đâu cả! Vốn không có máu mê chàng lên, vén nữa.

                              Ánh trăng chiếu chếch qua đầu cáng, dưới ánh trăng mờ, lòng cáng hiện ra sau lớp gấm vén khá cao, lòng cáng... trống rỗng! Mà cũng không trống đã! Chà! Thái giám Ả Rập tới kia nữa! Hồ lỳ đâu, mời khách vào mau! Giảng cho khách biết qua chẵn lẻ.

                              Minh Thần ngoảnh đầu trông lại, thấy hai, ba toán lạ đi ngựa qua, có một toán mặc toàn y phục trắng lòa xòa, đầu chít khăn trắng trùm ngang mặt, nhác trông, biết ngay dân Ả Rập từ miền sa mạc Trung Đông tới. Võ còn đang ngạc nhiên chưa biết đám người Ả Rập này sang Việt Nam làm gì lại có mặt tại Cha Pa này, bỗng thấy một lũ hồ lỳ chạy ra đón mời. Lạ thay! Chẳng biết chúng rủ rê cách nào, mà cả mấy đám đều dừng ngựa lại, mấy viên trưởng đoàn hăm hở nhảy luôn vào đám bạc.

                              Bỗng nghe gã trưởng đoàn Ả Rập cất tiếng hỏi bằng tiếng Tây:

                              - Thần Đổ Bác Tiên sinh đấy ư? Thái giám Ả Rập vẫn nghe danh lão tiên sinh tận bên Hồng Hải, xin có lời chào tiên sinh! Chẳng hay tiên sinh có thấy rõ "ngài" còn ở trong đó chăng?

                              - Ha ha! Còn chứ! Không những thế, y còn là tri kỷ của lão mỗ nữa, cứchơi đi lao mỗ cũng tới đó mà! Lão mỗ có thể đưa thái giám vào cổng hậu như bỡn à!

                              Hồ lỳ dẹp chỗ, cả mấy đám xắn tay áo, nhập cuộc, Võ Minh Thần đứng xế bên gốc cây không khỏi buồn cười thói máu mê của dân cờ bạc.

                              Chàng đang định bỏ đi, bỗng lại nghe chiêng trống vang rền, loa kêu inh ỏi, lẫn tiếng vó câu rầm rập trẩy tới. Vội ngoảnh trông lại đã thấy một đoàn nhân mã vùn vụt đi lại, cờ quạt tàn vàng, tàn tía, hiệu kỳ phất phới, ngay đầu quân có hai bóng đi kheo cao lênh khênh, bắc loa dẹp đường, giữa có một tên vạm vỡ cưỡi ngựa trùm đỏ chót một cây cờ lớn, lá bằng tấm chiếu lớn, đỏ rực, nổi bật mấy chữ "Bá Diện Thánh ra xách vào một cái rương lớn, cùng Đại Thái Giám mở ra, lôi các lễ vật bày trước Đông Tửu. Gấm vóc, ngà voi, kim cương, vàng ngọc đủ thứ trông lóa Diện Bá Âm sao cũng tới trấn này. Tiền hô hậu ủng, tàn vàng tàn tía nghênh ngang kéo vào tận Cha Pa không coi lính nhà nước ra chi. Ma Quân chắc có việc chi cần kíp lắm đây, không khéo đổ máu như chơi bây giờ.

                              Nói chưa dứt đoàn nhân mã y phục cổ kim hỗn hợp trẩy tới ngang đám bạc bỗng nghe tiếng loa rền, từ dưới lão Tửu Chúa Điện Tiền Chỉ huy đã vọt ngựa lên, hét đám đông dạt sang bên, làm ai nấy xôn xao, có kẻ thấy cờ hiệu kêu ré lên, ù té chạy. Có tiếng Đổ Bác Thần quát lớn, chợt một cỗ càng lớn xẹt lên, do mấy cô gái xiêm y sặc sỡ khiêng, cỗ càng dừng xế ngoài chiếu bạc, hờ hờ câm nín. Đám bạc vụt im. Có tiếng "quy lát" lên cành cạch!

