Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Liêu Trai Chí Dị Bồ Tùng Linh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #76
    Ma Học Đàn - Hoạn Nương - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

    Ông như Xuân, con nhà dòng dõi đất Thiểm Tây, mê say đàn cầm từ nhỏ, ngày nào cũng luyện tập, dù đi đâu cũng không sao nhãng.
    Có lần chàng đi chơi Sơn Tây,qua một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng rẽ vào nghỉ cho đỡ mệt.Trên hành lang có một đạo sĩ mặc áo vải ngồi xổm ở đó, gậy trúc tựa vách, cây đàn đựng trong túi vải thêu bông. Xuân thấy đàn hợp ý bèn cất tiếng hỏi làm quen:
    - Đạo sị cũng sành nghề chơi này?
    Đáp:
    - Cũng chẳng sành. Chỉ mong gặp được bậc nào giỏi để học thêm.
    Vừa nói ông vừa mở túi lấy đàn đưa cho Xuân xem. Chàng thấy cây đàn có vân tuyệt đẹp, thử dạo một vài tiếng thấy trong ấm lạ thường, liền nổi hứng gãy luôn một khúc ngăn ngắn. Đạo sĩ nhếch mép có ý cho đó là chưa được. Xuân trổ tài luông một khúc khác nữa. Đạo sĩ khen gượng:
    - Cũng khá! Cũng khá! Nhưng chưa thể làm thầy ta được.
    Xuân nghe nói có vẻ khoe khoang, muốn xem tài thực, liền xin cho được nghe ông thử đàn. Đạo sĩ tiếp lấy đàn đặc trên đầu gối, vừa mới gãy vào dây tơ đã nghe như có gió mát thoảng đến. Khúc đàn rung lên thì có cả trăm thứ chim lượn tới, đậu kín trên cây trước sân chùa. Xuân sửng sốt kính phục, vội vàng sụp lạy xin được dạy bảo cho.
    Đạo sĩ đàn luôn ba lượt, chàng chăm chú nghe dần dần hiểu được khúc điệu. Đạo sĩ biểu chàng gảy lại chỗ nào sai thì uốn nắn cho. Cuối cùng ông nói:
    - Như thế là trần gian không ai sánh bằng anh rôì!
    Từ đó trở đi Xuân ra sức nghiền ngẫm tập dượt, tài đàn trở thành tuyệt giỏi.
    Sau đó chàng trở về quê, còn cách nhà mấy chục dặm thì trời tối bỗng mưa to, không biết nghỉ chân vào đâu. Nhìn quanh quất bên đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, chỉ thấy có một cái cửa ngỏ là bước luôn vào, đến tận nhà giữa vẫn thấy vắng tanh.
    Lát sau có một thiếu nữ độ mười bảy đến mười tám tuổi ở trong nhà đi ra, đẹp như tiên sa. Chợt thấy khách lạ, cô ta ù té chạy quay vào. Còn là trai tân, vừa nhìn thấy cô nàng, Xuân đã không kìm được lòng.
    Rồi một bà lão ra tiếp khách. Chàng xưng tên họ, xin ngủ trọ một đêm. Bà lão cho biết, trọ lại cũng được, chỉ hiềm nhà không có giường chõng gì cho khách, chỉ có thể trải một thứ gì xuống đất nghỉ tạm. Nói xong, bà lão thắp đèn bưng ra ôm cỏ khô rãi xuống đất. Thấy thái độ ân cần, niềm nở của bà, chàng liền hỏi họ tên để làm quen. Bà trả lời:
    - Già họ Tiêu.
    - Còn cô em lúc nãy là ai?
    - Đó là con gái nuôi của già, tên là Hoạn Nương.
    Xuân đánh bạo tán luôn:
    - Nếu cụ không chê tôi nghèo, tôi nhờ mối đến hỏi cô em có được không?
    Bà cụ lắc đầu:
    - Điều đó thì già không chìu lòng được.
    Xuân căn dặn vì sao? Bà chỉ đáp: Khó nói!
    Câu chuyện giữa chủ và khách đến đó chấm dứt. Bà lão vào nhà trong để khách đi nghỉ. Nhưng xem đến cỏ trải ổ thì ướt và mục không thể nào nằm được. Xuân đành ngồi gảy đàn cho qua đêm dài. Mưa tạnh, chàng từ giã chủ nhà ra về.
    *
    Trong làng có quan Lang trung họ Cát về hưu. Ông xưa nay vẫn quý những người có tài văn nghệ. Nhân đó Xuân tìm đến chơi. Ông Cát biết tài Xuân bảo gảy đàn cho nghe. Khi tiến đàn rung lên, thấp thoáng trong mành có bóng đàn bà con gái rình nghe. Một cơn gió thổi mạnh lay động bức mành. Xuân vội liếc mắt nhìn, thấy một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần. Đó chính là con gái chủ nhân tên là Lương Công, vừa giỏi văn chương từ phú lại nổi tiếng là bậc tiên nữ trong vùng.
    Chàng xiêu lòng, về thưa với mẹ cậy người đến hỏi, nhưng ông Cát chê nhà Xuân sa sút không chịu gả.
    Từ khi Lương Công được nghe Xuân trổ ngón đàn, lòng đã hâm mộ lắm, chỉ ước được nghe nữa. Song vì chuyện dạm hỏi không thành,Xuân phẫn chí không muốn lui tới nữa. Một hôm nàng ra vườn chơi, ngẫu nhiên nhặt được một tờ hoa tiên không còn mới lắm, trong có viết bài từ “Tiếc xuân thừa”. Nàng thích văn hay, ngâm ngợi ba bốn lần rồi đem vào buồng riêng, lấy vải hoa nền gấm chép cẩn thận thành một bản khác để trên án. Nhưng lạ quá, chỉ lát sau tờ giấy có bài từ ấy đã biến đâu mất. Nàng cứ ngỡ là gió thổi bay đi. Không ngờ ông Cát đi qua phòng ấy, nhặt được, tin là con gái làm ra. Thấy lời lẽ lẳng lơ, ông ghét lắm đem đốt đi mà không nói ra om sòm, chỉ mong mau chóng gả chồng cho con, khỏi ngại.
    Vừa lúc ấy quan Lưu Phương Bá ở làng bên đến dạm hỏi cho con. Ông Cát lấy làm ưng, song muốn đợi xem mặt chàng rể mới quyết. Hôm ấy Lưu công tử ăn vận cực kỳ sang trọng đến ra mắt. Ông Cát thấy công tử đẹp trai, ưng ngay, bày tiệc khoản đãi rất hậu hĩ. Khi công tử đứng dậy ra về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Ông Cát thấy vậy, phát ghét anh chàng này là kẻ bờm xơm, đàng điếm, liền nói bà mối đến nói rõ lý do không gả con gái cho nữa. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng ông Cát nhất định bỏ ngoài tai.
    Họ Cát có giống hoa cúc xanh, không truyền cho ai. Lương Công đem trồng một chậu cúc quý ấy trong buồng riêng. Và lạ thay vườn cúc nhà Xuân bỗng nhiên cũng nảy ra hai giò màu xanh. Mọi người nghe thấy đua nhau đến ngắm xem. Xuân coi như được của báu. Sáng hôm sau ra vườn hoa sớm, chàng nhặt được bên luống hoa một tờ giấy viết bài “Tiếc xuân thừa”. Không biết nó từ đâu tới chỉ thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, đọc đi đọc lại, suy ngẫm càng thấy làm lạ. Chàng liền đem về bàn, ra công tô điểm, bình luận, lời lẽ có phần thô lỗ.
    Nghe nói cúc nhà họ Ông biến ra màu xanh, ông Cát ngạc nhiên thân hành đến nhà học của Xuân để xem thực hư. Ngẫu nhiên trông thấy bài từ, ông cầm lấy toan đọc. Xuân chợt nhớ lời bình của mình trót lỡ sổ sàng không muốn cho ông xem, sợ mang tiếng, vội giàng vò nát. Ông Cát chỉ kịp lướt một hai câu thì đúng là bài từ ông đã nhặt được ở buồng con gái. Ông lấy làm nghi ngờ lắm. Lại cả giống cúc xanh, ông cũng nghĩ là con gái ông tặng cho Xuân không thì anh đào đâu ra?
    Về nhà ông nói chuyện với vợ, gọi Lương Công ra tra hỏi. Nàng khóc lóc kêu oan, xin chết để tỏ lòng thực. Mà nghĩ cho cùng việc chẳng có chứng cứ gì đích thực xác, tất cả chỉ là nghi hoặc, không rõ thực hư thế nào? Bà vợ sợ tai tiếng vỡ lở, bàn với chồng gả quách con gái cho Xuân là xong chuyện. Ông Cát đến lúc ấy cũng cho là phải, bèn nhắn tin cho chàng hay.
    Xuân bất ngờ mừng quá đỗi, ngay ngày hôm ấy mời bạn bè tới dự tiệc cúc xanh rồi đốt hương thơm gảy đàn cho tới khuya. Chàng về phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng trông coi nhà học nghe đàn cứ tự nhiên thánh thói kêu hoài. Ban đầu nó nghi hay là bọn tôi tớ trong nhà đùa giỡn. Sau thấy không phải, nó chạy vội đi báo với chủ.
    Chàng liền đến nhà học, quả thấy sự là đàn kêu, nghe kỹ thì tiếng đàn như cố bắt chước khúc mình chơi, nhưng âm điệu còn chưa chuẩn, chưa nhuyễn. Chàng lập tức cầm đèn xộc vào buồng học thì vẫn thấy vắng tanh không có ai, đem đàn đi, từ đấy mới im. Bấy giờ anh chàng mới nghi là hồ tinh, chắc là nó muốn học đàn. Từ đấy mỗi tối chàng gảy đàn một khúc rồi để đàn lại cho hồ tập, làm y như một thầy dạy đàn vậy.
    Hàng đêm chàng lại rình nghe qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã réo ráo xuôi tai.
    *
    Sau khi thành hôn, hai vợ chồng Xuân đọc lại bài từ bỏ rơi hôm trước mới biết cuộc hôn nhân được tác thành đầu mối từ đó. Song còn tại sao nó lại bay tới nhà Xuân thì không rõ. Về sau tiếng đàn tự nhiên kêu, Lương Công cũng rình nghe. Nàng đoán:
    - Không phải là hồ ly đâu. Nghe âm điệu não nùng ai oán lắm như có ma ở trong. Vậy chắc là ma.
    Xuân không tin. Lương Công khoe ở nhà mình có cái gương cổ có thể soi rõ ma quỷ. Một hôm, nàng sai người về lấy, rình một lúc tiếng đàn nổi lên, lập tức ập vào trong đưa gương chiếu rồi thắp đèn lên. Quả có người con gái đang luống cuống ở góc nhà, không trốn đi đâu được. Xuân nhìn thì chính là Hoạn Nương mà chàng đã gặp ở nhà trọ hồi nào. Chàng cả kinh gặng hỏi tại sao nàng lại ẩn náo nơi đây. Nàng rớt nước mắt đáp lại:
    - Thiếp làm mai mối cho chàng và tiểu thư nên duyên nên lứa, đâu phải không có chút công lao. Nay sao nỡ bức bách nhau quá vậy?
    Xuân bảo vợ đem cất gương nhưng giao hẹn Hoạn Nương đừng có vội biến đi. Hoạn Nương ưng thuận, ngồi xuống hơi xa mà kể:
    - Thiếp là con quan thái thú, sớm thiệt phận đã trăm năm nay. Còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh. Về đàn tranh thì đã tập được ít nhiều, chỉ còn đàn cầm thì chưa được học cho nên dù đã xuống suối vàng vẫn ấm ức mãi. Khi chàng tránh mưa, ghé vào trọ, trộm nghe được điệu đàn, lòng đã hâm mộ, say mê lắm. Chỉ thiệt phận mình là ma, không thể theo đòi nâng khăn sửa túi cho chàng được. Bởi vậy đã ngầm tính cách dun dủi cho chàng gá gá duyên được với nàng tài cao sắc đẹp, đặng báo đền chút tình đoái thương của chàng. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi và bài từ “Tiếc xuân thừa” bay đến, đều là do thiếp tạo ra. Việc báo ơn thấy học đến thế không phải là mệt trí tốn công!
    Vợ chồng Xuân nghe xong, rưng rưng cảm động, vội vàng vái tạ. Hoạn Nương tiếp:
    - Ngón đàn của chàng thiếp đã luyện được quá nửa rồi, chỉ còn chưa lột được hết tinh thần. Vậy phiền chàng gảy cho tập một lần nữa.
    Xuân nhận lời và vừa gảy mẫu vừa chỉ bảo cách thức, Hoạn Nương mừng lắm.
    Thiếp nhận được hết chỗ hay rồi. Nói đoạn định đứng dậy từ biệt.
    Lương Công vốn giỏi đàng tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường, bèn xin nàng gảy cho nghe. Hoạn Nương vâng ngay, tiếng đàn vừa rung lên, âm điệu thật tiêu tao réo rắt, cõi trần khó ai sánh kịp. Lương Công trầm trồ khen ngợi, xin Hoạn Nương truyền bảo lại cho. Nàng lấy bút ghi lại bản đàn thành mười tám chương, xong rồi đứng dậy cáo biệt.
    Cả hai vợ chồng Xuân cùng cố giữ lại. Giọng Hoạn Nương buồn thảm:
    - Chàng và tiểu thư nên duyên cầm sắt tức là bạn tri âm của nhau. Thiếp là kẻ bạc phận có đâu được hưởng phúc ấy. Nếu có duyên trời gặp gỡ thì họa may sum họp kiếp sau.
    Nói xong lấy ra một cuốn giấy đưa cho Xuân và nói:
    - Đây là bức hình của thiếp. Nếu như không quên bà mối thì xin đem treo ở buồng nằm. Khi nào khoái ý, đốt nén hương thơm, gảy một khúc đàn, tức là thiếp được hưởng vậy.
    Nói dứt, bước ra khỏi cửa biến mất.
    NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #77
      Lớp Học ma - Tiểu Tạ - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

      Nhà quan bộ lang họ Khương ở phía Nam sông Vị, có nhiều ma quỷ thường hiện hình nhát người. Vì thế ông phải dọn nhà đi, chỉ để lại người đầy tớ trông coi. Người ấy bị ma làm chết, thay người khác cũng bị chết nốt, cho nên nhà đành phải bỏ hoang.
      Trong làng có một người học trò, tên là Đào Vọng Tam, tính tình phóng khoáng, ưa gần con hát, son cứ rượu ngà ngà là bỏ về. Bạn bè bảo đào hát chạy theo kéo lại, chàng cười mà không cưỡng, song dù có ở lại cả đêm chàng cũng không mảy may đụng chạm đến gái. Chàng thường ngủ nhà quan Bộ lang, có cô hầu gái đến gạ gẫm hiến thân, nhưng chàng cương quyết cự tuyệt không làm điều dâm loạn. Ông Bô lang thấy thế càng quý trọng.
      Nhà Đào vốn nghèo, vợ lại chết, mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không thể chịu nổi. Vì thế chàng nói với quan Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà hoang. Ông Bộ lang từ chối, nói thực là nhà có ma không ở được. Đào liền làm bài văn: Lại luận về không có ma đưa cho ông bộ lang còn nói thêm: “Ma làm được gì mà sợ”. Bộ lang thấy chàng cứ cậy cục mãi như thế cũng đành phải bằng lòng.
      Chàng dọn đến căn chính sảnh, mới chập tối vừa để quyển sách ở giữa bàn, trở về nhà cũ lấy đồ vặt khác thì quyển sách đã biến đâu mất. Chàng lấy làm lạ, nằm ngửa trên giường, lặng lẽ chờ xem có sự gì xảy ra. Chỉ một lát đã nghe thấy tiếng giày dép loẹt quẹt, hé mắt nhìn thấy hai cô gái từ trong buồng đi ra, đem theo quyển sách vừa mất lúc nãy để lên bàn. Một cô ước chừng hai mươi tuổi, một cô khoảng mười bảy đến mười tám tuổi đều xinh đẹp cả, cứ đứng quanh quẩn bên giường trông nhau mà cười. Chàng nín lặng không động cựa. Cô lớn gác một chân lên bụng chàng, cô nhỏ bưng miệng cười khúc khít. Đào thấy rạo rực không cầm lòng đặng, nhưng lập tức suy nghĩ đứng đắn trở lại, cuối cùng không đoái tưởng đến. Cô gái sáp gần lại, tay trái vuốt râu, tay phải khẽ vỗ lên trán, lên má chàng bem bép. Cô nhỏ tuổi càng cưòi tợn. Đào không chịu được, bật dậy quát:
      - Lũ quỷ, sao dám hỗn xược như thế?
      Hai cô gái hoảng sợ, ù té chạy biến mất. Đào ngại bị quấy nhiễu suốt đêm, đã muốn quay về nhà cũ song lại xấu hổ vì đã nói cứng, cho nên đành phải khêu đèn ngồi đọc sách. Trong các mảng tối, bóng ma vẫn chập chờn song chàng cứ làm ngơ , không dòm tới.
      Gần nửa đêm chàng cứ để đèn đi nằm. Vừa mới nhắm mắt đã thấy có vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi làm chàng hăt hơi ầm lên. Trong bóng tối có tiếng cười khe khẽ. Đào vẫn chẳng nói chẳng rằng, giả bộ ngủ say xem chúng còn giở trò gì khác nữa.
      Một lúc đã thấy cô nhỏ lấy tự quấn ngay vào bắp vế, lò dò tới gần, Đào nhổm dậy quát ầm lên, họ lại chui lũi trốn mất biệt, vừa chợp mắt, lỗ tai lại bị ngoáy, cứ thế suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi có gà gáy sáng, Đào mới được yên mà ngủ một giấc.
      Cả ngày không nghe thấy chuyện gì lạ, nhưng không mặt trời vừa lặn, ma lại hiện hình. Đào bèn nấu cơm về đêm để thức luôn tới sáng. Cô lớn xếp chân bằng tròn tót lên ghế nhìn chàng đọc, rồi đột nhiên thò tay bịt lấy sách. Đào tức quá nắm lấy thì ma đã vụt biến mất. Chỉ có một lát lại bò ra, lại cầm lấy sách. Đào phải lấy tay chặn quyển sách mới đọc nổi. Còn cô bé thì lùi tới sau lưng Đào, lấy hai tay bịt mắt chàng rồi chạy vụt ra xa đứng nhăn nhở cười. Đào tức quá trỏ vào mặt mà mắng rằng:
      - Đồ quỷ con! Ta mà bắt được ta giết chết cả đôi.
      Nhưng hai cô gái vẫn cứ nhơn nhơn không sợ. Nhân vậy Đào mới đùa rằng:
      - Thôi, cái trò lăn lóc chiếu giường đây không có màng đâu, các cô ghẹo tôi chỉ vô ích.
      Hai cô mủm mỉm cười, quay mình vào bếp, kẻ chẻ củi kẻ vo gạo giúp Đào nấu cơm. Đào ngó vào khen:
      - Hai cô cứ làm như thế chẳng hơn là trêu cợt tôi ư?
      Lát sau cơm chín, lại tranh nhau lấy thìa đũa, bát đĩa bày đặt lên bàn. Đào nói:
      - Cám ơn hai cô đã phục dịch, lấy gì để đền đáp công đức sau đây?
      Cô gái lại cười nói dọa:
      - Cơm có thuốc độc đấy, cẩn thận kẻo chết!
      Đào đối lại:
      - Xưa nay tôi với các cô có hiềm oán gì nhau, đâu nỡ hại nhau đến thế!
      Đào vừa ăn hết bát cơm này đã có đầy bát khác, hai cô cứ giành nhau qua lại đơm tiếp cho chàng. Đào cũng lấy việc đó làm vui, quen đi thành thường lệ. Ngày lại ngày dần dần quen thân, cùng ngồi nói chuyện phiếm. Đào hỏi đến họ tên. Cô lớn thổ lộ:
      - Em họ Kiều tên Thu Dung. Con bé kia họ Nguyễn tên Tiểu Tạ.
      Lại tỉ tê hỏi từ đâu đến nương tựa chốn này. Tiểu Tạ cười ranh mãnh:
      - Anh chàng ngốc ơi! Đến thân thể còn chẳng dám lộ cho người ta thấy, ai mượn anh hỏi đến nhà cửa, gia thế, ý chừng muốn cưới xin hay sao?
      Đào giữ nét mặt nghiêm trang, đáp lại:
      - Đối diện với người đẹp, bảo tôi làm sao vô tình cho được.Song vì âm khí nặng nề, người trần gian động vào tất chết. Vậy thì nếu ở chung với nhau không vui thì nên mỗi người một nẻo. Nếu ở chung với nahu mà vui thì ai yên phận nấy. Nếu như tôi không được yêu thương thì đâu dám xúc phạm đến hai cô? Ví bằng tôi được yêu thương thì can chi hai cô đi giết anh chàng cuồng si?
      Hai cô nhìn nhau có vẻ cảm động. Từ đó trở đi không nỡ đùa nghịch quá quắt nữa. Song thỉnh thoảng vẫn thọc tay vào bụng Đào tụt quần chàng xuống đất, chàng cũng bỏ qua, không lấy làm điều.
      Một hôm chàng đang chép sách dang dở thì có việc phải đi ra ngoài, đến lúc trở vào đã thấy Tiểu Tạ lúi cúi trên bàn cầm bút chép tiếp. Thấy Đào về, cô ta buông bút, cười bẽn lẽn. Đào lại gần xem, tuy chữ còn chưa đẹp nhưng hàng lối ngay ngắn, liền tấm tắc khen:
      - Cô viết khá đấy! Nếu cô thích tôi sẽ dạy cho.
      Nói rồi ôm Tiểu Tạ vào lòng, cầm lấy tay mà dạy viết chữ. Thu Dung bất ngờ từ ngoài vào, hơi biến sắc mặt vẻ như ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:
      - Thuở bé em thường được cha dạy viết, nay bỏ lâu ngày cầm bút nó cứ mơ mơ màng màng thế nào ấy?
      Thu Dugn vẫn không nói gì. Đào biết ý nhưng giả tảng như không biết, cũng ôm Thu Dung trao cho cây bút mà bảo:
      - Để tôi xem cô có viết được không nào?
      Đoạn cầm lấy tay Thu Dung đưa đẩy được mấy chữ rồi đứng dậy bảo:
      - Nét bút cô Thu khá lắm đấy!
      Thu Dung lúc này mới nở nang mày mặt. Đào liền rọc hai tờ giấy làm tờ phóng, giao cho hai cô cùng tập viết, còn chàng châm một ngọn đèn khác ngồi đọc. Chàng lấy làm mừng vì ai có việc nấy không còn quẫy nhiễu nhau nữa. Khi viết xong, hai cô kính cẩn mang đến bàn nhờ Đào chỉ bảo. Trước đây Thu Dung chưa được đi học, chữ viết còn nguệch ngoạc chưa ra chữ, không được đánh giá không bằng Tiểu Tạ thì có ý thẹn, Đào phải an ủi khích lệ mãi, Thư mới lấy lại được vẻ thường.
      Từ đó, hai cô gái coi Đào làm thầy, khi ngồi thì gãi lưng, khi nằm thì xoa bóp cẳng, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Được mấy tháng chữ viết của Tiểu Tạ ngay ngắn đẹp đẽ, Đào buột miệng khen. Thế là Thu Dung xấu hổ tủi thân quá, nước mắt ròng ròng. Chàng phải đủ lời khuyên giải mới nguôi.
      Sau đó, Đào dem sách ra dạy học, cả hai đều thông minh lạ thường, chi bảo một lượt là nhớ, không bao giờ hỏi lại lần thứ hai. Thế là thầy trò thi nhau đọc sách, thường suốt cả đêm. Tiểu Tạ còn dẫn cậu em trai là Tam Lang đến xin học. Cậu ta tuổi chừng mười lăm đến mười sáu, khá điển trai, mang cái móc vàng đến làm lễ nhập môn. Đào xếp cho Tam Lang học cùng lớp với Thu Dung. Thế là từ đó tiếng đọc sáchrâm ran cả cửa. Đào trở thành thầy đồ một lớp học toàn ma. Ông Bộ lang nghe tin đó mà mừng, thỉnh thoảng lại cấp cho gạo củi.
      Được vải tháng Thu Dung và Tam Lang đã biết làm thơ, thi thoảng lại xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn Đào đừng có dạy cho Thu Dung, chàng gật đầu. Thu Dung bảo đừng dạy cho Tiểu Tạ, Đào cũng ừ.
      Đến một hôm Đào phải lên trường thi, hai cô gái khóc tiễn biệt. Tam Lang can thầy:
      - Thầy nên cáo ốm đừng đi. Nếu không, chuyến này có thể gặp điều chẳng lành.
      Đào không nghe, cho rằng cáo ốm trốn thi là một điều nhục.
      Nguyên là chàng hay làm thơ đả kích việc thời sự, động chạm đến bậc quyền qúy trong huyện. Họ vẫn ngày đêm tính chuyện hãm hại nhân dịp liền hối lộ các quan học chính để vu cáo chàng hạnh kiểm không tốt, bắt bỏ ngục. Tiền lưng hết sạch, chàng xin ăn các bạn bè, tự nhủ phen này thôi thế là hết đường sống. Bỗng có một bóng người lọt vào buồng giam, nhìn ra thì đúng là Thu Dung. Nàng đem cơm gạo cung đốn cho chàng. Hai người nhìn nhau tấm tức khóc ròng. Nàng bảo:
      - Tam lang đã lo chàng gặp chuyện chẳng lành, nay quả không sai. Tam Lang cùng đi với em, nay nó đội đơn đến pháp ty kêu oan rồi.
      Nàng chỉ nói qua loa dăm câu ba điều rồi quay ra, không ai trông thấy cả. Hôm sau, quan hình bộ đi xe ra ngoài, Tam Lang đón đường kêu oan, quan thu lấy đơn. Thu Dung lại vào ngục báo cho chàng, quay ra để thăm dò tin tức, nhưng ba ngày sau không trở lại nữa. Đào lòng buồn bụng đói, một ngày đằng đẳng như thể năm trường. Bỗng Tiểu Tạ đến, mặt buồn rười rượi, tưởng không còn gượng được nữa. Nàng báo tin dữ:
      - Thu Dung hôm ở đây trở về, qua miếu Thành Hoàng bị viên phán quan mặt đen bắt, cưỡng bức làm vợ bé, Thu Dung không chịu nay cũng bị nhốt ngục tối. Em lặn lội suốt trăm dặm đường, mỏi mệt tưởng chết. Đến cửa Bắc lại bị gai già đâm giữa gan bàn chân, đau thấu xương, e rằng không thể đến đây lần nữa.
      Nói rồi chìa chân cho Đào coi, máu me bê bết. Nàng đưa cho Đào ba lạng vàng rồi khập khiễng biến mất.
      Quan hình bộ xét đến việc Tam Lang khiếu nại, cho rằng Tam Lang chẳng có họ hàng thân thích gì với bị can, vô cớ kêu oan hộ thế là trái lý, liền bắt nọc ra đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm kỳ dị, xem đến đơn khiếu oan thấy lời lẽ bi thiết, liền sai giải Đào ra công đường xét hỏi Tam Lang là người thế nào. Đào giả như không biết. Quan hình bộ biết là oan, thả cho chàng ra.
      Đào trở về nhà, suốt đêm chẳng thấy một ai. Mãi lúc tàn canh mới thấy Tiểu Tạ tới, rầu rĩ báo:
      - Tam Lang ở công đường ra, bị thần coi giữ công đường bắt giải xuống âm ty. Diêm Vương thấy Tam Lang là người nghĩa khí, cho thác sinh vào nhà giàu sang trên dương thế. Còn Thu Dung vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu tới thành hoàng thì bị ngăn trở không vào được, nay làm thế nào đây?
      Đào nổi giận:
      - Thằng quỷ đen, sao dám bạo ngược thế? Ngày mai ta sẽ đập nát tượng nó ra, gí nát nó thành bùn đất, lại vạch mặt Thành Hoàng mà hỏi tội: sao dám để cho bọn thuộc hạ tay chân hoành hành? Hắn ta cứ trong cơn mê mộng bí tỉ như vậy hay sao?
      Hai người cùng bưồn bực ngồi suông với nhau, bất giác canh tư sắp tàn, bỗng Thu Dung vụt đến. Hai người vừa mừng vừa sợ, vội hỏi han tình hình. Thu Dung khóc sướt mướt:
      - Vì chàng mà em phải chịu muôn vàng cay đắng. Lão Phán quan hằng ngày đem hết gậy lại đao ra bức em, đêm nay bỗng nhiên thả em về, còn bảo: “Ta chỉ vì yêu thương nàng mà xử xự như thế này chứ không vì cớ gì khác. Nếu nàng không thuận thì ta cũng chẳng ép buộc. Xin phiền nói với quan hình bộ họ Đào chớ có khiển trách ta đó!”.
      Đào nghe cũng hả dạ đôi chút. Nhân lúc cao hứng muốn chung giường, liền gạ:
      - Hôm nay xin vì các em mà chết cũng cam.
      Hai cô tỏ bộ không thuận, van nỉ:
      - Bấy nay được chàng dạy bảo cũng hiểu ra đôi điều nghĩa lý, nay nỡ nào vì yêu kính chàng mà lại hại chàng ư?
      Hai nàng quyết định giữ gìn không cho chàng ngủ chung, song vẫn nghiêng đầu bá cổ thân thiết như vợ chồng. Mà hai cô đối với nhau không còn ghen tức gì nhau nữa.
      Một vị đạo sĩ gặp Đào ở đường, nhìn chàng bảo ngay là có tà khí. Đào thấy lời nói lạ, liền đem hết chuyện nói lại. Đạo sĩ khuyên :
      - Ma ấy tốt lắm, chớ nên bỏ đó.
      Nói xong, ông vẽ hai lá bùa trao cho Đào, dặn:
      - Anh mang về đưa cho hai cô ma, mỗi cô một lá để tuỳ theo phúc mệnh, ai may thì được, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt ngay lá bùa, ai chạy ra trước thì được sống lại.
      Đào vái tạ nhận bùa đem về đưa hai cô, không quên nhắc lại lời dặn của đạo sĩ. Hơn một tháng sau, quả nghe có tiếng khóc hờ con gái chết. Hai cô tranh nhau chạy ra,. Tiểu Tạ vội quá quên nuốt lá bùa. Thấy có xe chạy qua, Thu Dung chạy vụt tới, chui luôn vào áo quan và biến mất. Tiểu Tạ không chui được tứcc tưởi khóc quay về.
      Đào ra xem thì thấy đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy thấp thoáng bóng một cô gái chui vào áo quan, còn đang nửa ngờ nửa sợ, bỗng nghe trong áo quan có tiếng động liền dừng lại, mở ra xem, thì cô gái họ Hác đã sống lại. Nhà tang liền xin gởi tạm nàng ở ngoài nhà học của Đào và cử người trông coi.
      Bỗng nàng mở mắt hỏi ngay đến Đào. Họ Hác gặn hỏi, cô ta đáp:
      - Tôi không phải là con gái họ Hác đâu.
      Rồi cô kể rõ sự tình. Họ Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về. Cô gái không chịu, chạy luôn vào buồng học của Đào, nằm đó không ra nữa. Họ Hác nhận Đào làm con rể rồi đi.
      Đào lại gần coi xem, thấy diện mạo cô gái mới sốg dậy tuy khác Thu Dung song về kiều diễm thì không kém. Chàng mừng quá, thực là vượt sức mong muốn mới hỉ hả ngồi cùng nhau nhắc lại chuyện cũ. Bỗng nghe có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang tủi thân ngồi khóc nức nở trong bóng tối, làm cho cả hai người đều thương cảm. Họ cầm đèn tới soi, tìm lời an ủi, cố làm dịu nỗi đau thương song nàng vẫn cứ tấm tức không thôi, áo xiêm đẫm lệ, mãi gần sáng mới biến đi.
      Sáng ngày, họ Hác sai con hầu mang rương hòm sang ở luôn nhà Đào để hầu hạ, cư xử như bố vợ đối với con rể vậy. Đêm đến Đào vào buồng vợ thì Tiểu Tạ khóc lóc thê thảm, cứ thế sáu bảy ngày, hai vợ chồng cảm động quá không thể nào làm lễ hợp cẩn được. Đào buồn lo nẫu ruột song đành bó tay không có cách nào giúp Tiểu Tạ được. Thu Dung chợt nghĩ ra:
      - Đạo sĩ là người tiên. Hay ta đi cầu cứu một lần nữa, may ra người thương mà giúp cho.
      Đào nghe lời, tìm đến nơi đạo sĩ ở, quỳ rạp xuống đất giải bày sự tình. Đạo sĩ cứ khăng khăng xin chịu, không còn phép thuật nào nữa. Đào vẫn kêu cầu thảm thiết không thôi. Cuối cùng đạo sĩ mới cười bảo:
      - Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta quá! Thôi cũng vì anh còn duyên số với cô ta, ta xin dốc bằng hết mọi sức lực.
      Rồi đạo sĩ theo chàng về nhà, đòi ở một gian riêng tĩnh mịch đóng chặt cửa ngồi trong đó, dặn không được ai gọi hỏi gì, cứ thế hơn mười ngày không ăn uống. Lên dòm thì thấy ông ngồi thiêm thiếp như ngủ vậy. Một hôm trời vừa sáng, có một thiếu nữ vém rèm bước vào nhà Đào, mắt sáng long lanh, răng trắng muốt, vẻ kiều diễm rực rỡ. Nàng cười bảo chàng:
      - Tôi phải lặn lội lần dò suốt đêm, mệt tưởng chết. Bị các người đeo đẳng rầy rà mãi, bôn ba hơn một trăm dặm đường mới tìm được ngôi nhà tốt. Đạo sĩ đi đón và cũng cùng đến đây. Chờ gặp được người giao lại là xong.
      Mới sẩm tối Tiểu Tạ tới, thiếu nữ đứng vội dậy đón, ôm chầm lấy. Hai người hòa vào làm một thân thể, ngã quay xuống đất cứng đờ. Đạo sĩ từ trong buồng đi ra, chắp tay chào rồi đi luôn. Đào vái tạ đưa tiễn thì cô gái đã tỉnh. Chàng vội ôm đặt lên giường, hơi thở cô gái đã điều hòa, nhưng còn ôm cẳng kêu đau, vài hôm sau mới dậy đi được.
      Sau đó Đào thi đỗ tiến sĩ, có người bạn đỗ cùng khoa là Thái Tử Kính, nhân có việc đi qua, ghé vào nhà Đào vài ngày. Tiểu Tạ từ bên hàng xóm về, Thái trông thấy vội đuổi theo sát gót. Tiểu Tạ tìm cách lánh đi, trong lòng thầm trách con người không đứng đắn. Thái quay vào, nói với bạn:
      - Có một việc kỳ quái hết sức, bác có cho phép tôi nói không?
      Đào gặng hỏi. Thái nói:
      - Ba năm trước đây, em tôi chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến đâu mất. Đến nay tôi vẫn còn băng khoăn không biết vì sao? Vừa rồi tôi thoáng thấy bác gái sao giống em tôi làm vậy?
      Đào cười:
      - Vợ tôi là kẻ quê mùa, sao giống được cô nương nhà ta. Song đã là bạn đồng khoa, nghĩa tình chí thiết, có ngại gì không để nhà tôi ra chào.
      Đào vào nhà trong, bảo Tiểu Tạ mặc bộ đồ liệm táng ngày trước để ra chào khách. Thái vừa trông thấy thất kinh:
      - Thực là em tôi đây rồi!
      Rồi ông ta khóc rưng rức. Đào thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho bạn nghe. Ông mừng rỡ:
      - Thế là em gái tôi chưa chết. Tôi phải về ngay để báo tin vui cho song thân.
      Mấy ngày sau cả nhà họ Thái kéo sang. Sau thường thường lui tới như nhà họ Hác vậy.

      NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #78
        GIẤC MỘNG VỢ HỒ ( Hồ mộng) - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.

        Bạn ta ( tác giả tự xưng), Tất Di Am, là người phóng túng ít ai bì. Khuôn mặt ông ta đẫy đà, râu rậm. Trong đám sĩ lâm đều biết danh tiếng.
        Khi có việc, Tất hay đến nhà riêng ông chú làm quan thứ sử, lên trên lầu nghỉ ngơi. Người ta thường đồn đại trên lầu có nhiều hồ tinh. Trước đây, mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng do ta chép. Tất tỏ ý rất hâm mộ, chỉ hận nỗi sao mình chưa một lần gặp được hồ. Nhân ở lầu này, ông lại càng đắm đuối tơ tưởng.
        Ngày ấy, khi trở về buồng thì đã nhá nhem tối, trời nóng bức quá, ông nằm ngay trước cửa mà ngủ. Trong giấc ngủ, có người lay gọi, ông tỉnh dậy thấy một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần nhưng còn có chiều phong vận lắm. Tất sửng sốt hỏi là ai, người ấy đáp:
        - Tôi là hồ ly đây. Được ông mơ ước bấy lâu, tôi thầm cảm tấm lòng ấy mà đến.
        Tất thấy nói thế mừng cuống, đã giở giọng trăng hoa. Nhưng người đàn bà cười bảo:
        - Tôi đã luống tuổi rồi. Ví bằng người không nỡ chê, tự tôi đã hổ thẹn trước. Tôi có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể nâng khăn sửa túi cho ông được. Đêm nay xin đừng để cho ai ở nhà này, nó sẽ đến. Tối hôm sau, Tất đốt lò hương ngồi đợi. Quả nhiên người đàn bà dắt đứa con gái đến. Thật là một tuyệt thế giai nhân. Người đàn bà dặn con gái:
        - Tất lang có duyên túc thế với con. Vậy con ở lại đây. Sớm mai phải về sớm, đừng có ngủ quên.
        Tất nắm tay nàng dắt vào màn, mây mưa vui thú. Xong rồi cô gái nửa đùa nửa thật cười bảo:
        - Gớm chết! Chàng vừa béo nặng vừa cuồng si, ai mà chịu nổi.
        Chưa sáng rõ cô gái đã đi, vừa tối lại đến, bảo Tất:
        - Mấy chị em nhà mở tiệc định mời chàng rể mới. Mai chàng cùng đi với em nhé!
        Mãi ở đâu?- Tất hỏi.
        - Bà chị cả làm chủ tiệc. Cách đây cũng không xa.
        Đêm sau ngồi đợi mãi không thấy cô gái đến. Tất cảm thấy người mệt mỏi, liền gục đầu lên bàn. Cô gái tới tỏ ý áy náy:
        - Chết nỗi! để chàng phải đợi lâu quá!
        Nói rồi nắm tay Tất dẫn đi, tới một nơi có nhà cửa nguy nga. Đi thẳng vào gian chính thất thấy đèn đuốc lấp lánh như sao sa. Giây lát chủ nhân bước ra, trang phục đơn giản nhưng đẹp tươi vô ngần, khép nép thi lễ mừng chàng rể mới. Sửa soạn vào tiệc, con hầu bảo cô Hai tới. Cô Hai trạc tuổi từ mười tám đến mười chín, vừa vào đã hướng vào cô dâu mới cười đùa:
        - Em thế là biết mùi đời rồi nhé! Sao? Được anh chàng như vậy có vừa lòng không?
        Cô em cầm quạt đập vào lưng chị, lơ lơ nhìn không bắt lời. Cô Hai cười, tiếp:
        - Nhớ lại chị em mình còn bé hay chơi vật lộn nhau. Em sợ bị cù vào mạng sườn, người ta chỉ mới giơ ngón tay ra là đã cười lăn cười lóc. Em tức chị, nguyền chị sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt. Chị trả đũa em: con oắt con thế nào cũng vớ phải anh chàng rậm râu, để khi hôn hít râu nó cù cho biết tay. Nay đúng thế chứ còn gì?
        Chị cả cũng bật cười, giải hòa:
        - Cái cô này! Chả trách em Ba nó cáu giận cũng phải. Ai đời rể mới đang ở dây mà ăn nói không giữ ý giữ tứ gì cả.
        Kế đó, mọi người cùng ngồi vào bàn tiệc, trò chuyện vô cùng rôm rả. Bỗng nhiên một thiếu nữ bế mèo đến, tuổi chừng mười một đến mười hai, tóc chưa bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ thanh tú. Cô cả đon đả:
        - Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể ư? Nhưng tiếc quá, đây hết ghế rồi, không có chỗ cho dì út.
        Nói rồi bế em đặt lên đùi mình, lấy bánh trái cho nó ăn. Được một lát bế em vừa đặt vào lòng cô Hai vừa nói:
        -Úi chà, nó đè lên đùi tôi đau quá không chịu được.
        Cô Hai vội phân bua:
        - Con nhỏ này mới bằng ấy tuổi mà thần xác đã nặng như cối đá. Tôi ốm o thế này chịu sao nổi? Nó muốn xem mặt ông anh rể, thì đây ngồi lên đùi anh. Ông to béo này mới chịu nổi mày.
        Rồi xốc luôn em đặt vào lòng Tất. Tất ôm em vợ vào lòng hương thơm phưng phức mà cảm thấy nhẹ tênh như không, rồi cùng uống rượu chung chén với em. Cô Cả nhắc:
        - Con ranh chớ có quá chén đấy, kẻo say mà thất thố thì ông anh cười cho!
        Cô bé nghe thế cười khanh khách, lấy tay nghịch mèo làm nó kêu eo eo. Cô Cả thét lên:
        - Sao không vứt nó đi cho rồi? Cứ ôm lấy nó trêu ngậu lên.
        Cô Hai bỗng nãy ý hay:
        - Thôi cứ để cho nó ôm mèo. Mượn ngay nó làm tửu lệnh cho vui cuộc rượu thế này nhé: cái đũa này cứ chuyền tay nhau, đến tay ai mèo kêu thì người đó phải uống rượu..
        Mọi người vỗ tay tán thưởng. Lạ quá đũa này cứ đến tay Tất là mèo kêu ré lên. Tất vốn là tay bợm rượu, phải uống liền mấy chum lớn, lúc ấy mới rõ: cứ đũa đến lượt Tất là cô bé lại bóp cho mèo kêu. Phát hiện ra mọi người cùng phá lên cười. Cô Hai bảo em út:
        - Thôi! Em bé đi ngủ đi. Mày ngồi đè nặng đùi ông anh lâu rồi, sợ chị Ba mày oán đó.
        Cô bé vâng lời, ôm mèo quay ra. Cô Cả thấy Tất uống giỏi quá liền gỡ cái độn tóc ( ngày xưa phụ nữ TQ [hạng trung lưu] thường đeo tóc giả cuốn quanh một cái độn bằng gô, tựa như cái chén bên trong gắn sơn. Do đó có thể dùng cái độn ấy đựng rượu) rót rượu vào nàng mời. Tất ngó cái độn chỉ như cái chén con nhưng khi uống thì lượng rượu nhiều đến dễ bằng mấy đấu. Uống cạn rượu nhìn lại thì hóa ra tàu lá sen.
        Cô Hai cũng tự mình chuốc rượu mừng. Chàng từ chối không thể kham được nữa. Cô ta lấy hộp son, bé tí như viên đạn, ân cần khuyên mời:
        - Chú không uống được nhiều thì tôi chỉ mời một chút gọi là có thôi.
        Tất nhìn cái hộp son bé tí, tưởng chỉ một hớp là xong. Ai ngờ tiếp đến hàng trăm hớp, rượu vần chưa hết.
        Cô Ba- vợ Tất- ngồi bên cạnh thấy thế lấy cái chén hạt sen bé tí tẹo, thay thế cho cái hộp son, vừa cười vừa bảo chồng:
        - Anh đừng để kẻ gian lường gạt!
        Vừa nói vừa để cái hộp son lên bàn thì hóa ra là cái bát to tướng. Cô Hai chọi ngay:
        - Việc gì đến cô! Anh chồng mới vài tối mà yêu thương thân thiết đến thế ư?
        Tất cầm lấy cái cái chén hạt sen vợ vừa ý tứ đưa mời, ngửa cổ làm một hơi hết sạch, tay mân mê cái chén, thấy mềm nhũn, nhìn kỹ không phải chén mà là chiếc giày thêu (chân con gái phong lưu thường bó chặt từ thuở bé cho nên chân nhỏ và giày đi thường nhỏ xíu) cực kỳ khéo. Cô Hai vội giằng ngay lấy, mắng:
        -Cái con ranh này! Mày đánh cắp giày tao tự bao giờ thế. Thảo nào chân cứ lạnh toát.
        Rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày.
        Cuộc rượu đã tàn, vợ Tất nhắc chồng cáo biệt các chị, tiễn chân ra đến ngoài làng, bảo Tất hãy trở về một mình.
        Tất tỉnh dậy thì hóa ra là một giấc mộng, nhưng lổ mũi lổ miệng còn thơm lừng mùi rượu, tự lấy làm lạ. Buổi tối nàng đến hỏi ngay:
        - Đêm qua say rượu chưa chết ư?
        Tất cho đó chỉ là giấc chiêm bao. Nàng cắt nghĩa:
        - Chị em em sợ chàng say sưa ngông cuồng cho nên phải thác vào mộng như thế. Thực ra không phải là mộng đâu.
        *
        Nàng Ba cùng Tất đánh cờ, phần thua thường về chàng ta. Nàng cười bảo:
        - Hàng ngày chàng vẫn ham đánh cờ em cứ tưởng chàng cao cờ lắm, nay xem ra cũng chỉ bình thường vậy thôi.
        Tất nhờ nàng chỉ bảo thêm cho. Nàng nói:
        -Nghệ thuật chơi cờ, mỗi người tự lĩnh hội tìm tòi lâý, em làm sao có thể giúp chàng giỏi lên được. Tốt nhất là ngày một thấm nhuần rồi sẽ khá lên.
        Luyện tập theo cách ấy được vài tháng, Tất cảm thấy hơi khá lên một chút. Nàng thử lại, vẫn cười mà chê: “Chưa được, chưa được.”, Tất ra ngoài tỷ thí với những bạn cờ trước đây, ai cũng lấy làm lạ, vì chàng đánh lên tay rõ.
        Tất là người ngay thẳng bộc trực, không giữ kín được điều gì trong bụng, cho nên đã hé lộ với chúng bạn đôi điều quan hệ với hồ nữ. Thế là nàng biết ngay trách rằng:
        - Chả trách các bạn bè đồng tâm không chơi với anh chàng bô lô ba la như điên này cũng phải. Em đã bao lần dặn anh phải giữ mồm giữ miệng cho cẩn thận kín đáo, ấy thế mà sao cứ thông thốc tuôn ra hết vậy?
        Rồi ra mặt giận định bỏ đi. Tất phải xin lỗi đi xin lỗi lại nàng mới nguôi. Song cũng do đó nàng đi lại ăn nằm thưa hơn trước.
        Ăn ở với nhau hơn một năm, một tối nàng đến ngồi lặng nhìn Tất, rủ đánh cờ không đánh, kéo đi ngủ cùng không đi. Cứ thế rầu rầu hồi lâu, nàng mới độ nhiên hỏi:
        - Chàng xem em với Thanh Phượng ai hơn?
        - Em hơn chứ? Tất đáp.
        - Không em tự thẹn là không được bằng Thanh Phượng. Song ông Liêu Trai với chàng là bạn văn chương, phiền chàng cậy ông chép cho một thiên tiểu truyện. Ngàn năm về sau, vị tất không có người ao ước như chàng hiện nay.
        - Ấy, tôi cũng có cái ý ấy. Song vì buộc phải theo lời dặn của em nên còn giữ kín.
        - Đành rằng trước đây em dặn thế, nhưng nay sắp sửa chia tay nhau, còn gì phải dấu giếm nữa.
        Tất hỏi nàng đi đâu? Đáp:
        - Em cùng dì Tư được Tây Vương Mẫu triệu đi làm Hoa điển sứ, không trở về được nữa.
        Tất xin nàng đôi lời lưu tặng. Nàng đọc: “Dẹp bực tức bớt lỗi lầm” rồi đứng dậy, nắm lấy tay Tất, nàng âu yếm:
        - Chàng đưa chân em một đoạn.
        Cùng đi khoảng một dặm dài, đôi bên nhỏ lệ chia tay.
        Nàng còn căn dặn trước khi đi hẳn:
        - Đôi ta có chí, biết đâu chẳng có dịp tái ngộ.
        *
        Ngày ấy tháng chạp năm Khang Hy thứ 21, ông Tất cùng ta gác chân lên nhau đàm đạo ở Xước Nhiên Đường. Ông ta đã kể tỉ mỉ cho ta chuyện lạ này. Ta nói: “Cô Hồ tâm giao như thế thì bút lực Liêu Trai này cũng vẻ vang thay!”
        Ta bèn chép lại chuyện này.


        NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.


        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #79
          LÂM TỨ NƯƠNG (Lâm Tứ Nương) - TẢN ĐÀ dịch.

          Người ở tỉnh Mân (tên gọi tắt của tỉnh Phúc Kiến, tên cổ), Trần công tên là Bảo Thược, làm quan đạo Thanh Châu (địa hạt tỉnh Sơn Đông). Có đêm ngồi một mình, có người con gái vén bức màn che đi và, nhìn coi thời không quen, mà đẹp quá lắm, tay áo dài ra lối ăn mặc trong cung. Cười nói rằng: “Đêm thanh ngồi suông một mình vậy, khỏi buồn được sao?”
          Ông giật mình hỏi là người nào?
          Nói rằng: “Nhà thiếp không xa đây, chỉ gần ở xóm Tây”.
          Ông đoán hẳn là ma, mà lòng yêu thích lắm, nắm vạt áo, kéo mời ngồi. Chuyện nói rất phong nhã. Thích ý quá, ôm lấy, cũng không chống cự.Rồi bên gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông lại hỏi kỹ đến nơi. Nói rằng: Một đời kiên trinh, đã để cho anh làm khinh bạc đến chết! Có lòng yêu thiếp, chỉ nên tính sự ái tình với nhau về lâu! Chớ hỏi lôi thôi mãi làm gì!
          Không bao lâu gà gáy, vội dậy mà đi. Từ đó đêm nào cũng đế. Thường thường đóng kỹ cửa cùng uống rượu chơi, nói đến việc âm nhạc, thời ra thấu hết các cung bực. Ông bèn đoán là có khi hát cũng hay. Nói rằng: “Chính là cái việc có học từ lúc bé.” Ông xin cho nghe một khúc. Cô gái nói: “Đã lâu không nhắc đến việc tiếng nữa, cung điêu mất đến quá nửa, chỉ sợ để tri âm cười thôi!”
          Cố nài ép nữa. Bèn cúi đầu đánh nhịp, hát giọng châu Y, châu Lương (1). Tiếng nghe thảm thương; hát xong rồi khóc. Ông cũng bùi ngùi đau đớn thay; nhân ôm lấy cô gái mà có câu an ủi rằng: “Mình đừng có đem cái giọng mất nước ra mà hát như thế, làm cho người ta buồn mất vui”.
          Cô gái nói: “Tiếng của người ta, là để đem ý chí của mình ra. Kẻ có sự thương, không thể bảo làm vui; cũng như người đương vui, không hát cho thương được.”
          Hai người thân mật nhau hơn là đạo cầm sắt. Lâu lâu những người nhà nghe trộm; ai nghe thấy tiếng hát, cũng đều phải chảy nước mắt cả. Phu nhân nhìn thấy dung mạo, ngờ là trên đời người không có của đẹp quái đến thế, vậy không phải ma, thời tất cũng là hồ. Sợ sẽ làm tai vã cho, khuyên ông nên tuyệt. Ông không theo được lời khuyên của phu nhân, mà chỉ hỏi cặn kẽ tích gốc của người con gái. Cô gái buồn bã nói:
          -“Thiếp là cung nhân trong phủ Hành, gặp tai biến mà chết, kể đã đến mười bảy năm nay. Nghĩ ông là bậc người cao nghĩa nên mong gửi than làm vui; nhưng thực không có dám làm hại nhau. Nên có sự e ngờ nhau ,thời liền xin từ nay từ biệt”.
          Ông nói: “Tôi không lấy làm sao cả; nhưng đã yêu đương nhau như vậy, thời cũng phải nên biết đến thật mà thôi”.
          Bèn hỏi đến việc ở trong cung thuở xưa. Cô gái tỉ mỉ kể hết. Nghe lẩm nhẩm thấy hay lắm. Nói đến câu chuyện trong lúc biến cố, thời nức nở không thành tiếng được nữa.
          Cô gái không ngủ lắm, mỗi đêm tất dậy đọc những lời chú trong các kinh “Bồ Đề, Kim Cương”.
          Ông hỏi: “ở nơi chín suối, cũng có thể tự sám hối được à?”
          Nói rằng: “Cũng một lẽ thế cả. Thiếp nghĩ suốt đời luân lạc, muốn cho kiếp sau được giãi thoát đó thôi”.
          Lại cùng ông bình luận thơ từ, chỗ nào không hay thời chê ngay; đến câu nào hay thời ngâm tiếng ngâm nga, khiến cho người nghe quên hết cả sự mệt mỏi.
          Ông hỏi: “Có hay thơ không?”
          Nói: “Lúc còn sống ngẫu nhiên có làm”.
          Ông đòi xin làm cho một bài.
          Cười, cho rằng: “Lời thơ của đàn bà con trẻ, đâu đủ đến tai bậc cao nhân”.
          Cùng đi lại được ba năm, một tối bỗng ảm đạm xin chào từ biệt. Ông phải giật mình hỏi.
          Cười, nói rằng: “Vua dưới âm phủ nói rằng thiếp trong lúc sống trước không có tội gì, mà vẫn còn chăm chỉ không quên việc đọc kinh, vậy cho sinh vào một nhà vua; sự biệt nhau ở đêm nay, không bao giờ cùng gặp mặt nữa”.
          Nói xong rồi mà buồn rầu. Ông cũng hơi rỏ nước mắt. Bèn làm rượu cùng uống thật say. Cô gái khảng khái mà hát, làm ra giọng thương mà khoan thai. Mỗi tiếng nhắc đi nhắc lại đến nhiều lần; đến chỗ thương tâm thời liền cho nghẹn hơn không thể hát đi được. Dừng mấy bận, hát mấy bận, như thế mới hát xong một bài. Rượu uống cũng không vui được, bèn đứng dậy xum xoe thong thả muốn đi. Ông cố lôi lại, mời lại ngồi thêm chút nữa.
          Tiếng gà gáy động, bèn nói rằng: “Thôi, tất không thể ở lại lâu thêm nữa rồi. Những ông vẫn thường lạ vì thiếp không đem lời thơ dốt để trình hiến; nay đến lúc sắp vĩnh biệt, xin thao lượt làm nên một bài”.
          Rồi đòi lấy bút, nghĩ nên thơ. Nói rằng: “Trong lòng thương xót, ý nghĩ rối loạn, không đắn đo được từng chữ. Vậy những tiếng dở luật sai, xin rằng chớ có đưa cho người khác biết chi”.
          Xong, che vạt áo mà đi. Ông tiễn ra đến ngoài cửa, tan hình ra như khói mà mất.
          Ông ngậm ngùi hồi lâu; coi đến thơ, thời chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, lấy làm quý mà cất đi.
          Thơ rằng:
          Mười bảy năm trời khóa chặt ai
          Ai đem nước cũ hỏi: Trời ơi!
          Cây trùm máy điện làn thu mỏi;
          Cuốc hóa hồn vua, giọt lụy rơi!
          Nước bể (2) sóng dồn, ô xế bóng;
          Nhà Lưu (3) trống vỗ, khói lan hơi.
          Má hồng sức yếu, làm ma khó (4)
          Chất huệ lòng đau, hỏi Phật thôi.
          Ngày đọc Bồ Đề (5) muôn chữ thuộc;
          Nhàn xem Bối Diệp (6) mấy thiên chơi.
          Hát khúc Lê Viên (7) thay tiếng khóc;
          Nghe chơi rơi lệ một mình ai.
          Nguyên văn chữ Hán (dịch âm)
          Tỉnh tỏa thâm cung thập thất niên,
          Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
          Nhân khang điệu vũ phong kiều mộc,
          Khắp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
          Hai quốc ba đào là tịch chiếu,
          Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
          Hồng nhan lực nhược nan vi lệ,
          Huệ thất tâm bi chỉ vấn Thiền.
          Nhật tụng Bồ Đề thiên bách cú,
          Nhàn khan Bối Diệp lưỡng tam thiên.
          Cao xướng Lê Viên ca đại khốc,
          Thỉnh quân độc thinh diệc san thiên!
          ( Lời thơ lăng băng trùng điệp, không đúng niêm luật lắm, hoặc kẻ truyền đạt có sai lầm.
          Xét ở bộ Chi Bắc Ngẫu Đàm của Vương Ngư Dương tiên sinh cũng chép việc này, thơ thời làm ra Đường luật; Lư Nhã Vũ tiên sinh có lấy đem vào tập thơ “Sơn Tả”. Nay phụ chép như sau để thêm sự so xét).
          TẢN ĐÀ dịch.
          ___________________
          (1) châu Y : từ đời Đường đặt ra, thành cũ ở huyện Cáp mật, tỉnh tân Cương nay- Khúc hát Châu Y, thời trong đời vua Minh Hoàng nhà Đường, qua tiết độ sứ Tây Hương là Cáp Gia Vận dâng lên vua.
          Châu Lương, từ đời nhà Hán đặt, nay thuộc đất tỉnh Cam Túc- Khúc hát châu Lương thời từ cuối nhà Tấn, người châu Tây Hương truyền khúc cũ của TQ, hợp với giọng ca của rợ Khương Hồ mà chế ra. Đời vua Đường Minh Hoàng, quan Đô Đốc Tây Hương phủ là Quách Tri Vận dâng lên vua.
          (2) nước bể: là một quốc gia nhỏ ở mạn bể, do hai chữ hải quốc dịch ra.
          (3)Nhà Lưu: do hai chữ Hán gia, vì nhà Hán họ Lưu.
          (4) Câu này là ý nói không có sức để báo thù cho nước.
          (5) (6)Bồ Đề, Bối Diệp đều là tên sách kinh nhà Phật.
          (7)Lê Viên là cảnh chơi vui hát của vua Minh Hoàng nhà Đường.



