Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Liêu Trai Chí Dị Bồ Tùng Linh

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #31
    LÀM RỂ THẦN NHÂN -dịch giả: Đàm Quang Hưng

    (truyện THẦN NỮ)
    Phác lậu y quan ngạnh giới thân
    Xa trung úy tặng diệc tiền nhân
    Vị khanh túc dạ mông sương lộ
    Bất tich châu hoa trì dữ nhân

    Huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến có hai anh em họ Mễ. Người anh tên Ðại Thành, là một nhà buôn, tính tình rất mực hiền lành chất phác, đã có vợ. Người em tên Ðộ Tân, là một nho sinh, văn chương cũng chỉ thường thường bậc trung, còn độc thân. Người nào cũng được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà và mươi mẫu ruộng. Hai anh em thương yêu nhau lắm.
    Một hôm, Ðộ Tân từ làng lên huyện có việc. Xong việc, ghé vào quán ăn uống rồi mới ra về. Vì quá chén, Ðộ Tân say lảo đảo, áo quần xốc xếch. Lát sau, qua cổng một ngôi nhà, thấy có tiếng nhạc inh ỏi từ trong nhà vọng ra, Ðộ Tân thích lắm, bèn đứng lại nghe. Nhìn vào sân, thấy vắng hoe, chẳng một bóng người, Ðộ Tân bèn chạy sang nhà hàng xóm phía đông, làm quen với chủ nhà là Minh ông, rồi hỏi:"Hàng xóm phía tây nhà túc hạ là gia đình ai thế?" Minh ông đáp:"Gia đình một ông lão!" Hỏi:"Họ từ đâu tới đây cư ngụ?" Ðáp:"Bỉ nhân không biết!" Hỏi:"Họ tới đây cư ngụ đã lâu chưa?" Ðáp:"Cũng mới được chừng ba tháng nay!" Hỏi:"Họ đang làm gì mà trỗi nhạc inh ỏi như thế?" Ðáp:"Các con trong nhà đang làm lễ thượng thọ cho cha!" Nảy tính hiếu kỳ, muốn được vào coi, Ðộ Tân liền cáo biệt Minh ông, chạy ra tiệm tạp hóa đầu đường mua lễ vật, đính kèm danh thiếp của mình, đem vào đặt ở hành lang trước cửa phòng khách, gõ cửa báo cho người trong nhà biết, rồi ra ngoài cổng đứng chờ. Minh ông nhìn thấy Ðộ Tân trở lại, đem lễ vật vào nhà hàng xóm thì lấy làm lạ, bèn chạy ra hỏi:"Túc hạ quen biết với ông lão trong nhà như thế nào?" Ðáp:"Bỉ nhân có quen biết chi đâu!" Nói:"Nếu chẳng quen biết chi thì tại sao lại đi làm cái chuyện điên rồ như thế? Vả lại, áo quần đang xốc xếch như thế này mà lại xin vào dự lễ thượng thọ nhà người ta thì kỳ cục lắm!" Nghe thấy thế, Ðộ Tân đâm ra hối hận, toan chạy vào lấy lại lễ vật thì bỗng thấy có người từ trong nhà mở cửa bước ra hành lang, bưng lễ vật vào. Ðộ Tân đành đứng ở ngoài cổng để chờ xem sao.
    Lát sau, có hai thiếu niên ăn mặc sang trọng, phong thái thanh nhã, từ trong nhà mở cửa bước ra cổng, vái chào Ðộ Tân, mời vào phòng khách. Ðộ Tân liền theo vào. Tới hành lang, hai thiếu niên mở cửa phòng khách, mời Ðộ Tân vào, rồi khép cửa lại, đứng ở bên ngoài.
    Vào trong, Ðộ Tân thấy một bức bình phong bằng ngọc lưu ly ngăn đôi phòng khách. Ở phần ngoài, trên bệ cao, có một ông lão cùng tám vị khách, dáng vẻ quý phái, ngồi trên ba chiếc chiếu hoa, quay mặt về hướng nam. Dưới bệ thấp, có chừng hai chục khách khác ngồi trên năm chiếc chiếu lớn. Ðộ Tân thầm nghĩ chắc phần trong được dành cho nội quyến của ông lão ngồi nghe nhạc. Ðộ Tân vừa bước vào phòng thì bỗng tiếng nhạc ngưng hẳn rồi mọi người cùng đứng dậy thi lễ. Ông lão cũng chống gậy đứng dậy. Ðộ Tân cúi đầu đáp lễ thì mọi người lại ngồi xuống rồi tiếng nhạc lại trỗi lên. Ðộ Tân thầm nghĩ chắc sắp có người tới mời mình đến chiếu ngồi, song chờ mãi cũng chẳng thấy ai. Ðộ Tân ngạc nhiên lắm, đành đứng tại chỗ mà nghe nhạc. Bỗng hai thiếu niên mở cửa bước vào phòng rồi tiếng nhạc lại ngưng. Một thiếu niên tiến tới chỗ Ðộ Tân, nói:"Vì gia nghiêm già yếu, chẳng thể xuống đây mời cao hiền lên bệ được, vậy xin cao hiền thứ lỗi cho. Bỉ nhân xin thay mặt gia nghiêm mà cảm tạ cao hiền đã cho quà và tới dự lễ!" Rồi chắp tay vái Ðộ Tân. Ðộ Tân kinh hãi quá, nghiêng mình tránh né, chẳng dám nhận vái. Thiếu niên kia bèn đi lấy thêm chiếu, trải nối vào chiếc chiếu bên trái ông lão, mời Ðộ Tân lên ngồi. Rồi cả hai thiếu niên cùng tới ngồi ở một chiếc chiếu trải dưới bệ thấp. Tiếng nhạc lại trỗi lên. Ðộ Tân lên tiếng hỏi chuyện mấy vị khách ngồi cạnh song chẳng vị nào nghe thấy gì vì tiếng nhạc inh ỏi.
    Khi tiếng nhạc vừa dứt, hai thiếu niên liền đứng dậy, lấy hai chồng chén và hai bình rượu đi mời khắp lượt. Thấy mình còn say, Ðộ Tân không muốn uống song vì thấy khách nào cũng nhận chén nên Ðộ Tân chẳng dám chối từ. Trong khoảnh khắc, mọi người đều cạn chén. Bất đắc dĩ, Ðộ Tân cũng phải cạn chén theo. Hai thiếu niên lại lấy hai bình rượu mới, đi mời lượt nữa. Vì say quá, Ðộ Tân chối từ rồi xin cáo biệt.
    Ðộ Tân vừa quay người, toan bước ra cửa thì bị một thiếu niên nắm vạt áo kéo lại. Ðột nhiên, Ðộ Tân ngã lăn xuống chiếu, nằm ngủ li bì. Khi bị nước lạnh dội vào mặt, Ðộ Tân mới tỉnh. Vùng dậy, nhìn quanh, thấy ông lão cùng khách khứa đều đã biến hết, chỉ còn một thiếu niên đang đứng cạnh mình, tay cầm chiếc bình không, Ðộ Tân ngượng quá, chẳng biết phải hành động thế nào. Chợt thấy thiếu niên tới khoác tay mình dìu ra cổng, Ðộ Tân bèn cúi đầu chào cáo biệt.
    Ba tháng sau, một hôm Ðộ Tân lại có việc phải lên huyện. Xong việc, tới thăm ngôi nhà cũ, thấy cổng ngõ im lìm, Ðộ Tân bèn sang nhà Minh ông hỏi thăm thì được biết gia đình ông lão đã dọn đi được hơn hai tháng.
    Trên đường về, qua chợ huyện, bỗng Ðộ Tân thấy một khách lạ từ trong chợ chạy ra, gọi:"Mễ huynh! Ði đâu đấy? Hãy vào đây ngồi uống với chúng đệ mấy chén đã!" Thấy mình chưa hề quen biết khách, Ðộ Tân lấy làm lạ, hỏi:"Sao túc hạ lại biết đệ?" Khách hỏi lại:"Thế túc hạ không nhận ra đệ hay sao?" Ðộ Tân đáp:"Thưa không!" Khách hỏi:"Túc hạ còn nhớ cách đây ba tháng, chúng ta cùng vào nhà Phó lão tiên sinh dự lễ thượng thọ hay không?" Vỡ lẽ, Ðộ Tân gật đầu, hỏi lại:"Hôm ấy túc hạ ngồi ở đâu?" Khách đáp:"Ðệ ngồi ở chiếu dưới! Khi hai công tử mở cửa phòng khách mời túc hạ vào thì đệ thấy mọi người đều đứng dậy nên đệ nhớ mặt túc hạ, rồi hỏi thăm được quý danh!" Ðộ Tân bèn hỏi:"Thế quý danh túc hạ là gì?" Khách đáp:"Ðệ họ Chư, tên Yến!" Hỏi:"Túc hạ làm nghề chi?" Ðáp:"Ðệ làm nghề mài gương mài kính ở trong chợ!" Ðộ Tân bèn theo Chư Yến vào chợ. Tới bàn rượu, Ðộ Tân mới biết rằng Chư Yến đang ngồi với một người làng mình, họ Bảo, tên Trang. Ba người bèn cùng yến ẩm. Gần tối, Ðộ Tân xin cáo biệt.
    Ðêm ấy, Bảo Trang bị giết chết ở dọc đường. Vì chiều hôm trước, có kẻ nhìn thấy Bảo Trang ngồi uống rượu với Ðộ Tân cùng một khách lạ ở trong chợ nên tới mách cho cha Bảo Trang biết. Cha Bảo Trang chẳng biết khách lạ là ai nên chỉ làm đơn kiện Ðộ Tân đã giết con mình. Quan tể cho khám nghiệm thi thể Bảo Trang thì thấy có nhiều vết dao đâm. Quan liền sai lính đi bắt Ðộ Tân về huyện đường tra khảo. Ðộ Tân trình bày việc Chư Yến mời mình vào quán uống rượu tay ba và khai rằng mình chẳng hề giết người. Quan không tin, cứ kết tội Ðộ Tân giết Bảo Trang. Ðộ Tân một mực kêu oan. Quan chẳng nghe, cứ lột mũ áo nho sinh, tịch thu gia sản đem bán cho dân làng, rồi khép án tử hình. Tuy nhiên, vì luật pháp triều đình ấn định rằng các quan tể phải chờ các quan tuần phương tới phúc thẩm, y án, rồi mới được đem tử tù ra hành hình, nên Ðộ Tân chỉ bị tống giam.
    Năm sau, triều đình cử một quan tuần phương tới Phúc Kiến phúc thẩm các án tử hình. Khi xét tới vụ án Bảo Trang, quan tuần phương phán là Ðộ Tân bị hàm oan rồi ra lệnh phóng thích. Ðộ Tân về làng, thấy nhà cửa ruộng vườn của mình đã thuộc về người khác, bèn tới nhà người anh, xin ở nhờ. Ðại Thành thương em lắm, bảo vợ dọn riêng một phòng cho em ở. Thấy quan tuần phương đã phán là mình vô tội, Ðộ Tân bèn quyết định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh.
    Tháng sau, Ðộ Tân khăn gói lên huyện. Ðường xa, trời tối, mỏi mệt, Ðộ Tân ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ chân. Chợt thấy một cỗ xe ngựa chạy qua chỗ mình ngồi rồi đột nhiên dừng lại, Ðộ Tân chú mục nhìn thì thấy một tì nữ từ trên xe tụt xuống, đứng thò đầu vào xe như để nghe lệnh, rồi chạy tới chỗ mình, hỏi:"Có phải tú tài họ Mễ không?" Ðộ Tân kinh ngạc, chẳng hiểu tại sao tì nữ lại biết lai lịch mình, song cũng đáp:"Phải" Hỏi:"Sao tú tài lại nghèo khổ thế này?" Ðáp:"Vì năm ngoái bỉ nhân bị quan tể kết tội oan, lột mũ áo nho sinh, tịch thu hết gia sản. Tháng trước, quan tuần phương tới phúc thẩm, phán là vô tội rồi thả cho về!" Hỏi:"Bây giờ tú tài định đi đâu?" Ðáp:"Bỉ nhân định lên dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh!" Tì nữ bèn chạy về xe, trình lại. Lát sau, tì nữ lại chạy tới chỗ Ðộ Tân, nói:"Nương tử tiểu tì mời tú tài tới cạnh xe nói chuyện!" Hiếu kỳ, Ðộ Tân bèn bước theo tì nữ. Tới xe, tì nữ đưa tay vén rèm lên thì Ðộ Tân sững sờ kinh ngạc vì thấy trong xe có một nữ lang tuyệt sắc. Nữ lang nói:"Hiền lang chẳng may bị tai họa bất ngờ, thiếp nghe chuyện cũng thấy ngậm ngùi. Nay hiền lang muốn vào dinh học sứ xin lại mũ áo nho sinh, mà đi với hai bàn tay trắng, chẳng có tiền hối lộ cho lính canh thì làm sao mà vào? Thiếp muốn biếu hiền lang chút tiền song dọc đường chẳng đem theo nên cũng đành chịu!" Rồi như chợt nghĩ ra điều gì, nữ lang nói tiếp:"À thôi! Ðể thiếp biếu đỡ hiền lang vật này vậy! Cứ đem lên huyện bán cũng được trăm đồng, đủ tiền hối lộ đó! Cất kỹ đi!" Nói xong, nữ lang đưa tay lên đầu, rút đóa hoa ngọc cài trên mái tóc, trao cho Ðộ Tân. Ðược người đẹp trao tặng đóa hoa trang sức, Ðộ Tân vội đón nhận rồi nói:"Tiểu sinh xin đa tạ nương tử!" Ðộ Tân toan lên tiếng hỏi về tính danh và thân thế của nữ lang thì cỗ xe đã vụt chạy như bay. Ðộ Tân đành đứng tần ngần nhìn theo cho tới khi cỗ xe mất hút. Thấy đóa hoa có gắn nhiều hạt minh châu, Ðộ Tân biết là bảo vật nên cất kỹ vào túi rồi tiếp tục lên đường.
    Sáng sau, Ðộ Tân tới dinh học sứ, xin lính canh cho vào. Lính đòi tiền hối lộ, Ðộ Tân không có, lính không cho vào. Chợt nhớ tới đóa hoa trang sức của người đẹp cho mình, Ðộ Tân vội ra chợ tìm tiệm kim hoàn để bán. Sau khi ngã giá, Ðộ Tân rút đóa hoa ra trao cho chủ tiệm thì bỗng thấy tiếc rẻ nên lại thôi không bán nữa, cất vào túi. Biết rằng không nạp tiền hối lộ thì chẳng sao vào được dinh học sứ nên Ðộ Tân quyết về nhà anh, ôn lại bài vở để đi thi khoa đồng tử hầu lấy lại mũ áo nho sinh.
    Năm sau, ở huyện Tấn Giang có mở khoa thi đồng tử vào ngày rằm tháng ba. Ðộ Tân lên huyện sớm ít bữa để chờ ngày ứng thí. Gặp tiết thanh minh, thấy thiên hạ đua nhau đi ngoạn cảnh, Ðộ Tân cũng đi theo rồi lạc vào một dãy núi vì không thuộc đường. Chợt thấy một đám tì nữ áo xanh cưỡi ngựa theo hầu một cỗ xe, Ðộ Tân chú mục nhìn thì nhận ra người ngồi trong xe chính là nữ lang năm ngoái. Nữ lang nhìn thấy Ðộ Tân thì vội ra lệnh cho tì nữ dừng xe, rồi hỏi Ðộ Tân:"Hiền lang đi đâu thế?" Ðộ Tân đáp:"Tiểu sinh đi dự khoa thi đồng tử!" Nữ lang kinh ngạc, hỏi:"Thế ra hiền lang vẫn chưa xin lại được mũ áo nho sinh hay sao?" Ðộ Tân ngượng ngùng, thò tay vào túi, rút đóa hoa trang sức ra, nói:"Vì tiểu sinh chẳng nỡ bán kỷ vật này nên bây giờ phải đi thi lại khoa thi đồng tử" Nữ lang chợt ửng hồng đôi má, nói:"Hiền lang đừng đi đâu cả, cứ ngồi đây mà chờ một lát!" Rồi ra lệnh cho tì nữ phóng xe đi. Ðộ Tân theo lời dặn, ngồi chờ ở bên đường. Lát sau, một tì nữ phóng ngựa trở lại, trao cho Ðộ Tân một túi lớn, nói:"Nương tử tiểu tì nói vì bây giờ dinh học sứ loạn như cái chợ bán chữ nên nương tử tiểu tì tặng tú tài hai trăm lạng vàng, dặn tú tài hãy dùng vàng này mà tiến thân!" Ðộ Tân không nhận, nói:"Nương tử đã cho bỉ nhân đóa hoa ngọc rồi! Bây giờ nương tử lại cho vàng thì bỉ nhân chẳng dám nhận nữa! Sở dĩ bỉ nhân chẳng chịu bán đóa hoa ngọc là vì bỉ nhân tự lượng sức mình có thể đi thi để lấy lại mũ áo nho sinh! Chỉ xin tiểu nương cho bỉ nhân biết danh tánh nương tử là chi để bỉ nhân về vẽ tranh mà thờ, thắp hương mà khấn cũng đã là mãn nguyện lắm rồi!" Tì nữ chẳng thèm nói chi thêm, cứ quẳng túi vàng xuống cạnh Ðộ Tân rồi quất ngựa phóng đi. Ðộ Tân đành nhặt túi vàng đem về.
    Tới nhà, Ðộ Tân chia túi vàng làm hai, biếu người anh một nửa, còn nửa kia thì đem đi chuộc lại nhà cửa ruộng vườn và mua gia nhân. Sau đó, Ðộ Tân lên huyện dự khoa thi đồng tử, lấy lại được mũ áo nho sinh. Ba tháng sau, Ðộ Tân lại trúng tuyển khoa thi nhập học trường huyện. Ðại Thành giỏi buôn bán, dùng vàng em cho để đi buôn, kiếm được rất nhiều lời. Ba năm sau, Ðại Thành chuộc lại được hết các sản nghiệp của ông cha. Vì thế, hai anh em cùng trở thành cự phú ở trong làng.
    Năm ấy, triều đình cử người anh thúc bá của Ðại Thành và Ðộ Tân, là Mễ công, về làm tuần vũ tỉnh Phúc Kiến, thay tuần vũ cũ hồi hưu. Mễ công sai lính đem quà về làng tặng hai anh em. Hai anh em bèn nhờ lính chuyển lời cám ơn tới Mễ công. Hôm sau, Ðại Thành rủ vợ và em cùng mình lên dinh tuần vũ để xin vào chào mừng và thăm hỏi Mễ công. Ðộ Tân vốn không ưa việc tới lui nơi quyền quý nên từ chối. Vì thế chỉ có hai vợ chồng Ðại Thành lên dinh tuần vũ mà thôi.
    Nửa năm sau. Một hôm, có khách mặc áo cừu, cưỡi ngựa bạch, tới gõ cổng nhà Ðộ Tân. Gia nhân ra coi, thấy là khách lạ, vội chạy vào báo. Ðộ Tân ra coi thì nhận ra là một trong hai công tử mà mình đã gặp trong buổi lễ thượng thọ ở nhà Phó lão tiên sinh. Ðộ Tân bèn mở cổng mời khách vào nhà. Hai người tay bắt mặt mừng, ngồi hàn huyên đủ chuyện. Ðộ Tân sai gia nhân bày tiệc thì khách từ chối, nói thác là mình có việc bận, cần phải đi ngay, nhưng rồi lại cứ ngồi hàn huyên với Ðộ Tân chứ chẳng chịu xin cáo biệt. Gia nhân bày tiệc xong, chạy ra trình báo. Ðộ Tân đứng dậy, mời khách vào nhập tiệc. Ðột nhiên, khách quỳ xuống trước mặt Ðộ Tân mà lạy. Ðộ Tân kinh ngạc, nghiêng mình tránh né, rồi hỏi:"Công tử có chuyện chi nghiêm trọng thế?" Khách buồn rầu, đáp:"Gia nghiêm vừa mắc một đại họa, chỉ có cao hiền mới cứu được thôi!" Nói:"Xin công tử nói rõ cho nghe!" Ðáp:"Vì gia nghiêm sắp bị lâm vào vòng lao lý mà chỉ có quan tuần vũ mới cứu được nên hôm nay bỉ nhân tới đây để xin cao hiền lên nói với quan tuần vũ giùm cho!" Nghe thấy thế, Ðộ Tân liền từ chối, nói:"Tuy quan tuần vũ với tiểu sinh là chỗ anh em thúc bá song tiểu sinh đã quyết tâm là chẳng khi nào lên nhờ vả quan tuần vũ một việc gì cả!" Khách cứ nằm lăn ra đất mà khóc lóc van xin. Ðộ Tân giận quá, nghiêm sắc mặt, nói:"Công tử với tiểu sinh chẳng qua chỉ là chỗ sơ giao! Thế thì tại sao công tử lại đi táng thất danh tiết để ép tiểu sinh phải làm một việc mà tiểu sinh chẳng thể nào làm được?" Nghe thấy thế, khách ngượng quá, vội vùng dậy, chắp tay vái chào Ðộ Tân, rồi chạy ra sân, tháo ngựa phóng đi.
    Tối sau, Ðộ Tân đang ngồi trong phòng đọc sách thì chợt thấy bóng dáng lờ mờ của một cô gái lui cui buộc ngựa ở góc sân. Ðộ Tân chú mục nhìn theo thì thấy cô gái bước lên thềm, tới gõ cửa phòng. Ðộ Tân vội chạy ra mở thì nhận ra là tì nữ hầu cận của nữ lang đã cho mình đóa hoa trang sức. Chỉ lo tì nữ tới báo cho mình một hung tin về nữ lang, Ðộ Tân toan cất tiếng hỏi thì tì nữ đã hỏi trước:"Tú tài đã quên đóa hoa ngọc của nương tử tiểu tì trao tặng rồi sao?" Ðộ Tân đáp:"Bỉ nhân đâu có dám quên!" Tì nữ nói:"Nếu thế thì tiểu tì báo cho tú tài một tin!" Ðộ Tân kinh hãi, dồn dập hỏi:"Tin gì? Tin gì?" Tì nữ đáp:"Phó công tử hôm qua tới đây chính là bào huynh của nương tử tiểu tì đó!" Nghe thấy thế, Ðộ Tân mới hoàn hồn, thở phào nhẹ nhõm, chuyển lo thành mừng. Tuy nhiên, Ðộ Tân vẫn làm ra vẻ chẳng tin, nói:"Tiểu nương nói vậy thì bỉ nhân cũng biết vậy chứ bỉ nhân thấy khó tin quá! Nếu nương tử đích thân tới đây xác nhận điều đó thì bỉ nhân sẽ tin ngay! Lúc ấy nương tử có bảo bỉ nhân nhảy vào đống lửa, bỉ nhân cũng xin tuân hành. Còn nếu nương tử không tới thì bỉ nhân nghĩ rằng chắc là tiểu nương đặt chuyện!" Tì nữ tức giận, chẳng nói một lời, quay phắt xuống sân, tháo ngựa phóng đi.
    Chừng một giờ sau, Ðộ Tân lại nghe có tiếng gõ cửa. Ra mở thì thấy tì nữ trở lại, nói:"Nương tử tiểu tì đã tới đây này!" Ðộ Tân mừng quá, còn đang luýnh quýnh chưa biết phải hành động ra sao thì chợt thấy nữ lang bước vào phòng, quay mặt vào tường mà khóc, chẳng nói một lời. Ðộ Tân chắp tay vái chào nữ lang rồi lắp bắp: "Nếu chẳng được nương tử giúp đỡ thì tiểu sinh đâu có ngày nay? Bây giờ nương tử sai bảo điều chi, tiểu sinh cũng xin tuân hành ngay lập tức, chẳng dám chối từ!" Nữ lang nói:"Kẻ phải đi cầu cạnh người thì hay sợ hãi người. Kẻ được người tới cầu cạnh thì hay làm cao với người. Bình sinh thiếp chưa hề phải đi cầu cạnh ai bao giờ! Bây giờ nửa đêm phải đi cầu cạnh người thì còn biết nói năng chi?" Ðộ Tân nói:"Khi tiểu sinh được biết Phó công tử là lệnh huynh thì tiểu sinh đã tin ngay, song vì nghĩ mình khó có dịp được diện kiến nương tử nên mới lập kế để mong nương tử cho gặp mặt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy là mình đã đắc tội với nương tử vì đã làm cho nương tử phải nửa đêm lặn lội sương tuyết mà tới đây!" Nói xong, Ðộ Tân bước tới nắm lấy ống tay áo nữ lang để mời ngồi. Thừa cơ, Ðộ Tân ngầm gãi vào lòng bàn tay nữ lang. Nữ lang liền biến sắc mặt, nói:"Thấy người khác bị lâm nguy, đã chẳng sốt sắng giúp đỡ, lại còn manh tâm lợi dụng, thì quả là kẻ tồi bại!" Nói xong, nữ lang quay phắt người qua phía tì nữ, ra lệnh:"Ði!" rồi chạy lên xe. Tì nữ vội chạy theo, nhảy lên ngồi cầm cương. Ðộ Tân kinh hãi quá, cũng vội chạy ra sân, quỳ xuống đất mà van lạy:"Tiểu sinh đã trót dại, xin nương tử tha cho!" Tì nữ cũng nhỏ nhẹ khuyên:"Xin nương tử hãy nghĩ tới lão công mà bớt giận, tha tội cho tú tài!" Lúc đó, nữ lang mới hơi nguôi. Ðộ Tân cứ quỳ ở giữa sân mà lên tiếng:"Xin nương tử sai bảo!" Nữ lang ngồi trong xe, nói vọng ra:"Nói thực cho hiền lang biết thiếp chẳng phải là người mà là con gái vị thần nhân mà hiền lang đã tới dự lễ thượng thọ. Gia nghiêm được Thượng Ðế đặc cử giữ chức vụ Nam Nhạc Ðô Lý Ty. Vì gia nghiêm có chuyện xích mích với vị thổ thần địa phương nên bị vị này vu tấu lên Thượng Ðế. Gia nghiêm đã trần tình song Thượng Ðế chẳng tin, bắt phải có lá sớ vàng với dấu ấn của quan tuần vũ địa phương để làm bằng, nếu không thì sẽ mắc vòng lao lý. Nếu hiền lang chưa quên ân nghĩa cũ thì hãy lấy một lá sớ vàng, lên thỉnh cầu quan tuần vũ đóng dấu ấn cho rồi đem về trao cho thiếp để thiếp đem đi cứu gia nghiêm!" Nói xong, nữ lang chẳng chờ cho Ðộ Tân nói chi thêm, vội ra lệnh cho tì nữ quất ngựa, phóng xe đi. Ðộ Tân vô cùng lo sợ, bèn đứng dậy, vào nhà nằm. Suốt đêm ấy, Ðộ Tân trằn trọc, chẳng sao ngủ được.
    Sáng sớm hôm sau, Ðộ Tân sửa soạn hành trang, đem theo nhiều tiền bạc, cưỡi ngựa lên tỉnh, tới dinh tuần vũ, xin vào thăm Mễ công. Sau khi chào hỏi, Ðộ Tân nói:"Kính thưa đại ca, ở vùng núi quê nhà có nhiều tà ma quấy nhiễu dân lành. Hôm nay tiểu đệ lên đây xin đại ca một lá sớ vàng có đóng dấu ấn để đem về vùng núi quê nhà mà làm phép trừ tà ma cho dân chúng!" Mễ công cười, nói:"Chuyện tà ma là chuyện hoang đường! Hiền đệ chớ nên mê tín mà làm như vậy!" Ðộ Tân kinh hãi quá, vội vàng vâng vâng dạ dạ rồi xin phép ra về.
    Ra ngoài, Ðộ Tân chạy đi dò hỏi xem ai là kẻ tâm phúc của Mễ công để mình có thể lo hối lộ, nhờ xin một lá sớ vàng có dấu ấn tuần vũ. Khi được biết kẻ tâm phúc của Mễ công là người họ Kế, tên Phục, Ðộ Tân liền chạy đi tìm Kế Phục, đem tiền bạc ra biếu rồi năn nỉ xin Kế Phục giúp mình. Kế Phục nhận lời rồi bảo Ðộ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ. Ðộ Tân bèn ra quán trọ nằm chờ, song chờ suốt ngày mà chẳng thấy Kế Phục tới.
    Sáng sau, chẳng được tin tức gì, Ðộ Tân chán nản, bèn trả phòng trọ, lên ngựa về làng. Vừa về tới nhà, Ðộ Tân đã thấy tì nữ đang đứng ở cổng, tay cầm cương. Thấy Ðộ Tân về, tì nữ hỏi:"Có được việc gì không?" Ðộ Tân lắc đầu buồn bã, đáp:"Không!" rồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tì nữ lạnh lùng, chẳng nói một lời, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi. Ðộ Tân hốt hoảng, vội nói với theo:"Nhờ tiểu nương về thưa giùm với nương tử rằng nếu tối mai mà bỉ nhân chẳng làm xong công việc nương tử giao phó thì bỉ nhân sẽ xin tự vẫn!" Tì nữ chẳng thèm ngoái cổ lại, cứ phóng ngựa như bay. Ðộ Tân cho ngựa vào chuồng rồi lên nhà nằm. Suốt ngày hôm ấy, Ðộ Tân chỉ thở dài. Suốt đêm hôm ấy, Ðộ Tân cứ trằn trọc.
    Tờ mờ sáng hôm sau, Ðộ Tân đem đóa hoa ngọc cùng tiền bạc lên lưng ngựa, phóng lên tỉnh. Vừa tới dinh tuần vũ, gặp Kế Phục ở cổng dinh, Ðộ Tân vội hỏi:"Có tin tức gì cho bỉ nhân không?" Kế Phục đáp:"Có! Ðang đi tìm túc hạ đây!" Ðộ Tân mừng quá, vội hỏi:"Tin gì thế?" Kế Phục đáp:"Quan tuần vũ có người ái thiếp là Bối cơ. Bối cơ rất mê bảo ngọc, hiện đang tìm mua. Nếu túc hạ có bảo ngọc mà đem biếu thì thế nào Bối cơ cũng lén lấy ấn của quan tuần vũ mà đóng dấu vào lá sớ vàng cho!" Ðộ Tân mừng quá, vội móc túi lấy đóa hoa ngọc ra trao cho Kế Phục, nhờ đem vào biếu Bối cơ giùm. Kế Phục cầm đóa hoa rồi bảo Ðộ Tân cứ ra quán trọ Mai Hoa mà chờ.
    Bối cơ được đóa hoa ngọc thì mừng lắm, vội vào phòng ngủ của Mễ công, lén lấy ấn tuần vũ đóng dấu vào một lá sớ vàng rồi trao cho Kế Phục. Ðộ Tân nằm ở quán trọ mà trong lòng cứ bồn chồn, hồi hộp. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, Ðộ Tân vội nhỏm dậy, chạy ra mở. Thấy Kế Phục, Ðộ Tân mừng quá, trống ngực đánh thình thình. Kế Phục mỉm cười, nói:"Ðã làm xong việc cho túc hạ rồi!" Nói xong, Kế Phục móc túi, lấy lá sớ vàng ra trao cho Ðộ Tân. Ðộ Tân mừng quá, chỉ thốt được hai tiếng cám ơn rồi giơ tay đón nhận lá sớ, gấp làm tư, cất vào túi. Ðộ Tân ra trả tiền phòng, rồi nhảy ngay lên ngựa phóng về làng.
    Vừa về tới cổng nhà thì thấy tì nữ cũng vừa phóng ngựa tới. Ðộ Tân vội lên tiếng:"May mà hôm nay bỉ nhân chẳng làm nhục mệnh của nương tử! Mấy năm trước đây, bỉ nhân nghèo túng, phải đi ăn nhờ ở đậu mà vẫn chẳng chịu bán đóa hoa ngọc của nương tử ban cho. Hôm nay, vì nương tử mà bỉ nhân phải đem nó tặng lại người khác. Ném vàng đi, bỉ nhân chẳng tiếc, song mất đóa hoa ngọc thì bỉ nhân tiếc lắm. Nhờ tiểu nương về xin với nương tử thưởng cho bỉ nhân một đóa hoa khác, giống như thế!" Sau đó, Ðộ Tân thuật lại việc mình trao đóa hoa ngọc cho Kế Phục, nhờ đem đi tặng Bối cơ để xin lá sớ vàng. Thuật xong, Ðộ Tân móc túi lấy lá sớ ra trao. Tì nữ nhận lá sớ, cám ơn Ðộ Tân rồi quay ngựa, phóng như bay.
    Ba hôm sau, Ðộ Tân đang ngồi trong nhà thì thấy Phó công tử cưỡi ngựa bạch tới thăm. Sau khi chào hỏi, công tử đưa biếu Ðộ Tân một túi vàng lớn, gồm trăm lạng. Ðộ Tân nghiêm nét mặt, nói:"Sở dĩ tiểu sinh giúp được lệnh tôn là vì lệnh muội đã ban cho tiểu sinh một ân huệ. Nếu chẳng vì ân huệ ấy thì dù công tử có cho tiểu sinh vạn lạng vàng, tiểu sinh cũng chẳng thể đem danh tiết của mình ra mà đánh đổi được!" Công tử cứ năn nỉ mãi để Ðộ Tân nhận cho. Ðộ Tân càng nghiêm sắc mặt, cương quyết chối từ. Công tử ngượng quá, đành phải đem túi vàng lên ngựa mà cáo biệt. Trước khi về, công tử nói:"Ân nghĩa của cao hiền, gia đình bỉ nhân chưa trả xong đâu!" rồi vái chào Ðộ Tân, phóng ngựa đi.
    Hôm sau, tì nữ lại cưỡi ngựa tới. Vào nhà, tì nữ lấy ra một túi minh châu gồm trăm hạt, đặt lên bàn, nói: "Nương tử sai tiểu tì đem túi minh châu này tới để đền ơn tú tài. Tú tài nghĩ trăm hạt minh châu này đã đủ để đền bù lại đóa hoa ngọc chưa?" Ðộ Tân đáp:"Ðóa hoa ngọc là đóa hoa ngọc chứ chẳng phải là trăm hạt minh châu. Dù nương tử có ban cho bỉ nhân trăm vạn lạng vàng thì bỉ nhân cũng chỉ trở thành một phú nhân thôi chứ chẳng thể trở thành kẻ có cái diễm phúc được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật! Bỉ nhân cam phận nghèo chỉ vì muốn được làm kẻ có cái diễm phúc ấy. Nương tử là người thần, bỉ nhân đâu dám ước mơ chuyện phu thê mà chỉ muốn được giữ đóa hoa ngọc làm kỷ vật thôi! Bây giờ, tuy đã mất đóa hoa ngọc nhưng lại báo được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc. Thực tình mà nói, nếu phải mất mạng để báo đáp được hồng ân của nương tử thì bỉ nhân cũng chẳng tiếc, huống hồ là chỉ mất có đóa hoa ngọc? Xin tiểu nương đem túi minh châu này về trình lại với nương tử như thế cho!" Tì nữ cứ để túi minh châu trên bàn rồi chào từ biệt. Ðộ Tân gọi giật lại, nói:"Xin tiểu nương làm ơn đem túi minh châu này về để cho tâm hồn bỉ nhân được thanh thản!" Bất đắc dĩ, tì nữ phải đem túi minh châu lên ngựa, ra về.
    Ba hôm sau, Phó công tử lại cưỡi ngựa tới thăm, lần này có dắt theo một đầu bếp giỏi. Ðộ Tân sai gia nhân bày tiệc. Công tử nói:"Hôm nay bỉ nhân có dắt theo một đầu bếp tới để nấu nướng cho chúng ta say sưa một bữa!" rồi sai đầu bếp xuống bếp làm tiệc với gia nhân nhà Ðộ Tân. Tiệc bày xong, Ðộ Tân mời công tử nhập tiệc. Ðộ Tân có một vò rượu quý của người bạn thân biếu đã từ lâu, song còn để dành, chưa mở. Hôm ấy, Ðộ Tân sai gia nhân khui vò rượu ra để cùng công tử yến ẩm.
    Hai người yến ẩm, đàm luận, thân mật như anh em một nhà. Công tử uống rất hào, uống hết trăm chén mà vẫn chưa say, mặt chỉ hơi đỏ. Thấy rượu quá ngon, công tử khen: "Thực tình, bình sinh bỉ nhân chưa từng được uống thứ rượu nào ngon như thế này bao giờ!" Tiệc gần tan, đột nhiên công tử nói:"Cao hiền là một kẻ sĩ trinh giới. Huynh đệ bỉ nhân chẳng hiểu được cao hiền sớm hơn nên thẹn mình chẳng bằng giới quần thoa. Gia nghiêm cảm cái công ơn của cao hiền đã tận tình giúp đỡ, chẳng biết lấy chi báo đáp, nên hôm nay sai bỉ nhân tới đây để đề nghị với cao hiền một chuyện!" Ðộ Tân vội hỏi: "Lệnh tôn muốn sai bảo tiểu sinh chuyện chi?" Công tử đáp: "Gia nghiêm muốn đem gia muội gả cho cao hiền làm chính thất song lại sợ cao hiền e ngại việc phối ngẫu giữa người trần thế với người u minh nên phải sai bỉ nhân tới đây dò ý cao hiền trước!" Ðộ Tân sung sướng quá, lặng người đi hồi lâu, chẳng nói được lời nào. Lát sau Ðộ Tân mới lên tiếng: "Nếu quả vậy thì dù tiểu sinh có phải chết ngay bây giờ tiểu sinh cũng đã mãn nguyện lắm rồi!" Công tử cười, nói: "Nếu vậy thì đêm mai, mồng chín tháng bảy, đúng lúc trăng mọc, là ngày lành giờ tốt, xin cao hiền chuẩn bị sẵn sàng cho!" Ðộ Tân hỏi: "Tại sao lệnh tôn lại chọn ngày giờ đó?" Ðáp: "Vì đó là ngày giờ mà xưa kia một điệt nữ của Thượng Ðế đã xuống trần gian, kết nghĩa phu thê với người trần thế!" Ðáp xong, công tử kêu đầu bếp sửa soạn yên cương, rồi xin cáo biệt.
    Tối sau, Ðộ Tân sửa soạn đủ mọi nghi thức hôn lễ. Ðúng vào lúc trăng mọc, quả nhiên có một đoàn xe hộ tống nữ lang tới. Ðộ Tân bèn cùng nữ lang làm lễ giao bái, thành thân.
    Về nhà chồng, nữ lang hành xử chẳng khác chi một nàng dâu trần thế. Nữ lang rất hiền thục, ai thấy cũng phải kính yêu. Ba ngày sau, nữ lang ban thưởng tiền bạc cho tất cả mọi gia nhân lớn nhỏ trong nhà, ai cũng có phần. Hôm sau nữa, nữ lang theo chồng tới chào người anh và chị dâu chồng, biếu toàn những phẩm vật quý giá. Vì mẹ chồng đã mất, nữ lang đối xử với chị dâu chồng, kính cẩn lễ độ như đối xử với mẹ chồng vậy. Tuy chung sống với Ðộ Tân song tuyệt nhiên nữ lang chẳng sanh nở.
    Ba năm sau. Một hôm nữ lang khuyên Ðộ Tân nên lấy vợ lẽ để có con nối dõi tông đường. Ðộ Tân cương quyết từ chối. Nữ lang cũng đành thôi. Ba năm sau nữa, một hôm nữ lang lại khuyên Ðộ Tân nên lấy vợ lẽ. Ðộ Tân lại từ chối. Nữ lang tỏ vẻ buồn. Thấy thế, Ðộ Tân đành thuận lấy vợ lẽ để chiều lòng vợ cả. Nữ lang mừng lắm, bèn nhờ người anh và chị dâu chồng để ý tìm kiếm vợ lẽ cho chồng.
    Năm sau, Ðại Thành đi buôn ở Giang Hoài. Thấy một người rao bán một tiểu cơ, họ Cố, tên Bác Sĩ, tướng mạo đẹp đẽ, tính tình hiền thục, Ðại Thành liền bỏ tiền ra mua, đem về cho em làm vợ lẽ. Nữ lang mừng lắm. Ðộ Tân cũng hòa hợp với Cố thị.
    Năm sau nữa, vào dịp Tết nguyên đán, Ðộ Tân tới phòng Cố thị ngồi nói chuyện. Cố thị đem hộp nữ trang ra ngồi trước gương, chọn vật cài tóc. Thấy Cố thị chọn một đóa hoa ngọc, giống hệt đóa hoa mà nữ lang đã tặng mình ngày trước, Ðộ Tân lấy làm lạ, bèn bảo Cố thị đưa cho mình coi. Thấy đúng là vật cũ của nữ lang, Ðộ Tân vô cùng kinh ngạc, hỏi:"Nàng lấy đóa hoa này ở đâu ra?" Cố thị đáp:"Nguyên đóa hoa này là của ái thiếp Bối cơ của quan tuần vũ Mễ công. Cách đây hơn ba năm, khi Bối cơ mất, tì nữ thân tín đánh cắp đóa hoa này đem ra chợ bán. Gia nghiêm thấy giá rẻ thì mua đem về. Thiếp thấy đẹp thì thích, cứ đòi coi suốt ngày. Gia nghiêm thấy thế bèn cho hẳn thiếp vì gia nghiêm chỉ có một mình thiếp là con. Ít lâu sau, khi gia nghiêm mất, di mẫu thiếp đem thiếp về nuôi. Thấy đóa hoa quý, di mẫu thiếp thích lắm, muốn bán đi để lấy tiền tiêu. Thiếp uất ức nhảy xuống giếng tự tử song chẳng chết. Lúc đó di mẫu thiếp mới chịu trả lại đóa hoa cho thiếp nên đóa hoa mới còn tới ngày nay!" Ðộ Tân bèn đem đóa hoa về phòng nữ lang, thuật lại câu chuyện. Nghe xong, nữ lang nói:"Vật cũ lưu lạc đã mười năm, nay lại hoàn cố chủ, âu cũng là số mệnh!" Nói xong, nữ lang mở hộp nữ trang, lấy ra một đóa hoa ngọc giống hệt như thế, nói:"Mỗi đóa hoa này đã phải xa vật phối ngẫu của nó lâu ngày, nay mới được đoàn tụ!" Rồi nữ lang cho gọi Cố thị lên phòng, tặng luôn cả đóa hoa của mình cho Cố thị, tự tay cài cả hai đóa lên mái tóc cho Cố thị. Cố thị cảm tạ nữ lang mà lui. Cố thị xuống nhà, thì thầm hỏi thăm gia nhân về lai lịch của nữ lang song ai cũng lắc đầu, chẳng ai dám nói điều chi.
    Tối ấy, Cố thị mời Ðộ Tân ra chỗ vắng người, nói: "Thiếp thấy nương tử nhà ta là người thần chứ chẳng phải là người phàm trần!" Ðộ Tân hỏi:"Sao nàng biết?" Cố thị đáp:"Vì thiếp thấy vẻ mặt của nương tử có thần khí! Lúc nương tử cài hai đóa hoa lên mái tóc cho thiếp, thiếp được đứng gần nương tử, thấy vẻ đẹp của nương tử toát ra cả làn da. Người phàm trần làm sao có được vẻ đẹp ấy?" Ðộ Tân chẳng nói chi, chỉ mỉm cười. Cố thị lại nói:"Thiếp có cách thử xem nương tử có phải là người thần hay không?" Ðộ Tân hỏi:"Cách nào?" Cố thị đáp: "Thiếp nói với lang quân song xin lang quân chớ thuật lại với nương tử!" Ðộ Tân gật đầu. Cố thị nói:"Nương tử có tài thêu bít tất thực khéo. Thiếp thích những đôi bít tất ấy lắm, song chẳng dám xin. Ðể khuya nay, thiếp thắp hương trong phòng riêng, cầu khấn nương tử cho thiếp một đôi. Nếu nương tử là người thần thì thế nào nương tử cũng biết việc thiếp thắp hương cầu khấn, xin bít tất!" Ðộ Tân lại cười, rồi về phòng nữ lang mà nghỉ.
    Sáng sau, khi ngủ dậy, đột nhiên Ðộ Tân thấy nữ lang gọi tì nữ vào phòng, đưa cho một đôi bít tất mới thêu, nói:"Hãy đem tới phòng Cố thị, nói rằng của ta cho!" Tì nữ vừa cầm đôi bít tất ra khỏi phòng thì Ðộ Tân phá lên cười. Nữ lang hỏi:"Tại sao lại cười?" Ðộ Tân bèn thuật chuyện Cố thị nói với mình. Nghe xong, nữ lang cũng cười, nói:"Con nhỏ này thông minh lắm!" Từ đó, nữ lang lại càng thương mến Cố thị hơn. Tuy được nữ lang thương mến song lúc nào Cố thị cũng giữ mực cung kính. Sáng nào, Cố thị cũng tự tay nấu nước thơm bưng lên phòng để nữ lang gội đầu.
    Năm sau, Cố thị sanh đôi, được hai trai. Nữ lang chăm sóc hai hài nhi, coi như hai đứa con do chính mình sanh ra vậy. Ba vợ chồng chung sống trong cảnh tương đắc, đầm ấm, dưới cùng một mái nhà.
    Năm mươi năm sau.
    Vào dịp sinh nhật của Ðộ Tân, nữ lang ra lệnh cho gia nhân sửa soạn lễ thượng thọ tám mươi cho Ðộ Tân. Trong buổi lễ, ai cũng phải lấy làm lạ rằng nữ lang trông vẫn còn trẻ như một thiếu nữ chưa xuất giá.
    Cuối năm ấy, Ðộ Tân lâm trọng bệnh. Nữ lang cho gọi thợ mộc tới nhà đóng một cỗ quan tài rộng gấp đôi cỗ quan tài bình thường.
    Mấy hôm sau, Ðộ Tân mất. Nữ lang chẳng hề than khóc một tiếng, chỉ ra lệnh cho gia nhân làm lễ tẩm liệm. Rồi nữ lang cho gọi đông đủ con cháu và gia nhân lên phòng quàn làm lễ phát tang. Lễ xong, nữ lang ra lệnh cho tất cả mọi người dời khỏi phòng. Rồi nữ lang bước vào linh cữu, nằm xuống cạnh Ðộ Tân, nhắm mắt mà mất.
    Lát sau, con cháu lén lên phòng quàn coi. Thấy nữ lang nằm cạnh Ðộ Tân mà mất, con cháu cùng kinh ngạc. Thế rồi toàn gia bèn làm lễ phát tang chung cho cả Ðộ Tân và nữ lang, mai táng hai người trong cùng một linh cữu.
    Tới nay, dân chúng trong vùng vẫn gọi ngôi mộ chung của Ðộ Tân và nữ lang là Ðại Tài Trủng, nghĩa là ngôi mộ có quan tài lớn.



