Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Liêu Trai Chí Dị Bồ Tùng Linh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #61
    Mặc áo lá cây (Phiên Phiên) - Đào Trinh Nhất dịch

    La Tử Phù người Phân Châu, cha mẹ đều mất sớm, hồi tám chín tuổi ở nhà chú là Đại Nghiệp nuôi.
    Ông này làm quan ở Quốc Tử Giám, nhà giàu mà không có con, cho nên thương yêu La như con ruột vậy. Lúc chàng mười bốn tuổi, bị kẻ gian dụ dỗ đi chơi gái. Vừa gặp một ả lầu xanh ở Kim Lăng đến quận này ở trọ kiếm tiền, La trông thấy say mê. Sau ả trở về Kim Lăng, chàng bỏ nhà chú mà trốn đi theo, đêm ngày ăn ở nhà ả.
    Được nửa năm, tiền túi hết sạch, bị các chị em khỉnh rẻ lạnh lùng, nhưng chưa nỡ tống cổ đi. Không bao lâu, ung nhọt bể mủ, thối tha, làm thấm ướt dơ dáy cả giường chiếu, chàng bị chị em lầu xanh đuổi ra khỏi nhà, phải ra ngoài chợ ăn xin. Người chợ trông thấy vội vàng xa lánh.
    Chàng lo sợ chết mất xác ở quê người, nên quyết kế xin ăn dọc đường, lần mò trở về quê quán. Mỗi ngày đi ba bốn chục dặm, lần hồi về đến ranh giới Phân Châu.
    Nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối, không mặt mũi nào về làng xóm mình, còn thơ thẩn ở quanh miền chưa dám về nhà vội.
    Trời tối, định bụng đến ngủ nhờ một ngôi chùa trên núi, nửa đường lại gặp một thiếu nữ, dung mạo như tiên, tới gần hỏi chàng đi đâu? Chàng kể tình thật. Nàng nói:
    - Tôi xuất gia tu hành, ở trong hang núi, có thừa chỗ trải chiếu cho anh ngủ nhờ, không sợ gì beo cọp đâu.
    Chàng mừng rỡ, theo đi, vào tận núi sâu, thấy một hang động. Bước vào bên trong, thấy cửa bắt ngang khe suối; đi mấy bước, có hai căn nhà đá, ánh sáng chói lọi, không cần đèn đuốc. Nàng bảo cởi áo rách, ra khe suối tắm thì khỏi mụn nhọt. Lại kéo màn quét chiếu, giục chàng đi nằm.
    - Anh đi ngủ cho khoẻ, tôi may áo quần cho.
    Đoạn, nàng lấy mấy tàu lá to như lá chuối, cắt và may thành áo. Chàng nằm liếc mắt dòm, thấy nàng may chốc lát đã xong, xếp để trên giường, nói:
    - Sáng thức dậy, lấy áo mới đó mà mặc!
    Rồi nàng nằm giường đối nhau mà ngủ.
    Sau khi chàng ra khe suối tắm rửa sạch sẽ nghe những vết thương không đau đớn gì nữa. Chàng tỉnh ngủ rờ xem, thì mụn đã lên da. Trời sáng sắp dậy lòng còn ngờ vực lá chuối may áo thì mặc sao đặng, nhưng cầm tay nhìn kĩ, té ra gấm xanh cực đẹp.
    Một lúc sau, dọn cơm, nàng hái lá gì trên núi chẳng rõ, nói là bánh và bảo chàng ăn: chàng ăn quả thật là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà với cá, đem ra mổ, đều như vật sống. Một cái lọ để góc nhà, bảo là rượu ngon, múc uống, quả thật rượu. Múc hơi cạn thì lấy nước suối đổ thêm vào.
    Mấy hôm ghẻ lở khỏi hẳn, đòi nằm ngủ chung với nàng. Nàng tức cười và nói:
    - Thằng cha bợm bãi này mới vừa được yên thân, đã muốn nọ kia.
    Chàng nói:
    - Tôi muốn đền ơn cô mà!
    Rồi hai người nằm chung, hết sức ân ái.
    Một hôm, có một thiếu phụ đến, cười nói:
    - Con ranh Phiên Phiên độ này vui sướng quá ta! Liệu bao giờ có mang đấy, em?
    Phiên Phiên mơn trớn nói:
    - A, cô Hoa Thành hèn lâu không bước chân tới đây. Hôm nay bị gió tây nam thổi vù đến. Thế nào? Cậu bé đã ẵm đi chơi được chưa?
    Hoa Thành đáp:
    - Lại một con bé thì có.
    - Sao Hoa cô không ẵm cháu lại chơi luôn thể?
    - Nó vừa khóc rồi ngủ thít, chị mới đi được đấy.
    Hoa Thành nói đoạn ngồi xuống đòi đãi rượu uống chơi, lại day qua La sinh, bảo chàng đốt thứ hương tốt cho thơm. Chàng để ý dòm Hoa Thành độ hai mươi ba hay hai mươi bốn tuổi, tuy gái mấy con nhưng vẫn còn đẹp, trong ý ưa muốn lắm. Lúc gọt trái cây, lỡ đánh rớt xuống bàn, chàng vờ cúi xuống lượm, để thừa dịp rờ chân. Hoa Thành ngó lảng và cười như tuồng không hay biết gì cả.
    Chàng đang vui sướng tâm thần, chợt thấy trong mình lạnh lẽo, ngó lại áo mình mặc, đã biến ra lá cây, trong trí hoảng sợ, phải ngồi lặng giây lát mới thấy nó biến trở lại gấm vóc như cũ. Lòng khấp khởi mừng thầm hai nàng không thấy.
    Chén tạc chén thù chốc lát, chàng lại nổi chứng cũ, thừa lúc Phiên Phiên ngoảnh mặt chỗ khác, thò ngón tay gãi vào bàn tay mềm mại của Hoa Thành.
    Hoa Thành cứ thản nhiên cười đùa, hình như không để ý. Nhưng áo quần chàng bỗng hiện nguyên hình lá cây, một lát mới biến trở lại. Từ đó chàng hổ thẹn ngồi nín khe, chẳng dám mơ tưởng xằng bậy nữa.
    Bấy giờ Hoa Thành mới cười xoà, nói với Phiên Phiên:
    - Anh chồng tí hon của dì nó thật không đứng đắn tí nào, ví bằng gặp phải vợ dữ, thì có lẽ hắn nhảy vọt lên tới mây xanh không chừng.
    Phiên Phiên cũng cười mỉm:
    - Thằng cha bạc tình nên để chết rét cho đáng kiếp.
    Hai người cùng vỗ tay thích chí. Đoạn Hoa Thành đứng dậy nói:
    - Thôi, phải đi! Con bé ngủ thức dậy khát sữa, e khóc tới đứt ruột mất.
    Nàng cũng đứng dậy nói giỡn.
    Sau khi Hoa Thành đi rồi, chàng nơm nớp lo sợ Phiên Phiên trách mắng về tội thấy gái như mèo thấy mỡ, nhưng may nàng làm lơ không nói gì, đối đãi y như bình thường.
    Không bao lâu, thu mãn sang đông, sương sa lá rụng, nàng lo nhặt nhạnh những lá rơi, để dành làm đồ ngự hàn. Chừng day lại ngó chàng rét ngồi co ro, bèn ra ngoài cửa động, bốc lấy mây trắng làm bông gòn, may áo lót cho chàng mặc, thấy mềm nhuyễn mà nhẹ nhàng, lúc nào cũng ấm áp như bông mới tinh vậy.
    Qua năm, nàng sinh hạ một con trai, cực xinh xắn thông minh, hàng ngày chàng ở trong động ẵm bồng nựng nịu con làm vui. Nhưng lòng thương nhớ quê hương muốn rủ nàng cùng về; nàng nói:
    - Tôi không thể đi theo mình đặng. Nếu nhớ quê thì xin tự đi một mình, mặc tôi ở đây.
    Nấn ná hai ba năm, thằng con lớn dần, chàng bèn định ước sui gia với Hoa Thành. Nhiều khi chàng ngỏ ý lo nghĩ đến ông chú già ở nhà, không ai chăm sóc, nàng nói:
    - Ông chú, cố nhiên tuổi tác đã cao, nhưng nhờ trời phù hộ vẫn còn mạnh khoẻ, mình không phải lo. Thôi thì mình cố ở đây cho tới khi cưới vợ cho con rồi sự đi hay ở tuỳ mình quyết định.
    Nàng ở trong động, lấy lá làm giấy viết chữ chép sách, dạy con học. Thằng nhỏ sáng dạ, chữ nào qua mắt cũng thuộc lòng ngay. Nàng nói:
    - Thằng bé này có phúc to lắm, cứ thả cho nó lăn lộn vào cõi trần, chả lo gì không làm nên quan lớn.
    Thấm thoát, nó được mười bốn tuổi. Hoa Thành tự đưa con gái đến nhà chồng. Con nhỏ mặt đẹp, dung nhan lộng lẫy như trên trời sa xuống. Hai vợ chồng La sinh và Phiên Phiên rất vui lòng. Cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ cây trâm làm nhịp mà hát:
    Ta có con hiền,
    Không chuộng quan sang.
    Ta có dâu thảo,
    Không chuộng bạc vàng.
    Đêm nay sum vầy
    Cả nhà vui vẻ
    Mời chàng chén này,
    Cầu chàng sức khoẻ!
    Hoa Thành đi rồi, hai người cùng đôi vợ chồng mới cùng ở đối diện nhau trong hang đá. Con dâu hiếu thảo, chăm lo săn sóc hầu hạ mẹ chồng tối ngày ríu rít bên cạnh, vì đó Phiên Phiên thương yêu như con ruột.
    Chàng lại bàn chuyện hồi hương, nàng biết thế không cầm giữ được nữa, đành thu xếp cho chồng đi.
    - Mình có cốt tục, chung quy không sao thành tiên đặng, thôi thì mình đi. Thằng con chúng ta cũng là người trong làng phú quý, vậy mình nên đem con về theo, tôi không muốn cầm giữ để lỡ mất cuộc vinh hoa một đời của nó.
    Con dâu đang suy nghĩ làm thế nào gặp mẹ để từ giã, thì Hoa Thành đã tới nơi. Con khóc lóc bịn rịn, hai bà mẹ cùng yên ủi:
    - Con hãy tạm đi, sau sẽ có dịp trở lại.
    Phiên Phiên cắt lá thành hình con lừa, cho ba người cưỡi mà đi.
    Lúc này ông chú ruột La sinh già nua, đã cáo quan về nhà, trong trí tin tưởng bề nào thằng cháu cũng chết bỏ xác đâu rồi; nay bỗng thấy cháu lù lù trở về, lại có cả con trai con dâu cùng theo, ông cụ hết sức vui mừng như bắt được của báu vậy.
    Khi ba cha con vào đến trong nhà, ngó lại áo mặc, đều thành lá chuối, xé ra, may lót bên trong ngùn ngụt bay lên không. Ông chú đưa quần áo thật cho ba cha con thay đổi.
    Sau chàng thương nhớ Phiên Phiên, dắt con đi vào núi thăm, chỉ thấy lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, cùng nhau ngậm ngùi trở về.

    Đào Trinh Nhất dịch



    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #62
      Mê sách (Thư si)

      Lang Ngọc Trụ quê Bành Thành. Ông bố làm quan đến chức thái thú, rất liêm khiết, được bổng lộc không tính chuyện làm giàu, chỉ tích sách đầy nhà. Đến Ngọc Trụ lại càng mê sách, gia cảnh nghèo khó phải bán hết đồ đạc, nhưng số sách cha để lại vẫn không suy suyển một quyển.
      Khi còn sống, người cha đã viết cả thiên Khuyến học (1) dán lên vách bên phải toà nhà ở:
      Nhà giàu chẳng cần bán ruộng tốt
      Trong sách tự có nghìn chung thóc
      Ăn ở chẳng cần nhà cao to
      Trong sách tự có lầu kim ốc
      Lấy vợ chớ e mai mối xoàng
      Trong sách có nàng mặt như ngọc
      Hàng ngày Lang thường ngâm đọc, lại còn viết bài ấy vào bức lụa trắng, chỉ sợ mờ rách mất. Anh ta cũng không mơ tưởng đường công danh vì đinh ninh tin rằng trong sách thế nào cũng có vàng có thóc. Suốt ngày suốt đêm, anh ta chỉ mải mê đọc sách, bất kể lúc nóng nung người khi rét cắt da. Tuổi ngoài đôi mươi, anh ta chả thiết gì tìm vợ vì hi vọng người đẹp trong sách sẽ tự đến. Bạn bè thân thích đến chơi, anh ta cũng chẳng thiết chuyện trò, chỉ qua quýt hỏi đáp vài câu rồi lại lớn tiếng ngâm đọc, khách ngồi chán rồi đi. Mỗi lần sát hạch, anh ta đều được lấy đứng đầu, nhưng khổ nỗi thi hoài không đỗ.
      Một hôm Lang đang ngồi đọc sách, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, anh ta vội đuổi theo, chợt chân bị sụt xuống đất. Hoá ra chỗ đó có hố thóc mục đã tơi như đất mùn, do người xưa cất giấu. tuy không ăn được thứ ấy, nhưng anh ta càng tin mấy chữ “nghìn chung thóc” là không sai, cho nên lại càng chăm đọc sách. Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đám sách vở linh tinh, vớ được cái xe vàng độ hai gang, anh ta mừng quá, cho rằng nghiệm với chữ “kim ốc” (nhà vàng). Đưa xe cho người ta xem thì hoá ra là vàng mạ, không phải vàng thật. Anh ta có ý oán cổ nhân lừa dối mình. Không bao lâu, có người khuyên Lang cúng cái xe ấy vào việc xây dựng tháp Phật. Người bạn đồng khoa với cha Lang, đang làm quan ở đất ấy, vốn là người mộ đạo Phật liền tặng hai con ngựa, ba trăm đồng vàng. Lang mừng quá cho là ứng nghiệm với chữ “xe ngựa, nhà vàng” cho nên lại càng khổ công dùi mài kinh sử.
      Tuổi đã ba mươi, người ta khuyên lấy vợ đi. Lang chỉ trả lời: “Đã có câu Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp.” Rồi lại miệt mài đọc sách, hai ba năm nữa vẫn không thấy kiến hiệu gì. Người ta chế giễu quá. Lúc ấy trong dân gian có thành ngữ: “Chức Nữ trên trời đã trốn rồi”, người ta dựa vào đó mà đùa Lang rằng: “Cháu Trời (2) đi mất là vì anh đấy”. Lang cho là chuyện đùa, bỏ ngoài tai.
      Một tối, đọc sách Hán thư đến quyển thứ 8, bỗng thấy hình một mĩ nhân cắt bằng lụa mỏng ép giữa hai trang giấy, Lang kinh ngạc tự nhủ: “Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc ứng ở đây chăng?”. Nhìn kĩ mĩ nhân thì đầu mày cuối mặt y như người sống, sau lưng mờ mờ có chữ “Chức Nữ”, anh ta càng lấy làm lạ lắm. Từ đó, Lang thường đặt hình mĩ nhân lên trên sách, trở đi lật lại ngắm nghía đến quên ăn quên ngủ.
      Một hôm, Lang đang bần thần ngắm nghía thì mĩ nhân bỗng nhỏm dậy, ngồi trên sách mà hé môi cười mỉm. Lang hãi quá, phục lạy trước bàn. Mĩ nhân đứng dậy đã cao tới hai gang. Lang càng sợ, cứ lạy như tế sao. Mĩ nhân thong dong bước xuống đất, đứng thẳng lên nghiễm nhiên trở thành một trang giai nhân tuyệt thế. Lang vừa vái vừa đánh bạo hỏi:
      - Bẩm, Người là vị thần gì?
      Mĩ nhân cười đáp:
      - Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc mà chàng đã biết từ lâu (3). Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh tới, thiếp mà không đến sợ nghìn năm sau sẽ không còn ai tin ở cổ nhân.
      Lang mừng quá, để ở cùng phòng chung chăn chung gối bội phần thân ái. Song khổ nỗi chàng ta ngú ngớ quá, không biết cách thể hiện bản lĩnh của trang nam tử như thế nào. Từ đó, mỗi khi đọc sách, thế nào anh ta cũng kéo cô gái ngồi kề. Cô gái bảo thôi đừng học cách như thế nữa, nhưng anh ta nhất định không nghe. Cô rành rọt khuyên bảo:
      - Chàng sở dĩ không thành đạt được chính vì đọc sách nhiều quá mê muội đi đấy. Thử xem những ông nghè ông cống, hỏi mấy người đọc được như chàng? Can chàng chẳng nghe, em bỏ đi đấy!
      Lang nể lời nghe theo, nhưng chốc lát quên mất, lại cất tiếng sang sảng ngâm đọc, lúc sau nhớ ra ngoái tìm cô gái thì cô đã biến đâu mất. Thần hồn hoảng hốt, chàng ta vội vã quỳ xuống cầu khấn song nàng vẫn biệt tăm. Sực nhớ ra nơi ẩn cũ của người đẹp, chàng ta vội mở lại sách Hán thư, kiểm kĩ đến chỗ cũ thì thấy hình mĩ nhân. Gọi mãi vẫn không động tĩnh, chàng phải phục xuống khóc lóc, van xin, cô gái mới hiện ra và doạ ngay:
      - Còn không nghe, nhất định sẽ vĩnh biệt!
      Rồi nàng lấy bộ quân cờ, cỗ bài để hàng ngày cùng chơi. Nhưng Lang chẳng để ý gì lắm, hễ nàng vắng lại giở trộm sách. Vẫn sợ nàng biết nên anh ta ngầm cất quyển 8 sách Hán thư vào một chỗ khác, hòng để nàng không còn tìm thấy chốn ẩn cũ.
      Hôm khác, đang say đọc thì nàng tới. Chợt thấy bóng, Lang vội gấp sách, song nàng lại đã biến đâu mất. Lang cả sợ, tra soát khắp các sách không thấy đâu cả, đến giữa quyển 8 sách Hán thư lại thấy Nhan Như Ngọc, không sai số tờ. Chàng phải van lạy, thề thốt không đọc nữa, lúc ấy cô gái mới ra, bắt phải cùng đánh cờ. Nàng hẹn trước: “Nếu ba ngày đánh không được, sẽ lại đi”. Đến ngày thứ ba, Lang thắng hai ván. Cô gái tỏ lời khen, trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang chăm chú, tập trung mắt nhìn tay gảy, lâu sau đã quen với tiết tấu, giai điệu. Rồi cô gái rủ cùng uống rượu, đánh bài, Lang vui thích mà bớt dần việc đọc sách lu bù. Cô gái lại thúc giục Lang ra ngoài gặp gỡ bạn bè, giao du ngày càng rộng rãi. Lúc ấy nàng mới bảo:
      - Chàng có thể đi thi được rồi đấy.
      Một đêm, Lang tỉ tê hỏi nàng:
      - Phàm, người ta nam nữ ở với nhau sẽ sinh con đẻ cái. Nay tôi với mình chung đụng đã lâu mà sao không thấy gì cả?
      Cô gái nhoẻn cười:
      - Chàng cứ mê mải vùi đầu vào sách hoài, em đã bảo khéo kẻo mà vô tích sự. Bởi vậy cho đến nay chàng vẫn chưa hiểu nổi chương “chồng vợ” và hai chữ “gối chăn” cũng phải dày công đấy.
      Lang ngẩn mặt hỏi:
      - Công phu gì cơ?
      Cô gái cười ngặt nghẽo, không nói. Lát sau vắng vẻ, mới tỉ tê bày vẽ cho Lang những ngón bí mật chốn buồng the. Lang thực hành ngay, khoái lắm bảo nàng:
      - Tôi không nghĩ rằng cái lạc thú chồng vợ lại không thể truyền bá cho nhau được.
      Thế rồi gặp ai anh ta cũng thông thốc kể lại mọi sự “thú lí tình” với người đẹp, không giấu giếm điều chi. Cô gái biết trách Lang. Lang đáp:
      - Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám ngỏ với ai. Còn cái lạc thú trong đạo thiên luân ai cũng vậy cả, việc gì phải giấu giếm, kiêng kị.
      Chín tháng sau, nàng đẻ con trai, thuê một người vú trông nom đứa trẻ. Một hôm nàng bảo chồng:
      - Em ở với chàng hai năm đã nghiệp dĩ sinh con. Nay có thể chia tay, ở lâu sợ gây tai hoạ cho chàng, hối không kịp.
      Lang nghe nói cứ khóc ròng, phục xuống mà nói:
      - Em không nghĩ đến đứa hài nhi còn oa oa đó chăng?
      Cô gái cũng buồn rầu, lâu sau mới ra điều kiện:
      - Nếu chàng muốn em ở lại, phải phá tán hết sách trên giá đi!
      Lang từ chối:
      - Đó là cố hương của em, là tính mệnh của tôi, sao em lại nói thế?
      Cô gái không ép nữa, chỉ thở dài bảo:
      - Em cũng biết là có số mệnh cả, song không thể không dự báo cho chàng.
      Trước đây, thân thích trong họ Lang dòm thấy cô gái đã khả nghi lắm, lại chưa nghe thấy mối lái cưới xin, cho nên họ kéo đến chất vấn. Lang không thể đặt điều nói dối, song cũng úp mở không để lộ chuyện, cho nên họ lại càng ngờ. Lời đồn đại loan truyền đến tai quan huyện họ Sử, xuất thân tiến sĩ người đất Mân. Nghe chuyện lạ về Lang, quan huyện trẻ tuổi đã động lòng thèm khát, muốn được tận mắt nhìn ngắm dung nhan người đẹp, liền ra lệnh bắt giải cả Lang và mĩ nhân lên huyện. Cô gái biết, bỏ trốn biệt tích. Quan huyện càng nổi giận, sai lột hết quần áo Lang rồi cùm lại, hòng cô gái thương người tình mà tự dẫn thân đến.
      Song Lang bị đày đoạ gần chết vẫn không chịu nói một lời. Tra khảo đến con hầu, nó mới cung ra đôi điều loáng thoáng. Quan huyện phán quyết đúng là yêu quái trá hình, cho nên tự thân đến nhà Lang khám xét. Quan thấy sách chất đầy nhà, nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt sách, khói kết lại không tan, âm u mù mịt.
      Sau Lang được thả vì chàng xin được thư can thiệp của người học trò cũ của cha đang có quyền thế, cho nên chàng được miễn tội, khôi phục các quyền lợi. Năm ấy chàng đi thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ luôn tiến sĩ. Trong lòng chứa chất mối hận thù khắc cốt ghi xương, chàng thiết lập bài vị Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn vái: “Nàng có khôn thiêng xin phù trợ cho ta làm quan ở đất Mân”.
      Sau quả nhiên Lang được cử đi thanh tra đất Mân. Ở ba tháng chàng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên nhà cửa. Rồi lại được cử làm tư lí. Lang bức Sử phải nộp người thiếp yêu, thác cớ mua thị tì hầu hạ trong dinh. Vụ án kết thúc, Lang lập tức đưa cả người thiếp đi theo.
      Nguyễn Văn Huyền dịch
      Chú thích:
      (1) Đó là bài thơ của Tống Chân Tông, trong đó có câu (nguyên văn):
      Phú đa bất dụng mại lương điền
      Thư trung tự hữu thiên chung túc
      An cư bất khả giá cao đường
      Thư trung tự hữu hoàng kim ốc
      Thu thê mạc hận vô lương môi
      Thư trung tự hữu nhan như ngọc
      (2) Nguyên văn: Thiên Tôn, tên một ngôi sao, cũng gọi là Chức Nữ. Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cháu trời, trốn xuống trần lấy anh chăn trâu (Ngưu Lang).
      (3) Tên từ trong câu thơ của bài Khuyến học: “Thư trung tự hữu nhan như ngọc”


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #63
        Cởi truồng rượt ma - Chương A Đoan - Đào Trinh Nhất dịch