                              Canh bạc đang vui, tiền giấy, bạc "xòe", "hào chỉ", "hào ván", "xanh căng", xu đồng đặt từng đống, con bạc nghe ồn ào nhất loạt trông ra, đã thấy đoàn quân mã cổ kim hỗn hợp đứng im phăng phắc, cỗ cáng đậu lù lù sát sau lưng con bạc.

                              Con bạc, dân chầu rìa xôn xao, hình như có nhiều kẻ biết tiếng "con ma trăm giọng" Nhiều người chực đứng sổ dậy sợ chết lây. Giữa cảnh im rợn bỗng nghe trong kiệu có tiếng Đổ Bác Thần quát lớn:

                              - A! Bá Âm Diện bữa nay cũng tới Cha Pa! Tìm gỡ canh bạc năm nọ đấy chứ? Hồ lỳ đâu? Dọn chỗ cho "khách sộp". Cả làng cứ ngồi chơi như thường! Chơi sòng Đổ Bác Thần còn chắc hơn chơi sòng có đóng thuế Pa Kha.

                              Tiếng lão vang âm góc phố, im mấy khắc, chợt có tiếng trong cáng gầm phát ra đủ trăm giọng đổi thay nhiều thổ ngữ Tây, Tàu, Kinh, Thổ, Mèo, Nhắng, Phong Kha v. v...

                              - Chưa có thì giờ đánh bạc, Thánh Quân đến Cha Pa có việc cần kíp, bóng cờ lọng biết có ma cờ bạc mở sòng góc chợ, Thánh Quân tới không thừa thì giờ như ma cờ bạc! Ta muốn hỏi một việc.

                              Tiếng trong kiệu cười sằng sặc:

                              - Cứ hỏi! Ta biết ma trăm giọng muốn hỏi điều gì rồi, nhưng lỗ tai ta còn

                              rảnh, sẵn lòng nghe, còn đáp lại là chuyện khác!

                              Có tiếng lạnh khô trong cáng tiếp theo tiếng thở phì đến bực:

                              - Ta được tin "y" tới!

                              - Không chơi kéo tới à! Ma trăm giọng muốn phá sòng?

                              Tiếng trong cáng gầm cười ré lên làm con bạc quanh đấy chói tai nhức óc phải bịt vội lỗ tai.

                              - Phá sòng nhà ngươi làm gì? Thánh Quân không làm nghề bat lương, ta muốn hỏi thăm nhà ngươi đôi điều được chứ? Vùng sơn trấn nghỉ mát này phải chăng?

                              Võ Minh Thần nghe tiếng "y" không khỏi nhột lòng, ngờ "y" ám chỉ mình, chợt nghe trong kiệu vọng ra "đúng đó". Tiếng trong cáng lai hét chói tai.

                              - Lại có tin "y" hiện ơ biệt thự Tổng đốc Hoàng gia, đúng chăng?

                              - Đúng!

                              -À! Hay lắm! Nhưng giờ phút này "y" còn ở đó chăng? Hay đã bỏ đi!

                              -À! Chuyện đó muốn rõ thực hư, chơi một canh, khắc biết! Tiếng Bá Âm vùng hét:

                              - Thánh Quân bận gấp, thì giờ đâu đánh bạc? "Y" còn đấy không? Biệt thự chỗ nào?

                              - A! Đánh một canh khắc biết! Cam đoan không sai! Chiếc cáng bỗng vọt lên cao, hạ xuống, tiếng hét gai gai:

                              - Không cần "ma cờ bạc", ta đi tìm "y"!

                              - Ha ha! Nhớ! "Ma trăm giọng" mi còn nợ ta mấy câu hỏi đó! Chiếc cáng vọt ra đường, loa dậy, trống rống, chiêng khua, kèn Tây dập dình, lẫn tiếng "bát âm" véo von, đoàn quân mã cổ quái trẩy đi như gió cuốn,

                              nháy mắt bóng tàn tán đã chìm khuất cuối phố.

