Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Cánh hoa chùm gửi - QUỲNH DAO

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Chương 16

    Chương 16

    Những ngày mệt nhọc trôi đi, vết chân tôi đã dẫm nát khu vườn hoa những vẫn không tìm thấy hình ảnh mình ngày xưa. Bây giờ tôi mới thấm thiá những câu thơ của Lý Thanh Chiêu:
    Tầm tầm mật mật Lãnh lãnh thanh thanh Thê thê, thảm thảm, kỳ kỳ ( Tìm kiếm, trông ngóng. Tâm hồn tôi đang lạnh lẽo cần được sưởi ấm).
    Lần đầu tiên tôi biết được mùi vị của ái tình. Những cử chỉ, những hành động như mất hồn của tôi không qua khỏi mắt bà Lâm. Một hôm trong lúc tôi thẩn thờ nhìn thức ăn trên bàn bà cười hỏi:
    - Sao vậy con? Thức ăn không vừa miệng hả?
    Tôi giật mình:
    - Dạ không phải thế!
    Rồi chụp nhanh chén cơm và ngay vào miệng, ráng nuốt. Bàn tay bà Lâm đưa qua bàn nắn nhẹ tay tôi:
    - Ức My, hãy cho bác biết tại sao con đau khổ, có chuyện gì vậy con?
    Buông chén xuống, nước mắt tôi rơi ra, tôi chạy vội về phòng.
    Một ngày, rồi một ngày, lần lần tôi tỉnh ngộ. Phải đối diện với thực tế, phải cố gắng can đảm để sống!
    Buổi sáng thức dậy, tôi mang yếm vào nhà bếp phụ bà Lâm làm cơm sáng, sau đó đến sân cho gà vịt ăn. Vo một nồi cơm, nhìn những chú gà đủ màu sắc chạy lăng xăng đến mổ những hạt gạo nhỏ, lòng tôi ấm lại. Cuộc sống thật đáng vui, mặc đầu suốt quãng đời tôi là một chuỗi ngày đau khổ, nhưng tôi vẫn yêu thương nó, cho gà ăn xong tôi đến sân chơi của trường. Nơi đây, trong những chiếc lồng sắt có nuôi mười mấy chú thỏ. Đối với tôi, chúng nó là bạn thiết. Mỗi ngày, tôi mang một đống cải xanh và củ cải, lần lượt đút vào chuồng nhìn chúng giành giựt nhau ăn. Tôi quỳ xuống đất, vuốt ve rồi thì thào với chúng cũng vui lắm.
    Trong số thỏ này có một con trông thật cô độc, nó ở riêng rẽ một mình không đến ăn. Tôi đến gần, sờ vào lưng nó thấy hâm hấp nóng. Bệnh rồi chăng? Thật tội nghiệp, tôi ôm lên bước về nhà bà Lâm. Đối với thú vật, tôi có một phương thuốc thần diệu mà tôi đã thử dùng nhiều lần cho nhiều con vật khác nhau mà vẫn thấy linh nghiệm, bất kể bệnh gì khi cho chúng uống nữa gói thuốc con két là chúng đều khỏi ngay. Bọc chú thỏ trong áo, tôi chậm rãi bước về nhà. Đến trước cổng, tôi nghe hai đứa con nhỏ của bà Lâm bàn cãi nhau điều chi không rõ một đứa nói:
    - Chắc là tướng cướp.
    - Không phải, đó là tên tù vượt ngục, có lẽ hắn đã mang tội giết người!
    - Tao bảo không phải mà. Ông ta là tướng cướp này, hôm trước tao thấy trong phim đấy!
    - Tao cũng coi phim vậy, tên tù vượt ngục cũng giống thế.
    - Tao nói là tướng cướp đấy!
    - Tao nói là tên cướp vượt ngục!
    - Đánh cá không? 3 hòn bi đó!
    - Cá liền, tao sợ hả?
    - Rồi, bây giờ vô hỏi mẹ.
    Dưới tia nắng sớm mùa đông, tôi đứng nhìn lũ trẻ cãi nhau. Làm trẻ con sướng thật, không phải lo lắng, sầu khổ gì cả. Chú thỏ nằm trong lòng tôi bỗng động đậy, tôi cúi xuống, vỗ về:
    - Đừng gấp, chị sẽ đem thuốc cho em uống mà.
    Một bóng đen hiện lên trên nền đất, càng lúc càng gần. Rồi tôi nhìn thấy đôi giày lấm bụi, tia mắt tôi đưa lên từ từ: chiếc quần sậm màu, áo hở rộng cổ không thắt cà vạt, chiếc hàm vuông, rồi mắt tôi chạm mắt chàng.
    Chúng tôi cứ thế nhìn nhau không nói một lời nào. Thời gian lặng lẽ trôi qụa Đám mây cha khuất mặt trời bắt đầu trôi đi. Chàng vẫn thế không có gì thay đổi ngoài khuôn mặt trắng xanh.
    - Ức My, em có khỏe không?
    Tôi gật đầu, lí nhí không nói được. Trung Đan đưa tay, nhè nhẹ vuốt chú thỏ trong lòng tôi:
    - Nó sao vậy?
    - Bệnh rồi, có lẽ bị cảm.
    Bàn tay chàng chầm chậm nắm lấy tay tôi xiết mạnh, giọng chàng run run:
    - Ức My, rốt cuộc rồi anh cũng tìm thấy em.
    Tôi nhắm mắt lại, nước mắt vờn quanh mi, không nói nên lời. Chàng ôm tôi, giọng đau khổ thống thiết:
    - Ức My, sao em ngu như vậy. Em bỏ đi không cho anh biết, làm cả nhà bấn loạn lên, em biết không? Bây giờ thì em đã bình thường rồi phải không? Anh đến đón em. Đừng khóc nữa, nín đi đừng khóc.
    Tôi vẫn khóc, vì nếu không khóc thì tôi không biết phải làm gì bây giờ. Trung Đan ôm tôi vỗ về, chàng đã làm khuấy động tình cảm tôi. Tôi sung sướng khóc, khóc mãi đến một lúc lâu lòng mới cảm thấy thư thả. Chàng nâng cằm tôi lên, lau nước mắt, như đang vỗ về một đứa bé.
    Sau đó tôi nghe có tiếng vỗ tay của lũ trẻ con bà Lâm:
    - Ê tụi bây ơi! lại xem chị My nè, con gái mà ôm con trai mà không biết mắc cở, lêu lêu!
    Xô Trung Đan ra, nhìn chàng rồi lại nhìn lũ trẻ tôi phì cười theo. Có tiếng chân người bước đến gần, đồng thời một bàn tay to lớn nắm lấy tôi. Ngẩng đầu lên, nhìn ra khuôn mặt xồm xoàm đầy râu tóc của giáo sư La Nghị. Tiếng ông ồn ào:
    - Ức My, sao em trốn học về đây chứ? Làm tôi tìm mãi không ra. Lúc bình thường không để ý, chỉ biết em ở tại một trường tiểu học mà cũng không biết địa chỉ ở đâu nữa. Lục hết cả một tỉnh Cao Hùng này mới tìm được em. Được rồi, bây giờ ngoan ngoãn theo tôi về ngay.
    Tôi ngập ngừng:
    - A. Tôi...Tôi...
    Giáo sư La Nghị hét to:
    - Cô còn muốn gì nữa đây hở? Nếu có giận hờn gì thì cứ cãi nhau hay chửi bới một lúc cho hả giận rồi thôi, chớ làm gì mà em lại bỏ nhà đi? Đài Loan bây lớn, người thì đông, đất lại rộng, em còn muốn tôi đến đâu tìm em nữa chứ? Sao khó khăn vậy. Em đi đâu thì không sao cả, nhưng tội cho người nhà phải bấn loạn lên đi tìm. Trung Đan trách tôi sao đánh em, thật ra tôi đâu có ngờ chỉ vì một cái tát tai mà em lại bỏ đi đâu? Gia Gia nó lục lọi tứ tung xem em ở đâu, nó tưởng em núp trong hộc tủ, thế là nó quần lấy các ngăn sách của tôi. Hạo Hạo cũng cự nự tôi. À, còn con mèo của cô nữa, không biết làm sao mà nó chui vào trong tủ tôi làm ổ trong ấy, thôi xương cá tứ tung trong đó. Thôi cô về ngay đi về dọn dẹp sạch sẽ cho tôi nhờ.
    Tôi sung sướng nhảy nhỏm lên:
    - Tiểu Ba chưa đi mất sao giáo sư?
    - Đi mất? Đi đâu mà mất? Có mất chăng là cô. Thôi đừng nói nhiều, sửa soạn nhanh lên để xem có kịp chuyến xe lửa nào không.