          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #80
            HỒ NHƯ THẦN (Tiểu Mai) - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

            Vương Mộng Trinh, con nhà thế gia ở Mộng Am, đi chơi Triết Giang, tình cờ gặp một bà lão ngồi khóc ở giữa đường. Vương hỏi căn do bà lão cho cho biết chồng bà ta chỉ để lại một con trai, nay nó phạm tội tử hình, không biết nhờ ai cứu được.
            Vương tính khẳng khái. Vương hỏi rõ họ tên rồi xuất tiền túi, tìm cách xoay sở gỡ tội cho. Chàng trai kia được tha, nghe tin Vương đã cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu duyên cớ ra sao, vội tìm đến nhà trọ khóc lóc mà lạy tạ. Vương an ủi:
            - Chẳng có duyên cớ gì đặc biệt. Ta chỉ vì thương mẹ già anh đó thôi.
            Chàng kia kinh ngạc, nói mẹ mình đã chết từ lâu. Vương cũng lấy làm lạ.
            Tối đến, bà lão đến tạ ơn. Vương trách bà nói dối. Bà ta bày tỏ:
            - Xin cho thưa thực: tôi chính là con hồ già ở Đông Sơn. Hai mươi năm về trước, có đêm tôi đã ân ái cùng cha hắn. Bởi vậy nay tôi không thể đành lòng thấy hắn chết làm con ma tội lỗi đói khổ.
            Nghe mà rợn tóc gáy, nhưng Vương vẫn đáp lễ, định hỏi thăm cho rõ chuyện thì bà lão đã biến mất.
            Vợ Vương là người hiền hậu, ăn chay niệm Phật không uống rượu. Nhà có thờ tượng Quan Âm, lúc nào cũng được lau chùi sạch sẽ, đèn hương cúng bái hàng ngày để cầu tự vì chị ta chưa có con trai.
            Thần, Phật cũng linh, thường báo mộng dạy điều thiện trách điều ác, vì thế mọi việc trong nhà dường như đều so thần linh chỉ dẫn. Sau khi bệnh nặng, vợ Vương sai dời giường kê vào một góc gian thờ, còn cửa thì cứ đóng im ỉm suốt ngày đêm, dường như có điều gì ẩn dấu. Vương nghi hoặc nhưng lại nghĩ vợ bệnh hoạn mê mẩn, không nỡ trái ý. Nằm liệt hai năm, vợ Vương rất sợ tiếng ồn, thường sai che chỗ nằm kín mít, không cho ai vào. Song lắng nghe kỹ hình như chị ta vẫn chuyện trò to nhỏ cùng ai trong đó. Đến khi mở cửa ra thì chẳng có ai.
            Trong suốt thời gian nằm bệnh chị ta không hề tỏ ra lo buồn, duy chỉ ngày ngaỳ sốt sắng giục giã chồng tìm nơi gá nghĩa cho đứa con gái mười bốn tuổi. Gả được con gái xong, chị ta mời chồng lại đầu giường, cầm tay trăn trối:
            -Bây giờ đã đến lúc vĩnh biệt. Khi tôi mới ốm, được Bồ Tát báo mộng rằng vận tôi sắp hết nay mai. Tôi còn có điều chưa an tâm là con gái chưa thành gia thất cho nên ngài cho tôi chút thuốc kéo dài hơi tàn đợi con gái về nhà chồng. Năm ngoái đức Bồ Tát từ Nam Hải vể, có để thị nữ Tiểu Mai hầu hạ tôi trong những ngày thoi thóp. Nay tôi chết đi, Tiểu Mai phận mỏng không biết về đâu. Tôi rất thương thằng Bảo Nhi, chỉ sợ sau này chàng lấy phải vợ kế hay ghen thì mẹ con nó mất nơi nương tựa. Vì vậy, Tiểu Mai nhan sắc tươi đẹp, tính nết hiền hòa, mình nên lấy làm vợ kế cho vẹn cả mọi bề.
            Bảo Nhi là đứa con trai do người thiếp của Vương sinh ra. Vương nghe vợ dặn dò thế, cho là nói vẩn vơ mới nhủ lại rằng:
            - Mình vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói ra những điều lạ lùng như thế, e sàm sỡ gì chăng?
            Vợ nói tiếp:
            - Tiểu Mai đã quên mình phục dịch tôi hơn một năm nay rồi. Tôi cạn lời cầu cạnh nên Tiểu Mai đã nhận lời.
            Hỏi Mai đâu, vợ hỏi lại:
            - Không có trong buồng ư?
            Vương vừa định hỏi nữa thì vợ Vương đã nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương ngồi một mình bên màn coi thi hài vợ, thoáng nghe trong buồng có tiếng nức nở. Tưởng là ma sợ quá, vội gọi người mở khóa cửa buồng ra xem. Hóa ra đó là một cô gái tuyệt trần, tuổi chừng đôi tám, mặc áo sô ngồi trong đó. Mọi người thấy vậy cho là thần, ai nấy đều cúi lạy. Cô gái lau nước mắt, đỡ mọi người dậy. Vương chăm chăm nhìn, nàng cúi đầu e thẹn. Vương bảo nàng:
            - Nếu lời trối trăn của vợ tôi đã khuất không phải là mê sảng thì xin mời nàng lên nhả trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà được làm lễ lạy chào. Nếu không kẻ hèn mọn này đâu dám mơ tưởng hồ đồ mà đành chịu đác tội với vong linh người quá cố.
            Nàng đỏ mặt ra khỏi buồng, lên nhà trên thẳng hướng Bắc. Vương sai người hầu đặt lễ hướng về Nam rồi đứng ra làm lễ. Nàng đáp lễ. Rồi thứ tự tùy theo ngôi thứ trong nhà, mọi người ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, đến lượt người thiếp, nàng đứng dậy đỡ.
            Từ khi vợ Vương ốm liệt, kẻ ăn người ở trong nhà sinh thói ăn cắp, biếng lười, cho nên gia cảnh có phần sút kém. Khi họ làm lễ xong rồi, đứng nghiêm chỉnh đợi lệnh, nàng truyền bảo:
            - Ta vì cảm lòng thành của phu nhân cho nên buộc phải ở lại trần gian để nhận lấy việc lớn mà phu nhân đã ủy. Bọn các ngươi ai nấy đều phài tẩy rửa tâm địa vì chỉ mà gắng gỏi, thì những lỗi trước nay không hỏi đến nữa. Không thế, chớ tưởng rằng nhà này không có người.
            Ngước nhìn thấy nàng ngồi uy nghi như pho tượng Quan Âm lại dường như có một làn gió thổi qua, cả bọn nghe gịọng nói mà run sợ, bất giác đều dạ ran một loạt. Nàng cắt đặt việc tang lễ đâu vào đấy.
            Từ đó, lớn bé trong nhà không ai dám tắt mắt, trễ nải. Suốt ngày nàng để mắt lo toan xếp đặt sai khiến mọi việc. Mỗi khi Vương cần việc gì, nàng đều lĩnh ý làm trọn. Tuy rằng đêm hôm gần gụi Vương nhưng nàng tuyệt không một lời tình tự nào cả.
            Tang lễ xong. Vương muốn nhắc lại lời vợ dặn song không dám nói thẳng, phải nhờ người thiếp ngỏ ý. Nàng nói:
            - Tôi đã nhận lời phu nhân căn dặn cặn kẽ. Song việc hôn phối là trọng, không thể cẩu thả sơ sài. Hoàng tiên sinh là bậc bác tôn quý, vừa cao tuổi vừa đức lớn, xin mời cho được người đứng ra làm chủ hôn thì tôi hết sức tuân theo.
            Bấy giờ ông Hoàng làm Thái bộc đã về hưu sống ở Nghi Thủy là bậc bằng vai với cha Vương, vẫn thường đi lại thân thiết. Vương thân đến thăm, kể rõ sự tình, cầu ông giúp đỡ, Hoàng tiên sinh lấy làm lạ, bèn đi cùng Vương. Nàng nghe thấy tiếng vội ra lạy chào. Tiên sinh vừa trông thấy kinh ngạc, cho là tiên không nhận lạy.
            Nàng trang điểm chỉnh tề để làm lễ cưới. Việc xong Hoàng tiên sinh ra về, nàng đưa tặng gối thêu, giày ấm, đối xử tử tế như cha. Từ đó sự đi lại giữa hai nhà lại càng thân.
            Sau lễ hợp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nữ cho nên trong sự yêu thương vẫn có phần cung kính. Thỉnh thoảng Vương dò hỏi cách sống của Bồ Tát, Mai cười mà rằng:
            - Anh mà không hiểu đến thế kia ư? Làm gì có Thần Phật đích thực nào mà hạ mình lấy người trầ thế bao giờ.
            Vương lại căn vặn nàng từ đâu đến? Mai vẫn cười đùa:
            Anh làm gì phải chất vấn kỹ càng đến thế? Đã cho em là thần thì cứ việc sớm tối cung cúc chiều chuộng, tự nhiên em không bắt tội nữa.
            Đối với kẻ dưới nàng thường khoan dung song tuyệt đối không nhờn. Con hầu đầy tớ đùa cợt chớt nhả với nhau, thấy bóng nàng là im bặt. Mai cười nhủ rằng:
            -Bọn bay cho ta là thần ư? Đâu phải. Ta chính là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại nên bay không biết. Chị ta ốm, nhớ em nên nhờ mụ Vương ở thôn nam gọi đến. Nhưng sợ rằng ngày đêm gần gũi anh rể là điều không tiện cho nên mói nói thác là thần, phải ngồi kín trong phòng chứ đâu phải thực là thần.
            Bọn họ không tin hẳn như thế, song hàng ngày hầu hạ ở bên thấy nàng chẳng khác người thường cho nên những điều dị nghị mới hết dần. Tuy nhiên đối với những kẻ ngu độn. Vương vẫn phải đánh mắng mà họ vẫn không sửa được, nay nàng chỉ nói một lời là họ răm rắp nghe theo. Họ thường ca tụng, thực ra thì không có gì sợ hãi nhưng cứ trông thấy mặt nàng là lòng thấy êm dịu, không nỡ làm điều trái ý.
            Từ đó, mọi sự trong nhà đều tốt đẹp lên, chỉ mới vài năm ruộng liền bờ, kho đầy dãy. Vài năm sau, người thiếp sinh con gái, nàng cũng đẻ con trai. Đứa con trai lúc mới đẻ đã có một nốt đỏ trên cánh tay, vì thế mới đặt là Tiểu Hồng.
            Con đầy tháng tuổi, nàng bàn với chồng sửa tiệc lớn mời Hoàng tiên sinh. Tiên sinh cho quà mừng rất hậu nhưng từ chối không đến vì đã tám mươi tuổi, già yếu không đi xe được. Nàng lại sai hai lão bộc đến khấn khoản mời đi cho bằng được, Hoàng công mới đến. Nàng ẳm con ra vạch tay trái cho ông xem để nói cái ý đặt tên con. Lại hỏi xem đó là điềm tốt hay điềm xấu. Tiên sinh cười nhủ rằng:
            - Vết đỏ là điềm tốt. Có thể thêm một chữ vào tên gọi là Hỉ Hồng.
            Nàng rất vui mừng, sai sửa đại lễ, nhã nhạc vang lừng, họ hàng thân quý đến đông như chợ. Hoàng công lưu lại ba ngày mới về.
            Sau đó, bỗng có một chiếc xe ngựa xịch đến ngoài cổng đón nàng về chơi nhà. Ai nấy đều lấy làm lạ, xôn xao bàn tán vì đã hơn mười năm nàng về đây, tuyệt nhiên không thấy có họ hàng thân thích nào lui tới. Song nàng không để ý, chỉ sửa soạn hành trang, ẵm con vào lòng bảo Vương theo tiễn. Đi trước chừng ba chục dặm đến chỗ không có bóng người nào, nàng dừng xe bảo Vương xuống ngựa, đứng vào bên đường, buì ngùi bảo chồng:
            - Chàng ơi! Sum họp sao mà ngắn ngủi, chia ly mới thật lâu dài. Chàng có đau lòng vì nỗi cách biệt không?
            Vương hoảng hốt hỏi có điều gì, nàng hỏi lại:
            - Chàng có biết em là người thế nào chăng?
            Đáp: không biết. Nàng lại hỏi:
            - Ở Giang Nam chàng cứu một người bị tội chết. Việc ấy có không?
            Đáp:có. Lúc ấy nàng mới bày tỏ:
            - Bà lão khóc bên đường chính là mẹ em. Vì cảm cái nghĩa ấy muốn tìm cách đền đáp, cho nên nhân dịp phu nhân ham thờ Phật mà em phải giả làm thần, cốt để đem em mà đền cho chàng đó thôi. Nay may sinh được đứa con này, ước mong thế là toại. Em xem chàng vận xấu đã tới. Thằng này nếu để ở với anh sợ không nuôi được. Vì thế em phải mang theo để tránh tai ách cho nó. Xin anh nhớ lấy: khi nào trong nhà có người chết vì dịch tả, cứ gà gáy lần thứ nhất anh đến rặng liễu bờ sông Tây Hà, thấy người nào cầm đèn hoa quỳ cứ bên đường cầu khấn thì có thể thoát nạn.
            Vương xin ghi lòng tạc dạ. Lại hỏi ngày nào trở lại, nàng đáp:
            - Không thể nào biết trước được, song cẩn thận nhớ kỹ lời em thì ngày tái hợp cũng không ngại xa.
            Phút chia ly hai vợ chồng cầm tay nhau khóc ròng. Nàng lên xe, vụt đi như gió. Vương nhìn theo hút bóng, lâu lâu mới lủi thủi quay về.
            Sau đó dăm bảy năm Tiểu Mai vẫn bằng bặt tin tức. Rồi bỗng bệnh dịch tràn lan khắp nơi, người chết như ngã rạ. Một con ở trong nhà bi bệnh ba ngày rồi chết. Vương vẫn nhớ lời Tiểu Mai dặn dò, song hôm ấy có khách uống rượu say quá, quay ra ngủ mất. Tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy Vương vội vàng choàng dậy ra bờ liễu trên đê, quả nhiên thấy có ánh đèn le lói song đã đi xa rồi. Chàng vội vã đuổi theo, đã tới gần trăm bước, nhưng từ đấy càng đuổi theo ánh đèn càng xa cho đến khi mất hút. Vương buồn bực quay về được vài ngày cũng bị lây bệnh chết.
            Họ hàng nhà Vương có nhiều kẻ vô lại, được thể nhà Vương con côi vợ góa, chúng hè nhau công nhiên tranh giành phá phách bòn rút tài sản. Chẳng bao lâu gia cảnh sa sút hẳn. Năm sau Bảo Nhi cũng chết nốt, cửa nhà thành ra vô chủ, bọn họ hàng lại càng ngang ngược chiếm đoạt. Trong nhà chuồng ngựa chồng trâu đều đã trống trơn, chúng lại còn định chia nhau nhà, đuổi người thiếp của Vương đi. Nguời thiếp không chịu, chúng hè nhau kéo đến bắt lấy đem đi bán. Chị ta thương con gái còn nhỏ, hai mẹ con ôm nhau kêu trời kêu đất khóc vang dậy, khiến cho cả làng cũng động lòng thương.
            Đang lúc nguy nan ấy, chợt thấy ngoài cổng có tiếng xe ngựa xịch vào sân. Tiểu Mai dắt con trai từ trong xe đi ra. Người đứng xem rối rít chạy dạt ra như vỡ chợ. Nàng hỏi có chuyện gì, người thiếp kể lại ngọn nghành. Nàng biến sắc mặt, sai người hầu đóng ngay cổng, khóa chặt laị. Bọn vô lại định chống cự nhưng tự nhiên chúng thấy chân tay bủn rủn. Nàng ra lệnh trói hết chúng mỗi tên vào một cột, mỗi ngày chỉ cho vài bát cháo loãng, lại phái ngay một lão bộc phi ngựa đến nhà Hoàng tiên sinh. Rồi lúc ấy mới vào trong nhà khóc chồng thảm thiết. Sau đó nàng ngậm ngùi than thở với người thiếp:
            - Kể thật không may, âu số trời là vậy. Tháng trước giáp dịp chàng bị nạn, đột ngột mẹ tôi ốm nặng, tôi phải đến thăm gấp, tới vẫn chưa hề chợp mắt. Bây giờ về đến nhà, chàng đả thành nhiều thiên cổ!
            Lại thấy cửa nhả vắng bóng con hầu đầy tớ, hỏi ra đều bị bọn vô lại chia nhau cướp mất, nàng càng sụt sùi thương cảm. Vài ngày sau, gia nhân nghe tin nàng trở lại, tất thảy đều trốn về. Chủ tớ gặp nhau không ai không rơi nước mắt.
            Bọn vô lại bị trói đã hoàn hồn, hè nhau kêu thằng bé không phải là con Vương Mộ Trinh. Nàng chẳng thèm đối lời. Không lâu, Hoàng tiên sinh lọn khọm đến. Nàng dẫn con ra mắt ông. Ông cầm tay thằng bé, vạch tay áo lên nốt son hãy còn y nguyên. Ông chỉ cho bọn vô lại thấy tận mắt. Đoạn ông tra hỏi cặn kẻ về những của đã mất, những đứa đã chiếm, biên hết vào sổ đem cáo lên quan. Quan huyện cho bắt tất cả bọn chúng, đánh suốt một lược mỗi tên bốn chục roi, ra lệnh phải bồi hoàn. Ruộng đất trâu bò từ đấylại trở về chỗ cũ.
            Ông Hoàng sắp về, nàng dẫn con ra, khóc mà thưa:
            - Con không phải là người thế gian, điều đó ông đã rõ. Nay xin đem đưa đứa con côi này giao lại cho ông.
            Ông Hoàng buồn rầu đáp:
            - Già này chỉ còn sống ngày nào biết ngày ấy, sao có thể cáng đáng được.
            Ông Hoàng về rồi, nàng sắp đặt lại công việc đâu ra đấy giao thằng bé cho người thiếp rồi sửa soạn lễ vật ra mộ cúng chồng.
            Nửa ngày sau chưa thấy nàng về, người nhà ra xem thấy lễ vật còn đấy mà nàng đã đi đâu.
            LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢKhông để người phải tuyệt tự, người cũng không nỡ để mình không còn nối dõi. Đó là việc người, song cũng là việc trời.
            Con như những ông bạn hiền ngửa nghêng chén chú chén anh tưởng chừng áo cừu ngựa đẹp có thể cùng nhau chia xẻ. Song cho đến khi nấm cỏ xanh rì, vợ con sa sút thì tất cả những kẻ chung ngựa độ nào đều lẳng lặng biến mất.
            Bạn chết không nhẫn tâm quên, ân nghĩa còn lo báo đáp, có phải chỉ riêng người mới thế đâu. Loài hổ cũng còn biết vậy chứ không có cái thói:
            Khi nào tiền đủ gạo đầy
            Thì em ở lại sửa giày cho anh.


            NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.




            ST
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #81
              TẤM GƯƠNG HIỆN HÌNH (Phượng Tiên) - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.

              Lưu Xích Thủy người Bình Lạc, thuở trẻ vừa thông minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện (theo chế độ khoa cử thời ấy, vào trường học huyện là có trình độ tú tài). Cha mẹ mất sớm, anh ta mãi mê chơi bời, bỏ học. Gia cảnh cũng chẳng có gì mà tính lại thích chải chuốt chưng diện, giường chiếu, chăn đệm nhất nhất đều là những của tốt đẹp, tinh xảo.
              Một tối, Lưu được người ta kéo đi ăn uống, vội quên tắt đèn. Rượu được vài tuần, sực nhớ ra, anh ta quay về nhà, chợt nghe trong buồng mình có tiếng rì rầm. Lưu nấp dòm xem, té ra một chàng trai đang ôm cô gái đang nằm trong giường. Căn nhà nhà vốn là phủ đệ của một nhà quyền quý đã bỏ phế, thường xảy ra nhiều quái dị. Anh ta biết đôi trai gái kia là hồ ly tinh nhưng cũng không sợ, xông vào quát lên:
              - Giường ta nằm để bay đú đởn hả?
              Hai bóng người hoảng hốt vùng dậy, ôm áo, trần như nhộng chạy trốn. Trên giường còn xót lại cái quần lụa tía, trên dải còn đính cái bao kim, song đề phòng bị lấy trộm, liền dấu vào trong chăn ôm khư khư lấy.
              Chỉ lát sau, một con hầu đầu tóc rối bời, len lén bước vào phòng, nằn nì xin Lưu trả lại của ấy. Lưu cười, đòi phải có cái gì chuộc. xin chuộc bằng rượu: không ưng. Bằng vàng: cũng không ưng. Con hầu dường như bắt được ý quay ra. Lát sau trở lại:
              - Cô cả tôi bảo: Nếu cậu bằng lòng cho lại thì xin hiến cậu vợ đẹp.
              Lưu vội hỏi:
              - Ai thế?
              - Nhà chủ tôi họ Bì. Cô cả là Bát Tiên. Cái người nằm với cô cả tôi đây là chồng cô, họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên, lấy quan nhân họ Đinh ở Phú Xuyên. Cô ba là Phượng Tiên, so với hai cô còn đẹp hơn nhiều, thực không chê vào đâu được. Đáng lắm!
              Lưu sợ nuốt lời, đòi phải giao ước rõ ràng ngay. Con hầu quay về khá lâu, trở lại trả lời:
              - Cô cả tôi nhắn với cậu: việc đại sự tốt lành đâu có phải vội vã được. Cô tôi vừa nói với cô Ba, đang bị cự lại. Xin nấn ná đợi cho ngày một ngày hai. Nhà chúng tôi không phải là loài chỉ cốt hứa cho xong việc mà coi nhẹ chữ tín đâu.
              Lưu nghe vậy cũng tin liền trao lại cái quần tía. Đã qua mấy ngày rồi mà vẫn chưa thấy hồi âm. Sẩm tối Lưu ra ngoài trở về, vừa đóng cửa sổ ngồi chơi, bỗng hai cánh cửa tự mở toang ra: hai người, bốn tay túm bốn góc chăn, khiêng một cô gái nằm thu lu ở giữa. Họ đặt tất cả lên giường nói:
              - Chúng tôi đưa cô dâu tới đây!
              Đoạn quay trở ra ngay.
              Lưu lại gần ngó xem : một cô gái nõn nà đang ngủ mê ngủ man miệng sặc mùi rượu, mặt ửng màu say. Còn ước gì hơn nữa, chàng ta cầm lấy tay, rút bít tất, cởi giải quần và ôm lấy cô ta. Mà cô gái thì đã hơi tỉnh, hé mắt nhìn thấy Lưu chân tay như bủn rủn ra, song vẫn có vẻ hận, lẩm bẩm:
              - Cái con đĩ Bát Tiên, nó bán rẻ ta thế này!
              Lưu ôm ấp vuốt ve cô gái. Cô ta ngán thịt da hở lạnh, mỉm cười đọc:

              Đêm nay là đêm gì đây?
              Gặp chàng mê mải thế này chàng ơi!

              Lưu tiếp:
              Nàng ơi! Nàng ơi! Nàng ơi!
              Gặp ta mát mẻ sự đời thế nao? (1)
              Vào cuộc giao hoan rồi, nàng còn ca cẩm:
              - Cái con vô sỉ đã làm bẩn giường người, lại còn đem ta đổi lấy cái quần. Được rồi! Thế nào cũng phải báo thù.
              Từ đó tối nào cô ta cũng đến chăn gối với Lưu, thật là đằm thắm. Một hôm cô ta lấy trong tay áo ra một cái xuyến vàng, bảo Lưu:
              - Của Bát Tiên đấy!
              Mấy hôm sau lại đem đến một đôi giày thêu vàng, dát hạt châu cực kỳ tinh xảo, nhủ Lưu cứ đưa ra khoe vung lên khắp bạn bè thân thích (như một chứng cứ người chủ giày đã có tư tình với mình). Những người đến xem đều mang rượu làm lễ tiếp kiến, do đó vật lạ cứ truyền tụng rộng mãi.
              Tối đó, bỗng Phượng Tiên đến từ biệt. Lưu hỏi lý do. Đáp:
              - Bà chị vì việc mấy giày mà giận em cho nên có ý địch dọn nhà đi xa để cách chia em cho tiện.
              Lưu hoảng, có ý muốn trả lại giày. Cô gái can:
              -Việc gì phải thế? Chị ta làm vậy hòng uy hiếp em. Trả lại là trúng mưu đồ đấy.
              - Sao em không thể ở lại một mình?
              - Cha mẹ em đi xa, nhà hơn mười miệng ăn đều trông cậy vào một tay anh Hồ xoay vật. Nếu em không đi e đầu lưỡi không xương đớm đặt trắng đen nhiều chuyện.
              Từ đó cô ta không đến nữa. Hai năm trôi qua, nỗi tưởng nhớ trong Lưu ngày càng da diết. Tình cờ hôm ấy trên đường Lưu gặp một cô gái cưỡi ngựa có lão bộc giong cương, len sát vào người Lưu mà đi. Cô gái lật cái khăn lụa che mặt mà liếc nhìn Lưu, phong tư đẹp vô ngần. Lát sau một anh chàng trai trẻ đi cùng cô ta cũng vừa đến. Lưu bắt chuyện:
              - Cô nào thế? Có vẻ đẹp đấy!
              Lưu còn khen nức nở hồi lâu. Chàng trai chắp tay khiêm tốn cười:
              - Anh khen quá đấy! Đó là người vợ hèn của tôi đó.
              Lưu giật mình ngượng ngùng tạ lỗi. Chàng trai ôn tồn.
              Không hề gì. Song Nam Dương có ba ông Cát thì anh chiếm được “rồng” rồi (2). Cứ bo bo giữ lấy một mình thì còn đáng nói gì nữa.
              Lưu đã ngờ ngợ về điều anh chàng ấy mới nói. Anh lại nói tiếp:
              - Anh có nhận ra kẻ nằm vụng ở giường anh độ nào không?
              Lúc ấy Lưu mới biết đó là anh chàng họ Hồ, anh em đồn hao với mình. Thế là hai người trò chuyện, đùa cỡt rất vui. Hồ lại hỏi Lưu:
              - Tôi đi thăm nhạc gia đây, chú có cùng đi được không?
              Lưu được lời như cởi tấm lòng, theo ngay chàng ta đến vùng Vinh Sơn- trên núi trước đây có người tỵ nạn đến ở. Cô gái xuống ngựa vào trong nhà. Lát sau có mấy người ta nghiêng ngóng trông chừng, vào báo:
              - Cả Lưu quan nhân cũng đến!
              Khi vào chào hỏi ông bà nhạc, Lưu thấy ở đó có một chàng trẻ tuổi mặt áo bào, đi giày cao cổ bốt lóng loáng. Ông giới thiệu:
              -Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên.
              Hai người vái chào nhau, an vị. Lát sau cỗ bàn bày ra ngổn ngang, mọi người nói cười hồ hởi. Ông cụ đề xướng:
              - Hôm nay cả ba chàng rể cùng đến, có thể gọi là cuộc tụ hội đẹp đẽ. Không có ai là khách lạ, có thể gọi cả bọn con gái ra đây, mở một đại hội đoàn viên.
              Lát sau cả ba chị em cùng ra. Ông xếp đặt chỗ ngồi, vợ nào cạnh chồng ấy. Bát tiên trông thấy Lưu cứ che miệng cười khúc khích. Phượng tiên cũng theo đà mà giễu cợt. Chỉ có Thủy Tiên là ra vẻ trầm ngâm, khắc khổ, mọi người cười nói hể hả, cô ta chỉ mủm mỉm. Rượu vào không khí vui mỗi lúc một bốc, giày dép lẫn lộn lung tung, mùi hương bay lan xạ tỏa ra sực nức.
              Trên đầu giưòng đã thấy bày sẵn các loại nhạc cụ. Lưu rút ra cây sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông nhạc. Ông cụ ra lệnh, ai chơi được thì cứ cầm lấy thứ ấy. Thế là mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên bảo Phượng:
              - Chú Đinh không sành thì còn được, chứ mày sao lại không động ngón tay?
              Rồi nhặt cái phách ném vào lòng Phượng. Tiếng tơ tiếng trúc đan nhau nổi lên. Ông cụ vui bụng lắm, nói:
              - Tài nhạc người nhà ta tuyệt lắm! Bọn các con đều biết múa hát, ai có ngón gì sao không trổ hết ra?
              Bát Tiên đứng luôn dậy bảo:
              - Xưa nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám để vất vả đến cô ấy. Còn hai chị em ta có thể cùng ca khúc Lạc Phi. (nữ thần sông Lạc)
              Hai chị em cùng múa hát xong, con hầu bưng ra một mâm hoa quả lạ, không ai biết thứ gì. Ông cụ cho biết:
              -Đây là quả “Điền Bà La” (không biết quả gì, âm từ Hán- Việt) đem từ Chân Lạp sang.
              Rồi cụ cầm luôn mấy quả đặt trước mặt Đinh. Phượng Tiên thấy thế có vẻ không vui:
              - Đối với con rể sao cha lại có thể phân ra giàu nghèo mà yêu ghét?
              Ông cụ chưa kịp nói thì Bát Tiên đã vội phân bua hộ:
              - Đây là chú Đinh ở huyện khác, cha coi là khách nên mới xử sự thế. Còn nếu bàn về ngôi thứ cao thấp ấy mà, đâu phải chỉ có em Phượng mới có chồn nghèo khó chai tay.
              Phượng Tiên cuối cùng vẫn không vui. Nàng cởi áo hoa, trao trống phách cho con hầu rồi cất gịọng hát một đoạn khúc “Phá dao” (3). Vừa hát nước mắt vừa ứa xuống. Hát hết đoạn, phát tay áo đi ra. Bài hát và cử chỉ ấy làm cả nhà mất vui. Bát Tiên nói:
              - Cái con ấy vẫn còn hay hờn dỗi như trẻ con.
              Đoạn đuổi theo song không biết cô ta đã đi đâu mất. Lưu tái mặt cũng từ tạ ra về. Đến nửa đường thấy Phượng Tiên đang ngồi bên vệ đường. Nàng cất tiếng gọi chàng đến ngồi bên cạcnh mà bảo:
              - Một trang nam tử như anh mà không thể giúp cho người đầu ấp tay gối nguôi hận được sao? “Tự trong sách đã có nhà vàng” (4) xin anh làm được như người ấy. Rồi giơ chân lên bảo Lưu:
              - Em ra khỏi nhà vội quá, gai đâm nát cả giày rồi. Đôi giày thêu em đưa cho anh ngày trước ấy, anh có mang bên mình không?
              Lưu vội lấy ra đưa cho nàng thay rồi xin lại đôi rách. Nàng mủm mỉm:
              - Cái anh này chẳng được tích sự gì! Dễ thường cả những đồ dùng khi chăn gối anh cũng lưu làm kỷ niệm chắc? Thôi, nếu anh có nhớ em, xin tặng một thứ này.
              Nàng trao cho Lưu một tấm gương và dặn:
              - Muốn thấy mặt em thì phải đang lúc đèn sách bài vở. Nếu không đừng hòng bao giờ em đến!
              Nói đoạn đã không thấy nàng đâu nữa.
              Lưu ủ ê trở về. Giơ gương ra thấy bóng Phượng Tiên đứng quay lưng lại, cứ như người đi đường ở ngoài tầm trăm bước. Nhớ đến lời dặn của nàng, Lưu buông rèm tạ khách, một mình chăm chỉ học hành. Hôm khác đem gương ra coi: nàng đã quay mặt trở ra môi mấp máy như muốn cười. Lưu càng yêu quý tấm gương, lúc vắng không có ai lại lấy gương ra đối mặt với nàng cho đỡ nhớ. Được hơn một tháng, ý chí dần suy giảm, chàng ta lại bỏ đi chơi hoài, trở về giở gương ra xem, nét mặt nàng bỗng trở nên ảm đạm như muốn khóc. Hôm sau xem lại, bóng đứng quay lưng như trước. Lúc ấy mới hiểu, đó là bóng nàng không bằng lòng với việc chàng trễ biếng. Từ đó chàng đóng cửa nghiền ngẫm kinh sử, ngày đêm miệt mài. Qua hơn một tháng, bóng quay mặt lại. Từ đấy nghiệm thấy: hễ chàng lơ là đèn sách thì bóng buồn, học hành chăm chỉ thì bóng cười vui. Thế là chàng treo hẳn gương trước mặt, coi như là một thầy giáo phụ vậy. Cứ thế hai năm, chàng đi thi đỗ luôn. Chàng mừng quá nghĩ bụng:
              - Phen này có thể giáp mặt Phượn Tiên của ta rồi.
              Đem gương ra coi: nét ngài cong cong, răng ngà hé lộ, dáng mừng rỡ, khuôn mặt yêu thương hiển hiện trước mắt. Tưởng nhớ đến cồn cào, chàng cứ chăm chăm nhìn không chớp mắt. Thốt nhiên người trong gương nhoẻn miệng cười lên tiếng:
              - Bây giờ mới đúng là: người yêu trong trnh, tình nhân rõi bóng. Lưu giật mình mừng rỡ, nhìn khắp bốn bề thì Phượng Tiên đẽ đứng sau. Chàng nắm tay hỏi thăm tin tức ông bà nhạc. Nàng đáp:
              - Từ buỗi chia tay ấy, em chưa từng về nhà mà cứ nương náu chốn hang động núi non những mong cùng chàng chia sẻ nỗi vất vả.
              Lưu đi dự yến mừng ở quận, cô gái xin được đi theo, lúc hai người ngồi xe mà không ai thấy mặt nàng. Lúc sắp về, nàng bàn riêng với Lưu giả như làm lễ cưới ở quận. Đến khi trở về nhà nàng mới ra tiếp khách; chăm sóc việc nhà. Ai nấy cũng kinh ngạc về sắc đẹp tuyệt thế mà tuyệt nhiên không một ai biết nàng là hồ ly.
              Lưu ra làm việc quan dưới quyền quan lệnh Phú xuyên cho nên phải đến yết kiến. Chàng gặp lại Đinh, được anh ta mời về nhà khoản đãi rất trọng hậu rồi bảo Lưu:
              - Gần đây ông nhạc chuyển đi nơi khác. Nhà tôi đi thăm cũng sắp trở về. Ta nên gửi thư báo để họ cùng đến chúc mừng chú.
              Lúc đầu, Lưu tưởng Đinh cũng là hồ, khi hỏi thăm kỹ họ hàng quên quán mới biết anh là một nhà buôn bán lớn ở Phú Xuyên. Nguyên trước đây, Đinh từ một hiệu sách trở về nhà, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy cô ta đẹp mới đưa mắt liếc nhìn. Cô ta xin ghé đi nhờ ngựa. Đinh vui lòng cho đi và chở luôn về nhà học cùng ăn cùng ở. Cô ta có thể lách qua khe chấn song mà vào, lúc ấy Đinh mới biết là hồ ly. Cô ta bảo:
              - Chàng chớ nghi ngại. Em thấy chàng là người thành thực rất mực cho nên em tình nguyện gửi mình nương tựa.
              Đinh yêu cô ta, không lấy ai nữa.
              Lại nói về Lưu về đến quê, mượn một ngôi nhà rộng của nơi quyền quý, thu xếp đủ chỗ cho khách ăn nghỉ. Cửa nhà đã quét dọn sửa sang sạch sẽ, song Lưu còn loay hoay về việc tiệc tùng trần thiết. Qua một đêm, sáng ra đã thấy nhà cửa được trang hoàng bày tiệc lộng lẫy. Mấy ngày sau, quả có đoàn người hơn ba mươi người, trương cờ, khiêng rượu chè lễ vật đến, xe ngựa ngổn ngang đậu đầy đường ngõ. Lưu vái chào ông nhạc và hai ông anh đồng hao Đinh và Hồ, dẫn họ và nhà khách. Phượng Tiên đón mẹ và hai chị gái vào nhà trong.
              Bát Tiên mào đầu:
              - Thôi nhé! Con bé này đã lên bà rồi, đừng oán mụ mối nữa đấy. Xuyến với giày của tao còng không?
              Phượng lục ra đưa lại, trả miếng:
              - Giày thì vẫn còn đây, nhưng hàng nghìn con mắt đã ngắm nhìn nhão ra rồi.
              Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng:
              - Chị đánh mày để gửi truyền cho chú Lưu đấy, nghe chưa?
              Rồi ném giày ra cửa mà chúc rằng:
              Lúc mát như hoa nở
              Khi cũ tựa hoa tàn
              Trân trọng chưa dùng đến
              Hằng Nga đã mượn luôn.
              Thủy Tiên cũng chúc thay:
              Đã từng luồn chân ngọc
              Bước ra muôn người khen
              Nếu để Hằng Nga mượn
              Hẳn thương anh trò hèn.

              Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:
              Đêm đêm lên trời biếc
              Một sớm tìm chốn vui
              Lưu lại bóng nho nhỏ
              Để khắp thế gian coi.


              Rồi vun tro vào giữa mâm, cao đến vài đốt tay. Trông thấy Lưu, nàng bưng tặng: hóa ra đầy một mâm giày thêu, hệt như đôi giày trước đây. Bát tiên vội bước ra hắt mâm đổ xuống đất, chỉ còn lại vài chiếc nguyên. Nàng phục xuống đất mà thổi, lúc ấy giày mới tan biến, không còn dấu tích gì.
              Mâý ngày sau, lấy cớ đường xa, hao vợ chồng Đinh về trước. Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông cụ và chồng phải thúc giục mấy lần, đến đúng ngọ nàng mới cùng mọi người ra về.
              Lúc họ mới kéo đến, linh đình rầm rộ quá, người theo coi đông như chợ. Có hai tên cướp trông thấy Bát Tiên và Thủy Tiên đẹp quá, say chết mê chết mệt. Chúng âm mưu đón đường để cướp. Khi đó thấy họ về, chúng đuổi theo. Cách nhau độ tầm tên thì xe họ chạy cực nhanh, chúng không theo kịp. Đến một chỗ hai bên vách đá giáp đường, xe đi hơi chậm, lúc ấy chúng mới đuổi kịp, huơ đao mà hò hét hâm dọa. Mọi người tùy tùng đều bỏ chạy cả. Một tên cướp xuống ngựa mở rèm, trong xe chỉ có một bà già. Đang ngờ là nhắm nhầm bà mẹ, vừa định quay hướng khác liền bị dáo chém vào cánh tay phải và bị trói ngay tại chỗ. Nó định thần lại thì chung quanh không phải là núi, mà là cổng thành Bình Lạc. Bà mẹ ngồi trong xe chính là mẹ Lý tiến sĩ từ quê ra. Tên cướp đi sau cũng bị chặt chân ngựa và bắt trói vào cổng thành. Ông Lý bắt nộp quan Thái thú. Tra hỏi thì ra chính tên vừa bị bắt là một tên đại bợm đang bị truy nã.
              Lại nói về Lưu. Mùa xuân năm sau chàng thi hội đỗ luôn tiến sĩ. Phượng Tiên thấy việc vừa xảy ra cũng lo không khéo rước lấy tai vạ cho nên hết lời từ tạ xin thân bằng cố hữu khỏi đến mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác. Chỉ đến khi làm quan thị lang thì mới mua thiếp, đẻ được hai con trai.

              LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
              Than ôi! Thói đời sớm nắng chiều mưa, tiên hay trần cũng không khác nhau mấy. “Trẻ không gắng sức, già hối chẳng kịp”, tiếc rằng không có giai nhân hiếu thắng làm bóng trong gương để mà vui mà buồn vậy! Tôi mong có được hằng hà sa số bậc tiên sai con gái xuống lấy người trần thế thì cái bể bần cùng sẽ bớt những chúng sinh khổ sở . ( hàm ý nói về cảnh học trò)

              (1) Nguyên văn mấy câu này trong Kinh Thi? “Kim tịch hà tịch, kiến thử lương nhân? Tử hồ tử hề, kiến thủ lương nhân hà? (Đêm nay là đêm gì mà ta gặp chàng đây? Nàng ơi, nàng ơi! Như vậy thì chúng ta thế nào). Trong truyện, tác giả để cho nhân vật dùng lối chơi chữ: “chữ “lương” trong “lương nhân” nguyên là “người lành” “chàng- vợ gọi là chồng” thành “lương” là “mát” do sự lạnh da thịt vì hở.
              (2) Thời Tam Quốc ở Nam Dương có ba anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát đàn và Gia Cát Lượng (tục gọi là tam Cát) làm quan phò tá ba nước Ngụy, Thục và Ngô. Vì Gia Cát Lượng ở Thục là người có tài năng nhất cho nên người đương thời bảo “nước Thục được rồng”
              Ở đây muốn ẩn dụ: Lưu được Phượng Tiên là cô đẹp nhất trong ba chị em.
              (3)khúc Phá dao: Nói đầy đủ là khúc: “Lã Mông Chính phong tuyết phá dao lý” (bài ký Lã Mông Chính ở nhà hang trong cảnh gió tuyết) tức là Vương Thực Phủ thời Nguyên. Lã Mông Chính người đời Tống, thuở bé bị cha hắt hủi đuổi đi phải vào ở trong cái nhà hang đào trong núi, vô cùng cực khổ, sau làm quan đến tể tướng.
              Hát khúc này Phượng Tiên có dụng ý cảm thán cho cảnh riêng vợ chồng mình.
              (4) Nguyên văn là câu thơ cổ “Thư trung tự hữu hoàng kim ốc” ý nói học trò giỏi tất được giàu sang.

              NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.



              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #82
                Nghĩa Khí Cải Hóa Hồn Ma Nhiếp Tiểu Thiện - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.

                Ninh Thái Thần người Triết Giang, tính tình khảng khái, chính trực, tự trọng. Chàng thường tuyên bố với mọi người:
                - Ngoài vợ chính ra bình sanh không biết đến người đàn bà thứ hai.
                Có việc đi Kim Hoa, Ninh đến vùng cổng Bắc, đặt hành trang ở một ngôi chùa. Trong chùa, điện tháp như không có dấu chân người qua lại. Hai ngôi nhà tăng bên đông và bên tây, cánh cửa khép hờ, chỉ có căn nhà nhỏ phía nam, khóa cửa còn mới. Ở ngoài góc đông điện có rặng tre, cây to bằng chét tay, phía dưới là một cái ao lớn, mặt ao hoa súng nở rộ. Ninh đã có ý thích nơi thanh u này. Dịp này phủ sở tại mở khoa thi khảo thường kỳ, trong thành giá cả ăn ở đắt đỏ, cho nên Ninh quyết ở đây cho tiện.
                Nghĩ thế, Ninh dạo bước quẩn quanh, đợi nhà sư về. Trời đã sẩm tối, một sĩ nhân đến, mở cửa căn nhà phía nam. Ninh bước tới chào hỏi và nói rõý định của mình. Sĩ nhân nói:
                - Nhà này không có chủ, tôi cũng chỉ là một người ở ngụ. Nếu anh không chê cảnh hoang vắng, sớm tối tôi được chỉ giáo thì hay lắm!
                Ninh mừng, trải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Tối hôm đó trăng cao lồng lộng, trời trong như gương, hai người bạn mới quen kề đùi gác vế dưới mái hiên, chuyện trò thân thiết. Hỏi đến tên họ, sĩ nhân đáp:
                - Tôi họ Yến tên là Xích Hà.
                Ninh cứ tưởng anh ta là thí sinh đợi thi, song nghe tiếng không phải là người Triết Giang, hỏi ra quê ở mãi Thiểm Tây. Cứ xem cung cách nói năng thì anh ta là người chất phác thật thà. Chuyện vãn đã cạn, hai người chia tay đi nghỉ.
                Ninh lạ nhà, mãi không ngủ được, chợt nghe phía bắc nhà có tiếng rì rầm như có người nói chuyện. Chàng vùng dậy, nấp bên cửa sổ đá, ghé mắt nhòm qua. Thì ra bên ngoài tường ngăn đá ấy còn có một ngôi nhà nhỏ, một người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi và một mụ vú đang chuyện trò với nhau dưới ánh trăng. Mụ vú già lưng còng, dáng điệu lọm khọm, mặt một cái áo cũ màu hồng bợt bạt, búi tóc gài lược to ( phục sức kiểu cổ). Người đàn bà ca cẩm:
                - Con Tiểu Thiện sao mãi không thấy đến?
                - Ta cứ đợi, nó sẽ đến đấy. - Mụ vú đáp.
                Nó có ca thán gì với mụ không?
                - Con bé ấy, không việc gì phải nể nang lắm đâu.
                Nói chưa dứt lời thì một cô gái trạc tuổi mười bảy, mười tám đến, trông loáng thoáng có vẻ xinh xắn. Mụ vú cười bảo:
                - Không nên tán chuyện người sau lưng. Hai chúng ta đang nói về mày, thế mà cái con tiểu yêu này lẻn đến lúc nào lẹ thế, không một tiếng động. May mà chúng ta không nói gì xấu.
                Lại nịnh:
                - Ôi tiểu nương tử mới xinh tươi như người trong tranh vậy. Giả sử thân già này là đàn ông ắt hẳn cũng bị bắt mất hồn luông rồi.
                Tiếng cô gái:
                - Vú mà không tán thơm tôi thì còn có cái gì để mà nói tốt nói đẹp.
                Rồi không rõ họ còn nói với nhau những gì. Ninh cho đó chỉ là người trong gia đình hàng xóm, cho nên không buồn nghe nữa, quay vào đi nằm. Lát sau, tất cả lại yên ắng, không còn tiếng rì rầm trò chuyện.
                Ninh đang ngà ngà sắp ngủ, bỗng cảm thấy có người vào chỗ nằm của mình, vội vùng dậy xem ai thì hóa ra cô gái lúc nãy ở bên nhà phía bắc. Chàng sửng sốt hỏi, cô gái cười và trả lời:
                - Đêm trăng không ngủ được, xin đến chung tình.
                Ninh nghiêm sắc mặt:
                - Cô phải phòng điều dị nghị mà tôi thì sợ lời cười chê. Chỉ có một bước lỡ chân, còn đâu là liêm sỉ.
                Cô gái năn nỉ:
                - Đêm hôm ai biết đấy là đâu?
                Ninh lớn tiến, nhưng cô gái cứ lần lựa, dường như còn muốn nói điều gì. Ninh phải quát lên:
                - Cút ngay, không tôi kêu to cho người học trò bên kia biết.
                Cô gái có vẻ sợ, lùi ra đến ngoài cửa. Rồi lại vào đặt một thoi vàng lên chỗ nằm. Ninh cầm quẳng ra sân:
                - Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ra.
                Cô gái thẹn, quay ra nhặt lấy vàng, lẩm bẩm một mình:
                - Anh này là sắt đá hay sao ấy!
                Sớm hôm sau, có một người học trò ở Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ đến trọ đợi thi, ngụ ở mái đông chùa, tối đến đột nhiên chết, bắp chân có một lổ nhỏ như dùi đâm, máu rỉ ra. Không ai biết là duyên cớ vì đâu? Tối sau, người đầy tớ chết nốt, cũng có những vết tích như vậy.
                Buổi chiều Yến về, Ninh hỏi tại sao hai người thiệt mạng. Yến cho là yêu tinh. Ninh vốn là người khí phách cương trường, không cho là phải. Nửa đêm cô gái lại mò đến, bảo Ninh:
                -Tôi đã từng trải nhiều người, không ai có lòng dạ sắt đá như anh đâu. Chàng thật là bậc thánh hiền, tôi không dám lừa dối. Tôi họ Nhiếp tên là Tiểu Thiện, chết yểu năm mười tám tuổi, chôn ở cạnh chùa. Tôi bị yêu tinh cưỡng ép phải làm những điều kinh tởm hèn hạ, mặt dạn mày dầy với mọi người, thực lòng chẳng vui thú. Nay trong chùa không còn ai giết đượcnữa, sợ chính quỷ Dạ Xoa sẽ hại tới chàng.
                Ninh cả kinh, hỏi cách thoát thân. Cô gái mách:
                -Chàng cứ ngủ chung một nhà với Yến sinh là yên.
                Hỏi:
                - Sao không dám mê hoặc Yến sinh?
                - Ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần.
                Vậy cô mê hoặc người ta thế nào?
                - Ai ôm ấp tôi, tôi giấu dùi đâm vào chân, người đó lập tức mê đi rồi hút máu cho yêu tinh uống. Hoặc đưa cho vàng, thực không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát để kiếm cớ lưu lại rồi moi hết tim gan. Hai cách ấy làm được cả thì tốt nhất.
                Ninh ngỏ lời cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào thời gian nào? Cô gái mách: đêm mai. Đến khi từ biệt, người con gái khóc mà rằng:
                - Thiếp rơi vào bể khô, muốn tìm lên bờ mà không được. Chàng là người nghĩa khí, ắt có thể cứu thiếp qua khỏi khổ nạn. Chàng có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp, như thế cũng có thể ví với ơn tái tạo.
                Ninh khẳng khái nhận lời và hỏi mộ cũ. Trả lời:
                - Ở chỗ cây bạch dương, trên ngọn có quạ làm tổ.
                Nói đoạn ra cửa vụt biến mất.
                Hôm sau, Ninh sợ Yến đi vắng, ngay từ sớm đã mời Yến sang chơi, sửa soạn cơm rượu cùng ăn để lưu Yến lại. Ninh còn rủ ngủ chung giường. Yến lấy cớ ưa tĩnh để khước từ. Ninh không nghe ép phải mang giường chiếu sang. Yến bất đắc dĩ chiều ý, và còn dặn Ninh:
                - Tôi biết túc hạ là bậc trượng phu cho nên rất kính mộ phong độ. Tôi còn chút niềm riêng chưa sớm bộc bạch được, vậy xin chớ mở xem cái tráp của tôi. Nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi.
                Ninh hứa nghiêm cẩn tuân theo. Rồi ai nấy đi nghỉ. Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa nằm một chút đã gáy vang như sấm. Ninh không ngủ được. Khoảng gần trống canh một, thấp thoáng có bóng người ngoài cửa sổ. Một lát, cái bóng ấy tới gần cửa sở nhòm vào, mắt trợn trừng dữ tợn. Ninh hoảng đang định gọi Yến. Bỗng có một vật gì như dải lụa vọt từ trong tráp bay ra, vút như một mũi tên, cắt phăng cái chấn song đá cửa sổ rồi vụt quay vào trong tráp như một ánh chớp lặn biến.
                Yến biết trở dậy, Ninh giả vờ ngủ xem sao. Yến bưng cái tráp, lấy ra một vật, vừa soi vừa nhìn hít ngửi dưới trăng. Nó dài khoảng vài tấc, đẹp như lá lúa, ánh bạc lóng lánh. Xem rồi, Yến bọc lại mấy lớp cẩn thận, bỏ vào cái tráp đã thủng, lẩm bẩm một mình:
                - Cái con yêu cụ này khá lớn mặt, làm thủng mất tráp rồi.
                Đoạn định đi nằm. Ninh ngạc nhiên không biết ra sao, liền trở dậy nói hết những điều mình đã trông thấy và hỏi Yến. Yến bảo:
                - Đã là bạn tri giao tâm ái với nhau, tôi đâu dám giấu: tôi là kiếm khách. Nếu không vướng cái chấn song đá thì con yêu tinh kia tức khắc chết rồi. Tuy nhiên nó cũng bị thương.
                Hỏi:
                - Vật anh bọc lại đó là cái gì?
                - Thanh kiếm đấy. Tôi vừa ngửi thấy có yêu khí.
                Ninh muốn được nhìn tận mặt một chút. Yến lấy ra đưa cho xem một thanh đoản kiếm sán lóa. Ninh càng thêm kính phục.
                Hôm sau trở dậy, Ninh xem xét bên ngoài cửa sổ, quả nhiên vẫn còn vết máu. Ra phía bắc chùa quả có một nấm mồ sè sè dưới gốc bạch dương, trên có tổ quạ.
                Công việc đã giải quyết xong. Ninh thu xếp hành trang định về quê. Yến bày tiệc tiễn, tình nghĩa thật dạt dào. Rồi chàng đưa tặng Ninh một cái bao da đã rách, dặn rằng:
                - Đây là cái bao kiếm, xin giữ cẩn thận, có nó thì lũ yêu quái không dám tới gần.
                Ninh ngỏ ý xin học đạo. Yến bảo:
                - Túc hạ là người tín nghĩa, cương trực, có thể học được. Song túc hạ thuộc dòng phú quý, không phải là người trong mạch đạo.
                Chia tay với Yến rồi, Ninh nói thác là mình có cô em gái chôn ở đây, đào mồ lấy hài cốt, gói bọc trong quần áo, đưa xuống thuyền chở về quê.
                Thư phòng của Ninh ở rìa làng, sat với cánh đồng cho nên chàng đem hài cốt Tiểu Thiện chôn và xây mộ ngay ngoài thư phòng. Khi tế mộ chàng khấn:
                - Thương nàng hồn ma côi cút, nên chôn nàng ở cạch nhà khi cười khi khóc cùng nghe để khỏi lũ quỷ đàn ông làm nhục. Một bát nước mưa mời uống, có gì chưa được ngọt xin đừng chấp.
                Khấn xong quay về, nghe đằng sau có tiếng gọi:
                - Xin đợi cùng về với!
                Ninh quay lại nhìn thì hóa ra là Tiểu Thiện. Cô ta vui mừng ra mặt, ngỏ lời cảm tạ:
                - Chàng là bậc tín nghĩa, em dù có chết mười lần cũn không đủ đền đáp. Xin cho được theo về chào lại song thân cho lòng này khỏi hối.
                Chàng nhìn kỹ Tiểu Thiện, da nõn nà như trứng gà bóc, chân tay thon thả như búp măng non, ban ngày ban mặt lại càng thấy đẹp. Hai người cùng vào thư phòng. Ninh dặn nàng ngồi đợi, vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc nhiên, nhân vợ Ninh ốm đã lâu, dạy rằng chớ có nói cho biết, e chị ta kinh sợ. Còn đang đôi hồi thì cô gái đã nhẹ nhàng bước vào, phục lạy dưới đất. Ninh giới thiệu:
                - Thưa mẹ, đây là Tiểu Thiện.
                Bà mẹ hoảng hốt nhìn cô gái, lòng bứt rứt không yên. Cô ta thưa:
                - Con lênh đênh trơ trọi một mình,xa cha mẹ anh em, nay nhờ ơn công tử đến từng chân tơ kẽ tóc xin nguyện được sửa túi nâng khăn để báo đền ân nghĩa lớn.
                Bà mẹ thấy cô ta cũng ra dáng xinh xắn đáng yêu, lúc ấy mới dám tiếp lời:
                - Được nương tử chiếu cố đến con tôi, thân già này mừng không để đâu cho hết. Song tôi chỉ có một mình nó, những mong đợi có giọt máu nối dõi tông đường, cho nên không dám cho gá nghĩa cùng ma.
                Cô gái buồn rầu thưa lại:
                - Con thực không dám hai lòng. Người dưới suối vàng đã không để mẹ tin thì con thờ chàng làm anh trai. Từ nay xin nương tựa nơi mẹ, sớm tối hầu hạ, như thế có được không?
                Bà mẹ cảm thương cô ta lòng thành, tỏ ý chấp nhận. Cô ta xin vào lạy chị dâu, song bà mẹ can vì chị ta đang ốm. Cô ta lập tức xuống bếp thay mẹ sửa soạn xơm nước, vào buồng sắp xếp giường chiếu như đã quen thuộc ở đây lâu. Tối đến bà mẹ vẫn còn e sợ, không dám đặt giường trải nệm cho cô. Biết ý cô lập tức quay ra. Qua thư phòng, cô định vào lại ra, cứ ngập ngừng ngoài cửa như e sợ điều gì. Ninh gọi vào, cô ta nói:
                Trong nhà có kiếm khí toát ra kinh người. Đi qua em không dám vào là vì thế.
                Lúc ấy Ninh mới biết là vì cái bao da, liền tháo đem treo sang buồng khác. Cô gái đến ngồi cạnh đèn, không nói không rằng. Lâu sau mới hỏi:
                - Tối anh có đọc sách không? Hồi bé em tụng kinh La Nghiêm nay quên quá nửa. Xin anh cho mượn một quyển, tối rảnh em đến nhờ anh chỉ cho.
                Ninh nhận lời. Cô ta ngồi yên lặng như trước, mãi đến canh hai mà chưa muốn đi. Ninh phải giục, cô ta mới ão não nói:
                - Ở cõi âm cô hồn này khiếp nấm mồ hoang lạnh lẽo lắm.
                Ninh an ủi:
                - Trong thư phòng không có cái giường riêng nào để nằm. Vả chăng anh trai em gái không nên quá gần cận, tránh hiềm nghi.
                Cô gái miễn cưỡng đứng dậy, mặt ủ mày chau, tưởng sắp phát khóc, loạng choạng cất bước ra khỏi cửa. Cám cảnh xót thầm, Ninh muốn lưu cô ta ngủ giường khác song lại e mẹ la rầy.
                Từ đó, chiều hôm cô ta múc nước, bưng thau hầu mẹ, xuống nhà chăm sóc việc nhà việc cửa, không điều gì là không theo ý mẹ. Vào khoảng xẩm tối, cô ta lại cáo lui, đi qua đầu thư phòng đốt đèn tụng kinh. Đến khi thấy Ninh sắp đi ngủ, cô ta mới buồn bả lủi thủi trở ra.
                Từ lâu, vợ Ninh ốm nặng bỏ bê việc nhà, bà mẹ không kham được nhọc nhằn vất vả. Sau khi Tiểu Thiện đến, bà cụ được thư thái, trong lòng đã mến cô gái, rồi lâu dần càng yêu quý như con đẻ, không còn bị ám ảnh là ma nữa. Do vậy bà cụ không nỡ chiều chiều để mặc cô gái ra khỏi nhà mà lưu lại ngủ chung giường. Lúc đầu cô gái mới đến không hề ăn uống gì, nửa năm sau dần dần mới hớp miếng canh cháo. Cả hai mẹ con cùng thương yêu cô ta, kiêng không nhắc đến điều quỷ ma cho nên mọi người cũng không ai biết cô ta không phải là người.
                Không bao lâu vợ Ninh chết. Bà mẹ muốn cho lấy Tiểu Thiện song lại sợ ma hại. Cô gái thoáng ý ấy, thừa dịp thưa với mẹ:
                - Con về đã hơn một năm, hẳn mẹ hiểu thấu lòng con không phải đi gieo vạ cho người. Con theo công tử chỉ chăm chắm một lòng, không hề có ý khác, là vì thấy chàng quang minh lỗi lạc, cả trời và người đều khâm phục, cho nên thực lòng muốn nương tựa và phục giúp cho chàng để nhờ hơi được chút sắc phong (phong cáo. thời phong kiến một người làm quan, cha mẹ vợ con thường được tặng phẩm hàm theo) hồn được vẻ vang ở dưới tuyền đài.
                Bà mẹ cũng rõ rằng cô ta chẳng có ác tâm, song còn e không có cháu nối dõi. Nàng thưa:
                - Con cái là do số trời. Tên chàng đã được ghi trong “sổ phúc”, rạng vẻ tông đường, có ba con trai, không vì lấy vợ ma mà bị cắt giảm.
                Bà mẹ tin cùng con trai bàn bạc. Ninh được lời mừng lắm, sửa soạn cỗ bàn để cá với họ hàng bầu bạn. Có người muốn được coi cô dâu mới. Nàng trang điểm lộng lẫy, thản nhiên bước ra, người đầy một nhà, ai ai cũng trố mắt nhìn, không dám ngờ là ma mà cứ tưởng là tiên. Bởi vậy họ hàng nội ngoại đều biện lễ đến mừng, tranh nhau mời mọc làm quen. Còn Tiểu Thiện lại giỏi họa, nàng vẽ hoa lan,hoa mai lên giấy thước đưa tặng lại đáp lễ. Người nào được tặng đều vinh dự quý giá, bọc thật kỹ để giữ cho bền.
                Một hôm, nàng cúi đầu đứng bên song, vẻ rầu rầu như mất vật gì. Đột nhiên nàng hỏi chồng:
                - Cái bao da đâu rồi ạ?
                Đáp:
                - Vì mình có ý hãi nó, cho nên tôi bọc lại để chỗ khác.
                - Em tiếp thụ được sinh khí đã lâu nên không còn sợ nó nữa. Chàng nên lấy về treo ở đầu giường.
                Ninh hỏi sao phải thế? Nàng đáp:
                - Ba ngày vừa rồi, tim em cứ hồi hộp không yên. Em e rằng lũ yêu tinh ở Kim Hoa hận em bỏ trốn đi xa, sớm muộn sẽ tìm cho bằng được.
                Ninh đem cái bao da về, Tiểu Thiện lật trái lật phải xem kỹ rồi nói:
                - Bao kiếm này, tiên đã dùng để bỏ đầu người. Nó đã rách nát đến thế này, không biết số kẻ ác bị giết là bao nhiêu? Bây giờ em trông thấy đây, vẫn còn sởn cả da gà.
                Bèn đem treo. Hôm sau lại bảo Ninh đem treo lên trên cửa. Đêm đến nàng ngồi bên đèn, hẹn Ninh chớ ngủ. Bỗng có một vật như con chim bay rơi xuống. Tiểu Thiện hoảng sợ nép vào tấm rèm che. Ninh nhìn coi vật ấy hình như quỷ Dạ Xoa mắt lập loè như chớp, mồm nhễ nhãi những máu, tay chấp chới như chộp bắt, lừng lững tiến vào. Đến cửa nó dừng bước quẩn quanh, lúc sau tới gần cái bao da, lấy móng giật xuống tựa như muốn xé rách. Cái bao da tự nhiên “soạt” một tiếng, nghe như hai miếng cái sột đập vào nhau, từ trong bao một nửa hình quỷ ló ra, kéo giật Dạ Xoa vào bao. Bao co rút lại như cũ.
                Chứng kiến sự việc kỳ lạ ấy, Ninh cũng bàng hoàng. Cô gái ra khỏi chỗ nấp mừng rỡ kêu lên: “Yên tâm rồi!” Hai người cngươilại cái bao, bên trong chỉ có độ mấy bát nước trong mà thôi.
                Sau đó mâý năm, Ninh đỗ tiến sĩ, Tiểu Thiện sinh một con trai. Ninh lấy vợ lẽ, một vợ lại sinh một con trai nữa. Về sau cả ba con đều đỗ tiến sĩ, có danh tiếng đương thời.


                NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #83
                  Duyên Tiên Âm Phủ - Cầm Sắt - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.