                              Minh Thần càng lấy làm lạ thắc mắc nghĩ thầm:

                              - "Nhân vật kia" là ai mà thiên hạ lắm đám đổ tới gặp thế này, cả Đông Âm quái nữa! Chắc có chuyện chi lạ lắm đây! Nhân đang rỗi, có lẽ mình thử lần tới xem sao?

                              Bèn mặc đám bạc đấy, chàng giục ngựa ra ngoài tiến đến một quán khách trú xế tít bên kia chợ, vào ăn uống cho no rồi sẽ liệu tính. Uống dứt tuần rượu, Võ kéo tửu bảo hỏi nhỏ:

                              - Này chú! Bữa nay có ông quan nào về Cha Pa mà lắm kẻ đi đón thế?

                              Thống sứ hay toàn quyền?

                              Tửu bảo lắc đầu trợn mắt:

                              - Ôi chao! Có biết ai đâu! Ngộ chỉ nghe người ta bảo cái "ngài" này còn khó gặp hơn toàn quyền à! Minh Thần lại hỏi thăm khu biệt thự Tổng đốc Hoàng gia, đoạn cứ vừa ăn vừa nghĩ ngợi liên miên.

                              Xong chàng lên ngựa, theo lời tửu bảo, lập tức đi kiếm khu đặc biệt thuộc họ Hoàng Gia. Lúc này, trời đã ngót bốn giờ chiều. Qua ngang chợ mới hay sòng bạc Đổ Bác Thần đã tan hồi nào rồi, bọn người Ả Rập, Tây cuốn thừng cũng đâu mất.

                              Chàng tặc lưỡi ruổi ngựa về hướng xế Nam trấn. Ra khỏi Cha Pa chàng bèn tìm tới đến con sông dừng đón khách qua lại hỏi thăm. Con sông này từ

                              mạn núi Tây Phàn chảy qua Cha Pa xuống Mường Ba, rồi đổ vào sông Hồng, khúc giữa Lào Kay Phố Lu.

                              Cảnh trí đẹp hết sức, Fa Si Phan sừng sững giữa trời, sông rừng thao thiết, nắng xế phương Tây, rải rác quanh vùng đồi chập trùng bóng nhà nghỉ mát nhà Kinh trồng tỉa rau cải tốt tươi. Cha Pa khí hậu tốt vẫn là nơi sản xuất các hạt giống bán khắp đất Bắc.

                              Chợt sau vượt theo, trên ghế có một chú khách trung niên mặc xường xám, thò tay túm lấy dây lưng tên khách vạm vỡ giơ bổng lên sát cỗ ghế, ghé tận mắt, cười coi như đám hội.

                              Minh Thần dừng ngựa xa chút, chiếu ống dòm quan sát, lẩm bẩm:

                              - Có lẽ biệt thự Tổng đốc họ Hoàng kia rồi! Quái! Thiên hạ các nơi đổ xôvề tụ tập trước biệt thự làm gì đây? Coi bóng tàn lọng, có cả Bá Diện Ma Quân, Đổ Bác Thần đều có mặt. Mình phải lại coi xem sao!

                              Bèn sửa lại mặt nạ, râu ria, dấu kín cả súng cối, đóng vai một lão Thổ lững thững giục ngựa tới.

                              Đám đông tụ tập dưới chân đồi, chỗ này một bọn, chỗ kia một đám tụm năm tụm ba, chỉ trỏ, dòm cả lên tòa nhà đồ sộ, ngựa buộc rải rác dưới gốc cây, cũng chẳng ai buồn để ý tới. Minh Thần trong Viên hỏi anh Lâm : - t,a con gái của Lâm bữa nay không di học à?