    Tôi do dự, quay lại nhìn thấy bà hiệu trưởng Lâm đang mỉm cười, bà bước đến cạnh, nắm tay tôi nói:
    - Đi đi em, Ức My. Giáo sư Nghị đã nói hết cho bác nghe rồi. Ráng học để thi đậu em nhé!
    Tôi vẫn do dự, giáo sư La Nghị muốn đưa tay nắm tôi lôi đi, bỗng tay ông chạm vào chú thỏ, giựt mình ông hét to:
    - Trời ời, cái gì nữa đây?
    Tôi nâng cao chú thỏ lên nói:
    - Dạ chú thỏ ạ, nó đang bệnh đấy. Em có thể mang nó về nhà được không giáo sư?
    - Ơ, ơ. Đôi mắt ông tròn xoe lại, ông ậm ừ - Thôi được, mang nó đi luôn đi. Có lẽ rồi đây tôi phải mở luôn một cái sở thú để trong nhà cho em chăm sóc luôn thể!
    Tôi sung sướng hét lớn. Bao nhiêu bực dọc phiền nhiễu trong những ngày qua đã vỗ cánh bay đi. Trao chú thỏ cho Trung Đan, tôi nói:
    - Ôm giùm tôi một chút nhé!
    Rồi tôi chạy bay vào nhà soạn quần áo. Xách chiếc valise trên tay bước ra ngoài. Bà hiệu trưởng Lâm đến nói vài lời từ biệt với tôi. Cười cười, giọng bà luyến tiếc:
    - Lần sau con có đến đây, mong rằng không phải đến để trốn nữa con nhé!
    Tôi nhìn bà chẳng nỡ rời. Giáo sư La Nghị bực dọc vì chờ đợi. Chúng tôi bước ra cửa. Hai đứa con của bà Lâm đưa đẩy nhau trước mặt:
    - Mày lại hỏi đi!
    - Mày hỏi đi!
    Giáo sư La Nghị hỏi tôi:
    - Chúng nó làm gì thế?
    Nhìn hàm râu xồm xoàm của giáo sư, tôi chợt hiểu và cười lớn. Giáo sư Nghị chau mày:
    - Em cười cái gì đấy?
    - Dạ em cười chúng nó. Tụi nó đố nhau giáo sư là tướng cướp hay là tù vượt ngục.
    Mọi người cười ồ lên, gương mặt ông rắn lại, miệng ông lẩm bẩm điều gì không rõ. Chúng tôi cứ thế vừa đi vừa cười bước về phiá cổng.
    Hai giờ sau, tôi, Trung Đan và giáo sư Nghị ngồi yên trên chuyến xe lửa trở về Đài Bắc. Chiếc xe vun vút lao đi, bỏ lại những đám rừng, đồng cỏ, thôn trang và phố thị. Tôi và Trung Đan ngồi một bên, giáo sư La Nghị ngồi đối diện, chú thỏ nhỏ được đặt trong lồng để dưới chân.
    Trên đường chúng tôi yên lặng. Trung Đan thấp thỏm như có chuyện muốn nói nhưng vẫn không thốt ra lời. Còn giáo sư Nghị thì ra chiều suy nghĩ, mắt nhìn cảnh vật bên ngoài trôi nhanh. Càng gần đến nhà bao nhiêu lòng tôi càng hồi hộp, tôi đã ra đi rồi bây giờ quay trở lại. Lúc đi, tôi chỉ muốn trốn lánh bao nhiêu chuyện mà bây giờ vẫn còn đó, lần này trở về lại gặp lại, tình thế ra sao? Vấn đề vẫn chưa giải quyết được gì cả. Tôi phải làm sao đây? Xe lửa đã vượt qua Đài Trung, Tân Trúc, trạm này tiếp nối trạm khác, thành phố Đài Bắc càng cận kề.
    Bây giờ khung trời bên ngoài đã đen sẫm, những ánh đèn chớp mờ xa xa càng lúc càng rõ. Nhìn những điểm sáng bên kia đồng cỏ, tôi thắc mắc không hiểu nơi đó có người ở không? Họ sinh sống ra sao? Có phải lúc nào cũng đau khổ rối rắm như cuộc sống của chính mình chăng?
    Xe băng qua Trúc Bắc, Đào Viên, Trung Đan đổi thế ngồi, tôi quay sang nhìn, thái độ chàng thật kỳ quặc. Sau cùng, chàng hắng giọng:
    - Thưa giáo sư.
    Giáo sư La Nghị giựt mình quay lại nhìn dò hỏi.
    - Tôi có câu chuyện muốn bàn với giáo sư ngay trong lúc xe chưa vào thành phố, xin giáo sư cho biết ý kiến.
    Liếc sang tôi, chàng xiết chặt đôi tay tôi:
    - Khi đến Đài Bắc, tôi muốn được tuyên bố lễ đính hôn với Ức My, ngay sau đó tôi sẽ chịu trách nhiệm về cuộc sống của nàng, và sẽ tìm một căn nhà riêng...
    Giáo sư cướp lời, giọng nói ông có vẻ gay cấn:
    - Anh nói thế là sao?
    - Tôi muốn nói, Trung Đan có vẻ quyết định - Khi Ức My về đến Đài Bắc, nàng sẽ không về nhà giáo sư mà tôi sẽ mướn căn nhà khác...
    - Nói bậy! Anh lấy tư cách nào để lo cho Ức My như vậy.
    Giọng nói của giáo sư có vẻ giận dữ Trung Đan xiết chặt tay tôi hơn anh nói:
    - Tôi là vị hôn phu của nàng, tôi muốn được chăm sóc nàng. Thưa giáo sư, nàng ở nhà ông thật bất tiện.
    - Tại sao bất tiện? Ai ăn thịt nó đâu?
    Trung Đan nói:
    - Ai làm sao biết được. Nhưng ở nhà ông, nàng sẽ không vui được. Giáo sư đừng để nàng phải buộc lòng đi lần nữa.
    - Tôi đâu có đuổi nó? Giáo sư La Nghị quát.
    - Nhưng hình như người nào trong nhà họ La cũng muốn đuổi nàng đi cả.
    Trung Đan nhìn thẳng vào giáo sư Nghị chàng nhấn mạnh từng chữ một.
    - Thưa giáo sư, Ức My là gì của ông?
    Chậm rãi lấy tấm hình trong túi đưa ra trao cho giáo sư Nghị, Trung Đan tiếp:
    - Tấm hình này là ai đây?
    Tôi liếc sang nhìn tấm hình, đó là hình Khởi Khởi lúc còn bé. Tôi lạ lùng nhìn Trung Đan rồi lại nhìn giáo sư Nghị, không biết chàng đang làm trò gì?
    Nhưng hình như ông Nghị đang tức giận, đôi mắt tròn xoe, râu tóc ông dựng đứng lên, giựt lấy tấm hình, tay ông run rẩy. Một lúc lâu ông mới ậm ự hỏi:
    - Trung Đan, anh tưởng anh có quyền tò mò bí mật gia đình người khác à?
    - Không phải thế. Tôi chỉ muốn bảo vệ người tôi yêu, chỉ muốn nàng không bị ám hại.
    - Ai ám hại nó.
    Trung Đan nhìn tôi:
    - Ai biết, nhưng có thể là người biết rõ thân thế của nàng ganh ghét nàng. Thưa giáo sư, tôi nghĩ rằng tốt nhất là ngài nên nói ra, thật ra nàng là ai?
    Đôi mắt giáo sư mở lớn, tôi tưởng chừng như ông sẽ nhảy chồm về phiá Trung Đan. Nếu xe hỏa ngừng lại, không biết hậu quả sẽ thế nào. Trung Đan chủ động cái nhìn. hai người nhìn nhau không nói gì cả. Xe hỏa vẫn lao vút trong màn đêm bỏ lại phiá sau những tàn lửa bay bay.
    Đến ga Vạn Huê ánh đèn sáng rực lên, Giáo sư Nghị nhẹ nhàng hỏi:
    - Anh đã biết được gì?
    Trung Đan nhỏ giọng:
    - Không nhiều lắm. Nhưng nếu giáo sư cứ giữ kín mãi thì không sáng suốt chút nào, có bí mật nào không lộ ra đâu? Ức My cũng có quyền hiểu rõ đời của nàng chứ?
    Giáo sư La Nghị lẩm bẩm điều chi trong miệng, Trung Đan lại tiếp:
    - Nếu ngài thấy rằng Ức My cần phải ở lại nhà họ La, có lẽ giáo sư đã có những lý do riêng của giáo sư. Nhưng nếu ở trong nhà ông Ức My chỉ như là một kẻ ở đậu không hơn không kém, thì chi bằng ngài hãy để cho nàng được sống một cuộc đời tự do, không bị sỉ nhục có hay hơn không.