    ST
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment


    • #32
      VỢ CHỒNG TIÊN -dịch giả: Đàm Quang Hưng

      (truyện THANH NGA)
      Huyệt viên tằng thám tú phòng xuân
      Tạc thạch trùng liên động phủ nhân
      Ðạo sĩ tặng sàm như hữu ý
      Ðộ tha hiếu tử tác tiên nhân

      Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có quan bình sự họ Vũ, rất mộ đạo Lão, trong nhà có rất nhiều sách Lão Trang. Ông bà bình sự có một gái, tên Thanh Nga, rất mực kiều diễm, thường lén đọc sách của cha và rất hâm mộ Hà Tiên Cô. Năm Thanh Nga 14 tuổi, Vũ ông bỏ nhà sang ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc, rồi vào núi Thuận Sơn tu tiên. Thanh Nga ở lại Tấn Dương với mẹ, cũng bắt chước cha, lập chí tu tiên. Vì thế, Thanh Nga quyết chẳng lấy chồng. Có đám nào tới hỏi, Thanh Nga cũng từ chối. Vũ bà chiều ý con, chẳng ép duyên.
      Ở Tấn Dương lại có quan huyện úy họ Hoắc, quán tại huyện Sơn Hữu. Ông bà huyện úy có một trai, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu, kém Thanh Nga một tuổi. Năm Khuông Cửu lên 5, Hoắc ông qua đời, để lại cho Hoắc bà một ngôi nhà ở Tấn Dương và một dinh cơ ở Sơn Hữu. Khuông Cửu học giỏi, nổi tiếng thần đồng, năm 11 tuổi đã đậu thủ khoa khóa thi nhập học trường huyện. Vì thương yêu con quá, Hoắc bà chỉ cho con tới trường rồi lại bắt về nhà chứ chẳng cho đi đâu. Vì thế, năm 13 tuổi, Khuông Cửu vẫn chưa biết mặt chú cô cậu dì nội ngoại. Khuông Cửu rất có hiếu với mẹ, song cũng rất hiếu sắc. Tuy còn ít tuổi, song hễ thấy gái đẹp là đã si mê.
      Một hôm đi học về, gặp Thanh Nga ở dọc đường, Khuông Cửu bỗng cảm thấy lòng xao xuyến. Dò hỏi mọi người, biết Thanh Nga là con Vũ bà, Khuông Cửu bèn nói với mẹ:"Mẹ nhờ bà mối tới nhà Vũ bà hỏi Thanh Nga cho con đi!" Hoắc bà đáp:"Mẹ nghe nói Thanh Nga đã lập chí tu tiên, quyết chẳng lấy chồng, hỏi làm chi cho phí công vô ích!" Bị phật ý, Khuông Cửu hậm hực, cứ buồn rầu mãi. Thấy con buồn, Hoắc bà bèn nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con. Quả nhiên Thanh Nga từ chối. Khuông Cửu cố nghĩ ra phương kế để gặp Thanh Nga, song nghĩ mãi mà vẫn chưa ra phương kế gì.
      Một hôm, Khuông Cửu ra cổng đứng chơi. Thấy một đạo sĩ đi qua, tay cầm chiếc dầm nhỏ, chỉ dài chừng gang tay, Khuông Cửu lấy làm lạ, bèn chạy tới mượn để coi, rồi hỏi:"Dầm này dùng để làm chi?" Ðạo sĩ cười, đáp: "Ðể khoét đá cứng" Hỏi:"Nhỏ thế này thì làm sao mà khoét?" Cười, đáp:"Tuy nhỏ song cứng và sắc lắm!" Khuông Cửu lắc đầu, tỏ vẻ chẳng tin. Ðạo sĩ bèn lấy lại dầm, khoét vào tảng đá ở ngoài cổng. Thấy tảng đá bị lõm vào một lỗ, Khuông Cửu kinh ngạc, lại mượn dầm để ngắm nghía. Ðạo sĩ cười, nói:"Thích thì cho đó!" Khuông Cửu mừng quá, đáp:"Xin chờ một lát!" rồi cầm dầm chạy vào nhà, lấy một mớ tiền, đem ra trả đạo sĩ. Ðạo sĩ lắc đầu cười, nói:"Cho chứ đâu có bán!" rồi lững thững bỏ đi. Khuông Cửu bèn đem dầm vào nhà, khoét vào góc tường ở cuối sân thì thấy góc tường cũng bị thủng. Khuông Cửu mừng lắm, định bụng sẽ đem dầm tới nhà Vũ bà, khoét tường để vào gặp Thanh Nga, chẳng biết rằng làm như thế là phạm pháp.
      Ðêm ấy, Khuông Cửu giắt dầm vào thắt lưng, lén mẹ trèo tường ra khỏi nhà. Tới nhà Vũ bà, thấy một vòng tường vây kín, Khuông Cửu bèn rút dầm, khoét một lỗ hổng dưới chân tường rồi chui vào. Thấy một vòng tường nữa, Khuông Cửu lại khoét rồi lại chui vào. Thấy ở bên trong có một sân rộng và ở cuối sân có một căn phòng còn đèn sáng, Khuông Cửu bèn chạy tới, áp mắt vào lỗ khóa mà dòm. Thấy Thanh Nga đang cởi bỏ nữ trang rồi tắt đèn đi nghỉ, Khuông Cửu chưa dám có hành động gì, chỉ nép mình ở ngoài hành lang để nghe ngóng.
      Lát sau, thấy cảnh vật đã im, Khuông Cửu mới rút dầm khoét tường rồi chui vào. Dón dén bước tới cạnh giường, thấy Thanh Nga đang thở đều đều, Khuông Cửu khẽ cởi giầy, leo lên giường, nằm nép cạnh chiếc chăn gấm, nhắm mắt hưởng hương thơm. Mệt mỏi từ tối, nay thấy thoải mái, Khuông Cửu ngủ thiếp đi.
      Lát sau, Thanh Nga thức giấc. Thấy ánh trăng tỏa sáng đầy phòng, Thanh Nga lấy làm lạ, bèn đảo mắt nhìn quanh. Thấy trên tường có một lỗ hổng mới khoét, Thanh Nga kinh hãi quá, vội dón dén ngồi dậy, tới giường tì nữ, lấy tay bịt miệng, nói thầm vào tai:"Khẽ chứ, hãy ra khỏi phòng này ngay!" Hai người cùng dón dén, mở cửa lẻn ra sân, chạy tới phòng bà vú, gõ cửa gọi bà dậy, thuật lại chuyện cho nghe. Bà vú vội thắp đèn, lấy cho mỗi người một cây gậy, bảo theo mình trở lại phòng Thanh Nga. Tới giường, bà vú soi đèn. Thấy một chú bé, mặt mũi non choẹt, tóc kết trái đào, đang nằm ngủ say, bà bèn lay dậy. Chú bé nhỏm dậy, mắt sáng như sao, chẳng sợ hãi chi. Tì nữ nhận ra chú bé là Khuông Cửu, con trai Hoắc bà, thì thấy yên tâm, bèn vờ doạ nạt:"Chắc chú bé này là đạo tặc. Mình hãy bắt trói, đem lên nạp quan" Nghe thấy thế, Khuông Cửu bật khóc, nói:"Chỉ vì thương yêu nương tử đây nên muốn được gần gũi chứ đâu có phải là đạo tặc!" Tì nữ hỏi:"Làm thế nào mà khoét được ba lần tường?" Khuông Cửu liền rút chiếc dầm ở lưng ra, nói:"Dầm này sắc lắm, khoét tường rất dễ!" Tì nữ liền giằng lấy, đem khoét thử vào tảng đá ở đầu hè, thì thấy đúng như lời. Tì nữ kinh hãi, nghĩ chắc chiếc dầm là thần vật của thần ban cho Khuông Cửu. Tì nữ vào phòng, ướm hỏi tiểu chủ: "Tiểu thư ơi! Bây giờ tiện tì đem chiếc dầm này lên trình phu nhân nhé?" Thanh Nga cúi đầu suy nghĩ. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ nói:"Chú bé này nổi tiếng thần đồng, tiểu thư có kết duyên cũng chẳng nhục nhã chi! Bây giờ ta hãy thả cho chú ấy về, bảo nói với mẹ nhờ bà mối tới hỏi lần nữa. Rồi sáng mai tiện tì sẽ trình dối với phu nhân rằng đêm qua nhà mình bị trộm tới khoét tường. Tiểu thư nghĩ sao?" Thanh Nga vẫn lặng im chẳng đáp. Hiểu ý tiểu chủ, tì nữ bèn giục Khuông Cửu:"Thôi, về đi!" Khuông Cửu nói:"Trả lại chiếc dầm đã!" Tì nữ cười, nói:"Ðâu có được! Ngốc nghếch mà cũng biết đòi lại cái vật tội lỗi ấy ư?" Khuông Cửu liền đảo mắt nhìn quanh, cố tìm một vật gì để lấy bù lại chiếc dầm. Chợt thấy một cành thoa vàng nằm bên gối, Khuông Cửu liền lấy cho vào túi áo. Tì nữ nhìn thấy, mách:"Tiểu thư ơi! Chú ấy lấy trộm cành thoa của tiểu thư kìa!" Thanh Nga chẳng nói mà cũng chẳng tỏ vẻ tức giận. Tì nữ cười, nói:"Hãy còn ngốc lắm!" Thấy tì nữ cứ chê chú bé là ngốc, bà vú bèn lên tiếng:"Úi chao! Chẳng ngốc đâu! Khôn lắm đó!" Rồi tới nắm lấy cánh tay Khuông Cửu kéo ra sân, lôi tới lỗ hổng ở chân tường, bảo: "Lúc nãy vào bằng lối nào thì bây giờ phải ra bằng lối ấy!" Khuông Cửu bèn chui qua lỗ hổng mà về. Tới nhà, Khuông Cửu trèo tường vào phòng ngủ.
      Sáng sau, Khuông Cửu chẳng dám thuật lại việc lén tới nhà Vũ bà cho mẹ nghe mà chỉ giục:"Mẹ hãy nhờ bà mối tới hỏi Thanh Nga cho con lần nữa đi!" Thấy con si tình, Hoắc bà gật đầu, rồi tới nhà bà mối, nói:"Con tôi nó muốn nhờ bà tới hỏi Thanh Nga cho nó lần nữa! Tôi biết Thanh Nga đã quyết chí tu tiên, chẳng muốn lấy chồng thì có tới hỏi cũng vô ích! Thế nhưng vì tôi chẳng nỡ chối từ con nên phải giả vờ tới đây để nhờ bà. Vậy xin bà làm ơn để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho nó một đám!" Bà mối gật đầu, nói:"Xin vâng!"
      Hoắc bà về rồi, bà mối liền sang nhà hàng xóm nói chuyện mình sắp làm mai một đám khác cho Khuông Cửu. Chuyện đồn tới tai Thanh Nga. Thanh Nga bèn sai tì nữ tâm phúc tới thưa với Hoắc bà:"Tiểu thư nhà tiện tì đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với lệnh công tử, sai tiện tì tới đây trình phu nhân!" Hoắc bà mừng lắm, lại tới nhà bà mối, nói:"Thanh Nga vừa cho tì nữ tới nói với tôi là cô ấy đã đổi ý, bằng lòng kết duyên với con tôi. Vậy nhờ bà cứ tới làm mai giùm cho nó lần nữa!" Bà mối lại gật đầu, nói:"Xin vâng!"
      Ở nhà Vũ bà, tì nữ của Thanh Nga bép xép chuyện Khuông Cửu khoét tường cho lũ gia nhân nghe. Có kẻ đem chuyện ấy mách Vũ bà. Nghe chuyện, Vũ bà giận lắm, cho là Khuông Cửu đã làm nhục gia đình mình.
      Hôm ấy, bà mối lại tới nhà Vũ bà, nói:"Hoắc bà nhờ tôi tới đây để xin hỏi lệnh tiểu thư cho Hoắc công tử lần nữa!" Nghe thấy thế, Vũ bà nổi giận, cầm một cây gậy chạy ra giữa sân, chỉ trời vạch đất mà thề:"Tôi thề là chẳng bao giờ gả con gái cho cái thằng mất dạy Khuông Cửu ấy! Ðào tường khoét vách, leo lên giường con gái nhà người ta mà nằm, đúng là đồ đạo tặc dâm bôn! Làm mẹ mà chẳng biết dạy con, đúng là mẹ thằng mất dạy!"
      Bà mối kinh hãi, chạy về thuật lại cho Hoắc bà nghe. Nghe xong, Hoắc bà cũng nổi giận, nói:"Sao bà ấy lại được ăn nói hỗn hào với tôi như thế! Chuyện thằng con tôi nó làm, tôi đâu có biết mà ngăn? Sao bà ấy chẳng biết dạy gia nhân rằng nếu gặp chúng nó ăn nằm với nhau như thế thì cứ việc bắt cả hai đứa, đem ra mà giết?" Rồi Hoắc bà đi rêu rao khắp chốn. Thanh Nga nghe chuyện, xấu hổ vô cùng, ý muốn tự tử. Vũ bà nghe chuyện, cũng đâm hối hận, sai tì nữ canh chừng con rất sát. Thanh Nga bèn viết một lá thư gửi Hoắc bà, lời lẽ rất bi thiết, thề chẳng lấy ai ngoài Khuông Cửu, rồi sai tì nữ đưa sang. Hoắc bà mở thư ra đọc thì cũng cảm động, nên thôi không đi rêu rao nữa. Tuy nhiên, Hoắc bà vẫn nhất định không chịu hỏi Thanh Nga cho con.
      Năm sau, triều đình bổ nhậm tiến sĩ họ Âu, người tỉnh Thiểm Tây, tới làm quan tể huyện Tấn Dương. Âu công vốn ưa thích văn chương, thường hay đọc văn bài của các nho sinh trong huyện. Khi đọc tới văn bài của Khuông Cửu, Âu công thích lắm, sai lính đi gọi Khuông Cửu vào tư dinh đàm luận.
      Tháng sau. Một hôm Khuông Cửu đang ngồi đàm luận với Âu công thì bỗng Âu công hỏi:"Ðã hỏi vợ chưa?" Khuông Cửu đáp:"Thưa chưa!" Hỏi:"Mười bốn tuổi rồi, sao chưa hỏi vợ?" Ðáp:"Thực ra, năm ngoái gia mẫu có hỏi con gái quan bình sự họ Vũ trong huyện cho tiểu sinh. Nhưng rồi gia mẫu có chuyện xích mích với Vũ bà nên bỏ luôn việc cầu hôn!" Hỏi:"Thế bây giờ có còn muốn cầu hôn đám đó nữa hay không?" Khuông Cửu đỏ mặt bẽn lẽn. Âu công bèn cười, nói:"Thôi! Ðể ta tác thành cho!"
      Hôm sau, Âu công sai quan huyện úy cùng quan giáo dụ đem sính lễ tới nhà Vũ bà, xin hỏi cưới Thanh Nga cho Khuông Cửu. Thấy gia đình mình được Âu công chiếu cố, Vũ bà lấy làm vinh dự, bèn nhận lời ngay. Còn Hoắc bà thì vì nể uy thế của Âu công nên cũng phải vâng lời. Hai bên bèn thỏa thuận gặp nhau để bàn tính chuyện hôn nhân.
      Tháng tám năm sau, Hoắc bà đón dâu về cho con. Chú rể 15, cô dâu 16. Tối hôm động phòng hoa chúc, Thanh Nga cầm chiếc dầm ném xuống đất, nói:"Hãy quẳng cái vật đào tường khoét vách này đi!" Khuông Cửu cúi xuống nhặt chiếc dầm, giắt vào thắt lưng, rồi cười, nói:"Ta chẳng thể nào quên được bà mối này!" Từ đó, Khuông Cửu đi đâu cũng giắt theo chiếc dầm ở thắt lưng.
      Thanh Nga hiền hậu, ít nói, thờ mẹ chồng rất phải đạo, ngày nào cũng tới thăm hỏi ba lần. Thế nhưng, ngoài việc thăm hỏi ra, Thanh Nga chỉ ngồi trong thư phòng đọc sách, chứ chẳng hề phụ giúp mẹ chồng cai quản gia vụ. Chỉ khi nào Hoắc bà bận việc giao tế, phải đi dự đám tang, đám cưới, Thanh Nga mới chịu đứng ra trông nom. Thế nhưng, khi đã trông nom thì đâu vào đấy, thứ tự, ngăn nắp, khiến gia nhân đều phải kính phục.
      Hai năm sau, Thanh Nga sanh trai, đặt tên là Mạnh Tiên. Thanh Nga chẳng hề chăm sóc cho con mà giao cho bà vú chăm sóc thay mình.
      Tám năm sau. Một hôm Thanh Nga nói với chồng: "Cái duyên hoan ái của chúng mình đã hết. Nay đã tới lúc phải ly biệt!" Khuông Cửu kinh hãi quá, hỏi: "Sao lại phải ly biệt?" Thanh Nga chỉ im lặng, chẳng đáp. Sáng sau, Thanh Nga ngủ dậy sớm, tắm rửa, trang điểm, lên lạy mẹ chồng ba lạy rồi vào phòng riêng. Khuông Cửu thấy lạ, bèn theo vào thì thấy Thanh Nga lên giường nằm, ngửa mặt nhìn trần nhà. Khuông Cửu hỏi:"Làm chi kỳ thế?" Thanh Nga chẳng đáp. Lát sau, Thanh Nga tắt thở. Khuông Cửu và Hoắc bà cùng khóc lóc thảm thiết. Thế rồi hai mẹ con làm tang lễ rất trọng thể cho Thanh Nga.
      Từ đó, ngày nào Hoắc bà cũng bế cháu nội, khóc con dâu. Buồn rầu rồi thành bệnh, Hoắc bà nằm liệt giường. Khuông Cửu bèn rước lương y về trị bệnh cho mẹ. Hoắc bà đỡ dần song vẫn biếng ăn.
      Một hôm, Khuông Cửu vào thăm mẹ, hỏi:"Sao mẹ chẳng chịu ăn uống chi cả? Mẹ có thèm ăn món gì đặc biệt không?" Hoắc bà đáp: "Mẹ chỉ thèm ăn canh cá rô thôi!" Ở Tấn Dương, muốn mua cá rô ngon, phải sang Thuận Thiên, xa trên trăm dặm. Gia nhân đều bận việc phải đi xa, Khuông Cửu chẳng chịu chờ chúng về, tự mình sang Thuận Thiên mua cá. Sáng sau, mua được cá ngon, Khuông Cửu ra về. Dọc đường, tới Thuận Sơn, Khuông Cửu thấm mệt, hai chân sưng nhức, cất bước nặng nề. Bỗng có một ông lão, vai đeo bọc, từ phía sau vượt lên, quay đầu hỏi:"Sưng chân đấy ư?" Khuông Cửu đáp: "Thưa vâng!" Ông lão bèn tới kéo Khuông Cửu ngồi xuống vệ đường, mở bọc lấy đá quẹt lửa, đốt thuốc xông cho, rồi nói:"Thử đứng dậy, bước đi coi!" Khuông Cửu làm theo lời thì bỗng thấy chân mình chẳng những đã hết sưng nhức mà còn cứng mạnh hơn trước. Vừa kinh ngạc, vừa cảm động, Khuông Cửu bèn vái tạ ông lão rồi xin cáo biệt. Ông lão hỏi: "Ði đâu mà vội thế?" Khuông Cửu đáp: "Gia mẫu bị bệnh, chẳng thèm ăn chi ngoài canh cá rô. Ở Tấn Dương không có cá rô ngon nên tiểu sinh phải sang Thuận Thiên tìm mua! Bây giờ đã mua được nên phải vội đem về!" Hỏi: "Có vợ chưa?" Ðáp: "Tiểu sinh góa vợ" Hỏi: "Sao chưa lấy vợ kế?" Ðáp: "Vì chưa kiếm được người vừa ý!" Ông lão liền giơ tay chỉ về phía sơn thôn ẩn hiện đằng xa, nói: "Ở sơn thôn đằng kia có một thiếu nữ đẹp lắm. Nếu chịu khó theo lão phu tới đó, lão phu sẽ làm mai cho!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Tiểu sinh chẳng thể đi theo lão trượng được vì gia mẫu đang chờ ở nhà!" Ông lão nói: "Thế thì thôi! Tuy nhiên, nếu mai mốt muốn nhờ lão phu làm mai cho thì cứ việc tới đó, hỏi thăm thôn dân xem nhà lão Vương ở đâu là họ sẽ chỉ cho!" Khuông Cửu đáp: "Xin vâng!" rồi xin cáo biệt.
      Tới nhà, Khuông Cửu tự tay nấu canh cá rô dâng mẹ. Hoắc bà ăn xong, khen ngon rối rít. Tuần sau, Hoắc bà khỏi bệnh. Khuông Cửu bèn thuật lại chuyện mình gặp Vương lão ở Thuận Sơn cho mẹ nghe, rồi nói :"Sang năm, hết tang vợ, con sẽ xin phép mẹ được trở lại Thuận Sơn tìm Vương lão!" Hoắc bà đáp: "Việc ấy tùy con!"
      Năm sau. Vào ngày rằm tháng tám, Khuông Cửu sai một gia nhân cưỡi ngựa theo mình đi Thuận Sơn. Tới nơi, hai thày trò cho ngựa chạy vòng quanh chân núi để tìm sơn thôn, song từ sáng tới trưa chỉ thấy toàn động núi. Khuông Cửu bèn bảo gia nhân: "Ta với ngươi, mỗi người đi một ngả để tìm cho nhanh. Hẹn đầu giờ dậu, gặp nhau ở chỗ này!" Gia nhân đáp: "Xin vâng!" rồi quất ngựa phóng đi. Gia nhân đi tìm từ trưa tới tối cũng chẳng thấy sơn thôn nào, bèn trở lại chỗ hẹn để gặp tiểu chủ. Chờ tới khuya cũng chẳng thấy tiểu chủ đâu, gia nhân kinh hãi quá, đành phóng ngựa ra về.
      Tới nhà, gia nhân vội trình việc Khuông Cửu mất tích lên Hoắc bà. Nghe tin, Hoắc bà lo sợ, bật khóc thất thanh. Sáng sau, Hoắc bà sai một toán mười gia nhân cưỡi ngựa đi Thuận Sơn tìm Khuông Cửu. Toán gia nhân sục sạo tìm kiếm suốt hai ngày song cũng chẳng thấy chi, đành quay về trình báo. Hoắc bà càng lo sợ, khóc lóc suốt ngày đêm.
      Từ lúc chia tay với gia nhân, Khuông Cửu cưỡi ngựa leo núi. Vì đường dốc, ngựa khó đi, Khuông Cửu bèn thả cho ngựa tìm cỏ ăn, rồi leo núi một mình. Lên tới đỉnh núi, đưa mắt nhìn quanh, chẳng thấy sơn thôn nào, Khuông Cửu bèn quay xuống núi tìm ngựa để trở lại chỗ hẹn. Xuống đến lưng chừng núi thì trời vừa tối. Thấy phong cảnh khác lạ, Khuông Cửu biết là mình bị lạc. Ðột nhiên, Khuông Cửu thấy mình bước tới một bờ vực thẳm. Bàng hoàng hốt hoảng, Khuông Cửu trượt chân, rồi té xuống vực. Ðang thầm nghĩ chắc mình sắp chết thì thấy thân mình rơi trúng một giải đất từ sườn núi nhô ra. Nhờ ánh trăng, nhìn xuống dưới, thấy đen ngòm, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ nằm im, chẳng nhúc nhích. Chợt thấy một hàng cây nhỏ mọc quanh giải đất như một lan can, Khuông Cửu mới đỡ lo. Lát sau hoàn hồn, quay nhìn sau lưng, thấy một cửa động, có một tảng đá chắn ngang, Khuông Cửu mừng quá, vội lấy lưng ẩy tảng đá sang một bên rồi nằm ngửa mà lết lùi vào động. Nằm trong động, Khuông Cửu thấy vững dạ hơn, mong rằng sáng sau sẽ có người qua lại để cho mình tri hô cầu cứu. Ngoài động tuy có ánh trăng song trong động vẫn tối đen như mực. Lát sau, thấy ở phía sâu trong động có một đốm sáng lấp lánh, Khuông Cửu vội đứng dậy, nhắm đốm sáng tiến vào. Ði mãi mà thấy đốm sáng vẫn còn xa, Khuông Cửu bắt đầu nản chí. Vừa toan quay trở lại thì chợt thấy ở bên đường có một khuôn viên với bốn dãy nhà đông tây nam bắc. Khuông Cửu bèn đánh bạo, mở cổng bước vào. Tuy thấy trong sân chẳng có đèn đuốc chi song Khuông Cửu thấy mắt mình vẫn nhìn rõ được mọi vật. Còn đang bỡ ngỡ, bỗng Khuông Cửu thấy một giai nhân từ dãy nhà phía đông bước ra. Giương mắt nhìn, Khuông Cửu thấy chính là vợ mình. Kinh ngạc quá, Khuông Cửu chẳng thốt được lời nào. Thanh Nga cũng kinh ngạc chẳng kém, hỏi: "Làm thế nào mà tới được chốn này?" Khuông Cửu đáp: "Chuyện dài lắm, chẳng thể kể vắn tắt được!" rồi chạy tới nắm chặt lấy cánh tay vợ mà sụt sùi. Thanh Nga nói: "Ðừng có sụt sùi nữa! Hãy nín đi mà trả lời! Mẹ có khỏe không?" Ðáp: "Khỏe" Hỏi:" Con có khỏe không?" Ðáp: "Khỏe!" Rồi nói tiếp: "Nàng chết đi, ta khổ lắm, mẹ khổ lắm, con khổ lắm!" Thanh Nga thở dài, tỏ vẻ buồn bã. Khuông Cửu hỏi:"Nàng chết đã được hơn một năm nay rồi thì nơi đây có phải là âm phủ không?" Ðáp: "Không!" Hỏi: "Sao vậy?" Ðáp: "Vì thiếp đâu có chết!" Hỏi: "Thế xác chôn trong quan tài là xác của ai?" Ðáp: "Làm gì có xác nào chôn trong quan tài?" Hỏi: "Thế vật chôn trong quan tài là vật gì?" Ðáp:"Là một cây gậy trúc!" Hỏi: "Thế chốn này là chốn nào?" Ðáp:"Là tiên phủ! Chàng đã tới được chốn này tức là đã có duyên với tiên cảnh!" Hỏi: "Bây giờ ta phải làm chi?" Ðáp: "Chẳng phải làm chi cả, chỉ cần lên sảnh đường ra mắt cha thôi!" Khuông Cửu gật đầu.
      Thanh Nga bèn dắt chồng lên dãy nhà hướng bắc. Vào sảnh đường, Khuông Cửu thấy một ông lão quắc thước, râu dài tới rốn, đang ngồi trên bục cao, có một tì nữ khoanh tay đứng hầu. Thấy con dắt khách lạ vào sảnh đường, ông lão tỏ vẻ kinh ngạc. Thanh Nga lên tiếng giới thiệu: "Thưa cha, đây là Hoắc lang, chồng con!" Khuông Cửu bèn quỳ xuống đất, lạy ông lão hai lạy. Ông lão đứng dậy, bước xuống khỏi bục, cầm tay Khuông Cửu kéo dậy, nói :"Ðã tới được chốn này thì nên ở lại, đừng về nữa!" Khuông Cửu từ chối, đáp: "Con chẳng thể ở lại đây được vì mẹ con đang mong con về!" Ông lão cười, nói: "Ðúng là chưa dứt được tục lụy trần thế! Muốn về thì cứ việc về, nhưng hãy ở lại đây chơi vài ba ngày đã!" Rồi ông lão quay qua tì nữ, nói: "Hãy đi lấy rượu và thức ăn đem tới dãy nhà hướng tây cho khách rồi dọn cho khách một phòng riêng!" Tì nữ cúi đầu đáp: "Xin tuân lệnh!"
      Hai vợ chồng cùng ra khỏi sảnh đường. Tì nữ dẫn Khuông Cửu đi về hướng tây còn Thanh Nga thì đi về hướng đông. Chợt Khuông Cửu vụt chạy ngược lại, níu lấy tay vợ, kéo đi theo mình. Thanh Nga vùng vằng chống cự. Tì nữ bưng miệng cười khúc khích. Ðột nhiên ông lão từ trong sảnh đường, chống gậy bước ra sân, quát:"Tục cốt làm bẩn tiên phủ, hãy cút đi ngay!" Bị bắt quả tang đang níu kéo vợ, Khuông Cửu thẹn quá hóa giận, nói: "Làm người, ai mà tránh khỏi chuyện nam nữ? Tại sao người trên lại đi rình mò chuyện riêng tư của kẻ dưới? Tiểu sinh sẽ ra khỏi chốn này ngay, song lệnh nữ đã là tiện nội thì phải đi theo tiểu sinh!" Ông lão chẳng biết đối đáp ra sao, chỉ giơ tay vẫy con gái đi theo mình. Thanh Nga bèn bước theo cha. Khuông Cửu vội chạy theo vợ. Tới một cửa động, ông lão lấy tay rẽ hai cánh cửa đá sang hai bên rồi quát: "Cút!" Khuông Cửu khẳng khái bước ra ngoài. Ðột nhiên, hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
      Quay đầu nhìn quanh, Khuông Cửu chỉ thấy núi non chót vót, lởm chởm như dao, chẳng kẽ len chân. Ngửng đầu nhìn lên, chỉ thấy trăng xế, sao thưa. Bơ vơ giữa rừng núi âm u, chẳng biết lối về mà cũng chẳng biết phải làm gì, Khuông Cửu kinh hãi quá, cứ đứng ủ rũ, vừa thở dài vừa oán hận ông lão. Khuông Cửu bèn quay mặt vào cửa động, lấy hết sức bình sinh mà hét: "Thanh Nga! Thanh Nga!" song chỉ nghe thấy âm thanh vang vọng của chính mình chứ tuyệt nhiên chẳng thấy có tiếng trả lời. Khuông Cửu càng oán hận ông lão. Chợt nhớ tới chiếc dầm, Khuông Cửu bèn rút ra khoét cánh cửa đá bên phải, vừa khoét vừa la. Trong khoảnh khắc, cánh cửa đá đã bị khoét sâu tới hai tấc. Chợt có tiếng ông lão từ trong động nói vọng ra: "Nghiệt chướng thay! Nghiệt chướng thay!" Khuông Cửu càng ra sức khoét nhanh. Bỗng thấy hai cánh cửa đá mở toang rồi thấy ông lão đẩy Thanh Nga ra ngoài. Hai cánh cửa đá lại tự động khép kín.
      Ra ngoài, Thanh Nga nói giọng oán hận: "Vẫn nói là thương yêu vợ mà sao lại đối xử với cha vợ tệ bạc như thế? Chẳng biết cái lão đạo sĩ quỷ quái nào lại đi cho chàng chiếc dầm tội lỗi này?" Khuông Cửu được vợ, thấy toại nguyện rồi, chẳng muốn đôi co, nên cứ lờ đi, quay qua hỏi vợ: "Có biết đường xuống núi không?" Thanh Nga đáp: "Có!" Nói: "Thế thì dẫn đường đi!" Ðáp: "Ði chân thế nào được! Phải cưỡi ngựa!" Hỏi: "Ngựa đâu mà cưỡi?" Thanh Nga chẳng đáp, chỉ lấy tay bẻ hai cành cây cạnh mình, đưa cho chồng một cành, nói: "Cưỡi lên đi!" Khuông Cửu bèn cưỡi. Thanh Nga cũng cưỡi lên cành kia. Ðột nhiên, hai cành biến thành hai ngựa. Thanh Nga phóng trước, Khuông Cửu theo sau.
      Ở nhà, Hoắc bà đang lo chẳng biết con mình lạc đi đâu thì bỗng thấy gia nhân chạy vào báo: "Thưa phu nhân, công tử đã về!" Hoắc bà mừng quá, vội chạy ra cổng đón con. Thấy có cả Thanh Nga cùng theo về, Hoắc bà cực kỳ kinh hãi. Khuông Cửu vội chạy tới thì thầm với mẹ, thuật sơ lại chuyện gặp vợ trong núi để mẹ an tâm. Hoắc bà vừa hết sợ lại thêm mừng. Vào nhà, Thanh Nga thưa ngay với Hoắc bà: "Ở Tấn Dương này ai cũng nghĩ rằng con đã chết. Nay thấy con về, họ sẽ dị nghị, cho rằng con là yêu quái. Nhà ta vẫn còn một dinh cơ khác ở Sơn Hữu. Vậy xin mẹ hãy ra lệnh cho cả nhà di cư về quê ngay!" Hoắc bà gật đầu. Ngay đêm ấy, Hoắc bà ra lệnh cho toàn thể gia nhân khuân vác đồ đạc, chất chứa lên xe, dọn về Sơn Hữu. Ở Tấn Dương, chẳng ai hay biết gì về việc Thanh Nga đã trở về.
      Hai năm sau, Thanh Nga sanh thêm một gái, đặt tên là Thanh Vân. Lúc đó, Mạnh Tiên đã lên chín.
      Mười bốn năm sau. Có nho sinh họ Lý, người cùng huyện, tới hỏi cưới Thanh Vân. Khuông Cửu và Thanh Nga cùng bằng lòng gả. Rồi cho cưới ngay.
      Tháng sau, Hoắc bà bị bệnh nặng. Tuần sau, Hoắc bà qua đời. Khuông Cửu làm lễ phát tang cho mẹ. Khi chọn đất mai táng, Thanh Nga nói: "Trong khu ruộng nhà mình có một miếng đất rất đẹp, hình chim trĩ ấp tám trứng, nên an táng mẹ ở đó! Mạnh Tiên đã hăm ba, chàng bảo nó ở lại mà trông coi phần mộ thay chàng!" Khuông Cửu nghe lời, bèn sai gia nhân tới cất một chòi canh cạnh huyệt mộ. Tang lễ xong xuôi, Khuông Cửu bảo Mạnh Tiên: "Con đã lớn, có thể báo hiếu bà nội thay cha. Vậy con hãy ở lại chòi này, trông coi phần mộ của bà, đúng một tháng mới được về thăm nhà" Mạnh Tiên đáp: "Con xin tuân lệnh! Xin song thân cứ hồi gia!"
      Trên đường về, Thanh Nga bảo chồng: "Bây giờ đừng về nhà nữa, hãy sang Thuận Thiên cư ngụ!" Khuông Cửu ngạc nhiên, hỏi: "Sao lại sang Thuận Thiên?" Ðáp: "Vì ở gần tiên phủ của cha!" Khuông Cửu gật đầu ưng thuận rồi cùng vợ sang Thuận Thiên. Cuối năm, Thanh Nga lại sanh thêm một trai, đặt tên là Trọng Tiên.
      An táng bà nội xong, Mạnh Tiên ở lại trông coi phần mộ đúng một tháng rồi mới về thăm nhà. Không thấy cha mẹ ở nhà, Mạnh Tiên hỏi người lão bộc: "Song thân tôi đâu?" Người lão bộc đáp: "Từ hôm an táng cụ tới giờ, ông bà đã về nhà đâu?" Mạnh Tiên kinh hãi quá, chẳng hiểu là cha mẹ mình đi đâu. Từ hôm đó, Mạnh Tiên chỉ quanh quẩn ở trong nhà đọc sách chứ ít khi đi ra ngoài. Ít lâu sau, Mạnh Tiên nổi tiếng là danh sĩ trong huyện. Văn hay chữ tốt song hễ cứ đi thi là hỏng.
      Mười bảy năm sau, Mạnh Tiên bốn mươi tuổi, khăn gói vào kinh đô ứng thí song lại hỏng. Mùa thu năm sau, lại vào kinh đô ứng thí. Thi xong ra về, gặp một nho sinh hào hoa phong nhã trông giống mình như đúc, song trẻ hơn mình nhiều, Mạnh Tiên lấy làm lạ, bèn nảy ý làm quen. Khi tới gần, thấy nho sinh cầm một quyển tập đề mấy chữ: "Hoắc Trọng Tiên, lẫm sinh Thuận Thiên" Mạnh Tiên bèn hỏi: "Xin lỗi túc hạ! Có phải túc hạ họ Hoắc không?" Nho sinh đáp: "Thưa phải! Ðệ họ Hoắc, tên Trọng Tiên, 18 tuổi!" rồi hỏi lại: "Thế quý tính là chi?" Ðáp: "Bỉ nhân cũng họ Hoắc, tên Mạnh Tiên, 41 tuổi!" Trọng Tiên kinh ngạc, hỏi: "Quý quán ở đâu?" Ðáp:"Ở huyện Sơn Hữu, tỉnh Sơn Tây" Trọng Tiên mừng lắm, nói:"Lúc đệ về đây ứng thí, gia nghiêm có dặn nếu vào trường thi mà gặp ai họ Hoắc ở Sơn Hữu thì đều là bà con bên nội, phải đối xử cho có lễ độ, tôn ti. Nay gặp huynh cũng họ Hoắc ở Sơn Hữu, chẳng biết đệ phải xưng hô với huynh như thế nào?" Mạnh Tiên không đáp mà hỏi lại: "Túc hạ có thể cho biết danh tính của lệnh tôn, lệnh đường chăng?" Ðáp: "Gia nghiêm họ Hoắc, tên Hoàn, tên chữ Khuông Cửu. Gia từ họ Vũ, tên Thanh Nga!" Mạnh Tiên sửng sốt, nói: "Song thân bỉ nhân cũng tên họ như thế!" Trọng Tiên cũng sửng sốt song vẫn còn chút nghi ngờ, nói: "Ðệ mới 18, song thân đệ còn trẻ lắm. Huynh đã 41, lệnh tôn lệnh đường chắc đã cao tuổi hạc! Vì thế, đệ nghĩ huynh với đệ chẳng thể là anh em ruột được!" Mạnh Tiên nói: "Năm nay, gia nghiêm 58, gia từ 59, song vì các người đều là tiên nên trông còn trẻ lắm! Chẳng thể lấy tuổi tác mà suy ra diện mạo được!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên càng sửng sốt, nói:"Gia nghiêm cũng 58, gia từ cũng 59!" Hai người bèn thuật lại cho nhau nghe mọi chuyện về cha mẹ mình, rồi nhận ra nhau là anh em ruột.
      Mạnh Tiên hỏi: "Song thân vẫn ở với hiền đệ đấy chứ?" Trọng Tiên đáp: "Thưa không! Cách đây hai năm, sau khi cưới vợ cho tiểu đệ, song thân bỏ nhà ra đi, chẳng biết là đi đâu. Các người có dặn tiểu đệ cứ để nguyên phòng của các người để thỉnh thoảng các người ghé về nhà thăm con cháu! Mời đại ca tới Thuận Thiên chơi cho biết nhà tiểu đệ!" Mạnh Tiên nói:"Ngu huynh cũng vừa nảy ý tới thăm đệ tức và coi xem song thân có ghé về nhà thăm con cháu hay không?"
      Ngay hôm đó, Trọng Tiên sai gia nhân sắm sửa ngựa xe rồi cùng Mạnh Tiên khởi hành về Thuận Thiên. Tới nhà, Trọng Tiên thấy một đám gia nhân đứng lố nhố ở ngoài cổng, rồi thấy có kẻ chạy tới gần mình, thưa: "Tối qua thái công và phu nhân vừa ghé về thăm nhà!" Trọng Tiên vội hỏi: "Các người còn ở nhà không?" Kẻ gia nhân đáp: "Thưa không! Thái công và phu nhân đã đi rồi!" Nghe thấy thế, cả hai anh em Mạnh Tiên cùng tỏ vẻ buồn bã.
      Trọng Tiên vào nhà gọi vợ ra chào anh. Trọng Tiên hỏi vợ: "Song thân về lúc nào, đi lúc nào?" Vợ Trọng Tiên đáp: "Các người về tối qua. Thiếp sửa soạn cơm nước bưng lên mời các người thì các người bảo thiếp cùng ngồi. Mẫu thân nói rằng người vẫn lo cho vợ chồng mình còn trẻ quá, chưa từng trải việc đời, chẳng có ai chỉ bảo. Song người lại nói rằng hôm nay thế nào đại ca cũng về đây nhận anh em với vợ chồng mình và sẽ chỉ bảo cho vợ chồng mình, nên người cũng đỡ lo. Sáng nay, thiếp vào vấn an các người thì thấy căn phòng đã trống vắng. Các người ra đi lúc nào thiếp cũng chẳng hay!" Hai anh em cứ dậm chân tiếc rẻ.
      Trọng Tiên nói: "Xin đại ca cho tiểu đệ được đi tìm song thân!" Mạnh Tiên gạt đi, nói: "Song thân chúng ta là tiên chứ có phải là người thường đâu mà hiền đệ đòi đi tìm? Có đi thì cũng chỉ phí công vô ích mà thôi!" Nghe thấy thế, Trọng Tiên bèn nói: "Nếu thế thì thôi! Tuy nhiên, xin đại ca hãy lưu lại đây chơi với vợ chồng tiểu đệ để chờ kết quả thi cử. Dù đậu hay hỏng, tiểu đệ cũng sẽ xin dọn nhà, theo đại ca về quê cư ngụ!" Mạnh Tiên đáp: "Thế cũng được!" Rồi lưu lại nhà em.
      Tháng sau, trường thi yết bảng, Mạnh Tiên lại hỏng, còn Trọng Tiên thì đậu cử nhân. Trọng Tiên bèn bán nhà, theo anh về Sơn Hữu, mua nhà ở cạnh nhà anh.
      Mạnh Tiên nghĩ song thân đã ở nơi tiên cảnh nhưng Trọng Tiên lại nghĩ song thân vẫn còn ở chốn nhân gian. Vì thế, Trọng Tiên thường lén anh đi thăm dò tin tức song thân, nhưng tuyệt nhiên chẳng thăm dò được tin tức gì.