                              - Vợ của ảnh đó thím. Thằng Báu mau miệng trả lời

                              - Mèn ơi, bữa trước thím lại đụ thầng Hoàng, thì chị nhảy vèo xuống, giơ tay định đánh. Dưới trăng, nhìn rõ bóng đàn ông mặc quần áo giáp như viên tướng cổ, tay cầm một cây búa lớn, tuổi trạc quá ngũ tuần, hết đều có ngựa thồ vật gì, trên lưng phủ gấm vóc thổ cẩm, hình như là đồ lễ vật thì phải. Nhìn qua, phần Thánh Quân! Nị muốn tranh? Tỉu nà! Không biết từ sáng qua Thánh Quân không muốn làm điếc tai "ngài bác học" nên đã theo đúng "luật giang hồ", nị không biết Kinh lố nhố, trông qua sắc phục, cử chỉ, cũng đoán sơ được bọn này toàn giới quan chức tùy tòng cho các nhân vật quyền uy các xứ cõi ngoài tới. Cũng có kẻ đứng riêng rẽ một hai người, tuy đông, nhưng hầu hết đều nói nhỏ chừng như không dám khuấy động bầu không khí yên tĩnh quanh khu trang trại.

                              Minh Thần dắt ngựa đi qua, quả nhiên đã thấy có kiệu của lão Thần Đổ Bác đặt dưới tàn cây còn thủ hạ lão chiếm một khoảng đất khá rộng, mở sòng, cờ quạt tàn lọng bao quanh, đám đông chờ đợi buồn bã có lắm tay máu mê sà vào chiếu bạc. Xế gần đấy lại có đám nhân mã của Bá Diện dàn oai vệ, nhưng chẳng thấy bóng tàn tía cáng gấm của Ma Quân trăm giọng đâu.

                              Minh Thần bèn nhìn lên đồi, lại thấy bóng người ngựa, tàn tán lố nhố, nhưng không đông mấy. Đám này đứng tụ cả ngoài cổng biệt thự, một cái cổng xây khá lớn, hai tầng hoa Tigôn mọc đầy.

                              - À có lẽ bọn trưởng đoàn, bọn chủ trên kia, để thủ hạ lễ vật dưới này.

                              Minh Thần bèn cho ngựa lên đồi, nhằm phía cổng tiến tơi. Bỗng nghe tiếng quát giật:

                              - Này lão Thổ kia đi đâu? Võ nhìn lại, thấy ba, bốn gã hùng hổ từ phía cổng xây xốc tới, nhìn chàng như muốn gây sự Trong bọn có cả gã dữ tợn gặp dưới Lai Châu.

                              Gã này đi cạnh một gã trung niên, coi biết ngay tay tướng Thổ phỉ biên giới. Ngó quanh thấy họ đều xuống ngựa cả, Võ cũng xuống ngựa bảo:

                              - Mỗ lão lên biệt thự!

                              - Làm gì? Hay cũng yết kiến "ngài"? Chẳng biết "ngài" là cái quái chi, Võ cũng đáp càn:

                              - Chính thế! Gã dữ lừ đừ:

                              - Thầy à! Nên Nương, Đông Tửu nhìn ra. Nữ lang động chủ Tây Phàn chợt nheo mắt cười thét:

                              - Ai như lão Tửu Chúa? Hà hà, mới theo hầu "Ma trăm giọng"? Tửu Chúa đặt Được! Nhường các vị cứ yết kiến ngài đi, còn thừa đến ngộ à! Bọn này yên trí, mới chịu quay vào. Minh Thần lững thững men lại gần cổng, quả nhiên bọn cầm đầu đứng đợi cả ngoài cánh cổng sắt, có cả cáng Bá Diện Ma Quân nữa. Cả lũ dòm nhau muốn nảy lửa, nhưng không ai gây sự, chừng muốn đợi yết kiến "ngài". Trong cổng có lính gác, qua sân, tia mắt nhìn vào tòa nhà, thấy vắng lặng

                              hết sức.

                              Chợt nghe trong cáng có tiếng Bá Diện hỏi vọng vào:

                              - Chú quyền! "Ngài" sắp dậy chưa?