    - Sỉ nhục? Ai sỉ nhục nó chứ?
    - Chính Khởi Khởi. Cô ấy khinh thường Ức My, lý do lớn nhất là tưởng rằng nàng chỉ là đứa con côi đến ăn nhờ ở đậu.
    Giáo sư Nghị giật mình. Tôi có cảm giác như ông ta đang run rẩy. Xe hỏa ngừng lại ở sân ga Đài Bắc, tiếng máy khuếch âm cho biết đã đến nơi rồi. Trung Đan đứng dậy, xách hành lý của tôi và lồng thỏ bước về hướng cửa. Chàng hỏi giáo sư Nghị:
    - Thưa giáo sư, địa vị của Ức My và Khởi Khởi có ngang nhau chăng?
    Ông Nghị bước xuống xe, đứng nơi sân ga ông nhìn Trung Đan nói:
    - Cũng không hoàn toàn ngang nhau.
    Tôi nhảy xuống xe đi qua hai hàng lan can bước ra ngoài. Những chiếc xe xích lô, taxi tranh nhau đón khách. Trung Đan nhìn giáo sư Nghị:
    - Bây giờ đi đâu?
    - Về nhà, chớ còn đi đâu nữa.
    Ông Nghị giận dữ.
    - Về nhà ông à?
    Giáo sư Nghị ưỡn ngực ra, bàn tay ông trên vai tôi run rẩy, ông nói:
    - Đúng vậy, về nhà tôi cũng là nhà của Ức My.
    Trung Đan thở phào, chàng ngoắc tay gọi taxi. Chúng tôi chui vào, Trung Đan nói với bác tài:
    - Đến đường Roosevelt! Rồi quay sang tôi - Em làm gì đó?
    Tôi đáp:
    - Dạ, chú thỏ của em nó đang nóng ạ.
    Giáo sư Nghị hơi rung động, ông thở dài:
    - Cũng lại là chú thỏ. Bản tính em giống hệt mẹ.
    Tôi hỏi một câu mà đã lâu rồi lòng vẫn nghi vấn:
    - Thế mẹ tôi là ai?
    Từng chữ, từng chữ một, giáo sư Nghị nhấn mạnh:
    - Là vợ tôi!
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #17
      Chương 17

      Chương 17

      Ánh trăng tuyệt đẹp ngoài khung cửa.
      Chúng tôi quây quần trong phòng khách: Giáo sư La Nghị, Trung Đan, Hạo Hạo, Khởi Khởi và tôi. Chỉ thiếu một mình bà Nghị, có lẽ bà đã ngủ rồi, vì khi tôi, Trung Đan và ông Nghị về đến nhà đã hơn 10 giờ. Giáo sư Nghị lần lượt cho người gọi Hạo Hạo và Khởi Khởi xuống và dặn đừng phá giấc ngủ của bà Nghị.
      Khi mọi người đã tụ họp đông đủ, chúng tôi ngồi thành vòng tròn, chính giữa là hỏa lò cháy đỏ. Đêm đã khuya lắm rồi, cửa kính đã đóng chặt, ánh trăng vờn đục khung mây, trong phòng đèn đã được thắp sáng tỏa những tia sáng mờ ảo tạo nên cảnh âm u. Hỏa lò với những ánh lửa bập bùng soi rõ từng nét mặt.
      Giáo sư La Nghị tựa người vào ghế, đôi mắt mơ màng nhìn vào lửa, bắt đầu kể lại chuyện ngày xưa:
      - Năm ấy là năm Dân Quốc thứ 27. Vừa tốt nghiệp đại học xong, tôi bắt đầu đi khảo cứu địa chất. Tôi đến vùng Quảng Tây, Quí Châu vừa du lịch, vừa thu thập một số đá Chung Vũ và Thạch cao. Trời vừa sang thu, tôi cũng vừa tới My Đàm, một thị trấn thuộc tỉnh Quí Châu, thì gặp Tú Lâm mẹ của Ức My.
      Giáo sư La Nghị ngừng lại, nhìn tôi rồi quay sang nhìn Hạo Hạo, ông tiếp:
      - Cũng là mẹ của Hạo Hạo.
      - Gì?
      Hạo Hạo hoảng hốt kêu lên. Ông Nghị chận lại:
      - Đừng nóng, để tôi kể tiếp.
      Rồi đưa tay lên xoa mũi, mắt ông rơi vào cõi suy tự một lúc ông tiếp:
      - Tôi quên nói là thuở xưa nhà tôi rất giàu có. Cha tôi là một trong những thương gia nổi tiếng nhất tại Quế Lâm. Tôi lại là con một nên thụ hưởng cả một sản nghiệp to tát của cha già. Ra trường xong, mang theo hai người tớ để phục dịch, tôi đã đi đến những vùng lân cận vừa để du lịch, vừa để khảo sát địa chất tại nơi đó. Thật ra nói là vậy chớ khảo sát địa chất chỉ là một cái cớ nhỏ mà thôi. Đến My Đàm, lúc đầu tôi không định ở đó lâu, vì nơi đây chỉ là một địa phương nghèo nàn đơn bạc.
      Nhưng ở đây tôi đã gặp Giang Tú Lâm. Tôi còn nhớ, hôm ấy là một buổi chiều mặt trời vẫn còn nằm trên đỉnh núi, nhưng ráng chiều đã phủ vây cả bầu trời với từng đàn hạc bay không mỏi cánh.
      Tôi gặp Tú Lâm bên một tàng cây lớn. Tay cầm cọ, tay cầm giá vẽ, đường nét của nàng không xuất sắc lắm, người cũng không đẹp lắm, những dáng điệu của nàng thật thoáng đạt, thật dễ mến. Lúc ấy tôi còn rất hào hoa phong nhã nên tôi đã tìm cơ hội để làm quen. Vẫn tưởng rằng đó chỉ là một trong muôn ngàn chuyện tình vớ vẫn khác sẽ qua đi, nhưng không ngờ tôi không thể xa nàng được.
      Tú Lâm là con nhà nghèo, trình độ học vấn chỉ đến tú tài, nhưng thật thà lương thiện. Lúc nào tôi cũng cảm thấy nàng là một kho tàng phì nhiêu vô giá, đầy ưu điểm. Đến Quế Lâm, sự giàu sang của gia đình tôi đã làm cho nàng lo sợ, tôi tớ trong nhà quá nhiều khiến nàng luống cuống, nhất là sự cố ý coi thường nàng của cha mẹ tôi làm cho nàng bao đêm phải tủi thân khóc thầm. Nhưng nàng quả là con người đầy tự tin. Chỉ trong vòng một năm, sự nhẫn nại đã khắc phục bao nhiêu khó khăn và thu phục cảm tình của kẻ ăn người ở trong nhà.
      Tôi chắc chắn là khó có ai tìm được người vợ hoàn toàn như Tú Lâm. Ai ai cũng phải yêu thương nàng. Tú Lâm không bao giờ ra vẻ ta đây là chủ nhân, nàng hòa đồng với tất cả mọi người. Vui vẻ, không ưu tư, thích ca hát hay vui cười. Lúc nào tiếng cười của nàng cũng vang vang khắp nhà ra đến khu vườn hoa rộng lớn.
      Chẳng bao lâu cuộc sống tù túng trong nhà làm nàng mệt mỏi. Là người năng hoạt động nên Tú Lâm đã trồng hoa cỏ, nuôi cá vàng...nhưng bao nhiêu đó vẫn chưa làm nàng thỏa mãn. Nàng là người rất nhân từ, thế nên không rõ từ lúc nào nàng đã sinh ra tật nuôi thú. Mỗi lần ra phố trở về là nàng mang theo nào là chó xà mâu, mèo ghẻ lở dơ dáy, loại nào nàng cũng không từ, miễn là chúng tàn tật đáng thương. Tú Lâm đã không nề hà khó nhọc, tự tay săn sóc thuốc men, tắm rửa, cho ăn...chỉ mong đến một ngày nào đó được nhìn thấy chúng mập mạp khỏe mạnh hơn.
      Hành động này của nàng, lúc đầu tôi cũng thấy thích, nhìn nàng sung sướng tôi cũng vui lấy. Nhưng rồi dần dần, cái cảnh chim chó chạy bay đầy nhà như trong sở nuôi thú tàn tật làm tôi khó chịu.