        Vệ Huy Thích, người tuổi trẻ chín chắn, có gan dạ dám làm. Lúc đó, một họ lớn trong làng có toà nhà to, giữa ban ngày thấy ma hiện lên, người ở kế tiếp nhau chết, thành ra sợ hãi, tình nguyện bán rẻ.
        Chàng thấy giá rẻ liền mua để ở. Nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành bỏ hoang phế. Thường đêm gia nhân kinh hoảng, la sợ có ma. Được hai tháng, chết một con hầu. Cách ít lâu, vợ chàng mò đến khu lầu gác hoang phế kia trong lúc chiều hôm, trở về phát bệnh được mấy hôm cũng chết.
        Gia nhân sợ quá, khuyên chàng dời đi chỗ khác. Chàng không nghe. Bây giờ vợ goá, trơ trọi một mình đã buồn cho thân, lại thêm lũ tôi tớ thường đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói, chàng phát cáu, ôm chăn gối ra nằm ngủ độc thân ở giữa căn nhà bỏ hoang bấy lâu.
        Chàng để đèn sáng, chờ xem có sự gì lạ xảy đến không. Đợi lâu chẳng thấy gì, rồi ngủ quên đi.
        Bỗng có người thò tay vào chăn, rờ mò sờ soạng. Chàng tỉnh giấc ngó thấy một mụ vú già, mặt mày đầu tóc trông nhăn nheo bù rối gớm ghiếc. Chàng biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra, vừa cười vừa nói:
        - Bà thì tôi không dám chơi.
        Mụ hổ thẹn, khựng tay lại, bước cao bước thấp chuồn đi mất.
        Giây lát một thiếu nữ từ mé tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, đến thẳng dưới đèn, giận dữ la mắng:
        - Thằng học trò ngông cuồng ở đâu? Sao dám đến chỗ này nằm ngất ngưởng như thế?
        Chàng trỗi dậy cười nói:
        - Tôi là chủ nhà này, nằm đợi cô đến để đòi tiền thuê nhà đó.
        Rồi đứng phắt lên, cởi trần truồng mà rượt bắt nàng. Nàng vội vàng chạy trốn. Chàng mau lẹ đến trước mé tây bắc mà chặn đường. Nàng cùng đường bí lối, ngồi phịch trên giường chịu trận. Chàng đến tận nơi, thấy dưới ánh đèn nàng đẹp như tiên, lần hồi ôm nàng vào lòng. Nàng cười hỏi:
        - Cuồng sinh không sợ ma ư? Ta sẽ vật cho xem.
        Chàng cởi tuột áo quần của nàng, nàng cũng không mấy chống cự. Kế đó dịu dàng biện bạch:
        - Em họ Chương, tên là A Đoan, sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, tính nó hung dữ bất nhân, thường đánh đập thẳng tay, khiến em buồn rầu chết yểu, xác chôn tại đây trên 20 năm rồi. Dưới nền nhà này, toàn là mồ mả.
        Chàng hỏi mụ vú già là ai, nàng đáp:
        - Mụ cũng là một con ma cũ ở đây, theo em để hầu hạ. Trên có người sống ở, thì ma quỷ ở dưới không yên, vì thế vừa rồi em sai mụ ra đuổi chàng đi.
        Chàng lại hỏi mụ rờ rẫm là nghĩa thế nào, A Đoan nhoẻn cười và đáp:
        - Mụ đó từng sống hơn 30 năm mà chưa được nếm mùi đời thú vị ra sao, nghĩ tình đáng thương, nhưng mụ rờ rẫm chàng như vậy, kể ra thật không tự biết xét mình chút nào. Tóm lại, người nào nhút nhát thì ma chòng ghẹo, còn người cứng cỏi thì chẳng dám phạm đến.
        Nghe chuông chùa bên xóm gõ rền, nàng mặc quần áo rồi bước xuống giường nói:
        - Nếu chàng không nghi ngại, thì đêm em lại tới.
        Trời tối, quả thật nàng lại đến, cùng nhau ôm ấp mây mưa cực vui vẻ. Trong lúc đầu gối tay ấp, chàng thở dài và nói:
        - Vợ tôi chẳng may qua đời, tôi nghĩ thương nhớ không lúc nguôi, nàng có thể làm cách nào dắt hồn y về được không?
        Nàng nghe nói càng chạnh lòng tủi thân:
        - Tội nghiệp, em đây chết hai chục năm nay, có ai đâu đoái hoài tưởng nhớ em như thế. Anh thật là người đa tình, em xin ráng sức giúp anh việc đó. Nhưng nghe nói chị đã đi đầu thai rồi, chẳng rõ còn ở dưới âm ti hay không?
        Qua đêm sau nàng đến báo tin:
        - Chị sắp được đầu thai vào nhà sang trọng anh ạ. Nhưng vì sinh thời có lúc mất đôi hoa tai, nghi con hầu ăn cắp, đánh nó, nó bực trí tự tử. Vụ án đó hiện nay chưa xong, nên còn hoãn lại. Bây giờ chị đang bị tạm giam ở trước công đường Diêm Vương, có lính canh giữ. Em sai mụ vú đi lo lót hối lộ có lẽ sắp về.
        Chàng hỏi sao nàng lại được thong thả. Nàng đáp:
        - Phàm những ma quỷ uổng tử, nếu không tự xuống âm ti đầu thú, thì Diêm Vương cũng không biết tới.
        Hết canh hai, mụ vú già dẫn vợ chàng cùng đến. Chàng nắm tay vợ khóc lóc bi thảm, vợ chàng cũng sướt mướt, nói không ra tiếng.
        Nàng từ giã đi, nói:
        - Thôi để anh chị hàn huyên với nhau, em xin đi, tối mai lại đến nhé.
        Chàng yên ủi mà hỏi thăm vụ án con hầu tự tử, vợ đáp:
        - Không hề chi, đã xử xong rồi.
        Hai người đi ngủ, ôm ấp yêu đương y như lúc còn sống. Từ đó vợ chồng sum họp như thường. Sau năm bữa, vợ bỗng khóc ròng và nói:
        - Ngày mai em phải đi Sơn Đông, thế là vợ chồng ta vĩnh quyết, biết làm thế nào?
        Chàng nghe nói ôm mặt mà khóc vùi, hết sức thống thiết. A Đoan khuyên giải hiến kế:
        - Em có một cách, làm cho anh chị tạm thời sum họp được.
        Hai người cùng gạt lệ hỏi cách thế nào? Nàng xin lấy mười xấp giấy tiền, đem đốt ở dưới gốc cây hạnh, trước nhà hướng nam, để nàng đem xuống âm ti hối lộ với kẻ phụ trách áp dẫn những người phải đi đầu thai, cầu xin trì hoãn ngày giờ lại ít lâu. Chàng làm y theo.
        Tối đến, vợ trở về nói:
        - May nhờ cô Đoan lo lót đắc lực, nay được tụ họp thêm mười bữa.
        Chàng mừng quá, không cho Đoan bỏ về như mọi đêm, cố giữ nàng lưu lại, cùng nằm chung giường, suốt đêm tới sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng hết.
        Qua bảy tám ngày, thấy kì hạn sắp hết, vợ chồng khóc nức nở suốt đêm, lại hỏi Đoan xem có mẹo cao gì khác. Nàng nói:
        - Xem chừng bận này khó tính quá! Tuy vậy, em cũng thử làm xem, nhưng không có giấy tiền trăm vạn không xong.
        Chàng mua đủ số trăm vạn giấy tiền về đốt như trước.
        - Em cậy người nói lót với chú cai áp dẫn, ban đầu ra vẻ khó khăn, chừng trông thấy tiền nhiều mới xiêu lòng. Bây giờ đã chọn con ma khác đi đầu thai thế chân chị rồi.
        Từ đó ban ngày cùng ở với nhau, chẳng đi đâu nữa. Đoan bảo chàng dán giấy bịt kín cửa sổ, bên trong đèn thắp sáng luôn không lúc nào tắt.
        Sống như vậy hơn một năm, bỗng dưng nàng mắc bệnh, mê man rầu rĩ, luôn luôn hoảng hốt như thấy ma làm. Vợ chàng rờ vào mình nàng và nói:
        - Đây là bệnh ma thật.
        Chàng ngạc nhiên hỏi:
        - Quái lạ! Đoan đã là ma rồi, lại còn ma nào làm bệnh nữa kia?
        Vợ cắt nghĩa:
        - Không phải vậy đâu. Sự thật ma chết thành mị. Ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy.
        Chàng muốn đi mời thầy phù thuỷ về cúng lễ, vợ không nghe.
        - Bệnh ma phải có thầy ma, chứ người chữa sao được. Mụ già họ Vương ở xóm ta hiện đang làm nghề cúng lễ ở dưới âm ti, để tôi đi gọi. Nhưng mụ ở cách xa hơn mười dặm, mà chân cẳng tôi yếu lắm, không thể đi được, vậy mình đốt cho tôi con ngựa giấy.
        Chàng làm theo lời. Ngựa giấy chưa cháy tàn đã thấy con tớ gái dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân. Vợ chàng leo lên, chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một mụ già cưỡi ngựa đến, cột ở dưới thềm. Mụ vào bóp mười ngón tay nàng, rồi thì ngồi xếp bằng ngay ngắn, tay bưng đầu lắc lư lên đồng, giây lát ngã xuống đất, rồi bò dậy nói:
        - Ta là thần Hắc Sơn đại vương đây. Người con gái này bệnh nặng, gặp ta thật là phúc lớn. Bệnh này là bệnh ma làm nhưng không hề gì. Muốn khỏi bệnh, phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào cả.
        Vợ chàng đứng bên, vâng dạ răm rắp. Mụ đồng lại ngã xuống mà hồi tỉnh, hướng về phía bệnh nhân la hét ít tiếng rồi thăng đồng, thế là xong việc. Mụ xin đi, vợ chàng đưa ra ngoài sân tặng luôn con ngựa, mụ hớn hở lên đường.
        Trở vào xem nàng, dường như hơi tỉnh, hai vợ chồng rất mừng vỗ về thăm hỏi, bỗng dưng nàng nói:
        - Em sợ không sống ở đời được nữa. Hễ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện lên, âu cũng là số mệnh đã đến lúc hết rồi.
        Nói đonạ khóc mướt.
        Qua đêm sau bệnh càng trầm trọng thêm, nằm co run rẩy, như là trông thấy yêu quái gì nhát sợ vậy, kéo chàng nằm chung, rúc đầu vào bụng chàng, sợ ai đến bắt đi. Chàng đứng dậy đi chỗ khác, nàng liền kinh hoảng kêu la dữ dội. Như thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng hết phương, không còn biết tính liệu cách nào.
        Một hôm chàng có việc đi khỏi, nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ gào khóc, té ra Đoan nương đã tắt nghỉ trên giường, thi hài phủ chăn còn đó. Chàng mở ra xem, thấy xương trắng một đống, thương khóc cực thảm rồi lấy lễ tống táng như người, chôn cất bên cạnh mồ mả ông bà.
        Đêm nọ, vợ đang ngủ mà khóc thổn thức. Chàng lại hỏi chuyện gì, vợ nói:
        - Vừa rồi tôi chiêm bao thấy Đoan nương về, kể chuyện thằng chồng cô đã hoá ra mị (ma chết thành mị), tối đến đòi mạng. Cô xin vợ chồng ta làm một tuần chay cho vong linh cô.
        Sáng ra chàng thức dậy sớm, sửa soạn, đi rước thầy chùa và mua sắm các thứ để làm tuần chay, vợ ngăn lại và nói:
        - Làm chay siêu độ ma mị, chàng biết đâu mà sắm sửa. Để đó tôi lo.
        Nói rồi đi liền, một chặp trở về, cho hay đã sai người đi mời thầy chùa, bây giờ phải đốt giấy tiền trước cho họ làm lộ phí.
        Chàng làm y lời.
        Mặt trời vừa lặn, đã thấy lũ thầy chùa kéo đến, trống mõ đồ cúng mọi thứ giống như trần gian. Vợ chàng kêu trống mõ làm đinh tai nhức óc, nhưng chàng tuyệt nhiên không nghe tiếng động gì hết.
        Cúng xong, vợ lại chiêm bao thấy Đoan nương về tạ ơn, nhân dịp cho biết oan cừu đã rửa sạch rồi, sắp sửa đi thác sinh làm con gái của một vị Thành hoàng, nhờ chị nói lại cho anh hay.
        Vờ chàng ở nhà với chồng ba năm, ban đầu gia nhân nghe thì sợ hãi, lâu dần trở nên quen thuộc, thân cận như thường. Chàng đi đâu vắng thì tôi tớ đứng ngoài cửa sổ, thưa bẩm công kia việc nọ cho bà chủ biết.
        Một đêm, tự dưng vợ khóc và nói với chồng:
        - Mình ơi! Người lính áp dẫn đầu thai độ nọ đã bị tiết lộ công việc man trá mà bị mất chức và bị tội rồi. Nay âm ti lùng bắt tôi gắt lắm, e vợ chồng ta không còn được sum họp bao lâu nữa.
        Mấy hôm sau, quả nhiên sinh bệnh, nàng nói:
        - Mối tình gắn bó, chỉ mong được chết mãi còn hơn, chẳng vui sướng gì được đi thác sinh. Thế mà nay chúng ta sắp phải vĩnh quyết nhau, chẳng phải tự số trời xếp đặt ư?
        Chàng bi thương hết sức, hỏi xem còn có mưu kế gì để được đoàn tụ mãi với nhau, vợ nói:
        - Bây giờ không còn có cách gì nữa.
        - Thế, mình trốn bấy lâu, có bị trừng phạt gì không?
        - Có, nhưng chỉ phạt xoàng thôi. Trốn sống mới có tội to, trốn chết qua tội nhỏ.
        Nói đoạn, không nhúc nhích cựa quậy gì cả, dòm kĩ lại thì mặt mày hình thể biến đi lần lần tới hết.
        Chàng thường nằm ngủ một mình trong gian nhà hoang, mong được tái ngộ, nhưng không có chi lạ. Từ đó, nhà cửa hết có ma quỷ quấy nhiễu, gia nhân ở yên./.


        Đào Trinh Nhất dịch

        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #64
          Mỹ Nhân Cứu Mạng - Kiều Na - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

          Một kiếp tài hoa chẳng hổ danh
          Khen ai lấy vợ khéo đa tình
          Cô Tùng sắc đẹp, cô Na cứu
          Lưỡi búa thiên lôi chết chẳng đành.
          Khổng Tuyết Lạp dòng dõi Khổng Thánh Nhân, tính tình đằm thắm, tài làm thơ, có người bạn đồng học cũ làm huyện lệnh Thiên Thai, gửi thư mời chàng đến huyện chơi.
          Chàng tới nơi thì ông huyện vừa mới qua đời, bơ vơ không có tiền trở về quê quán, phải ở đậu trong chùa Bồ Đà, viết thuê chép mướn cho mấy thầy sãi để nuôi thân.
          Cách chùa hơn trăm bước về phía Tây, có toà nhà của Đơn tiên sinh. Tiên sinh vốn con nhà quan, vì kiện cáo mãi mà nhà hiu quạnh, gia quyến lại ít người, ông liền dời vô trong xóm thành ra tòa nhà bỏ không.
          Một hôm tuyết xuống, trên đường vắng tanh không có người qua lại, Khổng sinh chợt đi ngoài cửa thấy một thiếu niên từ trong đi ra, vẻ người rất lịch sự. Thiếu niên trông thấy chàng liền chào hỏi rất niềm nở, rồi mời vào trong nhà chơi.
          Chàng vui vẻ theo chân vào liền.
          Nhà không rộng rãi mấy nhưng chỗ nào cũng treo màn gấm, trên tường đầy những tranh vẽ và chữ viết của người xưa. Trên bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề chữ “Loan hoàn tỏa ký” (nghĩa là chuyện vặt ở động Loan Hoàn).
          Chàng mở ra xem qua một lượt toàn thấy chép những cảnh mình chưa được thấy bao giờ. Nhân nghĩ thiếu niên ở tòa nhà họ Đơn, vậy tất là chủ nhà, cho nên không màng hỏi thăm về gia thế làm gì. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của chàng, tỏ ý thương xót khuyên bảo chàng nên mở lớp dạy học.
          Chàng than thở:
          - Tôi là người bơ vơ lữ thứ thế này, có ai chịu dương danh mách mối cho mình?
          Thiếu niên nói:
          - Nếu đừng chê tôi đơn hèn, thì chính tôi xin thụ giáo đây!
          Chàng mừng rỡ, nhưng không dám nhận là thầy học, chỉ xin làm bạn, nhân dịp hỏi thăm tại sao nhà này đóng cửa bịt bùng đã lâu?
          Thiếu niên đáp:
          - Đây là nhà của ông Đơn, lúc trước vì ông dời vào ở trong làng, cho nên chốn này bỏ hoang đã lâu. Tôi họ Hoàng Phủ, quê quán ông bà vốn ở đất Thiểm, vì nhà cửa tôi bị cháy rụi, phải đến tạm ở nhà này.
          Bấy giờ chàng mới rõ thiếu niên không phải là Đơn Ngay đêm hôm đó hai người chuyện vãn rất vui vẻ, khi ngủ nằm chung một giường. Tảng sáng, đã có thằng nhỏ dậy đốt lò than trong nhà. Thiếu niên thức dậy trước, đi vào nhà trong, chàng vẫn còn ôm mềm trên giường. Thằng nhỏ vào nói có ông cụ đến. Chàng sửng sốt vùng dậy. Một cụ già bước vào, râu tóc bạc phơ, chào hỏi rồi ngỏ lời cảm tạ chàng:
          - Tiên sinh có lòng thương đến thằng con khờ dại của lão mà chịu ở lại đây dạy dỗ, lão rất cám ơn. Nó mới bắt đầu tập viết và tập đọc, vậy xin đừng lấy nê làm bạn, coi nó như cùng trang lứa.
          Đoạn lão sai mang ra biếu chàng một bộ áo gấm, và mũ lông cùng giấy vở, mỗi thứ một món. Lão săn sóc cho chàng rửa mặt chải đầu xong rồi, gọi bưng cơm rượu ta thết đãi. Các thứ áo giường ghế không biết gọi tên là gì, chỉ thấy bóng lộn sáng ngời, choáng cả mắt.
          Ngồi tiếp một hai chén rượu, lão đứng dậy từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, toàn là giọng điệu cổ văn không có lối khoa cử theo thời một chút nào...
          Chàng hỏi tại sao, thiếu niên cười và nói:
          - Tôi không cần học để thi đỗ làm quan chi hết.
          Tối đến thiếu niên sai bày tiệc rượu lại nói rằng đêm nay uống thật say rồi thôi, ngày mai trở đi không được uống rượu nữa. Rồi gọi thằng nhỏ và nói:
          - Mày xem ông cụ đã đi nằm ngủ chưa, hễ nằm ngủ rồi thì lên bảo Hương Nô ra đây nghe.
          Thằng nhỏ đi một lát trở lại, ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà mang ra trước. Giây lát một nàng hầu bước vào, mặc áo đỏ tuyệt đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương Phi. Nàng cầm thẻ ngà gảy đàn bổng trầm bi tráng, bài bản nhịp nhàng, không phải như người ta thường nghe. Laị sai nàng mang chén lớn tới chuốc rượu, canh ba mới tan.
          Ngày hôm sau cùng dậy sớm đọc sách. Thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ. Hai ba tháng sau, câu văn viết cực rắn rỏi. Đôi bên hẹn nhau năm ngày uống rượu một lần. Mỗi lần có tiệc rượu, đều gọi Hương Nô tới góp vui.
          Một hôm, rượu say nóng mặt, chàng ngó Hương Nô đăm đăm.
          Thiếu niên hiểu ý nói:
          - Người nàng hầu này, ông cụ tôi nuôi dạy đã lâu. Nay anh trơ trọi không có gia đình, ngày đêm tôi vẫn trù tính cho anh về chuyện đó. Để tôi sẽ tính một người vợ thật đẹp.
          Chàng nói:
          - Nếu cậu có lòng tốt, phải tìm cho tôi một người như Hương Nô mới được.
          Thiếu niên cười đáp:
          - Anh này thật là người thấy ít, lạ nhiều. Hạng như con Hương Nô mà anh cho là đẹp, té ra sở nguyện của anh muốn được vừa lòng cũng dễ lắm nhỉ.
          Ở được nửa năm, chàng muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng đến cửa thì hai cánh khóa trái. Hỏi thiếu niên cắt nghĩa rằng: “ông cụ nhà tôi sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách đó thôi!” Chàng tin như thế, yên tâm ở nhà.
          Lúc đó nắng bức gắt gao, phải dời nhà học ra ngoài vườn, giữa bụng chàng nổi một cái ung, to như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên la. Sớm tối thiếu niên chăm nom săn sóc, đến nỗi bỏ ăn quên ngủ.
          Mấy ngày nữa chỗ đau lại nặng thêm, cũng tuyệt ăn uống. Cụ già cũng ra thăm, đứng nhìn và thở dài. Thiếu niên nói:
          - Đêm trước con nghĩ chứng bịnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, nên đã cho người đến nhà bà ngoại kêu nó về. Không hiểu sao đến chừng này còn chưa thấy đến.
          Bỗng thằng nhỏ vào thưa:
          - Cô Na đã tới, cả dì và cô Tùng cũng đến một lượt.
          Hai cha con lật đật đón vào trong nhà, một lát thiếu niên đưa em lại thăm bênệ cho chàng. Cô này lối chừng mười ba mười bốn tuổi vẻ hoa lộng lẫy, vóc liễu thước tha, chàng ngó thấy nhan sắc, bỗng quên cả đau đớn rên la, tinh thần tự nhiên khoẻ khoắn.
          - Anh này là bạn thân không khác chi ruột thịt, vậy em rán xem mạch, điều trị cho anh.
          Nàng bèn nén vẻ thẹn thùng, vén tay áo lên đến cạnh giường bắt mạch. Trong lúc tay chạm tay, chàng nghe mùi thơm phức, hơn mùi bông lan. Nàng bắt mạch rồi cười nói:
          - Phát ra chứng bệnh này là phải, vì mạch tâm động lắm. Bệnh tuy rằng nguy, nhưng có thể trị đặng. Có điều cái nhọt đã cương, không bóc da khoét thịt không đặng.
          Đoạn nàng tháo chiếc xuyến vàng đeo ở cánh tay mình ra, đặt vào chỗ nhọt của chàng, từ từ đè xuống, nhọt bỗng nỗi lên chừng một tấc, cao hơn bên ngoài chiếc xuyến, nhưng cả vùng tím bầm dưới chân đều thu gọn cả vào bên trong chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Nàng vén áo móc lấy con dao đeo bên mình, lưỡi mỏng tang như tờ giấy, rồi tay đè xuyến, tay cầm dao nhẹ nhàng lựa theo quanh nhọt mà cắt, máu tím chảy phun, ướt đẫm giường chiếu.
          Chàng thèm thuồng gần kề sắc đẹp, cho nên chẳng những không thấy dau đớn, lại còn lo công việc mổ xẻ mau xong thì vái khoái mình kề, tay ấp không hưởng được lâu.
          Không mấy chốc, nàng khoét xong thịt thối, từng hòn từng cục như cái bướu ở trên thân cây cắt xuống vậy. Nàng gọi đem nươớ lại để rửa chỗ mới cắt, rồi nhá một hoàn thuốc màu đỏ ở trong miệng ra, nhỏ như viên đạn, đặt trên thịt chàng và thoa khắp xung quanh.
          Mới một vòng đầu, chàng nghe khí nóng phừng phừng, vòng thứ hai thì làm như xốn xang ngứa ngáy, vòng thứ ba thì khắp thân thể mát mẻ thấu đến xương tủy. Nàng thu lấy hồng hoàn bỏ vô miệng và nói:
          - Thế là khỏi bệnh rồi!
          Miệng nói chân rảo bước đi ra.
          Chàng vùng trỗi dậy chạy theo cảm tạ. Bao nhiêu bệnh tật lê mê dường đã tiêu tan đâu hết, trong trí tưởng nhớ vẻ đẹp của n không thể nào khuây.
          Từ hôm đó trở đi, bỏ cả sách vở không đọc chỉ ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, không được hoạt bác vui vẻ như cũ. Thiếu niên nhòm thấy, hiểu ý, nói:
          - Em đã vì anh kén chọn được một người vợ đẹp rồi!
          Chàng hỏi người nào? Thiếu niên đáp:
          - Người đẹp cùng họ hàng với em.
          Chàng lặng nghĩ giây lâu, chỉ thốt ra hai tiếng:
          - Thôi đừng!
          Rồi day mặt vào tường ngâm hai câu thơ cổ:
          Ngoài ra biển cả khôn tìm nước
          Nếu bỏ non Vu đâu có mây.(1)
          Hoàng Phủ công tử nghe qua hiểu ý, nói rằng:
          - Thân phụ tôi vẫn mến tài anh, thường muốn kết làm hôn nhân.
          Ngặt vì tôi chỉ có một con em bé, tuổi còn nhỏ quá, nhưng bà dì tôi có người con gái tên là A Tùng năm nay đã mười bảy tuổi, nhan sắc không đến nỗi xấu xa. Nếu anh không tin lời toi nói, thì Tùng nương sớm nào cũng dạo chơi ngoài vườn, anh đứng núp trước hiên, dòm coi sẽ biết.
          Chàng y lời dặn, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nữ ra vườn, mắt vẽ mày ngài, chân mang giày phượng, sắt mặt xấp xỉ Kiều Na. Chàng rất mừng nhờ công tử làm mối dùm.
          Qua hôm sau, công tử ở trong nhà đi ra, chúc mừng chàng và nói:
          - Việc xong rồi!
          Đoạn, công tử sai dọn một nhà riêng, lo việc làm đám cưới cho chàng.
          Đêm ấy, nhạc trỗi vang nhà, hương bay khắp chốn, chàng thấy như mình được nàng tiên cung trăng bỗng cùng chăn gối, bất giác đâm ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc ở trên mây xanh tuyệt vời kia mới có.
          Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hợp.
          Bỗng một đêm công tử đến nói với chàng:
          - Cái ơn của anh dùi mài bảo tôi học, không có ngày giờ nào tôi quên được, Mới rồi, Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi lại nhà này rất gấp. Vì đó, gia đình tôi muốn bỏ chốn này mà dời đi phía Tây, thế khó tụ họp với nhau thành ra nông nỗi lìa tan khiến tôi vấn vương trong bụng.
          Khổng sinh tình nguyện đi theo, nhưng công tử khuyên chàng trở về quê quán. Chàng lấy chuyện ấy làm khó khăn. Công tử nói:
          - Đừng lo, bây giờ tôi có thể đưa chân anh về.
          Một chốc cụ già dẫn Tùng nương ra, lấy một trăm lượng vàng tặng cho hai vợ chồng. Công tử đưa hai tay, dặn phải nhắm mắt đừng nhìn. Thế rồi vùn vụt bay trên không, bên tay chỉ nghe gió thổi. Chặp lâu công tử nói:
          - Đến nơi rồi đây!
          Chàng mở mắt ra trong thấy quê quán mình, bây giờ mới rõ công tử không phải là người. Đến nhà gõ cửa, bà mẹ không ngờ thấy con về, mừng rỡ khôn tả lại thấy con có vợ đẹp, càng mừng hơn nữa. Mẹ con hớn hở chuyện trò, chừng nghoảnh lại thì công tử đã biến đâu mất.
          Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền, sắc đẹp đồn dậy xa gần.
          Sau khi chàng đậu tiến sĩ, được bổ chức Tự Lý ( coi việc hình án) ở quận Diên An, muốn đem cả gia quyến đi theo, nhưng bà mẹ ngại đường xa, ở nhà không đi.
          Tùng nương sinh đứa con trai đặt tên là Tiểu Hoạn.
          Chàng vì tính khí cương trực, trái ý quan khâm sai, nên bị bãi chức. Nhưng vì còn có chuyện ngăn trở, chưa tiện trở về quê nhà. Hôm đó ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một chàng thiếu niên đẹp trai cưỡi một con ngựa nhỏ, đôi ba phen đưa mắt nhòm chàng: Nhìn kỹ té ra là Hoàng Phủ công tử! Hai người cùng dừng ngựa buông cương, nói chuyện mừng mừng tủi tủi.
          Công tử mời chàng đi tới một xóm cây um tùm không trông thấy mặt trời. Vào trong nhà, thì đâu đó thiếp vàng chạm nổi, rõ ràng là một đại gia quý tộc. Hỏi thăm cô em, thì cô em đã xuất giá, bá nhạc cũng đã qua đời, chàng rất động lòng thương tiếc.
          Ngủ có một đêm rồi từ biệt ra về, hôm sau dắt vợ con cùng đến.
          Kiều Na cũng tới, ẵm đứa con chàng nựng nịu hôn hít và nói bỡn:
          - Bà chị làm loạn mát dòng giống nhà rồi!
          Khổng sinh ta ơn Kiều Na đã cứu mạng ngày trước. Nàng cười và nói:
          - Nay dượng sang trọng rồi. Vết thương đã hàn, có nhớ hồi đó đau rên như thế nào không?
          Ngô lang là chồng nàng cũng đến thăm nhà vợ, ở một hai bữa rồi đi.
          Một hôm công tử có sắc lo, hớt hải bảo chàng:
          - Trời giáng tai họa, có cứu được nhau chăng?
          Chàng không biết tai họa gì, nhưng cứ hăng hái nhận lời. Công tử chạy dẫn cả gia nhân cùng vào, quì lạy la liệt. Chàng kinh ngạc vội hỏi chuyện gì. Công tử nói:
          - Thú thực chúng tôi là hồ tinh, chứ không phải là người. Hôm nay có số kiếp bị sét đánh, nếu anh chịu lấy thân ra cứu nạn, thì cả nhà tôi có trông được sanh toàn. Bằng không thì xin anh phải bồng con đi trước, đừng ở đây mà phải vạ lây!
          Chàng kêu trời thề sống chết. Công tử bèn nhủ chàng cầm gươm đứng trấn ngoài cửa và căn dặn kỹ lưỡng:
          - Sấm sét đùng đùng, anh đừng nhúc nhích!
          Chàng y theo lời dặn quả thấy mây mù kéo tới, đen tối như mực, nghoảnh lại chỗ ở cũ, không còn thấy tòa ngang dãy dọc gì nữa, chỉ thấy đá cao lù lù, hang hốc thăm thẳm. Giữa cơn kinh ngạc, một tiếng sét đánh dữ dội, vang động núi non, mưa to gió lớn, đánh bậc cả những gốc cây đã già. Chàng hoa mắt choáng tai, nhưng cứ đứng nguyên, không hề cục cựa.
          Bỗng trong đám mây đen gió thét hiện ra một con quỷ, mỏ dài nanh nhọn cắp một người từ trong hang ra, bay thẳng lên mây. Chàng trông thoáng áo giày giống hệt Kiều Na, vội vàng nhảy lên khỏi mặt đất, hươ kiếm đánh với theo. Người đó theo tay rớt xuống. Thế rồi núi non rung chuyển, sấm sét đùng đùng, chàng té rụi xuống đất chết giấc.
          Một lát sau, trời quang mây tạnh, Kiều Na đã tự tỉnh hồn trông thấy chàng chết cạnh, cất tiếng khóc rống:
          - Khổng lang vì ta mà chết, thì ta còn sống làm gì?
          Lúc ấy Tùng nương vừa ra đến nơi. Chị em xúm lại vực chàng đem về nhà.
          Kiều Na sai Tùng nương ôm đầu, thoạt tiên lấy cây trâm cạy hàm răng, dùng lưỡi đẩy viên hồng hoàn vào trong miệng, lại kề môi mà hà hơi vào. Hồn hoàn theo hơi thở vào cuống họng, nghe tiếng ừng ực.
          Một lát chàng tỉnh dậy, trông thấy vợ con, người nhà đông đủ trước mặt, nghĩ như cơn mộng bừng tỉnh.
          Bấy giờ hết sợ tới mừng, cả nhà sum họp. Chàng nghĩ nơi mồ mả âm u chẳng nên ở lâu, bèn đề nghị cùng về quê nhà mình.
          Ai nấy cũng tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Chàng xin mời cả Ngô lang cùng về ở chung, nhưng lại lo ngại ông cụ không chịu xa lìa cô bé. Vì thế suốt ngày bàn soạn chưa biết nhất định thế nào?
          Chợt thấy thằng nhỏ ở bên nhà họ Ngô, mồ hôi nhễ nhại hơi thở hổn hển, từ ngoài bước vào. Mọi người sửng sốt hỏi thăm nguyên do, thì ra cũng ngày hôm đó. Ngô gia bị số kiếp lôi đình, cả nhà chết ráo.
          Kiều Na dậm chân gào khóc, nước mắt tuôn mãi không thôi. Ai nấy xúm lại an ủi khuyên lơn, rồi đó cái mưu toan tính cùng về mới được quyết định.
          Chàng vào trong thành, mua bán, cách vài ngày sửa soạn hành lý lên đường. Về đến nơi, chàng để một khu vườn cất riêng cho công tử ở. Nhà thường khóa trái, lúc nào chàng và Tùng nương đến mới mở cửa ra.
          Chàng với anh em công tử, chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà.
          Tiểu Hoạn lớn lên, mặt mày xinh đẹp, hơi có vẻ chồn. Mỗi khi nó đi chơi phố phường, ai cũng biết là con chồn đẻ ra.
          ĐÀO TRINH NHẤT dịch
          Chú thích:
          (1) Nguyên văn:
          Tằng kinh thương hải nan vi thủy
          Trừ khước Vu Sơn bắt thị vân.
          Thơ của một thi sĩ đời Đường khóc vợ, cực tả nỗi niềm thương nhớ, trên đời không có ai đáng cho mình yêu quý hơn nữa, cũng như đã ra biển cả mênh mông , thì nước sông nước hồ chẳng có nghĩa gì: đã lên tận Vu sơn trông thấy mây đẹp thì mây ở chỗ khác chỉ là đám khói chứ không phải mây.
          Khổng sinh mượn hai câu thơ này ngâm nga cảm khái, muốn tỏ ra trước mắt mình không còn ai đẹp hơn Kiều Na và chỉ Kiều Na mới đáng để cho mình lấy làm vợ thôi!