                  Chàng thư sinh họ Vương ở Hán Thủy, mồ côi từ từ nhỏ, gia cảnh thanh bần, song phong nhã chỉnh tề, quần áo đẹp đẽ, tinh thơm.
                  Phú ông họ Lan ưng ý Vương, gả con gái và hứa sẽ bù trì nên cơ nghiệp. Cưới không bao lâu ông Lan chết. Anh em vợ đều coi rẻ Vương, không đếm xỉa đến. Còn vợ thì kiêu ngạo coi chồng như con ở. Một mình chị ta chễm chệ ăn uống của ngon vật lạ, còn chồng chỉ có cơm hẩm rau già. Vương ẩn nhận chịu đựng.
                  Năm mười chín tuổi, Vương đi thi khoa đồng tử (khoa thi chọn học trò giỏi, cung cấp cho học trường quốc tử giám) bị hỏng. Ở quận trở về, vợ đi vắng mà trong nồi có cái đùi dê ninh chín, đang lúc đói bụng Vương lấy ăn liền. Đang ăn vợ về không nói không rằng, bê luôn nồi thịt cất đi. Vương xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói phẫn rằng:
                  - Tình cảnh này chết đi cho rồi!
                  Vợ nổi đóa hỏi dồn, định bao giờ chết? Rồi ấn luôn sợi dây treo cổ vào tay anh ta. Vương uất quá, đập bát canh vào trán vợ rồi bỏ đi. Tự nghĩ nhục nhã thế này không đáng sống nữa. Vương đem theo dây lưng vào một cái thung sâu trong núi. Đến một cây um tùm, đang chọn cành buộc dây định tự vẫn, bỗng thấy trong hẻm núi đất, lấp ló có bóng quần đàn bà. Chớp mắt, một cô hầu gái bước ra, vừa trông thấy Vương đã quay người trở lại như cái bóng biến hút vào trong vách đất, không để lại dấu vết gì. Vương biết là yêu quái, song ý đang muốn chết cho nên cũng chẳng còn sợ hãi, bỏ cái dây treo lủng lẳng đó ngồi đợi xem sao. Lát sau, vách đất lại ló ra nửa khuôn mặt. Anh ta vừa nhác thấy, nó đã lại lặn biến. Vương nghĩ bụng nó đã là quỷ, theo nó có khi lại tìm được cái chết vui vẻ cũng nên. Nghĩ thế, liền vớ luôn một hòn đá đập vào vách đất, kêu to:
                  - Đất này nếu có thể vào được, xin ai đó chỉ cho tôi một đường đi! Tôi không tiết nguồn vui mà chỉ đi tìm lối chết thôi.
                  Đợi hồi lâu không thấy gì, Vương lại đập lại kêu như trước. Ở trong lòng đất có tiếng vẳng ra thanh lảnh nhưng chỉ ri rí như tiếng ong bay:
                  - Nếu cần chết, xin hãy tạm lui, tối đến!
                  Vương “vâng” rồi cứ ngồi đấy đợi. Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi bỗng hóa thành nhà cao, hai cánh cửa hé mở, Vương lần theo bậc thềm bước vào. Mới được mấy bước thấy có dòng nước chảy ngang, khóc bốc nghi ngút tựa như suối nước nóng. Nhúng tay xuống thấy nước nóng bỏng, song không biết nông sâu thế nào. Vương đoán dây là lối chết mà quỷ thần dẫn lối đến, liền trầm mình luôn xuống đó. Thế là nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát ràn rạt, may mà chàng ta cứ nổi không chìm, lềnh bềnh hồi lâu, quen dần với nước nóng, Vương cố vùng vẫy mới sang được bờ bên kia, da thịt may mà không rộp bỏng.
                  Lên đường, trông thấy xa xa một tòa nhà có ánh đèn, anh ta vội tới đó. Một con chó dữ xông ra đớp áo, nhay bít tất, Vương nhặt đá ném, nó mới hơi lùi. Nhưng rồi cả một đàn chó, con nào con nấy to như con bò, xúm đến sủa ầm ầm. Trong lúc nguy cấp, cô hầu gái chạy ra, quát đuổi lũ chó rồi bảo anh ta:
                  - Anh chàng cần chết đã tới đó phải không? Nương tử tôi thương hại anh gặp cơn khốn đốn, sai tôi đưa anh đến “ngôi nhà yên vui”, từ đây không còn gặp tai ương gì nữa.
                  Đoạn khêu đèn, dẫn đường, mở cổng sau lẳng lặng mà đi. Tới một căn nhà, ánh đuốc sáng hắt qua cửa sổ ra ngoài, cô ta bảo Vưong:
                  - Anh vào đi, tôi về đây!
                  Vương vào nhà nhìn bốn xung quanh thì ra lại chính là nhà mình. Quay ngoắt ra thì gặp bà vú vẫn phục dịch. Bà ta bảo:
                  - Cô tôi cả ngày trông ngóng cậu, sao cậu lại bỏ đi?
                  Nói đoạn dắt Vưonội giámvào, chị vợ- chỗ bị thương buộc khăn- tươi cười xuống giường đón bảo:
                  - Vợ chồng ăn ở với nhau hương lửa nồng bén đã hơn năm rồi, đùa nhau một chút mà không biết ư? Em biết em có tội, chàng bị trêu chơi mà em bị thương thật. Thôi xin chàng bớt giận làm lành!
                  Rồi lục ở đầu giường ra hai thoi vàng, dúi vào lòng Vương:
                  - Nay về sau việc ăn việc mặc xin chàng tùy sở thích, được không?
                  Vương chẳng nói chẳng rằng, vội vàng trở lại cứ đẩy cửa mà đi, định quay vào thung, tới ngôi nhà cao trước đây. Ra đến cánh cổng thì cô hầu gái lúc nãy còn lững thững bước một, khêu đèn đứng đằng xa ngóng lại. Vương vừa chạy theo vừa gọi, ánh đèn dừng lại hẳn. Đến nơi, cô hầu bảo:
                  - Anh lại tới à? Thật là phụ nỗi khổ công của nương tử tôi lắm đấy!
                  Vương đáp:
                  - Tôi thích chết, có nhờ cô để cầu sống đâu? Nương tử là bậc đại gia, dưới ấy chắc cần đến người làm, tôi xin hết sức phục dịch. Thực thà tôi khôngòn thấy sống là vui nữa.
                  - Sao anh nghĩ ngược đời thế. Chết vui vẫn không bẳng sống khổ. Nhà chúng tôi không có việc gì ngoài việc đào sông, hốt phân, nuôi chó, dọn xúc. Làm mà không đúng quy định thì cắt tai xẻo mủi, chặt chân, cắt gót. Anh có chịu được không?
                  - Được!
                  Vào đến cổng sau, Vương hỏi:
                  - Có những việc gì đây? Cô vừa nói việc dọn xác chết, ở đâu mà nhiều người chết thế?
                  Đáp:
                  - Nương tử tôi bản tính từ bi. Người đã lập một sở cứu tế cho những kẻ cô độc, thu nuôi các hồn ma ở dưới chín suối bị chết bất đác kỳ tử, không còn chốn đi về. Ma ấy kể có hàng nghìn, ngày nào có người chết là phải đi vác xác. Anh hãy đi xem qua!
                  Đi, thấy một cái cổng có chữ đề: “Vườn cứu tế kẻ cô độ”. Vào thấy nhà cửa ngang dọc linh tinh, hôi thối nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy có ánh đèn xúm lại, toàn là những thân hình đứt đầu, cụt cẳng, thảm thương quá không nỡ nhìn. Quay ra định đi tiếp, thấy có hàng dãy xác chết nằm ngang dưới chân tường, máu thịt tơi tả nhầy nhụa. Cô hầu gái bảo Vương:
                  - Đó, mới nửa ngày chưa kịp vác đi mà đã bị lũ chó cắn xé như thế đấy! Rồi cô ta sai luôn Vương chuyển đi. Anh ta cỏ vẻ ngần ngừ, cô gái bảo:
                  - Nếu không anh làm được thì xin mời về “ngôi nhà yên vui’ vậy!
                  Vương khẩn khoản nhờ cô gái liều hời xin cho mình khỏi phải làm cái công viêệ uế tạp kinh khủng ấy. Cô ta bằng lòng. Đi đến gần một căn nhà, cô ta bảo:
                  - Anh tạm ngồi đây, tôi vào thưa với nương tử. Việc nuôi chó nhẹ nhàng hơn, có thể xin giúp. Nếu được tôi báo cho!
                  Một lát sau cô ta chạy ra gọi:
                  - Lại đậy! Lại đây! Nương tử đã ra đấy!
                  Vương theo vào, trên đại sảnh đèn lồng treo khắp bốn bên, ngồi gần phía trong cùng là một vị nữ lang tuổi trạc độ đôi mươi phong thái rõ ràng là người nhà trời. Vương phục lạy dưới thềm. Nữ lang sai đỡ chàng dậy, phán rằng:
                  - Đây là một nho sinh, sao để nuôi chó được? Có thể giao cho việc trông coi sổ sách nhà bên tây.
                  Vương mừng lạy tạ. Nữ lang lại bảo:
                  - Anh có vẻ chất phác thật thà. Hãy làm việc của anh cho cẩn thận. Nều lầm lẫn sai sót, tội ắt không nhẹ đâu.
                  Vương cứ vâng dạ luôn mồm. Cô hầu gái lại dẫn đi sang tây. Thấy nhà cửa ở đây sạch sẽ sáng sủa, Vương đã mừng. Khi cảm tạ cô hầu gái, anh ta mới lựa lời hỏi thăm gia thế mương tử. Cô ta cho biết:
                  - Tiểu tự nương tử là Cầm Sắt. Người là con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Còn tôi tên là Xuân Yến. Khi nào cần gì, xin anh cứ nói cho biết.
                  Cô gái quay ra, đem lại đủ cả áo giày, chăn nệm, xếp lên giường. Vương mừng được chỗ yên thân. Thế là từ đó, hàng ngày mới sớm tinh mơ anh đã thức dậy làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Con hầu, đầy tớ trong nhà tất thảy đều yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều. Song nhất nhất Vương đều từ chối. Hai bữa cơm hàng ngày đều từ nhà trong cung cấp ra. Nương tử xét anh ta giữ được đức liêm cẩn cho nên cấp riêng cho mũ nho sinh, áo tươi màu. Phàm tiền bạc ban thưởng đều sai Xuân Yến đưa cho.
                  Cô gái này cũng vào loại lả lơi, khi đã thân thuộc Vương rồi, lúc qua lại vẫn thường khóe môi làn mắt đưa tình. Vương cẩn thận giữ mình không dám mảy may buông thả, thậm chí còn phải giả vờ như ngốc nghếch dại khờ.
                  Được hai năm sớ tiền thưởng đã gấp bội so vơí lệ thường, thế mà Vương vẫn giản dị, trước sau sao thế. Một đêm đang ngủ, bỗng nghe trong nhà có tiếng hô hoán, vội vàng trở dậy, xách dao chạy vào lửa thì lửa đỏ rực trời, bọn cưóp đã lố nhố đầy sân. Lũ đầy tớ ấy đã sợ hãi lẫn chạy như chuột. Mọi người giục chàng cùng chạy trốn nhưng chàng không nghe mà còn bôi mặt, thắt lưng lẩn vào trong đám cướp mà làm bộ thét to lên:
                  - Chớ làm cho Tiết nương kinh sợ! song phải lưu 1y của của, chớ bỏ sót!
                  Lúc bọn cướp đang lùng sục Cầm Sắt ở khắp các dãy nhà mà chưa thấy, Vương hiểu rằng nàng chưa bị bắt, liền lẻn đến tìm ở đằng sau nhà. Gặp một bà già đang nép ở đó, hỏi mới biết rằng nàng và Xuân Yến đã vượt tường ra ngoài. Vương liền trèo qua tường, bắt gặp chủ và tớ ở một góc tối. Chàng bảo:
                  - Ẩn náo ở đây sao được?
                  Nàng đáp:
                  - Nhưng tôi không thể đi được nữa.
                  Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy được khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới rút được vào trong hang sâu, ghé đặt nàng ngồi xuống.
                  Thoắt, một con hổ chồm tới. Vương cả kinh định xông ra chặn thì hổ đã ngoạm lấy nương tử. Vương vội túm chặt tai hổ, đút cánh tay mình vào miệng hổ để đỡ cho Cầm Sắt. Hổ gầm lên, bỏ cô gái, bập luôn cánh tay Vương. “Rắc” một cái,cánh tay Vưong rời ra rơi xuống đất. Hổ phóng vụt đi. Còn Cầm Sắt cứ nức nở:
                  - Khổ chàng rồi! Khổ chàng rồi!
                  Vương đang lúc hăng chưa thấy đau, chỉ thấy máu tuôn ra xối xả, vội nhờ cô hầu xé vạt áo băng bó vết thương, Cầm Sắt ngăn lại, tự mình nối cánh tay cho Vương rồi buộc chặt.
                  Trời hừng đông, họ mới chậm rãi quay về. Về đến nơi, nhà cửa vắng tanh vắng ngắt. Sáng ra con hầu đầy tớ dần dần tụ tập. Cầm Sắt thân đến nhà tây thăm hỏi Vương. Cởi vải buộc ra, cánh tay đã liền. Nàng đưa thuốc liều trị vết thương rồi mới đi.
                  Từ đó, nàng càng quý trọng Vương, mọi đồ ăn thức uống dùng chàng đều được hưởng ngang như nàng. Khi vết thương khỏi hẳn, nàng cho đặt rượu ở nhà trong để úy lạo. Đặt ghế cho ngồi, chàng ba lần từ chối, sau mới dám ngồi ghế vào một góc. Nàng nâng chén mời trân trọng như đối với khách, lâu sau mới nói:
                  - Chàng cõng cứu thiếp, hai thân thể gần cận. Nay thiếp muốn xin theo việc em gái vua Sở với người bầy tôi Chung Kiến (1) hiềm chưa có người mai mối, nhưng xấu hổ phải tự đến thân.
                  Vương bàng hoàng sợ hãi:
                  - Tôi chịu ơn sâu nương tử, thân này dù có tan nát cũng không đủ báo đền. Xử sự ấy không đúng phận, e búa rìu sấm sét chẳng dung, bởi vậy tôi không dám theo lệnh. Ví dù nương tử có thương lẻ bóng, cho tôi một cô hầu cũng đã quá.
                  Mấy hôm sau, bà chị cả Cầm Sắt là Dao Đài đến. Đó là một thiếu phụ đẹp, khoảng bốn mươi bốn. Tối, Vương được vời tới, Dao Đài mời ngồi và bảo:
                  - Ta từ nghìn dặm tới đây để làm chủ hôn cho em nó. Đêm nay có thể làm lễ với lang quân.
                  Vương lại vội đứng dậy tạ từ. Dao Đài sai bày tiệc rượu, bảo hai người đổi chén. Chàng lại cố từ. Dao Đài ép đổi cho bằng được. Chàng vái lạy ta rồi mới dám uống. Dao Đài đi ra, Cầm Sắt nói với Vương:
                  - Xin thưa thực với chàng: Thiếp là tiên trên thượng giới bị trích giáng. Thiếp tự nguyện xin ở dưới âm nuôi các oan hồn để chuộc lỗi. Vừa rồi gặp cướp- quỷ trời nên mới có chuyện gắn bó cùng chàng. Thiếp phải mời bà chị ở xa tới làm chủ hôn lễ cũng là để giúp trông coi việc ở đây cho thiếp tiện theo chàng về nhà nơi trần thế.
                  Vương đứng dậy cung kính:
                  - Ở dưới này vui lắm. Trên thế gian tôi có con vợ dữ, cửa nhà thấp hẹp, thế không thể về vun đắp cho vẹn tròn để giữ gìn cuộc sống lâu dài.
                  Nàng cười nhủ:
                  - Đừng ngại.
                  Rượu đã say đi nghỉ, cuộc ái ân rất đỗi đậm nồng.
                  Mấy ngày sau nàng bảo chồng:
                  - Vui thú ở cõi âm này không thể lâu. Chàng về ngay thu xếp nhà cửa, xong thiếp sẽ tự đến.
                  Đoạn sai đem người ngựa cho Vương, mở cửa đưa ra. Bức vách núi đất lại liền như cũ.
                  Vương cưỡi ngựa về làng, người làng trông thấy thảy đều kinh hãi. Về đến nhà, chốn cũ đã biến thành nhà cao cửa rộng. Nguyên là do: khi Vương bỏ đi, chị vợ mời hai anh đến báo sự thể gia đình. Tối Vương không về, họ bổ đi tìm. Có người nhặt được cái giày ở dưới ngòi cho là anh ta đã chết. Hơn một năm sau vẫn không có tin về Vương. Một anh lái buôn ở Thiểm cặp kê với vợ Vương đến ở luôn đấy, chỉ nửa năm đã xây cất tòa ngang dãy dọc. Anh ta buôn bán đi xa về gần lại mua một cô vợ bé đem về. Từ đó trong nhà sinh lục đục. Anh lái buôn cũng có khi hàng mấy tháng không về.
                  Vương nghe tin ấy ức lắm, buộc ngựa ở ngoài vào nhà. Bà vú kinh hãi lạy phục xuống đất. Vương quát mắng một trận, bắt dẫn tới buồng vợ. Chị ta nghe tin bỏ trốn, thắt cổ chết ngoài thềm nhà. Vương sai khiêng trả xác cho nhà họ Lan.
                  Anh gọi cô vợ bé tay lái buôn đến. Ngắm cô ta cũng xinh xẻo,mới khoảng mười tám mười chín tuổi. Vương giữ lại ngủ. Gã lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả cô vợ bé, nhưng cô ta kêu khóc không chịu đi. Vương làm đơn kiện gã lái buôn tội chiếm nhà, cướp vợ. gã ta không dám ho he, dọn hàng quay về Thiểm.
                  Việc nhà xong đã lâu la, Vương đã tưởng Cầm Sắt phụ ước. Một tối chàng đang cùng người thiếp ăn uống thì ngựa xe Cầm Sắt xịch đến cổng. Nàng bảo tất cả tùy tùng ra về, chỉ lưu lại Xuân Yến.
                  Vào buồng trong, người thiếp chạy ra lạy chào, nàng bảo:
                  - Người này có tướng sinh con trai, có thể thay tôi chịu khổ đây.
                  Nói rồi đem quần gấm đồ trang sức ra cho. Người thiếp lạy tạ đứng hầu. Nàng kéo ngồi xuống, nói cười vui vẻ. Lát sau nàng bảo:
                  - Tôi say rồi, muốn đi ngủ.
                  Vương cũng cởi dép lên giường cùng nàng, người thiếp lúc ấy mới đi ra. Đến khi cô ta vào buồng mình thì Vương đã nằm đó. Cô ta lấy làm lạ, quay trở lại buồng Cầm Sắt dòm xem, đã tắt đèn.
                  Từ đó, không đêm nào Vương không ngủ lại buồng người thiếp. Một đêm người thiếp trở dậy nhòm vào buồng Cầm Sắt thì lạ qú, Vương đang cùng nàng tình tự to nhỏ. Người thiếp lại định nói với Vương thì chỉ thấy giường không. Sáng ra, người thiếp kể lại với Vương điều ấy. Vương cũng không tự biết mình thế nào, chỉ thấy mình khi thì ngủ ở buồng người thiếp, khi thì ngủ ở buồng Cầm Sắt, Vương dặn phải giấu, đừng để hở ra những điều lạ lùng ấy. Lâu sau, cô hầu gái Xuân Yến có chửa. Cầm Sắt làm như không biết. Đến khi cô ta trở dạ, khó đẻ liền cất tiếng gọi “nương tử”. Nàng vào, thai ra ngay: một cậu con trai. Cắt rốn xong, đặt vào lòng cô hầu, nàng cười mà bảo:
                  - Thôi nhé, chớ có đẻ nữa! Nghiệp nhiều thì nạn lắm đó!
                  Từ đó, cô hầu gái không đẻ nữa. Người thiếp sinh năm trai hai gái. Trong ba mươi năm ở cùng Vương, nàng thỉnh thoảng lại trở về nhà mình, đều vào đêm cả. Một hôm nàng dắt cô hầu gái đi và thôi không trở lại nữa.
                  Vương sống đến tám mươi tuổi, đột nhiên đem theo lão bộc cùng đi đâu không thấy về.
                  NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
                  (1) Thời Xuân Thu, hai nước Sở - Ngô đánh nhau. Sở thua phải bỏ đô thành chạy, vua Sở gọi bầy tôi là Chung Kiến sai đưa em gái vua là Quý Thiên chạy trốn. Sau Quý Thiên xin được lấy Chung Kiến, người mà mình đã gần gụi hình bóng.


                  ST
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #84
                    Cắt Thịt Vì Tình - Liên Thành - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                    Kiều sinh người quận Tấn Minh, nổi tiếng tài giỏi từ hồi nhỏ. Mới ngoài hai mươi tuổi, có gan dạ, chơi thân với Cố sinh; sau khi Cố mất, thời thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan ấp tể (cũng như chủ quận hay tri huyện) lấy văn chương cùng chàng kết giao thân mật. Khi ấp tể qua đời tại quận, gia quyến lần lữa mãi không về; chàng bán sản nghiệp đưa linh cửu ấp tể về quê quán, khứ hồi trên hai nghìn dặm. Vì thế mà giới trí thức càng trọng, nhưng gia đạo chàng từ đó càng thêm sa sút.
                    Ông Hiếu Lêm (cử nhân) họ Sử có con gái tên là Liên Thành, thêu thùa rất khéo, lại hay chữ nên Hiếu Liêm hết sức quý chuộng. Nàng thêu một bức tranh thiếu nữ ngồi thêu mệt mỏi. Sử Hiếu Liêm đưa ra trưng cầu các cậu thiếu niên đề thơ vào đó, trong ý là muốn kén rể. Kiều sinh đề bài thơ như vầy:

                    Dung hoàn cao kiết lục bà sa
                    Tảo hướng lan song tú bích bà
                    Thích áo uyên ương hồn giục đoạn
                    Ấm đình trâm tiến xúc song nga.


                    Nghĩa là:
                    Óng ả trên đầu mái tóc tiên
                    Sáng ngồi bên cửa rút bông sen
                    Uyên ương thêu đến lòng như thắt
                    Kim chỉ ngừng tay có vẻ phiền.


                    Ngoài ra chàng lại tặng riêng một bài khen nàng thêu khéo:
                    Tú tiến khiêu lai tự tả sinh
                    Bức trung hoa điểu tự nhiên thành
                    Đương nhiên chức cẩm phi trường kỷ
                    Hạnh bả hồi văn cẩm thánh minh.


                    Nghĩa là:
                    Thêu như sống thật thấy tài chưa?
                    Hoa điểu trời xanh há kém thua
                    Tranh gấm nàng Tô đâu sánh kịp
                    Hồi văn may được cảm lòng vua.
                    (Hai câu sau cùng nhắc tích xưa Tô Huệ thêu bài thơ Hồi Văn trên gấm, dâng vua để chuộc tội cho chồng. Hồi văn có thể đọc ngược xuôi đảo lộn, thành ra mấy trăm bài thơ. Kiều sinh tán tụng Sử tiểu thư. Sánh lại, Tô Huệ chỉ có Hồi văn cảm lòng thiên tử, chứ bức thêu gấm kia còn kém tài của tiểu thư.)
                    Nàng được hai bài thơ mừng lắm, trước mặt ai cũng khen Kiều sinh đáo để, nhưng cha có ý chê nhà chàng nghèo. Không muốn gả con gái cho.
                    Liên Thành gặp lại cũng khen ngợi Kiều sinh, lại sai mụ vú, giả vâng mệnh cha, đem tiền bạc đến giúp chàng chi phí đèn sách. Chàng nói:
                    - Liên Thành là người tri kỷ của ta.
                    Từ đó mơ màng tưởng nhớ như kẻ khát muốn uống, đói muốn ăn vậy.
                    Không bao lâu Sử Hiếu Liêm nhận gả nàng cho con một nhà buôn muối là Vương Hóa Thành; bấy giờ chàng mới tuyệt vọng, nhưng trong giấc chiêm bao vẫn còn tơ tưởng không dứt.
                    Ít lâu sau, nàng phát bệnh không ngồi dậy được. Có nhà sự Tây Vực đến thăm mạch, nói mình có thể chữa được, song phải có một đồng cân thịt ở ngực con trai, để trộn với thuốc mới đặng.
                    Sử công sai người đến nhà họ Vương nói cho chú rể hay. Chú rể cười nói:
                    - Lão già này kỳ cục, đòi cắt lấy thịt ở đầu trái tim ta ư?
                    Gia nhân trở về thuật lại, sử công giận lại rao cho mọi người hay rằng: bất cứ ai dám cắt thịt thì ta gả con gái cho.
                    Kiều sinh nghe tin, lập tức đến nhà họ Sử, tay cầm dao kéo, tự cắt lấy thịt trước ngực, trao cho nhà sư Tây Vực, máu vấy cả áo chàng. Nhà sư phải xừc thuốc cho mới hết.
                    Với chỗ thịt đó nhà sư trộn thuốc thành ba chén, nàng uống ba ngày bệnh tật khỏi hẳn.
                    Sử công sửa soạn làm theo lời hẹn, nhưng trước hết sai người nói cho Vương biết. Vương nổi giận đòi đi kiện. Sử công bèn làm tiệc mời Kiều sinh đến, bày ngàn vàng lên án rồi nói:
                    - Mang ơn rất nặng, vậy xin có chút đỉnh báo đền.
                    Đoạn, Sử công bày tỏ ý định sai hẹn cho chàng nghe, chàng cau mày nói:
                    - Tôi không tiếc chi miếng thịt, là để báo đáp người tri kỷ chứ có phải bán thịt lấy tiền đâu.
                    Nói xong, chàng đứng dậy, phủi áo ra đi. Liên Thành nghe chuyện trong lòng không nỡ, liền nhờ mụ vú đến an ủi chàng và nói nhắn:
                    - Người tài như cậu chắc không phải sa sút lâu ngày. Trên đời thiếu gì giai nhân mà lo. Tôi từng chiêm bao thấy điềm chẳng lành, ba năm nữa tất chết, vậy cậu đừng thèm cùng ai tranh giành lấy được con người sắp chết này làm gì?
                    Chàng nói với mụ vú:
                    - Con người ta vì tình tri kỷ mà chết, chứ không vì sắc đẹp. Tôi chỉ e rằng Liên Thành chưa chắc đã thật là biết tôi; nếu quả thật nàng biết tới thì việc nhân duyên chẳng thành cũng không hại chi.
                    Mục vú thay lời nàng thề thốt giải tỏ lòng thành, chàng nói:
                    - Quả thật như vậy thì tôi chỉ xin có một điều, là khi gặp nhau ở ngoài đường, nàng tặng cho tôi một nụ cười, dù tôi chết cũng không ân hận gì.
                    Mụ vú vế nhà thuật lại với nàng.
                    Cách mấy hôm, chàng ngẫu hứng đi chơi, vừa lúc gặp nàng ở bên nhà ông chú về. Nàng đưa mắt liếc nhìn chàng và hé miệng cười rất tươi. Chàng cả mừng, tự nghĩ trong trí:
                    - Phải rồi! Liên Thành quả thật biết rõ lòng ta.
                    Kế đến nhà họ Vương qua bàn định ngày lành tháng tốt xin đón dâu. Bệnh cũ của nàng tự dưng nổi lên, được vài tháng thì chết.
                    Kiều sinh đến viếng tang, kêu rú một tiếng, ngã xuống chết giấc. Sử công cho người đem xác về tận nhà.
                    Lúc đó chàng tự biết mình đã chết rồi, trong lòng không thấy buồn tiếc gì cả, vội vàng đi ra khỏi thôn muốn được nhìn thấy mặt Liên Thành. Xa trông nẻo đường phía tây bắc, người ta đi lại như kiến, chàng trốn lánh mình trà trộn vào trong đám đó.
                    Giây lát vào một dinh thự gặp lại Cố sinh. Cố lấy làm ngạc nhiên hỏi chàng tại sao đến đây, và muốn nắm tay chàng dắt lộn về ngay. Nhưng chàng thở dài nói rằng có chuyệng tâm sự còn lôi thôi, cho nên chẳng muốn trở về. Cố nói:
                    - Tôi ở chốn này giữ việc sổ sách hơi được tín nhiệm, nếu anh có chuyện chi nhờ cậy, tôi xin cố súuc không dám tiếc công.
                    Chàng hỏi về Liên Thành.
                    Cố liền dẫn đi tìm kiếm nhiều nơi, thấy Liên Thàng với cô áo trắng, mặt rầu lệ dầm, ngồi xổm ở một vỉa hè. Nàng thấy Kiều sinh đến, vội vàng trỗi dậy, vẻ như mừng rỡ, hỏi chàng đâu tới đây. Chàng nói:
                    - Nàng chết, tôi còn ở trên đời sống làm chi?
                    Liên Thàng khóc:
                    - Con người phụ nghĩa thế này, chàng không phỉ nhổ mà đá đi cho rảnh, còn lấy mình chết theo làm gì? Tôi đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, xin đền bồi ở kiếp sau.
                    Chàng nghoảnh lại bảo Cố sinh:
                    - Anh có công việc bận xin cứ tự tiện, để mặc tôi ở đây, tôi vui sướng được chết, chứ không thích sống nữa. Có điều tôi muốn phiền anh tra sổ sách hộ xem Liên Thành thác sinh chỗ nào, để tôi đi theo nàng.
                    Cố sinh gật đầu rồi đi.
                    Thiếu nữ áo trắng hỏi chàng là người như thế nào. Liên Thành thuật lại đầu cuối.
                    Thiếu nữ nghe chuyện bùi ngùi than thở. Liên Thành bảo chàng:
                    - Cô này cùng họ với em tên là Tân Nưuơng, con quan Sử thái thú ở quận Tràng Sa; Chúng em cùng đi một đường tới đây, cho nên thương yêu trìu mến nhau.
                    Chàng liếc thấy người có vẻ dễ thương, vừa muốn hỏi chuyện tỉ mỉ, thì Cố sinh đã trở lại ngó mặt chàng mà ngõ lời chúc mừng:
                    - Tôi đi thăm dò tin tức giùm chắc chắn lắm: nương tử đây được theo anh hoàn hồn về dương gian, như vậy có thích không?
                    Hai người cùng mừng rỡ, sửa soạn từ biệt ra đi. Cô Tân khóc rú lên:
                    - Chị đi thì em bơ vơ, biết nương tựa vào ai? Vậy xin chị vì tình cứu em, cho em được theo hầu hạ chị.
                    Liên Thành động lòng nhưng không biết phài làm cách nào, day lại bàn tính với chàng. Chàng lại năn nỉ với Cố sinh. Cố sinh tỏ vẻ khó khăn và can không nên làm việc đó, chàng cầu khẩn mãi. Cố nói:
                    - Để tôi làm đại thử coi.
                    Một lúc, chàng ăn xong bữa xơm, thì Cố sinh trở lại, khoát tay và nói:
                    - Ban nải tôi đã bảo là không được mà. Thú thật tôi chịu dở muôn phần, không sao giúp được.
                    Tân Nương nghe nói gào khóc thảm thương, đứng ríu ríu bên cạnh Liên Thành, chỉ sợ nàng vội đi. Cả hai cùng buồn bã không nghĩ cách nào, chỉ nhìn nhau đứng lặng, mà nét mặt thảm sầu, khiến cho ai nấy cũng phải não lòng héo ruột. Cố sinh phát phẫn nói:
                    - Thôi thì xin anh chị cứ cho cô Tân đi theo, rủi có tội vạ thì tôi xin chịu hết.
                    Bấy giờ Tân Nương mới mùng, theo chàng lên đường. Chàn lo ngại dùm cô đi về nhà cô đường xá xa xôi không ai làm bạn. Tân nương nói:
                    - Em xin theo cậu, chứ không muốn trở về nhà em.
                    Chàng gạt đi:
                    - Cô này ngây thơ quá, không về nhà cô thì lấy gì mà hồi sinh chứ. Mai sau tôi có dịp đi Hồ Nam, xin cô đừng lánh mặt thế là may mắn cho tôi.
                    Vừa vặn lúc ấy có hai mụ già, lãnh tờ sức đi tới Tràng Sa, chàng nói cho cô Tân đi theo và căn dặn hai mụ chăm nom hộ dọc đường.
                    Tân Nương khóc và từ giã.
                    Liên Thành đi theo rất chậm chạp, đi chừng hơn mười dặm đường thì phải nghỉ chân một lần. Nghỉ chân đến mười bận thì mới trông thấy cổng làng trước mặt. Nàng nói:
                    - Cậu ơi! Sau khi em tái sinh, sợ lại có chuyện lật lọng, chi bằng cậu xin lấy xác em đưa về nhà, rồi em hồi sinh tại nhà cậu, thì không có sự ăn năn về sau.
                    Chàng nghe lẽ phải, dắt nàng về thẳng nhà mình. Nàng hồi hộp uể oải như bước đi không nổi. Chàng phải đứng đợi. Nàng nói:
                    - Em về tới đây, chân tay run rẩy, như không còn sức tự chủ được mình, chỉ e ý mu6ón không toại vậy ta nên bàn tính thế nào cho thật kỹ lưỡng. Không thế thì sau khi hồi sinh, làm sao tự lo được?
                    Rồi hai người cùng vào căn phòng lạnh, lặng im giây lát, Liên Thành mỉm cười và nói:
                    - Mình có ghét em không?
                    Chàng kinh ngạc hỏi tại vớ gì, nàng đỏ mặt đáp:
                    - Em chỉ lo rủi ro không xong, thì lại phụ lòng chàng. Vậy em xin lấy hồn báo đáp cái tình tri kỷ của chàng trước đã.
                    Chàng mừng quá, cùng nàng giao hoan hết sức âu yếm. Nhân đó hai người quyến luyến không rời , ở luôn ba ngày trong phòng lạnh. Liên Thành chợt nhớ lại:
                    - Mình ơi! Tục ngữ có câu: Đàn bà xấu xí đến đâu, khi đã lấy chồng, trước sau bề nào cũng phải ra mắt cha mẹ họ hàng. Chúng ta bịn rịn ôm ấp ở đây mãi đâu phải là kế lâu dài.
                    Nói xong, nàng hối thúc chàng vào nhà giữa, vừa mới tới chỗ thờ, thì chàng hồi tỉnh. Người nhà kinh ngạc, vội vàng đi lấy nước cháo đổ cho chàng.
                    Sau khi tỉnh hồn, chàng sai người đi mời Sử Hiếu Liêm đến ngỏ ý xin xác Liên Thành đem về nhà, vì mình có phép làm cho nàng sống lại.
                    Sử công nghe lời. Xác của Liên Thành vừa khiêng đến nhà chàng, xem lại thì nàng đã hồi sinh, tự nói với cha:
                    - Thưa cha, con đã trao thân gửi phận cho Kiều sinh rồi, giờ không lẽ nào trở về được nữa. Hễ ai sinh sự đổi dời một chút thì con chết thôi.
                    Sử công về, lập tức sai con hầu đứa ở tới phục dịch nàng.
                    Bên nhà họ Vương nghe tin, làm đơn đi kiện. Quan sở tại ăn hối lộ xử nàng phải về nhà Vương.
                    Kiều sinh tức giận muốn chết, nhưng không làm sao ngăn cản được.
                    Liên Thành đến nhà Vương, phẫn uất bỏ cả ăn uống chỉ cầu mau chết. Thừa lúc nhà vắng người, liền treo cổ lên xa nhà. Qua hôm sau, bệnh tình càng nặng, sắp sửa tắt hơi, Vương sợ quá, đưa trả về nhà Sử. Sử lại cho khiêng về nhà chàng. Vương biết thế nên đành chịu phép bỏ qua.
                    Liên Thành trỗi dậy, bình phục như xưa. Nàng thường tưởng nhớ Tân Nương, muốn cho người đi hỏi thăm, nhưng vì đường sá xa xôi, chưa thể đi được.
                    Một hôm bỗng dưng gia nhân vào thưa rằng: ngoài cửa có ngựa xe khách lạ. Hai vợ chồng cùng nhau chạy ra ra thì là Tân Nương đã vào tới giữa sân. Đôi bên trông thấy nhau, vừa mừng vừa cảm. Quan thái thú thân đưa Tân Nương đến. Chàng mời ông vào. Thái thú nói:
                    - Con bé nhà tôi nhờ cậu mà sống lại, nó thề không chịu lấy ai, cho nên tôi phải phải theo ý muốn của nó mà dẫn nó đến đây.
                    Chàng vái lạy theo lễ con rể và cha vợ. Sử Hiếu Liêm cũng tới. Ba nhà đoàn tụ vui vẻ.
                    Kiều sinh tên thật là Niên, biểu tự là Đại Niên.