      Mặc dù tôi đã khuyên bảo nàng nhiều lần nhưng Tú Lâm vẫn không nghe, nàng còn cãi:
      - Anh có thể đưa mắt nhìn một con vật bị bỏ rơi chăng? Anh không yêu cuộc sống của loài vật à? Không có gì sung sướng cho bằng được nhìn thấy những con vật tàn tật kia trở nên mạnh khỏe. Em thích nuôi chúng, anh nỡ nào bóp chết nguồn vui của em sao?
      Thôi được! Tôi chỉ còn biết để cho nàng tiếp tục công việc đó. Kết quả, Tú Lâm càng lúc càng thay đổi hơn. một hôm, nàng về quê thăm người bà con xa, khi trở về nàng đã mang theo một đứa con gái khùng khùng điên điên không biết nói - đó là Gia Gia. Nó ngớ ngẩn, ốm yếu, ghẻ lở.
      Tôi đã trách nàng sao làm mà không suy nghĩ gì cả, mang chi những bực bội về nhà, thì nàng lại bảo:
      - Chúng ta đâu sợ có thêm một miệng cơm. Ở nhà nó không ai ưa nó cả, nó sống khốn khổ không bằng con chó của chúng ta nữa, anh không thấy nó đáng thương sao? Anh đừng lo, và nó cũng không đến nỗi nào đâu, để em dạy nó trồng hoa, nuôi súc vật chắc chắn nó sẽ làm được. Anh đừng lo, để nó cho em.
      Thế là Gia Gia được ở lại. Suốt cả nửa năm trời nàng nhọc công dạy dỗ nó trồng hoa, nuôi súc vật. Tuy cực khổ nhưng Tú Lâm vui sướng lắm. Thuở ấy bản nhạc Tú Lâm thích hát nhất là bản “Hoa Phi Hoa” nàng đã mất cả năm trời dạy dỗ Gia Gia mới hát được. Đến nay bài hát này là bản nhạc mà không bao giờ Gia Gia quên được.
      Khi Gia Gia biết hát xong, Tú Lâm mừng rỡ như kẻ sung sướng nhất đời, nàng chạy đến bên tôi khoe khoang:
      - Nó không phải là con khùng, anh có thấy không?
      Nhưng rồi khùng thì bao giờ cũng khùng, Gia Gia hát xong bản nhạc đó thì không hát được một bản nào khác nữa. Suốt ngày chỉ ca độc nhất một bản này.
      Tuy rằng vậy, nhưng về nghệ thuật trồng hoa và nuôi thú vật thì nó rành lắm, có thể xem như là chiếc bóng của Tú Lâm. Việc nàng yêu thương nó có lẽ nó cũng ý thức được, nên mỗi khi nhìn Tú Lâm tưới hoa, nó cũng phụ một tay, ngay cả ý thích của nàng, Gia Gia hình như cũng biết. Thí dụ Tú Lâm thích loài hoa vàng nhỏ, một loài hoa vô danh mọc khắp cánh đồng, thì Gia Gia tối ngày leo mãi trên núi tìm kiếm về cho Tú Lâm, tôi nghĩ rằng đây cũng là nguyên do tại sao Gia Gia thích Ức My, vì Ức My có nét giống mẹ, còn nó thì vẫn không thể phân biệt được Tú Lâm với Ức My.
      Năm Dân Quốc thứ 29 Hạo Hạo ra đời. Hạo Hạo đã đem lại cho nàng nỗi vui mững khôn xiết, khỏi phải nói thì các người cũng biết tôi vui ra sao. Nhất là tôi nghĩ rằng khi đã bận bịu con nhỏ, Tú Lâm sẽ không còn mang ba cái loài vật tàn tật kia về nữa, vì tình thương con sẽ chiếm trọn lòng nàng.
      Nhưng tôi đã lầm, khi Hạo Hạo vừa được đầy tháng, thì có người đến muốn nàng đưa con về thăm quê ngoại, thế là nàng bồng con đi. Ở quê nhà khoảng hai tháng, nàng trở về nhà. Phiá sau chiếc kiệu của nàng còn mang theo một chiếc kiệu khác, có lẽ vì sợ chói nắng nên được buông rèm kín. Khi kiệu vào cổng, tất cả tôi tớ trong nhà đều ra đón nàng, tôi cũng đứng lẫn trong ấy.
      Tú Lâm vừa bồng con bước ra nhìn thấy tôi nàng vui mững lắm. Nét mặt đó bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, nàng gọi lớn:
      - Anh Nghị!
      Tôi nhìn chiếc kiệu thứ hai, thắc mắc:
      - Ai đó?
      - Em mang về cho anh một sự ngạc nhiên.
      - Cái gì thế?
      - Anh hứa với em là anh không giận đi em mới nói.
      - Nhưng cái gì mới được chứ!
      Nàng dẫn tôi đến cạnh chiếc kiệu thứ hai, vén rèm cửa sang một bên. Tôi thấy một đứa con gái thật ốm yếu. Nói thật, lúc ấy tôi rất hoảng hốt vì nước da của cô ta trắng xanh, thân thể chỉ còn da bọc xương, đôi mắt to và đen trơ tráo nhìn tôi. Tôi lui về sau một bước, hét to:
      - Cái gì nữa đây hở?
      Tú Lâm nở một nụ cười thật tươi, nàng nói:
      - Đó là người chớ gì nữa hở ông xã của tôi?
      Tôi hơi giận:
      - Thì ai lại không biết đó là người, nhưng là người gì?
      Ánh mắt Tú Lâm tinh quái nhìn tôi, nàng nói như trêu chọc:
      - Người con gái chớ là người gì nữa.
      Tôi giận dữ:
      - Con gái? Tôi không biết nó là con gái sao? Nhưng đem nó về đây làm gì, ai thế?
      Tú Lâm hơi hờn dỗi vì thấy tôi giận, nàng nói:
      - Cô em gái của tôi đó.
      - Em gái? Sao hồi đó tới giờ tôi không nghe em nhắc đến?
      - Em, nhưng là em họ. Nó họ Giang, cha nó và cha em cùng một đầu ông cố.
      - Xa đến thế cơ à? Tôi cố gắng nhẫn nhịn. - Thôi được, kể như em gái của em đi, nhưng em mang nó về đây làm gì?
      - Nó đang bệnh.
      - Trời! Tôi trố mắt, đã hiểu rõ việc nàng sắp làm - Nhưng bệnh gì chứ?
      - Bệnh phổi, đã đến thời kỳ thứ hai, ngoài ra nó còn...
      - Còn sao?
      - Thần kinh hơi suy nhược nên người nhà định đem gởi vào nhà thương điên.
      Tôi giận quá không còn chịu nổi nữa, quát to:
      - Hết khùng rồi bây giờ tới điên. Nhà này có phải là viện dưỡng bệnh đâu?
      Nhìn nét mặt khẩn thiết và chân tình của Tú Lâm tôi càng giận.
      - Em mang nó đến đây làm gì? Bộ đây là nhà thương điên hả?
      Tú Lâm nói:
      - Sao anh tàn nhẫn quá vậy. Thấy người ta bệnh như thế mà còn muốn đưa vô nhà thương điên nữa, bộ muốn giết họ sao? Cứu người là một việc tốt mà anh không thích. Thần kinh nó đâu đến nỗi nào, anh không ưa thì để mặc em.
      Cũng lại câu nói đó, lúc nào cũng cứ thế mà lý luận. Tôi thở dài, chỉ biết để nàng khuất phục. Ngoài ra không lẽ mang người ta tới đây, rồi bây giờ lại đuổi về sao? Tôi chỉ còn biết chấp nhận:
      - Thôi được rồi, em đã lỡ mang họ đến đây rồi, anh biết nói sao? Được rồi, để họ ở lại đây đi.
      Tú Lâm sung sướng:
      - Anh Nghị, anh tốt quá, anh quả là người có trái tim vĩ đại nhất đời.
      Và thế là người con gái kia đã bước vào gia đình tôi, đó chính là Nhã Trúc.
      Giáo sư Nghị im bặt ngay, trong phòng yên lặng không một tiếng động nào ngoài tiếng thở phập phồng của mọi người, tiếng tí tách của hỏa lò và tiếng gió than van. Trên nền cửa kính, bóng cây lay động chập chờn. Xa xa những tiếng chim đêm lạc giọng như gọi đàn, như kêu khóc vì mất bạn đồng hành! Nước mắt tôi dâng lên trong lòng mắt. Tú Lâm! Người mẹ yêu quí nhất đời tôi, theo lời giáo sư Nghị đó là một người đàn bà hiếm có, thương người và rộng rãi. Vâng! Đấy chính thật là hình ảnh của mẹ tôi rồi.
      Giáo sư Nghị lại ngước mắt lên âu yếm nhìn tôi:
      - Ức My, con có còn nhớ những thí dụ về loài Thố Ty Hoa của con không?