          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #65
            Kết duyên với ong - Liên Hoa công chúa - Đào Trinh Nhất dịch

            Giao Châu Đậu Húc, tự Hiểu Huy, bữa nọ đang nằm ngủ trưa, chiêm bao một người bận áo vải nâu tới đứng bên giường, dòm quanh ngó quẩn, dường có điều chi muốn nói vậy.
            Chàng hỏi đi đâu, người ấy thưa:
            - Tướng công tôi mời ngài lại chơi.
            - Nhưng tướng công nhà chú là ai? Chàng hỏi lại.
            - Bẩm nhà ở gần đây.
            Chàng dậy theo đi vòng qua vách tường nhà mình rồi đưa tới một nơi, lâu đài nguy nga, tiếp liền muôn lớp, đi quanh ngả vòng khúc kia, có đến trăm cổng ngàn ngõ, không phải là cảnh ở trần gian. Lại thấy những cung tần nữ quan, đi lại cực đông, ai nấy cũng hỏi người áo vải:
            - Đậu lang tới đó ư?
            Người áo vải gật đầu.
            Chợt một vị quý quan đi đến, chào rất cung kính, chàng hỏi:
            - Bấy lâu không được hân hạnh quen biết, cho nên chẳng đến bái kiến, nay ngài quá yêu đón rước như vậy, khiến tôi e ngại hết sức.
            Vị quý quan đáp:
            - Đức vua của tôi thấy tiên sinh là nhà dòng dõi tử tế, lòng vẫn hâm mộ, nên cần gặp mặt.
            Chàng nghe càng sợ, hỏi đại vương là ai, vị quý quan trả lời vắn tắt:
            - Lát nữa ngài sẽ biết.
            Giây lát, có hai nữ quan ra đón, cầm hai lá cờ dẫn chàng đi, qua lớp cổng lớn vào ở trong, thấy một Vương giả đang ngồi trên điện.
            Vương vừa thấy chàng đến, liền bước xuống thềm chào đón, giữ lễ chủ khách.
            Lễ tương kiến xong, yến tiệc dọn ra, cực kì sang trọng. Ngửa mặt trên điện, có bức hoành phi sơn son thếp vàng đề hai chữ Quế Phủ. Chàng thêm lúng túng run sợ, không biết ăn nói thế nnào. Vương mở lời trước:
            - Là chỗ xóm giềng với nhau, tình phải tự nhiên khăng khít. Vậy xin ngài cứ việc ăn uống chuyện vãn thong thả, đừng quản ngại gì hết.
            Chàng dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm có phường nhạc trỗi đàn ca chiêng trống, nhưng tiếng nhỏ li ti, chàng không nghe rõ. Một lát, Vương hỏi tả hữu bá quan:
            - Trẫm có câu văn này, chư khanh thử đối xem: Tài nhân đăng quế phủ (Tài nhân lên phủ quế).
            Các quan còn đang suy nghĩ chưa ra, chàng đối liền:
            - Tâu đại vương, tôi xin đối: Quân tử ái liên hoa (Quân tử thích hoa sen).
            Vương phán:
            - Hay, hay quá, Liên Hoa là tên công chúa, sao ngài đối thích hợp khéo léo đén thế, há chẳng phải là có túc đế nhân duyên?
            Lập tức truyền gọi công chúa phải ra chào quân tử.
            Giây lát, nghe tiếng ngọc khua rổn rảng, hương bay ngạt ngào, công chúa ra điện, tuổi độ mười lăm, mười sáu, nhan sắc dáng điệu tuyệt đẹp. Vương truyền làm lễ chào khách, rồi giới thiệu với chàng:
            - Đây là tiểu nữ Liên Hoa.
            Nàng chào rồi trở vào. Chàng trông thấy người tiên, tâm hồn rung động ngây ngất, đến nỗi ngồi thừ như tượng gỗ, dồn cả tơ tưởng vào ai. Vương nâng chén rượu khuyên mời, nhưng mắt chàng không thấy. Có lẽ Vương xét rõ tình ý, bèn nói:
            - Con gái tôi đáng nâng khăn sửa túi cho ngài đó, nhưng còn tự thẹn không phải cùng loài, thì làm thế nào?
            Chàng vẫn còn ngơ ngẩn vì ai, mà không nghe mấy lời Vương nói.
            Người ngồi bên cạnh, đạp nhẹ vô chân chàng và hỏi:
            - Vương mời, ông không thấy ư?
            Bấy giờ chàng như cơn mê mới tỉnh, mặt bẽn lẽn thẹn thùng, đứng ra ngoài tiệc, chắp tay nói:
            - Thần mang ơn rất hậu, không dè vui chén quá say, thất thố về nghi lễ, cúi xin đại vương rộng lượng tha thứ. Ngày giờ đã muộn, đại vương lại nhiều việc cần phải xem xét, vậy thì thần xin kiếu từ lui về.
            Vương đứng dậy đáp lễ:
            - Được thấy dung nhan quân tử, thật là thoả lòng ta, chưa chi khanh đã thoái lui sao phải. Tuy vậy, khanh đã muốn về, quả nhân cũng không dám ép nài ở lại. Thôi, để dịp khác quả nhân lại sai mời đến.
            Đoạn, Vương truyền nội quan đi tiễn chàng về.
            Giữa đường, nội quan nói:
            - Lúc nãy, đại vương có nói ngài cùng công chúa xứng đôi vừa lứa, cho nên muốn kết hôn.
            Chàng giậm chân ăn năn, mỗi bước chân là mỗi tiếng than tiếc, thế rồi về tới nhà, thì mặt trời đã lặn, ngồi thừ mặt ra mơ tưởng cảnh đẹp người tiên, như còn phảng phất trước mắt.
            Tối đến, chàng ở nhà học một mình, tắt đèn ngủ sớm, trong ý mong đợi giấc chiêm bao cũ lại tìm đến mình, nhưng suốt đêm không thấy tăm dạng gì cả, chỉ có thở than thèm tiếc mà thôi.
            Một đêm, chàng đang nằm ngủ trên giường với một người bạn thì nội quan hôm nọ đến nói đại vương sai mời.
            Chàng mừng quýnh, theo đi liền.
            Đến nơi, chàng phủ phục làm lễ bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi và nói:
            - Từ hôm từ biệt, quả nhân biết khanh nhọc lòng tơ tưởng. Nay mời khanh đến ý muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, tưởng khanh không đến nỗi chê bỏ.
            Chàng bái tạ nhận lời ngay.
            Vương liền sai các quan học sĩ đại thần yến ẩm.
            Tiệc xong cung nhân vào tâu:
            - Công chúa đã sửa soạn xong rồi.
            Một lát mấy chục cung nữ phò công chúa ra, gấm đỏ bịt đầu, chân bước êm ái, đứng trên nệm lông chiên, cùng chàng làm lễ giao bái thành vợ chồng.
            Rồi cung nữ đưa hai vợ chồng về toà riêng, vui thú động phòng, hết sức nhuần nhị. Chàng nói:
            - Có khách ở trước mắt, thật là khiến người ta vui sướng quên chết. Nhưng e cuộc gặp gỡ ngày nay, chỉ là giấc mộng thôi.
            Công chúa vội vàng bưng miệng chàng và nói:
            - Rõ ràng thiếp với chàng ngồi đây, sao lại bảo là mộng cho được!
            Sáng dậy chàng đùa thoa son dồi phấn cho công chúa, rồi lấy dây lưng đo quanh bụng cho đến ngón tay ngón chân. Công chúa phì cười hỏi:
            - Chàng điên sao chớ?
            Chàng nói:
            - Tôi thường bị chiêm bao đánh lừa nhiều rồi, cho nên muốn ghi chép vào trí cho nhớ, phòng khi có mộng đi nữa, cũng đủ chạnh lòng tưởng niệm nhau vậy.
            Hai người đang nô giỡn cười đùa như thế, bỗng một cung nữ hơ hải chạy vào, vừa thở vừa nói:
            - Yêu quái kéo vào nội cung. Đại vương đã lánh mình ra biệt điện rồi. Vạ lớn đến nơi đây bây giờ.
            Chàng cả kinh, liền tới biệt điện ra mắt. Vương cầm tay chàng, khóc nói:
            - Vừa mới được người quân tử có lòng đoái thương gắn bó, ý muốn cùng nhau tụ hội lâu dài, nào ngờ trời làm tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính làm sao đây?
            Chàng sửng sốt hỏi tại sao, Vương lấy một bản tâu còn để trên án, trao cho chàng đọc. Bản tâu ấy viết như vậy:
            Hàm hương đại học sĩ, thần Hắc Dực, cúi xin tâu bày về việc yêu quái phi thường, phải sớm dời đô, nhà nước mới còn.
            Cứ theo viên Huỳnh môn quan báo cáo từ hôm mùng sáu tháng năm, một con rắn lớn dài ngàn trượng, chiếm giữ ngoài cung, ăn hết tôi dân trong ngoài, tính lại cả thảy một muôn ba ngàn tám trăm mạng. Nó đi qua chỗ nào, đền đài chỗ ấy sụp đổ thành gò bãi.
            Thần phấn khởi dũng khí, ra trước thăm dò, quả thấy con yêu quái, đầu tựa núi non, mắt như sông biển, nghển đầu thì cung điện trôi, vươn mình thì lâu đài sụp, thật là dữ dội ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu, nguy ngập sớm hôm. Cúi xin Bệ hạ sớm đem cung quyến, dời đi nơi nào yên ổn…
            Chàng đọc xong, mặt tái mét, liên có cung nhân chạy vào cấp báo yêu vật đã đến. Khắp cung điện nổi tiếng khóc lóc kêu gào, tình cảnh rất thê thảm. Vương luống cuống không biết làm cách nào, chỉ khóc và day lại bảo chàng:
            - Phiền tiên sinh lo giùm tiểu nữ nghe!
            Chàng nghẹn ngào trở về tư thất, công chúa đang cùng tả hữu ôm nhau kêu khóc, thấy chàng bước vào, liền nắm áo nói:
            - Lang quân tính sao cho thiếp bây giờ?
            Chàng đau đớn muốn chết, hỏi công chúa:
            - Tôi vốn nghèo hèn, tự thẹn không có nhà vàng để khanh ở, chỉ có vài ba gian nhà lá, vậy ta đưa nhau về đó tạm lánh, được chăng?
            Công chúa nức nở nói:
            - Việc nguy cấp lắm rồi, còn lựa chọn sao đặng? Lang quân dẫn thiếp đi mau!
            Chàng bèn đỡ công chúa ra đi. Một chập về đến nhà. Công chúa nói:
            - Nhà này rộng lớn yên ổn gấp mấy cố quốc của thiếp. Nhưng thiếp theo chàng đến đây được yên thân còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu? Vậy xin chàng cất cho một gian nhà riêng, để phụ hoàng đem cả nước tới ở đậu cho vui.
            Chàng cho là việc khó khăn. Công chúa gào thét:
            - Trời ơi! Không thể cứu giúp người trong nguy cấp, thì ai còn cần dùng chàng được việc chi?
            Chàng tìm lời an ủi qua loa rồi vô nhà trong. Công chúa nằm phục bên giường mà kêu khóc bi thảm, không thể khuyên can đặng. Chàng bối rối gan ruột vì nỗi vô phương. Tới đó bỗng dưng tỉnh dậy, mới biết là giấc chiêm bao. Bên tai còn nghe tiếng than khóc vu vu chưa hết, lắng tai nghe kĩ, chẳng phải là tiếng người, chỉ hai ba con ong, bay lượn vo ve trên gối. Chàng kêu to:
            - Quái lạ!
            Người bạn nằm bên hỏi nguồn cơn, chàng kể rõ chiêm bao khiến ông ta cũng lấy làm lạ.
            Hai người cùng dậy xem, thấy ong cứ bay đậu quanh quẩn bên áo chàng, duổi cũng không đi. Bạn khuyên chàng làm ổ cho chúng ở.
            Chàng nghe theo, mướn thợ về làm, vừa mới dựng xong hai bên, đã thấy đàn ong từ ngoài tường bay vào, liên tiếp như dệt, dò xem gốc tích, thì ra ở cái vườn cũ của ông lão hàng xóm bay đến.
            Trong vườn này nguyên có một ổ nuôi ong, đã ngoài ba chục năm, sinh đẻ cực nhiều. Có người kể lại việc của Đậu sinh cho ông lão hàng xóm nghe. Ông chạy ra xem, thì ổ ong vắng tanh, lật bức vách ra, thật có con rắn nằm trong, dài lối một trượng, liền bắt giết đi. Trên kia nói mãng xà ngàn trượng, tức là vật đó.
            Từ ngày ong vào ở nhà chàng, sinh nở càng phồn thịnh hơn./.

            Đào Trinh Nhất dịch


            ST
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #66
              Thứ Cỏ Giết Người - Thủy Mảng Thảo

              Chén ngọc trà xinh cũng thế thôi
              Cô em mời mọc quá non xơi
              Dù ai đã khát trong khi ấy
              Mảnh vải chiêu hồn biết mượn ai?
              Thủy mảng là loài cỏ độc, mọc tràn dưới nước như dây sắn leo, bông nó sắc tím giống như đậu ván. Ai lỡ ăn lầm, chết ngay hoá thành con thủy mảng. Tục truyền thứ ma này không được luân hồi phải có người khác trúng độc chết thay, bấy giờ mới được thác sinh. Vì thế, ở đất Sở, suốt một dọc sông Đào Hoa rất nhiều ma đó.
              Người Sở có tục nhìn nhận những người cùng sinh ra một năm với mình là đồng niên, đến nơi đưa thiếp yết kiến, gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu gọi bề trên là canh thúc canh bá, thói quen từ xưa như thế.
              Một hôm, Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, nửa đường khát nước thèm uống, chợt thấy bên đường có một cụ già bày cái quán để bố thí nước uống cho người qua lại. Chàng liền ghé và nhà, bà cụ niềm nở chào mời và rót trà rất ân cần.
              Chàng ngửi nước có mùi lạ, không giống mùi trà, để đó không uống, đứng dậy đi ra. Bà cụ vội ngăn khách lưu lại rồi nói:
              - Tam nương ơi! Pha một chén trà thật ngon ra đây.
              Giây lát, có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi chừng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, tay đeo nhẫn vòng vàng bóng lộn, có thể soi gương được. Chàng đỡ lấy chén trà, tâm hồn ngây ngất. Ngửi trà có mùi thơm ngào ngạt, chàng uống một hơi cạn chén, lại xin cho chén nữa. Thừa lúc cụ già vắng mặt, chàng đùa bỡn nắm cánh tay nàng, tháo ra một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, khiến chàng bị cám dỗ thêm, nhân dịp hỏi về gia thế, nàng nói:
              - Buổi tối cậu đến, em còn ở đây.
              Chàng xin một nắm trà, lại lấy luôn chiếc nhẫn mà đi. Đến nhà bạn đồng niên thì ruột gan quằn quại, chàng nghi nước trà làm đau bụng, kể chuyện tình đầu cho bạn nghe. Bạn hoảng hồn và nói:
              - Thôi chết rồi! Đó là con ma thủy mảng. Thân phụ tôi ngày xưa chết cũng vì nó, không thể cứu đưọc! Biết làm thế nào bây giờ?
              Chàng sợ quá, đưa gói trà cho bạn xem, quả thật là cỏ thủy mảng. Lại khoe chiếc nhẫn và tả hình dạng người thiếu nữ. Bạn ngẫm nghĩ, nhớ ra:
              - Chắc là Khấu Tam nương đó!
              Chúc sinh thấy đúng tên, hỏi bạn vì sao mà biết, bạn nói:
              - Con gái nhà họ Khấu ở Nam thôn, vốn có tiếng sắc đẹp, mấy năm trước ăn nhầm thủy mảng mà qua đời, tất cả là nàng làm yêu quái để giết anh đó. Có người nói rằng ai bị con yêu quái ấy hành, nếu biết được tính danh của nó, mà xin được cái quần đũng nó mặc, đem về nấu nước uống thì sẽ có thể lành mạnh vô sự.
              Bạn lập tức đến nhà họ Khấu, kể rõ thật tình và năn nỉ xin cứu mạng. Khấu nghĩ rằng: Chúc sinh sắp chết, đặng thay thế con gái mình đi đầu thai, cho nên ích kỷ không cho cái quần cũ. Bạn tức giận ra về mà nói cho chàng hay. Chàng cũng nghiến răng tức giận nói:
              - Tôi chết, nhất định không cho con gái nhà nó đi đầu thai.
              Bạn sai người cõng chàng về nhà, gần tới nơi thì chết, mẹ chàng khóc lóc mà lo việc tống táng cho con.
              Chàng mất để lại một thằng bé mới đầy năm. Vợ chàng không ở góa được, cách nửa năm bỏ đi lấy chồng khác. Tội nghiệp bà cụ ôm đứa cháu mồ côi cho ăn dỗ ngủ, vất vả không kham, sớm chiều nhớ thương con cháu, gàu khóc thảm thiết.
              Một hôm bà đương ôm cháu ngồi trong nhà, bỗng thấy chàng sừng sững bước vào, lấy làm sợ hãi, gạt nước mắt mà hỏi rõ nguồn cơn. Chàng nói:
              - Con ở dưới đất nghe mẹ khóc mãi rất đau lòng xót ruột, cho nên con trở về để sớm hôm hầu hạ giúp đỡ mẹ đây. Con tuy chết nhưng đã lập thành gia thất, nay vợ con cũng theo về đặng chia sẻ khổ cực với mẹ, xin mẹ đừng bi thương nữa.
              Bà mẹ hỏi :
              - Vợ con là ai?
              Chàng thưa:
              - Họ Khấu đành lòng để con chết, con hết sức oán hận. Chết rồi con muốn tìm kiếm Tam nương mà không biết nàng ở chỗ nào, gần đây gặp một vị canh bá trỏ đường lối, con đến nơi thì Tam nương đã đi đầu thai ở nhà quan thị họ Nhiệm. Con lập tức đuổi theo bắt nàng trở về và buộc phải làm vợ con. Vợ chồng con cũng tâm đầu ý hợp, chẳng khổ sở chi.
              Giậy lát, tiến vào một người con gái, ăn mặc xinh đẹp, quì xuống đất lạy mẹ. Chàng nói:
              - Thưa mẹ, người này là Khấu Tam nương, vợ con.
              Tuy con trai con dâu chẳng phải là người sống, nhưng bà mẹ được trông thấy cũng khuây khỏa nỗi lòng. Chàng hối Tam nương làm công việc trong nhà. Nàng không quen làm lụng, nhưng biết chiều chuộng mẹ chồng, ở luôn nhà cũ, không đi.
              Nàng xin mẹ chồng báo tin cho bên nhà nàng hay. Chàng bảo đừng, song mẹ chiều lòng con dâu, sai người đi báo cho nhà họ Khấu biết.
              Ông bà Khấu nghe tin hãi hùng, lập tức mướn xe đến nơi, trông quả là Tam nương, nhìn nhau khóc thất thanh. Nàng khuyên can mãi mới thôi.
              Khấu bà thấy cảnh nhà chàng nghèo khổ, có vẻ thương hại con gái mình vất vả. Nàng nói:
              - Con đã thành ma rồi, cần gì giàu nghèo. Huống chi mẹ con Chúc lang đối với con tình nghĩa ân cần, con lấy thế làm an phận lắm rồi.
              Nhân dịp, Khấu bà hỏi thăm bà lão bán trà là người nào, nàng nói:
              - Bà ấy họ Nghê, tự thẹn tuổi già, không thể cám dỗ được khác qua lại, cho nên cậy con giúp sức, vậy thôi. Nay mụ đã thác sinh vào một ngôi nhà bán rượu trong thành.
              Nói đoạn lại quay sang bảo chàng:
              - Mình đã làm rể mà không lạy mẹ vợ thì lòng em sao đành?
              Chàng liền lạy chào theo lễ.
              Rồi đó nàng xuống bếp đỡ tay mẹ chồng, nấu cơm để đãi ông bà xui gia.
              Khấu bà trông thấy động lòng thương xót sau khi trở về, liền sai hai con tới phục dịch. Thêm vàng trăm cân, vải lụa mấy chục tấm. Thỉnh thoảng, cho người mang rượu thịt đến biếu xén, thành ra Chúc mẫu trở nên một nhà giàu nho nhỏ.
              Cũng có lúc Khấu gia kêu nàng về thăm bên nhà nhưng ở được vài ba ngày, nàng liền đòi về, nói rằng:
              - Nhà chồng con vắng vẻ không có ai, phải đưa con về sớm mới được.
              Có khi cha mẹ kiếm cớ lần khân chưa cho người đưa về, thì nàng vụt đi một mình.
              Khấu ông xuấ tiền cất nhà đàng hoàng cho Chúc sinh, mọi việc xếp đặt đầy đủ. Nhưng chàng chưa hề bước chân tới nhà cha mẹ vợ lần nào.
              Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mảng chết rồi sống lại, thiên hạ đồn rùm là một chuyện lạ.
              Chàng nói:
              - Ta cứu nó sống đó. Nguyên nó bị ma Lý Cửu hãm hại, ta vì nó mà đánh con ma ấy đi.
              Bà mẹ hỏi:
              -Sao con không tìm người khác để thay thế cho mình?
              Chàng nói:
              - Con vẫn đương oán hờn tụi đó đáo để, đương ra sức khu trừ cho hết giống. Vậy khi nào con thèm làm cách ích kỷ hại nhân như chúng nó. Vả lại con được phụng sự mẹ, thấy vui sướng lắm rồi, không muốn thác sinh nữa.
              Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn ở giữa sân mà khấn vái chàng , đều thấy hiệu nghiệm.
              Trải hơn mười năm sau, bà mẹ qua đời, hai vợ chồng cũng thương theo lễ, nhưng không ra mặt tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy, cử hành tang lễ thay mình mà thôi.
              Chôn cất mẹ già rồi, lại ở hơn hai năm nữa, cớ vợ cho con, nàng dâu tức là cháu gái ông Nhiệm thị lang.
              Nguyên trước người thiếp của Nhiệm công sinh ra đứa con gái được mấy tháng thì chết, nghe chuyện lạ của Chúc liền đến tận nhà đính ước xui gia. Đến giờ gả cháu gái cho con Chúc sinh, hai nhà qua lại với nhau luôn luôn.
              Một bữa chàng bảo con:
              - Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong ta làm Tứ Độc Mục Long Quân. Bây giờ ta đi nhậm chức đây.
              Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa, thắng vào cỗ xe mui vàng, cẳng ngựa đều mọc vảy lân. Vợ chồng cùng mặc áo tốt bước ra, ngồi chung một xe. Đứa con trai và vợ nó khóc lạy tiễn chân. Trong nháy mắt ngựa xe đều mất tăm dạng.
              Cũng trong ngày hôm đó Khấu gia thấy con gái hiện về từ giã mẹ cha, cũng nói những lời như chàng đã nói trên đây. Khấu bà muốn lưu lại, nàng nói:
              - Mẹ để con đi, Chúc lang đã đi trước rồi!
              Nói đoạn đi ra khỏi cửa biến mất.
              Đứa con trai của chàng tên là Ngạc, tự Lý Trần, đến xin phép Khấu ông cho lấy hài cốt Tam nương đem về hiệp táng với chàng một chỗ.
              ĐÀO TRINH NHẤT dịch