                    ĐÀO TRINH NHẤT dịch
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #85
                      Lên Chơi Trên Trời (Lôi Tào) - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                      Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình tử, hai người lúc nhỏ cùng xom, lớn lên cùng học một trường, chơi với nhau rất thân.
                      Hạ thông minh từ bé, mười tuổi đã học nổi tiếng. Nhạc thơ như bậc đàn anh. Hạ lấy tình anh em chăm chỉ khuyên bảo; nhờ đó Nhạc học ngày càng tấn tới, danh cũng nổi dậy. Duy có thi cử vất vả, khoa thi nào cũng rớt luôn.
                      Không bao lâu, Hạ mắc bệnh dịch qua đời, nhà nghèo quá, không có tiền chôn cất. Nhạc khảng khái nhận hết công việc ấy về phần mình lo liệu. Hạ chết để lại vợ góa và đứa con còn ẳm trên tay. Nhạc thường lui tới chăm sóc, kiếm được thưng lúa, đấu gạo nào đều chia làm hai.
                      Vợ con Hạ nhờ sự giúp đỡ tận tình ấy mà sống. Các bậc sĩ phu thấy thế càng khen Nhạc hiền đức.
                      Vốn nhà chẳng có của cải bao nhiêu, lại còn chu cấp cho vợ con của Hạ, thành ra Nhạc sa sút dần, phải than rằng:
                      - Tài học như Bình Tử, còn phải lận đận mà chết, huống chi là ta? Sự sang giàu của đời người cần phải kịp thời, nếu suốt năm cứ bận lòng rối trí như vậy mãi thì e đến chết bỏ xác ở ngòi rạch, trước lòai chó ngựa, chẳng hóa uổng phí cuộc đời mình lắm ư? Ta nên sớm tính xoay nghề thì hơn.
                      Từ đó, Nhạc xếp sách vở lại xoay ra buôn bán. Làm nghề này nửa năm, cảnh nhả hơi khá.
                      Một hôm đi buôn ở Kim Lăng, nghỉ ở trong quán trọ, thấy một người cao lớn, gân cốt nổi lên, mon men đến bên chỗ Nhạc ngồi, mà sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi muốn ăn chăng?
                      Người đó không nói gì hết. Nhạc đẩy mâm cơm ra mời ăn. Hắn lấy tay bốc ăn ngon lành, giây lát hết sạch.
                      Nhạc lại gọi một mâm cơm ê hề, cở hai ba người ăn mới xuể, thế mà một mình người ấy ngốn hết sạch. Nhạc gọi chủ quán cắt đùi heo và một đống bánh chưng đầy ắp, hắn lại ăn sạch chỗ phần ăn của mấy người đó. Chừng ấy mới thấy no bụng, tạ ơn và nói:
                      - Ba năm đến giờ, tôi chưa từng được ăn bữa nào no nê như hôm nay.
                      Nhạc hỏi:
                      - Xem anh ra đáng mặt tráng sĩ lắm, sao bơ vơ trôi nổi đến thế này?
                      - Tôi mắc tội trời hành không thể nói ra được.
                      - Vậy quê quán nhà cửa ở đâu?
                      - Thưa, trên bộ chẳng có nhà, dưới nước chẳng có ghe. Sớm đứng đầu làng, tối nằm xó chợ, thế thôi.
                      Nhạc sửa soạn hành lý ra đi; người ấy theo khít một bên có ý bịn rịn không nỡ rời nhau. Nhạc cố từ, người ấy nói:
                      - Anh sắp bị nạn lớn, tôi không muốn quên cái ơn đức một bữa ăn no.
                      Nhạc lấy làm lạ bằng lòng cho đi theo. Giữa đường vào quán cơm, nhạc kéo vào ăn chung với mình, nhưng người ấy lắc đầu:
                      - Cả năm, tôi chỉ ăn có vài bữa thôi.
                      Vì thế Nhạc càng kinh ngạc.
                      Hôm sau, qua sông lớn, sóng gió nổi lên đùng đùng, thuyền chở thuê chìm sạch. Hai người cùng chìm dưới nước. Một chặp gió yên lặng rồi, người ấy cõng Nhạc đạp sóng mà lên, ngồi tạm một thuyền khách, rồi lại đạp sóng rẽ nước đi.
                      Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc sang ngồi, dặn dò canh giữ, rồi nhảy ùm xuống sông nữa. Hai cánh tay ôm bao hàng hóa ném vào trong khoang thuyền. Xong lại hụp xuống nước. Mấy lần hụp lên hụp xuống như vậy, ôm hàng hóa bày để bên trong thuyền.
                      Nhạc cảm tạ:
                      - Anh cứu tôi sống là đủ lắm rồi, đâu dám mong mỏi hàng hóa lại được châu về hợp phố?
                      Kiểm tra lại của cải không mất tí gì, trong bụng càng mừng, kính phục người ấy là thần Nhạc giục lái ghe mở lái ra đi, người ấy xin từ biệt. Nhạc cố giữ mãi, bèn cùng nhau qua sông. Khi ghe mới xa bờ Nhạc cười và nói:
                      - Tính lại tai nạn này chỉ mất có một cây trâm vàng mà thôi.
                      Người ấy muốn đi tìm. Nhạc toan ngăn thì hắn đã nhào xuống nước mất tăm. Nhạc kinh ngạc giây lâu. Chợt thấy hắn mỉm cười ở dưới nước trồi lên, trao cây trâm cho Nhạc và nói:
                      - May quá tôi tìm thấy đây.
                      Mọi người trên bờ dưới sông đều phải lắc đầu lè lưỡi lấy làm quái lạ.
                      Nhạc dẫn về nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Cách mấy chục ngày hắn mới ăn một lần. Đã ăn thì ăn nhiều vô kể.
                      Một hôm lại đòi từ giã di. Nhạc cố lưu lại. Giữa khi ấy, trời tối tăm muốn mưa. Nhạc nói:
                      - Trên mây chả biết có những gì? Sấm sét là vật chi? Làm sao được lên mà xem một phen cho biết, trong lòng mới hết nghi hoặc.
                      Người ấy nói:
                      - Anh muốn lên mây chơi ư?
                      Liền đó, Nhạc nghe trong mình mỏi mệt, nằm trên giường ngủ mơ màng. Chừng tỉnh dậy thấy mình rung rung lắc lắc, không phải cảnh êm ái như nằm trên giường. Mở mắt ra nhìn té ra là mình đang ở trong đám mây, chung quanh trắng toát như bông gòn. Bấy giờ mới kinh hoảng đứng dậ, mắt hoa lên tưởng chừng như đi thuyền nhưng đạp chân xuống thì chẳng thấy ván sạp.
                      Chàng ngửa nhìn tinh tú như ở ngay trước mặt, bèn ngờ mình chiêm bao. Dòm kỹ tinh tú dán vào vòm trời, chẳng khác nào hạt sen nhú ở trên cái đài sen, ngòi lớn như cái lu, ngôi nhỏ như cái chén, lấy tay lắc thử xem, thấy ngôi sao lớn bám chặt quá, không nhúc nhích còn ngôi nhỏ thì lung lay, dường như có thể bứt ra được. Chàng liền bứt lấy một ngôi, giáu trong tay áo, rồi vén mây nhìn xuống dưới, thấy bể bạc mênh mông, thành quách nhỏ li ti như hạt đậu. Trong trí kinh hãi, tự nghĩ nếu như rủi ro trượt chân, thì chết còn gì?
                      Bỗng thấy hai con rồng uốn khúc, kéo theo một chiếc xe căng màn chạy lại, trên xe để những chiếc khạp chu vi mấy trượng, đựng nước đầy tràn. Có mấy chục người cầm gáo múc nước, rải khắp trên mây.
                      họ trông thấy Nhạc cùng lấy làm lạ.
                      Nhạc nhìn kỹ, té ra người bạn chí thiết của mình ở nhà cũng có dự trong ấy,. bèn nói với họ:
                      - Ông này là bạn tôi mà!
                      Họ lấy một gáo đưa cho Nhạc, bảo múc nước mà tưới đi.
                      Lúc đó trơì đang đại hạn. Nhạc tiếp lấy gáo nước, vạch mây nhìn xuống quê hương, cố tưới thật nhiều.
                      Một lát, người bạn nói với Nhạc:
                      - Tôi vốn là thần sấm sét, vì trước mắc lỗi sai hẹn làm mưa nên bị phạt đày ba năm, giờ đã mãn hạn trời, vậy xin từ đây vĩnh biệt.
                      Nói đoạn, lấy sợi dây buộc xe dài muôn thước bảo Nhạc nắm một đầu dây để thả xuống đất.
                      Nhạc lấy làm nguy, nhưng bạn cười mà bảo:
                      - Không hề gì đâu mà sợ.
                      Nhạc y lời vù vù chớp mắt đã xuống tới đất. Dòm lại thì rơi xuống ngay làng mình, còn sợi dây thì rút dần lên mây, không thấy hút đâu nữa.
                      Hồi bấy giờ cả làng này đại hạn lâu ngày, gặp được trận mưa, ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, duy có làng Nhạc thì hồ trạch đầy tràn.
                      Về nhà, mò lại trong túi, ngôi sao đã lấy vẫn còn, đem đặt lên bàn, ngày xem thì đen xạm như cục đá thường, đêm đến thì sáng lóng lánh, chiếu rọi khắp nhà. Bởi thế Nhạc càng quý báu, gói lại cất kỹ, mỗi khi khách uống rượu ban đêm, mới lấy ra thay đèn ngồi chung quanh chơi cho sáng. Nhìn thẳng vào tia sáng chói cả mắt.
                      Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ánh sáng đó vấn tóc, chợt thấy ngôi sao đó nhỏ dần đi, chỉ còn như con đom đóm, mà cựa quậy bay ngang. Nàng đương kinh ngạc mở miệng muốn la, ngôi sao chui tuột vào miệng, khạc nhổ chẳng ra, lại xuống cổ nàng; nàng sợ hãi chạy bảo Nhạc, Nhạc cũng lấy làm kỳ, rồi thì đi ngủ. Đêm nằm chiêm bao, thấy Hạ Bình Tử hiện hồn về nói:
                      - Tôi chính là ngôi sao Thiên Vi, những việc anh giúp đỡ gia quyến tôi, tôi hằng ghi nhớ không quên. Anh lại có lòng tốt đem tôi ở trên trời về, thế là chúng ta có duyên gắn bó, nay tôi xin đầu thai làm con anh để báo đền đức lớn.
                      Hồi đó Nhạc đã ba mươi tuổi mà chưa có con, nằm mộng thấy vậy lòng mừng khôn xiết.
                      Từ đó vợ thụ thai. Đến khi ở cữ, sáng chiếu khắp nhà, y như lúc ngôi sao còn để trên bàn làm đèn vậy. Nhân đó lấy chữ Tinh Nhi đặt tên cho con.
                      Tinh Nhi thông minh lạ thường, mười sáu tuổi thi đậu tiến sĩ.


                      ĐÀO TRINH NHẤT dịch
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #86
                        Háo Sắc Lụy Mình ( Phong Tam Nương) - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                        Cô Mười Một họ Phạm, con quan Tế tửu ở Lộ Thành, tuổi nhỏ tuyệt đẹp, lại rất phong nhã, cha mẹ yêu quý như nâng trứng hứng hoa. Những người đến hỏi chà mẹ bảo nàng tự chọn lấy, nhưng nàng chưa thuận đám nào.
                        Gặp tết thượng nguyên, các bà vãi ở chùa Thủy Nguyệt mở hội cúng chay đốt mã, nàng cũng tới xem.
                        Trong lúc nàng đi dạo cảnh cùa, một thiếu nữ đi theo bén gót, thường liếc nhòm nàng, ý chừng như muốn nói gì. Nàng nhìn kỹ là một cô gái đôi tám cực đẹp, trong lòng rất ưng càng chăm chú nhìn. Thiếu nữ mỉm cười hỏi:
                        - Cô có phải cô Mười Một họ Phạm không?
                        - Thưa, chính là tôi.
                        - Tôi nghe danh tiếng đã lâu, nay mới được thấy mặt, quả thật là người ta đồn đại không sai.
                        Cô Mười Một cũng hỏi thăm quê quán họ tên, thiếu nữ đáp:
                        - Tôi họ Phong hàng thứ ba, nhà ở một xóm gần đây.
                        Hai người nắm tay chuyện vảnn niềm nở vui vẻ, thành ra yêu mến nhau hết sức, không muốn rời ra, cô Mười Một hỏi sao đi trơ trọi một mình, chẳng có bầu bạn gia nhân cùng đi, thiếu nữ trả lòi:
                        - Cha mẹ mất sớm, nhà chỉ có một vú già, phải coi nhà không đi với tôi được.
                        Cô Mười Một sửa soạn ra về, Phong Tam Nương nhìn sững muốn khóc làm cô cũng buồn rầu, liền mời Tam Nương về nhà chơi. Tam Nưong nói:
                        - Nhà cô gác tía lầu son, tôi lại không họ hàng chi e đến chơi bị người nhà bàn tán nói này khák không tốt.
                        Cô Mười Một cố mời, Tam Nương hẹn để hôm khác.
                        Lúc từ biệt, cô rút một cành thoa vàng đưa tặng. Phong cũng lấy cây trâm biếc ở trên mái tóc để đáp lễ.
                        Cô về nhà đâm ra tưởng nhớ thiết tha, lấy cây trâm xem lại, không phải vàng cũng không phải ngọc, trong nhà không ai biết là thứ gì, đều lấy làm lạ.
                        Hàng ngày cô mong mỏi Tam Nương đến chơi không thấy đến nỗi buồn rầu phát bệnh. Cha dò biết cái nguyên cớ, sai người đi thăm các xóm làng chung quanh, nhưng không ai biết thiều nữ họ Phong là người nào.
                        Nhằm tiết trùng cửu ( mùng chín tháng chín), cô gầy còm buồn bã, gọi con hầu dìu đỡ ra vườn ngoài chơi, trải nệm gối dưới giàn hoa ngồi tiêu khiển, Bỗng dưng có một người con gái thò mặt lên vách tường dòm sang. Nhìn ra chính là Phong nữ chứ không phải là ai lạ. Phong kêu:
                        - Đỡ tôi xuống nào!
                        Con hầu chạy ra đỡ tay. Phong nhảy thoắt xuống. Cô Mười Một mừng khôn thể tả, tự nhiên đứng phắt dậy, kéo Phong cùng ngồi nói chuyện, trách nàng đã sai lời hẹn và hỏi bây giờ ở đâu lại đây? Phong đáp:
                        - Sự thật nhà tôi cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tôi đến chơi nhà ông cậu ở gần lối xóm này. Độ trước tôi có nói rằng nhà ở xóm gần đây, tức là nói nhà cậu tôi đấy.Từ lúc chị em từ biệt, tôi tưởng nhớ não nùng. Nhưng nghĩ mình phận nghèo khó, chơi với con nhà giàu sang, chân chưa bước tới nhà trong lòng đã có vẻ thẹn, chỉ e bị lũ tôi tớ trong nhà coi thường xem khinh. Vì thế mà tôi không muốn tới. Vừa rồi đi ra ngoài vách tường, nghe trong có tiếng con gái nói, liền trèo lên nhòm xem, mong rằng gặp cô, nay quả như nguyện.
                        Cô Mười Một bèn kể cho Phong nghe vì đâu mình sinh bệnh. Phong khóc như mưa, khóc chán rồi nói:
                        - Chị có đến chơi thì xin giữ bí mật, sợ những kẻ sinh sự lắm điều, bàn dài nói vắn, không thể chịu nổi.
                        Cô xin y lời, đoạn dẫn nàng về phòng riêng với mình, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, thích cùng chuyện trò tâm sự mà bệnh cũng khỏi dần. Rồi đính ước làm chị em, áo quần giày vớ thay đổi lẫn lộn, không hề phân biệt. Hễ có người nào đến thì Phong núp vào bên màn. Như thế trải năm sáu tháng Phạm công với phu nhân nghe phong phanh.
                        Một bữa hai chị em đang ngồi đánh cờ, phu nhân chợt đến thình lình, trông thấy, sửng sốt, và nói:
                        - Thật là xứng bạn con ta!
                        Rồi quay hỏi cô Mười Một:
                        - Trong chốn khuê phòng con có người bạn tốt thì cha mẹ vui mừng cho, sao con không nói cho mẹ hay.
                        Cô bày tỏ ý muốn của Phong.
                        - Cô đến làm bạn con ta, thế là điều hay, cần chi phải giấu diếm?
                        Phong đỏ mặt làm thinh, mâm mê dải áo, chẳng nói chẳng rằng. Sau lúc phu nhân đi, Phong muốn từ biệt, cô Mười Một năn nỉ mãi mới chịu ở lại.
                        Đêm nọ, nàng hớt hơ hớt hả từ ngoài chạy vào khóc nói:
                        - Chị đã nói rằng ở lại không nên, thế mà vì nể em phải ở lại, bây giờ mới gặp lại cái nhục lớn lao thế này!
                        Cô kinh ngạc hỏi chuyện gì, nàng đáp:
                        -Vừa rồi chị ra thay áo, một chàng thiếu niên đón đường chọc ghẹo, may chị chạy thoát. Như vậy chị còn mặt mũi nào mà ở đây nữa chứ?
                        Cô gạn hỏi hình dáng, rồi tạ lỗi:
                        - Thôi, xin chị bỏ qua đi, người ấy là ông anh ngây thơ của em đó. Để em thưa với mẹ đánh đòn anh ta cho biết thân!
                        Phong cố từ, một hai đòi đi. Cô Mười Một khuyên đợi trời sáng sẽ đi, vội gì. Phong nói:
                        - Nhà cậu của chị chỉ cách đây mấy bước để chị bắc thang leo qua vách tường là được rồi.
                        Nàng đi rồi, cô Mười Một gục mặt trên gối khóc lóc thảm thương, xem như mất bạn tơ tóc vậy.
                        Cách mấy tháng sau, con hầu có việc đi tới xóm Đông, chiều tối về, gặp Phong giữa đường, có bà cụ già theo sau. Con hầu mừng rỡ, đứng chào hỏi. Phong cũng ngậm ngùi, hỏi thăm sức khỏe của cô Mười Một độ rày ra sao. Cô hầu nắm áo nàng và nói:
                        - Cô Ba ghé lại nhà tôi chơi đi. Từ lúc cô bỏ đi, cô chủ nhà tôi rầu rĩ mong đợi muốn chết.
                        Phong nói:
                        - Chính ta cũng nhớ cô mày đáo để, nhưng ta không muốn để cho người nhà biết, vậy mi về trước mở sẳn cửa vườn, tự ta đến.
                        Con hầu về nói chuyện cho cô Mười Một biết, cô mừng quá giục nó đi mở cửa vườn, té ra nó chưa kịp đi đã thấy Phong vào trong vường lúc nào rồi. Hai người tay bắt mặt mừng, cùng kể lể lòng thương nỗi nhớ, hết chuyện nọ qua chuyện kia liên miên không ngủ. Phong dòm thấy con hầu đã ngủ say rồi, bèn trỗi dậy đến nằm chung gối với cô Mười Một, tỉ tê nói nhỏ:
                        - Chị vốn biệt em chưa nhận lời ưng thuận đám nào, con người tài sắc dòng dõi như em lo gì chẳng lấy được một người chồng sang trọng. Như lũ công tử bột không thèm kể, nếu em muốn được một người chồng tử tế, thì chớ phân bì giàu nghèo chi hết.
                        Cô Mười Một cho lời nói ấy đúng. Phong nói tiếp:
                        - Cách chùa chúng ta gặp hồi năm ngoái, năm nay họ làm chay rất to, ngày mai em đi với chị đến xem, chị sẽ cho thấy mặt một người đáng làm chồng em. Từ nhỏ, chị đã đọc sách tướng đã nhiều, quyết không sai lầm đâu. T\
                        Tảng sáng, Phong đi trước, hẹn đợi nhau ở chùa. Chặp sau cô Mười Một đến chùa đã thấy Phong ở đó trước rồi. Chị em dắt nhau đi dạo quanh chùa một vòng rồi mời cô Phong cùng đi xe về. Khi dắt tay ra cửa, thấy một vị tú tài lối mười bảy, mười tám tuổi bận áo xềnh xoàng và dáng dấp đứng đắn. Phong khều cô và nói nhỏ:
                        - Con người mai sau thành đạt lớn đó.
                        Cô Mười Một liếc qua rồi Phog từ giã đi riêng:
                        - Em cứ đi về trước đi, tối chị sẽ đến.
                        Quả nhiên buổi tối Phong đến nói:
                        - Chị đã dò kỹ càng rồi. Anh chàng ấy tức là Mạnh An Nhân, người cùng xóm này mà.
                        Cô biết chàng nghèo tỏ ý không thích. Phong thở dài:
                        - Cơ khổ, em mảng vướng phải thói đời như thế ư? Phải biết con người đó nếu như suốt đời nghèo hèn thì chị tự khoét mắt mình đi, không xem tướng ai nữa.
                        Cô hỏi:
                        - Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
                        - Em cứ đưa một món chi, để chị đem lại trao cho chàng đính ước hôn nhân.
                        - Chị định làm dễ dàng quá vậy? Em còn cha mẹ sờ sờ, nếu cha mẹ không ưng ý thì sao?
                        - Ấy chỉ vì Phong sợ không được toại nguyện cho nên mới đính ước ngay bây giờ. Nếu như chị em cương quyết, thì dù có sống chết ai mà cướp được.
                        Cô Mười Một khăng khăng cho là không nên.
                        Phong nói:
                        - Nhân duyên của em đã nảy ra manh mối rồi nhưng nghiệp chướng vẫn còn vương vít trong lòng chưa tiêu, cho nên hôm nay chị đến là cốt se duyên cho em để báo đáp cái tình tử tế bấy lâu. Thôi để chị đi, tự lấy cành thoa vàng của em tặng chị năm ngoái vâng lệnh em mà đưa tặng chàng làm tin cũng được.
                        Cô Mười Một còn ngần ngừ suy nghĩ, Phong đã bước ra ngoài cửa đi tuốt.
                        Lúc đó Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học cực giỏi, ý muốn kén vợ thật xứng đáng mới lấy, cho nên tuổi đã mười tám chưa dạm hỏi đám nào. Ngày hôm đó đi chơi chùa được dịp trông thấy hai cô gái về nhà đâm ra tơ tưởng vẩn vơ. Mới tan canh một, Phong Tam Nương gõ cửa bước vào, chàng thắp sáng đèn nhìn mặt té ra một trong hai mỹ nữ mình may mắn trông thấy ban ngày, chàng mừng rỡ chào hỏi.
                        Phong nói:
                        - Tôi họ Phong, bạn gái của tôi cô Mười Một họ Phạm.
                        Chàng mừng quá không gạn hỏi chi nhiều lời, vội vàng tiến đến, muốn ôm lấy Phong. Phong cự hẳn hoi:
                        - Cậu này! Tôi chẳng phải là Mao Toại đem thân đến hiến nhé, mà chỉ đóng vai Tào Khâu đem tin đi mối cho người ta đó thôi. Số là cô Mười Một họ Phạm, muốn kết nhân duyên với cậu, cho nên tôi xin làm mụ mối cho cô cậu nên vợ nên chồng mà!
                        Chàng ngạc nhiên không rtin, Phong liền trao cành thoa vàng làm chứng. Chàng mừng hết sức, cảm tạ và thề nguyền:
                        - Cô có lòng quyến chỉ giùm tôi như thế, xin thề nếu không lấy được cô Mười Một, thà cam ở góa trọn đời.
                        Phong từ giã đi.
                        Sáng ngày, chàng cậy bà cụ lối xóm đến nói với Phạm phu nhân. Quả nhiên phu nhân chê nghèo không cần hỏi ý kiến con gái, cứ việc lập tức từ chối lập tức.
                        Cô Mười Một nghe chuyện như vậy, hết sức thất vọng, trở lại oán Phong báo hại mình, kimh thoa đã lỡ trao, khó nỗi đòi về, chỉ có cách thề chết giữ trọn lời nguyền thôi.
                        Một hôm sau có người con ông quan nọ đến cầu hôn, trong ý còn lo không thành, cho nên cậy quan huyện đứng ra làm mối. Lúc đó ông quan nọ đang ở chức trọng quyền to. Phạm công có ý kiêng sợ, hỏi cô Mười Một, cô tỏ vẻ không vui. Bà mẹ dỗ dành gạn hỏi, cô làm thinh không nói câu gì, chỉ khóc sướt mướt rồi cậy người nói riêng cho phu nhân biết rằng: không phải Mạnh sinh đến chì chết không lấy chồng nào cả.
                        Phạm công càng giận, cứ hứa gả cho người con ông quan nọ, trong ý lại ngờ cô có tư tình với Mạn sinh nên chi càng gấp chọn ngày lành tháng tốt, thành lễ cho mau.
                        Cô Mười Một phẫn uất bỏ ăn, ngày chỉ nằm kiệt, mãi đến hôm trước ngày cưới, tự dưng cô trở dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát thị nữ tức tốc chạy vào nói tiểu thư đã tự thắt cổ. Nội nhà kinh hãi khóc, ăn năn đã muộn. Ba ngày làm lễ táng.
                        Nói về Mạnh sinh, từ hôm bà cụ lối xóm trở về trả lời không xong, chàng ấm ức muốn chết nhưng vẫn xa xa theo dõi tin tức, còn mơ tưởng cuộc nhân duyên có thể vãn hồi. Chừng nghe tin danh hoa đã gần có chủ, ngày cưới đến nơi, bấy giờ chàng mới phẫn hận như lửa đốt ruột gan, từ đây muôn sự mong mỏi đều tiêu tan, không còn trông đợi gì nữa.
                        Không bao lâu nghe tin ngọc vỡ, hương vùi, nàng đã tự sát, Mạnh sinh càng đau đớn thảm thương, tức mình không được cùng mỹ nhân chết cho rồi đời. Chập tối chàng lần mò ra đi, trong ý muốn thừa lúc đêm hôm, đến khóc trước mả mỹ nhân cho hả chút lòng sầu khổ. Chợt thấy bóng người từ đầu kia đi tới. đến gần té ra Phong Tam Nương.
                        Phong nói:
                        - Tôi mừng dùm cậu đến lúc thành cuộc nhân duyên đấy.
                        Chàng khóc òa và hỏi:
                        - Vậy cô không hay tin Phạm tiểu thư đã chết rồi ư?
                        Phong đáp:
                        - Ấy, vậy tôi bảo rằng thành việc, chính ở chỗ cô ta chết mà. Mau mau gọi gia nhân đi đào mả lên, tôi có thuật lạ, có thể làm cho tôi hồi sinh.
                        Chàng mừng quá, nghe lời răm rắp. Đào mả bỏ hòm, lấp huyệt lại như cũ, rồi chàng tự cõng tử thi cùng Tam Nương về đặt nằm trên giường. Tam Nương đổ thuốc vào miệng, giây lát tiểu thư hồi tỉnh, nhìn thấy Tam Nương, hỏi đây là đâu. Phong trỏ vào chàng và đáp:
                        - Mạng An Nhân đây mà, em!
                        Rồi kể rõ nguyên do, lúc ấy cô như người chiêm bao mới tỉnh.
                        Phong sợ công việc tiếc lộ bèn dắt nhau đi xa mười lăm dặm, lẩn trốn ở một xóm nhỏ trong núi. Đoạn Phong đòi từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở riêng một gian nhà. Đem bán những đồ trang sức tẩm liệm làm vốn sinh sống, nhờ đó cũng hơi dư dật. Mỗi khi Phong gặp chàng đến, liền tìm cách lẫn tránh, cô Mười Một thung dung nói:
                        - Chị em ta khác nào ruột thịt, nhưng trước sau gì cũng người đông kẻ tây, chẳng được sum họp suốt đời. Chi bằng chúng ta bắt chước Nga Hoàng Nữ Anh ngày xưa thì hơn.
                        Phong gạt đi:
                        - Từ nhỏ, chị học được phép lạ có thể trường sinh, cho nên chị không chịu lấy chồng!
                        Cô Mười Một nói:
                        - Người đời truyền tụng những phép thuật trường sinh có thể chất đầy kín nhà bếp, chị học phép của tiên ông nào đó?
                        Phong đáp:
                        - Cái học của chị không phải như người đời đã biết kia đâu, người đời vẫn truyền tụng chẳng phài là chân truyền. Duy có Ngũ Cầm kinh cả Hoa Đà là đúng. Phàm người tu luyện, chẳng qua chỉ muốn cho khí huyết lưu thông vậy thôi. Nếu chị gặp nhiều nghịch chướng, cứ vương mình như cọp thì chết ngay.
                        Cô Mười Một âm mu với chàng giả đò có việc đi xa. Đêm ấy cô ép nàng uống rượu thật say, rồi chàng mò vào làm càn. Nàng tỉnh dậy thở dài và nói:
                        - Em hại chị rồi đó. Nếu không vương nhằm sắc giới mà tu luyện thành đạo, có thể lên đến từng thứ nhứt. Nay lại bị sa ngã vào mưu gian, cũng là số mệnh khiến vậy.
                        Tức thời đứng dậy cáo từ. Cô Mười Một ân cần bày tỏ lòng thành của mình, và tha thiết xin lỗi. Nàng nói:
                        - Giờ chị xin nói thật, chị là chồn tinh đây. Chỉ vì năm trước trông thấy sắc đẹp của em mà sinh lòng yêu mến, giống như con kén tự buộc lấy mình, mới đến nỗi xảy ra thế, chẳng phải tự sức người ta. Nếu em cố giữ chị ở lại thì ma chướng càng nảy ra mãi, không biết đến đâu là cùng. Em hạnh phúc còn nhiều, xin giữ lấy mình khỏe mạnh.
                        Nói đoạn biến mất. Hai vợ chồng sửng sốt than thở rất lâu.
                        Qua năm sau, chàng thi đậu cả hương lẫn hội được bổ chức hàm lâm, trở về đưa thiếp danh xin yết kiến Phạm công. Ban đầu Phạm công vừa thẹn vừa hối, không chịu tiếp, chàng năn nỉ mãi, ông mới chịu ra.
                        Chàng theo lễ con rể đối với cha vợ rất mực cung kính, Phạm công nổi giận, cho là chàng nhạo mình. Chàng xin phép nói riêng một câu chuyện kín, rồi kể hết đầu đuôi mọi việc đã qua. Phạm công chưa tin liền sai người đến tận nhà xem, bấy giờ mới chưng hửng vui mừng, dặn dò gia nhân kín miệng, khoan nói tung ra, sợ có họa, vì nhà ông quan cầu hôn trước kia hãy còn oai thế to.
                        Hai năm sau, ông ta phạm tội bị phát giác cả hai cha con phải đi đày làm lính ở Liên Hải, bấy giờ cô Mười Một mới về thăm nhà cha mẹ.