      Tôi không đáp ông tiếp:
      - Khi Nhã Trúc mới đến, nàng thật giống như loài Thố Ty Hoa, yếu ớt gầy còm phải nương bám vào một loài thực vật khác mới có thể sống được. Tú lâm bận rộn suốt ngày nhưng nàng vẫn vui vẻ lo săn sóc Nhã Trúc, lại mời cả những vị y sĩ danh tiếng đến trị bệnh. Lo lắng cho nàng như cho một đứa em ruột. Mùa xuân năm sau sức khỏe của Nhã Trúc hoàn toàn bình phục, má nàng đã phơn phớt hồng. Nàng đẹp như đóa hoa sen hé nụ Nhã Trúc càng được Tú Lâm thương yêu, chăm sóc hơn, nàng luôn miệng gọi Nhã Trúc là công chúa Bạch Tuyết, sắm thật nhiều áo quần trắng tinh, cho sửa soạn phòng riêng của Nhã Trúc đẹp hẳn. Lúc nào nàng cũng bảo chỉ có màu trắng là thích hợp với Nhã Trúc mà thôi.
      Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua, Nhã Trúc càng lúc càng đẹp, lúc ấy nàng đang ở tuổi đẹp nhất của thời con gái - Đó là cái tuổi 19. Thần kinh của nàng sau một thời gian dài điều trị hình như đã trở lại trạng thái bình thường, không có vẻ gì điên dại nữa.
      Năm Dân Quốc thứ 32, chiến tranh lan tràn đến Quảng Tây. Tôi dắt díu gia đình chạy loạn sang Trùng Khánh. Gia Gia và Nhã Trúc đều được dẫn theo.
      Năm đó, Tú Lâm lại thụ thai, vợ chồng tôi quyết định dù là trai hay gái cũng đều đặt tên Khởi Khởi.
      Cũng trong thời gian này, Nhã Trúc lại trở bệnh chúng tôi cho mời y sĩ đến, nhưng vẫn không tìm ra bệnh, chỉ biết nàng ăn không ngon mà uống cũng không được. Một ngày, rồi một ngày trôi qua nàng càng trở nên tiều tụy hơn. Điều này khiến cho Tú Lâm luýnh quýnh, cho mời hết y sĩ này đến y sĩ khác những vẫn hoài công. Nhã Trúc như một cánh hoa tàn, càng lúc càng héo hon, chúng tôi không còn hy vọng gì nữa.
      Nói thật, lúc ấy, sống chung một thời gian dài cạnh Nhã Trúc, tôi cũng bắt đầu nhen nhúm sự thương mến, vì người con gái đẹp nào mà lại chẳng mang sức thu hút người khác? Nói gì Nhã Trúc còn có một ưu điểm khác là vẻ yếu đuối của nàng rất dễ kích thích bản tính thích bảo vệ của phái nam. Tôi thú nhận như vậy, nghĩa là tôi đã yêu Nhã Trúc.
      Do đó, nhìn thấy nàng càng lúc càng héo mòn trên giường bệnh, tôi cũng quýnh quáng không thua gì Tú Lâm. Mặc dầu được chúng tôi hết sức lo lắng cơm nước, Nhã Trúc vẫn không nuốt vô được một hột, chúng tôi càng ngày càng hết hy vọng. một buổi tối khi tôi thay phiên Tú Lâm trực bên giường bệnh của Nhã Trúc - lúc này vợ tôi đang có mang, nên tôi muốn nàng được ngủ nhiều cho khỏe - thì giây phút tội lỗi kia đã đến.
      Lúc ấy tôi đang ngồi cạnh giường nàng, Nhã Trúc bỗng mắt mở ra nhìn tôi, tất cả sự vật trong vũ trụ như tiêu tan. Tôi không biết chuyện gì đã xảy đến, chỉ hiểu rằng tôi đã yêu, đang yêu người con gái bé bỏng yếu đuối này.
      Tôi đã nắm tay nàng. Nhã Trúc cười - Nụ cười mà cổ nhân thường bảo là nghiêng thành - nhìn tôi nàng nhỏ nhẹ hỏi:
      - Có phải em sắp chết không anh?
      Tôi đáp:
      - Không! Em sắp lành bệnh rồi mà!
      Nhã Trúc thở dài:
      - Nếu giây phút cuối cùng của đời em mà được anh yêu thì em mãn nguyện biết bao! Anh có biết là em đã yêu anh không?
      Một câu nói như sóng vỡ bờ. Nàng đã sắp chết tôi có nên dấu diếm là mình cũng đã yêu nàng? Thế là tôi cúi xuống hôn nàng, nụ hôn của tôi như có một mãnh lực mang lại sinh khí cho đời nàng.
      Thật là lạ lùng, nàng bỗng nhiên hết bệnh. Tú Lâm vui sướng lắm nhưng lòng tôi thì buồn vui lẫn lộn. Vui vì thấy Nhã Trúc hết bệnh, nhưng hổ thẹn vì thấy mình đã phụ lòng Tú Lâm.
      Tôi đăm đăm nhìn giáo sư Nghị. Trong hỏa lò có một hòn than sống, khói tung lên làm đỏ mắt tôi.
      Giáo sư Nghị lại tiếp:
      - Đứa con gái mới sinh ra chiếm hết tâm hồn của Tú Lâm. Con bé thật khỏe thật đẹp mà chúng tôi đặt tên là Khởi Khởi.
      Trong lúc Tú Lâm bận rộn vì con nhỏ thì tình cảm giữa tôi và Nhã Trúc bước vào một giai đoạn mới. Điều này thật khó giải thích, có lẽ là do vẻ yếu đuối, bệnh hoạn của nàng đã làm khơi dậy trong lòng tôi bản năng bảo vệ.
      Nhã Trúc hoàn toàn khác Tú Lâm, nàng lúc nào cũng đòi hỏi sự che chở. Phải chăng tình cảm tôi lúc ấy đã có sự pha trộn giữa tình yêu và sự thương hại?
      Dầu câu chuyện này đã xảy ra cách đây 20 năm, hôm nay trước mặt các con của Tú Lâm và Nhã Trúc, tôi vẫn thành thật mà nhận rằng đối với Tú Lâm tôi khâm phục nàng, nhưng đối với Nhã Trúc thì tôi yêu nàng...
      Thay đổi thế ngồi, tôi kín đáo ngắm Hạo Hạo và Khởi Khởi. Nét mặt của Hạo Hạo băn khoăn, đôi chân mày hắn chau lại, gương mặt Khởi Khởi càng lúc càng trắng bệch thêm.
      Giáo sư Nghị kể tiếp:
      - Như điều Ức My đã nói, Nhã Trúc chỉ là một cây Thố Ty Hoa một khi rễ đã bám sâu vào cây Tòng là không thể dứt ra được, trừ trường hợp ta muốn nó chết đi.
      Mối tình của Nhã Trúc đối với tôi cũng thế, nó giống như những chiếc rễ đã bám sát vào thân, mặc dù biết đó là tội lỗi, là lầm lẫn, không thể tha thứ được, nhưng vẫn không dứt được. Tình yêu khi đã phát sinh thì không cách nào ngăn chặn được. Tôi biết thế, biết rằng từ đây Nhã Trúc không thể nào rời xa tôi được nữa, trừ phi nàng chết đi. Còn riêng tôi thì cũng thế, tôi không thể chống đối lại được sức quyến rũ trước sắc dẹp và tình yêu của nàng, thế là tôi đã trở thành một người đàn ông phản bội.
      Nhưng tội cho vợ tôi! Nàng vẫn ngây thơ trung hậu, không biết rằng nàng công chúa Bạch Tuyết kia đã chiếm đoạt chồng của nàng!
      Thế rồi Nhã Trúc lại thụ thai. Chuyện bí mật kia không thể dấu diếm được nữa. Khi Nhã Trúc mang thai thì nàng bệnh nặng, y sĩ cho biết là nàng đã thụ thai 3 tháng, chuyện đã như thế này tôi biaếng thở d´ng dấu uột. Tiếng than của ai đó? Phải chăng là oan hồn người đã mất? Bóng cây l của Tú Lâm nhìn tôi lúc đó. Tôi nghĩ rằng bản tính của Tú Lâm rất khoan dung quảng đại, sẽ tha thứ cho tôi và Nhã Trúc, nhưng không ngờ khi nghe xong nàng nổi giận, nàng đi ngay vào phòng Nhã Trúc.
      - Tim cô đâu rồi hở? Tim cô đâu mang ra cho tôi xem. Cô em gái yêu quí của tôi, để tôi xem cô còn trái tím hay đã mất!