      ST
      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

      Comment


      • #33
        LẤY VỢ MA (truyện SƯƠNG QUÂN) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

        Ðệ huynh ác thủ tụ tuyền đài
        Ðẩu tửu bôi canh dạ quỷ lai
        Tư thí huyết ngân lưu ngọc uyển
        Tảo tri hữu ý hướng cao tài

        Huyện Diên An, tỉnh Thiểm Tây, có hai anh em nho sinh họ Yến, thương yêu nhau lắm. Người anh tên Bá, gầy gò ốm yếu, người em tên Trọng, rắn chắc khoẻ mạnh. Mỗi người đều được cha mẹ để lại cho một ngôi nhà rộng lớn và khá nhiều của cải.
        Yến Bá đã có vợ, người họ Loan. Yến Trọng thì còn độc thân. Năm Yến Bá 31 tuổi, đột nhiên bị bạo bệnh mà mất. Loan thị buồn quá nên mấy tháng sau cũng mất theo chồng. Vì vợ chồng Yến Bá không có con nên Yến Trọng phải đứng ra quản lý tài sản của anh chị. Yến Trọng thương anh chị lắm, định bụng sau này nếu mình có vợ, sanh được hai trai, thì sẽ bắt đứa lớn làm con anh chị để khói hương cho người quá cố. Yến Trọng có hai người bạn học thân, một người họ Ðổng, một người họ Lương. Năm ấy, Lương sinh cũng bị bạo bệnh mà mất.
        Tám năm sau, Yến Trọng lấy vợ, người họ Bộc. Năm sau, Bộc thị sanh trai, đặt tên là A Ngạc. Ít lâu sau, Bộc thị bị bạo bệnh mà mất, Yến Trọng phải gà trống nuôi con. Hết tang vợ, Yến Trọng toan tục huyền nhưng rồi sợ vợ kế đối xử tệ bạc với con nên lại đổi ý, chỉ muốn mua nàng hầu.
        Một hôm đầu xuân, nghe nói ở làng bên có một gia đình muốn bán con gái, Yến Trọng bèn đi coi mắt. Tới nơi, thấy cô gái chẳng vừa ý, Yến Trọng không mua. Lúc về, gặp Ðổng sinh mời về nhà uống rượu, Yến Trọng liền nhận lời. Tới nơi, uống say rồi xin cáo biệt.
        Trên đường về, lại gặp Lương sinh mời về nhà uống rượu. Vì đang say, Yến Trọng quên bẵng việc Lương sinh đã chết từ lâu nên lại nhận lời. Tới nơi, thấy nhà cửa khác lạ, Yến Trọng hỏi:"Sao nhà cửa của huynh lại khác lạ thế?" Lương sinh đáp:"Ðây là ngôi nhà mới của đệ chứ có phải là ngôi nhà cũ mà huynh vẫn thường tới chơi đâu?" Rồi nói tiếp:"Nhà đệ vừa hết rượu! Phiền huynh ngồi chơi để đệ đi mua!" Yến Trọng gật đầu.
        Chờ mãi chẳng thấy Lương sinh về, Yến Trọng bèn ra cổng đứng ngóng. Chợt thấy một thiếu phụ cưỡi lừa đi qua, có một thằng bé chừng bảy tám tuổi lẽo đẽo theo sau, Yến Trọng đưa mắt nhìn. Thấy đứa bé giống anh mình như đúc, Yến Trọng giật mình kinh hãi, chạy ra hỏi: "Cháu họ gì?" Ðứa bé vừa đi vừa đáp: "Cháu họ Yến" Yến Trọng càng lấy làm lạ, bèn đi theo đứa bé, hỏi: "Cháu tên gì?" Ðáp: "Cháu tên A Tiểu!" Hỏi:"Bố tên gì?" A Tiểu đáp: "Cháu không biết!" Thuận chân, Yến Trọng cứ đi theo A Tiểu mà hỏi chuyện. Có chuyện nó trả lời rành rẽ, có chuyện nó đáp không biết.
        Ði được chừng ba dặm, tới cổng một ngôi nhà bên đường, bỗng Yến Trọng thấy thiếu phụ xuống lừa, dắt vào nhà. Yến Trọng hỏi A Tiểu: "Có phải đây là nhà của Bố không?" A Tiểu gật đầu. Hỏi: "Bố có nhà không?" A Tiểu cũng gật đầu. Yến Trọng nói: "Vào thưa với Bố là có khách xin vào thăm!" A Tiểu lại gật đầu rồi ù té chạy vào nhà.
        Lát sau, có một người đàn bà từ trong nhà đi ra cổng. Vừa nhìn thấy Yến Trọng, người đàn bà kinh ngạc, thốt lên: "Trời ơi! Chú Trọng! Ði đâu mà lại lạc tới đây?" Nhận ra người đàn bà là chị dâu mình, Yến Trọng mừng quá, đáp: "Em tới thăm người bạn ở gần đây! Em đang đứng ở cổng ngóng bạn đi mua rượu về thì gặp cháu A Tiểu đi qua. Thấy nó giống anh quá nên em theo nó tới đây!" Loan thị nói:"Mời chú vào nhà!" Yến Trọng bèn theo chị dâu vào phòng khách. Ðưa mắt nhìn quanh, Yến Trọng thấy ngôi nhà đúng là ngôi nhà của anh chị mình song đã được sửa sang lại. Loan thị chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Yến Trọng bèn ngồi xuống sập, rồi hỏi: "Anh đâu?" Loan thị đáp: "Anh chú đi đòi nợ!" Hỏi: "Ở đâu?" Ðáp :"Ở nhà hai anh em họ Lý!" Hỏi: "Có xa đây không?" Ðáp: "Cũng gần đây thôi!" Hỏi: "Thiếu phụ vừa dắt lừa vào nhà là ai thế?" Ðáp: "Là nàng hầu của anh chú đấy!" Hỏi: "Chị ấy họ gì?" Ðáp:"Họ Cam!" Hỏi: "Chị ấy về đây đã lâu chưa?" Ðáp: "Cũng được hơn mười năm rồi!" Hỏi: "Thế còn cháu A Tiểu là ai?" Ðáp: "Là con của anh chú với cô Cam!" Hỏi: "Chị Cam với anh được mấy cháu?" Ðáp: "Ðược hai đứa!" Hỏi: "Cháu kia tên gì?" Ðáp: "Tên A Ðại, anh thằng A Tiểu!" Hỏi: "Cháu A Ðại đâu?" Ðáp: "Nó đi chơi, chưa về!" Hỏi: "Thế anh chị không có con gái ư?" Ðáp: "Không!" Chuyện trò tới đây, bỗng Yến Trọng tỉnh rượu. Sực nhớ Lương sinh cũng như anh chị mình đều đã chết từ lâu, Yến Trọng biết rằng mình đang ở âm phủ. Tuy nhiên, vì thấy mình đang ở nhà anh chị nên Yến Trọng cũng chẳng sợ hãi chi. Loan thị nói: "Chú cứ ngồi đây chơi, để tôi xuống bếp làm cơm!" Nói xong, bước ra khỏi phòng. Lát sau, A Tiểu bưng lên một mâm cơm, nói: "Mẹ cháu bảo cháu mời chú sơi cơm!" Yến Trọng nói: "Chú chưa muốn ăn! Chú chỉ muốn gặp Bố thôi! Hãy đi tìm Bố về đây ngay cho chú! Cứ nói có chú Trọng đang chờ Bố ở nhà là Bố hiểu!" A Tiểu đáp: "Vâng" rồi vụt chạy đi. Lát sau, A Tiểu chạy về, nói: "Hai anh em họ Lý đã chẳng chịu trả nợ lại còn đánh bố cháu, nên cháu chưa nói được lời nào!" Yến Trọng liền bảo :"Hãy dắt chú tới đó ngay!" A Tiểu gật đầu rồi vụt chạy ra khỏi cổng. Yến Trọng vội chạy theo.
        Vừa tới sân nhà họ Lý, Yến Trọng thấy anh mình đang bị hai người xúm lại vật ngã xuống đất thì nổi giận, nhảy tới đấm đá hai người. Một người ngã lăn xuống đất, còn người kia bỏ chạy vào nhà, khoá cửa lại. Yến Trọng tới nâng anh dậy. Thấy em mình tới chốn này, Yến Bá kinh ngạc lắm, hỏi: "Chú đi đâu mà lại lạc tới đây?" Yến Trọng xua tay, đáp:" Ðể về nhà, em sẽ xin nói rõ!" Yến Bá bèn cùng Yến Trọng và A Tiểu ra về.
        Tới nhà, Yến Bá chỉ chiếc sập, nói: "Chú ngồi xuống sập này mà nói chuyện!" Loan thị vội gạt đi, nói: "Sao ông không mời chú Trọng ngồi vào bàn, vừa ăn vừa nói có hơn không?" Yến Bá nghe lời, bèn bảo cả nhà ngồi vào bàn ăn uống. Ðang lúc nói chuyện, bỗng Yến Trọng thấy một thiếu niên chừng chín mười tuổi mở cửa bước vào phòng. Yến Bá liền gọi thiếu niên tới bàn, giới thiệu: "Ðây là cháu A Ðại, anh cháu A Tiểu! Còn đây là chú Trọng, em ruột bố! Chào chú đi con!" A Ðại liền cúi đầu chào. Yến Trọng bèn đứng dậy, tới dắt tay A Ðại đến chiếc ghế cạnh mình, bảo ngồi xuống, ăn uống với gia đình. Thấy A Ðại và A Tiểu cùng sáng sủa, khoẻ mạnh, Yến Trọng chợt nảy ý, nói: "Trên dương thế, em bị góa vợ, phải chăm sóc con nhỏ, chẳng có thì giờ trông nom phần mộ cho anh chị được, thực là buồn quá! Bây giờ, dưới âm phủ, anh chị có hai đứa con trai thì xin anh chị cho một đứa theo em về dương thế để nó trông nom phần mộ cho anh chị!" Loan thị bèn nói với chồng: "Chú Trọng nói thế, tôi nghĩ cũng phải! Ông nên cho thằng A Tiểu theo chú ấy về dương thế, để nó trông nom phần mộ cho vợ chồng mình!" Yến Bá gật đầu, tỏ vẻ ưng thuận.
        A Tiểu tuy chẳng hiểu dương thế là gì song khi nghe nói được về dương thế thì cũng thích lắm, cứ tới chỗ Yến Trọng, gục đầu vào khuỷu tay, tỏ vẻ quyến luyến. Yến Trọng bèn đưa tay xoa đầu A Tiểu, hỏi: "Cháu có thích theo chú về dương thế không?" A Tiểu đáp: "Thích!" Yến Bá nói: "Nếu chú cho nó theo về thì đừng chiều nó. Ngày nào chú cũng phải bắt nó ăn thịt cá và hôm nào nắng ráo cũng phải bắt nó ra đứng phơi nắng ngoài trời từ sáng tới quá trưa. Làm như thế trải đủ bốn mùa xuân hạ thu đông thì nó mới cứng cáp như người sống được! Sau này, khi nó lớn, nó có thể lấy vợ sanh con, song tôi nghĩ nó cũng chẳng thọ được lâu đâu!"
        Trong khi ăn uống, Yến Trọng chợt thấy một thiếu nữ rất đẹp, dáng điệu ôn uyển, đứng lấp ló ở ngoài cửa phòng khách. Yến Trọng bèn hỏi: "Anh chị không có con gái thì thiếu nữ đứng lấp ló ở ngoài kia là ai thế?" Yến Bá đáp: "Cô ấy là em ruột nàng hầu của tôi!" Hỏi: "Cô ấy tên chi?" Ðáp: "Tên Sương Quần!" Hỏi: "Tại sao cô ấy lại ở đây?" Ðáp: "Hai chị em cô ấy mồ côi từ hồi còn nhỏ. Khi tôi mua cô chị về làm nàng hầu thì cô chị xin cho cô em được về theo. Vì thế, cô em theo cô chị tới đây cư ngụ cũng được hơn mười năm rồi!" Yến Trọng im lặng. Lát sau, Yến Trọng chợt hỏi: "Cô ấy đã đính hôn với ai chưa?" Yến Bá đáp: "Chưa. Gần đây có bà mai tới hỏi cho con trai nhà họ Ðiền ở xóm đông, nhưng cô ấy không chịu" Chợt Yến Trọng nghe thấy tiếng thiếu nữ lẩm bẩm ở ngoài cửa: "Tôi chẳng chịu lấy cái anh chăn trâu nhà họ Ðiền ấy đâu!" Thấy thế, Yến Trọng bỗng cảm thấy lòng mình xao xuyến song chưa dám thổ lộ cho anh chị biết.
        Lát sau, Yến Bá nói: "Tối nay, chú ở lại đây mà ngủ!" Trước lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng định bụng sau khi cơm nước, sẽ xin cáo biệt, song từ lúc thấy Sương Quần, Yến Trọng đâm ra quyến luyến, nên lại đổi ý. Vì thế khi nghe anh mời ở lại, Yến Trọng vội đáp: "Vâng!"
        Ăn uống xong, Loan thị bảo A Ðại và A Tiểu dẹp mâm cơm xuống bếp, còn Yến Bá thì đi lấy chiếc giường nhỏ và chăn gối đem ra phòng khách cho Yến Trọng ngủ.
        Ðêm ấy, vào tiết đầu xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng khách lại không có lò sưởi nên tuy Yến Trọng đã đắp chăn mà vẫn còn thấy lạnh, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng bèn vùng dậy, tới ngồi co ro ở cạnh ngọn đèn mà suy nghĩ miên man. Ðang ước ao có rượu thịt để nhâm nhi thì bỗng thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một khay rượu thịt. Yến Trọng vừa mừng vừa lạ, hỏi:"Ai nướng thịt rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" rồi đặt khay lên bàn, lui ra. Yến Trọng bèn rót rượu, nhâm nhi với thịt nướng. Lát sau, lại thấy A Tiểu đẩy cửa, bưng vào một lò sưởi than hồng. Yến Trọng hỏi: "Ai đốt lò sưởi rồi bảo cháu bưng lên đây thế?" A Tiểu đáp: "Cô Sương Quần!" Hỏi: "Bố Mẹ đã ngủ chưa?" Ðáp: "Ngủ từ lâu rồi!" Hỏi: "Thế cháu ngủ với ai?" Ðáp: "Với cô Sương Quần!" rồi đặt lò sưởi dưới gầm giường, dẹp khay rượu xuống bếp, khép cửa lại.
        Yến Trọng đi nằm. Tuy thấy giường đã được sưởi ấm, song vì đầu óc cứ mơ tưởng tới khuôn mặt xinh đẹp, dáng vẻ thông minh của Sương Quần nên Yến Trọng trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Yến Trọng chỉ ước ao sao cho mình lấy được Sương Quần làm kế thất, đem về dương thế để chăm sóc cho A Tiểu.
        Sáng sau, vợ chồng Yến Bá tới phòng khách thăm em. Yến Trọng nói ướm: "Nay em đã góa vợ, xin anh chị để ý giùm xem có đám nào đăng đối thì làm mai cho!" Yến Bá đáp: "Nhà ta đâu có phải là nhà nghèo. Khi về dương thế, sớm muộn gì mà chú chẳng tìm được một kế thất vừa ý. Dưới âm phủ này cũng có người đẹp song tôi sợ chẳng có ích gì cho chú cả!" Yến Trọng nói: "Ngày trước, các cụ ta vẫn thường thuật chuyện người xưa hay lấy vợ ma, anh còn nhớ không?" Chợt hiểu ý em, Yến Bá nói: "Cô Sương Quần cũng đẹp song chẳng biết có làm vợ chú được hay không?" Yến Trọng hỏi :"Tại sao?" Yến Bá đáp: "Vì muốn làm vợ người dương thế thì phải có máu trong cơ thể!" Hỏi: "Làm thế nào để biết được là có máu trong cơ thể?" Ðáp: "Phải lấy kim, thử chích vào cổ tay. Nếu thấy có máu ứa ra thì được, còn nếu không thấy có máu thì vô ích!" Yến Trọng nói: "Em chỉ cần lấy cô ấy về để chăm sóc cho A Tiểu thôi chứ em chẳng cần cô ấy phải sanh nở chi cả!" Nghe thấy thế, Yến Bá chỉ lắc đầu, chẳng đáp. Yến Trọng năn nỉ: "Thì anh cứ thử làm mai cho em xem sao!" Yến Bá còn đang suy nghĩ thì bỗng Loan thị lên tiếng: "Chú ấy đã muốn thế thì ông cứ để tôi đi lấy kim, thử chích vào cổ tay cô ấy xem sao?" Nói xong, Loan thị xăm xăm chạy vào phòng lấy kim. Khi đem kim ra phòng khách, tình cờ thấy Sương Quần đi qua cửa, Loan thị bèn gọi: "Sương Quần! Hãy đứng lại cho chị hỏi chuyện này!" Sương Quần tưởng thực, vội dừng chân. Loan thị liền chạy tới nắm lấy tay Sương Quần, ghé vào tai, giả vờ thì thầm. Sương Quần chẳng nghe rõ, toan lên tiếng hỏi lại, thì bất thần bị Loan thị cầm kim chích vào cổ tay, máu ứa ra. Loan thị liền buông tay Sương Quần, đứng cười ha hả. Sương Quần còn đang kinh hãi, chẳng hiểu tại sao Loan thị lại làm như thế thì đột nhiên Cam thị ở đâu chạy tới, hầm hầm tức giận, giơ ngón tay dí vào trán Sương Quần mà mắng: "Mi là con gái mà chẳng biết xấu hổ là gì! Mi mê trai, rồi bây giờ định bỏ nhà trốn đi theo trai, có phải không? Ta quyết chẳng để cho mi làm như thế!" Cả nhà cùng ngơ ngác. Sương Quần vừa thẹn vừa tức, khóc oà lên. Yến Trọng ngượng quá, vội quay nhìn anh chị, nói: "Thôi, bây giờ em xin phép anh chị cho em được dắt cháu A Tiểu về dương thế!" Loan thị gật đầu. Yến Bá cũng nói: "Ừ thôi! Chú cứ dắt cháu về dương thế trước đi! Nếu nó có nhớ nhà đòi về, chú cũng đừng cho nó về, kẻo nó bị tiêu hao dương khí, chẳng tốt!" Yến Trọng đáp: "Vâng" rồi nắm tay A Tiểu, dắt ra khỏi cổng.
        Yến Trọng bảo A Tiểu dắt mình trở lại nhà Lương sinh. Tới nơi, Yến Trọng nhận ra đường cũ, bèn cứ ngược đường mà dắt A Tiểu về dương thế.
        Tới nhà, Yến Trọng bịa chuyện, loan tin rằng cách đây hơn mười năm, khi anh mình còn sống, có mua một nàng hầu, giấu ở làng bên. Khi anh mình chết, nàng hầu đang hoài thai A Tiểu. Nay A Tiểu đã lên mười, mình sang làng bên, bắt về nuôi. Người làng thấy A Tiểu giống hệt Yến Bá thì tin ngay, chẳng ai thắc mắc.
        Yến Trọng dạy A Tiểu tập đọc và học thuộc lòng nhiều đoạn thơ văn. Sáu tháng đầu, bị bắt học cả ngày, A Tiểu rất oán hận chú. Thấy thế, Yến Trọng bèn đổi cách dạy, cho A Tiểu vừa học vừa chơi. A Tiểu liền hết oán hận chú. Ban ngày, A Tiểu học bài. Tối đến, lên giường ngủ, đọc bài cho chú nghe. Vì A Tiểu khá thông minh, tối nào cũng thuộc bài, nên Yến Trọng mừng lắm. Vì vẫn nhớ Sương Quần, Yến Trọng bỏ ý định mua nàng hầu.
        Năm sau. Một hôm Yến Trọng đang tiếp khách, bỗng nghe có tiếng gọi cổng, bèn xin phép khách chạy ra mở thì thấy Cam thị cùng Sương Quần đứng ở bên ngoài. Mừng quá, Yến Trọng vồn vã mời hai người vào phòng thờ. Vào phòng, Cam thị nói: "Xin lỗi chú! Năm ngoái, khi chú xuống chơi, tôi thấy em gái tôi đã lớn mà vẫn còn ngây ngô, chưa biết xấu hổ là gì nên tôi cố tình làm nhục nó để cho nó biết xấu hổ đấy thôi. Năm nay, tôi muốn gả chồng cho nó. Thấy chú là nơi xứng đáng nhất nên tôi đã bàn tính với anh chú cho tôi đưa nó lên đây, xin chú làm lễ thành hôn với nó!" Yến Trọng đáp: "Cám ơn chị! Em xin lãnh ý!" rồi mời Cam thị và Sương Quần ngồi chơi, xin phép trở ra tiếp khách.
        Lát sau, Yến Trọng lại xin phép khách trở vào phòng thờ thì thấy Cam thị đã biến mất. Yến Trọng hỏi: "Chị Cam đâu?" Sương Quần đáp: "Chị ấy về rồi!" Hỏi: "Thế bây giờ chúng mình cần sửa soạn những gì để làm lễ thành hôn?" Ðáp: "Chỉ cần sửa soạn một mâm cỗ để làm lễ giao bái là đủ!" Nói: "Nếu thế thì nàng cứ ngồi đây mà nghỉ, để ta xuống bếp bảo gia nhân sửa soạn!" Sương Quần lắc đầu, nói: "Mâm cỗ này phải do chính tay thiếp sửa soạn mới được! Chàng cứ ra tiếp khách đi!"
        Yến Trọng vừa theo lời, ra khỏi phòng thì Sương Quần đã đứng dậy, vào phòng trong cởi bỏ nữ trang, thay quần áo nội trợ, rồi xuống bếp sửa soạn mâm cỗ. Yến Trọng ngồi trên phòng khách, cứ nghe thấy tiếng dao thớt lách cách ở dưới bếp.
        Lát sau, Yến Trọng tiễn khách ra về. Lúc trở vào phòng thờ thì thấy cỗ bàn đã được bày la liệt trên bàn thờ, còn Sương Quần thì đã ăn mặc sang trọng, điểm trang lộng lẫy, đang ngồi chờ mình. Yến Trọng bèn đi tắm gội, ăn mặc sạch sẽ rồi trở ra phòng thờ cùng Sương Quần làm lễ giao bái.
        Tối ấy, Sương Quần nói: "Tuy đã là vợ chồng, song vì bản thể âm dương bất hợp nên chúng mình phải ngủ riêng! Thiếp muốn được ngủ chung với A Tiểu!" Yến Trọng nói: "Nàng muốn ngủ riêng thì được song muốn ngủ chung với A Tiểu thì không!" Sương Quần hỏi: "Tại sao?" Yến Trọng đáp: "Vì ta đã truyền dương khí vào cơ thể cho nó được hơn một năm nay rồi! Bây giờ cơ thể nó đã ấm lại. Nếu để cho nó ngủ chung với nàng thì dương khí ấy sẽ bị tiêu hao hết!" Sương Quần nghe ra, liền gật đầu. Yến Trọng bèn sai gia nhân dọn riêng cho Sương Quần một phòng. Vì thế, tuy là vợ chồng song Yến Trọng với Sương Quần chỉ gặp nhau vào lúc ban ngày để chuyện trò, ăn uống mà thôi. Sương Quần chăm sóc A Ngạc tựa con mình. Vì thế, Yến Trọng càng quý mến Sương Quần.
        Bốn năm sau. Một tối, hai vợ chồng đang ngồi nói chuyện trong phòng khách, bỗng Yến Trọng lên tiếng hỏi: "Ở âm phủ, nàng có quen với người đẹp nào không?" Sương Quần đáp: "Có! Thiếp có quen với một người đẹp, dung mạo giống đàn bà dương thế lắm, mà lại khéo trang điểm nữa!" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Cô hàng xóm phía đông!" Hỏi: "Tên chi?" Ðáp: "Tên Linh Tiên!" Hỏi: "Họ chi?" Ðáp: "Họ Uy!"Hỏi: "Nàng có hay giao thiệp với cô ấy không?" Sương Quần lắc đầu, đáp:"Không! Thiếp chỉ quen thôi chứ không hay giao thiệp!" Hỏi: "Sao thế?" Ðáp: "Vì cô ấy lẳng lơ, dâm đãng lắm!" Hỏi: "Bây giờ nàng có thể mời cô ấy lên đây chơi, ngồi nói chuyện với vợ chồng mình được không?" Ðáp: "Nếu chàng thích thì để thiếp mời lên! Song theo thiếp nghĩ, chàng chẳng nên kết thân với loại đàn bà ấy!" Yến Trọng nói: "Thì nàng cứ thử mời lên đây chơi cho ta gặp mặt một lần xem sao!" Sương Quần bèn đứng dậy đi lấy giấy bút đem ra bàn ngồi suy nghĩ, tựa hồ như để tìm lời viết thư. Bỗng Sương Quần khựng lại, quẳng bút đi, nói: "Không được!" Yến Trọng hỏi: "Tại sao?" Sương Quần đáp: "Vì thiếp sợ chàng sẽ bị tổn hại!" Yến Trọng nói: "Mời lên chơi, ngồi nói chuyện thì có chi mà bị tổn hại?Ợ Sương Quần ngần ngừ hồi lâu rồi nói: "Thế nhưng chàng phải hứa với thiếp rằng chàng sẽ không dụ dỗ cô ấy làm chuyện bậy bạ cơ!" Yến Trọng cười, nói: "Xin hứa!" Sương Quần bèn nhặt bút, vẽ loằng ngoằng lên giấy vài nét, làm một đạo bùa, rồi đem ra đốt ở ngoài cổng. Chờ cho đạo bùa cháy hết, Sương Quần mới vào nhà.
        Lát sau, rèm động, móc kêu, rồi có tiếng cười khúc khích. Sương Quần nghi là Linh Tiên nên đứng dậy chạy ra đón thì thấy quả là Linh Tiên. Sương Quần bèn dắt vào phòng, mời ngồi xuống sập hàn huyên. Linh Tiên cười nói oang oang, song khi nhìn thấy Yến Trọng thì vội giơ tay áo lên che miệng mà nói cười nhỏ lại. Yến Trọng thấy Linh Tiên quả là một người đàn bà đẹp, dung nhan kiều diễm, mái tóc búi cao, dáng vẻ yểu điệu như người trong tranh. Sương Quần rót rượu mời khách. Linh Tiên đỡ lấy chén, vừa uống vừa nói chuyện. Vì có mặt Yến Trọng nên Linh Tiên giữ ý, nói cười nhỏ nhẹ. Tuy nhiên, chỉ sau vài tuần rượu, khi đã ngà ngà say, Linh Tiên chẳng còn kiêng kị gì nữa, cứ cười nói oang oang, thuật lại cho Sương Quần nghe đủ mọi thứ chuyện bậy bạ. Thế rồi, Linh Tiên nhìn Yến Trọng mà mỉm cười, liếc mắt đưa tình. Yến Trọng bấn loạn tâm thần, chẳng sao tự chủ được. Tuy nhiên, vì có mặt Sương Quần nên Yến Trọng cũng chưa dám có ngôn ngữ hay cử chỉ chi sàm sỡ. Sương Quần thấy thế thì theo sát Linh Tiên, chẳng dời một bước.
        Lát sau, đột nhiên Linh Tiên đứng dậy, bước tới cửa, vén rèm, chạy ra sân. Sương Quần vội chạy ra theo. Yến Trọng cũng vội chạy ra theo vợ. Thấy Yến Trọng chạy ra sân, Linh Tiên bèn quay lại nắm lấy tay Yến Trọng mà kéo đi. Sương Quần còn đang ngơ ngác thì Linh Tiên đã kéo Yến Trọng vào một căn phòng bỏ ngỏ gần đó, đóng sập cửa lại. Sương Quần tức tối lắm song chẳng biết phải làm thế nào, đành phẫn uất mà quay về phòng.
        Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Yến Trọng vào phòng vợ nói chuyện. Sương Quần trách: "Chàng đã hứa như thế nào mà bây giờ chàng lại hành động như thế? Thiếp chỉ sợ rồi đây chàng sẽ chẳng thể dứt nổi Linh Tiên nữa thôi! Lúc đó thì dù chàng có muốn đuổi cô ấy đi cũng chẳng còn được nữa!" Yến Trọng cho là Sương Quần ghen nên chẳng được vui. Bèn từ biệt vợ mà về phòng mình.
        Tối sau, Linh Tiên tự ý tới nhà Yến Trọng. Sương Quần gặp mặt song cứ lờ đi, chẳng thèm chào hỏi. Linh Tiên cũng chẳng buồn để ý, cứ đi thẳng vào phòng Yến Trọng. Hồi lâu, Linh Tiên mới ra về. Sương Quần tức tối lắm song cố dằn cơn giận.
        Nửa tháng sau. Một tối, khi Linh Tiên tới, Sương Quần chẳng sao nhịn được nữa, nói: "Cô là một người đàn bà vô liêm sỉ, chẳng biết ngượng ngập là gì! Tôi yêu cầu cô hãy cút về ngay! Từ giờ trở đi, tôi cấm cô không được bén mảng tới ngôi nhà này nữa!" Linh Tiên chẳng thèm đáp, cứ sồng sộc đi thẳng vào phòng Yến Trọng.
        Tháng sau. Yến Trọng ngã bệnh. Sương Quần mời thày lang tới coi mạch, hốt thuốc song bệnh tình cứ dai dẳng, chẳng thuyên giảm. Tuy Yến Trọng đã ngã bệnh song tối nào Linh Tiên cũng tới. Lúc đó Yến Trọng mới hối hận, muốn đuổi Linh Tiên đi. Yến Trọng bèn bảo Sương Quần kê giường vào phòng mình mà ngủ, để cho Linh Tiên sợ, không dám tới nữa. Sương Quần làm theo lời. Thế nhưng, Linh Tiên vẫn tới, ẩn núp quanh quất ở trong nhà. Cứ lúc nào Sương Quần có việc phải ra khỏi phòng là Linh Tiên lại lẻn vào, lên giường ép Yến Trọng giao hoan. Một tối, Sương Quần bắt gặp Linh Tiên trên giường chồng mình, bèn lấy gậy đập vào lưng. Linh Tiên khỏe hơn, giằng được gậy, đập lại Sương Quần cho tới lúc bị thương mới thôi.
        Bệnh tình của Yến Trọng mỗi ngày một thêm trầm khốn. Thấy thế, Sương Quần khóc, nói: "Thiếp còn mặt mũi nào mà nhìn thấy chị Cam dưới âm phủ nữa!" Yến Trọng ngượng quá song cũng chẳng biết đối đáp ra sao.
        Tuần sau, bệnh tình của Yến Trọng trở nặng. Tối ấy, Yến Trọng chết. Ðang nằm trên giường, bỗng thấy có hai lính cầm trát tới bắt mình, Yến Trọng liền đứng dậy, đi theo. Lát sau, thấy đường đi có vẻ quen thuộc, Yến Trọng chợt nhận ra chính là đoạn đường từ nhà Lương sinh tới nhà anh mình khi trước. Lúc đó Yến Trọng mới biết là mình đã chết. Sờ vào túi chẳng có một đồng, Yến Trọng bèn xin lính cho mình ghé vào nhà anh để xin tiền đi đường. Lính thuận cho.
        Tối ấy, Yến Bá đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy em bước vào, hai bên có lính âm phủ đi kèm. Yến Bá kinh hoàng tột độ, hỏi: "Sao chú lại bị bắt xuống đây?" Yến Trọng đáp: "Vì em bị bệnh ma làm!" rồi đem chuyện Linh Tiên ra thuật lại. Nghe xong, Yến Bá vào nhà trong lấy ra hai túi tiền nhỏ, đưa cho hai lính, nói: "Xin hai chú nhận cho chút quà này. Em tôi bị gái âm phủ làm tiêu hao sinh khí mà thác chứ thực ra thì mệnh số chưa hết. Vậy xin hai chú hãy thả cho em tôi được trở về dương thế. Hai chú đừng sợ bị tào quan bắt tội vì tôi sẽ cho con tôi đi thay thế!" Hai lính được tiền hối lộ, nhìn nhau hồi lâu rồi cùng gật đầu. Yến Bá liền sai A Ðại rót rượu mời lính rồi sai vào nhà sửa soạn hành trang để đi theo lính. Hai lính uống rượu xong, cầm hai túi tiền, chào Yến Bá rồi dắt A Ðại đi.
        Yến Bá vào phòng thuật lại cho Loan thị nghe, rồi gọi Cam thị lên, bảo: "Nàng hãy sang hàng xóm mời cô Linh Tiên sang đây chơi, nhưng đừng nói cho cô ấy biết là vì chuyện gì!" Cam thị liền sang nhà Linh Tiên, rồi về nói: "Cô ấy sắp sang đó!" Lát sau, quả nhiên Linh Tiên sang. Thấy Yến Trọng đang ngồi ở trong nhà, Linh Tiên kinh hãi quá, dợm quay mình bỏ chạy thì đã bị Yến Bá nhanh tay túm được mái tóc, xoắn lại mà mắng: "Mi là một con dâm tì vô liêm sỉ! Khi sống trên dương thế, mi đã làm đãng phụ, nay chết xuống âm phủ, mi lại làm tặc quỷ. Mi vừa làm cho em tao bị tiêu hao sinh khí mà chết nên bây giờ tao phải đánh cho mi một trận nhừ đòn!" Nói xong, Yến Bá giơ tay tát túi bụi vào mặt Linh Tiên. Bị tát, tóc tai rối bù, mặt mũi phờ phạc, Linh Tiên chắp tay van lạy, khóc lóc xin tha. Mẹ Linh Tiên là U bà, nghe tiếng con khóc, cũng vội chạy sang năn nỉ: "Tôi biết con tôi có tội rồi! Xin ông tha cho nó!" Yến Bá nói: "Bà đã biết là con bà dâm đãng, sao chẳng chịu can ngăn, lại cứ để mặc cho nó đi làm hại người khác?" U bà cứng họng, chẳng biết trả lời ra sao. Yến Bá bèn nói: "Thôi! bà dắt nó về đi" U bà bèn chào Yến Bá rồi dắt Linh Tiên về.
        Yến Bá quay qua nói với Yến Trọng: "Chú chờ tôi sửa soạn một lát rồi tôi sẽ đưa chú về dương thế!" Nói xong, Yến Bá vào phòng trong. Lát sau, Yến Bá ra bảo Yến Trọng: "Ta đi thôi!" Hai anh em bèn lên đường. Yến Trọng thấy anh mình dắt mình đi theo đúng con đường mà năm năm về trước mình đã dắt A Tiểu về dương thế.
        Tới nhà, Yến Trọng vội chạy vào phòng xem sao. Thấy xác mình còn nằm trên giường, Yến Trọng vội nhập vào rồi mở mắt ra coi thì thấy có một cảm giác bàng hoàng như người vừa tỉnh mộng. Yến Bá cũng theo em vào phòng. Sương Quần đang ở dưới bếp, nghe có tiếng động trên phòng chồng, cũng vội chạy lên coi. Thấy Yến Bá ở trong phòng, Sương Quần kinh hãi quá, song khi thấy chồng đã hồi sinh, Sương Quần lại mừng rỡ vô tả. Thấy Sương Quần vào, Yến Bá trách: "Ta với chị cô thấy cô hiền năng nên mới bàn tính với nhau đưa cô lên đây làm vợ em ta. Sao cô lại đi gọi con Linh Tiên lên đây để cho nó mê hoặc em ta tới chết? Nếu cô chẳng phải là em vợ ta thì hôm nay ta quyết phải đánh cho cô một trận nhừ đòn!" Sương Quần vừa thẹn vừa sợ, bèn sụp xuống đất lạy Yến Bá, nói: "Thiếp biết tội đã nhiều, xin đại ca tha cho!" Yến Bá nói: "Thôi, đứng dậy!" Sương Quần bèn khép nép đứng dậy, rồi thưa: "Bây giờ thiếp xin phép đại ca cho thiếp xuống bếp làm cơm để mời đại ca ở lại dùng bữa với vợ chồng thiếp và các cháu!" Yến Bá lắc đầu, đáp: "Ta bận nhiều việc lắm, phải về ngay, chẳng thể ở lại được! Hãy gọi lũ trẻ lên đây cho ta gặp mặt!" Sương Quần đáp: "Xin vâng!" rồi lui ra khỏi phòng.
        Lát sau, Sương Quần dắt A Tiểu và A Ngạc vào chào Yến Bá. Năm ấy, A Tiểu đã mười ba. Thấy A Tiểu cứng cáp khoẻ mạnh, Yến Bá mừng lắm, nói: "Mi đã trở thành người dương thế rồi!" Nhận ra cha, A Tiểu cũng mừng lắm, cứ quấn quýt bên chân. Trò chuyện hồi lâu, Yến Bá nói: "Thôi, ta phải về đây!" A Tiểu đòi: "Cho con về với!" Yến Bá gạt đi, nói: "Mi ở lại đây với chú mi là sướng nhất rồi, còn đòi về làm chi?" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng. Từ đó, Yến Bá không trở về dương thế nữa.
        Mười bốn năm sau, A Tiểu hai mươi bảy, Sương Quần cưới vợ cho nó rồi cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm sau, vợ A Tiểu sanh trai, đặt tên là A Tôn. Ba năm sau, A Tiểu 31 tuổi, cũng bị bạo bệnh mà mất như cha. Khi hết tang chồng, vợ A Tiểu tái giá. Sương Quần chẳng có con, lại chăm sóc A Tôn như đã chăm sóc A Ngạc và A Tiểu khi trước.
        Hai chục năm sau, A Tôn hai mươi tư. Sương Quần bèn cưới vợ cho nó rồi lại cho hai vợ chồng ra ở ngôi nhà cũ của Yến Bá. Năm ấy, Yến Trọng đã tám mươi. Một hôm, Sương Quần nói với chồng: "Ðã tới lúc chúng mình phải trở về âm phủ! Bây giờ thiếp xuống trước, sửa soạn nhà cửa để sáu tháng nữa, sẽ đón chàng xuống!" Yến Trọng gật đầu. Sương Quần bèn đi tắm gội, trang điểm đẹp đẽ rồi lên giường nằm mà mất. Yến Trọng chẳng than khóc chi, vui vẻ mà làm tang lễ cho vợ. Sáu tháng sau. Quả nhiên Yến Trọng cũng mất theo.


        ST
        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

        Comment


        • #34
          CÁT CÂN VÀ NGỌC BẢN - dịch giả: Đàm Quang Hưng

          Lan hương dĩ thị giáng vân xa
          Hà tất tiên nguyên cánh phiếm tra
          Tỉnh đắc thu phong đoàn phiến lãnh
          Bất ưng lưu tử chỉ lưu hoa

          Huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có hai anh em nho sinh họ Thường, chung sống trong ngôi nhà của cha mẹ để lại. Người anh tên Ðại Dụng, 21 tuổi, còn độc thân. Người em tên Ðại Khí, 19 tuổi, đã đính hôn song sắp tới ngày cưới thì vị hôn thê bị bạo bệnh mà mất.
          Ðại Dụng rất mê hoa mẫu đơn. Nghe đồn huyện Tào Châu tỉnh Sơn Ðông giáp vùng Tề, Lỗ, có nhiều giống mẫu đơn đẹp nổi tiếng, Ðại Dụng vẫn ước ao có dịp được tới thăm Tào Châu một chuyến.
          Năm ấy, vào khoảng đầu tháng hai, một hôm có việc phải đi Tào Châu, Ðại Dụng mừng lắm, vội sắm sửa hành trang, dặn dò em mọi gia vụ, rồi lên đường.
          Tới Tào Châu, dạo quanh huyện thành, chợt thấy một vườn mẫu đơn rộng lớn, trong có căn nhà bỏ trống với hòn núi giả, Ðại Dụng bèn vào hỏi thuê. Chủ nhà bằng lòng cho thuê. Ðại Dụng liền đem hành trang vào cư ngụ. Lúc đó, mẫu đơn mới trổ nụ chứ chưa nở hoa.
          Thu xếp xong công việc, Ðại Dụng chưa chịu về, nán lưu lại Tào Châu để xem hoa nở. Ngày nào Ðại Dụng cũng quanh quẩn ở trong vườn, mong hoa sớm nở cho mình thưởng ngoạn. Chẳng bao lâu, hoa nở rộ đầy vườn. Ðại Dụng thích quá, lấy giấy bút ra vườn ngắm hoa mà làm thơ, ca tụng vẻ đẹp của mẫu đơn. Ðại Dụng làm được đến trên một trăm bài thơ. Tháng sau, khi tiền lưng đã cạn, Ðại Dụng đem cầm chiếc áo lạnh, lấy tiền lưu lại Tào Châu thêm ít bữa để thưởng ngoạn mẫu đơn.
          Một sáng, Ðại Dụng ra vườn ngắm hoa thì chợt thấy ở cuối vườn có một nữ lang, phục sức cung trang màu tím, với một bà lão, cùng đứng ngắm hoa. Thầm nghĩ nữ lang là một tiểu thư con nhà thế gia trong vùng, Ðại Dụng vội rúc vào núp trong bụi cây cạnh hòn núi giả, chẳng dám giáp mặt vì sợ gặp chuyện rắc rối với thế gia.
          Lát sau, nữ lang thôi ngắm hoa, leo lên hòn núi giả ngồi nghỉ, còn bà lão thì đứng cạnh canh chừng. Từ trong bụi cây, Ðại Dụng chú mục dòm lén thì thấy nữ lang có một vẻ đẹp phi phàm không thấy có ở các giai nhân trần thế. Vì thế, Ðại Dụng nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới chứ chẳng phải là tiểu thư phàm trần! Cứ thắc mắc mãi về lai lịch của nữ lang, Ðại Dụng cảm thấy bứt rứt khó chịu nên quyết định chui ra khỏi bụi cây, rảo bước tới hòn núi giả để hỏi cho ra lẽ. Thấy một nho sinh bước tới chỗ nương tử mình ngồi, bà lão vội nhảy ra cản đường, quát:"Cuồng sinh này làm chi vậy?" Ðại Dụng kinh hãi quá, vội quỳ xuống đất, chắp tay đáp:"Tiểu sinh có dám làm chi đâu! Chỉ muốn tới hỏi thăm xem nương tử đây có phải là tiên nữ thượng giới hay không mà thôi!" Bà lão quát:"Ðừng có nói xàm! Cút đi ngay, kẻo ta bắt giải lên huyện, xin quan trị tội bây giờ!" Ðại Dụng chẳng dám nói chi thêm mà cũng chẳng dám đứng dậy, cứ quỳ yên ở dưới đất. Thấy thế, nữ lang mỉm cười, nói:"Mụ mụ ơi! Mặc người ta! Mình về đi thôi!" Bà lão vội quay người lại, đỡ nữ lang xuống đất rồi dắt đi. Chờ cho hai người đi khuất vào lùm cây ở cuối vườn, Ðại Dụng mới dám đứng dậy, thất thểu về phòng.
          Vào phòng, Ðại Dụng nằm vật xuống giường, thấp thỏm lo rằng thế nào bà lão cũng sẽ về mách với huynh trưởng thế gia về chuyện mình tò mò hỏi lai lịch của nữ lang, và rồi thế nào huynh trưởng thế gia cũng sẽ sai người nhà tới đây hỏi tội mình. Ðại Dụng đâm ra hối hận, tự trách mình tò mò làm chi cho sinh chuyện. Vì lo sợ, hối hận, nên suốt đêm ấy, Ðại Dụng chẳng hề chợp mắt.
          Sáng sau, Ðại Dụng hồi hộp chờ đợi người nhà thế gia tới hỏi tội, song chờ từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi! Vì thế, Ðại Dụng lại nảy ý chắc nữ lang là tiên nữ thượng giới! Rồi đâm ra tương tư, tưởng nhớ nhan sắc và tiếng nói của nữ lang đến mất ăn mất ngủ. Ba ngày sau, Ðại Dụng soi gương thì thấy mặt mũi hốc hác hẳn đi.
          Tối ấy, Ðại Dụng thắp đèn, ngồi tựa lưng vào ghế mà tương tư nữ lang. Ðột nhiên, thấy lồng ngực khó thở, đầu óc đần độn, rồi chợt thấy bà lão, tay cầm bình rượu, đẩy cửa bước vào phòng, nói:"Nương tử nhà lão thân tự tay pha chế bình rượu độc này, sai lão thân đưa tới, bảo cuồng sinh phải uống ngay đi!" Nghe thấy thế, Ðại Dụng lấy làm lạ, nói:"Tiểu sinh với nương tử nhà lão bà là hai người xa lạ, có thù oán gì với nhau đâu? Vì thế, tiểu sinh chẳng tin là nương tử nhà lão bà lại bắt tiểu sinh phải uống rượu độc! Tuy nhiên, nếu rượu này quả là rượu độc do chính tay nương tử nhà lão bà pha chế thì tiểu sinh xin uống hết ngay! Chết đi cho rồi, chứ sống mà tương tư trong tuyệt vọng như thế này thì cũng khổ lắm!" Nói xong, Ðại Dụng đứng dậy đỡ lấy bình rượu trong tay bà lão mà uống một hơi cạn sạch, rồi trả lại chiếc bình. Bà lão mỉm cười, đỡ lấy chiếc bình, đem về.
          Ðại Dụng lại ngồi xuống ghế. Thấy rượu thơm mát Ðại Dụng thầm nghĩ chắc chẳng phải là rượu độc. Lát sau, Ðại Dụng ngà ngà say rồi ngủ thiếp đi.
          Sáng sau, khi thức giấc, thấy lồng ngực dễ thở, đầu óc minh mẫn, căn bệnh hôm qua đã biến mất, Ðại Dụng càng tin rằng nữ lang là tiên nữ, đã cho mình uống rượu tiên để chữa bệnh. Cũng vì tin như thế mà Ðại Dụng nghĩ rằng mình chẳng thể nào kết duyên được với nữ lang. Tuy nhiên, vì đang tương tư nữ lang nên trong đầu Ðại Dụng lúc nào cũng có hình bóng của nữ lang phảng phất. Ðại Dụng bèn quỳ xuống đất, lầm rầm khấn khứa, cầu xin nữ lang cho mình được gặp mặt.
          Mấy hôm sau, khi mẫu đơn bắt đầu tàn, Ðại Dụng tản bộ vào khu rừng gần nhà trọ để ngắm hoa rừng. Khi tới gần một tảng đá, chợt thấy nữ lang cũng đang đứng ngắm hoa, Ðại Dụng mừng quá, vội quỳ xuống đất lạy nữ lang. Nữ lang liền bước tới, cầm tay Ðại Dụng nâng dậy. Thấy hơi ấm từ da thịt nõn nà của nữ lang truyền sang tay mình, Ðại Dụng bỗng cảm thấy sung sướng đê mê, níu chặt lấy cánh tay nữ lang mà đứng dậy. Nữ lang nhìn Ðại Dụng, mỉm cười. Ðại Dụng toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy bà lão từ xa bước tới, nên kinh hãi quá, mặt mày xanh xám, chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nghe thấy tiếng nữ lang nói khẽ:"Hãy vòng ra phía sau tảng đá này mà núp. Tối nay, cố tìm một chiếc thang, vác về phía nam khu rừng này. Khi thấy tòa nhà có tường kín vây quanh thì dựa thang vào tường mà leo lên. Vào trong, tìm phòng có cửa sổ màu hồng!" Nói xong, nữ lang vội chạy ùa tới chỗ bà lão, nắm tay bà lão kéo đi.
          Ðại Dụng mừng quá, lật đật chạy về, đi tìm chủ nhà, mượn được chiếc thang, đem vào phòng mình, mong trời chóng tối. Khi trời vừa tối, Ðại Dụng vội vác thang trở lại khu rừng, theo hướng nam mà đi. Lát sau, quả nhiên thấy một tòa nhà có bức tường kín vây quanh, Ðại Dụng vội dựa thang vào tường mà leo lên. Thấy ở bên trong, có một chiếc thang, dựa sẵn vào tường, Ðại Dụng mừng quá, vội vàng leo xuống. Ðảo mắt nhìn quanh, thấy một căn phòng có cửa sổ màu hồng, Ðại Dụng chạy tới, áp tai vào tường mà nghe. Thấy có tiếng quân cờ lách cách, Ðại Dụng chẳng dám đột nhập, chỉ đứng ở ngoài, mong cuộc cờ chóng dứt. Chờ mãi mà tiếng quân cờ vẫn còn, Ðại Dụng chán nản nên leo ra. Ra ngoài, suy nghĩ hồi lâu, lại leo vào. Thấy tiếng quân cờ vẫn chưa dứt, Ðại Dụng bèn ghé mắt vào lỗ hổng trên tường dòm lén thì thấy nữ lang đang ngồi đấu cờ với một nữ khách áo trắng, bên phải có bà lão ngồi coi, bên trái có tì nữ chắp tay đứng hầu. Ðại Dụng chán nản, lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, lại leo vào. Thấy đã quá nửa đêm mà tiếng quân cờ vẫn còn, Ðại Dụng lại leo ra. Ra ngoài, tiếc rẻ, toan leo vào thì chợt nghe thấy tiếng bà lão hỏi tì nữ: "Ai đem thang ra dựa vào tường thế kia? Hãy ra lấy cất vào nhà!" Ðại Dụng kinh hãi quá, vội lăn mình xuống sát chân tường, nằm im, nín thở. Khi thấy lặng tiếng người, Ðại Dụng mới dám leo lên. Thấy chiếc thang bên trong đã biến mất, Ðại Dụng đành leo xuống, vác thang về.
          Tối sau, Ðại Dụng lại vác thang tới tòa nhà, leo lên. Thấy bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn như tối trước, Ðại Dụng vội leo xuống, chạy tới phòng nữ lang, áp tai vào tường mà nghe. Thấy im lặng, Ðại Dụng mừng quá, vội mở cửa lẻn vào thì thấy nữ lang đang ngồi chống tay nâng cằm, mắt nhắm như người đang suy nghĩ. Thấy động, nữ lang giật mình, mở mắt nhìn. Nhận ra là Ðại Dụng, nữ lang chợt đỏ mặt thẹn thùng. Ðại Dụng lên tiếng:"Tiểu sinh vẫn nghĩ mình bạc phước, chẳng thể nào gặp được nương tử, thế mà chẳng ngờ tối nay lại được gặp!" Nữ lang chưa kịp đáp thì chợt nghe có tiếng nữ khách ở ngoài cửa, nên vội lấy tay chỉ gầm giường, nói: "Chui vào đây mà trốn!" rồi lại ngồi xuống ghế. Ðại Dụng kinh hãi quá, vội chui vào gầm giường. Chợt có tiếng cửa phòng kẹt mở, rồi có tiếng nữ khách hỏi:"Thế nào? Tối nay bại tướng đã chuẩn bị chiến thuật cầm quân để phục thù tiểu muội về mấy trận thua tối qua chưa? Tiểu muội vừa pha xong bình trà ngon nên sang đây rước đại tỉ qua nhà tiểu muội uống trà, đấu cờ!" Nữ lang từ chối, nói: "Tối nay, ngu tỉ thấy trong người mệt lắm, chỉ muốn ở nhà thôi!" Nữ khách cứ nằn nì mời mọc, song nữ lang vẫn một mực chối từ. Thấy thế, nữ khách cười, nói:"Tự nhiên tối nay đại tỉ lại dở chứng, chẳng muốn sang nhà tiểu muội chơi. Hay là đã giấu nam nhân ở trong phòng?" Nữ lang lặng im, chẳng đáp. Ðại Dụng nằm trong gầm giường, nghe thấy thế thì chột dạ, lo sợ lắm. Chợt nữ khách cười, nói:"Ðại tỉ chẳng muốn đi thì tiểu muội cũng cứ lôi đi!" rồi tới kéo nữ lang đứng dậy, lôi ra khỏi phòng. Thấy thế, Ðại Dụng oán hận nữ khách là đã làm cho mình mất một dịp may để được tâm sự với nữ lang.
          Lát sau, thấy lặng tiếng người, Ðại Dụng mới bò ra khỏi gầm giường. Thấy trên chiếc đôn kê ở đầu giường có một trái cầu thủy tinh, phủ một chiếc khăn màu tím, Ðại Dụng chợt nảy ý lấy đem về để nữ lang thấy mất, ắt sẽ tới nhà mình đòi. Ðại Dụng bèn gấp chiếc khăn đút túi, rồi ôm trái cầu ra khỏi phòng, leo qua tường, vác thang về.
          Tới nhà, Ðại Dụng cất kỹ trái cầu rồi lên giường nằm, rút chiếc khăn trong túi ra, phủ lên mặt. Thấy một hương thơm kỳ lạ từ chiếc khăn tỏa ra, Ðại Dụng cứ tưởng tượng như hương thơm từ thân thể nữ lang còn vương lại. Thế rồi Ðại Dụng đê mê, ngủ thiếp đi. Khi thức giấc thì thấy trời đã quá trưa.
          Tối ấy, Ðại Dụng đang ngồi trong phòng, chợt nghe có tiếng gõ cửa, vội chạy ra mở thì thấy khách chính là nữ lang. Ðại Dụng mừng quá, xoắn xuýt mời vào, kéo ghế mời ngồi. Nữ lang cười, nói:"Trước kia cứ tưởng là người quân tử. Nay mới biết cũng chỉ là kẻ đạo tặc!" Ðại Dụng nói:"Nương tử nghĩ thế thực sao? Sở dĩ tiểu sinh có hành động phi quân tử ấy cũng chỉ vì muốn được gặp nương tử đó thôi! Bấy lâu, tiểu sinh vẫn nửa tin nửa ngờ rằng nương tử là tiên nữ, nhưng nay mới thực rõ nương tử quả là tiên! May mắn được nương tử để mắt tới, tiểu sinh rất lấy làm hân hạnh. Thế nhưng, tiểu sinh cũng tự hiểu rằng chẳng thể nào được kết duyên với nương tử vì tiên nữ mà xuống phàm trần thì trước sau gì cũng sẽ bỏ hạ giới mà bay về trời!" Nữ lang cười, nói:"Sao mà tưởng tượng viển vông quá thế? Ai là tiên nữ đâu? Thiếp cũng chỉ là một nữ tử bình thường thôi! Tình cờ gặp chàng thì bị xúc tình mà sinh luyến ái! Tối nay tới để hiến thân đây!" Nghe thấy thế, Ðại Dụng mừng quá, vội chạy a tới, toan bồng nữ lang lên giường. Chợt thấy nữ lang đưa tay ra cản, Ðại Dụng khựng người, chẳng hiểu tại sao. Nữ lang cười, nói:"Khoan đã! Nếu chàng nghĩ chẳng thể giữ kín được chuyện chúng mình thì nên chia tay nhau ngay từ bây giờ còn hơn là để sau này miệng tiếng thiên hạ buộc phải lìa tan! Phải kín miệng mới được, chứ tới tai thiên hạ thì chẳng thể mọc cánh mà bay được đâu!" Ðại Dụng mừng quá, vội đáp:"Tưởng là chuyện chi, chứ nếu chỉ có thế thì tiểu sinh xin thề là sẽ giữ kín chuyện chúng mình!" Nói xong, liền chạy tới ôm chầm lấy nữ lang, bồng lên giường mà ân ái.
          Ân ái xong, hai người nằm thủ thỉ chuyện trò. Ðại Dụng hỏi:"Nàng tên chi?" Nữ lang đáp:"Vẫn cho thiếp là tiên thì tiên đâu cần phải có tên?" Rồi cười, nói:"Nhưng vì thiếp chỉ là một nữ tử bình thường nên cũng có tên như mọi người. Thiếp tên Cát Cân!" Ðại Dụng hỏi:"Nàng họ chi?" Ðáp:"Không có họ!" Hỏi:"Sao lại không có họ?" Nữ lang chỉ mỉm cười, chẳng đáp. Lại hỏi:"Thế bà lão thường đi theo nàng là ai?" Ðáp:"Là mụ mụ! Mụ mụ nuôi thiếp từ hồi còn nhỏ. Vì thế, bây giờ thiếp coi mụ mụ như nhũ mẫu chứ chẳng coi như tì bộc!" Hỏi:"Mụ mụ có họ không?" Ðáp:"Có!" Hỏi:"Họ chi?" Ðáp:"Họ Tang!" Hỏi: "Mụ mụ tên chi?" Ðáp:"Không có tên!" Hỏi:"Sao lại không có tên?" Nữ lang cũng chỉ mỉm cười, chẳng đáp, rồi hỏi lại:"Quê chàng ở đâu?" Ðáp:"Ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam!" Hỏi:"Ở với ai?" Ðáp:"Với chú em ruột!" Hỏi:"Tiểu thúc tên chi?" Ðáp:"Tên Ðại Khí!" Hỏi:"Tiểu thúc có vợ chưa?" Ðáp:"Mới đính hôn song chưa tới ngày cưới thì vị hôn thê đã mất!" Ðang thủ thỉ với Ðại Dụng, bỗng Cát Cân ngồi nhỏm dậy, nói:"Thiếp phải về thôi, chẳng thể ở lại đây thêm được nữa vì nhà thiếp nhiều tai mắt lắm! Chừng nào có dịp, thiếp sẽ trở lại thăm. À mà trái cầu ở đầu giường chẳng phải là của thiếp đâu!" Ðại Dụng hỏi: "Thế thì của ai?" Ðáp:"Của Ngọc Bản!" Hỏi:"Ngọc Bản là ai?" Ðáp:"Là con ông chú ruột, nữ khách tối qua tới lôi thiếp đi đấu cờ ấy mà!" Hỏi:"Sao lại để ở phòng nàng?" Ðáp:"Vì mấy hôm trước, Ngọc Bản tới chơi rồi bỏ quên, thiếp lấy khăn phủ lên cho khỏi bụi. Có thể cất giữ chiếc khăn còn trái cầu thì phải đem ra mà trả lại!" Ðại Dụng bèn đi lấy trái cầu đem ra. Cát Cân đỡ lấy rồi cáo biệt.
          Cát Cân về rồi mà Ðại Dụng thấy chăn gối vẫn còn đượm hương thơm kỳ lạ như ở chiếc khăn màu tím. Từ đó, cứ cách một tối Cát Cân lại tới phòng trọ, ân ái với Ðại Dụng một lần. Ðại Dụng đâm ra mê mẩn tâm thần, quên cả chuyện về quê.
          Một tối, ân ái xong, Cát Cân hỏi:"Ở trọ lâu ngày thế này mà chẳng làm ăn chi thì lấy tiền đâu ra mà sinh sống?" Ðại Dụng đáp:"Thú thực với nàng, vì hết tiền nên đã phải đem cầm chiếc áo lạnh. Nay chắc lại sắp phải đem bán nốt con ngựa!" Nói:"Chỉ vì gái mà bị nhẵn túi rồi lại phải đem cầm chiếc áo lạnh! Bây giờ chỉ còn có một con ngựa để về quê mà cũng toan đem bán thì lấy gì mà về? Thôi đừng có bán! Ðể thiếp tặng cho ít vàng mà tiêu vì thiếp có để dành được chút của riêng!" Ðại Dụng lắc đầu, nói:"Ân huệ nàng ban chưa chút báo đáp, nay lại nhận vàng của nàng mà sống, thì đâu còn phải là người đàn ông?" Cát Cân cứ nài ép, nói:"Nếu chẳng chịu nhận thì vay vậy! Lúc nào có thì trả cả vốn lẫn lời!" Nói xong, nắm lấy tay Ðại Dụng, lôi ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn, Cát Cân nói:"Vần giùm tảng đá này sang bên!" Ðại Dụng làm theo lời. Cát Cân rút trâm cài đầu, thọc xuống đất thăm dò rồi dừng lại, nói:"Bới giùm chỗ đất này lên đi!" Ðại Dụng lại làm theo lời. Bới sâu được chừng một thước, Ðại Dụng thấy một nắp hũ lộ ra. Cát Cân bèn thò tay xuống mở nắp hũ, lôi lên năm mươi đĩnh vàng. Ðại Dụng nắm tay Cát Cân cản lại, song Cát Cân chẳng nghe, cứ lôi lên thêm mười đĩnh nữa, đưa cả cho Ðại Dụng. Ðại Dụng lắc đầu, nói:"Nhiều quá! Có cất trở lại một nửa thì mới dám vay!" Cát Cân đành làm theo lời. Ðại Dụng bèn đậy nắp hũ, lấp đất lại, rồi vần tảng đá đè lên như cũ.
          Tháng sau, một tối, ân ái xong, Cát Cân nói:"Mấy hôm nay, thiên hạ xì xầm bàn tán về chuyện chúng mình! Chẳng thể tiếp tục sống như thế này được nữa!" Ðại Dụng kinh hãi quá, hỏi:"Ðã hết sức cẩn thận, chẳng hề hở chuyện ra, sao thiên hạ vẫn biết? Nếu quả là đã vỡ lở thì cũng chẳng biết tính sao! Nàng có cách gì, xin hãy chỉ cho, dù có thế nào, cũng xin gánh chịu!" Cát Cân nói:"Chỉ còn một cách là chàng lên đường về quê trước, còn thiếp thì ở lại đây thu xếp công việc! Khi nào thu xếp xong, thiếp sẽ tới Lạc Dương chung sống!" Nói xong, từ biệt.
          Ðại Dụng bèn tức tốc sửa soạn hành trang, trả lại nhà cho chủ rồi lên ngựa về quê. Dọc đường, Ðại Dụng định bụng sẽ dùng tiền bạc vừa vay được để sửa sang lại nhà cửa mà đón rước giai nhân.
          Vừa về tới nhà, Ðại Dụng thấy một cỗ xe sang trọng đậu ngay ở trước cổng nên lấy làm lạ, bèn tới gần để coi. Thấy Cát Cân với Tang mụ mụ mở cửa xe bước xuống, Ðại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao lại có thể về đây sớm thế?" Cát Cân mỉm cười, đáp:"Ðừng có hỏi nữa! Hãy khuân hết mười hũ vàng trong xe vào nhà mà cất đi!" Ðại Dụng liền làm theo lời. Cát Cân bèn dắt Tang mụ mụ và xa phu vào nhà, rồi nói:"Hãy mời tiểu thúc ra đây mà giới thiệu. Cứ giới thiệu thiếp là vợ chàng, mới cưới ở Tào Châu!" Ðại Dụng gật đầu rồi lên tiếng gọi Ðại Khí. Biết là anh đã về, Ðại Khí vội chạy ra. Ðại Dụng bèn giới thiệu mọi người với nhau. Cát Cân rất thân thiện với Ðại Khí, hỏi thăm đủ mọi chuyện ở Lạc Dương. Sau đó, Cát Cân đi tắm gội, trang điểm, rồi ra bảo Ðại Dụng dắt mình sang chào bà con lối xóm.
          Hôm sau, bà con lối xóm đều đem quà sang mừng. Ai cũng công nhận tân nương là một giai nhân tuyệt sắc, song ai cũng thắc mắc về lai lịch của tân nương. Ðại Dụng cứ nơm nớp lo sợ về việc thiên hạ sẽ biết được lai lịch của vợ mình song Cát Cân thì lại rất thản nhiên. Ðại Dụng nói:"Chỉ sợ thiên hạ biết được lai lịch của nàng thôi!" Cát Cân nói:"Việc chi mà phải sợ? Thiên hạ có biết thì cũng chẳng sao! Thiếp là con nhà thế gia chứ có phải là gái giang hồ đâu mà phải sợ?"
          Tháng sau. Một hôm Cát Cân nói với chồng: "Tướng tiểu thúc khá hơn tướng lang quân nhiều. Nay vị hôn thê của tiểu thúc đã mất, thiếp muốn làm mai Ngọc Bản cho! Nhan sắc Ngọc Bản cũng chẳng đến nỗi nào!" Ðại Dụng cười, nói:"Sao nàng khiêm tốn thế? Nhan sắc Ngọc Bản cũng ngang ngửa với nhan sắc nàng! Chỉ sợ Ngọc Bản chẳng ưng Ðại Khí thôi! Nếu nàng nghĩ là Ngọc Bản có thể ưng Ðại Khí thì nàng hãy làm mai giùm đi!" Cát Cân nói:"Lang quân hãy thử ướm ý tiểu thúc xem sao đã!" Ðột nhiên, Ðại Dụng tỏ vẻ ngần ngại, nói:"Chỉ sợ hai anh em cùng lấy hai chị em ở Tào Châu, thiên hạ sẽ nghi ngờ, rồi dò la được lai lịch của hai nàng thì phiền lắm!" Cát Cân nói:"Hai chị em thiếp cùng là con nhà thế gia thì có điều chi mà lang quân phải sợ? Chỉ cần lang quân ướm ý tiểu thúc giùm thôi! Mọi việc khác, cứ để thiếp chu toàn!" Ðại Dụng bèn đi tìm em, hỏi ý. Thấy anh nói nhan sắc Ngọc Bản chẳng thua chi nhan sắc chị dâu, Ðại Khí ưng ngay. Ðại Dụng bèn vào phòng thuật lại cho vợ nghe, rồi hỏi:"Bây giờ phải làm thế nào?" Cát Cân đáp:"Dễ lắm! Chỉ cần sai Tang mụ mụ tới Tào Châu đón Ngọc Bản về đây là xong!" Hỏi:"Ngọc Bản đã biết diện mạo, tính nết Ðại Khí ra sao đâu mà quyết định?" Ðáp:"Ngọc Bản thân với thiếp và tin thiếp lắm! Thiếp sẽ dặn Tang mụ mụ thuật lại cho Ngọc Bản nghe tất cả mọi điều thiếp nghĩ về tiểu thúc!" Nói xong, Cát Cân gọi Tang mụ mụ lên dặn dò mọi chuyện rồi sai xa phu rong xe chở Tang mụ mụ đi Tào Châu ngay hôm ấy.
          Bốn hôm sau. Vào buổi chiều, xe tới Tào Châu. Tang mụ mụ bảo xa phu dừng xe ở ngoài cổng huyện, rồi nằm nghỉ trong xe. Chờ tới tối, Tang mụ mụ mới xuống xe, vào huyện một mình. Lát sau, Tang mụ mụ trở ra, dắt theo Ngọc Bản. Xe lăn bánh, ngày đi, đêm nghỉ.
          Ở nhà, Cát Cân đã tính sẵn ngày giờ. Ðúng ngày, Cát Cân bảo Ðại Khí cưỡi ngựa ra ngoài năm mươi dặm mà đón tân nương. Ðại Khí vâng lời, phục sức sang trọng, cưỡi ngựa đi đón giai nhân. Ði được ngoài năm mươi dặm, Ðại Khí bèn ghìm ngựa đứng ở bên đường mà đón. Lát sau, xe chở Ngọc Bản về tới. Tang mụ mụ bèn bảo xa phu dừng xe để giới thiệu Ngọc Bản và Ðại Khí với nhau. Sau đó, Tang mụ mụ bảo Ðại Khí lên xe ngồi chung với Ngọc Bản, bảo xa phu buộc chung hai ngựa mà chạy.
          Tới nhà, Ðại Khí thấy chị dâu đã sửa soạn đầy đủ hôn lễ cho mình, có cả âm nhạc. Cát Cân và Ngọc Bản gặp nhau thì vô cùng mừng rỡ, cứ ôm lấy nhau mà hàn huyên. Tới giờ, Cát Cân bảo Ngọc Bản cùng Ðại Khí làm lễ giao bái. Tối ấy, hai người làm lễ hợp cẩn, động phòng hoa chúc. Thế rồi Ðại Khí và vợ cùng ở chung với anh và chị dâu, rất mực thuận hòa vui vẻ.
          Ba năm sau, Cát Cân và Ngọc Bản, mỗi người sanh được một bé trai kháu khỉnh. Nhờ mười hũ vàng cũng như nhờ tài quán xuyến của Cát Cân, Ðại Dụng trở thành cự phú ở trong vùng. Ðại Dụng bèn lấy tiền ra xây cất một dinh cơ hai từng lầu, rất mực sang trọng.
          Một hôm, có một bọn cướp, chừng sáu chục tên, kéo tới vây dinh cơ. Thấy biến, Ðại Dụng vội sai gia nhân khóa chặt mọi cửa, đưa cả nhà lên lầu. Bọn cướp đột nhập dinh cơ, lấy củi chất quanh chân lầu, đòi chủ nhân ra mặt cho chúng nói chuyện. Ðại Dụng bèn ra đứng ở lan can, nhìn xuống, hỏi:"Có thù oán chi nhau mà tới vây nhà?" Tên đầu sỏ đáp:"Cần chi phải có thù oán mới tới vây nhà? Tới đây vì muốn hai điều. Thứ nhất là nghe đồn nhị vị phu nhân đẹp lắm, có một không hai trên trần thế nên muốn được xem mặt. Thứ nhì là nghe đồn gia đình giàu lắm nên muốn mỗi người trong bọn được tặng năm trăm đồng vàng!" Nói xong, dọa đốt lầu. Ðại Dụng đành nói:"Vui lòng cho mỗi kẻ năm trăm đồng, song chẳng thể cho thấy mặt các phu nhân được!" Bọn cướp không nghe, cứ dọa đốt lầu. Gia nhân đều tái xanh mày mặt. Cát Cân bèn nói với chồng:"Lang quân cứ để thiếp và Ngọc Bản xuống lầu cho bọn chúng thấy mặt!" Ðại Dụng nói:"Ðâu có được!" Cát Cân nói:"Thì lang quân cứ để mặc thiếp đối phó với bọn chúng xem sao!" Ðại Dụng đành im lặng.
          Cát Cân bèn bảo Ngọc Bản cùng mình đi trang điểm thực lộng lẫy. Sau đó, Cát Cân dắt tay Ngọc Bản từ từ bước xuống lầu, mở cửa chính, ra nhìn bọn cướp khắp lượt, rồi nói:"Chị em ta đều là tiên nữ trên thượng giới, tạm thời phải xuống trần thế một thời gian. Chủ nhân gia đình này đã đồng ý cho bọn bay ba vạn đồng vàng mà bọn bay còn đòi được thấy mặt chị em ta thì quả thực là bọn bay chẳng biết điều chút nào! Bọn bay chỉ có đủ phước để được hưởng một trong hai điều mà bọn bay yêu sách thôi! Bây giờ bọn bay đã được thấy mặt chị em ta rồi thì đâu còn phước để được hưởng tiền bạc nữa?" Nghe thấy thế, bọn cướp vội đồng loạt quỳ xuống đất, rập đầu lạy Cát Cân và Ngọc Bản, chỉ trừ tên đầu sỏ chẳng chịu quỳ, cứ đứng yên mà nhìn chòng chọc vào hai người.
          Cát Cân nói xong, dắt tay Ngọc Bản, cùng quay vào nhà. Tên đầu sỏ bèn nói:"Nó vọng ngôn đó chứ tiên với cú gì!" Nghe thấy thế, Cát Cân quay phắt người lại, nhìn tên đầu sỏ, hỏi:"Vậy bọn bay muốn gì? Nếu biết điều mà rút lui ngay thì cũng chưa muộn. Nếu không thì chớ trách là ta tàn nhẫn!" Bọn cướp đưa mắt nhìn nhau, phân vân chẳng biết nên làm thế nào. Cát Cân bèn bỏ mặc bọn cướp, dắt Ngọc Bản vào nhà, bước lên lầu. Bọn cướp cùng đứng dậy, ngây người nhìn theo. Thấy Cát Cân và Ngọc Bản bước lên đến lưng chừng cầu thang thì đột nhiên cùng biến mất, bọn cướp kinh hãi quá, hò nhau bỏ chạy, chẳng dám quay đầu nhìn lại.
          Từ đó, hai anh em lại sống yên vui với hai người vợ đẹp trong cảnh giàu sang. Ðại Khí thì chẳng thắc mắc chi về lai lịch của Cát Cân và Ngọc Bản, song Ðại Dụng thì nghĩ rằng vợ mình và em dâu chẳng phải là hai tiểu thư thế gia vì chẳng thấy thế gia nào tới huyện Lạc Dương này lùng kiếm con gái trốn nhà cả! Ðại Dụng chẳng dám nói ý ấy cho vợ biết mà chỉ nuôi ý đi Tào Châu một chuyến để dò la lai lịch của vợ và em dâu.
          Một hôm, Cát Cân nói với chồng:"Trước kia, thiếp vẫn giấu lang quân, nói rằng thiếp không có họ! Nay mình đã có con với nhau nên thiếp thú thực là thiếp họ Ngụy, con gái của Tào Quốc Phu Nhân ở Tào Châu!" Ðại Dụng chẳng tin vì nghĩ rằng khi mình còn ở Tào Châu có bao giờ thấy ai nói về một thế gia họ Ngụy nào đâu?
          Một hôm, Ðại Dụng nói với vợ:"Ta có việc cần phải đi ít bữa, nhờ nàng ở nhà quán xuyến mọi việc!" Cát Cân nói:"Lang quân cứ an tâm mà đi! Mọi việc ở nhà để mặc thiếp lo!" Ðại Dụng bèn lên đường đi Tào Châu.
          Tới nơi, Ðại Dụng dò hỏi thì được biết là ở Tào Châu chẳng có thế gia họ Ngụy nào. Thế nhưng, khi tới thăm căn nhà trọ năm xưa thì thấy trên vách quả có một bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Ðại Dụng thắc mắc lắm, bèn nhẩm thuộc bài thơ rồi đi tìm chủ nhà, hỏi: "Trong căn nhà tiểu sinh thuê trọ năm xưa, trên vách có bài thơ đề Tặng Tào Quốc Phu Nhân. Tiên sinh cư ngụ ở đây đã từ lâu, chắc biết Tào Quốc Phu Nhân là ai chứ?" Chủ nhà gật đầu, mỉm cười, đáp:"Biết chứ! Quý khách có muốn gặp Tào Quốc Phu Nhân không?" Ðại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Có thể gặp được sao?" Chủ nhà gật đầu, đáp: "Sao lại không?" rồi dẫn Ðại Dụng ra vườn. Tới một gốc mẫu đơn cao, chủ nhà chỉ cây, nói:"Tào Quốc Phu Nhân đó!" Ðại Dụng kinh ngạc, hỏi:"Sao cây mẫu đơn này lại được gọi là Tào Quốc Phu Nhân?" Chủ nhà cười, đáp:"Vì nó cao nhất và đẹp nhất Tào Châu nên thiên hạ đùa bỡn, phong cho nó lộng danh là Tào Quốc Phu Nhân!" Lại hỏi: "Cây này thuộc giống mẫu đơn nào?" Ðáp:"Thuộc giống Cát Cân, trổ hoa màu tím!" Nghe thấy thế, Ðại Dụng càng kinh hãi, thầm nghĩ chắc vợ mình là thần của cây mẫu đơn này. Ðại Dụng bèn cám ơn chủ nhà rồi lên đường về quê.
          Tới nhà, Ðại Dụng chẳng dám hỏi han chi vợ. Sáng sau, muốn dò xét tình ý vợ, Ðại Dụng bèn ngâm nga bài thơ Tặng Tào Quốc Phu Nhân đề trên vách nhà trọ ở Tào Châu. Nghe thấy chồng ngâm nga bài thơ ấy, đột nhiên Cát Cân tái mặt, nói:"Ba năm trước đây, vì cảm mối tình tương tư của lang quân nên thiếp mới lấy thân mà báo đáp. Nay thấy lang quân đã nghi ngờ thiếp thì chúng mình chẳng thể sống chung với nhau được nữa!" Nói xong, liền lớn tiếng gọi:"Ngọc Bản!" Ðại Dụng chợt thấy Ngọc Bản ẵm hai đứa bé tới. Ðột nhiên, hai chị em ẵm hai đứa bé, quẳng ra sân, Ðại Dụng kinh hãi quá, đưa mắt nhìn theo thì thấy hai đứa bé rớt xuống sân rồi biến mất. Quay đầu nhìn lại thì thấy cả Cát Cân và Ngọc Bản cũng đã biến mất. Lúc đó Ðại Dụng mới tự trách mình là tò mò thắc mắc làm chi cho mất cả vợ con cùng em dâu và cháu! Hai hôm sau, ở chỗ hai đứa bé rớt xuống, bỗng nảy ra hai mầm mẫu đơn. Chỉ qua một đêm, hai mầm ấy đã trở thành hai cây mẫu đơn thực cao, đường kính thân cây dài hơn một thước.
          Năm sau. Hai cây cùng trổ hoa. Một cây trổ hoa màu tím, một cây trổ hoa màu trắng, đóa nào cũng lớn bằng hai nắm tay, cánh nhiều và dày. Ðại Dụng đi hỏi những người sành chơi hoa thì được biết cây hoa màu tím thuộc giống mẫu đơn Cát Cân còn cây hoa màu trắng thuộc giống mẫu đơn Ngọc Bản. Hai giống mẫu đơn này rất quý, khác hẳn các giống mẫu đơn thông thường khác.
          Hai năm sau. Hai cây này sinh sôi nảy nở ra nhiều cây con, hoa trổ rợp sân. Ðại Dụng bèn đánh hết các cây ở sân đem ra trồng ở vườn thì thấy mỗi cây lại biến thành một giống mẫu đơn khác, chẳng biết tên chi.
          Từ đó, vườn mẫu đơn của hai anh em họ Thường nổi tiếng là vườn hoa đẹp nhất huyện Lạc Dương.


          ST
          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

          Comment


          • #35
            NÓI ÐÙA, TƯỞNG THỰC (truyện VƯƠNG QUẾ AM) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

            Mã anh hoa hạ trúc ly tà
            Mộng cảnh tầm lai lộ bất soa
            Tái đắc mỹ nhân giang thượng khứ
            Cựu đình nhiêu xứ lãng như hoa

            Huyện Ðại Danh, tỉnh Hà Bắc, có nho sinh họ Vương, tên Quế Am, hai mươi lăm tuổi, còn độc thân, dòng dõi thế tộc. Song thân mất sớm, để lại một gia tài khá lớn. Sinh thời, thân phụ là bạn thâm giao với quan thái bộc họ Từ ở thủ phủ Chấn Giang, tỉnh Giang Tô.
            Năm ấy, một hôm Quế Am có việc phải xuống Hà Nam, ra bờ sông Ðại Danh thuê thuyền thủy hành. Khi thuyền cập bến Hà Nam, Quế Am mở bọc lấy tiền trả chủ thuyền rồi xách bọc lên mui. Ðảo mắt nhìn quanh, thấy quang cảnh ở bến thực là náo nhiệt, trên bộ thì người đông như kiến, chen vai thích cánh, dưới nước thì thuyền tựa lá tre, san sát liền nhau. Chợt thấy ở thuyền bên có một nữ lang đang ngồi cặm cụi thêu giày, Quế Am thầm nghĩ chắc là con gái chủ thuyền, bèn liếc mắt nhìn sang. Thấy nữ lang có nhan sắc vô cùng diễm lệ, Quế Am động tâm, đứng nhìn không chớp mắt. Nữ lang cũng biết là ở thuyền bên có người đang đứng nhìn mình, nhưng cứ giả vờ như chẳng biết. Quế Am bèn cất giọng ngâm bài Gái Lạc Dương thêu giày trong cổng của một thi sĩ đương thời, cốt để nữ lang nghe tiếng. Biết người ấy ngâm thơ ghẹo mình, nữ lang chỉ ngửng đầu liếc nhìn rồi lại cúi xuống cặm cụi thêu giày. Bắt gặp cái nhìn của nữ lang, Quế Am bủn rủn chân tay, tâm thần mê mẩn. Lát sau, khi đã định thần, Quế Am mở bọc lấy một đĩnh vàng, ném sang cạnh nữ lang. Nữ lang nhặt lấy, ném lên bờ, tựa hồ như chẳng biết đó là vàng. Quế Am vội lên bờ nhặt lại, rồi xuống thuyền, mở bọc lấy một xuyến vàng ném sang. Lần này, nữ lang cứ lờ đi, coi như chẳng biết. Quế Am còn đang nghĩ cách làm cho nữ lang phải chú ý tới mình thì bỗng thấy một ông lão từ trên bờ bước xuống thuyền nữ lang. Thầm đoán ông lão là thân phụ của nữ lang, Quế Am lại lo rằng ông lão sẽ nhìn thấy chiếc xuyến. Còn đang nghĩ cách đối phó với cảnh tình bất lợi, bỗng Quế Am thấy nữ lang lấy một đôi giày thêu đặt phủ lên chiếc xuyến. Quế Am mừng quá, trong bụng cứ thầm cám ơn nữ lang. Bỗng thấy ông lão nhổ neo, lái thuyền lên hướng bắc, Quế Am cứ đứng thẫn thờ nhìn theo. Lát sau, như sực nhớ ra điều gì, Quế Am vội chạy vào khoang nói với chủ thuyền. Chủ thuyền liền cho thuyền đuổi theo thuyền ông lão song vì thuyền ông lão lướt nhanh quá, chủ thuyền đành phải quay lại.
            Thu xếp xong công việc, Quế Am thuê thuyền ngược bắc. Về nhà, hình bóng giai nhân cứ ám ảnh tâm trí suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn lúc ngủ. Quế Am cố công dò hỏi tin tức của giai nhân song chẳng được tin tức gì.
            Năm sau. Một hôm có việc lại phải xuống Hà Nam, Quế Am quyết tâm đem theo nhiều tiền bạc để ở lại lâu ngày hầu tìm kiếm giai nhân. Thu xếp xong công việc, Quế Am mua hẳn một chiếc thuyền, thả neo ở bến để cư ngụ. Hàng ngày, Quế Am chỉ ngồi quan sát thuyền bè ngược xuôi qua bến, cầu Trời khấn Phật cho mình được gặp lại giai nhân. Nửa năm sau, Quế Am thuộc lòng từng cột buồm, từng mái chèo của mỗi con thuyền xuôi ngược song vẫn chưa dò hỏi được tin tức của giai nhân. Nửa năm sau nữa, tiền lưng đã cạn, Quế Am đành phải thuê người lái thuyền ngược bắc. Về nhà, Quế Am cứ thẫn thờ như kẻ mất hồn, suốt ngày thở vắn than dài, chẳng lúc nào quên được hình bóng giai nhân.
            Một đêm, Quế Am thả bộ dọc theo một bờ sông lạ, rồi quá bước, lạc vào một tiểu thôn. Ði qua mấy ngôi nhà quay mặt về hướng bắc, Quế Am thấy một cổng gỗ quay mặt về hướng nam, trong có treo một bức rèm trúc. Ðưa mắt nhìn qua rèm, Quế Am thấy một vườn hoa. Nghĩ rằng đó là công viên, Quế Am bước vào coi thì thấy vườn trồng toàn cây mã anh, tơ hồng giăng đầy cành. Thấy hiện cảnh giống hệt phong cảnh trong bài Cây mã anh trồng trong cổng gỗ của một thi sĩ đương thời, Quế Am thầm nghĩ chắc tác giả bài thơ ấy đã phải đặt chân tới nơi đây rồi! Bước vào trong, Quế Am thấy ở cuối vườn có một hàng rào lau sậy. Băng qua hàng rào, Quế Am thấy một ngôi nhà ba gian, cũng quay mặt về hướng nam, cửa đóng im lìm. Quế Am bèn bước tới bụi chuối ở đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy trong phòng có một giá áo trên có treo một chiếc quần thêu, Quế Am biết là phòng ngủ của phụ nữ nên kinh hãi quá, vội quay người trở ra. Ðang dợm bước bỏ đi, bỗng Quế Am nghe có tiếng mở cửa, rồi thấy một nữ lang, điểm trang sơ sài, từ trong phòng chạy ra, đảo mắt nhìn quanh, tựa hồ như để tìm kiếm kẻ dòm lén. Nhận ra nữ lang chính là giai nhân ở bến Hà Nam hai năm về trước, Quế Am mừng quá, vội chắp tay vái chào, nói:"Bấy lâu nay, tiểu sinh vẫn dò hỏi tin tức của nương tử song chẳng được tin tức gì! Bữa nay tình cờ lại được gặp nương tử ở nơi đây! Nương tử có nhận ra tiểu sinh chăng?" Còn đang chờ câu trả lời của giai nhân, bỗng Quế Am thấy ông lão lái thuyền năm xưa từ vườn bước vào sân. Kinh hãi quá, Quế Am tỉnh giấc, biết là mình nằm mộng. Tiếc giấc mộng, Quế Am lại nhắm mắt ngủ, hy vọng được thấy lại mộng cảnh cũ, song chẳng thấy gì. Tuy nhiên, Quế Am vẫn tin rằng giấc mộng là một điềm báo trước, cho mình biết sắp được gặp lại giai nhân. Quế Am giấu kín câu chuyện nằm mộng, chẳng dám thuật cho ai nghe, vì tin rằng nếu có người khác biết thì giấc mộng sẽ chẳng thể thành sự thực.
            Năm sau. Một hôm Quế Am có việc phải đi Chấn Giang. Tới nơi, vào quán trọ, Quế Am viết thiếp trình với Từ thái bộc rằng mình vừa tới Chấn Giang và khất rằng sau khi thu xếp xong công việc, sẽ xin tới thăm thái bộc. Sau đó, Quế Am thuê người đưa thiếp tới nhà thái bộc. Thái bộc nhận được thiếp thì mừng lắm, vội sai gia nhân tìm tới quán trọ, mời Quế Am năm hôm nữa, tới nhà mình dự tiệc vào buổi trưa. Quế Am nhờ gia nhân về trình lại với thái bộc rằng mình sẽ xin tuân lệnh. Mới được ba hôm, Quế Am đã thu xếp xong công việc nên phải lưu lại quán trọ để chờ ngày tới thăm thái bộc.
            Ðúng ngày, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Vì còn sớm, Quế Am buông cương cho ngựa bước tự do. Lát sau, ngựa lạc vào một tiểu thôn. Thấy hiện cảnh phảng phất như mộng cảnh năm ngoái, Quế Am bèn rong ngựa tới chiếc cổng gỗ bỏ ngỏ thì thấy trong cổng có treo một bức rèm trúc. Ðưa mắt nhìn qua rèm thì thấy có một vườn trồng toàn cây mã anh. Vừa kinh ngạc, vừa hồi hộp, Quế Am bèn rong ngựa vào vườn. Thấy ở cuối vườn có hàng rào lau sậy với ngôi nhà ba gian như trong mộng cảnh, Quế Am càng tin rằng giấc mộng năm ngoái là một điềm báo trước. Quế Am bèn xuống ngựa, dắt qua hàng rào, buộc ở góc sân, rồi bước tới đầu hồi phía đông, lén dòm qua cửa sổ. Thấy một nữ lang đang ngồi điểm trang ở trong phòng, Quế Am định thần nhìn kỹ thì thấy chính là giai nhân ở bến Hà Nam ba năm về trước. Giai nhân biết có kẻ dòm lén, bèn lớn tiếng, quát:"Kẻ kia là ai mà dám tự tiện xông vào nhà người ta như thế?" rồi đứng dậy, chạy ra sập cửa sổ xuống. Quế Am hoang mang chẳng biết là mình đang tỉnh hay mơ, song cũng đáp:"Nương tử chẳng nhận ra kẻ đã ném xuyến sang thuyền nương tử ba năm về trước hay sao?" Vừa dứt lời, Quế Am liền nghe thấy tiếng giai nhân vọng lại:"Ủa! Thế ra công tử là người ở bến Hà Nam năm nọ đó ư? Công tử đi đâu mà lại lạc vào đây?" Ðáp:"Tiểu sinh cưỡi ngựa đi thăm một người quen, chẳng dè lại lạc vào đây! Thấy hiện cảnh giống mộng cảnh năm ngoái nên tiểu sinh mới đánh bạo vào đây để tìm nương tử!" Hỏi: "Quý tính là chi?" Ðáp: "Họ Vương, tên Quế Am" Hỏi: "Quý quán ở đâu?" Ðáp: "Huyện Ðại Danh, tỉnh Hà Bắc" Hỏi: "Lệnh tôn làm gì?" Ðáp: "Gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc" Hỏi: "Lệnh đường còn tại thế không?" Ðáp: "Gia mẫu mất đã từ lâu!" Nói: "Công tử là con nhà quan thì muốn tìm gặp bao nhiêu người đẹp mà chẳng được, cần chi phải tới đây tìm gặp thiếp?" Ðáp: "Nương tử lầm rồi! Nếu chẳng phải là vì nương tử mà bị đau khổ từng giờ từng phút trong suốt ba năm qua thì tiểu sinh đã lập gia thất từ lâu rồi!" Nói: "Thiếp nói thế thôi, chứ thiếp cũng biết là công tử có cảm tình với thiếp! Năm xưa, thoáng thấy tướng mạo công tử, thiếp đã đoán là người chung thủy. Vì thế, thiếp tin là thế nào rồi công tử cũng sẽ tìm gặp thiếp. Gần đây, có mấy người tới làm mai, cha thiếp hỏi ý, thiếp đều từ chối! Giờ đây, nghe giọng nói chân thành của công tử, thiếp lại càng tin là mình đoán đúng!" Hỏi: "Chiếc xuyến năm xưa, nương tử còn giữ không?" Ðáp:"Vẫn còn đây!" Hỏi:"Song thân nương tử đâu?" Ðáp:"Gia mẫu mất rồi, còn gia phụ thì đi vắng. May mà hôm nay gia phụ sang thăm bên ngoại chứ người mà ở nhà thì chắc là rắc rối to!" Hỏi:"Tiểu sinh muốn được kết nghĩa phu thê cùng nương tử, chẳng hay ý nương tử thế nào?" Ðáp: "Nếu công tử nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng gia phụ để người hỏi ý thiếp thì thiếp sẽ xin vâng. Còn nếu công tử muốn thiếp bỏ nhà trốn theo công tử thì thiếp chẳng thể nào vâng lời được!" Hỏi: "Nương tử có thể thưa lại việc này với lệnh tôn chăng?" Ðáp: "Chẳng thể được! Thôi, công tử về đi, kẻo gia phụ về bất thần thì thiếp chẳng biết phải ăn nói làm sao!" Vì sung sướng quá, Quế Am đâm ra nể sợ giai nhân, nên khi thấy giai nhân giục về, Quế Am vội tuân lệnh, tháo ngựa cưỡi đi, quên bẵng những điều mình định hỏi. Bỗng giai nhân gọi giật lại:"Vương công tử!" Quế Am liền dừng cương, hỏi: "Nương tử muốn dạy bảo điều chi?" Giai nhân hỏi lại: "Công tử đã biết tên thiếp chưa?" Lúc đó Quế Am mới như người tỉnh mộng, đáp: "Chưa! Ðột nhiên tâm trí tiểu sinh bị u mê, chẳng còn nhớ là định hỏi nương tử những điều gì nữa!" Giai nhân nói:"Tên thiếp là Vân Nương!" Quế Am nhẩm kỹ rồi lại dợm cưỡi ngựa đi. Giai nhân lại hỏi: "Thế công tử đã biết họ tên gia phụ chưa?" Ðáp: "Cũng chưa!" Nói: "Gia phụ họ Mạnh, tên Giang Ly!" Quế Am lại nhẩm kỹ rồi cưỡi ngựa ra đi.
            Tới nhà thái bộc, Quế Am buộc ngựa ở ngoài cổng rồi vào trình diện. Thái bộc vồn vã đón tiếp, giới thiệu với trưởng nam Từ Ðại, rồi hỏi thăm về gia cảnh. Lát sau, thái bộc bảo Quế Am cùng nhập tiệc với mình và Từ Ðại. Vì Quế Am đang để tâm trí tận đâu đâu nên trong tiệc, thái bộc và Từ Ðại hỏi câu gì thì Quế Am trả lời câu ấy chứ chẳng hề khơi chuyện trước. Thấy thế, thái bộc cho rằng Quế Am là người ít nói. Tiệc vừa tan, Quế Am đã vội đứng dậy xin cáo biệt. Cha con thái bộc bèn tiễn Quế Am ra về.
            Dọc đường về, khi cưỡi ngựa qua nhà Mạnh ông, Quế Am thầm nghĩ chắc giờ này Mạnh ông đã về nên chỉnh lại y phục rồi ghé vào xin gặp. Mạnh ông đang ngồi trong phòng khách, chợt thấy một công tử ăn mặc sang trọng bước vào nhà, bèn chạy ra hỏi: "Công tử là ai?" Quế Am đáp: "Thưa lão trượng tiểu sinh là một học trò ở huyện Ðại Danh, tỉnh Hà Bắc, họ Vương, tên Quế Am! Hôm nay, tiểu sinh mạo muội tới đây để xin được thưa chuyện cùng lão trượng!" Thấy người phong nhã, ăn nói lễ độ, Mạnh ông bèn mời vào phòng khách. Sau một tuần trà, Mạnh ông hỏi:"Công tử có chuyện chi muốn nói?" Ðáp: "Thưa lão trượng, cách đây hơn ba năm, một hôm tình cờ tiểu sinh được nhìn thấy lệnh ái ngồi thêu giày trên một chiếc thuyền đậu ở bến Hà Nam. Tiểu sinh chưa tìm được cách cầu thân với lệnh ái thì lão trượng đã cho thuyền ngược bắc. Trong suốt ba năm qua, tiểu sinh vẫn để tâm dò hỏi nơi cư trú của lão trượng song chưa dò hỏi được! Nay có việc phải tới Chấn Giang, tình cờ tiểu sinh được biết lão trượng cư trú ở nơi đây. Vì tiểu sinh chưa lập gia thất nên hôm nay tiểu sinh mạo muội tới đây để xin lão trượng nhận cho tiểu sinh được làm tế tử trong nhà!" Hỏi: "Công tử có thể cho lão phu biết lệnh tôn là ai chăng?" Ðáp: "Thưa lão trượng, gia phụ trước kia làm triều quan, song nay đã thất lộc!" Hỏi: "Thế còn lệnh đường?" Ðáp: "Thưa lão trượng, gia mẫu mất đã từ lâu!" Rồi Quế Am đứng bật dậy, nói: "Xin lão trượng cho phép tiểu sinh được ra lấy sính lễ đem vào!" Mạnh ông vội ngăn lại, nói: "Xin công tử cảm phiền, lão phu mới nhận gả tiện nữ cho người khác rồi!" Nghe thấy thế, Quế Am choáng váng mặt mày, cứ đứng ngây người như tượng gỗ. Lát sau, như tỉnh cơn mê, Quế Am chẳng biết nói chi thêm, đành chắp tay vái chào Mạnh ông, xin phép được ra về. Mạnh ông bèn tiễn chân ra cổng.
            Về quán trọ, Quế Am cứ thắc mắc chẳng hiểu lời nói của Mạnh ông là thực hay hư. Vì thế, Quế Am cứ trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được. Chợt nghĩ có thể là vì mình đường đột tới nhà, chẳng nhờ người mối lái, làm Mạnh ông tức giận mà từ chối khéo chăng, Quế Am lại cảm thấy còn hy vọng, tinh thần phấn khởi. Quế Am bèn nằm suy nghĩ xem mình nên nhờ ai làm mối. Thoạt tiên, thấy ở Chấn Giang, ngoài Từ thái bộc, mình chẳng quen ai, Quế Am nảy ý muốn nhờ thái bộc. Nhưng rồi, lại sợ thái bộc cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền, Quế Am lại ngập ngừng. Rồi lại tự nhủ nếu chẳng nhờ thái bộc thì biết nhờ ai? Cuối cùng Quế Am quyết tâm tới nhờ thái bộc.
            Sáng sau, Quế Am dậy sớm sửa soạn y phục, rồi cưỡi ngựa tới nhà thái bộc. Tới nơi, Quế Am trình bày câu chuyện Vân Nương với thái bộc, rồi thưa:"Thưa thế phụ, vì gia nghiêm mất sớm nên tiểu điệt xin thế phụ thay gia nghiêm mà lo giùm việc trăm năm cho tiểu điệt!" Thái bộc hỏi:"Thế thân phụ của Vân Nương là ai?" Ðáp: "Thưa thế phụ, là Mạnh ông, húy Giang Ly!" Thái bộc giật mình, nói: "Tưởng là ai chứ Mạnh Giang Ly thì là chỗ ngoại thích của ta! Hiền điệt muốn làm rể nhà ấy thì để ta nói cho!" Hỏi: "Thưa thế phụ, Mạnh ông có liên hệ ra sao với thế phụ?" Ðáp: "Tổ phụ của Giang Ly là bào đệ của tổ mẫu ta" Rồi tiếp: "Sao chẳng nói với ta từ trước mà lại đường đột tới nhà Giang Ly cho sinh chuyện?" Ðáp: "Vì tiểu điệt sợ thế phụ cười là con nhà thế tộc mà đi hỏi cưới con nhà chủ thuyền!" Nghe thấy thế, thái bộc bỗng tỏ vẻ hoài nghi, nói: "Chẳng biết Giang Ly mà hiền điệt nói đây có phải là ngoại thích của ta không vì trong thiên hạ thiếu gì người trùng tên trùng họ! Ngoại thích của ta tuy nghèo thực song có làm nghề chủ thuyền bao giờ đâu? Hay là hiền điệt có lầm chăng? Thôi, để ta thử cho người tới hỏi xem sao!" Rồi gọi trưởng nam lên, dặn dò cặn kẽ mọi điều, sai tới nhà Mạnh ông.
            Từ Ðại vâng lệnh cha, cưỡi ngựa tới nhà Mạnh ông. Nhận ra Mạnh ông đúng là người cậu họ của mình, Từ Ðại bèn chắp tay vái chào rồi lên tiếng: "Thưa cữu phụ, gia phụ sai tiểu điệt tới đây để hỏi xem cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho ai chưa?" Mạnh ông đáp: "Chưa! Song quan thái bộc hỏi để làm chi?" Từ Ðại đáp: "Thưa cữu phụ, gia phụ muốn xin cữu phụ gả Vân muội cho con của một người bạn gia phụ!" Hỏi: "Công tử ấy tên chi?" Ðáp: "Thưa cữu phụ, tên Quế Am, họ Vương!" Hỏi: "Có phải là công tử hôm qua đã tới đây để xin hỏi cưới em Vân Nương đó không?" Ðáp: "Dạ, thưa phải!" Nói: "Ta đã trả lời cho công tử biết rồi mà!" Ðáp: "Thưa cữu phụ, nhưng hôm qua cữu phụ lại nói là cữu phụ đã nhận gả Vân muội cho người khác!" Mạnh ông cười, nói: "Vì công tử coi thường gia đình ta quá, tự nhiên sồng sộc tới nhà ta, chẳng nhờ ai mối lái. Vả lại, công tử nói là chưa lập gia thất song ta cũng chẳng tin, chỉ sợ công tử muốn lấy em Vân Nương về làm thứ thất thôi! Rồi lại còn việc công tử đang ngồi nói chuyện với ta mà đứng bật dậy, đòi ra lưng ngựa lấy sính lễ đem vào. Chắc công tử nghĩ rằng ta nghèo, thấy vàng ắt phải động tâm nên mới có hành động như thế. Tuy ta nghèo thực song ta chẳng tham tiền, chẳng muốn gả em Vân Nương như bán một đồ vật. Nay công tử đã phải tới nhờ quan thái bộc đứng ra làm mối thì ta tin là công tử chưa lập gia thất. Tuy nhiên, em Vân Nương bướng bỉnh lắm. Mấy đám con nhà đàng hoàng tử tế tới hỏi, nó đều từ chối. Vậy hiền điệt hãy ngồi đây chơi để ta vào hỏi ý nó xem sao? Có thế nào, ta sẽ ra trả lời cho hiền điệt biết để về trình lại với quan thái bộc!" Nói xong, Mạnh ông đứng dậy, vào nhà trong. Lát sau, Mạnh ông trở ra, nói:"Hiền điệt về trình lại với quan thái bộc rằng ta xin tuân lệnh!" Từ Ðại nói: "Vì Quế Am sắp phải về Hà Bắc, kính xin cữu phụ ấn định cho các ngày nạp thái và nghênh hôn để tiểu điệt có thể về trình lại với gia phụ!" Mạnh ông bèn lấy lịch ra coi, chọn ngày nạp thái, ngày nghênh hôn rồi nói cho Từ Ðại biết. Từ Ðại bèn cám ơn Mạnh ông rồi xin phép ra về.
            Tới nhà, Từ Ðại trình lại với cha. Thái bộc bèn cho gọi Quế Am lên, báo tin cho biết. Nghe tin, Quế Am cực kỳ vui sướng. Thái bộc nói:"Bây giờ, ta cho hiền điệt mượn một căn phòng ở nhà ta mà làm lễ nghênh hôn. Cưới xong, ở lại đây chơi ít bữa rồi hãy dắt vợ về Hà Bắc" Quế Am càng vui sướng, cám ơn thái bộc rối rít rồi xin phép được ra chợ sắm sửa nữ trang cho Vân Nương.
            Vào ngày nạp thái, thái bộc dẫn Quế Am tới nhà Mạnh ông nạp sính lễ. Vào ngày nghênh hôn, thái bộc sai gia nhân dựng rạp, tổ chức lễ cưới thực linh đình, rồi dẫn Quế Am cùng khách khứa, gia nhân tới nhà Mạnh ông đón dâu. Tối đến, tiệc cưới thực là náo nhiệt. Ðêm hợp cẩn, hai vợ chồng Quế Am rất tương đắc.
            Ba hôm sau, Quế Am xin phép thái bộc cho mình được đưa vợ về Hà Bắc. Thái bộc ưng thuận, rồi sai Từ Ðại tiễn hai vợ chồng ra tận bến sông.
            Ðêm ấy, nằm dưới thuyền, hai vợ chồng thủ thỉ ôn chuyện cũ. Quế Am hỏi:"Nàng còn nhớ hôm chúng mình mới gặp nhau, ta ném xuyến sang thuyền nàng không?" Vân Nương đáp:"Nhớ chứ! Hôm ấy, thoạt nhìn thấy chàng, thiếp đã nghĩ chàng là một nho sinh phong nhã, nên muốn làm quen. Thế nhưng, khi thấy chàng ném vàng với xuyến sang thì thiếp lại nghĩ chàng là một kẻ khinh bạc, chuyên dùng của cải để rủ rê đãng phụ, nên thiếp đổi ý, chẳng muốn làm quen nữa. Tuy cha thiếp nghèo, song cha thiếp vẫn dạy thiếp chẳng được tham của phù vân. Lúc ấy, thiếp cười là chàng có con mắt mà chẳng có con ngươi, toan lấy vàng để làm chuyển lòng thiếp. Cha thiếp mà thấy được chiếc xuyến thì chắc chắn là chàng đã bị rắc rối to, đâu còn có ngày nay? Chàng đã thấy thiếp thương chàng chưa?" Quế Am không đáp mà hỏi lại:"Hôm ấy, cha vừa từ trên bờ xuống đã vội lái thuyền đi đâu thế?" Ðáp:"Cha thiếp thuê thuyền, lái lên Giang Bắc, thăm chú Giang Ðoài!" Hỏi:"Thế còn chuyện hôm ta tới xin hỏi nàng, sao cha lại nói là cha đã nhận gả nàng cho người khác?" Ðáp:"Vì cha thiếp ngờ là chàng đã có chính thất, chỉ muốn lấy thiếp về làm thứ thất thôi!" Quế Am bỗng cười lớn, nói:"Cha tinh thực. Chỉ có nàng ngây thơ nên mới bị mắc bẫy của ta!" Vân Nương hỏi: "Bẫy gì?" Quế Am chẳng đáp. Vân Nương cứ gặng hỏi mãi:"Bẫy gì? Bẫy gì?" Bấy giờ Quế Am mới mỉm cười, đáp: "Bẫy lường gạt chứ còn bẫy gì!" Hỏi:"Chàng lường gạt thiếp chuyện gì?" Ðáp:"Chuyện ta chưa lập gia thất! Bây giờ ván đã đóng thuyền, chúng mình cũng sắp về tới nhà rồi, ta chẳng thể giấu được nàng nữa, đành phải thú thực với nàng rằng ta đã có chính thất!" Vân Nương chẳng tin, nói:"Chàng nói đùa! Làm chi có chuyện đó!" Quế Am nghiêm nét mặt, đáp:"Ta nói thực đó! Chính thất của ta tên Phong Nương, ái nữ của quan thượng thư họ Ngô ở kinh đô!" Nghe thấy thế, Vân Nương bỗng thất sắc, chẳng nói chi thêm, chỉ nằm im lặng.
            Lát sau, Vân Nương bỗng vùng dậy, từ trong khoang chạy vọt lên mui. Thấy thế, Quế Am cực kỳ kinh hãi, cũng vùng dậy, chạy theo, chẳng kịp xỏ giày. Vừa lên tới mui, bỗng nghe thấy có tiếng người nhảy ùm xuống nước, Quế Am vội tri hô ầm ĩ. Cả thuyền náo động, kinh hoàng. Chủ thuyền vội sai bốn chân sào nhảy xuống tìm vớt. Thế nhưng vì đêm tối như mực, chẳng ai nhìn thấy Vân Nương đâu mà chỉ nhìn thấy ánh sao lấp lánh khắp mặt sông. Chủ thuyền bèn cho thả neo giữa dòng để tìm vớt. Quế Am cực kỳ hối hận về việc mình đã nói đùa vợ để đến nỗi xảy ra cơ sự này! Quế Am chẳng dám hé môi nói cho ai biết, chỉ ngồi trên mui, ôm đầu khóc suốt đêm. Sáng sau, Quế Am bỏ tiền ra nhờ chủ thuyền thuê thợ lặn mò vớt Vân Nương song thợ lặn mò từ sáng tới chiều cũng chẳng thấy chi. Trời tối, chủ thuyền đành cho thuyền nhổ neo lên đường.
            Về nhà, Quế Am buồn bã, bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy. Người lão bộc thân tín lân la tới hỏi nguyên do, Quế Am bèn thuật lại cho nghe. Quế Am lại sợ Mạnh ông tới thăm thì chẳng biết sẽ phải đối đáp ra sao. Song, may cho Quế Am là Mạnh ông đang bận việc nhà nên chưa có thì giờ liên lạc với con và rể.
            Buồn quá, Quế Am giao hết gia vụ cho người lão bộc rồi xuống Hà Nam thăm người anh rể làm quan tại đó. Người chị thấy em buồn thì hỏi nguyên do. Quế Am bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người chị bảo Quế Am cứ ở lại chơi cho khuây khỏa, khi nào hết buồn thì hãy về. Thời gian rồi cũng làm vơi mối sầu.
            Hai năm sau. Quế Am xin phép anh chị cho mình trở về Hà Bắc. Thấy em đã hết buồn, người chị để cho về. Dọc đường, gặp trời mưa, Quế Am vào trú mưa dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường. Nhìn vào phòng khách Quế Am thấy có một bà vú đang nô đùa với một đứa bé. Ðứa bé nhìn thấy Quế Am thì tự nhiên cứ giơ hai tay ra, đòi bế. Quế Am lấy làm lạ song vì thấy đứa bé dễ thương nên chạy vào xin bế nó ra hiên. Bà vú thuận cho. Lát sau bà vú chạy ra xin lại thì đứa bé nhất định không chịu theo bà vú. Khi trời tạnh mưa, Quế Am bế đứa bé vào nhà trả bà vú rồi khoác hành lý lên vai thì đứa bé bỗng khóc thét lên, bập bẹ nói:"Bố đi rồi! Bố đi rồi!" Bà vú ngượng quá, mắng nó. Nó càng khóc lớn. Bà vú dỗ mãi song nó chẳng chịu nín. Bà vú đành bế nó vào nhà trong.
            Quế Am toan đi thì bỗng thấy một nữ lang bế đứa bé từ nhà trong bước ra. Nhìn kỹ, Quế Am bàng hoàng cả người vì thấy nữ lang chính là Vân Nương, vợ mình. Chợt Vân Nương lên tiếng:"Phụ tình lang! Ðể cục thịt này lại cho người ta. Bây giờ hãy đem nó đi đi!" Lúc đó Quế Am mới biết rằng đứa bé chính là con mình. Bị nỗi chua cay vò xé ruột gan, Quế Am vội thốt:"Trước kia ta chỉ nói đùa nàng thế thôi chứ ta đã có chính thất nào đâu!"Vân Nương nói:"Chẳng tin được!" Quế Am bèn chỉ trời vạch đất mà thề, thuật lại sự thực cho vợ nghe. Lúc bấy giờ Vân Nương mới tin, đổi giận làm buồn, nhìn Quế Am mà khóc. Quế Am cũng chảy nước mắt, nói: "Nàng hãy thuật cho ta nghe kể từ lúc nàng trầm mình xuống sông! Làm thế nào mà nàng còn sống sót để lưu lạc tới đây?" Vân Nương bèn thuật:"Chủ ngôi nhà này là Mạc ông với Mạc bà, cùng ngoài sáu mươi tuổi, cư ngụ ở đây với một bà vú và một gia nhân. Hai năm về trước, ông bà sai gia nhân lái thuyền chở cả nhà xuống Hà Nam du ngoạn. Lượt về, đúng vào đêm thiếp trầm mình, ông bà bảo gia nhân neo thuyền ở bên sông để nghỉ. Bị sóng cuốn đi, thiếp đụng vào thuyền của ông bà. Ông bà bèn sai gia nhân nhảy xuống vớt thiếp lên. Thấy thiếp còn thoi thóp thở, ông bà ra sức cấp cứu. Tới gần sáng, thiếp tỉnh lại. Ông bà hỏi chuyện, thiếp kể đầu đuôi. Ông bà bèn nhận thiếp làm con nuôi, chở về cho ở chung. Ba tháng sau, ông bà muốn gả chồng cho thiếp song thiếp chẳng chịu. Mười tháng sau, thiếp hạ sanh thằng bé này, đặt tên là Vương Ký Sinh. Hôm nay là sinh nhật đầu tiên của nó!" Quế Am bèn thở phào nhẹ nhõm rồi bỏ hành lý trên vai xuống, nói: "Nàng hãy dắt ta vào nhà trong chào ông bà đi!" Vân Nương gật đầu rồi dắt Quế Am vào nhà trong. Gặp ông bà Mạc, Quế Am vội chắp tay cúi đầu thi lễ. Ông bà cũng gật đầu đáp lễ. Nghe Vân Nương trình bày mọi chuyện, ông bà mừng lắm. Quế Am nói:"Tiểu sinh xin đa tạ ông bà đã thi ân cứu mạng cho tiện nội. Nay tiểu sinh xin ông bà cho tiểu sinh được nhận ông bà làm nhạc phụ mẫu!" Mạc ông nói:"Dĩ nhiên là vợ chồng lão phu ưng thuận rồi! Thế nhưng, hãy ở lại đây chơi với vợ chồng lão phu một tuần rồi hãy đưa vợ con về!" Tuy muốn đưa vợ con về ngay song vì nể lời Mạc ông, Quế Am đành phải ở lại.
            Tuần sau, Quế Am xin phép ông bà cho mình được đưa vợ con về Hà Bắc. Ông bà vui vẻ tiễn chân hai vợ chồng và đứa con ra về.
            Ở nhà Quế Am, Mạnh ông tới chơi đã được hơn hai tháng. Khi mới tới, nghe người lão bộc thuật chuyện Vân Nương trầm mình, Mạnh ông hốt hoảng song vẫn chưa tin. Mạnh ông bèn ở nán lại, chờ Quế Am về để hỏi cho rõ đầu đuôi câu chuyện.
            Sáng ấy, người lão bộc ra mở cổng thì chợt thấy Quế Am về, dẫn theo một nữ lang bồng một đứa bé trên tay. Người lão bộc bèn hoán hô ầm ĩ. Cả nhà cùng chạy ùa ra cổng để đón chào, vui mừng tíu tít. Khi vào phòng khách, Quế Am nhìn thấy Mạnh ông thì vừa mừng vừa sợ, còn Vân Nương thì vừa tủi vừa mừng, chạy tới ôm chầm lấy cha mà khóc. Mạnh ông khuyên giải con rồi hỏi chuyện trầm mình. Vân Nương thuật lại đầu đuôi cho cha nghe. Mạnh ông bèn quyết định ở lại thêm một tuần để chơi với con và cháu. Tuần sau, Mạnh ông ra về.
            Từ đó, Quế Am và Vân Nương chung sống rất tương đắc trong cảnh gia đình đầm ấm, cạnh đứa con trai cùng người lão bộc và đám gia nhân.
            Phải chăng muốn được hưởng hạnh phúc lâu dài, ai cũng phải trải qua một khúc chông gai, như người đời thường nói?