              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #67
                Vạn Lý Tầm Phu - Cung Mộng Bật - ĐÀO TRINH NHẤT dịch

                Liễu Phương Hoa, người đất Bảo Định người giàu có nhất trong làng, tính khảng khái, ưa tiếp đãi khách cho nên trên tiệc từng tụ hợp trăm người. Lại hay giúp đỡ người ta trong lúc nguy cấp, bạc vàng không tiếc. Bạn bè khách khứa vay mượn không trả sự thường thấy.
                Duy có một người khách là Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây, trước sau chưa hề cầu xin chuyện gì hoặc hỏi vay đồng nào. Một lần đến chơi, ở lại hàng năm, người nói năng lanh lẹ đứng đắn cho nên Liễu hay cùng ăn ở chuyện trò nhiều hơn những khách khác.
                Con trai của Liễu tên là Hòa, lúc này còn bé, vẫn gọi Cung là chú. Cung thích chơi với Hòa, mỗi lần Hoà ở trường học về, cùng nhau gỡ những viên gạch lát trong nhà lên chôn đá vụn ở dưới, giả như chôn dấu vàng bạc, lấy thế làm vui. Nhà năm gian, bới đào chôn dấu khắp. Mọi người cười là tính khí trẻ con, chỉ có Hòa là ưa đùa nghịch với Cung là thân mật hơn ai hết.
                Mười năm sau, nhà hơi kém, không thể làm vừa lòng của nhiều khách khứa đòi hỏi, thành ra khách khứa vắng dần. Tuy vậy trong nhà vẫn đôi ba chục người hội họp rượu trà chuyện vãn, thâu canh suốt sáng là thường.
                Tuổi Liễu càng về già, nhà càng sa sút, nhưng vẫn còn cắp ruộng bán dần lấy tiền để những khi có khách đến thì mổ gà, dọn cơm rượu đãi đằng.
                Hòa cũng xài lớn theo gương cha, mời thỉnh các bạn bè con nít với nhau, Liễu biết mà chẳng ngăn cản gì.
                Không bao lâu, Liễu thọ bệnh qua đời, trong nhà đến nỗi không còn tiền để lo liệu việc tang. Cung bèn xuất tiền túi ra lo liệu giùm. Vì thế, Hòa càng mang ơn, phàm việc gì lớn nhỏ, đều nhờ chú trông nom.
                Mỗi lần Cung ở ngoài về, tất có bọc ít ngói bể gạch vụn về ném vào trong xó. Nội nhà không ai hiểu là ý gì.
                Hòa thường than thở cảnh nghèo với Cung, Cung nói:
                - Cháu không biết sự làm việc khó khăn vất vả, dù bây giờ có đưa cho cháu ngàn vàng, cháu cũng vung vãi hết ngay. Thằng con trai chỉ lo không biết tự lập chứ lo gì nghèo.
                Một hôm Cung từ giã ra đi, Hòa khóc và năn nỉ mau mau trở lại, Cung gật đầu rồi ra đi.
                Hòa nghèo đến nỗi ăn uống hàng ngày cũng thiếu thốn, có gì cầm bán mãi, đến nỗi không còn thứ gì cần bán nữa. Hàng ngày mong chú Cung đến, hầu lo chạy dùm mình, nhưng Cung vẫn vắng bặt tăm bặt tích, như chim hạc vàng một đi không về.
                Nguyên hồi Liễu còn sống, đi dạm hỏi con gái nhà họ Huỳnh ở quận Vô Cực cho Hòa.
                Họ Huỳnh nhà giàu có, sau khi nghe Liễu hết của nghèo, cho nên đã ngầm có ý trở mặt nuốt lời.
                Khi Liễu mất, nhà có gửi thiếp báo tang đến. Huỳnh làm lơ chẳng đến phúng điếu chi hết. Ai nấy cũng nghĩ tại đường sá xa xôi mà thể lượng.
                Đến lúc mãn tang, mẹ Hòa sai Hòa tự đến nhà nhạc gia để xin hẹn ngày cưới, trong ý trông mong Huỳnh thấy cảnh nghèo túng mà đoái thương giúp đỡ con rể vậy.
                Nào ngờ khi Hòa đến nơi, Huỳnh nghe nói áo giày lôi thôi rách rưới, bèn ngầm bảo kẻ giữ cổng không cho Hòa vào, chỉ nhắn miệng rằng, về lo kiếm trăm bạc rồi hãy trở lại đây, bằng không thì từ nay xin tuyệt.
                Hòa nghe, khóc lóc thảm thiết. Bà lão họ Lưu ở đối cửa thấy thế động lòng thương hại, gọi Hòa vào cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, bảo kiếm đường về quê quán đi.
                Về nhà thuật lại nông nỗi cho mẹ nghe, mẹ cũng phẫn uất xót xa nhưng không biết làm sao khác hơn. Nhân đó, đến khách khứa thuở xưa vay mượn của nhà mình nhiều, mười ông còn đến tám chín ông chưa trả, bà liền bảo Hòa chọn lựa những ông giàu có thì đến mà cầu họ giúp đỡ lại, Hòa lắc đầu:
                - Mẹ ơi, ngày xưa họ lui tới giao du với nhà ta, chỉ vì nhà ta có tiền của nhiều đó thôi. Phải chi ngày nay con ngồi xe sang, cưỡi ngựa quý, thì vay mượn người ta ngàn vàng chẳng khó chi đâu. Nay cảnh nhà ta nghèo khổ sa sút thế này, còn ai nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ mà hòng. Vả lại cha con sinh thời, cho ai vay mượn cũng chẳng có giấy tờ gì, nay đi đòi họ rất khó khăn lắm.
                Nhưng mẹ cố ép, Hòa đi hơn hai mươi ngày không đòi được một trinh nào hết. Duy có người kép hát Lý Tự còn nhớ ơn xưa Liễu thường cứu giúp mình bèn tặng Hòa một đồng gọi là báo đáp.
                Mẹ con ngồi khóc lóc với nhau, từ đó tuyệt vọng chẳng còn trông nom vào đâu nữa.
                Nói về con gái họ Huỳnh đã đến tuổi lấy chồng, nghe việc cha tuyệt Hòa, trong lòng thầm nghĩ như thế là quấy.
                Huỳnh muốn gả chồng khác, nàng khóc và nói:
                - Thưa cha, Liễu sinh có phải lọt lòng ra là nghèo túng đâu. Chớ chi bây giờ nhà chàng giàu có gấp mấy thuở xưa thì bất tất phải nói, chả ai có thể tranh đoạt với chàng cho được. Nhưng ngày nay chàng nghèo mà ta khinh bỏ như thế là bất nhân cha ạ!
                Huỳnh không nghe, kiếm cớ lời này cớ kia, khuyên dỗ nàng trăm cách nàng cũng không chuyển. Hai ông bà giận con, suốt ngày mắng nhiếc, nàng vẫn lặng thinh.
                Cách không bao lâu, đang đêm cướp đến đánh nhà, nung dùi nưóc kẹp, tra khảo vợ chồng Huỳnh gần chết rồi vơ vét trong nhà sạch sành sanh.
                Thấm thoát ba năm, nhà lại sa sút thêm. Có người chủ hiệu nghe biết nàng đẹp, tình nguyện cưới năm ngàn đồng. Huỳnh thấy tiền nhiều chói mắt, ưng chịu liền, định ép uổng con cho bằng được.
                Nàng biết mưu ấy, tự hủy hình dung, bôi mặt lem luốc, thừa cơ đêm tối bỏ nhà đi trốn, ăn xin dọc đường ròng rã hai tháng mới đến Bảo Định, hỏi thăm hàng xóm và thẳng đến nhà Hòa.
                Bà mẹ Hòa thoạt đầu trông tưởng là con ăn mày nào mắng và đuổi đi. Nàng thổn thức tự nói tên họ, bà nắm tay tay nàng khóc òa và nói:
                - Tội nghiệp cho con, làm sao thân thể ra thế này?
                Nàng thảm thiết giải bày căn do, rồi hai mẹ con cùng khóc. Khóc đã thèm rồi, bà đi múc nước rửa ráy cho nàng, mặt mày sáng sủa, nhan sắc tươi đẹp trở lại. Mẹ con cùng mừng.
                Song nhà ba miệng ăn, ngày chỉ có một bữa. Bà mẹ thương hại, không cầm nước mắt:
                - Mẹ con ta cực khổ đã quen rồi, chỉ thương cho con dâu hiền của ta cũng phải chịu chung cảnh này thôi.
                Nàng cười và an ủi mẹ chồng:
                - Con dâu của mẹ từng trà trộn vào đám ăn mày, ăn xin nếm trải mùi khổ lắm rồi mẹ ạ! Bây giờ đem sánh với lúc đó, con thấy cách xa như cảnh thiên đàng địa ngục kia lận.
                Bà mẹ nghe nói lấy làm hả lòng.
                Một hôm nàng vào căn nhà bỏ không bấy lâu, thấy cỏ mọc rập rạp, chẳng hở chỗ nào. Vào dần mãi bên trong, rác bụi ngập đầy. Trong xó nhà có vật gì chất đống, chân vấp phải, lượm lên coi, té ra là tiền bạc tất cả. Nàng sửng sốt chạy đi gọi Hòa.
                Hòa cũng vào xem tận nơi, thì ra những gạch ngói vụn bể ngày xưa chú Cung ném vào xó nhà này toàn thị tiền bạc trắng xóa. Nhân dịp nhớ lại hồi nhỏ mình thường cùng chú Cung chơi nghịch giở gạch lót lên mà chôn đá cuội xuống dưới làm vui, có lẽ đều là vàng bạc thật cả chăng?
                Nhưng ngôi nhà cũ đó đã cầm thế cho người ở xóm Đông mất rồi, chàng vội vàng mang tiền sang chuộc nhà lại. Đào lên, té ra những viên đá chôn duới nền gạch xưa, cũng đều là tiền bạc hết thảy.
                Ai ngờ chỉ trong chốc lát bỗng nhiên thu gom thành có bạc vạn.
                Từ đó chuộc lại điền sản, xây dựng nhà mới, nuôi tôi trai tớ gái tấp nập, cửa nhà nguy nga sang trọng còn hơn ngày trước. Hòa còn phấn chí tự cường:
                - Trời ơi! Nếu không cố lập lấy công danh, thì phụ lòng tốt của chú Cung ta biết mấy!
                Rồi cặm cụi đọc sách, ba năm sau đậu thi hương, bèn thân hành đem trăm bạc đến tận nhà bà Lưu ta ơn bữa cơm hồi nào. Hòa mặc áo lịch sự thoáng mắt, mấy chục kẻ tùy tùng đều trai tráng, cưỡi ngựa đẹp như rồng. Lưu bà ở căn nhà nhỏ hẹp, Hòa vào ngồi ở bộ ván, còn tùy tùng đứng cả ở bên ngoài, người đông ngựa hí tấp nập cả xóm.
                Nhắc lại ông Huỳnh từ khi con gái bỏ nhà trốn đi, người chủ hiệu bức bách hồi lại món tiền dẫn cưới, mà lỡ tiêu xài mất quá nửa rồi, thành ra buộc phải bán ngôi nhà đang ở mới trả đủ cho người ta. Vì đó mà trở nên khốn qu64n, y như cảnh Hòa lúc nào. Giờ nghe chàng rể cũ đỗ đạt sang trọng, mà đến huyền diệu ngay lối xóm mình, không khác gì gai đâm trước mắt, vợ chồng Huỳnh hổ người, đóng chặt cửa ngồi trong nhà thở than với nhau, chẳng dám ló mặt ra.
                Lưu bà mua rượu dọn cơm đãi Hòa, trong bữa thuật chuyện người con gái Huỳnh hiền đức ra sao, lại tỏ ý than tiếc nàng bỏ nhà đi đâu mất biệt. đoạn hỏi Hòa lấy vợ chưa. Hòa đáp lấy vợ rồi.
                Cơm nước xong, Hòa cố mời Lưu bà đi với mình về nhà, cho được xem mặt vơ mình mới cưới. Thế rồi Hòa chở Lưu bà lên đường cùng về.
                Đến nhà nàng vận y phục lộng lẫy ra chào, thị nữ dàn hầu hai bên, trông như tiên nữ giáng phàm. Nàng cùng bà Lưu ngó thấy nhau cùng hãi hùng sửng sốt, rồi tay bắt mắt mừng, nhắc lại chuyện cũ, nhân dịp nàng hỏi thăm tin tức cha mẹ.
                Bà ở chơi mấy ngày, được tiếp đãi hết sức niềm nở, phong hậu. Nàng may sắm y phục từ đầu đến chân, bấy giờ mới đưa bà về.
                Bà sang nhà Huỳnh, nói cho biết tin tức con gái còn sống và nhắn lời hỏi thăm. Vợ chồng Huỳnh cả kinh, Lưu bà khuyên nhủ nên đi thăm con và rể, nhưng Huỳnh có vẻ ngần ngại.
                Thế rồi đói rách bức bách, cực chẳng đã phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cửa trợn mắt tỏ vẻ giận dữ. Huỳnh lóng nhóng suốt ngày chẳng được vào.
                Mãi sau có một mụ từ trong nhà đi ra, Huỳnh xuống nước dịu ngọt, tự nói họ tên, nhờ ên thằng báo cho con gái biết. Một lát mụ trở ra dắt Huỳnh vào một căn nhà cạnh và nói:
                - Nương tử muốn gặp liền nhưng sợ lang quân hay đặng sinh rầy, vậy tốt hơn ngồi tạm ở đây chờ có cơ hội thuận tiện đã. Tội nghiệp ông ão đến đây từ hồi nào, đã ăn uống gì chưa, có đói bụng không?
                Huỳnh được dịp tỏ hết nỗi khỗ cực cho mụ nghe. Mụ đem ra một ve rượu, hai giỏ cơm, để trước mặt Huỳnh kèm thêm năm đồng bạc rồi nói:
                - Lang quân hiện đang ăn tiệc ở phòng trong, nương tử e không có giờ phút nào hở mà tiếp rước ông ão được đâu. Mai sáng ông nên đi thật sớm, chớ để lang quân hay được thì khốn.
                Huỳnh vâng lời. Mờ sáng, ông ôm gói ra đi, nhưng người giữ chìa khóa còn chưa mở cổng, đành phải nép mình bên xó cửa ngồi bên bọc hành lý mà đợi. Chợt có tiếng vang truyền ông chủ đi ra. Huỳnh muốn tìm chỗ ẩn mình lánh mặt, nhưng Hòa đã trông thấy, thét hỏi lão già ăn mày là ai. Gia nhân đều làm thinh không trả lời, Hòa giận:
                Tất là đứa gian, bay đâu bắt trói nó giải lên quan phủ xét nghe!
                Chúng dạ vân lấy dây thừng trói Huỳnh vào gốc cây. Huỳnh vừa sợ vừa thẹn, không dám nói năng gì hết. Giây lát mụ ở hồi hôm trước lại ra quỳ trước mặt Hòa năn nỉ:
                - Thưa ông chủ, người này là cậu ruột tôi, mới đến hồi hôm cho nên chưa kịp trình ông chủ rõ!
                Hòa truyền lệnh cởi trói cho Huỳnh.
                Mụ ở dẫn Huỳnh ra cửa và nói:
                - Chỉ tại tôi quên dặn trước người giữ cửa, thành ra có chuyện phiền. Nương tử có lời nhắn miệng rằng: khi nào tưởng nhớ thì cho bà lão ở nhà giả làm mụ bán hoa cùng đi với Lưu bà đến đây mới được.
                Huỳnh vâng lời.
                Về nhà kể chuyện với bà vợ, bà này nhớ con muốn mau gặp mặt, bèn ngỏ ý với Lưu bà, rồi hai người cùng đến nhà Hòa.
                Qua hơn mười lớp cửa ngõ mới đến được chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, mang châu ngọc khắp người, hương thơm bay ra ngào ngạt, một tiếng véo von hô kêu, tức khắc cả đoàn thị nữ lớn bé già trẻ cùng dạ vang rân, chạy đến chung quanh đợi lệnh. Nào người nhắc ghế nạm vàng, nào kẻ pha trà mời khách.
                Mẹ con dùng tiếng lóng đàm đạo việc nhà, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm lại, dọn riêng ra một gian nhà để hai bà già nghỉ với nhau. Nệm gối êm đẹp, dù chính nhà mình năm xưa giàu có cũng chưa từng được dùng của quý âý.
                Lưu lại năm ba ngày, bà lão được nàng tiếp đãi cực tử tế. Bà dẫn con ra chỗ vắng nói chuyện, khóc lóc giải bày sự ăn ở quấy ngày xưa. Nàng nói:
                - Giả mẹ con ta điều chi lầm lỗi mà chẳng quên được. Duy có nhà con vẫn còn tức giận không nguôi, bây giờ nói gì chàng cũng không nghe đâu.
                Mỗi khi thấy bóng Hòa đi tới, bà liền lẩn trốn. Một hôm đang ngồi chơi, bỗng Hòa vô tình trông thấy, nổi giận thét mắng:
                - Con mụ nhà quê nào đó, dám ngồi ngang hàng với nương tử à? Bây đâu lôi nó đi cho ta!
                Lưu bà đỡ lời và nói:
                - Đó là Vương tẩu, làm nghề bán hoa có họ với bà già đây, xin ngài tha lỗi.
                Hòa bèn chấp tay tạ lỗi, đoạn ngồi lại nói chuyện với Lưu bà:
                - Bà đến đây chơi mấy bữa nay, tôi vì bận việc quá không có giờ rảnh hỏi chuyện gì được. Chẳng biết lão già súc sinh họ Huỳnh còn sống hay chết?
                Lưu bà đáp:
                - Thưa, cả ông bà còn mạnh khỏe, chỉ phải tội nghèo túng quá. Ngài bây giờ giàu sang, sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút?
                Hòa vỗ bàn nói:
                - Năm trước tôi không nhờ có bà cho một bát cơm đỡ lòng thì còn sống đâu mà về quê quán cho có ngày hôm nay. Lão già bất nhân bất nghĩa, bây giờ tôi muốn lột da mới cam lòng, can chi phải tưởng nhớ lão ta nữa?
                Chàng phản kích quá, dận cẳng đứng lên, chỉ trời vạch đất, mắng chửi Oa muộisòm.
                Nàng chạnh lòng xen vào:
                - Người dù bất nhân cũng là cha mẹ sinh đẻ ra tôi. Tôi đem thân ăn xin dọc đường từ ngàn dặm tới đây phồng da rách rả cẳng, tự nghĩ như thế thật không phụ lòng chàng ở chỗ nào? Sao chàng đứng trước mặt con mà chửi mắng cha, khiến tôi đau tủi vô cùng.
                Bấy giờ Hòa mới nguôi mà đứng dậy đi.
                Bà vợ Huỳnh thẹn thùng tím mặt, từ giã ra về. Nàng lấy hai chục đồng tặng riêng cho mẹ.
                Sau khi bà trở về, tin tức hạn tuyệt. Nàng thương nhớ cha mẹ rầu buồn hiện ra sắc mặt. Hòa bèn sai người mời hai ông bà đến.
                Vợ chồng Huỳnh tới vẫn còn vẻ thẹn, đứng ngồi không yên. Hòa kiếm lời an ủi và xin lỗi trước.
                - Năm nọ ông bà đến chơi tôi không được rõ, thành ra nói năng xúc phạm rất nhiều. Xin lượng thứ cho!
                Huỳnh chỉ ầm ừ không nói gì đặng, Hòa sắm áo quần mới tinh cho hai ông bà thay đổi.
                Ở chơi hơn một tháng, Huỳnh vẫn tự thấy lương tâm cắn rứt, mấy lần xin về. Hòa biếu một trăm lượng bạc và nói:
                - Tôi xin biếu số tiền nhiều gấp hai món năm nghìn của thằng chủ hiệu năm xưa đó!
                Huỳnh bẽn lẽn nhận lãnh, Hòa cho xe ngựa đưa về tận nhà.
                Nhờ món tiền đó mấy năm về già, Huỳnh sống một cách phong lưu trung bình.
                ĐÀO TRINH NHẤT dịch


                ST
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #68
                  Một nhà đĩ chồn - Nha Đầu