      Nhã Trúc chỉ biết khóc, nàng cứ khóc mãi. Tôi đứng giữa cảnh này không biết phải đối phó ra sao? Thế nhưng tôi vẫn không quên nuôi hy vọng là để cho Tú Lâm trút cả cơn giận dữ ra ngoài như thế này, nàng sẽ bớt đau khổ đi và sẽ dễ tha thứ cho chúng tôi hơn.
      Buổi sáng hôm sau, chúng tôi khám phá ra là Tú Lâm đã bỏ đi. Nàng để Hạo Hạo lại và bồng theo đứa con gái chưa đầy 5 tháng. Chúng tôi tìm thấy một mảnh giấy nhỏ.
      Tôi nuôi một con chó, nó còn biết thân thiện quấn quít tôi, nuôi một con khùng nó còn nghĩ đến ân nghĩa. Thế mà lần này tôi đã nuôi một con người không có trái tim và nó đã phản tôi. Trong suốt cuộc đời này, tôi mong rằng sẽ không bao giờ nhìn lại khuôn mặt các người nữa. Nếu có gặp lại chăng đó chẳng qua chỉ để đòi món nợ khó quên này mà thôi
      Ký tên
      Tú Lâm
      Khi Tú Lâm bỏ đi rồi, chúng tôi đã đi tìm khắp nơi và nghe ngóng mãi vẫn không ra.
      Giáo sư Nghị ngừng lại một lúc. Tất cả gian phòng yên lặng. Gió bên ngoài thổi mạnh, ánh trăng sáng ngà. Bóng cây chập chờn trên kính và văng vẳng đâu đây những tiếng thở dài não nuột. Tiếng than của ai đó? Phải chăng là oan hồn người đã mất? Bóng cây lay động trong gió vi vu, tim tôi như se thắt.
      Quay nhìn ông Nghị, ông đương trầm tư nhìn vào hỏa lò, ánh lửa như nung đỏ cả khuôn mặt ông. Ông tiếp:
      - Tôi biết bản tính Tú Lâm, một khi đã ra đi nàng sẽ không bao giờ trở lại.
      Nhã Trúc từ khi va phải thảm kịch này, bệnh cũng bắt đầu tái phát, thần kinh nàng rối loạn, lúc nào nàng cũng lập đi lập lại:
      - Anh có thấy là em không có trái tim chăng? Em có thật là đứa con gái đánh mất lương tâm chăng? Thật chăng?
      Tôi cho mời bác sĩ đến, nàng lần lần phục hồi, nắm lấy áo tôi khóc:
      - Anh đừng bỏ em nhé anh, đừng bỏ em! Em không hề cướp anh của chị ấy, chỉ tại lòng em quá yếu mềm.
      Tôi đã mất Tú Lâm thì không thể nào tôi để cho Nhã Trúc bị mất luôn, nên tôi đã chìu chuộng, chăm sóc Nhã Trúc thiệt tình. Chẳng bao lâu, nàng sinh hạ một gái. Để nhớ đứa con gái mà tôi đã đánh mất, tôi đã đem cái tên Khởi Khởi kia đặt cho nó.
      Ông quay nhìn Khởi Khởi:
      - Đứa bé sau này chính là con.
      Rồi quay sang Trung Đan:
      - Còn đứa bé trong hình là Ức My.
      Ngưng lại một lúc như để cho qua cơn xúc động, ông Nghị tiếp:
      - Từ đó, bệnh của Nhã Trúc lúc lành lúc phát, mỗi lần nhìn những vật dụng của Tú Lâm để lại nàng đều xúc động phát bệnh lại. Vì thế, tôi đã cho người mang đi hết tất cả những loài vật mà Tú Lâm đã nuôi, chỉ còn để lại Gia Gia, vì nó không thể tự sinh sống được, và tôi nghĩ nó là công trình mà Tú Lâm đã để hết tâm trí dạy dỗ, nên tôi không thể nào đuổi nó đi.
      Chúng tôi sống tại Trùng Khánh cho mãi đến năm Dâm Quốc thứ 38 thì sang Hồng Kông.
      Tại đây, tôi cũng cho người dò la tin tức của Tú Lâm và được biết nàng đã lập gia đình khác. Năm năm trước tôi dọn đến Đài Loan, mà mãi đến năm ngoái mới nhận được thư của Tú Lâm nói con đã lớn và nàng sắp chết, mong tôi sẽ nuôi dưỡng nó để nó tiếp tục học đến khi tốt nghiệp Đại Học. Nhận được thư, tôi vội cho người đi dò la tin tức khắp nơi để tìm cho gặp Giang Tú Lâm. Chưa tìm được thì con đã đến.
      Tôi thút thít khóc, lấy khăn tay chậm chậm nước mắt, nhưng nó trào ra mãi không thôi. Tôi không còn biết nói gì nữa, trong màn lệ hình như tôi đã thấy được khuôn mặt của người mẹ đáng thương của tôi hiện ra, bóng dáng đau buồn, nghèo khổ của người trên giường bệnh.
      Trời ơi! Mẹ tôi sao khổ sở, nghèo nàn như vậy. Đến cả giờ phút lâm chung sao người vẫn không chịu hở môi cho tôi biết cuộc đời của tôi ra sao? Mẹ ơi! Mẹ!
      Giáo sư Nghị hạ thấp giọng xuống, ông nói tiếp:
      - Những việc xảy ra sau đó, tôi không cần nói chắc các người cũng đã hiểu được rồi. Hạo Hạo! Con không nhìn ra đứa em gái cùng cha cùng mẹ với con sao? Chúng con đã có một người mẹ thật cao cả. Đó là lý do tại sao cha lúc nào cũng phản đối, ngăn cấm tình yêu của con và Ức My, con đã hiểu chưa? Bản tính của con lãng mạn hơn cả cha thuở xưa nữa nên cha phải đề phòng tội lỗi. Riêng Nhã Trúc, nàng đã bị Ức My làm kinh hoảng, vì lúc nào nàng cũng tưởng rằng con là người thay thế mẹ đến đòi nợ nàng. Nhưng, Ức My! Nàng sẽ không hại con đâu, vì Nhã Trúc yếu ớt và hiền lành lắm. Suốt 20 năm nay, sự dày vò và cắn rứt của lương tâm đã làm cho Nhã Trúc đau khổ khôn cùng. Nhìn thấy con, nàng vừa sợ lại vừa thẹn, nên lúc nào cũng muốn thân thiện với con, nhưng cũng luôn đối kháng con, cộng thêm chứng bệnh thần kinh luôn thay đổi, sợ con cướp lấy Trung Đan của Khởi Khởi khiến nàng đã không biết làm cách nào để đối xử với con.
      Tôi khóc không thành tiếng, không cần biết ai là giáo sư La Nghị, ai là bà Nghị nữa, mà có thật bà ta xứng đáng là bà Nghị chăng? Tôi cũng không cần Hạo Hạo và Khởi Khởi. Bây giờ tôi chỉ còn biết có mẹ tôi, người mẹ đáng thương biết chừng nào. Trong suốt câu chuyện vừa qua tôi thấy người là kẻ bị hy sinh một cách tội nghiệp. Mẹ tôi có tội gì đâu mà phải chịu đau khổ suốt cả cuộc đời? Có phải vì người đã phạm lỗi cứu một người con gái bất hạnh chăng? Nghĩ đến cuộc sống nghèo khổ, nhịn nhục và mái nhà lụp xụp mà mẹ con tôi phải sống trong suốt những năm dài, những bữa cơm đạm bạc và chứng bệnh củe mẹ. Nếu không khổ sở nghèo túng thì mẹ tôi làm sao chết sớm như thế? Thật là cả một sự bất công!
      Giáo sư Nghị lại tiếp:
      - Hôm nay tôi đã kể rõ tất cả sự thật, tôi không cần biết các người nghĩ sao về tôi, về Nhã Trúc, về Hạo Hạo và Khởi Khởi. Chỉ mong mỏi một điều là tôi đã bị mất một người con gái trong những ngày qua, bây giờ nó đã về đây, thì nó không phải là đứa ăn nhờ ở đậu mà là đứa con như tất cả nhưng đứa con khác của tôi trong gia đình này. Nó phải có địa vị và thân thế bình đẳng với những đứa khác. Tôi mong rằng Hạo Hạo sẽ nhìn lại đứa em gái của mày, cũng như Khởi Khởi nhìn lại người chị của con...