            ST
            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

            Comment


            • #36
              THẦN HOA CÚC (truyện HOÀNG ANH) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

              Thiên lý bình cân bốc ẩn cư
              Tửu hương hoa khí mộng tinh sơ
              Lương duyên ưng vị mai hoa đố
              Xử sĩ phong lưu chuyển bất như

              Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có người họ Mã, tên Tử Tài, có vợ họ Lã, tính rất hiền thục.
              Gia tư Tử Tài cũng chỉ vào hàng khá giả, có hai dãy nhà nam bắc, cách nhau một chiếc sân lớn. Mỗi dãy dài chừng bốn chục thước, tiếp giáp với một khu vườn chừng nửa mẫu đất. Khu bắc có trồng hoa cúc còn khu nam thì bỏ hoang.
              Ông, cha Tử Tài đều yêu hoa cúc song Tử Tài còn mê hoa cúc hơn cả cha, ông. Tử Tài chỉ trồng hoa cúc để thưởng ngoạn chứ chẳng đem bán bao giờ vì Tử Tài vẫn giữ ý nghĩ cổ truyền của cha, ông, cho việc bán hoa cúc là một việc làm vô liêm sỉ. Hễ nghe nói ở đâu có hoa cúc đẹp là Tử Tài lại lặn lội tìm tới mua, chẳng kể đường xá gần xa, giá cúc đắt rẻ. Vì thế mà gia tư lụn bại dần.
              Một hôm, có người khách quen từ thủ phủ Kim Lăng, tỉnh Giang Tô, lên Thuận Thiên có việc, ghé thăm Tử Tài. Trong khi đàm đạo, khách nói có một người bà con ở Kim Lăng mua được hai giống cúc đẹp lắm, không thấy có ở miền bắc. Tử Tài mừng quá, tức khắc vào nhà trong bảo vợ sửa soạn tiền bạc, hành trang để mình theo khách xuống Kim Lăng tìm mua hai giống cúc ấy.
              Tới nơi, Tử Tài đưa tiền nhờ người bà con của khách đi mua giùm được hai giò cúc lạ. Tử Tài quý hai giò cúc ấy lắm, chăm sóc như bảo vật.
              Hôm sau, Tử Tài biệt khách, đem hai giò cúc về Thuận Thiên. Mới lên ngựa phóng đi được một quãng thì Tử Tài thấy một thiếu niên phong lưu, tuấn tú, cưỡi ngựa theo sau một cỗ xe. Thiếu niên thấy Tử Tài đi cùng đường với mình thì mỉm cười, chắp tay vái chào làm quen, nói:"Ðệ họ Ðào, tên Trọng Túy, quê ở đất Kim Lăng này, còn quý danh là gì, quý quán ở đâu?" Thấy Trọng Túy nói năng lịch sự, tao nhã, Tử Tài chắp tay đáp lễ, nói:"Ðệ họ Mã, tên Tử Tài, quê ở huyện Thuận Thiên tỉnh Hà Bắc" Hỏi:"Dám hỏi túc hạ xuống đây có việc chi?" Ðáp:"Ðệ xuống đây tìm mua hai giống cúc đẹp không thấy có ở miền bắc!" Trọng Túy cười, nói:"Cúc nào là cúc chẳng đẹp, chỉ có người trồng tỉa chẳng biết cách chăm sóc mà thôi!" Rồi thao thao giảng thuyết về cách thức chăm sóc cúc. Nghe xong, Tử Tài mừng lắm, hỏi:"Bây giờ túc hạ đi đâu thế?" Ðáp:"Ðệ theo gia tỉ dọn nhà lên Hà Sóc, phía bắc sông Hoàng Hà!" Hỏi:"Quê túc hạ ở miền nam này, sao lại dọn nhà lên ở miền bắc?" Ðáp:"Tuy chị em đệ quê ở miền nam, song gia tỉ chán cảnh ở đây rồi, muốn dọn nhà lên ở miền bắc!" Tử Tài mừng lắm, nói: "Nếu túc hạ cùng lệnh tỉ chẳng chê đất Thuận Thiên là nơi hoang lậu thì xin mời nhị vị lên tệ xá cư ngụ!" Trọng Túy bèn rong ngựa tới cạnh xe, hỏi vọng vào: "Em vừa làm quen với Mã huynh ở Thuận Thiên, Hà Bắc. Biết chị em mình đang dọn nhà lên Hà Sóc, Mã huynh mời chị em mình lên nhà Mã huynh cư ngụ, chị có thuận không?" Tử Tài chăm chú theo dõi thì thấy một nữ lang tuyệt sắc, tuổi chừng hai mươi, vén rèm xe lên nhìn Trọng Túy, đáp: "Lên đó ở nhờ thì cũng chẳng sao song nhà cửa phải rộng rãi, tuy chẳng cần phải sang trọng!" Nghe thấy thế, Tử Tài vội phóng ngựa tới cạnh xe, nói:" Tệ xá tuy thô lậu song cũng rộng rãi lắm!" Hai chị em bèn quyết định theo Tử Tài lên Thuận Thiên.
              Tới nhà, Tử Tài vào nói chuyện với vợ. Lã thị cũng mừng vì có thêm bạn gái mới. Tử Tài bèn ra nói với Trọng Túy: "Vợ chồng đệ cùng lũ gia nhân chỉ ở hết dãy bắc, còn dãy nam thì bỏ trống, xin mời túc hạ cùng lệnh tỉ dọn vào đó cư ngụ!" Trọng Túy mừng lắm, liền dắt chị vào dọn dẹp dãy nam để ở. Rồi hai chị em cùng sang dãy bắc chào Lã thị. Lã thị vồn vã đón tiếp, hỏi nữ lang: "Hiền muội tên chi?" Nữ lang đáp:" Thiếp họ Ðào, tên Hoàng Anh" Thấy Hoàng Anh nói năng lịch sự nhã nhặn, Lã thị quý mến lắm. Khi hai chị em cáo biệt, Lã thị sai gia nhân đem gạo muối và rau thịt sang biếu.
              Hôm sau, Trọng Túy sang trồng giùm Tử Tài hai giò cúc mới. Rồi ngày nào Trọng Túy cũng sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài. Thấy cây nào khô, Trọng Túy liền nhổ lên, chiết cành mới trồng vào chỗ cũ. Vì thế, chỉ ít lâu sau, vườn cúc nhà Tử Tài trông thực tốt tươi đẹp đẽ, khác hẳn khi trước. Tử Tài thầm cám ơn Trọng Túy nên ngày nào cũng giữ Trọng Túy ở lại yến ẩm với mình. Hoàng Anh cũng thường qua dãy bắc kéo tơ, may vá giùm Lã thị nên Lã thị càng quý mến.
              Tháng sau. Một hôm Trọng Túy nói với Tử Tài: "Túc hạ vốn chẳng giàu có chi mà ngày nào cũng giữ đệ ở lại yến ẩm, rồi còn sai gia nhân đem gạo muối rau thịt sang cho thì đệ thấy ngại ngùng quá. Ðệ đâu có thể ngồi không mà nhận ân huệ mãi như thế được? Bây giờ đệ tính xoay qua nghề trồng tỉa hoa cúc để bán lấy tiền, tự túc mưu sinh!" Nghe thấy thế, Tử Tài đâm ra khinh khi Trọng Túy, rồi nói thẳng: "Trước kia đệ cứ tưởng túc hạ thuộc hàng cao sĩ, nay nghe nói mới biết cũng chỉ thuộc loại phàm phu. Muốn bán hoa cúc để cầu lợi thì thực là nhục cho hoa cúc lắm!" Trọng Túy cười, nói: "Lấy việc bán hoa cúc làm nghề sinh nhai thì có chi là đáng khinh bỉ? Tuy con người chẳng nên làm giàu một cách bẩn thỉu song cũng chẳng nên cầu nghèo chỉ vì không dám làm một nghề lương thiện!" Tử Tài im lặng. Trọng Túy bèn đứng dậy, cáo biệt. Từ đó, Trọng Túy không sang chăm sóc vườn cúc cho Tử Tài nữa. Tử Tài đành phải chăm sóc lấy một mình, cứ thấy cây nào hơi héo là nhổ lên vứt đi, chất thành đống. Tuy thế, hai bên vẫn chưa đến nỗi tuyệt giao. Thỉnh thoảng Tử Tài vẫn sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang nhà mình đàm đạo.
              Trọng Túy về nhà, đánh luống khu nam thành một khu vườn tuyệt đẹp. Rồi sang xin đống cúc vứt đi của Tử Tài, vác về lựa lấy những cây còn sống đem ra vườn trồng. Ngày nào Trọng Túy cũng làm cỏ, tưới nước, cuốc bỏ gốc xấu, chiết cành tốt trồng vào chỗ cũ. Chẳng bao lâu, vườn cúc của Trọng Túy trông thực tốt tươi đẹp đẽ. Mùa thu năm ấy, cúc nở kín vườn.
              Sau tiết Trung thu. Một sáng, Tử Tài đang ngồi trong nhà thì chợt nghe có tiếng ồn ào như chợ vỡ ở phía nam. Lấy làm lạ, Tử Tài chạy ra coi thì thấy Trọng Túy đang đứng giữa cả trăm chậu cúc xếp trong vườn, phần lớn đều có trồng những giò cúc lạ, rất đẹp, mà mình chưa được thấy bao giờ. Dòng người đi chợ ghé vào mua cúc rất đông, ồn ào như thác lũ, liên miên chẳng dứt, kẻ thì chất lên xe, người thì vác lên vai. Cho là Trọng Túy tham tiền, Tử Tài khinh khi lắm. Lại thấy Trọng Túy giấu các giò cúc lạ để trồng bán lấy tiền, chẳng cho mình giò nào, Tử Tài càng thêm giận, nảy ý tuyệt giao. Tử Tài bèn xăm xăm chạy sang nhà Trọng Túy gõ cửa. Nghe tiếng gõ cửa, Trọng Túy từ ngoài vườn chạy vào mở. Thấy Tử Tài, Trọng Túy vồn vã cầm tay mời vào nhà. Thấy Trọng Túy vồn vã như thế, Tử Tài khựng lại, chẳng nói được lời nào. Ðưa mắt nhìn ra vườn, Tử Tài thấy nửa mẫu đất hoang của mình khi trước, nay đã biến thành một vườn cúc tuyệt đẹp. Trừ một miếng đất nhỏ được dùng để dựng chòi canh, còn các chỗ đất khác đều được trồng cúc.
              Trọng Túy dẫn Tử Tài ra coi vườn cúc. Nhìn kỹ các cây cúc trong vườn, Tử Tài thấy toàn là những cây mà mình đã nhổ vứt đi! Sau khi dẫn Tử Tài đi coi những giò cúc mà mình mới trồng hồi sáng, Trọng Túy chắp tay nói: "Vì nhà đệ nghèo nên đệ phải xoay qua nghề bán cúc. Sáng nay đệ bán liền tay, cũng kiếm được chút ít, đủ để mời túc hạ lưu lại say sưa với đệ một bữa!" Thấy Trọng Túy vồn vã tiếp đãi mình như thế, Tử Tài chẳng nỡ chối từ. Trọng Túy bèn vào nhà lấy bàn ghế đem ra vườn đặt cạnh luống cúc, rồi trở vào lấy rượu và chén đũa đem ra. Chợt Tử Tài nghe thấy tiếng Hoàng Anh từ trong nhà gọi: "Tam đệ!" rồi thấy Trọng Túy chạy vụt vào nhà. Lát sau, Tử Tài thấy Trọng Túy bưng ra bốn đĩa thức ăn, đặt lên bàn, chắp tay nói: "Mấy món này đều do gia tỉ nấu. Xin mời túc hạ hãy cùng đệ nâng chén!" Tử Tài đành ngồi vào bàn yến ẩm với Trọng Túy song chẳng nói một lời nào. Lát sau, đột nhiên Tử Tài lên tiếng hỏi: "Sao lệnh tỉ chưa xuất giá?" Trọng Túy đáp: "Vì chưa tới lúc!" Hỏi: "Bao giờ mới tới lúc?" Ðáp: "43 tháng nữa!" Hỏi: "Sao túc hạ biết?" Trọng Túy mỉm cười, chẳng đáp, chỉ nâng chén mời Tử Tài. Thấy Tử Tài chưa cạn chén đã say, Trọng Túy bèn dìu về nhà.
              Sáng sau, Tử Tài lại sang thăm vườn cúc của Trọng Túy. Thấy những giò cúc Trọng Túy mới trồng sáng qua, sáng nay đã cao đầy thước, Tử Tài ngạc nhiên lắm, nói: "Túc hạ chỉ cho đệ thuật trồng cúc mọc nhanh như thế này đi!" Trọng Túy đáp: "Thuật này chỉ dùng để chóng có cúc thường mà bán thôi chứ chẳng thể dùng để có cúc đẹp mà thưởng ngoạn được! Túc hạ đã chẳng muốn làm nghề bán cúc thì học thuật này làm chi?" Tử Tài bèn thôi không hỏi nữa.
              Ðầu tháng chín, khi khách mua hoa đã vãn, Trọng Túy bèn gói những giò cúc dư vào bao cói mỏng, buộc thành bó, chất đầy một xe, rồi từ biệt chị và vợ chồng Tử Tài, đem xuống miền nam bán.
              Nửa năm sau, vào độ cuối xuân, Trọng Túy lại đem từ miền nam về Thuận Thiên nhiều giống cúc lạ. Tới chợ huyện, Trọng Túy dừng chân, dựng một quán bán cúc. Mười ngày sau, bán hết cúc, Trọng Túy về nhà. Thế rồi, Trọng Túy lại bắt đầu trồng tỉa chăm sóc đợt cúc mới.
              Tới mùa thu, cúc nở hoa, thiên hạ lại nô nức kéo nhau tới khu vườn của Trọng Túy để mua cúc. Nhiều người năm ngoái đã mua song vì không biết cách chăm sóc, để cúc chết, nên năm nay lại tới mua. Bán được nhiều cúc, Trọng Túy trở thành giàu có.
              Năm sau, Trọng Túy để dành đủ tiền, bèn xin mua đứt dãy nhà với khu vườn phía nam. Tử Tài bằng lòng bán, rồi thuê người rào kín ranh giới hai khu nam bắc. Trọng Túy mua xong, thuê thợ nới rộng dãy nhà cũ ra, phá hết khu vườn cũ đi để xây biệt thự. Rồi đem tiền đi mua một khu vườn mới rộng rãi hơn, xây tường kín vây quanh, trồng cúc ở bên trong. Lại nuôi nhiều gia nhân để trồng tỉa cúc và giúp việc nhà.
              Năm sau. Một hôm Trọng Túy nhẩm tính thời gian thì thấy hai chị em mình đã tới Thuận Thiên cư ngụ được hơn hai năm. Tới mùa thu, sau khi bán cúc cho dân chúng trong vùng, Trọng Túy lại chở cúc dư xuống miền nam bán. Trọng Túy vừa đi được ít lâu thì ở nhà, Lã thị bị bạo bệnh mà qua đời. Sau khi làm tang lễ cho vợ, Tử Tài thấy mình cô đơn nên nghĩ đến chuyện nhờ bà mối tới ướm ý Hoàng Anh xem có chịu làm vợ kế mình không. Bà mối tới hỏi thì Hoàng Anh mỉm cười, đáp rằng phải chờ hỏi ý kiến của em trai đã.
              Hết mùa xuân, Trọng Túy vẫn chưa về. Hoàng Anh phải đứng ra đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc theo đúng cách thức cũ của em. Tới mùa thu, Trọng Túy cũng vẫn chưa về. Hoàng Anh lại phải đứng ra bán cúc. Thấy tiền thu vào nhiều quá, Hoàng Anh liền đem đi mua thêm hai chục mẫu vườn ở ngoài thôn để trồng cúc. Thấy tiền vẫn còn dư, Hoàng Anh lại đem ra tu bổ cửa nhà cho thêm phần khang trang, tiện lợi.
              Nửa năm sau. Một hôm có khách buôn từ Kim Lăng lên Thuận Thiên có việc, tìm đến nhà Tử Tài, trao cho Tử Tài một lá thư. Tử Tài mời khách vào nhà ngồi dùng trà rồi mở lá thư ra coi thì thấy là lá thư của Trọng Túy hỏi thăm mọi chuyện trong gia đình mình. Cuối thư Trọng Túy viết: "Xin túc hạ cho tiện tỉ được coi lá thư này!" Rồi Trọng Túy lại viết: "Thân gửi chị Hoàng Anh: Em nghe tin Lã tẩu đã qua đời. Em nghĩ Mã huynh cô đơn, thế nào cũng hỏi chị làm kế thất. Nếu Mã huynh có hỏi, em khuyên chị nên ưng thuận!" Coi xong, Tử Tài gấp lá thư cất vào túi rồi hỏi khách: "Ðào lang nhờ tôn ông chuyển lá thư này từ bao giờ?" Khách đáp:"Từ năm ngoái, song vì bỉ nhân bận việc, phải ghé nhiều nơi, nên năm nay mới tới đây được!" Tử Tài nhẩm tính thời gian thì thấy Trọng Túy đã viết lá thư từ hồi vợ mình mới mất, tính ra cũng đã trên một năm. Nếu tính từ ngày mình ngồi đối ẩm với Trọng Túy trong vườn thì vừa tròn 42 tháng.
              Lát sau, khách cáo biệt. Tử Tài cám ơn rồi đứng dậy tiễn khách ra cổng. Khách đi rồi, Tử Tài vội chạy sang nhà Hoàng Anh, đưa lá thư cho coi. Chờ cho Hoàng Anh coi xong, Tử Tài mới hỏi:"Hôm nọ bỉ nhân có nhờ bà mối tới đây thưa chuyện cùng nương tử thì nương tử trả lời là còn chờ hỏi ý lệnh đệ. Nay lệnh đệ đã đưa ý như ở trong thư thì phải chăng nương tử sẽ thuận theo lời khuyên của lệnh đệ?" Hoàng Anh mỉm cười gật đầu. Tử Tài bèn hỏi: "Thế thì bao giờ nương tử sẽ cho bỉ nhân làm lễ nghênh hôn?" Hoàng Anh đáp: "Tháng tới" Hỏi: "Nương tử muốn lấy sính lễ như thế nào?" Ðáp: "Thiếp không lấy sính lễ!" Rồi tiếp: "Nhà lang quân cũ kỹ tồi tàn quá! Sau ngày cưới, lang quân nên dọn sang nhà thiếp mà ở! Lang quân cứ coi như mình đi ở rể vậy, có sao đâu?" Tử Tài lắc đầu, nói:"Ðàn ông đi cưới vợ thì phải đón vợ về nhà mình chứ chẳng thể tới nhà vợ ở rể được!" Hoàng Anh im lặng, chẳng nói chi thêm.
              Tháng sau, Tử Tài chọn ngày lành giờ tốt để làm lễ nghênh hôn. Sau ngày cưới, Hoàng Anh thuê thợ trổ một cổng xuyên qua hàng rào để hai nhà thông nhau.
              Cưới Hoàng Anh về rồi, Tử Tài lại đâm ra ngượng ngập, cứ sợ thiên hạ cười mình là cưới vợ giàu để nhờ vả. Vì thế, Tử Tài cứ căn dặn vợ là phải làm sổ sách chi thu riêng biệt cho mỗi ngôi nhà. Hoàng Anh cười mà vâng lời. Vì nhà Tử Tài nghèo quá, Hoàng Anh thường phải về nhà mình lấy đồ gia dụng đem sang. Thế nhưng, hễ Tử Tài thấy có vật gì mới lạ ở trong nhà thì lại bắt gia nhân phải đem trả lại nhà vợ, cấm không được lấy sang nữa. Song le, vì nhà Tử Tài thiếu nhiều thứ quá nên chỉ một tuần sau, đâu lại vào đấy. Cuối cùng Tử Tài cũng đành bó tay. Thấy thế, Hoàng Anh cười, nói: "Có ai liêm khiết mà không bị mệt sức đâu!" Tử Tài ngượng lắm song chẳng biết cãi ra sao. Thế rồi Tử Tài buông xuôi, để mặc cho vợ muốn làm chi thì làm. Hoàng Anh được thể, thuê thợ phá hết hàng rào ngăn cách hai ngôi nhà, sửa lại ngôi nhà cũ của chồng rồi nối liền hai ngôi nhà làm một.
              Hàng ngày, Hoàng Anh vẫn ghé về nhà mình, đốc thúc gia nhân trồng tỉa, chăm sóc cúc. Vì bán cúc được nhiều tiền, hai vợ chồng chỉ ngồi hưởng thụ, chi tiêu còn rộng rãi hơn cả các thế gia trong vùng. Thấy thế, Tử Tài áy náy lắm, đứng ngồi chẳng yên. Một hôm Tử Tài hỏi vợ: "Nàng vẫn còn ham làm giàu để làm chi?" Hoàng Anh đáp: "Thiếp có ham làm giàu đâu? Thiếp chỉ muốn kiếm đủ tiền cho lang quân được sống sung túc thôi!" Tử Tài nói: "Ta đâu có cần được sống sung túc?" Hoàng Anh nói: "Nếu lang quân không được sống sung túc thì sẽ bị đời sau chê cười!" Tử Tài hỏi: "Sao lại bị đời sau chê cười?" Hoàng Anh đáp: "Vì đời sau, thế nào chẳng có kẻ cười rằng đời trước có một người mê hoa cúc đến độ nhà đang khá giả mà hóa ra lụn bại!" Tử Tài nói: "Suốt ba mươi năm qua, ta là một người đàn ông khí phách, nay vì lụy nàng mà phải chiều theo ý nữ nhân! Miếng cơm manh áo cũng phải nhờ vào nữ nhân, thực chẳng còn chút khí phách nào của kẻ trượng phu! Người ta ai cũng mong được giàu song riêng ta thì lại chỉ mong được nghèo thôi!" Hoàng Anh cười, nói: "Nghèo mà mong giàu thì mới khó chứ giàu mà mong nghèo thì dễ lắm. Cứ đem hết tiền trong nhà ném ra ngoài đường là sẽ được nghèo ngay. Lang quân cứ ném hết đi, thiếp chẳng tiếc đâu!" Tử Tài nói: "Thế nhưng phung phí tiền do người khác làm ra thì lại là kẻ vô liêm sỉ!" Hoàng Anh cười, nói: "Ðã thế thì thiếp thấy chúng mình khó lòng mà chung sống với nhau được. Lang quân thì chẳng mong giàu mà thiếp thì lại chẳng mong nghèo. Nếu chẳng thỏa thuận được với nhau thì chúng mình nên ở riêng ra, ai trong sạch cứ việc trong sạch, ai đục bẩn cứ việc đục bẩn, có trở ngại chi đâu?" Tử Tài đành im lặng. Thấy chồng chịu thua mình, Hoàng Anh cũng thương hại nên chiều ý chồng, đóng cổng vườn cúc, chẳng làm nghề bán cúc nữa.
              Hoàng Anh bèn thuê thợ cất một túp lều tranh ở vườn sau rồi bảo chồng dọn ra đó mà ở. Tử Tài thích lắm, vội dọn ra ngay. Hoàng Anh liền chọn hai tì nữ xinh đẹp sai ra lều tranh ở để hầu hạ chồng. Ðược ba ngày, Tử Tài nhớ vợ, bèn sai tì nữ vào nhà gọi vợ ra lều tranh ở với mình. Hoàng Anh nhất định không chịu ra. Vì thế, cứ ban đêm thì Tử Tài vào nhà ở với vợ rồi ban ngày thì lại ra lều tranh ở một mình. Lâu rồi thành lệ.
              Tháng sau. Một hôm Hoàng Anh cười, nói với chồng: "Ăn đông, nằm tây, có người quân tử liêm khiết nào mà cư xử như vậy chăng?" Tử Tài đuối lý, chẳng biết đối đáp ra sao. Suy đi nghĩ lại, Tử Tài cũng tự thấy là mình gàn nên lại dọn vào nhà ở với vợ như trước.
              Mấy tháng sau. Tới mùa thu, hoa cúc lại nở.
              Một hôm, Tử Tài có việc phải xuống Kim lăng. Tới nơi, thuê quán trọ để ngủ. Sáng sau, thu xếp xong công việc, Tử Tài ra chợ coi hoa thì thấy ở chợ có rất nhiều quán, bán đủ mọi loại hoa. Thấy có một quán bán toàn hoa cúc, Tử Tài bèn ghé coi. Thấy có nhiều giò cúc to, đẹp, giống như những giò cúc mà Trọng Túy vẫn bán trước kia, Tử Tài bèn vào quán nói với người bán cúc: "Xin cho gặp chủ nhân" Người bán cúc mời Tử Tài ngồi, rồi chạy vào nhà trong báo cho chủ nhân hay. Khi chủ nhân bước ra quán thì Tử Tài nhận ra là Trọng Túy. Tử Tài mừng quá, vội chạy tới nắm lấy tay Trọng Túy, hỏi chuyện ở Kim Lăng. Trọng Túy trả lời rồi hỏi lại chuyện ở Thuận Thiên. Tử Tài cũng trả lời rồi thuật chuyện mình kết duyên với Hoàng Anh. Nghe xong, Trọng Túy giữ Tử Tài ở lại quán cúc. Tối ấy, sau khi cơm nước, hai người ngồi đàm đạo. Tử Tài nói: "Bây giờ ngu huynh với lệnh tỉ đã thành gia thất, hiền đệ hãy về Thuận Thiên mà cư ngụ với vợ chồng ngu huynh" Trọng Túy lắc đầu rồi rút ra một gói tiền, nói: "Quê tiểu đệ vốn ở đất Kim Lăng này mà tiểu đệ lại đang làm ăn khá giả nên chẳng thể di cư đi nơi khác được. Vả lại tiểu đệ cũng sắp cưới vợ ở đây rồi! Tuy nhiên, cuối năm nay, tiểu đệ có việc phải lên Thuận Thiên và phải tiêu pha một món tiền ở trên ấy. Vì thế, tiểu đệ muốn nhờ đại ca cầm món tiền này về đưa cho gia tỉ, bảo cất đi giùm để cuối năm tiểu đệ lên trên ấy, sẽ tới xin lại!" Tử Tài từ chối, nói:"Chắc là hiền đệ sợ gia đình ngu huynh nghèo nên muốn giúp đỡ món tiền này chứ gì? Ngu huynh chẳng nhận đâu!" Trọng Túy đành nói:"Thú thực với đại ca, trong hai năm qua tiểu đệ mở quán bán cúc ở đây, phát tài lắm. Bây giờ tiểu đệ rất giàu, có thể nghỉ bán cúc mà vẫn đủ tiền chi tiêu tới già. Ðây là món tiền tiểu đệ vẫn dành riêng để biếu gia tỉ khi xuất giá" Tử Tài nhất định từ chối.
              Sáng sau, Tử Tài từ biệt Trọng Túy, ra về.
              Tử Tài vừa đi thì đột nhiên Trọng Túy đổi ý, muốn lên Thuận Thiên cư ngụ gần chị. Trọng Túy liền hạ giá cúc để bán cho mau hết. Vì giá rẻ, chỉ một tuần sau, Trọng Túy đã bán hết cúc. Trọng Túy bèn trả lại quán cho chủ, trả tiền công hậu hĩ cho gia nhân rồi cho gia nhân nghỉ việc. Sau đó, Trọng Túy thu xếp hành trang, thuê riêng một chiếc thuyền lên Hà Bắc, tới Thuận Thiên.
              Tới nhà Tử Tài, Trọng Túy thấy chị đã dành riêng cho mình ngôi biệt thự mới, tựa hồ như biết trước là mình sắp về. Vào phòng ngủ, Trọng Túy thấy có giường đệm, chăn gối mới tinh. Sau khi cởi bỏ hành trang, Trọng Túy vội chạy ngay ra mở cổng vườn cúc, vào coi hoa.
              Hôm sau, Trọng Túy sai gia nhân tới vườn trồng tỉa chăm sóc cúc, giống hệt như mấy năm về trước. Tuy nhiên, bây giờ Trọng Túy chỉ muốn có hoa cúc đẹp để thưởng ngoạn thôi chứ chẳng còn muốn có hoa cúc thường để bán nữa. Ngoài việc chăm sóc cúc để có hoa thưởng ngoạn, Trọng Túy chẳng làm ăn chi cả, chỉ sai gia nhân đi mời Tử Tài sang đấu cờ với mình suốt ngày. Vì Tử Tài ít uống rượu nên Trọng Túy thường uống một mình. Trọng Túy uống rượu hào lắm, chưa say bao giờ.
              Hoàng Anh muốn kén vợ cho Trọng Túy song Trọng Túy từ chối, nói rằng mình chỉ thích sống độc thân. Hoàng Anh bèn sai hai tì nữ sang ở biệt thự để hầu hạ Trọng Túy. Bốn năm sau, một tì nữ hoài thai với Trọng Túy, sanh được một bé gái, đặt tên là Tiểu Cúc.
              Tử Tài có một người bạn họ Tăng, tên Sính, tửu lượng rất cao, trong vùng chưa có đối thủ. Một hôm, Tăng Sính ghé thăm Tử Tài. Tử Tài liền sai gia nhân đi mời Trọng Túy sang uống rượu. Khi Trọng Túy sang, Tử Tài giới thiệu hai người với nhau rồi đề nghị hai người uống thi. Ðôi bên cùng hoan hỉ nhận lời. Uống thi từ sáng tới tối, Tử Tài thấy mỗi người đã uống hết trên trăm chén. Hai người cùng phục tửu lượng của nhau, rồi cứ tiếc rằng chẳng được gặp nhau sớm hơn. Tăng Sính say khướt, nằm lăn ra ngủ, còn Trọng Túy cũng say mèm, đứng dậy trở về biệt thự. Tử Tài sợ Trọng Túy say quá, một mình chẳng về được nên theo sau để phòng khi cần dìu dắt.
              Từ trong nhà Tử Tài, Trọng Túy bước ra tới vườn thì lảo đảo, dẫm bừa lên luống cúc rồi cởi chiếc áo choàng ném xuống đất, nằm vật xuống cạnh chiếc áo mà ngủ. Vừa chạm mình xuống đất, đột nhiên Trọng Túy biến thành một cây cúc cao bằng đầu người, trên cành có mười mấy đóa hoa to bằng nắm tay. Tử Tài kinh hãi quá, vội chạy vào nhà báo cho vợ biết. Hoàng Anh vội chạy ra vườn, nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên mà trách:"Sao hiền đệ lại uống say đến thế?" Trách xong, Hoàng Anh nắm tay chồng dắt vào nhà, dặn: "Từ giờ tới sáng mai, lang quân chớ có ra đây nhìn cây cúc này! Lang quân mà ra nhìn thì nguy hiểm cho tính mạng của Túy đệ lắm!" Tử Tài gật đầu.
              Nhớ lời vợ dặn, hôm sau Tử Tài phải chờ tới giữa trưa mới dám ra vườn để coi xem cây cúc tối qua có biến hóa gì không. Ra tới nơi thì thấy cây cúc đã biến trở lại thành Trọng Túy, đang nằm đắp chiếc áo choàng mà ngủ trên luống cúc. Lúc đó Tử Tài mới hiểu rằng hai chị em Trọng Túy đều là thần hoa cúc. Từ đó, Tử Tài lại càng yêu thương, kính trọng hai chị em hơn.
              Từ lúc Trọng Túy để lộ hình tích cho Tử Tài biết chị em mình là thần hoa cúc thì Trọng Túy chẳng còn giữ gìn gì nữa, cứ uống rượu liên miên. Trọng Túy tự tay ngâm một vò rượu thuốc lớn để uống dần.
              Một hôm Trọng Túy viết thiếp, sai tì nữ đem đi mời Tăng Sính tới vườn nhà mình uống rượu, rồi sai gia nhân đem bàn ghế ra bày cạnh luống cúc, khiêng vò rượu thuốc ra đặt ở cạnh bàn. Khi Tăng Sính tới, Trọng Túy dẫn ra vườn rồi sai gia nhân bưng đồ nhắm ra. Trọng Túy mời Tăng Sính nhập tiệc, hẹn rằng hai người phải cùng nhau uống hết vò rượu mới thôi. Tăng Sính cười rồi gật đầu ưng thuận. Gia nhân bèn chạy đi báo cho Tử Tài hay. Tử Tài liền ra vườn để rình xem tửu lượng của hai người tới đâu. Khi thấy vò rượu sắp cạn mà hai người còn tỉnh, Tử Tài sai gia nhân vào nhà lấy thêm rượu ra, lén rót vào vò. Hai người cứ tiếp tục uống. Khi vò đã cạn, Tăng Sính say quá, gục đầu xuống bàn mà ngủ. Tử Tài bèn sai hai gia nhân thay phiên nhau cõng Tăng Sính về nhà. Trọng Túy cũng say, lại cởi chiếc áo choàng ném xuống đất rồi lại nằm lăn xuống luống mà ngủ. Ðột nhiên, Trọng Túy lại biến thành cây cúc. Vì đã được thấy Trọng Túy biến hóa như thế một lần nên lần này, Tử Tài chẳng sợ nữa, cứ bắt chước vợ mà nhổ cây cúc, đặt nằm trên luống, rồi lấy chiếc áo phủ lên. Tử Tài đứng cạnh để chờ xem cây cúc biến trở lại thành Trọng Túy như thế nào? Thế nhưng lần này, Tử Tài chỉ thấy lá cúc héo dần. Kinh hãi quá, Tử Tài vội chạy vào nhà thuật lại cho vợ nghe. Hoàng Anh tái mặt, thốt lên:"Lang quân đã giết chết bào đệ của thiếp rồi!" Thốt xong, Hoàng Anh vùng chạy ra vườn. Tử Tài cũng vội chạy ra theo. Tới nơi, Tử Tài thấy gốc rễ cây cúc đã héo khô. Hoàng Anh đau khổ lắm, bẻ một cành còn tươi, cắm vào một chậu đất sẵn có ở trong vườn, rồi tưới nước, bưng về trưng trong phòng mình. Tử Tài theo vợ về phòng, trong lòng hối hận là đã giết chết Trọng Túy. Suy nghĩ miên man, Tử Tài đâm ra oán hận Tăng Sính.
              Hôm sau, Tử Tài toan sang nhà Tăng Sính để trách mắng thì nghe tin Tăng Sính đã chết vì cơn say rượu bữa trước ở vườn cúc nhà Trọng Túy.
              Hàng ngày, Hoàng Anh tưới nước cho cành cúc trong phòng mình. Ít lâu sau, cành cúc bén rễ rồi sinh ra nhiều nhánh nhỏ. Chín tháng sau, cành cúc nở hoa. Hoàng Anh chiết các nhánh nhỏ đem trồng thì các nhánh này lại sinh ra một giống cúc mới, thân thấp lè tè, cánh hoa có phấn, tỏa ra một mùi thơm tựa như mùi rượu. Vì thế, về sau giống cúc này được gọi là Túy Ðào Cúc (Cúc Ðào Say). Nếu được tưới bằng rượu thì giống cúc này nở đầy hoa rất đẹp.
              Từ đó, trong nhà Tử Tài chẳng còn chuyện gì lạ xảy ra nữa. Hoàng Anh sống rất hạnh phúc bên chồng.
              Mười lăm năm sau. Con gái của Trọng Túy là Tiểu Cúc đã tới tuần cập kê. Hoàng Anh bèn đem gả cho con trai của một thế gia trong vùng.