                              Có lẽ chưa khi nào Võ nghe Ma Quân hỏi êm đến thế, tuy tiếng vẫn chói tai. Chú lính gác nhăn mặt, bịt vội tai, kêu:

                              - Ôi chao! Điếc mất! Ai biết "ngài" đâu, nghe nói "ngài" có khi ngủ hai, ba ngày mà!

                              Võ Minh Thần đứng gần cổng nghe tỏ lời Bá Diện Ma Quân, càng thêm sửng sốt, bất giác đưa mắt dòm quanh, nghĩ thầm:

                              - Ma Quân trăm mặt xưa nay vẫn coi thiên hạ bằng nửa con mắt, đi đâu cũng có đủ tàn vàng tán tía, tiếm dụng nghi vệ thien tử, bất chấp cả Nhà nước,

                              nay sao lại chịu khó đứng chầu chực ngoài cổng biệt thự viên Tổng Đốc họ Hoàng này, nói với lính gác cũng đầy vẻ khiêm tốn... lạ dữ à! Nhân vật "ngài" kia là ai mà Bá Diện Bá Âm, lãnh sự Ả Rập, đại vương thổ phỉ, v. v... toàn hạng "gớm" cả đều tỏ vẻ kính trọng quá lẽ thế? Tưởng toàn quyền, Thống sứ, vua chúa cũng chẳng khiến họ chầu chực lễ phép vậy?

                              Càng nghĩ chàng trai càng bị óc tò mò kích thích cực độ, bèn dắt ngựa tiến lại gần khu cổng sắt, nghển cổ dòm vào trong. Qua lối sải vườn hoa khá rộng bên trong tòa biệt thự hai tầng vẫn thấy im lặng như tờ, không một tiếng động, chẳng khác gì nhà hoang. Lâu lắm mới thấy có bóng một người mặc quan áo trắng từ dưới nhà ngang bưng khay trà lên căn nhà chính giữa.

                              - Hầy à! "Ngài" đã dậy rồi! Bồi bếp đem nước lên...

                              - Ngài "nhậm xà" với quan Tổng đốc à? Thiên có cả nọc "Kim Tàm Cổ"? Phải ngươi định nhờ ta chuyện chi quan hệ, tiết lộ xong, muốn ta mang bí mật xuống âm ty?

                              Vừa nói, chàng ta vừa thản nhiên ngửa giang hồ. Minh Thần chợt để ý thấy một người Tầu trạc bốn Đông Tửu đặt bình, nhấc bình bên hữu mở luôn nắp. Nhanh như điện xẹt, từ trong bắn "vút vút" ra hai luồng hồng quang loằng ngoằng, táp vụt bàn tay Đông sợ thiên hạ chiếm mất chỗ. Chàng trai bèn lại gần y, cúi đầu chào hỏi nhỏ:

                              - Sếnh sáng cũng đợi "ngài"?

                              Người Tầu lạnh lùng:

                              - Không đợi đứng đây làm gì? Minh Thần nhe răng cười thì thào:

                              - Sao sếnh sáng không kiếm cách... vào ngõ hậu hơn không? Người Tầu nhìn Minh Thần, cười nhạt:

                              - Lũ đầu ngốc! Ngộ khôn, tụi kia dại? Hầy! Cả lũ lén vào cửa hậu, để đánh nhau dành chỗ, làm ồn kinh động đến tai "ngài"? Hầy! Muốn chọc giận "ngài"?

                              Minh Thần chưa kịp nói thêm, bỗng có hai, ba bàn tay níu áo chàng lôi giật ra, hét:

                              - Đến sau định dành chỗ trước?

                              Minh Thần ngoảnh trông lại, thấy ba bốn đám gườm gườm mắt nhìn chàng như chực gây sự. Chàng vội xua tay dùng tiếng Thổ, Tầu bất đắc dĩ:

                              - Trăm mặt, Túy tiên sinh muốn nói với mặt nào?

                              - Mặt thật! Tiếng thật!