                        ĐÀO TRINH NHẤT dịch
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #87
                          Tay áo làm mai (Củng tiên) - Đào Trinh Nhất dịch

                          Củng đạo nhân, không có tên tự, cũng không biết là người ở đâu, có lần đến xin ra mắt Lỗ vương, nhưng người canh cổng không cho vào.
                          Có người thân tín trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào và ngỏ ý muốn. Thân tín thấy ông xấu xa bẩn thỉu, lại xua đuổi thêm.
                          Ông đi rồi trở lại. Thân tín nổi giận sai thủ hạ vừa đuổi vừa đánh. Đến chỗ vắng vẻ không ai, đạo nhân cười và đưa ra cho trăm lượng vàng, nhờ kẻ đuổi theo nói hộ với vị thân tín kia rằng:
                          - Bản tâm ta không cần giáp mặt vương đâu, chỉ nghe tiếng vườn hoa sau vương phủ có cây cối lâu đài, đẹp nhất thế gian, nếu sẵn lòng dẫn ta đi xem một phen là đủ mãn nguyện.
                          Nói xong lại móc tiền bạc ra đút lót người đuổi theo mình. Anh này thấy tiền mừng rỡ, quay về thưa lại thân tín.
                          Thân tín cũng mừng, liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, xem đủ mọi cảnh, rồi bước lên lầu. Thân tín đang đứng dựa bên cửa sổ, đạo nhân xô một cái, tự nhiên thấy mình té xuống bên ngoài, may có dây leo vướng bụng, thành ra treo tòn teng lơ lửng giữa trời. Ngó xuống thấy sâu thăm thẳm mà nghe dây leo kêu rắc rắc, dường như sắp đứt, sợ hoảng hồn xám mặt, thân tín kêu la vang trời.
                          Mấy tên thái giám chạy đến, trông thấy cũng sợ khiếp đảm, vì nhắm thân tín thấy cách xa mặt đất cao quá. Họ chạy tuốt lên lầu cùng xem, thì ra đầu dây cột vào bao lơn, muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây leo vấn vít cả nùi, nhắm bề không thể dùng sức mà tháo gỡ nổi. Đi tìm đạo nhân thì đạo nhân đã biệt tăm dạng, họ nghĩ bó tay hết kế, bèn chạy tâu cho Lỗ vương hay.
                          Lỗ vương đến mục kích lấy làm lạ, đành sai lính tráng rải cỏ khô và bông gòn dưới đất, rồi sẽ chặt đứt dây leo cho thân tín rớt xuống khỏi bể đầu nhừ xương. Công việc dự bị vừa xong, thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước thôi, ai nấy cùng tức cười.
                          Xong đó Lỗ vương sai người đi tìm xem đạo sĩ ở đâu. Nghe tin ông ở đậu nhà thầy tú tài họ Thượng, lính đến đó hỏi, thì ông đi ngao du chưa về. Họ thất vọng, bảo nhau trở về, may gặp ông ở giữa đường, liền dẫn tới trước mặt Vương.
                          Vương mời ngồi ăn tiệc, và yêu cầu đạo sĩ làm trò lạ cho xem. Đạo sĩ thưa:
                          - Thần là người quê mùa, chẳng có tài giỏi chi, nay ngài thương đến mà sai bảo, vậy xin dâng nữ nhạc để chúc thọ ngài.
                          Nói đoạn, mò trong tay áo ra một mĩ nhân đặt xuống đất; nàng cúi đầu chào vương rồi đạo sĩ sai diễn tuồng Dao Trì tứ yến, chúc vương muôn năm. Nàng vừa ra sân khấu hát mấy câu, đạo sĩ lại thò vào tay áo lấy ra một người nữa, tự bạch là Tây Vương Mẫu. Giây lát nào Đổng Tiên Nga, nào Hứa Phi Quýnh, cả đám tiên cô trên trời, lần lượt xuất hiện. Sau hết tới Chức Nữ ra trò, hiến Lỗ vương một bộ áo trên trời, màu vàng rực rỡ, chói rạng khắp nhà.
                          Lỗ vương nghĩ là đồ giả, đòi xem tận nơi. Đạo sĩ vội vàng cản ngăn, nói rằng không nên. Vương không nghe, cứ việc lấy xem, quả nhiên áo trời liền lạc một mảnh, không có đường may nào hết, thật sức người không sao làm đặng. Đạo sĩ không vui, nói:
                          - Thần hết lòng tôn kính đại vương cho nên mượn bộ áo trời của Thiên tôn đem xuống, nay bị trọc khí nhuốm vào rồi, làm sao trả lại nguyên chủ được đây?
                          Lỗ vương lại nghĩ những nàng ca hát, tất đều là tiên cô, cho nên muốn giữ lại vài cô, nhưng khi nhìn kĩ, thì không ai khác hơn là con hát thường ngày trong phủ mình. Vương xoay ra ngờ khúc hát họ chưa từng học qua sao mà hát được? Hỏi ra chính họ mù mịt chẳng biết tại sao.
                          Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa mà đốt, rồi mới bỏ vào trong tay áo mình. Mới đó mà người ta khám xét, chẳng thấy dấu tích gì cả mới kì.
                          Từ đó, Vương rất trọng đạo sĩ, giữ ở trong phủ. Nhưng đạo sĩ từ chối, lấy cớ mình quen tính bình dân, ở cung điện xem như ở trong lồng chậu, không bằng ở nhà thầy tú tài quen, được tự do hơn.
                          Thế rồi ban ngày vô phủ Lỗ vương, nhưng thế nào tối cũng về nhà Thượng tú tài. Có lần Vương nài ép lắm thì cũng ngủ lại trong phủ. Mỗi khi giữa yến tiệc thường đảo lộn hoa cỏ bốn mùa để làm trò chơi. Vương hỏi:
                          - Ta nghe nói người tiên cũng chẳng khỏi động tình thích gái, có quả thế chăng?
                          Đạo sĩ đáp:
                          - Không chừng người tiên mới thế, còn tôi không phải người tiên, cho nên lòng như cây khô héo vậy.
                          Một đêm, ông ngủ lại trong phủ, Vương sai một ả đào non đến rình xem.
                          Nàng vào phòng, kêu mấy tiếng không nghe thưa, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường. Lay gọi, ông hé mắt một chút lại nhắm nghiền lại. Lay gọi nữa thì tiếng ngáy khò khò. Xô đẩy thì liền thấy ngã lăn xuống giường mà vẫn ngủ say và ngáy vang như sấm. Gõ trên trán, chỉ thấy ngón tay mình đau như gõ vào nồi gang hũ sắt vậy. Nàng trở về phục mạng, kể rõ tình đầu cho Vương nghe. Vương sai lấy kim mà đâm. Kim đâm không vào. Người ta cố sức xô đẩy, thấy nặng không thể lung lay. Thêm mười mấy người nữa, xúm nhau khiêng ông quăng xuống chân giường, nghe có tiếng nặng trịch như tảng đá ngàn cân rơi huỵch xuống đất vậy.
                          Sáng ngày đến dòm, ông vẫn ngủ nguyên dưới đất. Tỉnh dậy cười và nói:
                          - Một giấc ngủ say, rơi xuống chân giường mà không biết.
                          Lần khác, Vương sai lũ con gái trẻ măng sắc đẹp, nhè lúc nằm ngồi, đến bên véo thịt ông làm vui. Nhưng bận đầu véo còn thấy thịt mềm, qua bận sau đã cứng như sắt đá rồi.
                          Đạo sĩ ở nhà Thượng tú tài, thường khi suốt đêm không thấy về, tú tài khoá cửa đi ngủ, tới sáng đã tháy ông ngủ vùi trên giường hồi nào.
                          Nguyên trước, Thượng tú tài nhân tình với đào hát Huệ Kha, đôi bên thề thốt lấy nhau. Huệ hát cực hay, đường tơ giọng hát vang dậy một thời. Lỗ vương nghe tiếng, vời nàng vào ở trong phủ hầu hạ, vì thế Thượng tú tài với nàng dứt tuyệt đi lại, nhiều khi thương nhớ muốn chết, mầ không có cách nào thông tin được với nhau.
                          Một đêm, Thượng hỏi đạo sĩ vào phủ có trông thấy Huệ Kha lần nào không? Đạo sĩ nói:
                          - Đào hát trong phủ đều thấy, duy không biết Huệ Kha là cô nào.
                          Thượng tả hình dung và cỡ tuổi, đạo sĩ mới nhớ ra. Nhân đó Thượng cầu nhắn giùm một đôi lời. Đạo sĩ cười nói:
                          - Tôi là người tu hành, không làm chim xanh cho ông đặng.
                          Thượng nằn nì mãi, đạo sĩ đưa tay áo lên và nói:
                          - Nếu nhất định muốn thấy mặt người yêu một phen thì chui vào đây, tôi đưa đi.
                          Thượng dòm bên trong thấy rộng rãi như cả gian nhà, liền chui mình vào, lại thấy lộng lẫy sáng sủa, bàn ghế, giường mùng, chẳng thiếu thứ gì, cho nên ở trong thấy sung sướng, không buồn rầu chút nào. Đạo sĩ vào phủ, ngồi đánh cờ với Lỗ vương, thừa dịp Huệ Kha tới gần, giả vờ phe phẩy tay áo để giũ bụi. Huệ Kha bị thu hút vô trong, mà chẳng một người nào trông thấy.
                          Khi đó, Thượng đang ngồi tơ tưởng một mình, chợt nghe có vật gì từ mái nhà rơi xuống, nhìn lại té ra Huệ Kha. Hai người sửng sốt mừng rỡ, kể lể tình xưa. Thượng nói:
                          - Cái duyên lạ lùng của đôi ta hôm nay, không lẽ không ghi nhớ bằng văn chương. Vậy tôi với mình làm thơ liên cú để kỉ niệm nhé.
                          Chàng nói rồi viết câu mở đầu trên vách tường:
                          Hầu môn thăm thẳm bấy lâu nay
                          Huệ Kha nối theo:
                          Ai ngỡ chàng Tiêu lại gặp đây
                          Thượng tiếp câu thứ ba:
                          Tay áo mênh mông trời đất rộng
                          Huệ Kha đọc câu kết:
                          Trai thương gái nhớ được sum vầy.
                          Viết bài thơ vừa xong, bỗng có năm sáu người áp vào, bịt khăn đầu rìu, mặc áo màu hường, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng lẳng lặng không nói gì, chỉ bắt Huệ Kha dẫn đi. Thượng kinh hãi chẳng hiểu nguồn cơn tự đâu.
                          Về nhà đạo sĩ gọi Thượng ở trong tay áo ra, hỏi chuyện tình tự có hả lòng chưa, Thượng còn giấu giếm không nói hết, đạo sĩ mỉm cười, cởi áo lộn bên trong đưa cho chàng xem. Chàng nhìn kĩ thấy có tự tích lờ mờ, nhỏ tí, tức là bài thơ tình tự hai người liên cú hồi nãy.
                          Cách sau mười mấy hôm, chàng lại xin chui vào tay áo lần nữa. Trước sau gồm ba lần. Huệ Kha bảo Thượng:
                          - Em nghe trong bụng cục cựa, nghĩ mà lo quá, thường ngày em lấy lụa buộc bụng thắt lại, còn có thể giấu nhẹm được, nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, một mai ở cữ, làm sao giấu được đứa trẻ khóc oa oa, vậy chàng phải bàn tính với đạo sĩ, chừng nào em sinh đẻ, thì ông ra tay cứu cho mới đặng.
                          Thượng nghe lời, đêm ấy trở về quỳ mọp trước mặt đạo sĩ, chưa kịp nói chi, đạo sĩ đã nâng đỡ trở dậy và nói:
                          - Thôi mà, anh chị căn dặn nhau những gì, tôi biết dư rồi. Xin ông đừng lo, dòng giống nhà ông nhờ có một chút đó, lẽ nào tôi chẳng hết sức giúp đỡ. Nhưng từ nay trở đi chớ đòi chui vô tay áo nữa nhé! Tôi muốn báo đáp ông, chẳng phải nguyên ở tự tình mà thôi đâu.
                          Mấy tháng sau, một hôm đạo sĩ ở ngoài về, tươi cười và nói:
                          - Tôi đã rước cậu bé về đây, sửa soạn tã lót mau!
                          Người vợ Thượng vốn hiền lành, ngoài ba chục tuổi sinh nở mấy lần, chỉ nuôi được một đứa con trai, vừa lại sinh con gái, đầy tháng thì bỏ, nay nghe chồng báo tin, vui mừng khôn xiết, tức tốc chạy ra đón rước đứa bé.
                          Đạo sĩ thò vào tay áo, lấy đứa bé ra; nó đang ngủ say và rốn chưa cắt. Vợ Thượng đón lấy bồng trên tay, bấy giờ nó mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo và nói:
                          - Máu đẻ vấy dơ cả áo thế này, đạo môn kị nhất. Nay vì sự giúp đỡ ông, mà vật cũ hai chục năm, bỗng chốc phải bỏ đi.
                          Thượng đưa áo khác cho đạo sĩ thay. Đạo sĩ căn dặn:
                          - Cái áo cũ của tôi, chớ nên bỏ uổng. Để làm thuốc trị bệnh hay lắm đó. Chỉ xé một miếng độ một chỉ mà đốt, hoà với nước nóng, có thể cứu được truỵ thai và sinh đẻ khó.
                          Thượng xin vâng lời.
                          Đạo sĩ ở một thời gian lâu nữa, chợt bảo Thượng:
                          - Chiếc áo cũ nên để dành nhiều ít, về sau tự mình cần dùng, điều đó sau khi tôi chết cũng không nên quên, nghe!
                          Thượng cho là lời nói bất tường, nhưng đạo sĩ lẳng lặng ra đi, vào phủ Lỗ vương nói:
                          - Tôi muốn chết bây giờ.
                          Vương thất kinh hỏi tại sao. Đạo sĩ thưa:
                          - Đó là số trời đã định còn phải nói chi!
                          Vương không tin, cố giữ lại chơi, đánh xong một ván cờ, đạo sĩ vội vàng đứng lên. Vương lại ngăn cản. Chừng xin phép ra nhà ngoài, Vương mới y cho. Đạo sĩ ra đó nằm vật mình xuống, xem lại thì ông đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài chôn cất đủ lễ. Thượng rất thảm, bấy giờ mới hiểu lời ông nói hôm nào tức là báo trước vậy.
                          Cái áo cũ ông để lại làm thuốc cho đàn bầ đẻ mau, thật là linh nghiệm. Người đến xin, chen vai nối gót ở trước cửa. Ban đầu còn cho cái tay áo có vấy máu, lần hồi xé tới cổ áo, bất cứ chỗ nào làm thuốc cũng hay. Sau nhớ lại câu đạo sĩ căn dặn, e chính vợ mình sẽ có tai vạ vì sinh sản, cho nên cắt lấy một miếng vải có máu, to chừng bàn tay, cất kĩ để dành.
                          Gặp hồi Lỗ vương có nàng ái phi chuyển bụng ba ngày không đẻ, bao nhiêu lương y đều bó tay. Có người mách Thượng có cách chữa tuyệt diệu. Vương gọi Thượng vào, quả thật chỉ một chén thuốc là ái phi sinh đẻ dễ dàng. Vương mừng hết sức, trả lễ bằng tiền bạc gấm vóc cực nhiều. Nhưng món gì Thượng cũng từ chối không nhận. Vương hỏi:
                          - Vậy anh muốn chi?
                          - Thưa, tôi không dám nói ra.
                          Vương gạn hỏi đôi ba lần, Thượng cúi đầu nói:
                          - Nếu đại vương ban ơn cho, tôi xin người đào hát cũ Huệ Kha là đủ.
                          Lập tức, Vương gọi nàng ra hỏi bao nhiêu tuổi. Nàng thưa:
                          - Thiếp vô trong phủ từ hồi 18 tuổi, trái 14 năm nay rồi.
                          Vương thấy tuổi nàng đã lớn, bèn cho phép Thượng chọn lựa trong đám đào hát son trẻ, muốn lấy cô nào cũng cho. Thượng không chọn cô nào cả, khăng khăng chỉ chọn cô đào già Huệ Kha mà thôi. Vương cười nói:
                          - Anh học trò này khờ quá, Hay là đôi bên đã đính hôn từ mười năm về trước chăng?
                          Thượng kể chuyện thật từ trước đến sau. Vương liền sai thắng xe ngựa chở cả Huệ Kha và những tiền bạc gấm vóc đã cho, để làm tư trang cho nàng đi về nhà chồng.
                          Đứa con trai Huệ Kha đẻ lúc trước tên là Tú Sinh, có ẩn nghĩa là đẻ trong tay áo, lúc này đã được 11 tuổi.
                          Hàng ngày vợ chồng nhớ ơn đạo sĩ, năm nào đến tiết thanh minh cũng đi viếng mộ.
                          Có người ở Tứ Xuyên lâu năm, gặp đạo sĩ ở giữa đường trao cho một quyển sách và nói đó là sách trong phủ Lỗ vương, vì đi vội vàng, quên chưa nộp lại, nay phiền đem về trả giùm.
                          Người đó về, nghe tin đạo sĩ đã chết, thành ra không dám tâu bày cùng Lỗ vương. Sau nhờ Thượng trả quyển sách và tâu hộ tự sự, Lỗ vương mở ra coi thì quả là một quyển sách của mình đã cho đạo sĩ mượn coi năm xưa. Nhân đó, Vương sinh nghi, đào mả đạo sĩ lên xem, thì ra chỉ còn cái hòm trống rỗng.
                          Về sau, chính thằng con trai của vợ Thượng sinh ra chẳng may chết yểu, nhờ có Tú Sinh nối dõi tông môn, đúng lời tiên tri của đạo sĩ.


                          Đào Trinh Nhất dịch
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #88
                            Báo Ứng Trước Mắt (a Hà) - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                            Văn Đăng Cảnh Tỉnh, hơi có tên tuổi, ở cùng xóm với Trần xinh, nhà học chỉ cách nhau bức tường ngắn. Một bữa trời đã chạng vạngm Trần sinh qua bãi đất vắng vẻ, nghe trong bụi cây có tiếng con gái khóc. Đến gần, thấy sợi dây vắt ngang trên cành cây hình như sửa soạn thắt cổ.
                            Trần hỏi căn do, nàng gạt lệ và nói:
                            - Mẹ em đi vắng xa, gửi em ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói có dã tâm, xử với em không trọn thuỷ chung, thành ra thân phải bơ vơ thế này, không bằng chết đi cho rảnh.
                            Nói rồi lại khóc.
                            Trần sinh cởi sợi dây khuyên nhủ nàng tìm người mà lấy. Nàng lo không biết nương tựa vào ai. Trần mời về nhà ở tạm, nàng nghe theo.
                            Về đến nhà, khêu đèn sáng lên nhìn rõ mặt thật xinh đẹp, trong bụng thấy khoái, muốn vầy cuộc mây mưa. Nàng chống cự lại dữ dội. Những tiếng cãi lẫy ồn ào thấu qua vách vên kia. Cảnh sinh leo tường sang chơi, bấy giờ chàng mới buông nàng ra.
                            Nàng thấy Cảnh ngó lâu không chớp mắt, lâu mới chịu đi. Hai người cùng rượt theo, nhưng không thấy bóng nàng ngả nào.
                            Cảnh trở về nhà mình vừa mới đóng cửa đi ngủ, thì nàng lững thững từ trong buồng đi ra. Cảnh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp:
                            - Hắn ta bạc phước, tôi không nương tựa cả đời được.
                            Cảnh mừng lắm, gạn hỏi họ tên quê quán, nàng đáp:
                            - Ông bà tổ tiên tôi nhà ở đất Tề cho nên tôi lấy chữ Tề làm họ, tên là A Hà.
                            Cảnh giở ngón chòng ghẹo, nàng cười mà không ra vẻ chống cự, bèn cùng ăn nằm. Nhà thường có nhiều bạn bè lui tới, nên nàng hay núp trong buồng học. Qua mấy hôm nói:
                            - Tôi hãy tạm đi, bởi chổ này lộn xộn, làm mệt người ta lắm. Từ nay xin gặp nhau vào ban đêm thì hơn.
                            Chàng hỏi nhà ở đâu, nàng trả lời không xa. Cứ sáng ngày đi, đêm tối lại đến, tình yêu càng thấy nồng nàn. Cách mấy ngày lại bảo Cảnh:
                            - Tình ái đôi ta tuy đẹp, nhưng vẫn là mới chung chạ, ngày có ngày không. Nay sẳn dịp ông thân tôi bổ đi làm quan ở miền tây, sáng mai tôi phải theo mẹ đi. Vậy để tôi về nhà, thừa cơ thú thật với mẹ thì sẽ ở lại đây luôn với chàng trọn đời.
                            - Nhưng mình đi độ bao lâu?
                            - Phỏng một tuần thôi.
                            Thế rồi nàng đi. Cảnh suy nghĩ ở nhà học không tiện, bèn dọn vào nhà trong. Nhưng lại lo vợ ghen, tính là không gì hơn là bỏ vợ là xong. Chàng nghĩ rồi nhất định thực hành như vậy.
                            Vợ đến, chàng kiếm chuyện mắng chửi, khiến vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh dỗ vợ:
                            - Mày chết làm phiền cho tao, thôi mày về nhà mày là hơn.
                            Nói đoạn, giục vợ đi cho mau, vợ khóc và nói:
                            - Tôi lấy anh mười năm nay chưa từng có chuyện gì thất đức, sao anh đành dứt tình như thế?
                            Chàng khăng khăng một mực đuổi vợ càng gấp, vợ phải cuốn gói bỏ đi.
                            Từ đó, sớm tối chỉ đợi nàng trở lại, nhưng mây ngàn hạc nội, chẳng thấy tăm hơi.
                            Vợ về nhà mình rồi, mấy phen nhờ bạn bè quen thân nói giùm, xin trở lại với Cảnh, nhưng Cảnh nhất định không nghe, bấy giờ mới cải giá lấy họ Hạ Hầu.
                            Làng xóm Hạ Hầu giáp ranh với Cảnh, vì có ranh giới ruộng mà hai nhà thù hiềm với nhau lâu đời. Nay nghe vợ cũ đi lấy Hạ Hầu, Cảnh càng tức giận, nhưng trong lòng vẫn còn mong được A Hà trở lại, âu yếm an ủi tấm lòng.
                            Trải hơn một năm, càng ngày càng kiệt chẳng thấy tăm hơi gì cả.
                            Gặp ngày vái hải thần, trai tài gái sắc tấp nập trong miếu ngoài sân. Cảnh cũng đến đó, trông xa xa thấy một cô gái, mặt mũi giống hệt A Hà, chàng mon men đến gần thì nàng xen vào đám đông, chàng theo dõi, cho tới ra ngoài cửa cũng ra theo. Nhưng nghoảnh đi nghoảnh lại, nàng đi như bay. Cảnh đuổi theo không kịp, tức giận bỏ về.
                            Cách sau nửa năm, đang đi trên đường cái, thấy một cô mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đen, lão bộc theo sau, từ đằng kia đi tới. Cảnh nhìn mường tượng là A Hà, bèn hỏi thăm người tùy tùng: Nương tử là ai? Người này đáp là vợ kế của Trịnh công tử ở Nam thôn. Cảnh lại hỏi công tử lấy vợ từ hồi nào? Nghe lão bộc trả lời nhừng nửa tháng nay thôi.
                            Cảnh bỡ ngỡ có lẽ mình sai lầm chăng? Giữa lúc ấy người con gái nghe tiếng nói chuyện ở phía sau lưng nên day mặt ngó lại. Cảnh trông thấy đúng thật là Hà, lại thấy nàng đã lấy người ta, cơn ghen tức sôi gan óc, cất tiếng kêu lên:
                            - Cô Hà ơi! Sao lại quên lời hứa cũ?
                            Người nhà đi theo, nghe gọi tên tục của bà chủ mình, toan túm lại đấm đá Cảnh; nàng vội ngăn lại, mở tấm vải mỏng che mặt nói với Cảnh:
                            - Con người phụ tình, còn mặt mũi nào thấy nhau ư?
                            Cảnh nói:
                            - Cô phụ tôi thì có, chứ tôi đâu có phụ cô hồi nào?
                            Nàng đáp:
                            - Anh phụ rẫy vợ anh còn bằng máy phụ tôi kia. Với người kết tóc trăm năm còn thế, huống chi với ai? Trước kia nhờ âm đức ông bà để lại nên thấy rên anh được ghi vào bảng thi đậu, tôi mới đem thân lấy anh. Nay vì anh bỏ vợ tấm cám, thần thánh xử phạt đã rút tên anh đi rồi. Khoa thi này người đậu thứ hai có tên là Vương Xương, thế vào tên anh đó, nói cho mà biết. Nay tôi đã lấy Trịnh quân, anh đừng mơ tưởng tôi nữa vô ích.
                            Cảnh cúi đầu, cụp tai, không dám mở miệng thốt ra một lời tiếng nào. Chừng ngó lên thì nàng đã giục ngựa đi như bay. Chỉ còn có ấm ức đi về thôi.
                            Khoa thi ấy, quả nhiên Cảnh rớt; Người đậu số hai đúng là họ Vương tên Xương, cả Trịnh là chồng nàng cũng đậu.
                            Từ đó Cảnh mang tiếng là con người phụ bạc, bốn mươi tuổi không vợ, gia đạo sa sút, thường phải ăn nhờ ở vạ nhà bạn hữu.
                            Một hôm, ngẫu nhiên đến nhà Trịnh, Trịnh mời ăn cơm và giữ lại ngủ đêm. Nàng lén nhòm khách mà động lòng thương hỏi Trịnh:
                            - Người khách ở trên nhà có phải là ảnh Khách Vân chăng?
                            Trịnh hỏi từ đâu quen biết, nàng nói:
                            - Trước khi lấy ông, tôi từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng khá. Tính hạnh y tuy hèn, nhưng ân đức tổ tiên chưa dứt, vả lại, đối với ông cũng là cố nhân. Vậy cũng nên cứu giúp y manh quần tấm áo kẻo để rách rưới tội nghiệp.
                            Trịnh nghe lấy làm phải, liền sai đưa quần áo mới cho Cảnh thay và lưu lại khoản đãi mấy ngày.
                            Nửa đêm, chàng sửa soạn đi ngủ, có con ở đem hơn hai mươi đồng ra tặng, còn nàng thì đứng ngoài cửa sổ nói:
                            - Đó là của riêng của tôi để dành, nay tặng cho anh gọi là đền đáp nghĩa cũ. Anh nên nhận lấy rồi tìm lấy một người tử tế làm vợ. Còn may là ân đức của tổ tiên dày nặng, đủ mở mày mở mặt cho con cháu mai sau. Từ nay anh ráng giữ nết nànghẳn hoi, không thì tổn thọ đấy.
                            Cảnh cảm tạ, về nhà trích ra hơn mười đồng mua một con hầu ở nhà khoa cử trong miền về làm vợ, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai sau đỗ đại khoa.
                            Còn Trịnh làm quan đến Thị lang lại bộ thì qua đời. Nàng đưa đám chôn cất rồi về, người ta vén màn che chiếc kiệu xe nàng ngồi thì là xe không, bấy giờ ai nấy mới biết rõ nàng là chồn hóa thân, chứ không phải người.
                            Ôi! Con người ta bất lương, được mới nới cũ, rốt lại ổ vỡ mà chim bay vụt mất, ông trời báo ứng một cách thảm độc lắm thay!