                  Học sinh Vương Văn người Đông Xương, từ nhỏ tính vốn thật thà, đi chơi đất Sở, trời tối gặp sông lớn chưa qua được phải vào nhà trọ nghỉ ngơi, dạo bước ngoài cửa xem cảnh.
                  Người đồng hương là Triệu Đông Lâu, buôn bán lớn, thường mấy năm không về nhà một lần, nay gặp Vương ở xứ lạ, tay bắt mặt mừng, liền mời đi tiêu khiển chơi.
                  Đến nơi, chàng dòm thấy trong nhà có mỹ nhân ngồi, kinh ngạc lùi bước. Triệu cố lôi kéo, lại đứng ngoài cửa sổ kêu gọi Nật Tử, biểu nàng tránh đi, bấy giờ Vương mới chịu vào.
                  Triệu sai dọn cơm rượu thết đãi, chuyện vãn ân cần. Vương nói:
                  - Đây là nhà ai?
                  - Nhà này là một nhà chứa nho nhỏ – Triệu đáp. – Tôi vì sống ở quê người đất khách lâu ngày, cho nên tạm lấy chốn này làm trò vậy.
                  Trong lúc hai người nói chuyện, Nật Tử thường ra vào dòm ngó luôn, khiến cho Vương nhột nhạt không yên, liền đứng dậy từ biệt. Triệu cố níu chàng ngồi lại. Giây lát, một thiếu nữ đi qua trước cửa trông thấy chàng, liếc mắt đưa tình, sóng thu lai láng, mà dáng người ả có vẻ thần tiên. Thuở nay chàng vốn đứng đắn thế mà bây giờ ngây ngất xiêu lòng, hỏi thăm cô gái đẹp ấy là ai? Triệu đáp:
                  - Con gái út của bà chủ nhà này đó. Nàng tên là Nha Đầu, mới có mười bốn tuổi, bọn vương tôn quý khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ, nhưng nàng nhất định không chịu, thành ra bị mẹ đánh đập khốn khổ, chỉ vì nàng còn ít tuổi, nhờ năn nỉ lạy lục mới êm, hiện nay còn đang kén chồng đó.
                  Vương nghe nói cúi đầu ngồi lặng, như mộng như si, đến nỗi chuyện trò thù tạc sai cả đầu đề. Triệu hỏi bỡn:
                  - Nếu anh ưng ý thì tôi làm mai cho.
                  Vương ngậm ngùi nói mình không dám có ý nghĩ ấy đâu. Tuy nhiên, trời đã xế bóng, chàng vẫn ngồi chẳng nói gì tới sự đi về. Triệu lại đùa bỡn hỏi lại lần nữa. Vương nói:
                  - Bạn có lòng tốt, tôi rất cảm tạ, chỉ hiềm cạn túi biết làm thế nào?
                  Triệu biết tính ý Nha Đầu cứng cỏi, nếu ít tiền chắc nàng không chịu tiếp, cho nên tình nguyện giúp thêm mười lượng. Chàng bái tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc trong hầu bao rồi lại đến chỗ cũ, đếm được năm lượng, năn nỉ Triệu nói giùm với mụ tào kê. Quả nhiên mụ chê ít, không thuận. Nha Đầu nói:
                  - Thường ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay con xin theo ý mẹ muốn. Con mới học ra đời, thế nào cũng có ngày báo đáp ơn mẹ. Vậy mẹ đừng chê món tiền nhỏ mọn, mà xua đuổi ông Thần Tài đi.
                  Mụ thấy tính con bướng bỉnh, giờ được nó ưng chịu như thế, hết sức mừng rỡ, bèn nhận lời ngay và sai con ở đi mời Vương Văn.
                  Triệu thấy vậy, không thể chạy chối lời hứa, liền xuất thêm mười lượng phụ vào món tiền của Vương mà trao cho mụ.
                  Vương cùng Nha Đầu vui vẻ yêu đương nhau rất mực. Đoạn, nàng hỏi Vương:
                  - Em là con nhà trăng hoa hèn mọn, không đáng cùng chàng sánh đôi bằng lứa. Nay được chàng đoái thương, nghĩa ấy rất nặng, em không quên. Nhưng chàng trút túi để mua cho được một cuộc vui thú đêm nay, rồi ngày mai thì sao?
                  Chàng cảm động, khóc lóc than thở. Nàng khuyên can:
                  - Xin đừng bi thường làm chi. Em gửi thân trong chốn phong trần, nhưng không phải thật tâm muốn vậy, chẳng qua chưa gặp được người thành thực như chàng, đáng cho em trao gửi tấm thân, cho nên đành phải nấn ná đó thôi. Bây giờ em xin trốn đi theo chàng đêm nay.
                  Vương hớn hở vùng dậy, nàng cũng đứng lên, nghe trống cảnh đã điểm ba tiếng, lật đật thay đổi y phục, giả làm con trai, cùng chàng mở cửa ra đi.
                  Chàng ghé nhà trọ, gõ cửa chủ nhân, lấy cớ có việc gấp rút, kêu lão bộc thức dậy thu nhặt hành lý và dắt lừa ra đi tức khắc.
                  Nàng lấy bùa dán vào lão và bên tai lừa, thế rồi buông cương cho chạy như bay, hai mắt nhắm nghiền, bên tai chỉ nghe gió thổi vu vu. Sáng sớm đến Hán Giang, mướn phố ở tại đó. Vương ngỏ ý kinh ngạc, nàng thú thiệt:
                  - Nói ra có lẽ chàng sợ hãi chăng? Sự thật em không phải là người, chính là chồn đây. Mẹ em tham dâm, hàng ngày em bị ngược đãi, chứa chất tức bực trong lòng đã nhiều, nay gặp may mắn được thoát thân bể khổ, ở ngoài trăm dặm, mẹ em chẳng biết đâu mà tìm, huống chi còn xa hơn nữa, vợ chồng ta có thể yên ổn vô ngại.
                  Chàng nghe nói yên lòng, chẳng còn ngờ vực chi, nhưng rồi chậm rãi thở than:
                  - Ngồi ngắm bông phù dung tươi đẹp, mà nhà trơ bốn vách, nghĩ thật buồn rầu, chỉ sợ mình cực khổ quá, rồi sớm muộn cũng đến bỏ tôi mà đi.
                  Nàng an ủi chồng:
                  - Sao lại lo nghĩ vớ vẩn như thế? Bây giờ ta buôn bán lặt vặt, trong nhà chỉ có ba miệng ăn, sống với nhau một cách đạm bạc có thể no đủ. Vậy chàng bán phắt con lừa kia đi mà làm vốn mua bán.
                  Chàng y lời, lập ngay trước cửa một quán tạp hoá nho nhỏ; hai thầy trò xuất lực làm việc, bên trong bán rượu và tương, mắm phụ thêm; còn nàng thì may thuê thêu mướn, ngày ngày kiếm được dư dật, sự ăn uống cũng được phong lưu.
                  Hơn một năm lần hồi nuôi được vú bõ con hầu, từ đó chàng không phải bắt tay vào việc nặng nhọc nữa, chỉ đứng chỉ bảo trông nom thế thôi.
                  Một hôm, bỗng dưng nàng buồn rầu và nói:
                  - Đêm nay phải có tai nạn đưa tới, biết làm thế nào?
                  Vương gạn hỏi tai nạn gì, nàng đáp:
                  - Mẹ em đã dò biết tung tích, chắc bà sinh sự bức bách chứ không để yên. Nếu bà sai Nật đến thì vợ chồng ta khỏi lo, chỉ sợ bà thân hành đến mới nguy.
                  Đêm ấy đã khuya, nàng ngỏ ý vui mừng và nói cho chồng hay rằng:
                  - Chị Nật sắp tới đó.
                  Một lúc, quả nhiên Nật Tử đẩy cửa vào. Nàng tươi cười đón rước. Nật Tử nhiếc mắng:
                  - Con ranh bỏ nhà theo trai đi trốn, không biết thế là xấu hổ ư? Má sai tao trói mày dẫn về xử tội.
                  Nói đoạn lấy dây lòi tói ra, buộc vào cổ nàng.
                  Nàng phát giận, chống cự lại:
                  - Đi theo một người mà thờ, thì có tội gì chớ?
                  Nật Tử càng tức, lôi kéo nàng đứt cả vạt áo. Lũ tôi tớ trong nhà nghe động, cùng tụ tập lại can thiệp. Nật Tử sợ hãi, vội vàng dông mất. Nàng nói:
                  - Chị về báo tin, mẹ em chắc sẽ tự đến. Vạ lớn tới nơi, ta nên tính trước.
                  Lập tức hô bảo gia nhân thu dọn đồ đạc để dời đi nơi khác. Bất đồ bà mẹ đã xồng xộc bước vào, nét mặt hầm hầm:
                  - Tao biết con khốn nạn này vô lễ, cho nên tao phải tự tới đây mới xong.
                  Nàng quỳ xuống khóc lóc năn nỉ. Mụ chẳng nói chẳng rằng túm tóc nàng lôi đi mất.
                  Chàng thương nhớ bâng khuâng, bỏ ăn quên ngủ, mau mau lên đường tới Đại Hà, mong có thể bỏ tiền ra chuộc lấy nàng về. Nhưng đến nơi thì cửa nhà y cũ, người ở khác xưa, hỏi thăm không ai biết nhà mụ dọn đi đâu. Chàng ngậm ngùi trở về Hán Giang, rồi phân tán đồ đạc cho người ta, còn bao nhiêu thì chuyển vận về quê nhà Đông Xương.
                  Cách mấy năm sau, ngẫu nhiên đi vào Yên Kinh, qua viện Dục Anh (tức là nhà nuôi con trẻ côi cút), trông thấy đứa bé chừng bảy, tám tuổi, người lão bộc lấy làm lạ, bởi mặt mày đứa bé thật giống chủ như đúc, cho nên chăm chăm dòm ngó mãi. Vương hỏi tại sao cứ nhìn thằng bé không chớp mắt, lão bộc cười và nói rõ nguyên nhân.
                  Chàng cũng cười, nhìn kĩ thằng bé bộ dạng chững chạc, tự nghĩ mình chưa có con, nhận thấy nó giống mình, liền động lòng thương yêu, xuất tiền chuộc nó.
                  Hỏi tên họ là gì nó tự xưng là Vương Tư. Chàng hỏi vặn:
                  - Khi mày còn bé tí, đã bị cha mẹ bỏ rơi cho vào viện Dục Anh, tại sao biết tên họ rành mạch như thế?
                  Vương Tư đáp:
                  - Thầy học con thường kể chuyện lúc bắt được con đem về nuôi, trước bụng có viết hàng chữ: Con của Vương Văn ở Sơn Đông.
                  Chàng nghe cả kinh:
                  - Quái lạ! Ta đây chính là Vương Văn, có con hồi nào ở đây?
                  Chàng nói vậy, rồi suy nghĩ tất là người nào trùng tên với mình, nhưng trong bụng mừng thầm vớ được thằng bé ngộ nghĩnh lanh lợi, cho nên hết sức thương yêu. Đưa nó về quê nhà, người ta trông thấy không cần phải hỏi, biết ngay là con của Vương Văn.
                  Tư lớn lên, vạm vỡ có sức, thích săn bắn chứ không lo công việc trong nhà, lại ham đánh lộn chém người. Vương chẳng ngăn cấm được. Tư lại khoe mình trông thấy ma quỷ chồn tinh, ban đầu không ai thèm tin, về sau trong làng có nhà nọ bị chồn quấy nhiễu, mời Tư đến xem giùm.
                  Tư đến nơi, chỉ vạch những nơi chồn ẩn núp kín đáo, sai mấy người vác gậy cứ theo ngón tay mình trỏ bảo mà đánh túi bụi, quả nhiên nghe tiếng chồn kêu rối rít và tìm thấy chỗ đó còn lông máu tơi bời. Nhờ vậy nhà này mới yên. Sau đó, người ta bàn tán với nhau, càng tin Tư là một nhân vật lạ lùng.
                  Một hôm, Vương đi dạo phố, chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo lôi thôi, mặt mày ảm đạm, bất giác sửng sốt, hỏi ở đâu đến mà thân thể tiêu điều quá vậy. Triệu nhăn mặt xin hẹn thong thả tỉnh hồn sẽ nói. Chàng liền dẫn về nhà đãi ăn uống, rồi Triệu kể chuyện:
                  - Mụ đi bắt được Nha Đầu đem về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên phía bắc, lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề chết không lấy hai chồng. Vì thế, mụ giam giữ trong buồng kín suốt ngày, như tù ở ngục vậy. Nàng sinh hạ đứa con trai, mụ đem bỏ ra ngoài đường. Tôi nghe người ta đưa về viện Dục Anh nuôi nấng nó, có lẽ nay đã trưởng thành, ấy là cục máu của anh bỏ rơi đó.
                  - Nhờ trời xui khiến tôi đã đưa con tôi về đây rồi.
                  Đoạn, kể chuyện đầu đuôi gặp gỡ cho Triệu nghe. Triệu thở dài và nói:
                  - Anh ạ! Ngày nay tôi mới biết lòng dạ bọn lầu xanh bạc bẽo, chớ có tin tưởng quá mà chết. Nhưng khi tỉnh ngộ thì đã muộn rồi, còn nói chi nữa.
                  Nguyên lúc mụ dời nhà lên phía bắc, tức là Yên Kinh, nơi đóng đô của Minh triều hồi đó, Triệu lấy cớ buôn bán đi theo, những hoá vật nặng nề khó chở thì bán rẻ đi hết. Dọc đường bao nhiêu phí tổn chi tiêu, Triệu đều nai lưng gánh vác; mà phí tổn rất nhiều, cho nên thâm thủng tiền vốn hết. Đã vậy, Nật Tử lại đòi hỏi bóc lột thẳng tay, trong vài năm, bạc muôn của Triệu mất sạch. Bấy giờ mụ thấy Triệu hết tiền, xoay ra bạc đãi. Nật Tử cũng bỏ nhà đi ngủ với những vương tôn quý khách, luôn mấy đêm không về là thường. Triệu tức giận quá, nhưng không biết làm cách nào.
                  Có bữa, mụ già đi vắng, Nha Đầu đứng cửa sổ kêu Triệu và nói:
                  - Chốn lầu xanh không có tình nghĩa gì cả. Họ gắn bó chiều chuộng người ta chỉ vì tiền bạc đó thôi. Anh còn luẩn quẩn ở nhà này, tất sẽ rước lấy tai vạ lớn đó.
                  Triệu sợ toát mồ hôi, như người ngủ mê mới tỉnh, quyết kế bỏ nhà này ra đi. Khi sắp lên đường, lén vào thăm Nha Đầu. Nàng trao cho bức thư, nhờ đưa hộ Vương. Đó rồi Triệu đi.
                  Nói đoạn, Triệu lấy bức thư của Nha Đầu đưa cho chàng. Đại khái thư viết thế này:
                  Em biết thằng Tư, đứa con yêu dấu của chúng ta, hiện đã ở bên cạnh chàng rồi. Tai ách của em ra sao, anh Đông Lâu thấy rõ, anh sẽ thuật lại cho chàng nghe. Kiếp trước em vụng tu thế nào khiến cho kiếp này khổ não, khôn xiết nói năng. Giờ em bị nhốt trong buồng kín, tối tăm không thấy bóng mặt trời, bị đánh đập tới phồng da nát thịt, mà lửa đói như thiêu đốt ruột gan. Một ngày ở đây dài đằng đẵng như một năm. Nếu chàng không quên lúc chúng ta ở Hán Giang: đêm tuyết trời lạnh mà vợ chồng chỉ có một chiếc mền đơn, co ro với nhau cho ấm; vậy chàng nên cùng con mưu tính, giải thoát cho em ra khỏi tai ách này. Mẹ em với chị em dẫu chi cũng là cốt nhục, xin chàng với con nhớ nương tay tha thứ, đừng làm thương tàn, ấy sở nguyện của em chỉ có thế thôi.
                  Vương xem thư khóc ngất, lấy vàng lụa ra tặng Triệu để cho Triệu đi.
                  Lúc này Tư đã mười lăm tuổi. Vương kể rõ gốc ngọn đầu đuôi cho con nghe, lại đưa cho con xem bức thư của mẹ nó gửi về. Tư trợn mắt tức giận, nội ngày hôm đó lên đường vào Yên Kinh, hỏi dò địa chỉ của Ngô Ổn. Giữa lúc xe ngựa đậu dày trước cửa, Tư đi thẳng vào trong nhà. Nật Tử đang ngồi uống rượu với khách, trông thấy Tư cầm dao, sợ hãi biến sắc toan chạy nhưng không kịp, vì Tư đã xông đến nơi đâm chém lia lịa.
                  Khách khứa cả kinh, tưởng là giặc cướp, chừng ngó lại xác Nật Tử đã thấy hiện nguyên hình là con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà sau, Ngô Ổn đang đốc thúc tôi tớ nấu đồ ăn, thoáng trông thấy Tư, biết có sự chẳng lành, vội vàng biến mất. Tư ngó quanh tứ phía, mau mau lấy cung lắp tên, bắn lên dầm nhà, một con chồn bị trúng tim rơi xuống chết ngay. Tư cắt lấy đầu rồi tìm đến chỗ mẹ bị giam, vác đá phá cửa mà vào. Mẹ con thấy nhau mừng mừng tủi tủi cùng la thất thanh.
                  Mẹ hỏi bà cụ đâu, Tư nói đã giết chết rồi. Mẹ hờn giận nói:
                  - Sao con không nghe lời ta dặn dò từ trước?
                  Nàng nói rồi bảo Tư thu nhặt thi thể bà cụ đem ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả đò vâng lờ, nhưng lột lấy bộ da cất đi, rồi lục soát rương hòm của bà cụ, lấy hết áo xống tiền bạc trong đó, đưa mẹ lên đường trở về quê nhà.
                  Vợ chồng xa cách nay được trùng phùng, nửa vui nửa khóc. Chàng hỏi Tư về sự chôn cất Ngô Ổn, Tư đáp:
                  - Còn ở trong túi con đây này./.


                  Đào Trinh Nhất dịch


                  ST
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #69
                    Vợ Bé Là Chồn - Hồ thiếp - ĐÀO TRINH NHẤT dịch.

                    Lai Vu, Lưu Động Cửu, làm quan ở Phân Châu, có bữa ngồi một mình ở trong đình, nghe ngoài sân có tiếng cười nói, trước xa sau gần, rồi vào tới trong nhà, thì ra là bốn người con gái. Người lớn nhất độ bốn mươi tuổi; thứ hai chừng ba mươi; thứ ba tới hai bốn hai nhăm trở lại; cuối cùng là một cô còn để tóc xõa.
                    Cả bốn cùng đứng trước kỷ ngó nhau mà cười.
                    Lưu vốn biết trong đình nhiều chồn, cho nên mặc kệ, không buồn để ý. Giây lát cô bé tóc xõa lấy chiếc khăn đỏ ra ném giỡ trên mặt Lưu, Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn.
                    Bốn cô cười rồi bỏ đi.
                    Một hôm người lớn tuổi nhất đến nói với Lưu:
                    - Con bé em tôi có nhân duyên với ông, xin ông chớ chê là hèn hạ mà bỏ qua.
                    Lưu ậm ừ cho qua chuyện, người ấy mới đi. Lát sau, lại cùng một thị nữ dẫn cô bé đến, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói:
                    - Thật là tốt đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc ráng ở với Lưu lang, chị về nhé!
                    Lưu nhìn kỹ, thấy nàng tươi đẹp vô song, bèn cùng chuyện trò thân mật, thăm hỏi gốc tích. Nàng nói:
                    - Em đây chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người, nguyên em là con gái ông quan trấn nhậm ở đây trước, bị chồn làm chết, xác chôn trong vường. Lũ chồn làm phép cho em sống lại, cũng biến hóa như chồn vậy.
                    Lưu thò tay sờ phía sau. Nàng hiểu ý và cười nói:
                    - Ý hẳn chàng bảo chồn có đuôi phải không?
                    Rồi chuyển mình nói tiếp:
                    - Giờ thử rờ lại xem có đuôi không?
                    Từ đó nàng ở luôn trong đình, khi đứng ngồi đều có con hầu nhỏ bên cạnh. Gia nhân một mực tôn kính là bà nhỏ, vu bô tôi tớ lên chào, được thưởng tặng món này quà kia khá lắm.
                    Sắp đến ngày sinh nhật của Lưu, Lưu sợ quan khách đông đảo, tính tới ba chục mâm cỗ, vậy cần phải nhiều đầu bếp làm cỗ mới đủ. Trước đó, Lưu đã ra sức đòi ở các nơi, nhưng chỉ có một hai người tới, thành ra đâm lo. Nàng biết, bảo Lưu:
                    - Không can chi mà lo. Số đầu bếp đã không đủ dùng, chi bằng đuổi mấy đứa kia về. Tôi tuy kém tài nhưng làm ba chục mâm cỗ cũng chẳng khó gì.
                    Lưu mừng rỡ, sai mang các món rượu thịt tỏi gừng vào trong tư thất để nàng nấu cỗ. Người nhà chỉ nghe tiếng dao thớt kêu lách cách không dứt. Bên trong cửa đặt một chiếc bàn, những người tức trực bưng cỗ cứ để mâm trên đó, nghoảnh đi nghoảnh lại các món ăn đã dọn đầy mâm, họ chỉ có việc bưng đi. Hơn mười người đi lại liên tiếp, mà món ăn lấy hoài, có hoài chẳng hết.
                    Sau chót, một người bưng mâm vào gọi lấy bánh chay. Bên trong trả lời:
                    - Quan ngài có bảo trước đâu, bây giờ gấp rút quá làm sao có được?
                    Rồi nói tiếp:
                    - Thôi thì đành phải mượn đỡ của người ta vậy.
                    Giây lát, người đợi lấy bánh đã thấy trên bàn hơn ba chục bát còn nóng hổi, khói lên gnhi ngút.
                    Khi các quan khách ăn xong ra về cả rồi, nàng nói với Lưu:
                    - Mình đưa tiền trả tiền bánh cho nhà kia đi.
                    Lưu sai người đem tiền đến nhà ấy, quả thật họ mất trộm mấy chục bát bánh vừa nấu xong, đang lấy làm kinh ngạc thì có người đem đến trả tiền, bấy giờ mới hết nghi hoặc.
                    Một bữa, ngồi uống rượu buổi tối ,Lưu chợt nhớ rượu Sơn Đông mà thèm, nàng nói:
                    - Để tôi đi kiếm cho.
                    Nói đoạn bước ra cửa đi liền. Giây lát trở về chạy vào bảo Lưu:
                    - Tôi lấy về một hũ ngoài cửa kia, đủ cho mình nhắm mấy ngày.
                    Lưu ra xem, quả thật rượu Sơn Đông, y như thể rượu thường cất ở nhà mình như mọi lần.
                    Phu nhân (vợ lớn của Lưu) lúc này ở quê quán sai hai người gia bộc đến Phân Châu. Giữa đường một người nói:
                    - Nghe đồn “bà thứ chồn” vẫn khao thưởng rộng rãi cho con hầu người ở. Chuyến này được tiền thưởng ta để mua một chiếc áo lông chiên mặc chơi.
                    Nàng ngồi ở đình đã nghe biết cả rồi, bèn nói với Lưu:
                    - Gia nhân ở nhà quê sắp đến. Đáng ghét một thằng nói giọng xấc xược, phải trị mới được.
                    Sáng hôm sau, tên gia bộc mới vừa vào trong thằng đầu đã đau nhức, khi đến đình thì ôm đầu mà kêu cha kêu mẹ, ai nấy bèn đi rước thầy bốc thuốc cho y, Lưu cười:
                    - Bệnh này không cần phải chữa, hễ ngày giờ đến thì tự nó hết.
                    Mọi người hơi ngờ y phạm tội gì với bà bé chăng, nhưng y tự nghĩ mình mới tới đây, chân ướt chân ráo đã làm gì nên tội. Đến khi đầu nhức nhối quá, y không còn biết kêu van vào đâu, đành phải bò đến gần kêu bà bé.
                    Tiến người trong màn nói ra:
                    - Mi gọi bà bé là đủ, sao còn thêm một tiếng nữa là nghĩa gì?
                    Bấy giờ tên gia bộc mới tỉnh ngộ, kêu van chí chết.
                    Trong màn lại nói:
                    - Mi có cần áo lông, sao lại dám vô lễ?
                    Kế nói tiếp luôn:
                    - Thôi mi hết đau rồi.
                    Tức thời tên gia bộc thấy bệnh tiêu tan đâu mất, toan lạy tạ đi ra, chợt thấy trong màn quăng ra một cái bọc và nói:
                    -Một chiếc áo lông dê non đó, cho mi lấy đi!
                    Tên gia bộc mở ra xem, thấy bên trong có gói năm đồn bạc. Lưu hỏi thăam tin tức ở nhà, tên vô bộc thưa nội nhà đều vô sự, duy có một đêm khi không mất một hũ rượu. Tính ngày giờ chính là đêm bữa Lưu nói thèm rượu Sơn Đông mà bà bé đi lấy về cho.
                    Và từ đó ai cũng kinh sợ nàng có phép thần thông, bèn gọi là thánh tiên.
                    Lưu vẽ hình nàng để treo. Lúc đó ông Trương Đạo Nhất làm quan đề đốc sử nghe chuyện lạ lùng, lấy tình đồng hương đến chơi đình Lưu, khẩn cầu được thấy mặt nàng.
                    Nàng không chịu.
                    Lưu đưa ra tấm hình cho xem. Trương cố giật lấy đem về nhà treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn vái cầu đảo:
                    Xinh đẹp như cô,muốn gì lại chẳng được? Sao lại gửi mình ở lão rậm râu. Tôi đây không kém thua Động Cửu, cớ sao không hạ cố tôi một phen?
                    Giữa khi đó nàng ngồi ở đình nhà, thình lình bảo Lưu:
                    - Này, Trương công vô lễ, ta phạt lão đôi chút cho chừa đi.
                    Quả nhiên một hôm, Trương đang ngồi cầu chúc lâm râm như mọi khi, thấy như có người cầm thanh bản đánh ngay giữa trán nghe cái bốp, đau điếng vội vàng cuộn hình lại không dám cầu nữa.
                    Lúc hỏi cớ sao lại thôi, Trương dấu chuyện bị đánh trả lời xuôi xị, Lưu cười và hỏi:
                    - Trán ngài có đau không?
                    Trương hết chối cãi, phải kể hết chuyện thật.
                    Cách đó ít lâu, người rể Lưu tên Nguyên đến thăm cha vợ, ngỏ ý muốn kính chào bà bé. Nhưng nàng từ chối.
                    Nguyên năn nỉ mãi, Lưu bảo nàng:
                    - Rể là con ta, chớ phải người lạ nào mà cự tuyệt nó quá vậy?
                    Nàng đáp:
                    - Rể đến ra mắt, tất phải có quà cho nó. Nhưng nó hy vọng lắm cơ. Mà tôi xét hiện tại không làm vừa lòng nó được, cho nên không muốn cho nó giáp mặt là lẽ đó.
                    Sau Nguyên lại ngỏ lời cầu xin lần nữa, nàng ưng chịu, hẹn mười ngày sẽ cho ra mắt.
                    Đến ngày hẹn, Nguyên vô đứng cách màn, chắp tay vái và kính lời thăm hỏi, nhưng thấy dung nhan một cách phản phất, chứ không dám nhìn kỹ. Khi cách xa mấy bước mới nghoảnh mặt lại ngó đăm đăm, nghe tiếng nàng nói:
                    - Kìa chú rể day đầu lại!
                    Nói đoạn cười khanh khách như tiếng quạ kêu, Nguyên nghe mềm nhũn cả chân tay, run rẩy như mất hồn phách. Lúc ra bên ngoài, phải ngồi giây lát, mới định thần nói:
                    - Vừa rồi nghe tiếng cười của bà như tiếng sấm sét, đến nỗi không biết thân mình còn hay mất.
                    Một lát, con hầu vâng lệnh nàng, mang ra ba mươi lạng tặng Nguyên, Nguyên lãnh số tiền rồi nói với con hầu:
                    Thánh tiên ngày ngày ở với ông nhạc ta, há không rõ tính ta xài lớn, chứ không quen những món tiền nhỏ sao:?
                    Nàng nghe nói trả lời:
                    - Ta đã biết trước mà, Hiềm vì trong túi vừa vặn hết tiền, ta đã cùng bạn bè đi Biện Lương để lấy, rủi ro trong thành bọ thần Hà Bá chiếm giữ, bao nhiêu kho bạc đều ngập dưới nước. Vì thế ta không lấy được nhiều tiền để nhồi vào túi tham không đáy của y. Nói giả tỷ ta có cho nhiều đi nữa, phước đức của y mỏng manh, cũng không được hưỏng cơ mà.
                    Mọi việc, nàng hay kiên trì, cho nên trong nhà gặp việc chi nguy nan cứ bàn với nàng chẳng việc gì là không xong.
                    Bữa nọ, vợ chồng ngồi đàm đạo, bỗng nàng ngửa mặt lên trời, tỏ vẻ cả kinh và nói:
                    - Đại nạn sắp tới biết làm sao đây?
                    Lưu hoảng sợ hỏi vợ coi trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói:
                    - Tất cả vô sự, trừ ra cậu hai đáng lo. Chốn này nay mai trở thành chiến trường, vậy chàng xin quan trên cho đi công cán nơi xa, mới khỏi tai nạn.
                    Lưu nghe lời, xin quan trên cho đi áp tải lương thực ở miền Vân Nam, Quý Châu. Đường xá xa xôi hiểm hóc, ai cũng lo ngại cho Lưu, duy có nàng lấy làm vui mừng.
                    Quả nhiên ít lâu, Khương Khôi dấy binh làm phản, Phân Châu hóa ra hang ổ của giặc, con thứ hai của Lưu, từ Sơn Đông tới thăm cha, vừa gặp loạn nổi, bị giết. Thành bị giặc lấy, quan lại lớn nhỏ đều ngộ hại trừ Lưu đi việc quan xa, thoát nạn.
                    Chừng yên giặc xong. Lưu trở về. Rồi sau liên can vào vụ án lớn, nghèo túng tới nước thiếu cả bữa ăn. Các nhà cầm quyền ại đòi tiền đút nhiều, Lưu vừa quẫn vừa lo, muốn chết. Nàng bảo:
                    - Đừng lo, Còn ba nghìn đồng chôn dưới chân giường lấy lên dùng đỡ cũng được.
                    Lưu mừng, hỏi nàng đánh cắp của ai, nàng nói:
                    - Trong thiên hạ, thiếu gì của vô chủ can chi phải trộm cướp của ai.
                    Lưu dùng số tiền ấy lo chạy được thoát về quê quán. Nàng đi theo. Mấy năm sau, tự dưng đi mấy để lại mấy món đồ gói giấy tặng Lưu. Trong đó có cái phướn chỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc.
                    Ai cũng cho là điềm gở. Rồi ít ngày sau, Lưu chết.
                    ĐÀO TRINH NHẤT dịch.