                              - Thôi cũng được, nhưng còn chủ Tây Phàn? Bạch Viên Bá Diện Đông Âm còn vào hàng thứ ba.

                              Minh Thần dắt ngựa ra đứng tít ngoài, đưa mắt nhìn cỗ cáng Đông Âm. Cáng bất động, quanh cáng có một đám gái hầu đang đứng vây tứ phía, đội khá nhiều lễ vật, nhất là các vò rượu lớn ngoài có dán giấy hồng điều đề tửu loại. Các đám khác cũng đều có tòng nhân mang lễ vật, nhưng phần nhiều đều là rượu, còn các món khác còn trên lưng ngựa túc trực dưới chân đồi.

                              Chừng mười lăm phút sau, bỗng nghe tiếng trong cáng Đông Âm Bá Diện phát ra:

                              - Này các ngươi! Chắc ngài uống xong tuần trà rồi, ta xin vào yết kiến, các

                              ngươi nghĩ sao?

                              Chúng nhân nhất loạt tán đồng:

                              - Bá Âm tiếng tốt giọng hay, thay mặt lên tiếng đi! Trời chiều rồi! Trong cáng có tiếng vọng vào cổng vừa đủ nghe, giọng đàn bà thỏ thẻ:

                              - Chú quyền! Vào trình "ngài", có khách thập phương yết kiến dâng lễ

                              vật!

                              Chú lính gác đứng trong lắc đầu:

                              - Việc đó đâu phải của lính gác! Quan tổng đốc đã truyền. Vút vút, từ trong cáng gầm chợt bay ra mấy lá vàng rực lướt qua kẽ song

                              sắt đậu lơ lửng trước mặt chú lính. Hai lá vàng chỉ hơi chao động, nguyên hai lạng vàng lá.

                              - Đãi chú đó! Chú lính trợn mắt dòm, vừa kinh dị thấy hai lá vàng đặc lơ lửng trước mặt như ma xó cầm, lạ vì lóa mắt vì màu vàng sáng chói ánh mặt trời, chú lính thò luôn tay nhón bỏ vào túi, cầm dùi gõ kiểng liền. Đốc gác chạy ra, chú lính rút lá vàng sông, Thánh Quân phải lụy đò! Rèm phủ lại vén lên, từ trong bắn ra một bóng nữ nhân, quay tít mấy vòng, đứng sững giữa nhà. Dưới ánh sáp, hiện lên một y chạy ra, nói vọng:

                              - "Ngài" đang uống trà với quan Tổng đốc! "Ngài" bảo trưa mai ngài mới rảnh. Chúng nhân xôn xao, một kẻ hô "Ta cứ vào đi", kẻ khác quát nhỏ "Chớ

                              vào! Vào ngài không tiếp cũng vô ích".

                              Đốc gác rút luôn vào, như sợ bị đòi lại mấy lá vàng đút.

                              Bỗng trong cáng có tiếng Bá Âm cất lên, vang vong khắp bằng hàng trăm thứ giọng:

                              - Bá Diện Đông Âm thay mặt khách tứ xứ xin đạo đạt lên bậc hiền triết đại danh gia bác vật học thông kim bác cổ lời thỉnh cầu khẩn thiết xin được cung kính dâng lễ mọn ra mắt danh gia bác vật học giang hồ, tỏ lòng ngưỡng mộ!

                              Minh Thần nghe tiếng Đông Âm chói chang tấu lên, nghe hết sức trịnh trọng, lại đầy vẻ văn hoa, khác hẳn giọng Ma Quân thường dùng, khiến chàng không khỏi buồn cười, cho là lạ đời hết sức. Nhưng bên trong vẫn im lặng như tờ. Đông Âm lại nói lớn:

                              - Khách tứ xứ ngàn dặm đến phương Nam lòng thành ao ước được diện kiến bậc danh gia bác vật, cầu sương điếm cỏ, nghĩa khí dậy giang hồ, mới tìm được nơi danh giá ngự mắt, tấm lòng kính mộ tưởng động đến thiên cung, dám xin bậc bác vật học thông kim khác cổ quán thế giang hồ mở lòng thu nhận lễ vật cho khách tứ xứ được vào yết kiến.