              ST
              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

              Comment


              • #37
                LẤY NGƯỜI, MA SỐNG LẠI (truyện LIÊN TỎA) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                Hoang thảo thùy hương dạ sắc hôn
                Ngâm hoài bi sở nguyệt vô ngôn
                Thập niên nhất giác tuyền đài mộng
                Hà tất chân hương thủy phản hồn

                Tỉnh Sơn Tây có nho sinh họ Dương, tên Tử Úy, gia tư khá giả nhờ ở gia sản của cha mẹ để lại.
                Năm ấy, Tử Úy bỏ Sơn Tây sang Sơn Ðông, mua một ngôi nhà ở huyện Tứ Thủy để cư ngụ. Ngôi nhà nằm giữa một vườn bạch dương, có hàng rào dâm bụt vây quanh. Ðêm đêm, gió thổi vào lá bạch dương gây nên tiếng rì rào như tiếng sóng vỗ. Cổng chính ngôi nhà trông ra một cánh đồng trống trải, đầy cổ mộ.
                Một tối, Tử Úy vừa thắp đèn lên để đọc sách thì chợt nghe có tiếng thiếu nữ ngâm thơ, từ ngoài hàng rào vọng vào nhà. Âm thanh trong vắt song đượm vẻ ai oán thê lương, ngâm đi ngâm lại mãi hai câu:
                Nguyên dạ thê phong khước đảo xuy,
                Lưu huỳnh thông thảo phục triêm vi.
                (Ðêm xuân gió nhẹ lạnh căm căm,
                Ðom đóm theo hoa lướt buổi rằm)
                Tử Úy cứ thắc mắc, chẳng hiểu là tiếng người hay tiếng ma. Sáng sau, Tử Úy ra ngoài hàng rào để coi xem có vết chân người hay không thì chẳng thấy gì ngoài một chiếc nịt bít tất mắc trong bụi cỏ gai. Tử Úy nhặt lên, đem về nhà, để trên thành cửa sổ. Tối ấy, quá canh hai, lại nghe có tiếng ngâm thơ, Tử Úy bèn bắc ghế đứng nghển cổ nhìn qua hàng rào xem là ai thì bỗng thấy tiếng ngâm im bặt. Vì thế, Tử Úy nghĩ chắc là ma. Tuy nhiên, Tử Úy vẫn ưa thích tiếng ngâm ấy.
                Tối sau, Tử Úy ra phía ngoài hàng rào, nấp trong bụi rậm để rình. Sắp sang canh hai, chợt thấy từ trong bụi cỏ ở đằng xa, có một nữ lang, dáng điệu tha thướt, lướt tới một cây nhỏ cạnh hàng rào nhà mình, đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ, Tử Úy khẽ lên tiếng đằng hắng. Nữ lang nghe có tiếng người, vội lướt trở lại bụi cỏ rồi lẩn mất.
                Từ đó, tối nào Tử Úy cũng ra nấp trong bụi rậm để chờ nghe lén. Ðến khi nữ lang ngâm xong, lẩn vào bụi cỏ, Tử Úy mới quay vào nhà.
                Một tối, khi nghe nữ lang ngâm xong, Tử Úy chợt nghĩ ra hai câu kế, liền cất giọng ngâm tiếp:
                U tình khổ tự hà nhân kiến,
                Thúy tụ đan hàn nguyệt thượng thì.
                (Nỗi niềm buồn tủi nào ai thấy,
                Áo biếc cô đơn dưới bóng trăng)
                Ngâm xong, thấy chung quanh vắng lặng, Tử Úy bèn quay vào nhà. Vừa ngồi xuống ghế, chợt thấy nữ lang từ ngoài sân bước vào, chắp tay vái chào, Tử Úy mừng lắm, vội chắp tay đáp lễ, hỏi:"Nương tử họ tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Chu, tên Liên Tỏa" Hỏi:"Nhà ở đâu?" Ðáp:"Cũng ở gần đây thôi" Hỏi:"Quê cũng ở huyện này phải không? Ðáp:"Không phải! Ở huyện Lũng Tây tỉnh Cam Túc!" Hỏi:"Sao lại sang đây lưu ngụ?" Ðáp:"Vì khi trước gia phụ dời nhà sang đây, nên dắt sang theo!" Hỏi: "Nương tử có phải là người sống không?" Ðáp:"Không phải! Thiếp là ma!" Hỏi:"Sao qua đời sớm thế?" Ðáp:"Vì bị bạo bệnh!" Tử Úy hỏi:"Mộ ở đâu?" Nữ lang lấy ngón tay chỉ về phía cánh đồng trước cổng, đáp:"Cách đây một dặm, nằm cạnh gốc cổ thụ cao!" Hỏi:"Qua đời đã lâu chưa?" Ðáp:"Ðã được 20 năm rồi! Từ năm mới 17 tuổi!" Hỏi:"Sao đêm nào cũng tới đây ngâm thơ?" Ðáp:"Vì ở chốn cửu tuyền hoang dã quá! Lang thang tới đây ngâm thơ cho đỡ buồn!" Hỏi:"Hai câu thơ vẫn ngâm là của thi sĩ nào?" Ðáp:"Của thiếp!" Hỏi:"Sao lại làm thơ ai oán, thê lương thế?" Ðáp:"Vì muốn gửi gấm mối u tình!" Hỏi: "Thường lẩn trốn người sống, sao tối nay lại dám vào đây?" Ðáp:"Vào để cám ơn!" Hỏi:"Cám ơn về việc gì?" Ðáp:"Về việc đã nghĩ giùm hai câu kế vô cùng tuyệt diệu! Thiếp chỉ nghĩ được hai câu đầu, còn hai câu kế thì chịu! Nay được kẻ sĩ phong nhã nghĩ giùm cho, thiếp khâm phục lắm, nên vào đây để cám ơn!" Hai bên bèn chuyện trò thân mật, cách xưng hô cũng mỗi lúc một thân hơn. Gần tới nửa đêm, bỗng Tử Úy dang tay ra đùa bỡn. Liên Tỏa chỉ đưa tay chống cự yếu ớt. Chợt Tử Úy đưa mắt nhìn chằm chặp xuống hai chân Liên Tỏa. Thấy thế, Liên Tỏa cười, nói:"Cuồng sinh này sàm sỡ quá!" Tử Úy nói: "Chẳng phải là sàm sỡ đâu! Thấy nịt bít tất lạ thì nhìn đó thôi! Bên phải là nịt màu tím mà bên trái lại là tơ màu vàng!" Lúc đó Liên Tỏa mới vỡ lẽ. Liền đáp:"Tối nọ ngỡ là bị đuổi bắt, hốt hoảng bỏ trốn, nên bị tuột mất một chiếc nịt, chẳng biết ở đâu!" Tử Úy nói:"Ðể ta biếu nàng một chiếc khác!" Rồi tới thành cửa sổ lấy chiếc nịt đưa cho. Thấy đúng là chiếc nịt của mình, Liên Tỏa hết sức kinh ngạc, hỏi:"Lấy ở đâu ra?" Tử Úy nói thực cho nghe. Liên Tỏa liền tháo tơ ra, cột nịt vào. Thế rồi, hai người ngồi đàm luận văn thơ. Thấy Liên Tỏa thông tuệ, dễ thương, Tử Úy coi như một bạn văn tri kỷ. Quá nửa đêm, Liên Tỏa cáo biệt. Sáng sau, Tử Úy đi về phía đằng trước cổng nhà chừng một dặm thì thấy quả có một ngôi mộ nằm cạnh một gốc cổ thụ cao.
                Từ buổi ấy, tối nào Tử Úy cũng nghe thấy tiếng ngâm thơ, rồi một lát sau thì thấy Liên Tỏa tới. Hai bên gặp nhau, nói cười vui vẻ, đàm luận văn thơ rất tương đắc, tựa hồ như cá gặp nước vậy.
                Một tối, Tử Úy ngỏ ý muốn ái ân song Liên Tỏa chẳng chịu. Thế nhưng, khi Tử Úy ngỏ ý muốn kẻ lông mày cho thì Liên Tỏa lại chịu ngay.
                Tối khác, Liên Tỏa tới, dặn:"Xin chớ nói chuyện đôi ta cho ai biết!" Tử Úy hỏi:"Tại sao?" Ðáp:"Vì thiếp nhát lắm! Ngoài chàng ra, thiếp chẳng dám cho người nào gặp mặt vì sợ người ta bắt nạt mình!" Tử Úy gật đầu.
                Mấy hôm sau. Một bữa, Tử Úy mượn được cuốn Liên Xương Cung Từ, đem về để trên bàn. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, thấy cuốn cung từ thì bất giác thở dài. Tử Úy hỏi: "Sao lại thở dài?" Liên Tỏa đáp:"Vì sinh thời, thiếp thích đọc cuốn này lắm! Nay thấy nó, thiếp lại nhớ tới thủa sinh thời nên ngậm ngùi mà thở dài đó thôi!" Tử Úy nói: "Cuốn này hay lắm! Ta cũng muốn chép lại một bản để thỉnh thoảng ngâm nga!" Liên Tỏa nói:"Nếu thế thì để thiếp chép cho!" Nói xong, liền ngồi dưới đèn mà chép, nét chữ rất ngay ngắn, mảnh mai. Rồi tự chọn cho mình một trăm bài ưa thích, chép thành một tuyển tập. Sáng sau, Tử Úy cất bản chép vào rương, để tuyển tập trên bàn, còn bản chính thì đem đi trả.
                Một tối, Liên Tỏa tới, nói:"Chàng nên mua lấy một bàn cờ với một cây đàn để chúng mình giải trí với nhau!" Tử Úy gật đầu. Sáng ra, Tử Úy đi mua. Tối đến, khi Liên Tỏa tới, thấy có bàn cờ với cây đàn thì mỉm cười, nói: "Chàng hãy đấu thử với thiếp vài ván xem sao!" Tử Úy gật đầu rồi ngồi vào bàn, đấu cờ với Liên Tỏa. Tử Úy thua liền hai ván.
                Tối sau, Liên Tỏa tới, nói:"Thiếp mới viết được khúc Tiêu Song Linh Vũ, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn ôm đàn mà gảy, âm thanh ai oán. Mới nghe được nửa chừng, Tử Úy đã xua tay, nói:"Thôi đừng gảy nữa! Âm thanh buồn lắm!" Liên Tỏa bèn ngưng, rồi nói:"Thiếp có thuộc khúc Hiểu Uyển Oanh Thanh, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa lại ôm đàn mà gảy, âm thanh hoan lạc, khác hẳn khúc trước. Tử Úy thích khúc này lắm. Bèn cùng nhau vui chơi, quên cả thời khắc. Khi nhìn qua cửa sổ, thấy vừng đông đã ló rạng, Liên Tỏa mới kinh hãi, vội đứng dậy ra về.

                Nửa năm sau.
                Một trưa, Tử Úy đang nằm ngủ ở phòng khách, bỗng có người bạn nho sinh họ Tiết, tới thăm. Thấy Tử Úy đang ngủ, Tiết sinh đảo mắt nhìn quanh thì thấy có nhiều quân cờ vứt ngổn ngang trên bàn, cạnh một cây đàn. Vốn biết Tử Úy chẳng thích những thứ này, Tiết sinh lấy làm lạ nên đoán là Tử Úy mới có bạn gái. Tới bàn coi, Tiết sinh bắt gặp một bản chép các bài cung từ. Lật trang đầu ra coi, thấy nét chữ mảnh mai, ngay ngắn, lật trang cuối ra coi, thấy có ba chữ Liên Tỏa chép, Tiết sinh càng tin là mình đoán đúng.
                Lát sau, khi tỉnh giấc, thấy bạn tới chơi, Tử Úy vùng dậy mặc quần áo, ngồi tiếp chuyện. Trong lúc hàn huyên, Tiết sinh hỏi:"Sao lại có bàn cờ với cây đàn?" Tử Úy đáp:"Vì muốn học đấu cờ với gảy đàn!" Hỏi:"Ai chép cho bản cung từ để trên bàn?" Ðáp:"Mới mượn được của một người bạn chứ có ai chép cho đâu!" Cười, nói:"Liên Tỏa là tên con gái chứ đâu có phải là tên người bạn nào? Nói dối làm chi?" Tử Úy chẳng biết phải trả lời ra sao nên chỉ ngồi im lặng. Tiết sinh gặng hỏi song Tử Úy nhất định không nói. Tiết sinh bèn giả vờ cắp bản cung từ ra về. Quẫn quá, Tử Úy đành phải thuật lại chuyện mình gặp Liên Tỏa. Nghe xong, Tiết sinh nói:"Chuyện này lạ lắm. Nhờ bạn nói với Liên Tỏa cho tôi gặp mặt một lần!" Tử Úy đáp:"Tôi đã hứa với nàng là sẽ chẳng nói chuyện tôi gặp nàng cho ai biết! Xin bạn đừng ép!" Tiết sinh năn nỉ: "Nghe chuyện, tôi ngưỡng mộ nàng lắm! Vì thế tôi mới nảy ý muốn xin gặp mặt một lần! Ngoài ra, tôi chẳng có ý gì khác!" Bất đắc dĩ, Tử Úy phải nhận lời. Tiết sinh bèn trả lại bản cung từ, hẹn:"Sáng mai, tôi sẽ trở lại!" rồi cáo biệt. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, Tử Úy thuật lại chuyện Tiết sinh yêu cầu. Nghe xong, Liên Tỏa giận lắm, nói:"Hôm nọ đã căn dặn thế nào, mà hôm nay lại đi tiết lộ cho người khác biết?" Tử Úy bèn đem tình trạng cùng quẫn của mình ra để biện bạch. Nghe xong, Liên Tỏa thở dài, nói: "Thế là đôi ta đã hết duyên nợ với nhau rồi!" Tử Úy bèn năn nỉ, giải thích, xin lỗi cả trăm lần song Liên Tỏa vẫn chẳng vui. Lát sau, Liên Tỏa đứng dậy, nói:"Thôi, thiếp đi đây! Phải tạm lánh người bạn của chàng một thời gian đã!" Nói xong, biến mất.
                Ðúng hẹn, sáng sau Tiết sinh trở lại. Tử Úy nói: "Tôi đã nói giùm bạn rồi song Liên Tỏa chẳng chịu!" Tiết sinh nói:"Tôi nghi là bạn nói dối quá!" Tử Úy bất bình, nói:"Tôi nói thực, còn tin hay không là tùy bạn!" Tiết sinh bèn cáo biệt. Tối ấy, Tiết sinh trở lại nhà Tử Úy, dắt theo hai bạn nho sinh khác, một người họ Vương, một người họ Phùng, cùng tới nằm lỳ ở nhà Tử Úy như bộ ba ăn vạ, nói chuyện ồn ào suốt đêm, cố ý không cho Tử Úy ngủ, để chờ gặp Liên Tỏa. Thế nhưng, trong ba đêm liền, chẳng thấy Liên Tỏa đâu. Bộ ba chán nản, bèn bàn tính với nhau chỉ ở lại thêm một đêm nữa rồi sẽ ra về.
                Tối ấy, vào khoảng canh hai, khi bộ ba sắp đi ngủ thì bỗng nghe có tiếng ngâm thơ ai oán thê lương từ ngoài hàng rào vọng vào. Vốn tính hung hãn, Vương sinh chạy ra sân nhặt một viên đá ném qua hàng rào, quát: "Làm bộ chẳng thèm tiếp chuyện ai, sao bây giờ lại tới đây mà ngâm thơ ư ử?" Lập tức, tiếng ngâm im bặt. Bộ ba bực tức với Liên Tỏa còn Tử Úy thì bực tức với bộ ba, nỗi bực tức hiện rõ trên nét mặt cũng như trong lời nói. Thấy thế, bộ ba bèn rủ nhau đi ngủ.
                Sáng sau, bộ ba cáo biệt. Tử Úy hững hờ tiễn ra cổng. Bộ ba về rồi, Tử Úy lại cảm thấy vô cùng trống rỗng, chỉ cầu mong Liên Tỏa trở lại với mình. Tối ấy, Tử Úy thức chờ Liên Tỏa suốt đêm song chẳng thấy Liên Tỏa đâu.
                Hai tối sau. Trong lúc Tử Úy đang buồn rầu thất vọng, ngồi gục đầu trên bàn, bỗng thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào phòng. Tử Úy mừng quá, vội đứng dậy, chạy ra đón. Liên Tỏa ôm mặt khóc, nói:"Bạn bè chàng hung hãn quá, chỉ muốn bắt nạt thiếp thôi!" Tử Úy nói:"Xin nàng thứ lỗi cho ta! Hãy ngồi xuống đây cho ta phân trần!" Ðáp:"Chàng chẳng cần phải phân trần làm chi nữa! Thiếp chỉ đến để chào vĩnh biệt chàng thôi!" Nói:"Thì hãy ngồi xuống đây đã!" Ðáp:"Ðã nói đôi ta hết duyên nợ với nhau rồi mà! Thôi, từ nay xin vĩnh biệt!" Tử Úy toan lên tiếng năn nỉ thì thấy Liên Tỏa đã biến mất.
                Bẵng đi hơn một tháng, chẳng thấy Liên Tỏa trở lại, Tử Úy nhớ lắm, gày dộc hẳn đi, song cũng chẳng biết phải làm thế nào.
                Một tối, Tử Úy buồn quá, lấy rượu ra ngồi độc ẩm. Chợt thấy có người đẩy cửa bước vào phòng, Tử Úy đưa mắt nhìn thì thấy là Liên Tỏa. Tử Úy mừng quá, vội hỏi: "Phải chăng là nàng đã thứ lỗi cho ta?" Liên Tỏa chẳng đáp, chỉ ứa nước mắt khóc. Tử Úy hỏi:"Sao lại khóc?" Liên Tỏa mấp máy môi toan nói song lại thôi. Tử Úy hỏi: "Toan nói gì rồi lại thôi?" Liên Tỏa nuốt nước mắt, đáp: "Thiếp tức giận chàng nên đã bỏ đi, quyết tâm chẳng bao giờ trở lại! Song, tối nay có việc gấp, lại phải tới đây nhờ chàng nên chẳng khỏi ngượng ngùng!" Tử Úy hỏi:"Việc gì mà gấp thế?" Liên Tỏa vẫn ngập ngừng chưa chịu nói. Tử Úy giục:"Có việc gì thì nói ra đi, ta sẽ tận tình giúp đỡ cho!" Bấy giờ Liên Tỏa mới nói:"Tối qua, tự nhiên có một con quỷ tục tằn bẩn thỉu, chẳng biết lai lịch ở đâu, tới bắt thiếp phải đi theo nó để làm vợ. Thiếp nghĩ mình là con nhà gia giáo nên quyết tâm chẳng chịu, nhưng cũng biết mình là kẻ yếu đuối, chẳng thể chống cự được với nó nên mới tìm kế hoãn binh, xin nó cho hai ngày để thu xếp. Nó ưng thuận, hẹn tối mai sẽ tới đón. Vì trộm nghĩ đôi ta đã thân mật như vợ chồng nên tối nay thiếp mới tới đây để nhờ chàng diệt trừ nó giùm thiếp!" Thoạt nghe, uất khí trào lên cổ, Tử Úy nói ngay:"Ta thề là sẽ giết chết nó cho nàng!" Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, Tử Úy lại nói: "Thế nhưng, nó với ta, âm dương đôi ngả, làm sao mà ta có thể giết nó được?" Liên Tỏa đáp:"Chàng chớ lo về việc này! Thiếp đã có cách!" Tử Úy hỏi:"Cách nào?" Liên Tỏa đáp:"Tối mai thiếp sẽ nói, bây giờ xin đừng hỏi! Chỉ cần tối mai chàng đi ngủ sớm là được rồi!" Tử Úy thắc mắc lắm song cũng đành gật đầu. Liên Tỏa bèn ngồi lại đàm luận văn thơ với Tử Úy cho tới rạng đông mới đứng dậy ra về. Trước khi đi, Liên Tỏa còn dặn:"Tối mai, xin chàng nhớ đi ngủ sớm!" Tử Úy lại gật đầu.
                Tối sau, Tử Úy mặc sẵn quần áo rồi lấy rượu đem vào phòng ngồi độc ẩm. Khi đã ngà ngà say, Tử Úy cứ để nguyên quần áo, lên giường nằm. Chợt thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào, tiến tới cạnh giường, trao cho mình một bội đao, Tử Úy vội vùng dậy để đỡ. Chú mục nhìn thì thấy bội đao dài hơn thước, chuôi có nạm minh châu. Tử Úy chưa kịp hỏi chuyện thì Liên Tỏa đã nắm lấy tay, kéo ra khỏi phòng, chạy nhanh như gió.
                Lát sau, tới một ngôi nhà, Liên Tỏa đẩy cửa, kéo Tử Úy vào, rồi đóng sập lại, cài then thật kỹ. Tử Úy hỏi: "Nhà này của ai?" Liên Tỏa đáp:"Của thiếp!" Vừa đáp xong thì bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Liên Tỏa tái mặt, nói:"Con quỷ tới rồi đó!" Tử Úy vội nắm chắc bội đao trong tay, chạy ra mở cửa, phóng mình ra sân. Thấy một con quỷ, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, đứng ở giữa sân, Tử Úy liền quát:"Loài quỷ tục tằn bẩn thỉu kia, mi ở đâu mà dám tới đây quấy nhiễu?" Con quỷ tức giận, trừng mắt nhìn Tử Úy, quát lại:"Cái thằng khốn nạn này! Mi ở đâu mà dám tới đây xen vào chuyện của tao?" Tử Úy nổi giận, múa tít bội đao, xông vào loạn trảm. Con quỷ bèn cúi xuống nhặt một viên đá, ném Tử Úy, trúng cổ tay, làm thanh bội đao suýt bị văng đi. Liên Tỏa ở trong nhà nhìn qua cửa sổ, thấy Tử Úy bị lâm nguy thì kinh hãi quá, vội chạy tới ngồi bệt ở góc phòng, co rúm người lại. Trong cơn nguy cấp, Tử Úy chợt thấy một thợ săn ở đằng xa, vội hét lớn:"Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Thợ săn phóng mình chạy tới. Con quỷ lại cúi xuống nhặt một viên đá, ném thợ săn, nhưng không trúng. Thợ săn bèn giương cung bắn quỷ, mũi tên cắm phập vào bắp vế, làm quỷ ngã lăn xuống đất. Thợ săn vội bắn bồi một mũi nữa, xuyên qua sọ, làm quỷ chết ngay. Tử Úy mừng quá, chạy tới gần thợ săn để cám ơn thì chợt nhận ra thợ săn chính là Vương sinh. Vương sinh cũng nhận ra Tử Úy. Hai người cùng kinh ngạc. Vương sinh hỏi:"Bạn đi đâu mà lại tới đây?" Tử Úy đáp:"Liên Tỏa nhờ tôi tới đây để diệt trừ con quỷ giùm nàng song tôi bị nó lấy đá ném trúng cổ tay. Ðang bị lâm nguy thì may được bạn tới cứu! Xin cám ơn bạn nhiều! Ðây là nhà của Liên Tỏa! Vậy xin mời bạn hãy vào nhà nói chuyện một lát đã!" Vương sinh mừng lắm, nghĩ bụng mình vừa giết được con quỷ để cứu Tử Úy và Liên Tỏa thì chắc là đã chuộc được cái lỗi ném đá và quát thét trước kia. Vì thế, Vương sinh theo Tử Úy vào nhà. Thấy Liên Tỏa ngồi ở góc phòng Vương sinh gật đầu chào. Vì còn hồi hộp, Liên Tỏa chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Tử Úy đặt bội đao lên bàn. Vương sinh thấy bội đao lạ, bèn tới cầm lên coi. Thấy bội đao sáng quắc và nhọn hoắt, Vương sinh cứ tấm tắc khen:"Bội đao này đẹp quá! Bội đao này tốt quá!" Vương sinh cầm bội đao ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt trở lại bàn, hỏi:"Bạn lấy bội đao này ở đâu ra?" Tử Úy đáp:"Bội đao này là của Liên Tỏa trao cho tôi để diệt trừ con quỷ chứ chẳng phải là của tôi! Nay bạn đã giết được con quỷ giùm tôi rồi thì tôi chẳng còn phải dùng tới bội đao này nữa! Vì thế, bây giờ tôi đem trả lại cho nàng!" Thấy chẳng còn chuyện gì, Vương sinh bèn nói:"Thôi, tôi về đây!" rồi quay về phía góc phòng, gật đầu chào Liên Tỏa. Liên Tỏa cũng gật đầu đáp lễ. Vương sinh liền mở cửa, bước ra khỏi nhà. Thấy Vương sinh ra về, Tử Úy cũng muốn về theo nên quay nhìn Liên Tỏa, nói:"Thôi, ta cũng về đây!" Liên Tỏa chưa kịp đáp thì Tử Úy đã phóng mình chạy theo Vương sinh. Vì chạy nhanh quá, Tử Úy vấp phải đá rồi tỉnh giấc, biết là mình nằm chiêm bao. Thấy cổ tay đau nhức, Tử Úy kinh ngạc lắm, cứ thắc mắc chẳng lẽ chuyện mình bị ném đá trong mộng lại là chuyện có thực hay sao? Sáng ra, coi kỹ lại thì quả nhiên thấy cổ tay mình đã bị sưng vù.
                Trưa ấy, Tử Úy thấy Vương sinh tới thăm mình thì càng kinh ngạc. Vương sinh bước vào phòng khách, nói: "Ðêm qua tôi nằm mộng thấy một chuyện lạ!" Tử Úy hỏi: "Có phải là chuyện đã dùng cung tên bắn chết một con quỷ hay không?" Vương sinh cực kỳ kinh hãi, hỏi:"Sao bạn biết?" Tử Úy bèn chìa cổ tay ra cho coi, rồi thuật lại giấc mộng cho nghe. Nghe xong, Vương sinh nói:"Tôi cũng nằm mộng thấy như thế!" Hai người cùng hết sức kinh nghi. Vì nhớ rõ nhan sắc của Liên Tỏa trong giấc mộng nên Vương sinh nói:"Nhờ bạn làm ơn nói với Liên Tỏa cho tôi được gặp mặt nàng một lần nữa!" Tử Úy đáp: "Ðược! Ðể rồi tôi sẽ nói cho!"
                Tối ấy, Liên Tỏa tới, nói:"Cám ơn chàng đã diệt trừ được con quỷ cho thiếp!" Tử Úy nói:"Ðó là công của Vương huynh chứ có phải là công của ta đâu! Vương huynh muốn được gặp mặt nàng một lần nữa đó!" Ðáp: "Vương huynh đã cứu mạng thiếp, thiếp chẳng dám quên ơn! Tuy nhiên, vì Vương huynh hung hãn quá nên thiếp kinh hãi lắm, chẳng dám gặp lại nữa! Thiếp thấy Vương huynh thích bội đao của thiếp nên thiếp muốn nhờ chàng đem bội đao ấy biếu Vương huynh giùm thiếp để tạ ơn!" Hỏi:"Nàng lấy bội đao ấy ở đâu ra?" Ðáp:"Nguyên bội đao ấy là của gia phụ mua ở đất Việt với giá trên trăm lượng vàng. Thiếp thấy bội đao thì thích, cứ đòi xem. Gia phụ thấy thế bèn cho thiếp. Thiếp thuê thợ nạm minh châu trên chuôi và quấn kim tuyến chung quanh cho đẹp. Khi thiếp qua đời, gia phụ thương thiếp quá nên sai gia nhân chôn bội đao cùng với thi thể thiếp. Nay thiếp xin tình nguyện dứt tình với bội đao để đền ơn cứu mạng của Vương huynh. Vương huynh có bội đao thì cũng như đã gặp mặt thiếp một lần nữa rồi!"
                Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy thuật lại ý của Liên Tỏa. Nghe xong, Vương sinh tỏ vẻ buồn vì chẳng được gặp lại Liên Tỏa song cũng mừng vì sắp được biếu bội đao. Tối ấy, quả nhiên Liên Tỏa đem bội đao tới trao cho Tử Úy, nói:"Chàng nhớ dặn Vương huynh giữ gìn bội đao này cho cẩn thận! Nó chẳng phải là vật tầm thường đâu! Ở Trung Quốc chẳng có ai chế tạo được loại bội đao này cả!" Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy đem bội đao ra biếu giùm. Vương sinh thích lắm, gửi lời cám ơn Liên Tỏa rồi cầm bội đao ra về.
                Từ đó, Liên Tỏa lại lui tới với Tử Úy như trước.
                Ba tháng sau. Một tối, Liên Tỏa đang ngồi đàm luận văn thơ với Tử Úy thì bỗng đôi má ửng hồng, đôi mắt cứ nhìn Tử Úy chằm chặp, đôi môi mấp máy tựa hồ như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tử Úy lấy làm lạ, hỏi: "Nàng muốn nói điều gì, sao chẳng nói ra?" Liên Tỏa đáp: "Bấy lâu nay thiếp đội ơn chàng quyến luyến nên đã tiếp thụ được sinh khí. Vì thế, bây giờ thiếp muốn sống lại. Tuy nhiên, muốn sống lại thì phải ân ái với nam nhân trần thế để có tinh huyết của người sống!" Tử Úy cười, nói:"Tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì dễ quá mà! Trước kia ta đã đề nghị với nàng mà nàng chẳng chịu chứ có phải là tại ta tiếc gì nàng đâu!" Liên Tỏa càng ửng hồng đôi má, nói:"Thế nhưng nếu chàng chịu làm như vậy thì chàng sẽ bị bệnh nặng đó! Tuy nhiên nếu chàng chịu khó uống thuốc thì chỉ trên dưới mươi ngày là khỏi!" Tử Úy liền gật đầu rồi chạy tới bồng Liên Tỏa lên giường mà ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tử Úy tưởng là đã xong thì lại nghe thấy Liên Tỏa nói:"Chưa xong đâu! Còn phải có ba giọt máu của người sống nhỏ vào rốn nữa! Chàng có thể chịu đau một chút mà cho thiếp ba giọt máu ấy không?" Tử Úy gật đầu rồi xuống giường, đi lấy dao sắc chích vào cổ tay, nhỏ ba giọt máu vào rốn cho Liên Tỏa.
                Lát sau, Liên Tỏa ngồi dậy mặc quần áo, nói:"Bây giờ thì xong rồi! Xin tạm biệt. Tối tối thiếp sẽ chẳng trở lại đây nữa!" Tử Úy hỏi:"Bao giờ thì nàng mới sống lại?" Ðáp:"Tính từ hôm nay, đúng một trăm ngày!" Hỏi:"Khi nàng sống lại thì tìm nàng ở đâu?" Ðáp:"Ở dưới mộ!" Hỏi: "Ở dưới mộ thì làm sao đón về nhà được?" Ðáp:"Ðể thiếp chỉ cách cho!" Hỏi:"Cách nào?" Ðáp:"Vào buổi chiều ngày thứ một trăm, chàng cứ dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ thiếp. Khi thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây bên mộ rồi hót đủ bốn tiếng thì chàng phải cho gia nhân đào mộ thiếp lên ngay, đưa thiếp về nhà! Xin chàng nhớ kỹ cho một điều là sớm một chút cũng hỏng mà trễ một chút cũng chẳng xong!" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn cáo biệt.
                Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy lâm trọng bệnh, bụng cứ sình lên như cái trống. Tử Úy bèn sai gia nhân đi mời thày lang tới hốt thuốc cho mình. Uống thuốc xong, Tử Úy đi cầu ra phân đen như bùn.
                Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy khỏi bệnh. Tử Úy bèn đi mua sẵn một bộ quần áo phụ nữ với một cái chăn mới, rồi ngồi đếm ngày rất cẩn thận.
                Vào sáng ngày thứ một trăm, theo đúng lời dặn, Tử Úy dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ Liên Tỏa, đem theo bộ quần áo với cái chăn. Chờ từ sáng tới chiều, khi mặt trời đã ngả về tây, Tử Úy mới thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây cạnh mộ. Ðôi chim cất tiếng hót bốn tiếng rồi bay đi. Tử Úy mừng quá, vội giục gia nhân:"Ðược rồi đó! Hãy phạt cỏ, đào mộ lên đi!" Gia nhân vâng lời mà đào. Ðào tới quan tài thì thấy gỗ đã mục. Mở nắp ra coi thì thấy mặt mũi Liên Tỏa vẫn còn tươi như người sống. Tử Úy bèn lấy tay chà xát khắp châu thân Liên Tỏa, lấy bộ quần áo mới ra mặc cho, lấy chăn quấn kín châu thân. Rồi sai gia nhân khiêng về nhà trước, đặt lên giường, đốt lò sưởi, đắp chăn ấm.
                Lát sau, Tử Úy về nhà, đưa tay sờ mũi Liên Tỏa, thì thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ. Tử Úy bèn sai gia nhân lấy nước cháo rót vào miệng. Gần sáng, Liên Tỏa sống lại.
                Tuần sau, Liên Tỏa sinh hoạt bình thường, chẳng khác chi người sống. Từ đó, hai người chung sống bên nhau vô cùng tương đắc.
                Một hôm, Liên Tỏa nói với Tử Úy:"Trên hai chục năm qua thiếp nằm dưới mộ mà bây giờ thiếp cứ tưởng như mình vừa tỉnh một giấc mơ dài!"


                ST
                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                Comment


                • #38
                  THAY TIM, ÐỔI ÐẦU truyện. LỤC PHÁN) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                  Dịch khước tâm tràng canh diện mục
                  Hồi thiên thủ đoạn tối kham xung
                  Lăng Dương miếu mạo kim hà tại
                  Thỉnh dữ tiên sinh đính tửu bằng