                    ST
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #70
                      Con Gái Nhà Trời - Bạch Vu Ngọc - ĐÀO TRINH NHẤT dịch.

                      Ngô Thanh Am tên thật là Quân, tuổi trẻ đã nổi tiếng. Quan thái sử họ Cát, xem văn của chàng thường tấm tắc khen ngợi, bèn nhờ người quen mời đến nhà chơi cho được thấy rõ diện mạo và nghe chàng đàm luận. Thái sử nói:
                      - Lý nào một người có tài như Ngô sinh, mà lại nghèo hèn mãi ư?
                      Rồi ông sai người lối xóm đánh tiếng cho chàng biết rằng: “Nếu Thanh Am gắn chỉ mây xanh, thì ta gả con cho”.
                      Lúc đó thái sử còn một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, chàng nghe mừng rỡ hết sức tự tin mình bề nào thi cũng đậu.
                      Không ngờ đến khi thi khoa hương, chàng bị đánh rớt, cậy người đến nói với quan thái sử rằng: “Sự giàu sang nhật định sẽ có không biết sớm hay muộn đó thôi. Vậy xin tiểu thư rán đợi tôi ba năm nữa, nếu tôi không thành danh, cô sẽ đi lấy chồng.”
                      Từ đó chàng ra sức học càng chăm.
                      Một đêm sáng trăng, có một vị tú tài đến thăm, da trắng râu cụt, vóc người nhỏ nhắn, móng tay để dài. Hỏi khách ở đâu lại chơi, khách tự giới thiệu mình họ Bạch tên chữ là Vu Ngọc.
                      Chàng cùng Bạch nói chuyện mấy câu, trong lòng thấy khoan khoái cho nên vui mừng tiếp rước, mời ở nghỉ đêm.
                      Sáng ngày, Bạch sử soạn ra đi, chàng căn dặn mỗi khi đi qua tiện đường , bề nào cũng nhớ ghé chơi, Bạch cảm cái tính niềm nở ấy, tình nguyện lần sau đến, sẽ xin trọ ngay ở nhà này, rồi hẹn ngày tái ngộ và giã từ lên đường.
                      Tới kỳ hẹn, một tên nô bộc đem các vật dụng nấu ăn đến trước. Giây lát Bạch tới, mình cỡi ngựa vạm vỡ tướng như con rồng.
                      Chàng để căn nhà riêng Bạch ở, Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình thì ở lại, sớm tối cùng Ngô gần gũi tương đắc.
                      Ngô để ý thấy sách vở của Bạch của Bạch xem, không phải là thứ sách vở bình thường trông thấy. Lại cũng không thấy quyển sách nào là sách văn chương khoa cử. Chàng kinh ngạc và hỏi tại sao, Bạch cười đáp:
                      - Kẻ sĩ hiền đều có chí riêng, ai tùy thích nấy! sở dĩ tôi không có loại sách thơ phú vì tôi chẳng phải là người trong vòng khoa cử công danh.
                      Thường đêm Bạch mời chàng uống rượu, đưa ca một quyển sách cho chàng xem, toàn là thuật tu tiên, luyện đạo, nhiều chổ xem không hiểu nghĩa. Chàng thấy vu vơ không hợp với mình, không buồn để ý.
                      Lần khác, Bạch nói với chàng:
                      - Quyển sách tôi đưa cho anh hôm nọ, chính là con đường bất lão, nấc thang lên tên đó.
                      Chàng cười:
                      - Việc gấp của tôi không phải ở chỗ đó. Vả lại muốn được thành tiên, tất cả chấm dứt nhân duyên, để cho mọi điều tư tưởng đều tuyệt mới được. Khốn nhưng tôi còn có tật đa mang làm sao mà tu được?
                      - Xin hỏi vì cớ gì?
                      - Vì cớ phải lo sinh con nối dõi.
                      - Thế sao lớn tuổi vẫn chưa lấy vợ?
                      - Bởi tôi có tật hiếu sắc!
                      Chàng vừa nói vừa cười, Bạch cũng cười:
                      - Chỉ xin ông đừng hiếu cái sắc tầm thường nhé! Và muốn hỏi cái sắc ông biết ra thế nào?
                      Ngô đem hết câu chuyện Thái sử muốn gả con gái cho Bạch nghe.
                      Bạch ngờ cô ả của Thái sử chưa chắc thật là người đẹp. Chàng nói:
                      - Nhan sắc của Cát tiểu thư xa gần đều biết, chẳng phải là tôi hạ mình. Bạ ai cũng yêu được đâu.
                      Nói đoạn mỉm cười bỏ đi nơi khác.
                      Hôm sau bỗng dưng Bạch sửa soạn hành lý để đi. Chàng thấy vậy sinh buồn, cùng Bạch quyến luyến nói chuyện mãi chưa chịu thôi.
                      Bạch sai thằng nhỏ đội hành lý đi trước, mình còn nán lại cùng Ngô chuyện vãn từ biệt. Hai người bịn rịn không nỡ rời tay.
                      Chợt thấy con ve xanh kêu rít rít và đáp xuống bàn. Bạch nói:
                      - Ngựa xe tới rước rồi đó. Tôi xin giã từ ông từ đây. Nếu tưởng nhớ tôi thì quét chỗ giường tôi lên đó mà nằm sẽ thấy.
                      Chàng đang muốn hỏi han nhiều chuyện, nhưng trong chớp mắt Bạch đã thu hình nhỏ lại như ngón tay, ngồi lên lưng con ve mà bay lên không, biến vào trong mây.
                      Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ Bạch chẳng phải người thường, rồi đứng ngẩn ngơ nghĩ giây lâu, vẻ buồn hiện rõ lên mặt.
                      Mấy hôm sau, trời đêm mưa phùn, lòng càng tưởng nhớ họ Bạch, ngó lại giường thấy bụi trắng xóa chân chuột in tứ tung. Chàng thở than rồi lấy chổi quét dọn sạch sẽ, trải chiếu lên nằm ngủ liền.
                      Một lát sau thấy tiểu đồng của Bạch đến mời, chàng vui vẻ theo liền.
                      Vừa lúc đó có một con chim ngũ sắc bé nhỏ từ trên mây đậu xuống bên , tiểu đồng thưa:
                      - Đường tối đen khó đi, xin mời ông đỡ chân bằng con chim này.
                      Chàng lo chim bé nhỏ quá làm sao mang nổi. Tiểu đồng nói:
                      - Xin ông thử leo lên coi.
                      Chàng y lời leo lên mình chim. Té ra ngồi rộng rãi có thừa. Tiểu đồng bám ở khúc đuôi. Chim xòe cánh nghe một tiếng vù, cất mình lên không bay đi vùn vụt. Không bao lâu tới một cái cổng sơn đỏ. Tiểu đồng nhảy xuống trước, đỡ chàng xuống sau. Chàng hỏi đây là chỗ nào, tiểu đồng thưa:
                      - Thưa, đây là cửa trời!
                      Bên cửa có con cọp lớn nằm phục. Chàng sợ run. Tiểu đồng lấy mình che đỡ cho chàng khỏi sợ hãi.
                      Chàng nhìn phong cảnh, chỗ nào cũng lạ lùng tốt đẹp, khác hẳn thế gian.
                      Tiểu đồng dẫn chàng vào cung Quảng Hàn, bậc thềm đều lót bằng thủy tinh, người bước lên trên như đi lên tấm gương. Hàng bên hai cây quế cao ngất và ôm lấy nhau, mùi hoa theo gió thơm phức. Trong cung san sát những tòa nhà, trổ cửa sơn đỏ, thấp thoáng có mỹ nhân ra vào, người nào người ấy, xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp.
                      Tiểu đồng nói cho chàng biết rằng: ở cung Vương Mẫu con gái còn mỹ miều gấp trăm, nhưng nó sợ ông chủ đợi lâu cho nên không dám đưa chàng đi thơ thẩn xem người, ngoạn cảnh nhiều nơi, đành phải dắt chàng trở ra.
                      Một lát đi tới toà lầu đài kia, đã thấy Bạch đứng đón chàng ở ngoài cửa. Bạch nắm tay chàng cùng bước vào trong nhà. Chàng nhận thấy trước thềm có bãi cát trắng, suối nước trong nghe chảy rả rích. Khắp nhà dát ngọc sơn son, y như cung điện vua chúa.
                      Chủ với khách vừa ngồi xuống, liền có một cặp mỹ nữ bưng trà thơm ngát ra dùng. Kế đó Bạch sai người dọn rượu thì có bốn mỹ nhân khác bôn tẩu hầu hạ chung quanh. Đến vừa thấy trên lưng hơi ngứa, tức thời mỹ nhân thò tay vào áo mâm mê gãi dùm. Chàng thấy tấm thân khoan khoái lạ thường. Đến lúc hơi men ngà ngà, chàng không giữ vẻ nghiêm trang được nữa, cười cợt dòm liếc mỹ nhân, muốn kéo nàng lại nói nhỏ . Mỹ nhân mỉm cười và lánh đi.
                      Bạch truyền lệnh đàn hát để chuốc rượu, một nàng mặc áo sa bóng, bưng chén rượu đến trước mặt khách, rồi đứng tại đó, cất tiếng hát du dương, các mỹ nhân khác gõ xênh phách mà hát phụ họa theo, nghe rất nhịp nhàng réo rắc.
                      Qua lớp ấy, tới một cô áo xanh cũng chuốc rượu và hát. Còn một cô áo tím và cô áo trắng thì cười khúc khích, cô nọ khều cô kia, không ai chịu ra trước.
                      Bạch sai một cô mời một chén, hát một bài.
                      Cô áo tím bước tới bưng chén rượu mời khách. Chàng mượn cớ tiếp lấy chén rượu mà nắm cánh tay. Cô bật cười tuột tay, chén rượu nghiêng đổ xuống đất. Bạch rầy mắng. Cô lượm chén lên, miệng cố nhịn cười và cúi đầu nói khẽ:
                      - Da lạnh buốt như bàn tay ma, thế mà cố véo vào tay người ta đó!
                      Bạch cả cười, phạt nàng tự múa tự hát một mình. Múa hát xong tới phiên cô áo trắng tiến lên mời chàng một chén.
                      Chàng từ chối:
                      - Say quá rổi, uống không kham nổi!
                      Cô bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, chàng bèn gượng uống cạn chén cho cô vui lòng.
                      Nhìn kỹ bốn cô dấp dáng hay hay, không một cô nào mà chẳng kiều diễm tuyệt thế. Chàng nói với chủ nhân:
                      - Sắc đẹp trên đời, tôi đây mong có lấy một người mà còn khó khăn, sao ông tụ tập cả đám giai nhân mỹ sắc đến thế, liệu có sẵn lòng chia cho anh em hưởng với không nào?
                      Bạch ngó chàng cười và đáp:
                      - Sao! Tự ông đã có giai nhân trong tâm ý rồi mà. Lũ này đâu có xứng đáng lọt vào mắt xanh của ông?
                      Chàng phải thú thật:
                      - Hôm nay tôi mới tự biết sự thật của mình còn hẹp hòi quá.Bạch bèn gọi hết cả đám mỹ nhân đến trước để cho chàng tự chọn lấy.
                      Chàng thấy cô nào cũng đẹp thành ra phân vân, không thể tự quyết định. Bạch nghĩ cô áo tím đã có cái duyên khều véo cánh tay, liền sai cô sửa soạn chăn gối để hầu khách hôm nay.
                      Cố nhiên đầu gối tay ấp, hết sức yêu đương không cần phải nói. Chàng đòi tặng món chi làm kỷ niệm, nàng tháo ngay chiếc xuyến cho chàng.
                      Giữa lúc đó tiểu đồng chạy vào nói:
                      - Tiên phàm khác nhau, ở lâu không tiện, vậy xin mời ông đi ngay.
                      Nàng vội vàng trỗi dậy đi mất. Chàng hỏi ông chủ đâu. Tiểu đồng nói:
                      - ông chủ tôi đi chầu Ngọc Hoàng. Lúc ra đi có dặn tôi lo việc tiễn khách về trần.
                      Chàng buồn bã theo chân ra đi, lại noi theo đưòng lối cũ. Gần ra tới cổng ngoài, quay lại ngó tiểu đồng, thì nó đã biến đi từ lúc nào. Con cọp gầm thét chồm lên. Chàng sợ hãi cắm đầu chạy trông xuống dưới thăm thẳm mù khơi, chẳng biết đâu là đâu, nhưng hai chân đã lỡ rơi tuột xuống rồi. Chừng đó kinh hồn tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng.
                      Lúc sắp đứng lên, có một vật rớt xuống nhẹ nhàng xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc vòng. Chàng càng lấy làm lạ.
                      Từ đó, ý nghĩ lúc trước thành ra nguội lạnh, thường muốn đi tìm ông Xích Tùng Tử để học đạo tu tiên, nhưng còn lo về nỗi không có con để nối dõi tông đường.
                      Cách hơn mười tháng, một hôm chàng đang ngủ say giữa ban ngày, mộng thấy cô áo tím ở ngoài đi vào tay ẳm đứa con nhỏ và nói:
                      - Xương máu của chàng đây. Trên trời không giữ vật này đặng, vậy nay tôi đem xuống trả cho anh.
                      Nói đoạn cô đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vai áo chàng mà đắp cho nó rồi vội vàng muốn đi. Chàng kéo lại đòi giao hoan. Cô áo tím nói:
                      - Chuyến trước là động phòng, chuyến này là vĩnh quyết vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí thì , may ra còn có lúc ta lại được gặp nhau.
                      Chàng tỉnh ngủ, mở mắt ra quả thấy đứa hài nhi nằm trên giường liền ôm vào trong nhà nói với bà mẹ.
                      Bà thấy được cháu rất mừng, tìm vú nuôi, đặt tên là Mộng Tiên.
                      Bấy giờ chàng sai người đến nhà ông Thái sử, báo tin cho ông hay rằng chàng sử soạn đi ẩn, vậy xin ông lo kén rể khác cho tiểu thư.
                      Nàng nói:
                      - Xa gần chẳng ai không biết rằng con hứa làm vợ họ Ngô lang rồi. Bây giờ thay đổi thế là hai chồng còn gì?
                      Thái sử đem ý chí đó ra ngăn bảo chàng. Chàng vẫn khăng khăng một mực:
                      - Ngày nay chẳng những tôi không có chí về công danh, lại tuyệt tình về đường gia thất nữa. Nên tôi chưa bỏ nhà vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi.
                      Thái sử lại bàn soạn với con gái, nàng ta trả lời:
                      - Ngô lang nghèo con cam sống với rau muối Ngô lang đi con xin thờ bà mẹ chồng, nhất định con không lấy người nào khác đâu.
                      Sứ giả lại đi thương thuyết đôi ba phen, đều không xong việc. Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe ngựa chở tư trang và đưa tiểu thư về nhà chồng.
                      Chàng cảm là người hiền đức, hết lòng kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất hiếu, nâng niu hầu hạ còn hơn gái nhà nghèo.
                      Qua hai năm bà mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang để lo liệu ma chay đủ lễ. Chàng nói:
                      - Tôi được người vợ hiền như nàng, còn lo gì. Nhưng nghĩ đến xưa kia một người đắc đạo, cả nhà cùng theo gót lên tiên, còn tôi ngày nay sắp sửa đi xa mà nàng ở lại, trăm ngàn công việc đều phó thác cho nàng hết thảy.
                      Nàng thản nhiên không có ý bịn rịn chút nào.
                      Thế rồi chàng bỏ nhà ra đi.
                      Nàng ở nhà, ngoài việc đồng áng ra, trông dạy nuôi con, đâu đó ngăn nắp. Mộng Tiên dần dà khôn lớn, tính chất rất thông minh, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng và đậu thi hương, mười lăm tuổi vào hàn lâm. Thường khi triều đình hỏi thăm cha mẹ để phong tặng cho nhưng Mộng Tiên không biết tên họ của mẹ đẻ là gì, chỉ khai một mình Cát mẫu mà thôi.
                      Đến ngày sinh nhật cha, Mộng Tiên hỏi Cát mẫu chỗ ở của cha nơi nào. Cát mẫu nói rõ sự thật, Mộng Tiên muốn treo ấn từ quan để đi tìm cha, nhưng bà mẹ gạt đi:
                      - Cha con bỏ nhà vào núi đã ngoài mười năm, có lẽ nay đã lên tiên rồi, con biết chỗ nào mà tìm.
                      Sau có dịp, Mộng Tiên dâng chỉ nhà vua sai đi tế núi Nam Nhạc, chẳng may giữa đường gặp cướp, trong xe lúc nguy cấp, thấy một đạo sĩ xách gươm xông vào đánh cướp, cướp thua chạy tán loạn. Nhờ vậy Mộng Tiên được giải vây, cảm ơn đạo sĩ, muốn tặng tiền bạc nhưng đạo sĩ không lấy, chỉ đưa ra một phong thư và căn dặnL
                      - Bần đạo có một ông bạn cũ cìng làng với quan lớn, vậy xin dám nhờ quan lớn thay lời hỏi thăm hộ.
                      - Nhưng bạn cũ của ông tên họ là gì?
                      Thưa tên Vương Lâm!
                      Mộng Tiên nhớ kỹ trong làng không có ai tên ấy. Đạo sĩ nói:
                      - Hắn ta con nhà hàn vi nên quan lớn không biết đó thôi.
                      Lúc giã từ đưa ra một chiếc vòng vàng nói tiếp:
                      -Đây là món đồ khuê các, bần đạo lượm được, cũng chẳng biết dùng làm gì, vậy xin biếu ngài luôn dịp.
                      Mộng Tiên cầm lấy xem, thấy chạm trổ tuyệt khéo, đem về trao cho phu nhân.
                      Phu nhân sai thợ khéo cứ y mẫu cũ mà làm một chiếc nữa, nhưng nét tinh xảo vẫn kém ca. Lại dò hỏi khắp trong làng, chẳng ai có tên là Vương Lâm. Bấy giờ Mộng Tiên mới lén mở phong thư của ong đạo sĩ ra xem, phía trên có viết mấy hàng chữ như sau:
                      Ba năm loan phượng
                      Phân cách tới nay
                      Nuôi con chôn mẹ
                      Nhờ nàng một tay
                      Lâý gì báo đức
                      Tặng hoàng thuốc này
                      Mở ra uốnc xong
                      Lên tiên có ngày.
                      Sau chót là chữ: Kính gửi Lâm nương phu nhân!
                      Mộng Tiên đọc không hiểu là ai, liền đưa trình Cát mẫu. Cát mẫu xem thư khoc sướt mướt:
                      - Đây là thư của cha con gửi về cho ta. Lâm là tên chữ của ta đó!
                      Bấy giờ mới hiểu ra tên Vương Lâm là tên Cát mâẫ hồi nhỏ.
                      Mộng Tiên ân hận than tiếc mãi, vì chính mình đã gặp cha mà không ngờ. Chàng lại đưa vòng cho Cát mẫu xem. Bà nói:
                      - Vật kỷ niệm mẹ đẻ con đó. Hồi cha con ở nhà thường lấy ra, ta xem rồi.
                      Xem tới hoàn thuốc, thấy nhỏ bằng hạt đậu, Mộng Tiên mừng nói:
                      - Cha đã thành tiên, ngài cho hoàn thuốc này mẹ ta ăn hẳn trường sinh bất lão.
                      Nhưng Cát mẫu còn để dành, chưa muốn ăn vội, bèn gói cất đi. Gặp lúc quan Thái sử qua thăm, bà đọc bức Ngô lang cho cụ nghe, nhân dịp mang hoàn thuốc ra tặng cụ.
                      Thái sử cắt ra làm hai , mỗi người ăn một nửa, trong giây lát đã thấy tinh thần thay đổi mạnh mẽ. Lúc ấy thái sử đã gần thất tuần, mắt mờ sức yếu lắm rồi. Thế mà vừa ăn nửa hoàn thuốc vào, bỗng thấy gân sức khỏe ra đến nỗi b65n về, bỏ xe đi bộ mà đi rất mau gia nhân theo mướt mồ hôi mới kịp.
                      Năm sau do thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không ngớt. Cả nhà Mộng Tiên lo sợ, đêm không dám ngủ, tụ tập quây quần giữa sân, thấy lửa cháy lan, gần đến lối xóm. Cả nhà luýnh huýnh, chẳng biết làm thế nào.
                      Bỗng chiếc vòng vàng ở tay phu nhân nghe đánh vụt một tiếng, cất nhẹ bay đi. Trông lên thấy nó to lớn bằng mấy mẫu ruộng, úp quanh lên nhà, hình như vầng nguyệt, miệng vòng thì hướng về phí Đông Nam, ai nấy đều thấy rõ ràng, hết sức kinh ngạc.
                      Một lát lửa cháy từ phía tây lan tới chiếc vòng thì tạt qua hướng Đông. Tới khi lửa dịu dần, mọi người thầm nghĩ chiếc vòng chắc mất, không lâý lại được, tự dưng ngọn lửa vừa ngớt, thì chiếc vòng rơi xuống dưới chân nghe có tiếng kêu.
                      Trận hỏa hoạn này đốt hết mấy muôn căn nhà, trước sau tả hữu đề ra tro, chỉ có nhà họ Ngô không can gì, trừ ra một lầu nhỏ ở phía Nam bị đốt tức là nơi miệng vòng để hở vậy.
                      Cát mẫu ngoài năm mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp như người mới độ hai mươi.