                            ĐÀO TRINH NHẤT dịch
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #89
                              Đào mả cô Canh (Canh Nương) - Đào Trinh Nhất dịch

                              Kim Đại Dụng, con một nhà thế gia cũ ở Trung Châu, lấy con gái quan thái thú họ Vưu làm vợ.
                              Nàng tên là Canh Nương, đẹp mà hiền đức. Vợ chồng rất âu yếm hoà thuận. Vì có loạn giặc cỏ đánh phá, ai nấy phải bỏ nhà, tìm đường xa lánh.
                              Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng đem vợ đi chạy loạn, tự giới thiệu mình là Vương Thập bát và tình nguyện làm hướng đạo, Kim mừng lắm, đi đứng lúc nào cũng có nhau. Canh Nương ghé bên tai chồng nói nhỏ:
                              - Ta chớ nên đi chung ghe với người đó. Hắn hay dòm liếc, đôi mắt nhấp nháy mà sắc mặt biến đổi, trong bụng hẳn là nham hiểm khó lường đó.
                              Chàng gật đầu.
                              Vương Thập bát sốt sắng đi tìm mướn chiếc ghe thật lớn, khiêng vác hành lí hộ chàng, ra vẻ khó nhọc đáo để. Chàng không nỡ từ chối để đi tách riêng. Lại suy nghĩ hắn có đem vợ trẻ đi theo, chắc không có chuyện gì xảy ra mà lo.
                              Vương phụ cùng Canh Nương ở chung một khoang thuyền, xem người cũng có vẻ hiền từ. Còn Vương thì ngồi trên mũi ghe, cùng người chân sào nghiêng mình nói chuyện, dường như có họ hàng hay là quen biết đã lâu.
                              Không mấy chốc mặt trời lặn, mà sóng nước mênh mông, chẳng phân biệt phương hướng đâu là nam bắc.
                              Kim nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ này thâm sâu hiểm hóc, trong bụng hơi nghi sợ. Một lúc sau trăng mọc, nhìn thấy lau sậy bát ngát.
                              Ghe đậu lại đó.
                              Vương mời cha con Kim lên mui đứng xem phong cảnh, thừa cơ đẩy tuốt Kim xuống sông. Thân phụ Kim thấy vậy muốn kêu lên, nhưng người chủ ghe cầm sào đẩy ông xuống nước chết luôn. Đến bà mẹ chàng đang ở trong ghe, nghe tiếng ồn ào, chạy ra dòm xem, cũng bị dìm sông chết đuối nữa.
                              Bấy giờ Vương mới làm bộ kêu cứu.
                              Lúc bà mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã dòm biết sự tình ra sao rồi. Khi thấy cả nhà mình chết đuối, nàng cố trấn tĩnh, không lộ vẻ kinh hoàng, chỉ ôm mặt khóc nói:
                              - Cha mẹ chồng chết, chồng cũng chết nữa, thân tôi biết nương dựa vào đâu bây giờ, hỡi trời?
                              Vương đến bên vỗ về, khuyên nhủ:
                              - Nương tử chớ lo, xin theo tôi về Kim Lăng, tôi có ruộng đất cửa nhà đủ sinh sống, chẳng phải lo gì.
                              Nàng lau nước mắt và nói:
                              - Được như vậy là tôi mãn nguyện lắm rồi.
                              Vương rất mừng, đãi đằng chiều chuộng hết sức. Tối đến nó lôi kéo nàng đòi giao hoan. Nàng nói trong mình đang kì kinh, bấy giờ nó mới chịu về chỗ vợ nằm. Cuối canh một, nghe tiếng vợ chồng cãi nhau rầm rĩ, không hiểu vì cớ gì, chỉ nghe vợ nói:
                              - Mày làm chuyện đó, tao e sấm sét đánh nát đầu cho mày xem.
                              Vương đánh vợ. Vợ la lớn:
                              - Mày giỏi đánh chết tao đi càng hay, tao không muốn làm vợ một đứa giết người đâu.
                              Vương gào thét giận dữ, túm đầu vợ lôi ra bên ngoài, liền nghe một tiếng ùm, rồi Vương nói rêu rao lên rằng vợ té xuống sông chết đuối rồi.
                              Mấy hôm sau đến Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, chào hỏi bà mẹ. Bà lấy làm lạ sao người này không phải vợ cũ, Vương trả lời vợ cũ chết đuối, nên mới lấy người này.
                              Lúc nàng vào phòng riêng, Vương lại muốn mò mẫm kia khác, nàng cười và nói:
                              - Con trai ngót ba chục tuổi đầu mà không biết việc phải ở đời thế nào ư? Dầu là con nhà đầu đường xó chợ, khi mới lấy vợ cũng phải có chén rượu lạt gọi là thủ lễ. Nhà ngươi giàu có, việc ấy hẳn không khó khăn, chả lẽ đối diện suông tình với nhau còn ra thể thống gì nữa.
                              Vương nghe nhằm lí, bèn dọn tiệc rượu ngồi đối diện nhau. Canh Nương nâng chén khuyên mời hết sức niềm nở ân cần. Vương gần say, chối từ không uống được nữa. Nàng lại rót một li lớn, giả đò lả lơi mời ép Vương uống cho kì được. Vương thấy vậy khoái chí không nỡ chối từ, liền uống cạn một hơi.
                              Bấy giờ nó say mèm, cởi tuột quần áo thúc giục Canh Nương đi ngủ.
                              Nàng dọn dẹp mâm chén rồi tắt phụt đèn, lấy cớ đi tiểu bước ra ngoài phòng, dắt dao trong lưng đem vào, lò mò trong đêm tối, lấy tay vít chặt lấy cổ Vương.
                              Nó mơ màng ngỡ là người yêu bá cổ mình, cho nên còn nắm lấy cánh tay nàng nói giọng lả lơi. Nàng thừa thế ấn dao xuống thật mạnh. Vương kêu rú và vùng dậy, nàng chém bồi thêm mấy dao nữa hắn mới chết. Bà mẹ nghe có tiếng động chạy đến hỏi chuyện gì, nàng thuận tay giết nốt. Em trai nó là Thập cửu hay tin chạy đén. Canh Nương tự biết mình không thoát khỏi, liền trởmũi dao lại đâm cổ. Nhưng vì hốt hoảng nên đâm vào không sâu, vội vàng mở cửa vọt ra chạy trốn.
                              Thập cửu rượt theo bén gót.
                              Nàng kịp nhào đầu xuống giếng tự tử. Thập cửu hô xóm giềng vớt lên cứu, thì nàng đã tắt hơi rồi, mà nét mặt vẫn tươi đẹp như lúc còn sống.
                              Mọi người cùng vào buồng xem xét tử thi của Vương, thấy trên cửa sổ có để bức thư liền mở ra xem, tức là thư Canh Nương kể số nỗi oan khổ của mình.
                              Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi nàng nghĩa liệt, bàn nhau chung đậu tiền bạc mua vải liệm xác và lo cuộc tống táng.
                              Sáng ra thiên hạ tựu lại có mấy ngàn người.
                              Ai trông thấy dung nhan nàng cũng kính cẩn vái lạy. Trọn ngày, quyên góp được trăm bạc, an táng nàng ở ngoại ô phía nam. Có kẻ bày đặt nhiều chuyện đem cả mão nạm hột châu và áo bào phục mặc vào thi thể nàng rồi đem chôn một cách sang trọng, đầy đủ.
                              Giờ xin trở lại Kim Đại Dụng, lúc bị xô té xuống sông, tưởng chắc chết đuối, nhưng may phúc níu được tấm ván trôi nổi theo dòng nước, thành ra thoát chết. Gần xế chiều, trôi đến Hoài Thương, nhờ một chiếc thuyền nhỏ vớt lên.
                              Thuyền này vốn của Doãn ông, nhà giàu có, thả luôn trên sông, chuyên việc cứu vớt những kẻ đắm, đuối làm phúc.
                              Chừng được hồi tỉnh, Kim đến tận nhà Doãn ông để cảm tạ.
                              Ông đãi rất tử tế, lại muốn giữ Kim ở lại trong nhà để dạy con học. Nhưng Kim sốt ruột vì không biết tin tức cha mẹ sống chết thế nào, cho nên còn đang lưỡng lự, chưa quyết.
                              Giữa lúc ấy có người vô trình Doãn ông biết sự mới vớt được xác một cụ già và một bà lão chết trôi. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy ra nhìn mặt quả đún. Doãn ông sắm sửa quan tài chôn cất tử tế.
                              Chàng đương khóc lóc, lại được tin mới vớt một chị đàn bà, tự nói chồng nàng là Kim Sinh.
                              Kim giật mình gạt lệ định chạy ra tận nơi xem mặt thì người đàn bà ấy đã tới nhà Doãn ông. Kim nhìn không phải Canh Nương, mà chính là vợ cũ Vương Thập bát.
                              Nàng trông thấy mặt Kim khóc ròng, một hai năn nỉ chàng đừng bỏ mình tội nghiệp. Chàng nói:
                              - Hiện tôi bối rối ruột gan, còn có bụng dạ nào lo việc hộ người cho đặng.
                              Nàng càng khóc già.
                              Doãn ông hỏi rõ nguồn cơn, mừng là đạo trời báo ứng, cho nên khuyên nhủ Kim Sinh nên lấy nàng làm vợ.
                              Kim chối từ:
                              - Đúng lúc cư tang, lấy vợ không tiện, vả lại còn phải lo việc báo thù cho cha mẹ, sợ có đàn bà bịn rịn bên mình, sinh ra hệ luỵ chăng?
                              Nàng nói:
                              - Theo như lời chàng, giả tỉ Canh Nương còn sống thì chàng cũng lấy cớ báo thù và cư tang mà bỏ chị ấy đi chăng?
                              Doãn ông cho lời nàng nói đúng, ông xin chàng hãy tạm thu dưỡng nàng, để sau sẽ tính. Lúc đó Kim mới khứng chịu, rồi lo việc chôn cất ông cụ và bà cụ. Nàng cũng mặc đồ gai và khóc lóc như đối với cha mẹ chồng thật.
                              Sau khi an táng cha mẹ xong, Kim giấu dao nhọn trong lưng, đeo bị ăn xin dọc đường định tới Quảng Lăng tìm kẻ thù. Nàng ngăn lại và nói:
                              - Tôi họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với thằng khốn nạn đó. Lúc trước nói ở Quảng Lăng ấy là nói láo. Vả lại quân ăn cướp giang hồ, phần nhiều là đồng đảng của nó. Chàng chớ có mạo hiểm vu vơ e rằng đại cừu không báo được mà tự rước lấy tai vạ vào mình đấy thôi.
                              Kim nghe ngần ngừ không biết tính sao cho phải.
                              Chợt nghe thiên hạ đồn ầm về chuyện một người con gái giết chết kẻ thù, khắp cả đò dọc biển sông, đâu đâu cũng biết, lại nói rõ cả tên họ. Kim nghe lấy làm khoái chí, nhưng lại càng thấy đau đớn trong lòng, nhất định chối từ không lấy Đường thị, nói rằng:
                              - Cũng may, vợ tôi không chịu ô nhục mà giết được kẻ thù. Một người có vợ nghĩa liệt đến thế, nỡ lòng nào phụ rẫy mà lấy vợ khác cho đành.
                              Đường thị trả lời rằng đã có lời nói nhất định trước rồi, không chịu giữa đường bỏ dở, thôi thì nguyện làm nàng hầu vợ mọn cũng cam.
                              Vừa vặn lúc đó có quan phó tướng Viên công, vốn quen biết Doãn ông, nhân tiện đổi đi trấn thủ miền tây, ghé vào thăm Doãn ông, được trông thấy Kim, đem lòng yêu mến, xin chàng đi theo làm thư kí.
                              Không bao lâu, giặc cướp phạm vào đất Thuận, họ Viên đánh dẹp có công to, Kim cũng tham dự khó nhọc trong việc quân cơ, được thưởng chức quan du kích mà về. Bấy giờ mới cùng Đường thị làm lễ kết hôn, thành ra vợ chồng chính thức.
                              Ở lại mấy ngày rồi dắt vợ đi Kim Lăng, định tìm viếng mộ Canh Nương.
                              Kim bảo ghé thuyền đỗ bến Trấn Giang, ý muốn lên núi Kim Sơn viếng cảnh, chợt thấy giữa dòng có một chiếc ghe nhỏ đi qua, bên trong có bà cụ và một thiếu phụ ngồi. Kim thoáng trông lấy làm lạ, thiếu phụ hơi giống Canh Nương.
                              Chiếc ghe lướt qua mau lẹ, thếu phụ thò đầu ra cửa sổ dòm Kim, khiến chàng nhận thấy hình dung càng giống như đúc, nhưng trong bụng nửa kinh nửa ngờ, không dám đuổi theo mà hỏi, chỉ vội vàng nói câu này thật lớn: “Xem đàn vịt đang bay trên trời kia kìa!”.
                              Thiếu phụ nghe lọt cũng nói to tiếng: “Chó con lại muốn ăn thịt của mèo ư?”. Ấy là câu nói lóng của vợ chồng thường đùa bỡn nhau trong chốn khuê phòng.
                              Kim cả kinh, giục ghe quay chèo lộn lại. Té ra thiếu phụ chính là Canh Nương.
                              Con hầu đỡ Canh Nương bước sang thuyền Kim. Vợ chồng ôm nhau khóc nức nở. Đường thị lấy lễ vợ bé đối với vợ lớn, chào hỏi Canh Nương.
                              Canh Nương sửng sốt hỏi tại sao vợ Vương Thập bát lại ở đây. Kim thuật rõ đầu cuối. Canh Nương cầm tay Đường thị và nói:
                              - Câu chuyện đàm đạo trong khi cùng một chuyến đò, vẫn ghi nhớ trong lòng không quên, chẳng dè ngày nay được sum họp với nhau một nhà. Tôi nhờ có chị thay mặt tống táng cha mẹ chồng, đáng lí tôi phải tạ ơn chị trước, sao chị lại lấy lễ đích thứ đối với tôi thế?
                              Canh Nương hỏi ra Đường thị kém mình một tuổi bèn gọi Đường thị là em.
                              Nguyên hồi Canh Nương chết rồi, được các người hảo tâm chôn cất, không tự biết là trải bao xuân thu đắp đổi. Một hôm chợt nghe có người gọi tên và nói:
                              - Canh Nương ơi! Chồng mi không chết đâu, rồi vợ chồng mi sẽ lại được sum họp.
                              Khi đó nàng như chiêm bao mới tỉnh, rờ tay thấy bốn phía bưng bít như tường kín, bấy giờ mới tỉnh ngộ rằng mình đã chết, chôn trong quan tài, nhưng trong trí chỉ thấy buồn bực, chứ không có điều chi khổ sở.
                              May sao, có bọn người tham lam, thấy được khi người ta liệm nàng có nhiều đồ vật sang trọng, bèn thừa đêm khuya rủ nhau ra đào mả bửa hòm, để lấy những vật quý giá đó. Nào dè mở ra, thấy Canh Nương còn sống, cả bọn sợ hãi cuống quýt.
                              Canh Nương sợ chúng sát hại mình, cho nên lấy lời nhỏ nhẹ năn nỉ:
                              - Thật là nhờ có mấy anh, mà tôi lại trông thấy mặt trời. Vậy bao nhiêu trâm cài lược giắt trên đầu tôi, xin mấy anh cứ việc lấy đi, rồi đem tôi bán cho một chùa nào làm ni cô thì mấy anh còn được món tiền nhiều ít nữa. Tôi thề giữ kín, không lộ với ai mà sợ.
                              Bọn trộm cúi đầu thưa:
                              - Nương tử nghĩa liệt, dù người hay quỷ thần đều phải kính nể. Anh em chúng tôi chỉ vì nghèo túng vô phương mà làm việc bất nhân thế này. Chỉ cầu nương tử không nói lộ chuyện là may phúc cho anh em chúng tôi lắm rồi, đâu dám đem nương tử đi bán cho chùa.
                              Canh Nương đáp:
                              - Điều đó tự lòng tôi muốn mà.
                              Một đứa trong bọn nói:
                              - Tại Trấn Giang có Cảnh phu nhân, goá chồng mà không có con cái chi, nếu được nương tử về làm con nuôi, thì hẳn bà mừng lắm.
                              Canh Nương tạ ơn, rồi tự tháo các món châu báu trang sức trên đầu trao cho lũ trộm. Chúng không dám nhận. Nàng cố ép mãi, chúng mới chịu lãnh rồi mời nàng xuống ghe, chở tới nhà Cảnh phu nhân, nói thác rằng nàng bị bạt phong chìm thuyền lưu lạc đến đây.
                              Cảnh phu nhân nhà cao cửa rộng, thân đàn bà goá vò võ một mình, đang trong cảnh buồn, bỗng được Canh Nương, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền nhận nuôi nàng và chăm nom chiều chuộng không khác nào con đẻ.
                              Hôm nọ, Kim Sinh gặp ở trên sông, là lúc hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về.
                              Canh Nương kể rõ tình đầu cho bà nghe, rồi Kim Sinh qua chào. Bà tiếp đãi như mẹ vợ đối với chàng rể, lại mời đến nhà ở chơi mấy ngày mới cho về.
                              Từ đó hai vợ chồng lui tới nhà phu nhân luôn.



                              Đào Trinh Nhất dịch
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #90
                                Tình NGhĩa Với Chim (A Anh) - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                                Cam Ngọc, tự Bích Nhân, người quận Lộ Lăng, cha mẹ mất sớm còn người em trai, tên Giác tự Song Bích, mới có năm tuổi, nhờ anh chị nuôi nấng.
                                Người rất hữu ái, chăm nom em chẳng khác gì con ruột. Năm tháng qua đi, Giác trưởng thành, mặt mày khôi ngô lại thông minh học giỏi, cho nên Ngọc càng quý, thường nói:
                                - Thằng em ta lỗi lạc thế này, phải có vợ tài mạo song toàn mới xứng đáng.
                                Nhưng kén chọn khó tính quá, thành ra dạm hỏi chẳng xong đám nào. Một hôm, Ngọc lên chùa núi Khuông Sơn đọc sách rồi ngủ lại đó, gần khuya đi nằm nghe bên ngoài cửa sổ có tiếng con gái thỏ thẻ, nhìn ra thấy ba bốn cô gái ngồi xúm nhau trên bãi cỏ, mấy con tớ gái bày rượu và đồ nhắm, cả bọn đều có sắc đẹp. Một cô hỏi:
                                - Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không đến chơi với chị em ta?
                                Cô gái ngồi hàng cuối trả lời:
                                - Bữa qua nó từ cửa ải Hàm Cốc đến đây bị một thằng hung bạo làm đau cánh tay phải; cho nên không thể cùng chị em mình ngao du đêm nay.
                                Mỗi người một lời, tỏ vẻ tức tối cho A Anh. Rồi một cô gái nói:
                                - Đêm trước nằm chiêm bao ghê quá, hôm nay nhớ lại còn toát mồ hôi.
                                Cô ngồi hàng cuối xua tay gạt đi:
                                - Chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói chuyện nhát sợ người ta mất khoái đi.
                                - Con bé này sao nhát gan đến thế! Nó làm như beo cọp đến vồ đi chăng? Nếu muốn cho ta đừng nói thì phải một bài thuốc chuốc chén cho chị đây. Cô nọ liền ngâm nho nhỏ:

                                Bông đào đua nở đầy thềm tốt tươi
                                Hôm qua hẹn ước chớ có đơn sai
                                Nhắn nhủ cô em bên xóm
                                Đợi nhau chút đỉnh chớ nên giục tôi


                                Mang giày cánh phụng rồi tôi tới nơi.
                                Cô ngâm xong, cử tọa đều tấm tắc khen hay.
                                Giữa lúc chị em đang vui cười, bỗng một người to lớn hầm hầm đi vào, mắt lồi mặt dữ tợn, các cô cùng hoảng hốt la lên:
                                - Yêu tinh đến đó! Yêu tinh đến đó!
                                Rồi mạnh ai nấy chạy tán loạn, như chim lạc đàn, duy cô vừa mới hát không chạy kịp, bị yêu tinh bắt được, kêu la thảm thiết, cố sức giằng co để gỡ mình ra. Yêu tinh giận dữ cắt đứt một ngón tay cô của mà nhai liền đó. Cô ngã xuống đất chết giấc.
                                Cam Ngọc nhìn thấy động lòng xót thương không sao nhịn được, lập tức rút gươm mở cửa xông ra, chém yêu tinh, trúng vào bắp về đứt lìa, nó đau quá chạy mất.
                                Ngọc đỡ nàng vào nhà, thấy mặt đầy cát bụi, máu thấm ướt áo, té ra đứt ngón tay cái, liền xé vải buộc lại cho nàng. Bấy giờ nàng mới tỉnh, nói rên rỉ:
                                - Cái ơn cứu mạnh lấy gì mà đáp đền?
                                Từ khi Ngọc trông thấy nàng, đã ngầm tính tới chuyện làm mai cho em, bèn ngỏ ý với nàng, nàng nói:
                                - Con người có tật như tôi, không thể làm việc nội trợ được nữa, để tôi làm mai một người cho em ông.
                                - Người ấy họ chi?
                                - Cô ấy họ Tần.
                                Đoạn, Ngọc tự lấy chăn của mình đắp cho mình. Hôm sau, Ngọc về thuật chuyện với em, lấy làm hối hận không hỏi nàng cửa nhà làng xóm ở đâu.
                                Một hôm, em Ngọc là Giác ngẫu nhiên đi chơi ngoài đồng, gặp một cô xuân xanh đôi tám, mặt mày cực xinh, ngó chàng mà cười chúm chím, sau liếc quanh bốn phía rồi nói:
                                - Cậu có phải là cậu Hai nhà họ Cam đó không?
                                - Thưa phải! Chính tôi!
                                - Ông cụ thân sinh ra cậu hồi xưa có đính ước hôn nhân cho cậu với tôi, sao hôm nay cậu lại muốn trái lời ước cũ, đi dạm hỏi họ Tần?
                                - Thưa cô, tôi mồ côi cha từ hồi còn bé, cho nên những lời hẹn hò thế nào, không từng hay biết. Vậy xin cô nói rõ họ tên, để tôi về hỏi lại anh tôi.
                                - Thưa cậu ạ, không cần tra hỏi tỉ mỉ làm chi. Miễn được cậu ừ một tiếng, rồi tôi sẽ tự đến nhà.
                                Giác từ chối, lấy cớ là chưa nói với anh, không dám hứa bừa, nàng cau mày nói:
                                - Vậu này ngây thơ quá, sợ anh đến thế ư? Đã vậy thì thôi, nói cho biết: Tôi đây họ Lục ở thôn Sơn Vọng thuộc về Sơn Đông. Nội trong ba bữa tôi đợi tin cậu đấy.
                                Nói đoạn, nàng từ giã đi.
                                Giác về thuật chuyện với anh, anh nói:
                                - Con đó nói láo. Hồi cha mất, tao đã ngoài hai mươi tuổi, nếu có chuyện đính hôn đó, lẽ nào tao lại không hay.
                                Ngọc lại nghĩ, con gái đi một mình ngoài đồng, gặp đàn ông con trai tự dưng bắt chuyện như thế là hạng gái không ra gì, cho nên trong lòng khinh bỉ, không thèm để ý. Tuy nhiên, cũng hỏi em coi dung mạo nàng ra sao? Giác thẹn đỏ mặt, không thốt được một lời nào. Chị dâu cười hỏi:
                                - Ý chừng cô ả đẹp lắm thì phải.
                                Ngọc nói:
                                - Nó con nít, biết gì xấu đẹp? Dù cho đẹp cũng không bằng họ Tần đâu. Đợi xem chừng nào họ Tần không xong, sẽ tính đám này cũng chưa muộn.
                                Giác lẳng lặng bỏ đi.
                                Cách mấy hôm sau, Ngọc đi đường, thấy một thiếu nữ vừa đi vừa khóc trước mặt, liền buông cương kìm ngựa lại mà dòm mặt thấy sắc đẹp tuyệt trần bèn sai tên tùy tùng hỏi nàng vì sao mà khóc.
                                Nàng đáp:
                                - Tôi lúc trước đính hôn cậu hai nhà họ Cam vì nỗi nhà nghèo nên phải đi xa, phải bặt tin tức. Gần đây mới về, lại nghe Cam gia thay lòng đổi dạ, quên lời ước cũ, bây giờ tôi cốt đến hỏi người anh cả là Cam Bích Nhân xem anh ấy liệu cho tôi ra sao?
                                Ngọc sửng sốt vừa mừng vừa tự giới thiệu:
                                - Cam Bích Ngọc chính là tôi đây cô ạ! Ông cụ nhà tôi thuở trước có hẹn ước ra sao, thật tình là tôi không biết. Đây cách nhà tôi không xa, mời cô về nhà tôi bàn tính.
                                Nói rồi xuống ngựa, nhường cho nàng cưỡi, tự mình đi bộ theo sau, đưa nàng về nhà.
                                Nàng tự nói tên là A Anh, mà không có anh trên em dưới nào cả, duy chỉ có một người chị bên ngoại, họ Tần cùng ở chung. Bấy giờ Ngọc mới hiểu cô nọ đã nói hôm trước tức là người này. Ngọc muốn sai người đi báo tin cho nhà cô biết, nhưng cô nhất định cản đi.
                                Ngọc mừng thầm, em mình vớ được vợ đẹp, nhưng sợ nàng lẳng lơ, e bị thiên hạ chê cười. Cưới về một thời gian, nhận thấy cử chỉ đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như là mẹ, chị dâu cũng hết lòng yêu chuộng.
                                Gặp tiết trung thu, vợ chồng đang ngồi ăn uống thân mật, chị dâu sai người đến mời, kèo nài thế nào nàng cũng phải đến nhà anh chị uống rượu thưởng nguyệt cho vui. Trong ý Giác còn phân vân, thì nàng bảo người đi mời cứ về trước, nàng sẽ tới sau. Nhưng ròi nàng cứ ngồi lỳ ở nhà nói chuyện vui cười với chồng, lâu lâu mà không có ý ra đi, làm Giác phải giục giã, sợ chị dâu chờ đợi mãi, không nên. Nàng chỉ cười, sau rốt vẫn ngồi nhà chớ không đi đâu cả.
                                Sáng ngày, nàng chải đầu thoa phấn vừa xong, thì chị dâu thân hành đế thăm viếng, hỏi tại sao đêm qua ngồi với mình mà có vẻ xuôi xị không vui. Nàng mỉm cười.
                                Giác thấy chuyện lạ, hạch hỏi đôi co, té ra hồi hôm vợ ngồi cả buổi ở nhà không chịu đi, đồng thời lại có mặt tại nhà chị mới kỳ. Chị cả kinh, nghĩ bụng, nếu như nàng chẳng phải yêu ma, cớ sao có phép thân phân hai nơi như thế. Ngọc cũng phát sợ, đứng cách bức màn mà nói:
                                - Nhà tôi đời đời tu nhân tích đức, vốn không chuyện oán thù gì với cô. Nếu phải cô là yêu tinh thì xin đi mau, chớ giết em tôi tội nghiệp.
                                Nàng thẹn thùng nói:
                                - Vâng, em vốn không phải là người. Chỉ vì ngày xưa ông cụ có lời đính ước, thành ra chị Tần thúc giục em tới đây. Chính em tự nghĩ không thể sinh đẻ gì được, cho nên thường muốn từ biệt mà đi cho rảnh; bấy lâu hãy còn bịn rịn chẳng nỡ dứt tình chỉ vì cảm tấm lòng anh chị đối đãi tử tế đó thôi. Nay anh chị đã sinh lòng ngờ vực thì em xin đi biệt từ đây.
                                Chớp mắt đã hóa thành chim anh vũ bay mất.
                                *
                                Nguyên hồi Cam ông còn sống, có nuô một con anh vũ cực khôn, mỗi ngày ông tự đút mồi cho nó ăn. Lúc đó Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cha tại sao cứ phải cho chim ăn. Ông nói giỡn:
                                - Cho nó ăn để sau này làm vợ mày đó.
                                nhiều khi sợ chim ăn chưa đủ no, ông kêu Giác:
                                - Kìa, con không cho nó ăn thì dâu của tao chết đói còn gì?
                                Gia nhân cũng lấy chuyện đó mà đùa bỡn với Giác. Về sau, chim duộc dây, bay vù đi mất.
                                Nay người anh nhớ lại chuyện xưa, mới tỉnh ngộ nàng nói cựu cũ là vậy đó.
                                Bây giờ, Giác thấy rõ vợ không phải là người nhưng biến đi thì lòng thương nhớ khôn nguôi. Chị dâu cũng nặng tình tưởng nhớ, đến nỗi sớm chiều khóc lóc. Ngọc động lòng hối hận song việc đã lỡ chẳng biết làm sao kéo lại cho được.
                                Sau hai năm, Ngọc cưới con gái Khương thị về cho em, nhưng trong ý không nguôi chuyện cũ.
                                Có người anh họ là chức Tư Lý ở Quảng Đông, Ngọc đến thăm, lâu ngày không về. Vừa gặp thổ phỉ dấy loạn, xóm làng xung quanh đổ nát quá nửa. Giác sợ quá đưa cả nhà vào hang núi lánh nạn, trai gái hỗn tạp, không còn biết ai là ai. Chợt nghe tiếng con gái nói thỏ thẻ, nghe giống như A Anh, chị dâu hối Giác lại gần xem thì quả A Anh.
                                Giác mừng quýnh nắm chặt lấy cánh tay không buông, nàng nói với người cùng bọn:
                                - Cô hãy đi trước, tôi đợi chị dâu tôi đến.
                                Khi đến nơi, chị dâu trông thấy khóc nức nở, nàng an ủi đôi ba phen, lại nói chốn này không thể yên thân, nên kéo nhau về nhà là hơn. Mọi người sợ cướp quấy nhiễu thì nguy. Nàng nhất định bảo cứ về, không có gì lo. Bấy giờ mọi người đưa nhau về.
                                Nàng đào đất bịt cửa, dặn dò ai nấy cứ yên bên trong, không được ra ngoài. Ngồi nói ba điều bốn chuyện, nàng rục rịch muốn đi. Chị dâu vội vàng nắm chặt cánh tay, lại bào hai con hầu mỗi đứa ôm cứng một chân. Cực chẳng đã, nàng phải ở lại, nhưng chạy về buồng riêng. Giác năn nỉ hẹn hò ba bốn lần nàng mới đến một lần.
                                Chị dâu thường nói với nàng rằng Khương thị lôi thôi, nên không vừa ý chú hai (tức Giác) nàng bèn thức dậy thật sớm, ra tay trang điểm trau dồi cho Khương thị. Người ta vào thấy xinh đẹp gấp bội. Cách ba bốn ngày biến đổi rõ ràng là một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân dịp mình không có con, ý muốn mua một cô hầu cho chồng, nhưng bấy lâu chưa rảnh mà tính chuyện ấy, nay thấy nàng có tài biến xấu ra đẹp như thế, bèn hỏi nàng trong đám thị tì, chẳng biết có thể nào tô điểm biến hóa được không? Nàng nói:
                                - Bất cứ ai cũng có thể biến hóa được. Duy có kẻ nào sẳn sàng chất tốt, thì đỡ tốn công phu thế thôi.
                                Đoạn, nàng xem tướng khắp mặt con hầu trong nhà, có một đứa vừa đen vừa xấu nàng bảo có tướng sinh con trai. Liền đó nàng gọi nó đi tắm rửa xong, tự lấy phấn trộn với thuốc bột mà thoa khắp cơ thể cho nó. Làm vậy ba bốn bữa, sắc mặt lần lần biến vàng. Sau hơn hai mươi tám ngày thì dầu mỡ thấm nhuần da thịt, thành ra con người dễ coi.
                                Ngày ngày nàng chỉ đóng cửa làm trò vui cười, tuyệt nhiên chẳng hề kể gì tai nạn binh hỏa rầm rộ bên ngoài.
                                Một đêm, tiếng kêu ồn ào tứ phía, cả nhà sợ quýnh. Giây lát, ngoài cửa dậy tiếng người la ngựa hí, kéo đi nầm nập. Sáng ra mới biết hồi khuya cả xóm bị cướp đốt phá gần hết, bọn cướp lục soát khắp nơi, những người ẩn núp hang núi đều bị giết chóc. Bấy giờ cả nhà mới cám ơn nàng, coi nàng như thần. Bỗng dưng nàng nói với chị dâu:
                                - Em đến đây chuyến này chỉ vì cám ơn nghĩa của chị không thể quên được cho nên cùng chị chia sẻ cảnh buồn loạn ly. Anh sắp về tới nơi chị ạ! Em còn ở đây nghĩ cũng kỳ, khác nào tục ngữ thường nói: “Chẳng ra môn khoai gì cả”, âu thật buồn cười.Thôi em phải đi, chừng nào rảnh sẽ ghé thăm chị.
                                Chị dâu hỏi tin tức người dađg đi đường có bình yên mạnh giỏi không. Nàng đáp:
                                - Giữa đường có nạn lớn nhưng chuyện này không dự chi đến người ta. Chị Tần mang ơn nhiều, tất là nhân dịp báo đáp, vậy thì gặp nạn cũng chẳng hề chi.
                                Chị dâu cố giữ ngủ lại một đêm nữa, trời chưa sáng rõ thì nàng đã đi rồi.
                                Nói về Cam Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà giặc giã, cố đi ngày đêm để về cho mau. Giữa đường gặp giặc, hai thầy trò phải bỏ cả ngựa, gói ghém tiền nong cột vào bụng lén núp trong bụi gai góc. Một con Tần Các Liễu (tên riêng của loài chim anh vũ) bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che đậy. Ngọc nhìn cái cẳng thấy khuyết một ngón, trong bụng lấy làm lạ. Giây lát bọn giặc xúm quanh tứ phía tìm tòi khắp các bờ bụi, Ngọc và tên tùy bộ nín hơi, không dám thở mạnh.
                                Giặc lục soát không thấy gì, bỏ đi tứ tán, bấy giờ chim mới bay đi.
                                Về nhà, vợ chồng cùng thuật cho nhau ngh những chuyện đã thấy, lúc đó Ngọc mới biết Tần Các Liễu tức là mỹ nhân mình cứu mạng năm xưa.
                                Sau, hễ khi nào Ngọc đi chơi lâu không về, đêm ấy A Anh tất ghé về nhà, nhắm chừng Ngọc gần về thì nàng đi. Giác gặp lại nàng tại nhà chị dâu, lần nào cũng mời thỉnh đến nhà mình chơi, nàng ừ nhưng không đến bao giờ.
                                Một đêm, Ngọc đi chơi, Giác định chừng A Anh sẽ đến, bèn núp một nơi để chờ. Một lúc quả nàng có tới, Giác xông ra đón đường, lôi kéo về nhà mình kỳ được mới nghe. Nàng nói:
                                - Tôi với cậu tình duyên đã hết rồi, nếu cố sum họp e bị trời ghen ghét, vậy ta nên lưu chút tình đó để thỉnh thoảng gặp nhau thì hơn.
                                Giác không nghe, cứ việc ôm ấp nàng, rồi giao hoan.
                                Trời sáng, đến nhà chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói:
                                - Em đi nửa đường, bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải mong đợi, thật em có lỗi muôn vàn.
                                Nàng nói chuyện dăm ba câu rồi đi ra. Một luc sau, con mèo lớn trong nhà ngậm chim anh vũ đi qua trước cửa buồng ngủ, chị dâu nghi là A Anh, sửa soạn đi tắm mà phải bỏ tắm, kêu người nhà đổ ra bắt con mèo mà lấy chim anh vũ lại. Cánh bên tả rướm máu, hơi thở thoi thóp, chị dâu đặt lên đầu gối vuốt ve khá lâu, chim mới hồi tỉnh, tự lấy mỏ rỉa lại lông cánh, giây lát bay quanh trong nhà miệng nói:
                                - Xin chào chị ở lại, em đi. Em oán cậu Giác lắm.
                                Đoạn vỗ cánh bay thẳng.

                                ĐÀO TRINH NHẤT dịch
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X