                  Huyện Tuyên Thành, tỉnh An Huy, có núi Lăng Dương. Trên đỉnh, có điện thờ thần linh, tên Thập Vương Ðiện. Ở hai bên hành lang đông tây, có hai hàng tượng gỗ, tạc hình các quan chức âm phủ, trạm trổ rất công phu, mặc quần áo thực, trông như người sống. Ở hành lang phía đông, có tượng phán quan râu dài, đứng nghiêm, mặt mũi hung dữ, sơn màu xanh lè, bộ râu thậm thượt, sơn màu đỏ chót. Những kẻ không kiêng kỵ thường gọi tượng này là Tông Sư Râu. Dân chúng trong vùng đồn rằng đêm nào người ta cũng nghe thấy có tiếng khảo đả ở hai bên hành lang và thuật lại nhiều chuyện rất rùng rợn. Vì thế, vào ban đêm, ít có người dám lên gần điện.
                  Ở chân núi, có ngôi làng Lục Dương. Trong làng, có nho sinh, họ Chu, tên Nhĩ Ðán, tên chữ Tiểu Minh, thực thà chất phác, học hành chăm chỉ song trí nhớ kém, tiến bộ chậm chạp, văn chương xoàng xĩnh. Thế nhưng, Tiểu Minh lại nổi tiếng là người gan dạ. Tiểu Minh có vợ họ Phùng, tính rất hiền thục, song kém nhan sắc.
                  Trong huyện, lại có thị ngự họ Ngô, đã hồi hưu, có cô con út rất đẹp, tên Giáng Tiên. Năm Giáng Tiên 13, thị ngự hứa gả cho nho sinh họ Trịnh, song sắp tới ngày cưới thì Trịnh sinh bị bệnh mà thác. Ba năm sau, thị ngự lại hứa gả cho nho sinh họ Vương, song cũng sắp tới ngày cưới thì Vương sinh cũng bị bệnh mà thác. Năm ấy, Giáng Tiên đã 19 song thị ngự chưa hứa gả cho ai khác.
                  Trong vùng, các nho sinh lập một hội văn, hùn tiền thuê một hội quán để hàng tháng họp mặt yến ẩm, bình luận văn chương. Tiểu Minh cũng có chân ở trong hội.
                  Một tối, trong buổi họp mặt ở hội quán, bỗng có nho sinh nói đùa:"Này Tiểu Minh! Bạn nổi tiếng là người gan dạ. Bây giờ, nếu bạn dám lên Thập Vương Ðiện vác tượng phán quan râu dài xuống đây thì chiều mai anh em sẽ hùn tiền làm một bữa tiệc thịnh soạn để đãi bạn" Tiểu Minh chẳng đáp, chỉ mỉm cười rồi đứng dậy bỏ đi.
                  Lát sau, có tiếng Tiểu Minh từ ngoài cửa vọng vào: "Ðã lên điện thỉnh được Tông Sư Râu xuống đây chơi rồi này!" Nhóm nho sinh sửng sốt, cùng đứng bật dậy. Tiểu Minh vác tượng vào đặt ở giữa bàn. Nhóm nho sinh kinh hãi, cùng chạy tới góc phòng, đứng rúm lại với nhau. Tiểu Minh lấy hồ và chén, đem tới trước tượng, rót rượu vào chén mà khấn:"Xin mời đại tông sư dùng với tiểu sinh một chén!" rồi rót rượu xuống đất. Tiểu Minh làm như thế ba lần. Nhóm nho sinh càng co rúm lại với nhau ở góc phòng, đứng dựa vào nhau mà run rẩy. Lát sau, có nho sinh kinh hãi quá, giục:"Thôi Tiểu Minh ơi! Bạn làm ơn vác tượng lên núi trả lại điện giùm đi!" Tiểu Minh bèn lấy chén mới, rót rượu mà khấn:"Tiểu sinh hành động điên cuồng, xin đại tông sư thứ lỗi. Nếu chẳng chê tiểu sinh là kẻ nghèo hèn thì hôm nào thấy hứng, xin mời đại tông sư quá bộ tới tệ xá ở gần đây để cùng uống. Tiểu sinh rất hân hạnh được đón tiếp!" Khấn xong, rót rượu xuống đất, rồi vác tượng đi. Nhóm nho sinh đều phục Tiểu Minh là người gan dạ. Tiểu Minh vác tượng lên núi, vào hành lang điện, trả lại chỗ cũ. Về nhà, Tiểu Minh thuật chuyện cho vợ nghe. Phùng thị kinh hãi, nói:"Mạo phạm quỷ thần như thế mà chẳng sợ bị tội chết hay sao?" Tiểu Minh cười, đáp:"Mượn tượng cho bạn bè coi rồi đem trả lại chỗ cũ thì có chi mà gọi là mạo phạm?"
                  Chiều sau, nhóm nho sinh hùn tiền làm tiệc đãi Tiểu Minh. Mọi người cùng yến ẩm, nói cười vui vẻ.
                  Gần tới nửa đêm, bữa tiệc mới tan. Tiểu Minh về nhà, thấy còn tửu hứng, bèn lại thắp đèn, đi tìm hồ rượu, đem ra phòng khách, ngồi uống một mình. Chợt thấy có người vén rèm bước vào, Tiểu Minh nhìn lên thì nhận ra là phán quan, vội đứng dậy nói:"Kính chào đại tông sư! Ðêm qua trót mạo phạm, phải chăng đêm nay tới tệ xá để lấy mạng?" Phán quan vuốt râu, mỉm cười, nói:"Chẳng phải thế! Ðêm qua, nhờ lòng hào sảng của nhân huynh, đã được uống bốn chén hảo tửu. Ðêm nay, rảnh rỗi, thấy hứng nên chiếu theo lời hẹn mà tới đó thôi!" Tiểu Minh mừng lắm, bèn kéo áo mời ngồi, rồi đem bộ đồ rượu đi rửa, bày lại lên bàn. Tiểu Minh toan nhấc hồ rượu đem đi hâm thì phán quan cản lại, nói:"Ðêm nay tiết trời ấm áp, có thể uống lạnh được!" Tiểu Minh vâng lời rồi vào nhà trong bảo vợ:"Nàng hãy xuống bếp làm đồ nhắm đãi khách!" Phùng thị hỏi:"Ai thế?" Tiểu Minh đáp:"Phán quan trên Thập Vương Ðiện" Phùng thị kinh hãi quá, nói: "Thôi, ở trong này đi, đừng ra ngoài ấy nữa!" Tiểu Minh cười, đáp:"Mời khách tới nhà, khách tới lại chẳng ra tiếp, có phải là vô lễ không? Làm đồ nhắm xong, bảo con ở lên gõ cửa để ta xuống lấy. Ðừng bắt nó bưng lên, kẻo nó kinh hãi, sẽ đánh đổ mất!" Nói xong, lại trở ra phòng khách. Phùng thị đành phải xuống bếp.
                  Lát sau, con ở lên gõ cửa. Tiểu Minh xuống bếp đem đồ nhắm lên, rồi rót rượu mời phán quan cùng mình yến ẩm. Trong tiệc, Tiểu Minh hỏi:"Quý tính ngài ra sao?" Phán quan đáp:"Họ Lục!" Hỏi:"Quý danh ngài ra sao?" Ðáp:"Chẳng có tên!" Hỏi:"Văn chương âm phủ có khác gì văn chương dương thế không?" Ðáp:"Ðại loại thì cũng như nhau" Hỏi:"Ngài có rành về các điển cố văn chương dương thế không?" Ðáp:"Cũng có biết chút ít!" Rồi cùng đem văn chương ra bàn luận, ý kiến rất tương đắc.
                  Phán quan uống rượu rất hào, uống liền một lúc mười chén mà vẫn chưa say. Tiểu Minh đã uống suốt buổi chiều nên mới uống thêm vài chén đã thấy vách tường nghiêng ngả, phải dựa lưng vào thành ghế mà ngủ. Ðến khi tỉnh giấc, bấc đèn đã lụi, khách đã đi rồi.
                  Từ đó thành lệ, cứ ba tối một lần, phán quan lại tới. Tình bạn mỗi ngày một thêm thân thiết.
                  Một tối, Tiểu Minh lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho!" Phán quan chẳng khách sáo, cầm bài lên coi rồi đặt bút phê:"Dở lắm!"
                  Tuần sau. Một tối, Tiểu Minh say quá, nằm lăn xuống tràng kỷ ngủ, để mặc phán quan ngồi uống một mình. Lát sau, Tiểu Minh chợt mơ màng thấy ngực mình đau ê ẩm. Mở mắt ra coi, thấy phán quan một tay cầm dao, một tay đang kéo tim phổi mình ra khỏi lồng ngực, Tiểu Minh kinh hãi quá, vội lên tiếng hỏi:"Vốn chẳng oán thù, sao lại giết nhau?" Phán quan cười, đáp:"Ðâu có giết! Chỉ thay tim thôi! Ðừng có sợ!" rồi nhét tim phổi trở vào lồng ngực Tiểu Minh như cũ. Phán quan khép vết rạch, lấy vải quấn quanh, rồi nói:"Xong rồi!" Nghĩ chắc tràng kỷ phải bê bết máu, Tiểu Minh nhỏm dậy coi thì thấy vẫn sạch khô nên ngạc nhiên lắm. Ðưa mắt nhìn quanh, thấy trên bàn có một bọc vải, Tiểu Minh hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Tim của nhân huynh!" Hỏi:"Sao lại phải thay?" Ðáp:"Vì thấy văn dở quá nên biết bị tắc tim. Xét bao vạn xác chết, mới thấy một tim thông, nên mổ lấy đem tới, để thay cho nhân huynh. Bây giờ đem tim tắc về đền lại xác chết!" Ðáp xong, xách bọc ra khỏi phòng.
                  Sáng sau, Tiểu Minh lấy gương ra soi thì thấy vết rạch đã liền, chỉ còn một vết đỏ. Từ đó, trí nhớ khác hẳn, đọc bài một lần là thuộc, văn chương tiến bộ vượt mức, hành văn khác hẳn khi trước.
                  Tuần sau, Tiểu Minh lại lấy văn bài mình mới làm đưa ra, nói:"Xin chấm giùm cho, xem đã được chưa?" Phán quan coi xong, nói:"Ðược rồi!" Hỏi:"Ðậu hiếu liêm (cử nhân) được không?" Ðáp:"Ðược!" Hỏi:"Ðậu cao không?" Ðáp:"Cao!" Hỏi:"Ðậu thứ mấy?" Ðáp:"Ðậu thủ khoa!" Hỏi:"Bao giờ thì đậu?" Ðáp:"Mùa thu năm nay!" Hỏi:"Ðậu tiến sĩ được không?" Ðáp:"Không!" Hỏi:"Sao vậy?" Ðáp:"Phúc đức mỏng lắm, chẳng thể đại quý hiển được!" Mùa thu năm ấy, Tiểu Minh đi thi hương. Khi trường thi yết bảng, quả nhiên đậu thủ khoa.
                  Nhóm nho sinh trong hội văn tới nhà mừng, đòi cho xem bài thi. Tiểu Minh lấy bài đưa ra. Nhóm nho sinh coi xong, cùng nhìn nhau kinh ngạc. Có kẻ hỏi:"Sao văn chương bạn lại có thể tiến bộ tới mức ấy?" Tiểu Minh đáp:"Vì thay tim" Hỏi:"Ai thay cho?" Ðáp:"Lục phán quan ở Thập Vương Ðiện" Hỏi:"Giới thiệu cho nhau có được không?" Ðáp:"Ðược chớ sao không!"
                  Tuần sau, khi phán quan tới, Tiểu Minh nói: "Nhóm nho sinh trong hội văn thấy văn chương tiến bộ, muốn nhờ giới thiệu!" Phán quan đáp:"Ðược!"
                  Hôm sau, nhóm nho sinh tới hỏi:"Có giới thiệu được không?" Tiểu Minh đáp:"Ðược!" rồi thuật chuyện cho nghe. Nhóm nho sinh mừng lắm, nhờ chuyển lời thỉnh phán quan tới hội quán văn dự tiệc vào tiết nguyên tiêu, tối rằm tháng giêng, đầu canh một. Tiểu Minh chuyển lời. Phán quan ưng thuận.
                  Ðúng hẹn, phán quan tới. Thấy bộ râu đỏ của khách cử động, cặp mắt sáng loáng như điện chớp, nhóm nho sinh kinh hãi xanh mặt, răng đánh lập cập, lủi dần hết, chỉ còn lại có phán quan với Tiểu Minh. Tiểu Minh nói:"Họ kinh hãi, lủi hết rồi! Xin mời về tệ xá đối ẩm vậy!" Phán quan đáp:"Xin vâng!"
                  Tới nhà, Tiểu Minh đem rượu ra mời khách. Ðến khuya, Tiểu Minh say khướt, nói lè nhè:"Thay tim cho, đã đội ơn rất nhiều. Nay muốn phiền việc khác, chẳng biết có được không?" Phán quan hỏi:"Việc gì?" Ðáp:"Tiện nội vốn xấu xí, kết duyên với tiểu sinh từ hồi còn ít tuổi. Trộm nghĩ tim mà còn có thể thay được thì chắc diện mạo cũng có thể đổi được, nên muốn xin đại tông sư đổi diện mạo cho tiện nội, chẳng biết có được không?" Cười, nói:"Ðược! Song phải để từ từ, chờ dịp!"
                  Ba ngày sau, vào lúc quá nửa đêm, Tiểu Minh đang ngủ, bỗng nghe có tiếng gõ cổng, vội vùng dậy, chạy ra mở. Nhận ra là phán quan, Tiểu Minh bèn mời vào nhà. Thắp đèn lên thì chợt thấy khách xách theo một bọc vải, máu đào còn nhỏ giọt, Tiểu Minh kinh hãi, hỏi:"Bọc gì thế?" Phán quan đáp:"Ðầu mỹ nhân! Hôm nọ nhân huynh có dặn lo cho sắc đẹp của lệnh chính. Ðêm nay vừa tìm được đầu một mỹ nhân nên đem tới để thực hiện lời hứa!" rồi cầm bọc vải chạy thẳng tới cửa phòng Phùng thị. Tiểu Minh đang lo cửa phòng vợ mình bị khóa, nên vội chạy theo để mở thì đã thấy phán quan đặt bàn tay phải lên cánh cửa rồi thấy cánh cửa tự động mở tung. Phán quan chạy thẳng tới giường Phùng thị. Tiểu Minh cũng chạy tới theo thì thấy vợ mình đang ngủ. Phán quan đưa bọc vải cho Tiểu Minh cầm, rồi rút từ hia ra một lưỡi dao sáng loáng, ấn vào cổ Phùng thị, ngọt tựa bổ dưa. Ðầu Phùng thị rơi ra gối. Phán quan lấy đầu mỹ nhân trong bọc, ráp lên cổ, ngắm nghía cho ngay ngắn, lấy tay ép đầu dính vào mình, rồi lấy gối phủ quanh. Sau đó, trao đầu Phùng thị cho Tiểu Minh, nói:"Cất đầu lệnh chính đi, phòng khi cần dùng tới!" rồi xin cáo biệt.
                  Sáng ra, Phùng thị tỉnh giấc. Thấy cổ ngưa ngứa, Phùng thị đưa tay xoa thì thấy một vật nhỏ tròn tròn. Giật ra coi, thấy là cục máu, Phùng thị kinh hãi quá, vội gọi con ở lấy nước rửa mặt. Con ở bưng chậu nước lên thì thấy đầu nữ chủ rối bù, tóc xõa kín mặt, đệm giường thấm máu, nên rất kinh hãi, há miệng đứng nhìn. Rửa mặt xong, Phùng thị thấy chậu nước đỏ lòm, còn con ở thì thấy nữ chủ là một người khác lạ. Cả chủ lẫn tớ cùng cực kỳ kinh hãi. Phùng thị sai con ở đi lấy gương soi. Thấy mình chẳng phải là mình, Phùng thị hoảng hốt, lên tiếng gọi chồng. Tiểu Minh chạy vào. Phùng thị hỏi:"Sao diện mạo thiếp lại khác lạ thế?" Tiểu Minh đáp:"Lục phán quan đã đổi đầu cho nàng cũng như đã thay tim cho ta!" Lúc đó Phùng thị mới vỡ lẽ. Tiểu Minh nhìn vợ, thấy quả là một trang mỹ nhân khác lạ, mi thanh mục tú, má lúm đồng tiền, cực kỳ xinh đẹp, tựa người trong tranh. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có ưng chăng?" Phùng thị mỉm cười, không đáp. Tiểu Minh liền chạy tới vạch cổ vợ ra coi thì thấy chỉ có một vết nhỏ, màu hồng lạt.
                  Năm ấy, tối rằm tháng giêng, nhằm tiết nguyên tiêu, cô con út của Ngô thị ngự là Giáng Tiên, lên núi Lục Dương vãn cảnh, có tì nữ theo hầu. Trong đoàn khách đăng sơn, có một tên cướp háo sắc. Nhìn thấy Giáng Tiên xinh đẹp, tên cướp ưa thích lắm, bèn dò hỏi cho ra nhà thị ngự.
                  Ba ngày sau, cũng vào buổi tối, tên cướp leo thang, vượt tường vào nhà, rút dao khoét cửa phòng Giáng Tiên, lẻn vào phòng chém chết tì nữ, rồi xông tới giường toan cưỡng chiếm Giáng Tiên. Giáng Tiên la hét, ra sức chống cự. Tên cướp tức giận, đâm chết Giáng Tiên rồi bỏ chạy. Phu nhân nghe tiếng huyên náo ở phòng con, vội sai hai tì nữ chạy tới coi. Vào phòng, thấy hai xác chết, chúng kinh hãi quá, tri hô ầm ĩ. Cả nhà nhốn nháo, cùng chạy lên coi rồi cùng gào khóc thất thanh. Tới nửa đêm, thị ngự sai gia nhân đem xác tì nữ xuống quàn ở nhà ngang, rồi đem xác Giáng Tiên lên quàn ở phòng khách, cắt hai tì nữ ngồi canh. Lát sau, hai tì nữ mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
                  Sáng sau, thị ngự sai gia nhân khâm liệm xác con thì thấy xác đã bị mất đầu. Thị ngự giận lắm, cho rằng hai tì nữ đã chểnh mảng, để chó lên phòng khách tha mất đầu con, nên ra lệnh đánh đòn.
                  Thị ngự sai gia nhân lên huyện đường trình vụ án mạng. Quan tể giận lắm, ra lệnh cho thuộc hạ phải ráo riết lùng bắt tên cướp. Ba tháng sau, thuộc hạ vẫn chưa tìm ra manh mối.
                  Một hôm, có kẻ phong thanh nghe được chuyện Phùng thị đổi đầu với một mỹ nhân, trông giống đầu cô con út của thị ngự, bèn tới mách thị ngự. Thị ngự nửa tin nửa ngờ, song cũng vẫn sai bà vú đi dò xét. Bà vú tới nhà Tiểu Minh, gõ cổng xin việc. Tiểu Minh cho vào gặp Phùng thị. Thấy mặt Phùng thị, bà vú kinh hãi, đưa tay bụm miệng cho khỏi kêu lên. Bà vú giả vờ xin việc, Phùng thị từ chối, nói rằng nhà mình đã đủ người làm. Bà vú về thuật chuyện. Thị ngự nghe xong, chỉ thấy hoang mang, chẳng hiểu ra sao. Cuối cùng, thị ngự lại nghi rằng Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
                  Hôm sau, thị ngự đích thân tới thăm Tiểu Minh. Sau một tuần trà, Tiểu Minh hỏi:"Chẳng hay lão quan tới tệ xá có điều chi dạy bảo?" Thị ngự đáp:"Lão phu nghe đồn lệnh chính vừa đổi đầu với tiện nữ nên lão phu muốn tới xin túc hạ cho gặp lệnh chính để xem lời đồn có đúng hay không?" Tiểu Minh nói:"Thưa, được!" rồi gọi vợ ra chào khách. Thấy diện mạo Phùng thị đúng là diện mạo con gái mình nhưng tay chân thì khác hẳn, thị ngự cũng chẳng hiểu ra sao. Tiểu Minh hỏi vợ:"Nàng có nhận ra quan thị ngự không?" Phùng thị ngơ ngác, lắc đầu. Thị ngự nói:"Chắc là túc hạ đã dùng yêu thuật sát hại tiện nữ!" Tiểu Minh đáp:"Tiện nội nằm mộng thấy được đổi đầu. Tiểu sinh cũng rối trí, chẳng hiểu ra sao. Nay lão quan lại nghi cho tiểu sinh sát hại lệnh ái thì thực là oan cho tiểu sinh!" Thị ngự ra về song trong lòng vẫn nghi là Tiểu Minh đã dùng yêu thuật sát hại con mình.
                  Sáng sau, thị ngự làm đơn kiện, nạp lên huyện đường. Quan tể đọc đơn, nửa tin nửa ngờ, sai lính đi bắt vợ chồng Tiểu Minh cùng con ở lên huyện đường thẩm vấn. Cả ba cùng khai như lời Tiểu Minh đã nói với thị ngự. Quan chẳng biết kết án ra sao, đành thả cho về.
                  Ba tối sau, phán quan tới đối ẩm. Tiểu Minh thuật chuyện thị ngự kiện mình, rồi hỏi: "Có cách chi minh oan được cho nhau chăng?" Phán quan đáp: "Có! Dễ lắm! Ðể bảo chính con gái nói cho cha mẹ biết!" rồi cáo biệt.
                  Ðêm ấy, thị ngự nằm mộng thấy con gái về nói: "Tiểu nữ và con tì nữ cùng bị kẻ cướp họ Dương, tên Ðại Niên ở Tô Khê sát hại. Vì diện mạo vợ Chu hiếu liêm xấu xí nên Lục phán quan ở Thập Vương Ðiện lấy đầu tiểu nữ mà đổi cho. Vì thế, tuy tiểu nữ đã thác song diện mạo vẫn còn. Xin phụ thân chớ nghi oan cho Chu hiếu liêm!" Thị ngự tỉnh giấc, lấy làm lạ, bèn thuật lại cho phu nhân nghe. Phu nhân nói chính mình cũng nằm mộng thấy như thế. Thị ngự bèn đích thân lên huyện đường, thuật lại giấc mộng của vợ chồng mình cho quan tể nghe.
                  Hôm sau, quan sai thuộc hạ đi Tô Khê điều tra hư thực thì thấy rằng ở Tô Khê quả có một kẻ tên Dương Ðại Niên. Quan liền sai lính tới tìm bắt. Lính tìm bắt được, trói giải về huyện. Quan sai lính khảo đả điều tra. Bị đòn đau quá, Ðại Niên đành phải thú nhận hết tội lỗi. Quan liền lên án tử hình Ðại Niên.
                  Thị ngự tới nhà Tiểu Minh, xin Phùng thị nhận mình làm cha. Phùng thị hỏi ý chồng. Tiểu Minh chấp thuận. Phùng thị bèn đồng ý. Thị ngự liền xin đầu cũ của Phùng thị đem về chôn cất với thi thể của con.
                  Năm ấy, Tiểu Minh chẳng tin lời phán quan, cứ đi thi hội (thi tiến sĩ). Văn chương cực hay song vẫn bị hỏng vì phạm trường quy. Ba năm sau, lại đi thi rồi lại hỏng. Ba năm sau nữa, lại đi thi rồi lại hỏng. Thấy ba lần thi, ba lần hỏng, Tiểu Minh mới tin lời phán quan là đúng. Vì thế, giấc mộng tiến sĩ ấp ủ từ ba chục năm qua, nay đột nhiên trở thành nguội lạnh. Thi hỏng lần thứ ba, về tới nhà thì vợ sanh con trai. Tiểu Minh đặt tên con là Nhĩ Vĩ.

                  Năm năm sau. Một tối, phán quan tới, nói:"Chẳng còn thọ lâu đâu!" Tiểu Minh hỏi:"Bao giờ thì chết?" Ðáp: "Ðúng năm hôm nữa thôi!" Hỏi:"Có giúp gì được nhau không?" Ðáp:"Không! Mệnh trời đã định, ai mà đổi được? Vả lại, dưới mắt thường nhân thì sống chết là hai song dưới mắt đạt nhân thì sống chết chỉ là một. Sao cứ nghĩ sống là vui, chết là buồn?" Khen:"Lời nói chí lý thay!"
                  Sáng ra, Tiểu Minh tự sửa soạn vải liệm, quan quách. Năm hôm sau, Tiểu Minh tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, lên giường nằm rồi thác.
                  Tối ấy, Phùng thị ôm quan tài chồng mà khóc. Bỗng thấy chồng xăm xăm từ ngoài cổng bước vào, Phùng thị kinh hãi quá, suýt la lên. Chợt nghe thấy tiếng chồng nói:"Ðừng sợ! Ta thác rồi song thấy chẳng khác chi khi còn sống. Thương nàng mẹ góa con côi, nên mới hiện về thăm một lát mà thôi!" Phùng thị cảm động, mếu máo, nói:"Thiếp nghe nói ai thác mà còn linh thiêng thì có thể hoàn hồn, tái sinh được. Lang quân còn linh thiêng, sao chẳng trở về sống với vợ con?" Tiểu Minh đáp:"Ai đổi được mệnh trời? Làm gì có chuyện hoàn hồn với tái sinh!" Hỏi:"Thế bây giờ xuống âm phủ, lang quân làm nghề gì?" Ðáp:"Nhờ Lục phán quan tiến dẫn, ta đã được cử giữ chức chủ bạ, coi sóc hồ sơ. Quan tước tuy nhỏ song được cái công việc nhàn nhã lắm!" Phùng thị vừa toan lên tiếng hỏi nữa thì Tiểu Minh đã gạt đi, nói:"Lục phán quan cùng về với ta. Nàng hãy xuống bếp làm tiệc đi!" Nói xong, lại xăm xăm bước ra khỏi cổng. Phùng thị bèn xuống bếp làm tiệc rồi đem lên bày ở chỗ cũ. Chợt nghe thấy trong phòng có tiếng rót rượu, rồi có tiếng nói cười của chồng với khách, hào khí vẫn thanh cao như trước. Tới nửa đêm, đột nhiên tiếng nói cười im bặt.
                  Từ đó, cứ bốn tối một lần, Tiểu Minh lại hiện về thăm vợ. Lần nào về, cũng dặn dò vợ đủ mọi gia vụ rồi mới bảo vợ làm tiệc đãi khách. Có tối ở lại tới gần sáng. Thỉnh thoảng lại hiện về thêm một lần để bồng con.
                  Ba năm sau. Tối nào Tiểu Minh cũng hiện về dạy con học. Nhĩ Vĩ mới lên 8 song cũng đã thông minh. Học cha được một năm đã biết cách làm văn.

                  Bảy năm sau. Nhĩ Vĩ 15, thi đậu vào trường huyện. Từ đó, Tiểu Minh rất ít về thăm nhà. Năm thì mười họa mới hiện về một lát mà thôi.
                  Một tối, Tiểu Minh hiện về nói với vợ:"Tối nay ta về để vĩnh biệt nàng!" Phùng thị hỏi:"Lang quân đi đâu?" Ðáp:"Vâng mệnh Thượng Ðế, ta đi làm quan ở xa. Cách trở phiền hà, chẳng về được nữa!" Phùng thị ôm lấy chồng mà khóc. Tiểu Minh nói:"Ðừng làm thế! Con đã lớn, gia nghiệp vẫn còn, đủ sống là được rồi! Từ thượng cổ tới nay, có cặp loan phượng nào được đoàn tụ với nhau mãi mãi đâu?" Rồi quay qua nói với con:"Con hãy gắng trở thành một người tốt. Mười năm nữa, ta sẽ gặp lại con lần chót!" Nói xong, xăm xăm bước ra khỏi cổng mà đi. Từ đó, tuyệt vô âm tín.

                  Mười năm sau. Nhĩ Vĩ 25, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan, chức hành nhân. Một hôm, Nhĩ Vĩ phụng mệnh vua đi tế thần ở núi Tây Nhạc. Khi cùng đoàn tùy tùng qua huyện Hoa Âm, chợt thấy một cỗ xe từ xa xông thẳng vào đoàn ngựa của mình, Nhĩ Vĩ lấy làm lạ, giương mắt nhìn thì nhận ra cha đang ngồi trong xe với một xa phu. Nhĩ Vĩ vội xuống ngựa, nằm phục bên trái đường mà khóc. Tiểu Minh bảo xa phu dừng xe, nói:"Con làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ta thác, nhắm mắt được rồi!" Nhĩ Vĩ vẫn nằm phục, chẳng dám đứng dậy. Tiểu Minh bèn bảo xa phu phóng xe đi. Lúc đó, Nhĩ Vĩ mới khép nép đứng dậy, nhìn theo. Chợt thấy xe dừng lại, rồi thấy cha tháo bội đao đeo ở bên người, trao cho xa phu. Xa phu chạy tới trao cho Nhĩ Vĩ rồi quay trở lại xe. Nhĩ Vĩ còn đang bàng hoàng thì bỗng nghe thấy tiếng cha nói vọng từ xa tới:"Ðeo bội đao vào người thì sẽ được quý hiển!" Rồi thấy xe vụt phóng đi. Nhĩ Vĩ vội lên ngựa đuổi theo song vì xe phóng nhanh quá nên Nhĩ Vĩ đuổi không kịp. Trong nháy mắt, xe đã biến mất hút. Nhĩ Vĩ dừng cương, buồn bã hồi lâu. Rút bội đao ra coi thì thấy cách chế tạo cực kỳ tinh xảo. Lại thấy trên bội đao có khắc dòng chữ:"Mật muốn lớn song tâm muốn nhỏ, trí muốn tròn song hành muốn vuông"
                  Nhĩ Vĩ làm quan, được thăng dần tới chức tư mã. Sanh được năm trai, đặt tên là Nhĩ Thẩm, Nhĩ Tiềm, Nhĩ Vật, Nhĩ Hồn, Nhĩ Thâm. Một đêm, Nhĩ Vĩ nằm mộng thấy cha về, nói:"Bội đao nên cho thằng Nhĩ Hồn!" Tỉnh giấc mới biết là chiêm bao.
                  Khi về già, Nhĩ Vĩ vâng lời cha, đem bội đao cho Nhĩ Hồn. Về sau, Nhĩ Hồn làm quan tới chức tổng hiến, cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực như cha.


                  ST
                  Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                  Comment


                  • #39
                    VÂN THÚY TIÊN - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                    Danh hoa cao chiếm nhất chi xuân
                    Nhẫn thính hoàng ngôn biệt tặng nhân
                    Lưu đắc hoàng kim vô dụng xứ
                    Phân minh a mẫu ngộ nhi thân

                    Thủ phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, có thanh niên họ Lương, tên Hữu Tài, con của một gia đình khá giả.
                    Ðược cha mẹ nuông chiều, Hữu Tài thường đàn đúm với lũ bạn du đãng, đứng đầu là thanh niên họ Mã, tên Ðắc Lợi. Cha mất, Hữu Tài ở với mẹ. Mẹ mất, Hữu Tài bán nhà, lấy tiền đi rượu chè, cờ bạc với Ðắc Lợi và lũ bạn. Bị mọi người trong vùng ghét bỏ, Hữu Tài bèn đem chút tiền còn lại sang thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, mua một căn nhà nhỏ để cư ngụ và một gánh hàng xén bán dạo để kiếm kế sinh nhai.
                    Tỉnh Sơn Ðông có dãy Thái Hành Sơn, gồm nhiều ngọn núi cao. Trên đỉnh ngọn Vương Sơn, có ngôi chùa Vương Sơn Tự. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng tư, khi chùa mở hội Quỳ Hương, có tới hàng ngàn thanh niên nam nữ trong vùng rủ nhau lên chùa trẩy hội. Vào giữa trưa, có một thiền sư ra Phật điện thỉnh chuông rồi thắp một nén hương, cắm vào bát nhang trên bàn thờ Phật. Khách trẩy hội cùng quỳ xuống đất, la liệt trong chùa, ngoài sân. Khi nén hương đã tàn, khách rủ nhau đứng dậy, cùng vào điện lễ Phật.
                    Năm ấy, sáng ngày rằm tháng tư, Hữu Tài theo đám đông lên chùa trẩy hội. Quá trưa, tới sân chùa, thấy trong đám khách quỳ hương có một nữ lang xinh đẹp, tuổi chừng 17, 18, Hữu Tài thích quá, vội quỳ xuống sân, lê gối lại gần. Thấy có kẻ lạ lê lại gần mình, nữ lang cau mày, lê gối tránh xa. Hữu Tài lại lê theo. Nữ lang tức giận, đứng phắt dậy, bỏ buổi l, rảo bước ra về. Hữu Tài cũng vội đứng dậy chạy theo. Ra tới cổng chùa, thấy nữ lang đã biến mất, Hữu Tài thất vọng, lủi thủi ra về.
                    Dọc đường, thấy ở phía đằng trước có hai người đang đi, Hữu Tài vội rảo bước. Khi bắt kịp, Hữu Tài nhận ra một người chính là nữ lang trên chùa, còn người kia là một bà lão. Hữu Tài chợt nghe thấy bà lão nói với nữ lang:"Mẹ chỉ có một mình con. Nay con đã lớn, mẹ mong con sớm có chồng. Mẹ vẫn cầu Trời khấn Phật cho con lấy được một tấm chồng đàng hoàng, tử tế, chứ chẳng cần phải danh giá, giàu sang! Nếu con cứ chịu khó theo mẹ lên chùa lễ Phật như thế này thì tốt lắm!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm, rảo bước vượt qua, rồi quay đầu lại, cúi chào bà lão. Bà lão gật đầu đáp l. Hữu Tài nói: "Thưa lão mẫu, con họ Lương, tên Hữu Tài. Chẳng hay lão mẫu họ chi?" Bà lão đáp:"Lão thân họ Vân!" Nói:"Trưa nay con lên chùa trẩy hội, được gặp hiền muội đây. Chẳng hay hiền muội tên chi?" Ðáp:"Em tên Thúy Tiên!" Hỏi:"Bây giờ lão mẫu đi đâu?" Ðáp:"Lão thân về nhà!" Hỏi:"Nhà ta ở đâu?" Ðáp:"Ở phía tây dãy núi này, cách đây chừng bốn chục dặm!" Hỏi:"Trời tối rồi, làm sao lão mẫu về kịp?" Ðáp:"Chính vì thế mà hai mẹ con vừa mới bàn tính với nhau xong!" Hỏi:"Thế lão mẫu quyết định ra sao?" Ðáp:"Hai mẹ con đã quyết định tới ngủ nhờ nhà bào huynh của lão thân ở gần đây!" Nói:"Lúc nãy, con đi ở đằng sau, tình cờ được nghe lão mẫu nói với Thúy muội là lão mẫu chỉ mong có một chàng rể đàng hoàng, tử tế nên con nghĩ con có thể xin làm rể của lão mẫu được!" Vân bà bèn quay qua hỏi Thúy Tiên:"Lương lang đây muốn xin cưới con làm vợ đó, con có chịu không?" Thúy Tiên lắc đầu đáp:"Con không chịu!" Hỏi:"Tại sao?" Ðáp: "Vì con thấy gã có tướng vô hạnh, bất nghĩa!" Hữu Tài vội nói:"Thưa lão mẫu, Thúy muội mới gặp con có một lần mà đã quyết đoán như vậy thì quả là lầm! Có quỷ thần chứng giám, con xin thề với lão mẫu là con rất đứng đắn, thủy chung!" Nghe thấy thế, Vân bà liền quyết định: "Ðã dám thề thốt nặng lời như vậy thì lão thân cũng phải tin thôi! Lão thân bằng lòng gả con cho đó!" Nghe mẹ nói, Thúy Tiên tái mặt song cũng chỉ im lặng, chẳng dám phản đối. Hữu Tài bèn quay qua hỏi chuyện Thúy Tiên. Thúy Tiên chẳng thèm đáp. Thấy thế, Vân bà nói:"Con phải nói chuyện với Lương lang đi chứ" Thúy Tiên đáp: "Có chuyện gì đâu mà nói!" Hữu Tài bèn nói lảng sang chuyện khác:"Chắc từ đây tới nhà cữu phụ cũng còn xa! Xin lão mẫu dừng chân, để con đi thuê kiệu!" Nói xong, chạy đi ngay. Lát sau, Hữu Tài trở lại với bốn phu khiêng, mời Vân bà và Thúy Tiên lên kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên lên ngồi rồi chỉ đường cho nhóm phu khiêng. Hữu Tài đi chân theo sau, trông tựa đầy tớ theo hầu chủ vậy. Hữu Tài luôn miệng nhắc nhở nhóm phu khiêng phải đi chầm chậm cho êm kiệu.
                    Lát sau, vào một sơn thôn, tới cổng một biệt thự, Vân bà nói:"Ðến nơi rồi!" Nhóm phu khiêng liền dừng chân, hạ kiệu. Vân bà dắt Thúy Tiên xuống. Hữu Tài vội lấy tiền ra trả cho nhóm phu khiêng quay về. Vân bà dắt Thúy Tiên và Hữu Tài qua cổng, vào sân. Thấy có hai ông bà lão đang đứng ở giữa sân tựa hồ như chờ khách, Hữu Tài vội chắp tay cúi đầu chào. Hai ông bà đáp l. Vân bà giới thiệu với Hữu Tài:"Ðây là đại ca và đại tẩu của mẹ" Rồi quay qua giới thiệu với hai ông bà:"Ðây là cháu Hữu Tài, họ Lương, vị hôn phu của cháu Thúy Tiên" Hai ông bà niềm nở mời mọi người vào sảnh đường ngồi uống trà, nói chuyện.
                    Lát sau, gia nhân bày tiệc. Sau bữa tiệc, ông lão nói với Vân bà:"Hôm nay tốt ngày, hiền muội nên cho hai cháu làm lễ thành hôn ngay!" Vân bà vâng dạ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Cữu phụ đã dạy thế thì con hãy đi tắm gội, trang điểm, rồi ra đây làm lễ thành hôn!" Thúy Tiên cau mày, quay nhìn Hữu Tài, nói:"Tôi biết anh là kẻ chẳng ra gì! Giờ đây, tôi vâng lời mẹ tôi mà làm lễ thành hôn với anh! Tuy nhiên, anh chớ nên tính chuyện ăn đời ở kiếp với tôi, kẻo sau này anh lại trách tôi là không nói trước!" Hữu Tài chẳng thèm để ý tới lời nói của Thúy Tiên, chỉ xua tay, đáp:"Ðược rồi! Ðược rồi!" Ông lão bèn sai gia nhân bày hương án giữa sảnh đường cho Thúy Tiên và Hữu Tài làm lễ giao bái.
                    Lễ xong, ông lão sai gia nhân đưa Vân bà đi nghỉ, rồi đưa vợ chồng Thúy Tiên vào chung phòng. Thấy Hữu Tài mặt mũi bẩn thỉu, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc, Thúy Tiên bắt Hữu Tài phải đi tắm rửa sạch sẽ rồi mới cho vào ngủ chung.
                    Sáng sau, Vân bà bảo Hữu Tài:"Con hãy lên xin phép cữu phụ, cữu mẫu cho về trước. Mẹ sẽ dắt em Thúy Tiên tới sau!" Hữu Tài bèn lên chào ông bà lão rồi xin phép ra về. Tới nhà, Hữu Tài quét dọn phòng khách cho sạch sẽ rồi ngồi chờ. Lát sau, quả nhiên Vân bà dắt Thúy Tiên tới. Vân bà đảo mắt nhìn quanh căn phòng một lượt rồi nói:"Nhà nghèo thế này thì lấy gì mà nuôi vợ? Thôi, để mẹ về sửa soạn cho ít đồ rồi sáng mai mẹ sẽ bảo tụi nhỏ đem sang đây cho!" Nói xong, Vân bà từ biệt.
                    Sáng sau, quả nhiên Hữu Tài thấy có một bọn tiểu đồng, tì nữ đem đồ đạc, quần áo, thức ăn sang xếp đầy phòng khách nhà mình. Một tì nữ tới nói với Thúy Tiên: "Lão phu nhân sai tiểu tì sang đây ở để hầu hạ tiểu thư!" Thúy Tiên gật đầu. Một tiểu đồng cầm một gói lớn tới trao cho Hữu Tài, nói:"Lão phu nhân sai tiểu nhân đem gói tiền này sang biếu hiền lang!" Hữu Tài mừng lắm, nhận gói, gửi lời cám ơn lão phu nhân rồi mời cả bọn ở lại ăn trưa. Chúng đều từ chối rồi xin phép ra về.
                    Ðược gói tiền của Vân bà cho, Hữu Tài quyết tâm bỏ nghề hàng xén, ở nhà ăn chơi. Hữu Tài bèn liên lạc với Ðắc Lợi ở Thái Nguyên, bảo gã rủ lũ bạn du đãng ngày trước sang Tế Nam, tới nhà mình rượu chè, cờ bạc, Ðắc Lợi bèn dẫn lũ chúng sang. Thúy Tiên lánh mặt, chẳng chịu ra tiếp. Hữu Tài bèn đàn đúm trở lại với lũ chúng.
                    Cờ bạc được đúng một năm thì Hữu Tài thua vừa hết gói tiền của Vân bà cho. Hữu Tài xin tiền vợ. Thúy Tiên lấy tiền ra cho. Hữu Tài lại đem cờ bạc rồi lại thua hết. Xin lần thứ nhì, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ ba, Thúy Tiên cũng cho. Xin lần thứ tư, Thúy Tiên nói:"Hết rồi!" Hữu Tài bèn nói:"Nếu hết rồi thì hãy dắt tôi về nhà lão mẫu để tôi xin!" Thúy Tiên lắc đầu từ chối. Vì thế, tuy đã làm rể hơn một năm mà Hữu Tài vẫn chưa biết nhà mẹ vợ mình ở chốn nào. Muốn có tiền để cờ bạc, Hữu Tài phải lấy cắp nữ trang của vợ đem đi bán. Thúy Tiên biết chuyện nên một hôm nói với chồng:"Anh cờ bạc đã thua hết gói tiền của mẹ tôi cho. Anh xin tôi ba lần, tôi đều lấy tiền ra cho. Anh xin tôi lần thứ tư, tôi chẳng còn tiền để cho anh vì tôi cũng hết rồi. Nay anh lại lấy cắp nữ trang của tôi đem đi bán để lấy tiền cờ bạc thì thực là quá lắm! Nếu bây giờ anh chịu tuyệt giao với lũ bạn của anh thì tôi sẽ xin với mẹ tôi cho anh thêm chút vốn mà làm ăn!" Hữu Tài chỉ ậm ừ, song vẫn chứng nào tật nấy. Thúy Tiên bèn cất giấu hết nữ trang, đề phòng chồng còn hơn đề phòng trộm cướp.
                    Một sáng, Hữu Tài còn đang ngủ, Ðắc Lợi đã dẫn lũ bạn tới gõ cửa. Thúy Tiên lờ đi như không nghe tiếng, song vì chúng cứ gõ mãi nên Thúy Tiên đành phải ra mở, bảo chúng vào ngồi chờ Hữu Tài ở phòng khách. Ðược nhìn thấy Thúy Tiên lần đầu, chúng đều sững sờ kinh ngạc vì nhan sắc khuynh thành của Thúy Tiên.
                    Lát sau, Hữu Tài ngủ dậy, ra tiếp bạn. Chúng xúm lại nói đùa:"Anh giàu quá mà cứ than là nghèo!" Hữu Tài hỏi:"Tôi giàu ở chỗ nào?" Ðắc Lợi đáp:"Hôm nay tụi tôi mới được gặp chị. Chị đẹp quá! Chắc chị là tiên chứ chẳng phải là phàm! Tuy nhiên, tụi tôi lại nghe nói anh chị chẳng được tương đắc. Vậy thì tại sao anh không đem bán chị đi, lấy tiền mà rượu chè, cờ bạc? Nếu đem bán chị cho nhà giàu thì cũng được năm trăm lạng, còn nếu đem bán chị cho kỹ viện thì có thể được tới ngàn lạng. Anh giàu ở chỗ đó chứ còn ở chỗ nào!" Hữu Tài chẳng đáp song trong bụng mừng thầm là đã được Ðắc Lợi gợi cho một ý kiến quá hay. Buổi tối, sau khi tin lũ bạn ra về, Hữu Tài vào phòng than với vợ:"Nàng à! Nhà mình nghèo quá, chẳng biết phải làm sao đây?" Thúy Tiên cứ lờ đi, chẳng đáp. Thấy thế, Hữu Tài tức tối, quay ra đá thúng đụng nia, gọi tì nữ lên la mắng vô lý, cố ý gây sự với vợ. Thúy Tiên vẫn cứ lờ đi, chẳng nói năng chi.
                    Sáng sau, Thúy Tiên sai tì nữ đi chợ mua rượu thịt về làm một bữa tiệc thịnh soạn cho hai vợ chồng. Giữa tiệc, Thúy Tiên nói:"Thấy anh cứ than nghèo, lo lắng suốt ngày đêm, tôi cũng muốn giúp anh, song tôi hết tiền rồi! Làm vợ mà chẳng giúp được chồng, tôi cũng hổ thẹn lắm. Suy đi nghĩ lại, tôi thấy nhà mình chẳng còn vật chi đáng giá, ngoại trừ con tì nữ. Vì thế, tôi muốn bàn với anh đem bán nó đi, lấy vốn mà làm ăn!" Hữu Tài lắc đầu, nói:"Bán nó đi thì được bao nhiêu?" Thúy Tiên im lặng.
                    Lát sau, đột nhiên Thúy Tiên nói:"Chắc anh cũng biết rằng khi anh cần tiền mà tôi có là tôi cho anh ngay, chẳng hề từ chối. Song bây giờ tôi cũng kiệt quệ rồi, chẳng còn tiền để cho anh nữa. Tôi có bổn phận phải chia sẻ nỗi lo âu với anh. Tôi nghĩ kỹ rồi! Bây giờ anh chẳng còn cách gì hay hơn là cách đem bán tôi cho nhà giàu. Làm như thế, anh vừa kiếm được nhiều tiền hơn là bán con tì nữ, mà lại vừa giữ được nó ở nhà để sai bảo!" Nghe thấy thế, Hữu Tài mừng lắm song vẫn giả vờ kinh ngạc, nói:"Việc gì mà đã đến nỗi phải làm như vậy?" Thúy Tiên nghiêm nét mặt, nói:"Tôi khuyên anh nên làm như vậy vì chỉ có cách đó mới cứu anh thoát khỏi cảnh túng quẫn mà thôi! Anh cũng chẳng cần phải để ý tới dư luận làm gì!" Trong bụng, Hữu Tài mừng lắm, song ngoài mặt, vẫn làm ra vẻ buồn bã, nói:"Cứ để thủng thẳng xem sao đã!" Tuy nói thế nhưng sáng sớm hôm sau, Hữu Tài đã tìm tới kỹ viện Mai Hoa, ngỏ ý muốn bán vợ. Mụ chủ kỹ viện đòi cho xem mặt. Hữu Tài liền dắt mụ về nhà, gọi Thúy Tiên ra tiếp. Thúy Tiên chỉ ra chào hỏi mụ vài câu rồi lại trở vào phòng. Thấy Thúy Tiên có nhan sắc khuynh thành, mụ mừng lắm, đòi mua ngay. Mụ hỏi:"Ðúng giá bao nhiêu?" Hữu Tài đáp:"Ngàn lạng!" Hai bên cò kè bớt một thêm hai rồi giờ lâu ngã giá, thỏa thuận ngoài tám trăm. Sợ Hữu Tài đổi ý, mụ đòi Hữu Tài phải ký ước thư ngay. Hữu Tài liền ký.
                    Tin khách về rồi, Hữu Tài vào phòng thuật chuyện cho vợ nghe. Thúy Tiên nói:"Thế là kể từ nay tình nghĩa đôi ta đã hết. Tuy nhiên, trước khi vào kỹ viện, tôi phải về thăm mẹ tôi một lần! Trước kia, mẹ tôi có giúp đỡ anh đủ thứ, nay anh đem bán tôi cho kỹ viện thì anh cũng nên theo tôi về mà nói với mẹ tôi một lời!" Hữu Tài nói:"Chỉ sợ lão mẫu ngăn cản, không cho tôi bán nàng thôi!" Thúy Tiên lắc đầu, nói:"Mẹ tôi chẳng ngăn cản anh đâu vì mẹ tôi vẫn biết là tôi chẳng muốn lấy anh mà!" Nghe vợ nói có lý, Hữu Tài bèn theo lời.
                    Sáng sau, hai vợ chồng dắt tì nữ về thăm Vân bà. Gần nửa đêm, về tới nhà. Qua ba lần cổng, một lần sân, vào tới sảnh đường, thấy nhà cửa đồ sộ, đèn nến sáng chưng, lầu gác nguy nga, kẻ hầu người hạ tấp nập, Hữu Tài kinh ngạc lắm. Trước kia, Hữu Tài có được nghe nói về chuyện giàu sang của Vân bà, song cũng chỉ biết lờ mờ thế thôi chứ chẳng ngờ Vân bà lại giàu sang tới mức ấy! Nay thấy nhà cửa bề thế quá, Hữu Tài lại đâm lo, chỉ sợ Vân bà ngăn cản, không cho mình bán Thúy Tiên!
                    Thúy Tiên bảo tì nữ xuống bếp thăm bè bạn, còn mình thì dắt Hữu Tài lên lầu gặp mẹ. Vân bà thấy con dắt rể về giữa đêm khuya thì sửng sốt, hỏi:"Có việc chi gấp mà nửa đêm lại dắt nhau về đây?" Thúy Tiên lộ vẻ oán hận, lấy ngón tay chỉ mặt Hữu Tài, nói:"Trước kia con đã nói với mẹ rằng gã này có tướng vô hạnh, bất nghĩa mà mẹ chẳng tin, cứ ép con phải lấy gã. Nay thì quả đúng như lời con đã nói! Gã vô hạnh, bất nghĩa quá lắm!" Vân bà hỏi:"Vô hạnh, bất nghĩa như thế nào?" Ðáp:"Gã đã cờ bạc thua hết cả tiền ở trong nhà rồi bây giờ gã lại bán con cho kỹ viện!" Ðáp xong, Thúy Tiên móc túi lấy ra hai đĩnh vàng, đặt lên bàn, nói:"Hai đĩnh vàng này là của mẹ cho con để gây dựng cơ đồ cho chồng, may mà chưa bị chồng cướp đoạt. Bây giờ thì còn chồng đâu nữa mà gây dựng cơ đồ? Vậy con xin hoàn lại mẹ!" Rồi quay qua Hữu Tài, mắng:"Ðồ chó má! Ngày trước anh bán hàng xén, làm ăn vất vả nên mặt mũi lem luốc, chân tay nhăn nhúm, ghét bám đầy người, mồ hôi nồng nặc. Từ khi lấy tôi, anh được mẹ tôi chu cấp tiền bạc, chỉ ở nhà thụ hưởng cơm áo nên da dẻ mới được nhẵn nhụi thế này! Ðược ăn không ngồi rồi, anh lại đàn đúm với lũ bạn cũ. Có mặt mẹ tôi đây, tôi có vu oan cho anh điều gì không?" Hữu Tài cúi đầu, nín thở, chẳng đáp được lời nào. Thúy Tiên mắng tiếp:"Tôi tự biết là mình chẳng có nhan sắc khuynh thành để lấy được một tấm chồng giàu sang. Vì thế khi mẹ tôi ép tôi lấy anh, tôi đành vâng lời để mẹ tôi mừng là tôi chẳng ế chồng. Tôi về làm vợ anh, có thiếu bổn phận gì không, có phụ bạc gì không, mà anh nỡ đem bán tôi cho kỹ viện? Mẹ tôi cho tôi hai đĩnh vàng để gây dựng cơ đồ cho anh thì tôi dư sức xây nhà cao cửa rộng, mua vườn tậu ruộng cho anh song tôi chẳng làm vì tôi thấy rõ cái chân tướng vô hạnh, bất nghĩa của anh. Anh chỉ có cái tướng đi ăn mày thôi. Tôi chẳng thể làm bạn bạc đầu với anh được!"
                    Bọn tì nữ nghe thấy tiểu thư to tiếng ở trên lầu thì rủ nhau chạy lên coi. Nghe tiểu thư kể tội Hữu Tài, chúng liền nổi giận, vây chặt lấy Hữu Tài mà mắng chửi thậm tệ, rồi quay qua nói với Thúy Tiên:"Tiểu thư nói làm chi cho mệt? Ðể tụi tiểu tì giết quách gã đi cho rồi!" Hữu Tài sợ quá, rập đầu xuống đất, van lạy:"Tôi biết tội đã nhiều, tôi hối hận lắm, xin tha cho tôi!" Thúy Tiên càng giận, mắng:"Bán vợ cho nhà giàu thì đã là cái giống đại ác rồi, còn bán vợ cho kỹ viện thì chẳng biết phải gọi là cái giống chi?" Nghe thấy thế, bọn tì nữ căm tức vô cùng, xúm lại xé rách hết quần áo, rồi cùng rút trâm cài đầu, đâm vào người Hữu Tài. Hữu Tài khóc thét lên, năn nỉ: "Xin các tiểu nương tha cho tôi!" Thúy Tiên bèn ngăn bọn tì nữ lại, nói:"Tha cho gã! Trừng trị như thế cũng đủ rồi! Ðể mặc gã ở đây, ta đi thôi!" Nói xong, bước tới cầm tay Vân bà, dắt xuống lầu. Bọn tì nữ cũng lục tục xuống theo.
                    Hữu Tài ngồi im trên lầu nghe ngóng. Lát sau, khi thấy lặng tiếng người, Hữu Tài mới nghĩ tới việc trốn về nhà. Thế nhưng, thấy đêm đã khuya, tinh thần mệt mỏi Hữu Tài lại nằm xuống ngủ. Khi thức giấc, mở mắt nhìn lên, chẳng thấy nóc nhà đâu mà chỉ thấy một bàu trời trăng lặn sao thưa, Hữu Tài kinh hãi quá, vội ngồi nhỏm dậy, đưa mắt nhìn quanh. Thấy ngôi nhà đồ sộ đã biến mất, mặt trời đỏ ối đang lấp ló sau vòm lá um tùm, còn mình thì đang ngồi cheo leo trên một tảng đá chênh vênh ở vách núi, giữa rừng cây rậm rạp, Hữu Tài kinh hoàng cực độ, chỉ sợ bị té xuống vực thẳm thì tan xác. Thấy mỏi lưng, Hữu Tài bất giác vặn mình cho đỡ mỏi thì đột nhiên tảng đá lở ra, rớt xuống vực, hất Hữu Tài vào không trung. Trong một thoáng, Hữu Tài nghĩ mình sắp chết nhưng rồi đột nhiên, Hữu Tài lại thấy bụng mình rơi trúng một cành cây, chân tay chới với. Mở mắt nhìn xuống dưới, thấy vực thẳm không đáy, Hữu Tài kinh hãi quá, vội nhắm mắt lại, gắng dùng chút hơi tàn để ôm quặp lấy cành cây, chẳng dám nhúc nhích. Thân thể sưng vù vì bị trâm đâm, Hữu Tài gào khóc kêu cứu song chỉ nghe thấy tiếng vang vọng của núi rừng. Kiệt sức, Hữu Tài lại nghĩ mình sắp chết.
                    Lát sau, khi mặt trời lên cao, có một tiều phu vào rừng đốn củi. Khi đi qua vách núi, thấy Hữu Tài nằm co quắp, bám vào cành cây bên bờ vực thẳm, tiều phu liền ròng dây xuống, bảo Hữu Tài bám vào rồi kéo lên. Thấy Hữu Tài đã kiệt sức, tiều phu liền bỏ buổi đốn củi, cõng về nhà săn sóc. Khi Hữu Tài tỉnh lại, tiều phu hỏi:"Họ tên chi?" Hữu Tài đáp:"Họ Lương, tên Hữu Tài" Hỏi:"Nhà cửa ở đâu?" Ðáp:"Ở thủ phủ Tế Nam" Hỏi:"Sao lại vào giữa rừng cây ở đây mà nằm như thế?" Hữu Tài bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, tiều phu cũng lấy làm lạ. Hữu Tài hỏi:"Ðây là đâu?" Tiều phu đáp:"Là phía tây dãy Thái Hành Sơn, cách ngọn Vương Sơn chừng bốn chục dặm!" Hữu Tài thấy lời nói của tiều phu phù hợp với lời nói của Vân bà. Hôm sau, thấy sức khoẻ đã phục hồi, Hữu Tài bèn cám ơn tiều phu rồi xin cáo biệt.
                    Tới nhà, Hữu Tài thấy cửa ngõ mở toang. Vào nhà, thấy phòng ốc trống rỗng, bao nhiêu đồ đạc, quần áo của Vân bà cấp cho khi trước đều đã biến mất, chỉ còn trơ lại có hai vật cũ của mình là chiếc võng rách với chiếc bàn gãy chân. Mệt quá, Hữu Tài lên võng ngủ. Lát sau, tỉnh giấc, thấy bụng đói cồn cào, Hữu Tài vào trạn mò cơm thì thấy chẳng còn một hạt. Hữu Tài bèn mò sang hàng xóm xin ăn, làm hàng xóm cũng phải ngạc nhiên. Lát sau, đúng hẹn, mụ chủ kỹ viện đem vàng và ước thư tới để mua Thúy Tiên. Hữu Tài liền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Mụ đành đem vàng ra về.
                    Hữu Tài định trở lại nghề bán hàng xén song không còn vốn. Mấy hôm sau, Hữu Tài mắc bệnh phù thũng, nhưng vì đã bị mang tiếng là kẻ vô hạnh nên chẳng ai giúp đỡ chút gì. Hết phương kế sinh nhai, Hữu Tài đành phải bán rẻ căn nhà, lấy con dao bếp giắt vào người rồi đem bọc tiền vào ở trong hang núi. Hàng ngày, Hữu Tài đem tiền ra chợ mua cơm. Tiêu mãi, hết tiền, lại vô nghệ nghiệp, Hữu Tài phải đi ăn xin. Có kẻ nói:"Còn con dao giắt trong người, sao đã phải đi ăn xin?" Hữu Tài hỏi:"Nói thế là nghĩa gì?" Kẻ ấy đáp:"Thì hãy bán dao đi, lấy tiền mà mua cơm!" Hữu Tài nói:"Ðâu có được! Ở trong hang, cần phải có dao để đề phòng lang sói!" Ít lâu sau, Hữu Tài lại bị bệnh phong cùi.
                    Một hôm, Hữu Tài từ trong núi ra chợ ăn xin. Dọc đường, tình cờ gặp Ðắc Lợi, Hữu Tài rủ ngồi xuống vệ đường hàn huyên. Trong khi trò chuyện, bất thần Hữu Tài rút dao giắt trong người, đâm chết Ðắc Lợi. Lính bắt giải lên huyện đường. Quan tể hỏi tại sao lại sát nhân? Hữu Tài bèn trình bày đầu đuôi câu chuyện. Quan nghe chuyện cũng thương tình, chẳng nỡ lên án tử hình mà cũng chẳng ra lệnh đánh đập, chỉ ra lệnh hạ ngục.
                    Thế nhưng, vì bị giam cầm khổ sở rồi lại bị mắc chứng bệnh nặng, chẳng đủ cơm ăn thuốc uống, nên mới bị tù có một tháng, Hữu Tài đã lăn ra chết ở trong ngục.