                      ST
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #71
                        HỒ HAY ĐÙA ( Hồ hài)

                        Vạn Phúc - tự Tử Đường, người Bắc Hưng thuở nhỏ đã theo đòi nghiệp nho, của nả không có gì lắm mà vận lại chậm, đã hai mươi có lẻ mà vẫn chưa giật được mảnh tú tài. Theo lệ tục hương thôn lúc ấy, nhiều người bị khoác chức trưởng lý đến nỗi khuynh gia bại sản. Vạn bị ép sung chức ấy, sợ quá bỏ trốn đến Tế Nam, thuê quán trọ ở.
                        Ban đêm có cô gái lần tới, nhan sắc cũng khá. Vạn vừa lòng, cùng nhau tư tình. Hỏi họ tên, cô ta đáp:
                        - Thú thực tôi là hồ ly, nhưng không làm hại anh đâu.
                        Van mạùng, không nghi ngờ gì cả. Cô gái còn dặn Vạn chớ ở chung với ai, hàng ngày cô sẽ tới cùng ăn nằm một giường. Thế là từ đấy mọi chi phí hàng ngày của Vạn đều do cô ta cung cấp.
                        Được ít lâu, vài ba người quen biết đến thăm hỏi, rồi ở lì cả đêm không về. Vạn ớn họ quá, song không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thực. Khác ngỏ ý muốn được chiêm ngưỡng dung nhan người đẹp, Vạn nói thẳng với Hồ nữ. Hồ bảo khách:
                        - Xem tôi làm gì? Tôi cũng như mọi người vậy thôi! Nghe tiếng nói thỏ thẻ cứ như ở trước mặt, nhìn khắp bốn chung quanh lại chẳng thấy đâu.
                        Khách có người tên là Tôn Đắc Ngôn vốn giỏi khôi hài cố ý xin gặp mặt. Anh ta năn nỉ:
                        - Được nghe giọng oanh, hay bay phách lạc. Còn giấu dung nhan làm gì khiến người mới nghe tiếng đồn mà lăn ốm tương tư.
                        Hồ cười đáp:
                        - Cháu hiền muốn vì bà cụ tổ họa bức hình hành lạc ( bức họa về những biểu hiện khoái lạc, những động tác trong tình dục) chăng?
                        Khách có mặt lại cười. Hồ lại nói:
                        - Tôi là hồ, xin vì khách kể chuyện hồ, khách có vui lòng nghe không?
                        Mọi người đều vân dạ, hưởng ứng. Hồ kể:
                        - Xưa ở lữ quán nọ có nhiều hồ lắm, thường hiện hình làm hại khách. Khách qua lại biết, rỉ nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán tiêu điều, chủ nhân lo quá, rất kiêng nói đến Hồ. Bỗng có một khách phương xa, tự xưng là người nước ngoài, đến cửa quán ấy thì dừng lại nghỉ. Chủ nhân đon đả rước vào. Lập tức có người đi đường mách kín với khách: nhà ấy có Hồ đấy! Khách sợ, nói thẳng với củ nhân rồi định bỏ đi nơi khác. Chủ nhân ra sức biện bạch, đó là lời nói bậy. Khách ở lại, vào nhà,, vừa ngã lưng đã thấy đàn chuột rút rích dưới gầm giường. Khách sợ quá, chạy bổ ra đường, hét tướng lên: “Có hồ!” Chủ nhânn hoảng hỏi sự tình, khách oán trách:
                        - Tổ Hồ ở đây, sao nói dối ta không có?
                        Chủ nhân lại hỏi: “Hình thù nó thế nào?” Khách đáp:
                        “Ta nay mới thấy, nó nho nhỏ, không phải là Hồ con tất là Hồ cháu”.
                        Hồ kể xong, tất cả khách trong nhà đều không nhịn được cười. Tôn lại dọa:
                        - Nếu không cho xem mặt, bọn tôi ngủ lại; cũng xin ai đó đừng bỏ đi, bỏ lỡ cuộc hẹn đợi mây mưa.
                        Hồ lại cười:
                        - Các ông cứ nghỉ lại, không sao. Nếu có làm điều gì ngỗ nghịch một tý, xin các ông chớ có trệ bụng ra thôi. Khách sợ bị cợt nhã quá đáng, đều cùng nhau chia tay ra về.
                        Sau đó, cứ vài ngày họ lại đến, quần tụ, đòi Hồ trêu cợt. Hồ khôi hài thậm giỏi, hễ cất tiếng là khách cười ngả cười nghiêng, đến ngay những người có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người gọi đùa nàng là “Hồ nương tử”.
                        Một hôm, bày rượu tụ hội vui mừng. Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai khách nữa chia ngôi tả hữu. Còn đặt một cái giường để mời Hồ, Hồ kiếu từ vì không hay rượu. Tất cả đều mời Hồ cùng ngồi nói chuyện, Hồ nhận. Rượu được vài tuần, khách bày trò ném súc dắc làm tửu lệnh “qua man” ( dây dưa). Khách trúng màu dưa, phải uống rượu, liền đùa nâng chén đưa lên giường nói:
                        - Hồ nương tử, bậc đại tinh, xin tạm cạn một chén.
                        Hồ cười:
                        - Tôi vốn không uống, xin kể một câu chuyện để góp vui cho cuộc rượu.
                        Tôn đã bị nhiều vố, nên bịt tai lại ra vẻ không muốn nghe. Những người khác đều đồng thanh:
                        - Nếu còn trêu chọc người thì phải phạt.
                        Hồ cười:
                        - Nếu tôi trêu chọc Hồ thì sao?
                        Tất cả đáp “được”, rồi cùng nhau giỏng tay nghe. Hồ kể:
                        - Ngày xửa ngày xưa có một bậc đại thần đi sứ nước Hồng Mao (chỉ nước Anh hoặc Hà Lan) đội mũ lông hồ, vào yết kiến quốc vương nước ấy. Vua trông thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dầy vừa mềm như thế? Quam đaị thần thưa: lông hồ. Quốc vương bảo: Bình sinh ta chưa được nghe nói tới, tự dạng chữ “hồ” như thế nào. Vị đại thần lấy tay vạch lên không tâu rằng: bên phải là chữ “qua” lớn, bên trái là chữ “khuyển” nhỏ (1). Thế là chủ kah1ch cười ầm cả nhà.
                        Trong số ba người khách, ngoài Tôn ra, có hai anh em họ Trần một người tên Sở Kiến, một người tên Sở Văn. Họ thấy Tôn bị hố nhiều quá, liền nói chọc Hồ:
                        - Hồ đực đi đâu mà để Hồ cái ác hại thế này?
                        Hồ nói thêm:
                        - Ấy, câu chuyện còn chưa hết thì đã bị sủa loạn lên, giờ xin kể tiếp. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, cũng lấy làm lạ. Sứ thần thưa rằng: con này do con ngựa đẻ ra. Vương lại càng lạ lắm. Sứ thần giải thích: Ở Trung Quốc chúng tôi, con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai. Vương hỏi rõ hình dáng chúng. Sứ thần đáp: Ngựa đẻ la đó là Thần Sở Kiến; la đẻ ra ngựa choai đó là Thần Sở Văn (chú ý tên hai ông khách họ Trần là Sở Kiến và Sở Văn).
                        Cử tọa lại cười ầm ĩ.
                        Họ cho là không thể địch nổi mồm mép Hồ nữ. liền giao hẹn đây nếu ai khơi ra chuyện ngạo ngược nữa thì phạt làm chủ rượu, phải bỏ tiền khao.
                        Lát sau, rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Văn:
                        - Tôi có vế đối, thách các vị đối.
                        Hỏi như thế nào, Tôn đọc:
                        - “Kỹ giả xuất môn phỏng tình nhân, lai thời: vạn phúc, khứ thời: vạn phúc (2).
                        Mọi người trên bàn rượu nghĩ mãi không ai đối được. Hồ lúc ấy mới khẽ cười:
                        - Tôi có câu đây.
                        Mọi người lắng tai nghe. Đọc:
                        - “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn. (3)
                        Mọi người lại cười rũ ra. Tôn giận lắm, trách Hồ:
                        - Đã giao hẹn thế, sao còn dám phạm.
                        Hồ cười dàn hòa:
                        - Đúng là tôi có lỗi, song nếu không thế thì không thể đối cho sát được. Sớm mai xin đặc tiệc để chuộc lỗi.
                        Mọi người cười xòa ra về.
                        Hồ khôi hài như thế, không thể kể hết được. Ở với nhau được vài tháng. Hồ cùng với Vạn về quê. đến địa giới Bắc Hưng, Hồ bảo với Vạn:
                        - Ở đây tôi có người bà con xa, đã lâu không qua lại, không thể không vào thăm hỏi. Trời cũng đã tối, ta cùng vào nghỉ, đợi sáng mai lại đi.
                        Vạn hỏi ở khoảng nào? Hồ nói:
                        - Không còn xa nữa.
                        Vạn ngờ ngợ, trước đây chốn này làm gì có làng mạc nào, song cứ đi theo. Qua hai dặm đường quả thấy một trang trại mà Vạn chưa bao giờ đến. Hồ gõ cổn, một người hầu ra mở cửa. Vào trong thì cửa tiếp cửa, gác nối gác, ra dáng là cảnh thế gia. Lúc sau, chủ nhân ra, hai ông bà lão, bái Vạn mời ngồi bày tiệc linh đình, khoản đãi như họ hàng thân thích. Hai người nghỉ lại đấy.
                        Sáng sớm hôm sau, Hồ bảo Vạn:
                        - Tôi về ngay cùng với anh, sợ đột ngột cho mọi người. Anh cứ về trước, tôi đi tiếp sau.
                        Vạn theo lời, về nhà trước nói rõ với gia nhân. Lát sau Hồ cũng tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ, song không nhìn thấy người.
                        Năm sau, Vạn lại có việc đi Tế, Hồ cùng đi. Bỗng có mấy người tới, Hồ đi theo hàn huyên mọi nỗi. Sau đó Hồ nói với Vạn:
                        - Tôi vốn gốc ở Thiểm Trung, cùng chàng có mối túc duyên cho nên theo chàng gả ngã bấy lâu. Nay anh em tôi đã đến, tôi sẽ theo về, không thể ở chung vui trọn đời.
                        Vạn cố sức lưu lại không được.

                        NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
                        (1)Theo tự dạng chữ Hán, chữ “hồ” (狐) gồm có hai chữ “qua” (瓜) và “khuyển” (犭) . Trong truyện, trò tửu lệnh này gọi là “qua man”: khách ngồi bên phải vừa bắt phải “màu dưa” (qua) còn khách ngồi bên trái bị ám chỉ là khuyển. Hồ lanh trí chơi chữ xỏ khách.
                        (2) nghĩa là: kỳ nữ ra khỏi nhà thăm tình nhân , lúc đến chữa “vạn phúc”l úc đi chữ “vạn phúc”. Vạn phúc: lời chào hỏi chúc tụng.
                        (3) chơi chữ, nghĩa là: long vương hạ chiếu cầu lời nói thẳng, ba ba cũng được, ruà cũng được. Chỗ hay và ẩn ý của câu này ở chỗ chữ “miết” (鼈) dùng nghĩa đen là con ba ba, “quy” (龜)là con rùa, thì có thể hiểu như trên. Song hai chữ ấy đối với vế trên được dùng như một động từ (đối với lai và khứ) thì lại có nghĩa khác: quy là thả rông cho vợ con đi lang chạ.


                        ST
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #72
                          Chuyện Lạ Chim câu (Cáp Dị) -

                          Chim bồ câu rất nhiều giống: đất Tấn có Khôn Tinh, đất Lỗ có Hạc Tú, đất Kiềm có Dịch Diệp, đất Dương có Khiêu, đất Việt có Chư Tiêm, đều là những giống lạ. Lại còn có Hài Đầu, Điềm Tử, Đại Bạch, Hắc Thạch, Phu Phụ tước, Hoa Cẫu Nhỡn. Bấm đốt ngón tay không kể hết, duy chỏ những lẻ hiếu sự mới có thể làm được.
                          Công tử Trương Công Lượng đất Châu Bình rất thích chim câu, cứ theo sách Kinh (chỉ sách Cáp Tử kinh thời cổ đại TQ chuyên bàn về việc nuôi chim bồ câu) mà tìm, Cầu có được đủ các chủng loại. Có con nào Trương chăm chút y như trẻ thơ: bị bệnh lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, bệnh nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ, nhưng ngủ quá thì mắc bệnh bại liệt. Hồi ở Quảng Lăng, Trương mua một con mười đồng vàng, mình rất nhỏ, chạy rất nhanh, thả trên mặt đất nó cứ chạy loanh quanh không biết bao giờ, kỳ đến mệt lăn ra chết mới thôi, cho nên phải có người bắt giữ. Ban đêm Trương bỏ vào trong đàn chim, nó chạy lung tung làm cho các con khác giật mình không ngủ được, để tránh cho chúng bị bại liệt. Vì thế chim ấy có tên là Dạ Du. Kể thế, những nhà nuôi chim đất Tề, đất Lỗ cũng kém tài. Mà công tử cũng lấy việc nuôi chim câu để tự khoe một chút.
                          Một hôm công tử đang ngồi ở thư phòng, bỗng một trang thiếu niên mặc áo trắng gõ cửa bước vào. Hai người không biết nhau, công tử hỏi, chàng ta đáp:
                          - Con người phiêu bạt, tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe tin đồn công tử nuôi bồ câu được lắm. Bình sanh tôi cũng ưa thích thứ ấy, xin được cho xem.
                          Trương liền đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như gấm mây. Chàng thiếu niên cười mà rằng:
                          - Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Tôi cũng có mang theo một hai con, công tử có muốn xem không?
                          Trương mừng quá, theo người thiếu niên đi. Đêm ấy ánh trăng mờ ảo, đồng không mông quạnh, đi thì đi, trong lòng Trương đã thầm ngờ sợ. Thiếu niên vừa chỉ vừa nói:
                          - Xin gắng đi chút nữa, nơi tôi ngụ không còn xa nữa.
                          Đi thêm mấy bước nữa đã tới một ngôi nhà hai gian. Thiếu niên dắt tay đi vào. Trong nhà không ánh đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù. Bỗng có một đôi chim tầm cỡ như chim thường lông trắng tuyền bay ra ngang tầm mái hiên, vừa gù vừa chọi.Thiếu niên xua tay, hai con nối cánh bay vào chuồng.
                          Thiếu niên lại chúm miệng gù cách khác. Lại có hai con khác bay ra- con lớn như con lae, con bé bằng nắm tay- đậu trên thềm biểu diễn điệu hạt múa. Con lớn đứng vươn cổ, xoè cánh như hai cánh bình phong, vừa gù vừa nhảy rất uyển chuyển, dường như để khơi dẫn. Con nhỏ vừa gù vừa bay lên bay xuống đậu trên đầu con lớn vẫn đang giương cổ không động cựa cánh chấp chới như tiếng chim yến lạc vào đám lác. Tiếng kêu nhỏ như tiếng trống bỏi, tiếng con lớn lại y như tiếng khánh, đan hòa nhau như một dàn nhạc. Rồi chim nhỏ bay lên, con lớn cứ lắc lư như chào gọi vậy.
                          Công tử nhìn quang cảnh ấy, cứ khen ngợi mãi không thôi. Tự chỉ thấy mình chỉ là ếch ngồi đáy giếng, đáng xấu hổ bèn vái chàng thiếu niên, xin chia sẻ niềm yêu thích. Thiếu niên không nghe, lại cố gắng xin, lúc ấy thiếu niên mới gù gọi đôi chim trắng ra, bắt lấy đưa cho Trương, nói:
                          - Nếu công tử không ghét bỏ, tôi xin biếu đôi này.
                          Trương nhận lấy, ngắm nghía: đôi mắt tròn như hạt hồ tiêu, phản chiếu ánh trăng lóng lánh màu hổ phách như trong sưốt; mở đôi cánh ra da thịt nó mỏng tanh trong vắt như có thể nhìn rõ tim ruột. Trương rất lấy làm lạ, mà ý chưa cho là đủ, còn nài nỉ xin nữa. Thiếu niên miễn cưỡng bảo:
                          - Hãy còn hai đôi chưa đưa trình, nay không dám mời xem nữa.
                          Còn đang chuyện trò đàm đạo thì người nhà Trương đốt đuốc đi tìm chủ nhân. Trương vừa quay đi, chàng thiếu niên đã hóa thành bồ câu trắng, to như con gà, bay vút lên trời, đi đâu không rõ. Nhà cửa vừa trước mắt biến đâu mất mà chỉ còn một ngôi mộ có hai cây bách trồng bên. Trương vội cùng gia nhân ôm đôi chim về. Về đến nhà, thử cho bay, chim vẫn thuần và lạ như trước. Tuy chưa phải là cực hay, song trên đời cũng hiếm. Do vậy, Trương càng yêu quý.
                          Qua hai năm, chim đẻ được ba con cả trống lẫn mái. Những người thân thích nài nĩ cầu xin đều không được. Có ông Mỗ là bạn cha, là bậc quan sang, một hôm gặp công tử hỏi:
                          - Thế nào, nuôi chim câu có nhiều không?
                          Công tử chỉ dạ dạ rồi cáo lui, trong bụng chắc ông ta cũng thích, chàng cũng muốn làm vừa lòng ông ta song dứt ruột chia sẻ niềm yêu thương của mình thấy khó. Lại nghĩ: sự đòi hỏi của bề trên không thể làm ngơ được. Lại không dám đưa chim thường, cho nên phải chọn hai con tuyết trắng bo vào lồng mang biếu, đinh ninh rằng quà quý ngàn vàng không sánh được.
                          Ngày khác lại gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý về món quà tặng vừa rồi, song ông ta không mảy may ngỏ lời cảm ơn. Trương không ghìm được lòng hỏi ngay:
                          - Đôi chim hôm trước có tốt không ạ?
                          Đáp:
                          - Cũng béo ngon.
                          Trương hoảng lên:
                          - Thưa đa mổ thịt rồi à?
                          Ông Mỗ đáp một cách thản nhiên:
                          - Ừ!
                          Trương cả kinh thưa lại:
                          - Đó là loại chim cực quý, thường được gọi là Thát dát đấy ạ!
                          Ông Mỗ mơ màng như cố nhớ lại, thủng thẳng đáp:
                          - Thịt cũng không khác chim thường mấy.
                          Trương ôm hận ra về.
                          Đến tối Trương mộng thấy người thiếu niên áo trắng đến trách:
                          - Tôi thấy công tử có lòng yêu thương nên gởi con gởi cháu. Sao lại nỡ lòng đem châu báu vứt vào nơi đen tối để đến nỗi chịu nạn thớt đao? Nay tôi phải đưa hết con cái đi.
                          Nói rồi hóa thành bồ câu, tất cả các loại câu trắng đều bay đi theo. Trời sáng công tử xem lại chuồng, quả là chúng bay đi hết. Trương vô cùng ân hận, đem tất cả chim nuôi đưa tặng bạn tri giao. Mấy ngày thì hết sạch.
                          NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


                          ST
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #73
                            Người Nuôi Rắn ( Xà nhân) - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

                            Nhà Mỗ ở Đông Quận, sinh sống bằng nghề nuôi rắn làm trò. Có hai con đã thuần, cả hai đều màu xanh. Con lớn đặt tên là Đại Thanh, con nhỏ đặt là Nhị Thanh. Con Nhị Thanh trán có một cái chấm đỏ, thuần hơn. Anh ta đặc biệt yêu quý chúng hơn các con khác.
                            Năm ấy rắn Đại Thanh chết. Anh ta muốn thay bằng con khác nhưng chưa gặp dịp. Tối ây, anh ta ở trọ ở một ngôi chùa trong núi. Sáng ra mở giỏ rắn thì Nhị Thanh đã biến đâu mát. Anh ta buồn tưởng chết, vội vàng đi gọi, tim khắp các gốc cây bụi cỏ nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu vết đâu. Anh ta đành phải quay về ngồi đợi, bụng vẫn mong ngóng nó sẽ tự tìm về.
                            Mặt trời lên cao, anh ta tuyệt vong, đành nhẽ rầu rĩ khăn gói lên đường. Mới được ít bước, bỗng có tiếng loạt xoạt trong bụi cây, vội ngừng lại nghiêng ngó dõi theo thì thấy Nhị Thanh đang trườn tới. Anh ta mùng quá như tìm lại được vàng, vội dừng lại, đứng đợi ở góc đường. Rắn cũng ngừng lại, phía sau có một chú rắn nhỏ đi theo. Anh ta vỗ về Nhị Thanh:
                            -Tao tưởng mày đã bỏ tao đi rồi? Nay còn dẫn thêm bạn nhỏ về nữa ư?
                            Rồi vội đem mồi cho ăn, cho cả con nhỏ nữa. Chú rắn tuy không bỏ đi nhưng còn có vẻ ngần ngừ không dám ăn. Nhị Thanh ngậm mồi mớm cho, y như chủ nhân tiếp khách vậy.
                            Người nuôi rắn cũng tiếp mồi thêm chưa. Bấy giờ rắn con mới ăn tự nhiên, ăn xong theo Nhị Thanh bò vào trong giỏ.
                            Người nuôi rắn đem dạy rắn con vào khuôn khép ngay không khác gì Nhị Thanh lắm. Anh ta đặt tên cho nó là Tiểu Thanh, rồi mang cả đi biểu diễn tư phương, thu tiền vô kể.
                            Đại khái người biểu diễn rắn chỉ dùng rắn dài độ bốn gang, dà quá thì nặng phải thay con khác. Con Nhị Thanh đã đến độ phải thay, song chỉ vì nó hay quá, thành thử chưa muốn thay ngay mà còn lưu dùng hai ba năm nữa. Đến khi nó dài đến sáu bảy gang nằm chật đầy giỏ, anh ta buộc phải thay. Đến đất Tuy ở Sơn Đông, anh ta cho Nhị Thanh ăn mồi ngon, vỗ về chúc tụng nói rồi thả ra. Nó đã bò đi, chốc lát quay lại, cứ lượn quanh ngoài giỏ. Người nuôi rắn vẫy tay ra hiệu:
                            - Đi đi! Trên đời này làm gì có tiệc vui sum họp trăm năm chưa tan. Từ nay mày vào ẩn trong hang lớn, thế nào cũng hóa thành thần long. Còn cái giỏ chật hẹp này mày sao có thể ở mãi được?
                            Dường như nghe hiểu ý vậy, lần này con rắn bò đi hẳn. Mỗ đưa mắt nhìn tiễn.
                            Thế rồi rắn lại quay trở lại. Mỗ vẫy tay ra hiệu cho nó đi, nó vẫn không đi, cứ lấy đầu cạ vào cái giỏ. Tiểu Thanh ở bên trong cũng động cựa soàn soạt. Lúc ấy Mỗ mới hiểu, bảo rằng:
                            - Có phải mày quay lại từ biệt Tiểu Thanh chăng?
                            Nói đoạn mở giỏ cho Tiểu Thanh ra. Hai con đầu quấn lấy nhau, lưỡi thè lè như muốn nói với nhau điều gì đó. Rồi hai con cùng bò đi. Mỗ đang còn ngỡ Tiểu Thanh không trở về nữa, nhưng chỉ một lát nó đã ngoằn ngoèo bò về một mình, rúc vào trong giỏ nằm.
                            Từ đó, công việc của Mỗ không lấy gì làm tốt. Tiểu Thanh cũng to dần ra không biểu diễn được nữa. Sau Mỗ kiếm một con cũng thuần, song không sao bằng Tiểu Thanh.
                            Lại nói Nhị Thanh vào trong núi, những người đi lấy củi thường gặp. Vài năm sau, nó dài đến mấy chục gang, khoang mình như cái miệng bát, thường hay xông ra phi đuổi người. Bởi vậy những người hay qua lại đấy mách nhau, sợ không dám ra đường.
                            Một hôm, Mỗ đi qua nơi ấy, rắn quăng mình như gió lao theo. Anh sợ quá bỏ chạy. Rắn đuổi theo rất gấp, sát tận chân. Anh ta quay nhìn lại thấy trán rắn có nốt đỏ mới nhận ra Nhị Thanh, liền hạ gánh xuống gọi: “Nhị Thanh! Nhị Thanh!” Rắn dừng lại, nghiển đầu hồi lâu rồi quăng mình quấn lấy chân Mỗ như diễn trò hồi nào vậy. Mỗ biết rắn không có gì làm hại, nhưng vì nó to quá, anh ta không chịu được sức nó quấn nên ngã vật xuống, kêu lên. Lúc ấy rắn mới buông ra, lấy đầu cọ cọ vào giỏ. Mỗ hiểu ý, mở giỏ thả Tiểu Thanh ra. Hai con vật quấn lấy nhau hồi lâu mới rời.
                            Mỗ thấy thế, liền chúc Tiểu Thanh:
                            - Tao đã có ý định thả mày lâu rồi. Nay thế là có bạn nhé!
                            Quay lại Nhị Thanh, anh ta bảo:
                            - Trước mày dẫn nó về, nay mày hãy dẫn nó đi.
                            Rồi cùng dặn cả hai:
                            - Núi sâu không thiếu mồi, chớ quấy người dọc đường.
                            Hai con rắn cùng cúi đầu như tỏ ý vâng lời. Rồi con lớn trước con bé sau, bò vào rừng. Người nuôi rắn đứng sừng sững nhìn theo cho đến khi cúng khuất hẳn.
                            Từ đó người qua lại đường ấy được yên ổn, không gặp rắn đuổi.
                            NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