      Lời nói của giáo sư Nghị chưa dứt, thì Hạo Hạo đứng bật dậy làm ngã chiếc ghế hắn vừa ngồi, rồi hắn cười lớn, nụ cười xúc động nghe thật bi thương trong đêm vắng:
      - Ha Ha! Tại sao lại có một chuyện hoang đường như vậy xảy ra chứ? Ức My là em ruột của tôi? Rồi người đàn bà không thân thích kia lại là mẹ ruột của mình? Trời ơi! Ha! Ha! Ha! Ha! Thưa cha, thế giới này có phải là một thế giới điên loạn rồi chăng, hở ba? Ha! Ha.
      Nước mắt tràn ra má Hạo Hạo. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy hắn khóc. Đá chiếc ghế qua một bên, hắn bước ra cửa đi mất. Lời nói của Hạo Hạo đã làm tôi xúc động. Đứng lên nhìn giáo sư Nghị lệ tôi đầm đìa, tôi hét lớn:
      - Không! Không! Không! Tôi không muốn làm con của ông! Gia đình này đã mang đến cho tôi những gì? Ông đã cho tôi những gì? Trong lúc mẹ con tôi phải chịu sống một cuộc đời kham khổ, thì ông và người đàn bà kia ăn sung mặc sướng. Thế gian này sao bất công quá? Các người là những kẻ có tội, phải đền tội. Tôi không bao giờ muốn làm con của ông, không bao giờ!
      Giáo sư La Nghị sửng sốt:
      - Ức My!
      - Ông đừng gọi tên tôi nữa, tôi muốn ra khỏi nhà này vĩnh viễn, tôi hận ông, hận các người! Ông và người đàn bà kia, người đàn bà không có lương tâm, một thứ Thố Ty Hoa không biết cảm xúc!
      Tôi vừa khóc vừa chạy ra cửa, nhưng tôi đã chạy lộn cửa sang phòng ăn. Tiếng giáo sư Nghị phiá sau tôi đuổi theo khiến đầu óc tôi rối loạn, ruột gan tôi tan nát. Tất cả chạy ra ngoài vườn hoa, tôi không còn biết gì nữa.
      Phiá sau có tiếng người đuổi theo và tiếng gọi tên tôi. Mặc kệ họ tôi cứ chạy, vừa chạy vừa khóc, nước mắt tả tơi. Tôi không biết mình định chạy đi đâu, chỉ biết rằng khi nhìn thấy trước mặt là cây cối um tùm, tôi mới biết mình đang chạy về phiá rừng cây.
      Gió vi vu như than thở, bóng tối chập chờn như nhảy múa trước mặt. Tôi hoảng hốt chạy bừa vào, mặc cho cành lá quất vào mặt. Bỗng nhiên, thân tôi như chạm phải một vật gì, khi tôi đụng nó văng qua một bên. Tôi đứng lại, hổn hển thở.
      Dưới ánh trăng leo lét xuyên qua cành, tôi thấy đôi giày vải trắng của người đàn bà. Tôi điếng người đứng sững lại. Vật đó bỗng quay lại đụng vào người tôi - một đôi chân treo thõng, tôi hốt hoảng nhìn lên, một tử thi của người đàn bà đong đưa trên cây Tòng. Sợ hãi, tôi hét to lên, tiếng hét của tôi xé tan màn đêm u tịch, rồi tôi ngã xuống, không còn biết gì nữa.
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #18
        Chương Kết

        Chương Kết

        Quân vi nữ oa thảo, thiếp tác Thố Ty Hoa.
        Khinh điều bất tự dẫn, vi trục xuân phong tà.
        Bá trượng thác viễn tòng, triền cẩm thành nhất gia.
        Thụy ngôn hội diện dịch. Các tại Thanh sơn dã.
        Nữ Oa phát khinh hương,Thố Ty Hoa đoạn nhân trường.
        Chi chi tương chấp kết, diệp diệp thanh phiêu dương
        Tạm dịch:
        Chàng là Nữ Oa Thảo, thiếp tựa Thố Ty Hoa
        Thân gây không tự dẫn, chỉ tại gió xuân đưa,
        Cách xa nhau trăm trượng, kết nhau thành một nhà.
        Người chân mây kẻ núi, gặp mặt đâu nào dễ
        Nữ Oa hương thơm ngát, Thố Ty cảnh đoạn trường,
        Cành cành ta xiết chặt, lá lá cùng reo vang.

        Một chiếc lá lìa cành rơi trên quyển Đường thi che khuất bài thơ Cổ Ý của Lý Bạch mà tôi đang đọc.
        Cầm chiếc lá tôi ngẩng nhìn thân cây Tòng cao vời vợi trên đầu với dây Thố Ty Hoa. Bây giờ là mùa hạ, những đóa Thố Ty Hoa đang nở trắng rung rinh theo từng cơn gió nhẹ đưa. Nhìn cành Thố Ty rồi thân Tòng, tôi có một so sánh lạ lùng, cành Thố Ty Hoa thì yếu ớt trong lúc thân cây Tòng to lớn, vững chắc, sự cảm động làm tôi ngẩn ngơ.
        Một cành cây nhỏ chạm vào mặt khiến tôi giật mình nhìn lại, thì ra Trung Đan đang đứng trước mặt tôi từ lâu. Tôi hỏi:
        - Bức tranh anh vẽ xong chưa?
        Chàng cười nói:
        - Xong rồi. Một bức vừa ý nhất!
        Tôi quay về phiá giá vẽ:
        - Có thật không đấy? Anh vẽ gì đó?
        Chàng mang bức tranh lại cho tôi. Chàng vẽ cảnh một khu rừng với một cô gái đang ngồi tư lự trên phiến đá, trên gối thiếu nữa có một quyển sách đang mở, tầm mắt cô ta hướng về phiá những chùm hoa trắng trên cao.
        Trung Đan hỏi:
        - Anh chọn cho bức họa này cái tên “Suy Tư” được không em?
        Tôi không đáp câu chàng hỏi, chỉ nói:
        - Anh vẽ em đấy à?
        Trung Đan dẹp bức họa sang bên, chàng ngồi xuống nắm tay tôi:
        - Em nghĩ gì thế?
        - Nghĩ về Thố Ty Hoa.
        - Em còn nhớ đến chuyện xưa sao? Đã hơn nửa năm rồi, em cũng nên dẹp những hình ảnh kinh hoàng ấy vào ký ức đi chứ?
        - Em phải nghĩ đến những chuyện ấy.
        - Thế em còn hận bà ta ư?
        Tôi hiểu ý chàng muốn nói bà ta đây là ai, chàng muốn ám chỉ bà Nghị - không, không phải thế, mà là muốn ám chỉ Nhã Trúc.
        - Bà ấy đã đem cái chết chuộc tội, người đã chết rồi chúng ta cần phải tha thứ tất cả, quên hết tất cả phải không em? Trung Đan tiếp.
        Tôi nói:
        - Tại sao bà lại chọn cây Tòng quấn đầy Thố Ty Hoa này để treo cổ? Phải chăng bà ấy muốn đem Thố Ty Hoa để so sánh với thân phận chính mình? Em còn nhớ lần nói chuyện với bà ấy về Thố Ty Hoa, bà ta nói nếu lúc mới sinh ra đã là Thố Ty Hoa thì làm sao có thể cãi lại mệnh trời cho được? Đó chính là bi thảm của đời Nhã Trúc.
        Thở thật dài, tôi tiếp:
        - Thật ra bà ta cũng không có lầm lỗi gì lắm, chẳng qua trời trót sinh ra bà ta với một thân phận Thố Ty Hoa.
        Trung Đan hôn tôi, chàng nói:
        - Em đã nghĩ đúng, tha thứ là một bản tánh tốt. Em tôi đẹp quá!
        Tôi nói:
        - Có lẽ bà ấy đã có ý định treo cổ từ lâu rồi, vì sự dày vò ray rứt của lương tâm này còn có thể quật ngã một người khỏe mạnh, nói chi bà ấy đã yếu sức, có lẽ chuyện người treo cổ trong khu rừng này đã gợi ý bà ta. Lúc trước em thường nhìn thấy bóng người, tiếng than khóc tỉ tê có lẽ đều là của bà ấy phải không anh?
        - Anh cũng nghĩ thế.
        Tôi thở dài:
        - Một cành Thố Ty Hoa! Lúc nãy trong khi em đọc bài Cổ Ý của Lý Bạch, em nảy ra một ý nghĩ so sánh lạ lùng. Lúc trước, em thường đem Thố Ty Hoa để so sánh với bà Nghị, cây Tòng để so sánh với giáo sư La Nghị, nhưng bây giờ em thấy cây Tòng đúng ra phải là mẹ em, còn giáo sư Nghị là cây Nữ Oa Thảo. Nữ Oa Thảo và Thố Ty Hoa đã nhờ thân cây Tòng làm mai mối để kết thành lương duyên. Họ đã nhờ mẹ em để trở nên gia thất. Mẹ em là kẻ lẳng lặng hy sinh để mang hạnh phúc lại cho họ.