                              Im ngót phút, bỗng từ trong trang có tiếng vọng ra, âm trầm kỳ dị, nghe như đứng ngay trong cổng nói ra:

                              - Ôi chao! Lũ điên khùng nào lại kéo đến đây nói lảm nhảm thế này? Đem lễ vật tới làm gì? Làm gì có nhà chứa lễ vật? Ôi chao! Đem lễ vật tới, tất có đieu cầu, ta còn có gì giúp nổi chúng nhân? Lầm nữa rồi!

                              Đông Âm nói vọng:

                              - Lòng thành ước thấy mặt danh gia là mãn nguyện rồi, xin bậc bác vật học mở lòng thâu nạp, nếu không, chúng nhân xin cắm trại ngoài này, đợi hết tuần trăng mùa hạ cũng đợi.

                              Lại nghe tiếng than:

                              - Ôi! Nghe tiếng đúng "con ma trăm giọng rồi"! Bá Diện nhà ngươi lại cầm đầu cho lũ giặc ám ta. Bận! Nói thực ta có hẹn lên núi đánh cờ, trưa mai mới gặp mặt các ngươi được.

                              Chúng nhân nhao nhao, lão có hiệu Đại Thái Giám Ả Rập vùng nói lớn:

                              - Xin "ngài bác học đại đức đại tài thông minh quán thế Đông Tây kim cổ vô song", mở lượng dung nạp! Kẻ thái giám già yếu này vâng mệnh Hoàng đế Ả Rập Séoud tận miền Hồng Hải La Mecque vượt đại dương sang tận phương Nam này, cả sáu tháng trường trôi nổi lang thang tìm kiếm mới tới được cổng dinh thự mùa hè này, dám xin "ngài" thương tưởng lễ vật này, nếu chẳng được thâu nhận, chẳng những đầu kẻ già này bị chặt mà cả nhà cũng mắc tội lây.

                              Lão vừa dứt lại đến lão trưởng đoàn tựa "Tây cuốn thừng" nghển cổ nói vọng luôn:

                              - Lãnh sự Ai Cập này vâng mệnh Hoàng đế Farouk vượt biển tới dâng lễ ra mắt lên "ngài", nếu không được gặp chắc toàn gia phải tội, thê nhi, tôn tử chẳng còn được bái Allah mỗi chiều...

                              Cứ thế, mỗi đám thi nhau lên tiếng so phần khẩn thiết, khiến Minh Thần đứng nghe chẳng hiểu bọn họ xin vào yết kiến co chi khẩn thiết. Cứ nghe cách xưng hô, xem ra "ngài" kia cũng chẳng phải Toàn quyền, thống sứ...

                              Sực nghe trong trang có tiếng vọng ra không già, cũng chẳng trẻ:

                              - Ôi thôi! Các người hại tên sống vô gia cư, tử vô địa táng, ăn cơm đầu ghế, uống nước sông, ngủ nhà thổ này rồi! Ta cũng chẳng ưa chi Hoàng Đế, Đại Vương, Lãnh chúa, Ma đầu bán quỷ bán ma, nửa người, nửa quái, nhưng thấy chết là ta tỉnh rồi, vậy ta gặp các ngươi, nhưng phải trưa mai! Giờ đi đi!

                              Chúng nhân nhao nhao, không chịu đi:

                              - Cứ đợi! Ngài ra là ta đón đường! Cả bọn đang bàn nhau, bỗng thấy trong trang khật khưỡng đi ra một bóng ngườiinh! Gái này tối nay bị bức nhiều đó! Điện giật cũng không mạnh bằng, Võ Minh Thần nấp ngoài như nẩy bắn lò xo, kinh dị, mở to mắt còn ngờ chiêm bao. Chỉ suýt nữa đã bật kêu sửng sốt cực độ!
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment

                              Working...
                              X