                            ST
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #74
                              Nước Dạ Xoa ( Dạ Xoa Quốc) - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

                              Có người họ Từ ở đấ Giao Châu, vượt biển đi buôn bị bão thổi bạt thuyền vào một xứ núi cao, rừng rậm. Trông chừng nơi đây có người ở, anh ta buộc thuyền lại, đem theo lương khô rồi lên bờ.
                              Vừa đi một đoạn đã thấy hai bên núi đều có hang động, dầy đặc như lổ tổ ong, ở trong âm âm nghe có tiếng người. Dừng chân đứng ngoài cửa hang nhòm vào, thấy có hai tên dạ xoa răng tua tủa, mắt đỏ đòng đọc như ngọn đèn, đang lấy móng vuốt xé thịt hươu sống ăn. Anh ta hồn bay phách lạc vội ngoắt ra thì bọn dạ xoa đã nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt người. Hai dạ xoa trao đổi với nhau, tiếng như tiếng chim, tiếng thú. Chúng xé toan quần áo Từ, có ý muốn ăn tươi. Từ sợ quá, vội lấy lương khô, cùng thịt trâu khô trong đãy ra đưa cho chúng. Chúng chia nhau ăn ngon lành lắm. Quen mùi chúng lại lục đãy. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa có vẻ bực tức, lại túm lấy Từ, Từ kêu van:
                              - Xin tha cho, trong thuyền tôi có nhiều nồi niêu, có thể nấu nướng được.
                              Da xoa không hiểu gì lại càng tức, Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiều, chịu theo Từ ra thuyền. Từ đem đồ đạc vào trong hang, bắc củi nhóm lửa nấu số thịt hươu còn lại rồi đua cho lũ dạ xoa ăn. Chúng mừng rỡ chén ngay. Đêm xuống chúng vần đá lớn lấp cửa hang, chúng sợ Từ trốn. Từ nằm co quắp ngoài xa, trong bụng chỉ sợ phen này tất chết.
                              Sáng ra, chúng lấp chặt cửa hoang rồi đi. Một lát, chúng mang về một con hươu giao cho Từ. Từ lột da, lấy nước ở cuối hang, luộc thịt làm mấy nồi. Lát sau, một bầy dạ xoa đến, ngấu nghiến ăn hết rồi cùng chỉ vào nồi ra vẻ chê nồi nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn, giống như nồi người ta thường dùng. Rồi cả bầy đem đến nào nai, nào sói; khi thịt chín rồi chúng gọi Từ đến cùng ăn.
                              Ở với nhau mấy ngày, bọn dạ xoa đã hơi quen Từ , khi đi không giam anh ta lại nữa mà ăn ở với nhau như người trong bầy. Từ dần dần phân biệt được tiếng kêu của chúng để dò biết ý rồi cũng tập phát âm như thế, vô hình chung thành ra thứ tiếng dạ xoa. Chúng càng bằng lòng, rủ về một dạ xoa cái cho Từ làm vợ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần. Sau đó con dạ xoa cái lân la cùng Từ giao hợp, lấy làm khoái lắm. Mỗi khi đem thịt cho Từ ăn cũng thân thiết y như tình vợ chồng ở con người vậy.
                              Một hôm tất cả bọn dạ xoa đều dậy sớm, quấn chuỗi hạt minh châu trên cổ, thay phiên nhau ra cửa như có ý chờ đón khách quý. Chúng còn bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi vợ xem có chuyện gì vậy, vợ đáp:
                              - Đây là tiết Thiên thọ.
                              Rồi ra bảo bọn kia rằng:
                              - Anh Từ không có vòng hạt đeo.
                              Cả bọn trích trong từng chuỗi minh châu mỗi năm hạt đưa cho vợ Từ. Vợ Từ cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình, tất cả năm mươi hạt rồi lấy sợi đay xuyên thành chuỗi hạt đeo vào cổ cho chồng. Từ nhìn kỹ, thấy đều là hạt châu quý có dể phải hàng trăm đồn vàng một hạt.
                              Lát sau cả bầy dạ xoa đều ra ngoài. Từ cũng nấu thịt xong, vợ vào mời ra, bảo:
                              - Đón Thiên vương.
                              Đến một cái hang lớn, rộng khoảng một mẫu, ở giữa xếp đá thành một khối bằng phẳng như cái sập, bốn chung quanh đều có đá, bệ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu. Hai ba mươi bầy dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Lát sau gió to làm bụi mù, tất cả dạ xoa đều ra khỏi hang. Một con vật khổng lồ hình thù cũng loại da xoa, chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi tót lên bệ trên, hai chân duỗi thẳng, mắt láo lướt nhìn khắp. Bầy dạ xoa theo vào sau, chia hàng thứ ngồi hai bên đông tây, đầu ngẩng, hai tay chắp ngực thành hình chữ thập. Con vật ấy nhìn điểm các đầu một lượt, cất tiếng hỏi:
                              - Bọn Ngọa Mi Sơn ở hế cả đây chứ?
                              Cả bầy hét lên có ý trả lời : phải. Con vật ấy nhìn Từ, nói:
                              - Gì đây?
                              Vợ Từ thưa:
                              - Rể.
                              Cả bầy khen Từ có tài nấu thịt chín. Lập tức hai dạ xoa đem thịt đã nấu chín bày lên sập. Con vật ấy cúi xuống ăn thịt no căng, vừa ăn vừa gật gù khen ngon, lại còn hẹn phải cung đốn thường ngày. Xong rồi quay nhìn Từ bảo:
                              - Vòng hạt sao ngắn thế?
                              Bọn dạ xoa đáp:
                              - Mới đến, chưa đủ.
                              Con vật ấy rút mười hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào hạt ấy to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn. Vợ Từ vội nhận, đeo vào cổ cho chồng. Từ cũng chắp cánh tay, nói theo tiếng nói dạ xoa để tạ ơn. Xong con vật ấy ra khỏi hang, lướt gió mà đi, nhanh như bay. Cả bọn dạ xoa lúc sau mới xúm lại ăn nốt chỗ còn lại, rồi tản mát đi cả.
                              Được hơn bốn năm, vợ Từ đẻ sinh ba, hai trai một gái, đều giống bố cả. Bầy dạ xoa rất thích ba đứa trẻ, vỗ về đùa nghịch với chúng.
                              Một hôm, cả hang đi vắng, chỉ còn lại một mình Từ. Có một con sạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm Từ. Từ không chịu thế là nó quật Từ xuống đất. Vợ Từ bất thình lình về, nổi giận quần nhau với nó cắn đứt tai. Chồng nó về gỡ ra đuổi nó đi. Từ đó, vợ Từ giữ rịt lấy chồng không rời.
                              Ba năm sau, ba đứa trẻ đã biết đi. Từ dạy chúng nói tiếng ríu ríu nhưng đã nghe rõ là tiếng người. Tuy chúng còn là trẻ con song trèo núi cứ như đi trên đấtt bằng, khăng khít với Từ như tình cha con lòai người vậy.
                              Một hôm vợ Từ và hai con ra ngoài, nửa ngày chưa về. Gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê,, dẫn đứa con trai ra bờ biển, thấy thuyền cũ vẫn còn đó, liền quyết định trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm thì đến Giao Châu.
                              Đến nhà, vợ cũ đã bỏ đi lấy chồng. Từ đem hai hạt châu đi bán lấy tiền làm ăn sinh sống, gia cảnh ngày càng dư dật. Đứa con trai đặt tên là Bưu, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã có thể cất nổi hàng tạ, tính tình lỗ mãng, chỉ thích đánh nhau. Viên tướng chỉ huy ở đất Giao lấy làm lạ, cho giữ một chức quan võ cấp thấp. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong làm phó tướng.
                              Thời ấy, một lái buôn đi biển cũng bị gió thổi bạt đến Ngọa Mi, treo lên bờ, thấy một thiếu niên đã lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là dân Trung Quốc liền hỏi thăm quê quán. Người lái buôn kể rõ. Thiếu niên dẫn ngay vào trong một cái hang đá nhỏ, bên ngoài có toàn gai góc, dặn cứ ở đây chớ đi ra ngoài. Lát sau trở về, anh ta đem thịt hươu cho người lái buôn và nói cha mình cũng là người Giao Châu. Người lái buôn ngày đó là Từ- vì họ cùng cánh buôn bán quen biết nhau- liền bảo với anh ta:
                              - Ông ấy là bạn tôi. Nay con ông ta đang làm phó tướng.
                              Thiếu niên không hiểu phó tướng là gì, người lái buôn giải thích:
                              - Đó là một chức quan ở Trung Quốc.
                              Lại hỏi: Quan là gì?
                              Trả lời:
                              - Ra đường cưỡi ngựa, đi xe; vào nhà ngồi trên cao chót vót; gọi một lời trăm tiếng dạ ran; ai gặp không dám nhìn, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan.
                              Thiếu niên nghe thấy nói về quan như thế, đã lấy làm kính mộ lắm. Nguời lái buôn bảo:
                              - Cha anh đã ở Giao Châu, sao anh còn chịu ở đây lâu thế?
                              Thiếu niên kể lại sự tình. Người lái buôn khuyên nên về Nam với cha, anh ta mới nói thực tình:
                              - Tôi cũng thường có ý ấy, song mẹ tôi không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác. Vả lại đồng loại của mẹ mà biết ý định ấy thì sẽ tàn hại, do đó còn chần chừ. Rồi còn hẹn: “Đợi gió bấc nổi lên, tôi sẽ tìm cách đưa ông về. Phiền ông báo cho cha và anh tôi biết tin”.
                              Gần nửa năm ẩn trong hang, người lái buôn có phen nhòm qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài thì sợ lắm, không dám động cựa. Một hôm gió bấc ù ù thổi, thiếu niên đến ngay, dẫn người lái buôn trốn ra khỏi hang tìm cách về Nam. Anh còn dặn đừng quên điều mình nhờ.
                              Về đến Giao Châu, người lái buôn vào ngay phủ phó tướng, kể lại đầy đủ những điều đã gặp. Bưu chạnh lòng nhơ mẹ nhớ em, muốn lập tức đi tìm. Người cha hết sức can ngăn, e biển khơi gió to sóng dữ, hiểm trở gian nan. Bưu cứ đấm ngực kêu khóc, người cha đành phải chịu. Rồi Bưu đến trình với quan chánh tướng, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược cản, phải hạ buồm ở giữa biển nửa tháng, bốn chung quanh chỉ thấy trời nước không bờ, chẳng phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp cơn sóng dữ lật úp thuyền, Bưu lộn xuống biển vật vờ chìm, nổi theo sóng. Hồi lâu được một con gì đó dìu vào một vùng đất có nhà cửa. Bưu tỉnh dậy, thấy con vật dìu mình ấy có hình dạng dạ xoa. Bưu nói tiếng dạ xoa kể lại cơn cớ của mình. Dạ xoa vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, bảo Bưu:
                              - Ngọa Mi chính là quê cũ của tôi. Anh đã chệnh tám nghìn dặm. Đây là hướng tới nước Độc Long, không phải là lối tới Ngọa Mi.
                              Nói rồi hắn ta tìm thuyền đưa Bưu xuống, rồi lội nước đẩy thuyền nhanh vùn vụt như gió lướt, loáng mắt đã vượt nhìn dặm. Qua một đêm thuyền đã tới bờ Bắc Ngọa Mi. Bưu thấy trên bờ có một thiếu niên có vẻ quẩn quanh trông ngóng. Biết đây không có loài người ở, Bưu ngờ đó là em mình, lại gần dò hỏi thì quả nhiên là đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc. Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, được biết đều còn khỏe mạnh, bình yên, muốn cùng đi tìm ngay. Người em ngăn lại, tự mình vội vã quay đi, định đi hỏi bầy dạ xoa để từ tạ thì chúng đã đi đâu mất cả.
                              Không bao lâu mẹ và em gái đều đến chỗ Bưu, vừa trông thấy nhau đã khóc ròng. Bưu nói ý định, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo:
                              - Sợ đến sẽ bị người hại.
                              Bưu cả quyết:
                              - Con ở Trung Quốc rất sanh trọng, người nào dám coi thường.
                              Khi ý định về Giao Châu đã quyết thì lại ngại nỗi gió ngược không sao đi được. Mẹ con còn đang lúng túng thì thấy cánh buồm ngả hướng về Nam.
                              Bưu mừng, reo lên:
                              - Trời giúp ta rồi!
                              Mẹ con xuôi thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới đất Giao Châu. Người trên bờ vừa nhìn thấy thì đã bỏ chạy tán loạn. Bưu phân phát quần áo cho mẹ và em.
                              Về đến nhà, mẹ dạ xoa thấy ông bố chồng ra mặt tức giận mắng mỏ, đã lấy làm ân hận vì đã trót dại về đây. Từ phải tạ lỗi mãi. Gia nhân đến chào chủ mẫu, ai nấy đều run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc. Rồi được mặc áo gấm, ăn cơm thịt, mẹ dạ xoa mới yên lòng, có vẻ vui. Cả mẹ và con gái đều mặc trang phục đàn ông.
                              Được vài tháng, họ dần dần nói rõ tiếng người, nước da trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái tên là Dạ Nhi, đều rất khoẻ.
                              Bưu tìm cách dạy em học chữ, Báo rất thông minh, kinh sử lướt qua một lượt là hiểu và thuộc. song anh ta không muốn theo đòi nghiệp nho mà thích tập cưỡi ngựa, bắn cung, sau đỗ tiến sĩ võ, lấy con gái viên quan họ A.
                              Dạ Nhi vì khác giống, mãi không ai lấy, sau có viên tướng của Bưu- người họ Viên- vì chết vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng “bách thạch”, từ xa trăm bước có thể bắn trúng chim nhỏ, không phát nào trật. Mỗi khi đi đánh dẹp đâu. Viên thường đưa vợ cùng đi. Sau ông ta được cất nhắc lên chức đồng tri tướng quân, nửa phần công trạng là do vợ lập.
                              Còn Báo năm ba mươi tư tuổi đeo ấn tướng quân. Mẹ dạ xoa cũng đi theo, mỗi khi vào trận đánh lớn thường mặc áo giáp, cầm gươm tiếp ứng cho con. Quân địch trông thấy là hoảng sợ bỏ chạy. Nhà vua xuống chiếu phong cho tước nam. Báo thay mẹ dâng sớ từ không nhận tước ấy. Sau được phong là phu nhân.
                              NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


                              ST
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #75
                                Nàng Ba Hoa Sen - Hà Hoa Tam Nương Tử - NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

                                Tống Dương Nhược người Hồ Châu là bậc sĩ nhân. Một ngày mùa thu, đi thăm ruộng, thấy đám lúa tốt bời bời đang lay động dữ dội. Tống nghi hoặc, vượt bờ qua xem, thì ra đôi trai gái đang dở cuộc ái ân.Tống hắng giọng cười một tiếng định quay lại. Gã con trai thản nhiên thắt quần vội vã đi qua. Cô gái đứng dậy mặt mũi khá xinh. Tống vừa nhìn đã thấy ưa, chớm nảy ý nọ kia, song lại xấu hổ e thành thô bỉ. Chàng tiến lại vừa phủi quần áo cho, vừa đùa:
                                - Cuộc tình trong dâu có vui thú chăng?
                                Cô gái cười, lặng thinh. Tống sấn lại sát cô gái, khẽ cởi áo ngoài, thấy da thịt nõn nà, không kìm được liền vuốt ve trên dưới khắp người. Cô gái cười nói:
                                - Cái anh tú tài cổ lỗ này muốn làm gì thì làm, cứ rối rít lên cái gì?
                                Tống hỏi họ tên, cô gái đáp lấp lửng:
                                - Một độ xuân chơi thì tỏ tường mọi nhẽ, cần gì tra hỏi. Hay muốn lưu tên tuổi để lập phường trinh chăng?
                                Tống nghiêm giọng:
                                - Giữa nội đồng sương cỏ, đó là nơi bọn chăn heo sơn dã thường làm, tôi không quen thế. Thấy cô đẹp, đến việc ngỏ lời hẹn riêng cũng cần tự trọng, việc gì phải tuế toá lên thế!
                                Cô gái lặng nghe có ý thừa nhận là đúng. Tống hẹn:
                                - Túp nhà hoang vắng của tôi cũng không xa đây, xin mời quá bộ đến thăm.
                                Cô gái từ tạ:
                                - Tôi đi đã lâu sợ người ta ngờ. Có gì đợi tối.
                                Cô gái còn hỏi kỹ đặc điểm của nhà, đường ngõ rồi mới theo đường tắc bước quay đi.
                                Chập tối, cô gái đã đến phòng Tống, một cuộc mây mưa cực kỳ hoan lạc. Cứ thế ngày này tháng khác, không một ai hay. Hôm ấy, sư trụ trì chùa làng gặp Tống ngoài đường kinh ngạc hỏi:
                                - Người anh có ta khí, đã gặp việc gì chăng?
                                Tống trả lời : Không.
                                Sau đó về ốm liền. Đêm đêm cô gái lại tới, đều mang hoa quả ngon cho Tống ăn, ân cần hỏi han chăm sóc y như vợ chồng tận tụy. Đi ngủ, thế nào cô gái cũng ép Tống phải chiều bằng được. Tống mắc bệnh, không kham nổi, đã có ý nghi ngờ cô gái không phải là người, song chưa có cách nào dứt được, nay mới nói nửa kín nửa hở:
                                - Bữa trước đoán tôi bị yêu ám, nay quả bị bệnh, thật là nghiệm. Ngày mai nếu người đến tôi sẽ xin bùa yểm.
                                Cô gái biến sắc.
                                Tống càng ngờ, sai người đến kể với sư. Sư bảo:
                                - Đó là hồ ly. Thuật của nó còng thường lắm, dể bắt.
                                Sư vẽ cho một đạo bùa, dặn:
                                - Lấy một cái vò sành dán bùa vào miệng, đem đặt trước giường . Khi hồ ly chui vào, úp ngay một cái chậu lên, dán bùa rồi đổ nước vào, nổi lửa đun một lát là hồ chết.
                                Gia nhân về sắp sửa như lời sư dặn.
                                Đêm ấy, khuya cô gái mới đến, lấy quít vàng từ trong tay áo ra, vừa định đến giường thăm hỏi Tống, bỗng trong vò có tiếng kêu u ú. Cô gái bị hút tụt ngay vào. Gia nhân đợi sẵn, vội bịt lấy miệng vò, dán bùa, định đốt lửa. Tống thấy quít vàng tung toé trên mặt đất, nhớ lại những ngày tình nghĩa sâu đậm, trong lòng không nỡ, sai phóng thích ngay. Bùa vừa được giải, chậu vừa được nhấc, cô gái từ trong vò chui ra, vô cùng lúng túng, cúi đầu nói:
                                - Thiếp, đại đạo sắp thành, suýt nữa hóa ra thành đất. Chàng vô cùng nhân hậu, thiếp sẽ báo đền. Nói rồi ngoắt đi.
                                Vài ngày sau, bệnh tình Tống vô cùng nguy kịch. Gia nhân đi chợ mua gỗ. Một người con gái đón hỏi:
                                - Có phải người nhà Tống Dương Nhược không?
                                Người kia nhận : Phải.
                                Cô gái tiếp:
                                - Tống là anh họ. Nghe nói bị bệnh nặng cũng định đến thăm, chẳng may lại bận việc, không đi được. Có một thang linh dược, phiền anh đưa dùm.
                                Người gia nhân về, Tống không có chị em họ hàng nào như thế, nên biêế ngay là hồ ly đền ơn. Uống thuốc đến đâu thì bệnh khỏi đến đấy, chỉ mươi ngày bình phục hoàn toàn. Tống vô cùng cảm kích chắp tay ngửa mặt lên không trung nguyện được tái hợp.
                                Đêm ấy, Tống đóng cửa ngồi uống rượu một mình, bỗng nghe có tiếng móng tay cào cửa sổ, vội bật cửa chạy ra. Hồ nữ đến! Tống mừng quá chắp tay cảm tạ, bày rượu cùng uống. Cô gái giải tỏ nỗi lòng:
                                - Từ độ từ biệt, lòng cứ bồn chồn không biết lấy gì đền ơn đức cao dày. Nay vì chàng xin tìm một đám xứng đôi như thế đã tròn trách nhiệm thiếp chưa?
                                Tống vội hỏi:
                                - Người nào vậy?
                                Đáp:
                                - Chàng chưa biết đâu. Sáng mai vào giờ thìn, chàng vượt Nam Hồ, thấy cô gái hái dâu, quấn khăn tơ trắng thì chèo thuyền thật gấp đuổi theo. Nếu lạc hướng không kịp thấy bên đê có bông hoa sen cuống ngắn ẩn dưới tán lá, xin chàng hái lấy; mang về, đốt nến hơ vào cuống hoa, chàng sẽ có trong tay một cô gái đẹp, lại thêm tuổi thọ.
                                Tống chăm chú ghi nhớ lời dặn, đến khi cô gái cáo biệt, Tống cố chèo kéo. Cô gái từ chối phân giải:
                                - Từ gặp tai nguy, bỗng giác ngộ đại đạo, nay đâu còn ham muốn mối tình chăn gối để chuốc lấy thù oán của con người.
                                Nói rồi nghiêm nét mặt cáo biệt.
                                Tống theo lời dặn. Đến Nam Hồ thấy đầm sen mênh mông, gái đẹp vô kể. Trong đám có một cô bím tóc buông rũ, áo lụa trắng như băng, tươi đẹp tuyệt trần. Chàng vội phóng thuyền theo, luống cuống lạc huớng, để mất hút người đẹp. Chàng bắt thuyền vào đám sen, quả nhiên thấy một nhánh hoa sen, cuống sen chưa đầy hai gang, liền hái lấy mang về. Vào nhà Tống đặt hoa lên ghế, cắm nến vào bên, châm lửa hơ. Khoảnh khắc, sen đã hóa thành cô gái đẹp. Tống vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, phục xuống vái. Cô gái nghiêm giọng:
                                - Anh chàng si tình! Ta là hồ ly đây, sẽ gây vạ cho chàng đấy.
                                Tống tỏ vẻ không cho là thật. Cô gái hỏi vặn:
                                Ai bảo chàng làm thế?
                                Trả lời:
                                - Tự kẻ tiểu sinh biết nàng phải đợi ai bảo.
                                Tống nắm lấy cánh tay kéo đi, cô gái tuột theo tay Tống xuống đất, hóa thành hòn đá, cao khoảng hai gang, bốn mặt lấp lánh. Tống đặt đá lên án, đốt hương vái lạy và cầu khẩn. Tối xuống chận cửa gài then cẩn thận, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại không thấy đá đâu, chỉ thấy một cái khăn lụa trắng, vẫn còn thoảng hương. Tống ôm lấy, lên giường đắp chăn nằm ngủ; tối trở dậy thắp đèn, quay lại đã thấy cô gái, sợ cô gái hóa thân, nên ra sức cầu van rồi sau mới dần dà lấn tới. Cô gái cười:
                                - Thật là nghiệp chướng! Chẳng biết kẻ thừa hơi nào lại đi dạy cho lão si tình này những chuyện tầm bậy thế này?
                                Rồi cùng nhau nhu thuận, không cưỡng lại. Trong lúc giao tiếp, có lúc dường như không kham được, nhiều lần xin ngưng nghỉ. Tống không nghe. Cô gái phải dọa:
                                - Nếu cứ thế này, thiếp sẽ hóa ngay.
                                Lúc ấy Tống mới thôi.
                                Từ đó đôi bên rất hòa hợp, mà gia tự nhà Tống thường vàng lụa đầy rương , không hiểu từ đâu đem về. Cô gái gặp ai cứ “dạ, dạ” dường như miệng không thốt được thành lời. Còn Tống cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng. Lường đúng ngày sinh nàng vào buồng dặn Tống đóng cửa chặt không cho ai vào rồi nàng lấy dao tự rạch bụng mình ,lấy con ra, bảo Tống lấy lụa quấn con lại. Qua đêm mẹ tròn con vuông.
                                Sáu, bảy năm sau, nàng bảo Tống:
                                - Thiếp đã báo đền ơn cũ vẹn toàn, nay xin cáo biệt.
                                Tống nghe vậy, sửng sốt khóc:
                                - Lúc nàng mới về, ta nghèo khổ không thể tự lập. Nhờ nàng mới có ngày nay, sao vội nói lời chia ly quá sớm? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ, cũng là điều đáng ân hận.
                                Nàng rầu rĩ phân giải:
                                - Có tụ ắt có tán, đó là lẽ thường. con có phúc tướng, chàng tuổi thọ cũng dài, còn mong gì hơn nữa? Thiếp vốn họ Hà. Nếu chàng có chút ân tình quyến luyến, cứ ôm kỷ vật cũ của thiếp mà gọi. Nàng Ba Hoa Sen ( nguyên văn: Hà Hoa Tam Nương Tử) thì tự nhiên lại thấy mặt.
                                Rồi với dáng điệu thanh nhàn, nàng nói lời cáo biệt:
                                - Thiếp đi đây!
                                Kinh hãi quay lại nhìn thì nàng đã bay quá tầm người đứng. Tống lại nhảy lên níu giữ, nhưng chỉ cái giày tụt lại. Giày rơi xuống đất hóa thành con yến bằng đá, sắc đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh. Chàng nhặt lấy cất đi. Kiểm tra trong hòm thấy tấm khăn lụa trắng hồi mới về vẫn còn đây. Mỗi khi tưởng nhớ, chàng ôm ấp tấm khăn gọi “Nàng ba Hoa Sen” thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện về y như lúc còn ở trần thế vậy. Chỉ có điều không nói một lời nào.
                                NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch


                                ST
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X