        Trung Đan nói:
        - Một so sánh hợp thời, nhưng tại sao em mãi gọi giáo sư La Nghị là giáo sư mà không là...
        - Em không quen miệng anh ạ.
        - Thử xem, Ức My. Ông ấy thương em, vả lại. ông ta cũng...cô đơn hết sức.
        - Khởi Khởi đến kìa!
        Tôi làm lãng. Thật vậy, Khởi Khởi đang vui vẻ chậm rãi bước về phiá chúng tôi, trên tay có một phong thư.
        Suốt nửa năm nay, cô ta là người thay đổi nhiều nhất trong gia đình họ La này. Như được sống lại từ sau cái chết của bà Nghị, những nét xuân của nàng đã vươn lên để đối đầu với cuộc sống thực tế. Khởi Khởi không còn là một cành Thố Ty Hoa mà nàng đang là một nhánh Kinh Thảo rắn chắc. Nhìn sự tranh đấu cố gắng vương lên từ trong cơn mưa bão của Khởi Khởi, lòng tôi bỗng đâm ra kính phục nàng. Chỉ nửa năm vừa qua, tôi mới thật sự là một người bạn, một người chị của Khởi Khởi mặc dù bản tính của chúng tôi vẫn còn khác biệt nhưng chúng tôi cố gắng, cố gắng để chìu chuộng nhau.
        Khởi Khởi đến gần gọi to:
        - Anh Trung Đan ơi! Có thơ của anh cả gởi cho anh nè, mở ra xem nhanh đi.
        Trung Đan vừa mở thư vừa cười. Tôi hấp tấp:
        - Sao? Anh ấy thế nào hở anh? Anh ấy viết gì đấy?
        - Để anh đọc lớn nhé. Rồi chàng đọc: - Hãy báo cho Ức My biết, tôi đã lên tàu ra khơi sống đời tự lập. Ở nước ngoài cái gì cũng đẹp cũng hay, nhưng lại thiếu tình gia đình, thiếu cả những cãi vã lẩm cẩm khiến tôi buồn hết sức. Nơi nào cũng tấp nập nhưng quá chật hẹp, muốn tìm một chiếc sân nhỏ để trượt băng cũng không có, thành ra thấy nhớ chiếc sân ciment cũ và chiếc vườn hoa rộng của mình ghê đi. Không biết ngày nào mới trở về được, có lẽ lúc ấy Ức My đang tập cho chú Trung Đan con hay cô Ức My nhỏ trượt băng rồi không chừng. Có dạy thì dạy cho hay nhé! Chứ đừng để giống mẹ chúng để té cho gãy chân đi. Buổi sáng tuần trước, tôi tập chiên trứng, không ngờ tôi nhúng cả ngón tay vào mỡ chiên luôn. Nhưng nhờ thịt người ăn không ngon bằng trứng, nên rốt cuộc tôi chỉ ăn hết trứng chớ không ăn thêm ngón tay chiên. Tôi vừa làm quen được mấy cô gái, cô nào cũng đẹp. Một cô tóc hoa, hai cô tóc vàng, bốn cô tóc đen. Kết luận: chỉ có tóc đen là dễ thương, nhất là nếu người ấy là người xứ ta. Gần đây, người bạn gái thân nhất của tôi là một cô gái Mỹ. Chúng tôi rất hợp ý nhau, tôi thường đưa nàng về phòng tôi chơi. Có một hôm mưa gió lớn quá, nàng đành phải ngủ lại, chúng tôi đã hưởng một đêm tuyệt vời. Nhưng xin lưu ý quý vị là nàng ngay ngày hôm nay vừa đúng bốn tuổi ba tháng tròn. Khởi Khởi bây giờ ra sao? Nếu mà còn chưa chịu giao thiệp với bạn trai, chắc phen này tôi sẽ phải dẫn chồng về cho nó quá. Còn ba? Tôi mong rằng ông vẫn la hét như xưa, rất tiếc là việc ra đi của tôi đã làm cho ông mất đi một đối tượng để la hét! Cho hỏi thăm luôn Gia Gia và cả lũ súc vật của Ức My nữa nhé.
        Tôi và Khởi Khởi nghe xong đều bật cười, Trung Đan gấp thư lại, chàng nói:
        - Chỉ cần đọc thư là biết được người ra sao. Lúc nào cũng vậy chẳng thấy thay đổi gì hết.
        Tôi nói:
        - Nhưng anh ấy đã biết sống tự lập.
        - Ai tự lập?
        Một tiếng hỏi. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, thì ra là giáo sư La Nghị mái tóc bồng với hàm râu rối, đôi mắt già thẫn thờ buồn bã, chỉ nửa năm mà ông như đã già đi hơn 10 tuổi. Trung Đan đáp:
        - Thưa thơ của Hạo Hạo, giáo sư có muốn xem không?
        Ông lắc đầu, mắt khẽ chớp, giọng xúc động:
        - Thôi được rồi. Nhưng nó có khỏe không, có gặp tai nạn gì không?
        - Dạ anh ấy khỏe lắm, anh có hỏi thăm giáo sư nữa.
        Đôi mắt ông Nghị chớp nhanh:
        - Có thật vậy không?
        - Thật, anh ấy bảo mong rằng giáo sư sẽ sớm phục hồi bản tính la hét như xưa.
        - Hừ!
        Hàm râu ông hơi rung động, giáo sư Nghị cúi đầu xuống, khóe mắt ông rưng rưng lệ, ông nhìn tôi nói:
        - Ức My, tôi đã xem điểm giùm cho em.
        - Thế...Tôi kêu lên tim đập mạnh - Yếu lắm phải không giáo sư? Chắc năm nay không hy vọng rồi.
        Giáo sư Nghị chậm rãi nói, hình như ông đang hết sức cố gắng để ngăn bớt sự sung sướng của mình:
        - Em được ba trăm sáu mươi tám điểm, không có hy vọng đậu hạng nhất, nhưng có lẽ đậu khoảng hạng 3 hay hạng 4.
        Tôi sung sướng nhảy nhỏm lên hét to, quên hết tất cả dè dặt, tôi chồm người về phiá trước ôm chầm giáo sư Nghị, mặt tôi chạm vào hàm râu rậm, ngẩng ra xa một chút tôi nói:
        - Đến khi nào hàm râu đáng ghét này được cạo xén đi hở giáo...Cha?
        Tiếng cha vừa thoát khỏi miệng, bao nhiêu băn khoăn thắc mắc trong lòng tôi tan biến hết. Giáo sư Nghị - không phải. Cha tôi đang nhìn tôi, râu ông rung rinh từng cơn, mắt ông mờ lệ, miệng ông lẩm bẩm điều chi không rõ, một lúc lâu, một lúc thật lâu, chúng tôi đứng đó xúc động đến nỗi không nói gì cả, nhưng tim tôi như tràn đầy một thứ tình thương nào đó.
        Sau cùng, tôi nói:
        - Thưa cha con đã biết rồi.
        - Biết gì?
        - Biết cha, mẹ và Thố Ty Hoa. Cha là Nữ Oa Thảo, mẹ là cây Tòng, còn bà ấy là Thố Ty Hoa. Mẹ thật vĩ đại, thật cao cả, nhưng cha và bà ấy cũng không có lỗi lầm gì cả.
        Giáo sư Nghị mỉm nụ cười đau thương, ông đưa bàn tay lên vuốt mái tóc tôi:
        - Con là đứa con hiền hậu.
        Tôi cũng mỉm cười đầy nước mắt. Từ xa, tiếng hát của Gia Gia vang vọng theo gió:
        Chẳng phải là hoa, chẳng phải sương,
        Nửa khuya em đến, sáng em về.
        Đến như giấc mộng xuân không đợi,
        Đi tựa mây trời không định nơi.
        Đến như giấc mộng xuân không đợi, đi tựa mây trời không định nơi? Ý muốn nói gì đây? Một mối tình? Một cuộc đời? Giống như câu chuyện xảy ra giữa cha mẹ và Nhã Trúc chăng?
        Đó cũng là giấc mộng đêm xuân, một cụm mây trời buổi sáng. Dầu sao đi nữa, chuyện cũng đã qua rồi.
        Mặc dù cho hàng ngàn chuyện tình khác đang xảy ra trong thế gian này. Nhưng dù muốn dù không, nó cũng chỉ là những giấc mộng ngày xuân, hay những đám mây trời buổi sáng, rồi cũng sẽ trôi đi.


        Hết


        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment

        Working...
        X