                    ST
                    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                    Comment


                    • #40
                      CHỬ SINH - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                      Sư môn phong nghĩa cảm bình sinh
                      Hiếu học lân tài lưỡng dụng tình
                      Tự thị tư văn đồng cốt nhục
                      Báo ân nguyên bất vấn u minh

                      Huyện Thuận Thiên, tỉnh Hà Bắc, có núi Nùng Sơn. Trên núi, có chùa Chánh Ðô. Trong huyện, có thương gia họ Trần, rất giàu có, mở một cửa tiệm lớn ở chợ huyện. Trần ông góa vợ, có một trai tên Quân, đậu cử nhân. Trần Quân thuật chuyện:
                      Trước kia, nhà sư trụ trì chùa Chánh Ðô mở lớp dạy học, thu học phí vào cuối tháng. Dân chúng trong vùng cho con lên theo học rất đông. Trần ông cũng cho con lên theo học. Trong đám học trò có một nho sinh vừa giỏi lại vừa chăm, được nhà sư cho cư ngụ ngay trong chùa. Trần Quân ưa thích nho sinh ấy lắm, muốn được kết bạn. Một hôm, Trần Quân tới gần làm quen, nói:"Ðệ họ Trần. Huynh họ chi?" Nho sinh đáp:"Ðệ họ Chử" Hỏi: "Phải chăng quê huynh cũng ở vùng này?" Ðáp:"Chẳng phải! Quê đệ ở huyện Ðông Sơn, tỉnh Triết Giang!" Vì hợp tính nhau, chẳng bao lâu, hai người trở thành bạn thân.
                      Cuối năm, học trò ở xa đều xin phép về quê ăn Tết, duy có Chử sinh là không xin về. Trần Quân ngạc nhiên, hỏi:"Sao huynh không xin phép về quê ăn Tết?" Chử sinh đáp:"Ðường thì xa mà nhà thì nghèo, đệ không có tiền về, phải ở lại đây đi làm để kiếm tiền trả học phí!" Hỏi:"Huynh có hay học khuya không?" Ðáp:"Có! Ðêm nào đệ cũng thức khuya để học cho khỏi uổng học phí vì kiếm tiền vất vả lắm! Thời gian đệ học trong hai ngày có thể nói là bằng thời gian các bạn đồng môn học trong ba ngày!" Trần Quân cảm phục lắm, nói:"Ðệ muốn về xin phép gia nghiêm cho lên đây ở chung với huynh để học, huynh có chịu không?" Chử sinh lắc đầu, can:"Không nên! Nhà sư chùa này văn chương dở lắm, chẳng đáng làm thày mình lâu đâu. Ở Triết Giang, vùng quê đệ, có vị túc nho, văn chương giỏi lắm, đáng làm thày mình. Tiên sinh sang vùng này kinh doanh song vì còn thiếu vốn nên tạm thời phải mở lớp dạy học ở cửa Phụ Thành, nhận học trò nội trú. Hết tháng này, đệ sẽ xin thôi học ở đây để sang đó xin theo học. Huynh cũng nên sang đó mà xin theo học!" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Lã tiên sinh!" Trần Quân bèn về xin cha cho mình tới nội trú ở nhà Lã tiên sinh. Trần ông chấp thuận.
                      Cuối tháng, hai người trang trải xong học phí cho nhà sư rồi rủ nhau tới nhà Lã tiên sinh, xin nội trú để theo học. Tiên sinh nhận lời, cho hai người ở chung một phòng. Hai người bèn dọn tới ở nhà thày, ban ngày cùng học một bàn, ban đêm cùng nằm một giường. Chử sinh học rất thông minh, lướt mắt đọc một lần là nhớ, lắng tai nghe một lượt là thông nên được thày rất nể trọng.
                      Tháng sau, một hôm Chử sinh xin thày cho mình về quê thăm nhà ít bữa. Trần Quân lấy làm lạ vì thấy trước kia, khi còn ở chùa, chẳng bao giờ Chử sinh xin về quê thăm nhà, mà bây giờ mới tới đây học được có một tháng đã xin về. Mười ngày sau, thấy Chử sinh chưa trở lại nhà thày, Trần Quân càng lấy làm lạ.
                      Hôm sau, Trần Quân có việc phải lên chùa Thiên Ninh. Tình cờ nhìn thấy Chử sinh đang ngồi làm diêm ở hành lang chùa, Trần Quân kinh ngạc, vội chạy tới hỏi: "Sao huynh lại nghỉ học?" Thấy bạn tới, Chử sinh tỏ vẻ ngượng ngùng, đứng dậy nắm tay bạn, nhìn thẳng vào mắt hồi lâu, rồi buồn bã đáp:"Ðệ nghèo lắm, cuối tháng chẳng có học phí nạp thày nên phải tới đây làm diêm để kiếm tiền nạp. Nạp xong, đệ mới xin theo học tiếp!" Trần Quân cảm khái, suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:"Huynh hãy trở lại nhà thày học đi! Ðệ sẽ nạp học phí cho!" Chử sinh lắc đầu, hỏi:"Huynh lấy tiền ở đâu ra mà nạp cho đệ?" Trần Quân đáp:"Ðệ đã có cách, xin huynh chớ hỏi!" Chử sinh đứng suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài, nói:"Nể lời huynh, đệ xin vâng!" Nói xong, thu dọn đồ nghề làm diêm, đem trả lại nhà chùa. Trên đường về nhà thày, Chử sinh dặn:"Xin huynh chớ tiết lộ chuyện đệ làm diêm với thày! Nếu thày có hỏi tại sao đệ về thăm nhà lâu thế thì huynh cứ nói giùm là đệ bận việc nhà!" Trần Quân gật đầu.
                      Hôm sau, Trần Quân về nhà, lấy trộm tiền của cha, đem tới nạp thày, nói là tiền của Chử sinh gửi nạp học phí. Thày tưởng thực nên nhận. Mấy hôm sau, Trần ông kiểm soát lại sổ sách thì thấy là mình bị mất tiền.
                      Tháng sau, Trần Quân về thăm nhà. Trần ông hỏi: "Mày có lấy trộm tiền của tao không?" Trần Quân thú thực:"Thưa có!" Hỏi:"Mày lấy để làm gì?" Ðáp:"Con lấy để giúp người bạn họ Chử nạp học phí!" Trần ông mắng: "Sao mày ngu thế?" rồi bắt Trần Quân phải xin nghỉ học.
                      Chử sinh biết chuyện, ngượng quá, cũng xin nghỉ học theo. Tiên sinh hỏi:"Sao lại xin nghỉ học?" Chử sinh đáp:"Con nghèo lắm, chẳng có học phí nạp thày nên Trần sinh phải lấy trộm tiền của thân phụ để nạp giùm con. Trần ông biết chuyện, bắt Trần sinh phải xin nghỉ học. Vì thế, con ngượng quá, cũng xin nghỉ theo!" Tiên sinh mắng:"Không có tiền, sao chẳng nói? Bây giờ cứ ở lại đây mà học, chẳng phải nạp tiền ăn, tiền ở, tiền học chi hết!" Chử sinh lặng im, chẳng đáp. Tiên sinh bèn trả lại học phí cho Chử sinh, sai đem hoàn lại Trần ông. Từ đó, tiên sinh coi Chử sinh như con ruột.
                      Trần Quân nhớ bạn, tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu. Chử sinh từ chối. Trần Quân cứ cố mời. Chử sinh vẫn từ chối. Trần Quân rơm rớm nước mắt, hỏi: "Huynh muốn tuyệt tình bạn hay sao?" Chử sinh thở dài, đáp:"Chẳng phải thế, song đi một lần thì thành lệ, mà thành lệ thì tốn tiền của huynh! Nếu huynh hứa rằng vài ba tháng mới tới rủ một lần thì đệ xin vâng!" Trần Quân gật đầu rồi mời đi. Chử sinh đành chiều bạn. Từ đó, cứ hai tháng một lần, Trần Quân lại tới lớp học mời Chử sinh đi uống rượu.
                      Hai năm sau, Trần ông mất. Trần Quân được thừa hưởng gia sản lớn của cha. Làm tang lễ cho cha xong, Trần Quân tới nhà tiên sinh xin theo học lại. Tiên sinh hỏi:"Có gia sản lớn, còn xin theo học làm chi?" Ðáp:"Xin theo học để biết thêm nghĩa lý" Tiên sinh bèn cho theo học. Tuy nhiên, vì bỏ học đã hai năm nên so với Chử sinh, chữ nghĩa văn chương của Trần Quân thua sút lắm.
                      Nửa năm sau, thân mẫu tiên sinh mất ở Triết Giang. Trưởng nam tiên sinh là Lã Huỳnh bèn lên đường tới Hà Bắc rước cha về quê làm tang lễ cho bà nội. Vì nghèo quá, Lã Huỳnh phải đi ăn xin ở dọc đường để tìm tới lớp học của cha. Ðược tin thân mẫu thày mất, học trò bảo nhau góp tiền phúng điếu và biếu thày lộ phí về quê. Trần Quân góp nhiều gấp đôi. Chử sinh không có tiền góp, cứ rơm rớm nước mắt, thở dài. Trần Quân an ủi:"Ðệ đã góp cả phần của huynh rồi!" Trước khi từ biệt đám học trò, tiên sinh gọi riêng Trần Quân ra một nơi mà bảo: "Học thày chẳng tày học bạn. Mời Chử sinh về nhà mà học!" Trần Quân đáp:"Xin vâng" Tiên sinh đi rồi, Trần Quân liền mời Chử sinh về nhà mình ở, dạy mình học. Chử sinh ưng thuận. Chẳng bao lâu, Trần Quân được nhận vào học ở trường huyện.
                      Năm sau, triều đình mở khoa thi hương ở Hà Bắc từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 8. Trần Quân rủ Chử sinh: "Ta cùng đi thi, huynh nghĩ thế nào?" Chử sinh đáp:"Ðệ chẳng cầu công danh thì đi thi để làm chi?" Trần Quân nói:"Văn chương của đệ kém lắm! Ði thi một mình, không người giúp đỡ, khó lòng mà đậu!" Chử sinh nói:"Nếu thế thì để đệ đi thi giùm cho!" Trần Quân nói:"Làm sao mà đi thi giùm được? Quan trường mà biết thì cả hai cùng bị ngồi tù!" Chử sinh nói:"Chẳng sao đâu! Ðệ đã có cách!" Trần Quân hỏi:"Cách nào?" Chử sinh lắc đầu, đáp:"Xin đừng hỏi! Cứ để từ từ rồi sẽ rõ!"
                      Sáng ngày 10 tháng 8, Chử sinh dậy sớm, ra khỏi nhà. Lát sau, trở về, dắt theo một khách lạ, giới thiệu với Trần Quân:"Ðây là Lưu ca, húy Thiên Nhược, biểu huynh của đệ, nhà cũng ở gần đây! Hôm nay, đệ đi thi giùm huynh nên đến nhờ Lưu ca tới đây dắt huynh về nhà Lưu ca chơi. Năm hôm nữa, khi trường thi đóng cửa, Lưu ca sẽ đưa huynh về. Huynh đừng có lo chi tới chuyện thi cử cả, cứ an tâm mà ở chơi với Lưu ca!" Trần Quân gật đầu rồi đi theo Thiên Nhược.
                      Hai người vừa bước ra khỏi cổng thì chợt Chử sinh tất tưởi chạy theo, gọi:"Trần huynh! Hãy chờ đệ dặn điều này!" Trần Quân vội đứng lại. Thiên Nhược cũng đứng lại theo. Chử sinh chạy tới nắm lấy ống tay áo của Trần Quân mà kéo lại, làm cho Trần Quân ngã chúi xuống đất. Thiên Nhược vội đỡ Trần Quân dậy rồi nói với Chử sinh: "Hiền đệ cứ về đi! Ðể ngu ca dặn lại Trần huynh cho!" Chử sinh bèn quay về. Trần Quân hỏi Thiên Nhược:"Chử huynh muốn dặn đệ điều chi?" Thiên Nhược chỉ mỉm cười, không đáp. Thấy thế, Trần Quân cũng thôi không hỏi nữa, tiếp tục đi theo Thiên Nhược.
                      Tới nhà Thiên Nhược, Trần Quân thấy trong nhà chỉ có một tiểu đồng chứ chẳng có đàn bà con gái. Thiên Nhược sai tiểu đồng đi dọn một phòng riêng cho Trần Quân rồi đi bày tiệc rượu. Sau khi yến ẩm, Thiên Nhược dắt Trần Quân đi ngoạn cảnh ở quanh vùng.
                      Hôm sau, trong lúc ngồi đàm đạo với Trần Quân, Thiên Nhược hỏi:"Ở gần đây có hoa viên nhà Lý hoàng thân đẹp nổi tiếng, huynh có biết không?" Trần Quân đáp:"Ðệ có nghe nói, song chưa tới bao giờ" Hỏi:"Có kỹ viện Mai Hoa cũng nổi tiếng lắm, huynh có biết không?" Ðáp:"Ðệ cũng nghe nói, song cũng chưa tới bao giờ! Tuy nhiên, đệ có quen với một kỹ nữ ở trong viện!" Hỏi:"Sao huynh chưa tới kỹ viện mà lại quen với kỹ nữ ở trong viện?" Ðáp:"Vì trước kia đệ được bạn bè giới thiệu rồi dẫn tới nhà riêng của kỹ nữ ấy để nghe ca hát và xướng họa" Hỏi:"Ai thế?" Ðáp:"Lý Át Vân!" Hỏi:"Huynh thấy Át Vân thế nào?" Ðáp:"Ðệ thấy Át Vân ca hát đã hay mà xướng họa lại giỏi, chẳng hổ danh là đệ nhất kỹ nữ ở vùng này!"
                      Bốn hôm sau, nhằm tết trung thu, Thiên Nhược nói:"Chiều nay, tết trung thu, nhà Lý hoàng thân sẽ mở cổng hoa viên cho du khách vào coi. Ta cũng nên bắt chước du khách, đem chút rượu vào, vừa uống vừa thưởng hoa cho đỡ buồn. Lúc nào chán, huynh cứ nói, đệ sẽ đưa về!" Trần Quân ưng thuận. Thiên Nhược bèn bảo tiểu đồng đem rượu với chén theo. Tới nơi, thấy du khách đông quá, Trần Quân còn đang tìm cách chen chân thì chợt thấy Thiên Nhược nắm tay mình kéo vào vườn. Tới hồ sen, Thiên Nhược dắt Trần Quân đến gốc liễu, rồi dắt xuống ngồi trên chiếc thuyền nhỏ neo ở cạnh bờ. Tiểu đồng theo sát hai người. Thiên Nhược bảo tiểu đồng lấy chén rót rượu. Thiên Nhược mời Trần Quân đối ẩm với mình. Rượu được vài tuần, bỗng Thiên Nhược nói với tiểu đồng:"Thày nghe nói kỹ viện Mai Hoa mới mộ được một kỹ nữ nổi danh. Con thử tới hỏi xem hiện thời cô ấy có mặt ở trong viện không? Nếu có, con cứ nói với viện chủ rằng thày muốn xin cho cô ấy được theo con về đây một lát!" Tiểu đồng vâng dạ rồi chạy đi ngay.
                      Lát sau, tiểu đồng trở về, dắt theo một kỹ nữ. Thấy kỹ nữ chính là Át Vân, Trần Quân vội đứng dậy chào. Át Vân có vẻ mặt rầu rầu, chỉ khẽ gật đầu chào lại. Thấy Át Vân chẳng vồn vã như xưa, Trần Quân lấy làm lạ. Thiên Nhược bèn bảo Át Vân ngồi xuống ghế, cạnh hai người, rồi nói:"Bữa nay, ta có vị khách quý đây tới thăm, nàng hãy hát cho nghe một khúc!" Át Vân khẽ đáp:"Xin vâng!" rồi cất tiếng hát khúc Vĩnh biệt, giọng hát thê lương. Trần Quân chẳng vui, nói:"Hôm nay là tết trung thu vui vẻ, chúng tôi tới đây là để thưởng hoa chứ có phải là để dự tang lễ đâu mà nàng lại hát khúc sầu muộn ấy? Tôi chắc Lưu huynh đây cũng cùng một ý như tôi!" Thiên Nhược chẳng nói chi, còn Át Vân thì gượng mỉm cười, nói:"Xin cố nhân thứ lỗi cho!" Rồi đứng dậy, cố lấy vẻ mặt vui tươi, cất tiếng hát khúc Diễm tình. Thấy thế, Trần Quân vui lắm, cũng đứng dậy, tới cầm tay Át Vân, nói:"Lần trước gặp nàng, được nghe nàng hát khúc Giặt khăn bên suối, tôi có thuộc lòng nhưng vì lâu rồi nên đã quên hết! Bây giờ nàng có thể hát lại khúc ấy cho nghe một lần nữa được chăng?" Át Vân gật đầu, sửa giọng rồi hát:
                      Tròng đầy nước mắt, đứng soi gương,
                      Thấp thoáng trong dòng, bóng mỹ nương.
                      Cúi xuống ngắm nhìn, đôi gót nhỏ,
                      Gượng cười, đôi má lúm đồng tiền.
                      Tay áo gạt ngang, lau nước mắt,
                      Sợ người trông thấy, lại bi thương
                      Trần Quân vui lắm, nhẩm thuộc lòng khúc ấy. Thiên Nhược bèn sai tiểu đồng lấy tiền ra trả cho Át Vân, rồi dắt trở về kỹ viện.
                      Át Vân đi rồi, Thiên Nhược quay qua nói với Trần Quân:"Bây giờ ta hãy lên bờ coi hoa!" rồi đứng dậy, bước lên bờ. Trần Quân vội bước theo. Vào một hành lang, thấy trên vách có đề rất nhiều thơ phú của du khách, ca tụng thắng cảnh trong hoa viên, Trần Quân bỗng nổi hứng, cũng rút bút trên giá, đề lên vách một bài thơ.
                      Khi mặt trời bắt đầu lặn, Thiên Nhược nói:"Chắc giờ này thì trường thi đã đóng cửa! Thôi, để đệ đưa huynh về!" rồi rảo bước lên đường. Trần Quân cũng vội rảo bước đi theo. Lát sau, tới cổng nhà Trần Quân, Thiên Nhược nói:"Thôi, huynh vào nhà đi, đệ về đây!" rồi quay người bước đi. Trần Quân nhìn theo, chớp mắt đã thấy Thiên Nhược đi xa tắp, trông chỉ còn nhỏ bằng ngón tay.
                      Trần Quân đóng cổng, vào nhà thì thấy nhà tối om, chẳng một bóng người. Toan lên tiếng gọi gia nhân thắp đèn thì chợt thấy Chử sinh lù lù từ ngoài sân bước vào phòng khách. Dụi mắt nhìn thì thấy Chử sinh đã biến thành khách lạ. Còn đang kinh hãi, đột nhiên Trần Quân thấy khách lạ bước tới gần mình, ngã lăn xuống đất. Rồi có tiếng gia nhân gọi nhau ơi ới:"Thắp đèn đem lên coi! Công tử nhà ta đi thi về rồi! Chắc là công tử nghĩ bài thi mệt quá nên bây giờ bị ngã, đang nằm hôn mê bất tỉnh trên phòng khách kia kìa!"
                      Gia nhân vội thắp đèn đem lên, xúm nhau lại khiêng khách lạ lên giường. Trần Quân dụi mắt nhìn thì thấy mình đang nằm trên giường, chung quanh toàn là gia nhân đứng cầm đèn. Lúc đó Trần Quân mới vỡ lẽ rằng khách lạ chính là mình chứ chẳng phải là ai khác.
                      Trần Quân vùng dậy nhìn quanh. Thấy Chử sinh ngồi ở mép giường, Trần Quân vội đuổi hết gia nhân xuống nhà dưới để mình nói chuyện với Chử sinh. Chử sinh lên iếng:"Trước hết, xin huynh hãy bình tĩnh mà nghe đệ nói, chớ có kinh hãi! Thú thực với huynh, đệ là ma chứ chẳng phải là người! Ðáng lẽ đệ phải đi đầu thai từ lâu rồi, song vì cảm cái tình bạn quý báu của huynh nên đệ đã xin với Diêm Vương cho hoãn ít bữa, để ở lại đi thi giùm huynh. Hôm nọ đệ kéo cho huynh ngã chúi ở ngoài cổng là cốt để đẩy hồn huynh ra khỏi xác, nhờ Lưu ca dắt xuống âm phủ chơi dăm ngày, còn đệ thì nhập vào xác của huynh mà đi thi giùm. Bây giờ, việc thi giùm đã xong, đệ xin trả lại xác cho huynh!" Trần Quân vội hỏi: "Thế huynh đi thi giùm đệ, làm bài có được không?" Chử sinh đáp:"Chắc là được!" Nói:"Nếu thế thì xin huynh ở lại thêm ít lâu để đi thi hội giùm đệ!" Chử sinh lắc đầu, đáp: "Chẳng được đâu!" Hỏi:"Sao vậy?" Ðáp:"Vì kiếp trước huynh không tu nhân tích đức nên kiếp này phúc phận mỏng lắm, chẳng sao đậu tiến sĩ được! Vả lại cũng tới ngày đệ phải đi đầu thai rồi!" Hỏi:"Huynh phải đi đầu thai làm con ai?" Ðáp:"Ðệ cũng chưa biết, song đệ muốn được đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang vì thày đã lấy tình cha con mà đối xử với đệ!" Hỏi:"Muốn đi đầu thai làm con thày thì phải làm thế nào?" Ðáp:"Phải nhờ người xin với Diêm Vương!" Hỏi:"Huynh đã nhờ ai chưa?" Ðáp:"Ðã! Ðệ đã nhờ Lưu ca vì Lưu ca hiện đang làm quan lớn dưới âm phủ, quyền thế lắm!" Hỏi:"Ðã có kết quả gì chưa?" Ðáp:"Chưa! Cũng chẳng biết là có được hay không!" Hỏi:"Thế nhưng hôm nay thì huynh vẫn còn ở lại đây với đệ chứ?" Ðáp:"Không đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay! Tuy nhiên, tối mai đệ sẽ trở lại đây lần chót để báo tin cho huynh biết về kết quả thi cử!" Nói xong, Chử sinh xăm xăm bước ra khỏi cửa. Trần Quân thấy đói, kêu gia nhân bưng cơm lên cho ăn, rồi đi ngủ.
                      Sáng sau, Trần Quân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, tìm tới hoa viên nhà Lý hoàng thân, xin vào thưởng hoa. Ðược người canh cổng cho vào, Trần Quân tới thẳng hành lang để xem có bài thơ của mình đề trên vách hay không thì thấy có, song nét mực đã phai, tựa hồ như bị ai lấy nước kỳ cọ tẩy xóa vậy. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng hôm qua Thiên Nhược đã dắt hồn mình tới đây.
                      Dời hoa viên, Trần Quân tìm tới kỹ viện Mai Hoa, xin được gặp Át Vân. Mụ chủ cho biết là Át Vân đã chết được ba ngày. Lúc đó, Trần Quân mới vỡ lẽ rằng kỹ nữ mà hôm qua Thiên Nhược sai tiểu đồng đi mời tới hoa viên chính là hồn ma của Át Vân. Trên đường về, Trần Quân cứ suy nghĩ mãi về các sự việc kỳ lạ này.
                      Tối ấy, quả nhiên Trần Quân thấy Chử sinh bước vào nhà, nói:"Việc đệ thi giùm huynh đã có kết quả. Huynh đã đậu thủ khoa! Còn việc đệ nhờ Lưu ca giúp cũng đã có kết quả. Diêm Vương đã cho đệ đi đầu thai làm con thày Lã ở Triết Giang!" Rồi tiếp:"Huynh làm ơn lấy bút son ra viết giùm hai chữ Chử đỏ vào hai bàn tay cho đệ!" Trần Quân lấy bút ra viết rồi nói:"Ðể đệ bảo gia nhân bày tiệc rượu cho chúng ta yến ẩm đàm đạo" Chử sinh gạt đi, nói:"Không được đâu! Bây giờ đệ phải đi ngay, chẳng có thì giờ ở lại! Nếu huynh còn nhớ tới tình bạn thì sau khi đi xem bảng tân khoa, hãy tới nhà thày Lã ở Triết Giang mà gặp đệ. Thôi, đệ phải đi đây!" Trần Quân cảm động, rơm rớm nước mắt, tiễn Chử sinh ra cổng. Tới cổng, Trần Quân thấy một người đang đứng lảng vảng ở bên ngoài, lưng đeo túi lớn. Chử sinh vừa bước ra khỏi cổng thì liền bị người ấy xòe bàn tay, ấn vào đỉnh đầu, làm cho thân hình xẹp xuống. Khi Chử sinh chỉ còn bằng ngón tay, người ấy cúi xuống nhặt bỏ vào túi đeo trên lưng, buộc kỹ miệng túi, rồi cất bước đi.
                      Ðầu tháng 9, Trần Quân đi xem bảng thì quả nhiên thấy mình đậu thủ khoa. Trần Quân mừng lắm, trong lòng cứ thầm cám ơn Chử sinh.
                      Tuần sau, Trần Quân sắm sửa hành trang, tiền bạc, quà cáp, đem đi Triết Giang. Tới nơi, hỏi thăm được nhà thày Lã, bèn tìm tới. Thày trò gặp nhau, hàn huyên mọi nỗi. Trần Quân hỏi:"Thày có khỏe không?" Tiên sinh đáp:"Khỏe" Hỏi:"Cô có khỏe không?" Ðáp:"Khỏe! Hôm qua cô vừa sanh em trai. Cô nghỉ sanh đã hơn mười năm, bỗng năm nay lại hoài thai!" Hỏi:"Em bé có khỏe không?" Ðáp:"Khỏe, duy có điều là hai bàn tay cứ nắm chặt, gia nhân lực lưỡng mở cũng chẳng ra!" Nói:"Thày để con vào mở hai nắm tay cho em bé!" Hỏi:"Anh có bùa phép gì?" Ðáp:"Con đâu có bùa phép gì song con nghĩ là con mở được vì em bé với con là chỗ bạn thân. Trong hai bàn tay của em bé, thế nào cũng có hai chữ Chử đỏ!" Tiên sinh lắc đầu chẳng tin song vẫn dắt Trần quân vào thăm đứa bé. Cả nhà cùng theo vào.
                      Vừa nhìn thấy Trần Quân, đứa bé liền xoè hai bàn tay, duỗi thẳng mười ngón. Cả nhà cùng lấy làm lạ, xúm lại coi. Thấy trong hai bàn tay đứa bé có hai chữ Chử đỏ, cả nhà cùng kinh hãi, còn Trần Quân thì nhận ra đúng là bút tích của mình. Tiên sinh hỏi:"Sao anh lại biết rõ thế?" Trần Quân bèn thuật lại cho mọi người nghe chuyện Chử sinh thú thực rằng mình là ma cũng như chuyện Chử sinh đi thi giùm. Ai cũng cho là chuyện kỳ lạ. Tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Lã Chử. Trần Quân bèn đem tiền bạc quà cáp ra tạ thày về việc thày đã dạy dỗ mình. Hôm sau, Trần Quân xin cáo biệt thày để về quê, dọn nhà lên kinh đô cư ngụ, làm ăn, buôn bán.
                      Mười ba năm sau.
                      Ðầu mùa thu, nhân chuyến lên kinh đô dự khoa thi hội, tiên sinh đem theo cả gia đình đến ở nhờ nhà Trần Quân. Khoa ấy, tiên sinh thi đậu tiến sĩ, rồi thuê nhà cư ngụ luôn ở kinh đô.
                      Năm ấy, Lã Chử đã mười ba tuổi, học hành thông minh lắm. Cuối năm, được nhận vào học ở quốc tử giám.


                      ST
                      Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                      Comment


                      • #41
                        TẾ LIỄU - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                        Thái tức Cao lang thọ bất cao
                        Khổ đàn tâm lực vị nhi tào
                        Ân uy tịnh dụng vô kỳ thị
                        Phú quý vô vong mẫu thị lao

                        Huyện Bình Diêu, tỉnh Sơn Tây, có thày đồ họ Triệu, tên Thành Long, có một gái, tên Thường Nga. Vì Thường Nga có eo thon nhỏ, dễ thương, nên dân làng thường gọi đùa bằng lộng danh Tế Liễu (Liễu Nhỏ).
                        Tế Liễu thực thà chất phác, nói chẳng dư lời, đặc biệt là chẳng nói xấu ai bao giờ. Vì tư chất thông minh lại được cha chỉ dạy nên Tế Liễu rất giỏi văn chương. Tế Liễu ưa đọc sách tướng số, thích xem tướng cho người.
                        Năm mười ba tuổi, có đám tới hỏi, xin cưới. Triệu bà hỏi ý, Tế Liễu đòi xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng. Trong sáu năm liền, đám nào tới hỏi, cũng xin xem mặt, rồi chê xấu tướng, chẳng ưng đám nào. Triệu bà giận lắm, nói:"Ai tới hỏi, cũng chê xấu tướng thì định ở vậy tới già hay sao?" Tế Liễu đáp:"Muốn lấy chí người thắng số trời, song số trời mạnh hơn, chẳng sao thắng nổi. Những đám đã tới hỏi đều thấy chẳng vừa ý. Thôi! Từ nay xin để tùy ý cha mẹ!"
                        Trong huyện, có nho sinh họ Cao, tên Trường Lộc, con nhà dòng dõi, nổi tiếng danh sĩ. Năm mười tám tuổi, Trường Lộc cưới vợ. Năm sau, vợ sanh con trai, đặt tên Trường Phúc. Bốn năm sau, vợ bị bạo bệnh rồi mất. Năm ấy, Trường Lộc hết tang vợ, nhờ bà mối tới hỏi Tế Liễu cho mình làm vợ kế.
                        Bà mối tới nhà họ Triệu, nói chuyện. Triệu bà gọi Tế Liễu ra, hỏi mát:"Có đám nhà họ Cao tới hỏi, có ưng không hay lại cần phải xem tướng trước đã?" Tế Liễu đáp: "Ðã xin thưa là để tùy ý cha mẹ!" Ông bà Triệu bèn nhận lời gả, rồi tháng sau, cho cưới.
                        Cưới xong, hai vợ chồng rất tương đắc.
                        Năm ấy, Trường Phúc lên năm. Vì mẹ đẻ đã mất nên quấn quýt mẹ kế, đi đâu cũng đòi đi theo. Không cho đi thì khóc thất thanh, chẳng chịu nín. Tế Liễu trông nom, nuôi nấng rất chu đáo.
                        Năm sau, Tế Liễu sanh trai, tự đặt tên con là Trường Hỗ. Chồng hỏi:"Trường Hỗ có nghĩa gì?" Tế Liễu đáp:"Chẳng có nghĩa gì cả, chợt nghĩ ra thì đặt thế thôi!" Hỏi:"Mai sau, mong gì ở con?" Ðáp:"Chỉ mong con ở gần mình lúc tuổi già" Chồng cười.

                        Vì là nho sinh nên tuy có chút ruộng đất của cha mẹ để lại song Trường Lộc chỉ biết giữ sổ chi thu, còn canh tác thì phải thuê người. Vì chi tiêu bừa bãi nên bị thiếu hụt luôn, năm nào cũng nạp thuế trễ cho huyện.
                        Từ ngày về nhà chồng, Tế Liễu chỉ giở sổ chi thu ra coi có một lần. Một hôm, Trường Lộc để sổ lẫn trong đống sách rồi quên đi. Lúc cần sổ để trả công thợ, tìm mãi chẳng thấy. Ðang lúng túng chẳng biết phải làm thế nào thì Tế Liễu tới đọc vanh vách từng khoản chi thu trong sổ cho nghe. Ai hiện diện cũng phải kinh ngạc. Tế Liễu bèn nói với chồng:"Xin để cho thiếp trông nom công việc cầy cấy, giữ sổ chi thu trong một năm, xem có làm nổi không?" Trường Lộc cười rồi thuận cho.
                        Nửa năm sau, thấy vợ trông nom công việc còn giỏi hơn mình, Trường Lộc phục lắm.
                        Một hôm, giữa mùa thuế, Trường Lộc sang hàng xóm uống rượu. Ở nhà, lính huyện tới đòi thuế, đập cổng ầm ầm. Tế Liễu sai con ở ra khất, nói hôm sau sẽ xin đem thuế lên huyện nạp. Lính chẳng chịu đi, cứ đứng ở cổng quát tháo ầm ĩ. Tế Liễu phải sai tiểu đồng chạy sang hàng xóm mời chồng về. Trường Lộc về, khất với lính thì lính chịu đi. Trường Lộc cười, nói:"Chắc bây giờ nàng mới biết đàn bà thông minh cũng chẳng bằng đàn ông ngu dốt phải không?" Tế Liễu bật khóc. Trường Lộc sợ quá, vội an ủi vợ. Tế Liễu nín, song vẫn buồn. Trường Lộc nói:"Ta thương nàng lắm! Ðàn bà mà phải trông nom cả công việc cầy cấy lẫn giữ sổ sách chi thu thì vất vả quá. Thôi để ta trông nom cho!" Tế Liễu chẳng nghe, đáp:"Xin cứ để cho thiếp trông nom thêm một năm nữa xem sao!" Trường Lộc cười, nói:"Tùy ý nàng!"
                        Tế Liễu thức khuya, dậy sớm, làm lụng chăm chỉ, một mình quán xuyến mọi gia vụ, chẳng để chồng phải nhúng tay. Vì thế, Trường Lộc thầm cám ơn vợ.
                        Năm sau, Tế Liễu dành riêng tiền thuế một nơi rồi tới ngày đáo hạn, bảo chồng đem lên huyện nạp. Vì thế, nhà chẳng còn bị lính tới đòi thuế nữa. Trường Lộc càng phục vợ.
                        Tế Liễu dự trù mọi món chi thu cho gia đình đâu vào đấy nên gia đình mỗi ngày một đỡ túng thiếu. Chồng mừng lắm, chỉ việc ăn chơi, ngâm vịnh.
                        Trường Lộc thường cùng vợ bàn chuyện văn chương, rất tương đắc. Một hôm, Trường Lộc đùa vợ, ra câu đối:"Liễu Nhỏ, sao nhỏ thế! Mày nhỏ, eo nhỏ, gót sen nhỏ, lại mừng lo toan thậm nhỏ" Tế Liễu ứng khẩu, đối: "Chàng Cao, quả là cao! Phẩm cao, chí cao, chữ nghĩa cao, những mong tuổi thọ tột cao"
                        Một hôm, Tế Liễu đi qua tiệm bán quan tài trong làng. Thấy trong tiệm có một cỗ quan tài rất đẹp, Tế Liễu vào hỏi giá thì chủ tiệm nói giá quá cao. Thấy mình chẳng đủ tiền mua, Tế Liễu bèn về bàn với chồng cho mình đi vay mượn để mua. Trường Lộc can, nói:"Vợ chồng mình còn trẻ, đâu đã cần phải dùng tới quan tài?" Tế Liễu nói:"Xin cứ để cho thiếp được tự quyền định liệu!" Trường Lộc liền ưng thuận. Tế Liễu bèn đi vay mượn để mua, rồi thuê người khiêng về, cất kỹ vào kho.
                        Năm sau, phú ông họ Tiền trong làng qua đời. Gia nhân nhà phú ông nghe nói Tế Liễu có mua được một cỗ quan tài rất đẹp, bèn tới gặp Trường Lộc, xin mua lại với giá gấp đôi. Trường Lộc thấy lãi quá, bèn vào nhà trong, nói với vợ:"Mua một mà bán được hai thì lãi quá rồi! Bán đi để lấy tiền mà chi tiêu! Lúc nào gặp dịp, sẽ mua cỗ khác!" Tế Liễu đáp:"Thiếp chẳng muốn bán!" Trường Lộc hỏi:"Lãi nhiều như thế, sao chẳng chịu bán?" Tế Liễu lặng im, không đáp. Trường Lộc hỏi:"Sao không trả lời?" Tế Liễu chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Lộc lấy làm lạ song vì không muốn làm buồn lòng vợ nên ra phòng khách, nói rằng vợ mình chẳng muốn bán. Gia nhân nhà phú ông đành ra về.
                        Năm sau. Nhân lễ sinh nhật thứ 25 của chồng, Tế Liễu nói:"Năm nay vận hạn chàng xấu lắm, chỉ nên ở nhà, chẳng nên đi xa" Trường Lộc cười, nói:"Vận hạn xấu thì ở nhà cũng đâu có tốt ra được?" Tế Liễu lại rưng rưng nước mắt. Trường Lộc vội an ủi vợ, song Tế Liễu vẫn chẳng vui. Ngày nào Trường Lộc cũng cưỡi ngựa tới nhà bạn bè, yến ẩm, ngâm vịnh thơ phú. Bữa nào thấy chồng chậm về, Tế Liễu cũng sai tiểu đồng đi tìm ở khắp mọi nhà quen. Bạn bè thấy thế, thường đem chuyện ấy ra chế giễu Trường Lộc để cười đùa với nhau.
                        Ba tháng sau, một hôm Trường Lộc cưỡi ngựa tới nhà bạn dự tiệc. Ðang uống rượu, bỗng thấy trong người khó chịu, bèn xin phép ra về. Dọc đường, bị xây xẩm mặt mày rồi ngã từ trên mình ngựa xuống đất mà chết. Người làng tới báo tin. Tế Liễu òa lên khóc rồi thuê người theo mình đi khiêng xác chồng về khâm liệm.
                        Sáng sau, người làng tới phúng điếu thì thấy xác Trường Lộc đã được đặt nằm trong cỗ quan tài đẹp. Lúc đó, họ mới phục tài tiên tri của Tế Liễu.
                        Chồng chết, một mình Tế Liễu vừa phải trông nom công việc làm ăn, vừa phải dạy dỗ con cái.
                        Ba năm sau, Trường Phúc lên 10. Ðầu mùa thu, Tế Liễu cho đi học. Vì cha chết, Trường Phúc chẳng sợ mẹ kế nên thường trốn học để đi theo trẻ chăn trâu. Tế Liễu la mắng thế nào, Trường Phúc cũng chẳng nghe. Dùng roi vọt, vẫn chứng nào tật nấy. Tế Liễu bèn đổi cách dạy con, gọi lên, ôn tồn nói:"Không muốn đi học nữa thì thôi, chẳng ai ép! Tuy nhiên, nhà nghèo, chẳng thể ăn không ngồi rồi được, phải theo gia nhân đi làm. Nếu chẳng nghe, bị đánh đòn, đừng có oán!" Nói xong, bắt cởi quần áo lành, mặc quần áo rách, đi chăn heo. Chăn heo về, bắt rửa nồi, nấu cháo, ngồi ăn với gia nhân.
                        Ba hôm sau, Trường Phúc thấy mình khổ cực quá, bèn lên gặp mẹ, quỳ xuống đất, thưa:"Con xin đi học lại!" Tế Liễu quay mặt đi, không đáp. Chẳng biết làm thế nào, Trường Phúc đành sụt sùi, quay xuống bếp, tiếp tục nấu cháo, chăn heo. Hết thu sang đông, thân không áo ấm, chân không giày lành, mưa dầm ướt át, co đầu rụt cổ, trông tựa ăn mày. Người làng trông thấy, ai cũng thương con, trách mẹ. Ðàn ông trong làng, ai có vợ kế cũng đem chuyện Tế Liễu ra để làm gương răn vợ. Phong thanh nghe thấy lời người làng chê trách, Tế Liễu cứ bỏ mặc ngoài tai, giả vờ như chẳng biết.
                        Một hôm, Trường Phúc dắt đàn heo đi chăn, thấy mình khổ cực quá, bèn bỏ mặc đàn heo, trốn đi mất tích. Tế Liễu nghe tin, cũng cứ lờ đi, chẳng hỏi han gì.
                        Ba tháng sau, người làng thấy Trường Phúc rách rưới, thân hình tiều tụy, ốm nhom ốm nhách, ăn mày dọc đường, mon men về nhà. Tới cổng, Trường Phúc chẳng dám vào nhà mà sang nhờ Thái bà ở hàng xóm phía đông sang xin giùm mẹ mình cho mình về. Thái bà thương hại, sang xin giùm. Tế Liễu nói:"Nhờ bà về bảo nó, liệu sức có chịu nổi trăm roi thì hãy xin về! Bằng không, hãy tìm nẻo khác mà đi!" Thái bà về lập lại. Trường Phúc nghe xong, vội chạy vụt về nhà, vào gặp mẹ, òa lên khóc, thưa:"Xin chịu trăm roi!" Tế Liễu hỏi:"Ðã hối hận chưa?" Trường Phúc đáp:"Ðã hối hận rồi!" Nói:"Ðã hối hận rồi thì còn đánh làm chi? Bây giờ, hãy xuống bếp nấu cháo, rồi đi chăn heo! Lần này mà còn trốn nữa thì sẽ cấm cửa, chẳng cho về!" Trường Phúc òa lên khóc, thưa:"Xin đánh trăm roi rồi cho đi học lại!" Tế Liễu nghiêm nét mặt, nói: "Không được!" Trường Phúc lại òa lên khóc, chạy sang nhờ Thái bà. Thái bà thương hại, lại dắt về xin giùm. Tế Liễu nói:"Cho nó đi học, thế nào rồi nó cũng lại trốn đi chơi!" Thái bà nói:"Chắc nó chẳng dám thế nữa đâu!" Tế Liễu hỏi:"Sao bà biết?" Thái bà đáp:"Tôi xin bảo đảm" Tế Liễu nói:"Nể lời bà, tôi cho nó về đi học lại, nhưng trước hết nó phải quỳ xuống đất, lạy tạ bà đi đã!" Trường Phúc vội quỳ ngay xuống đất, lạy tạ Thái bà. Thái bà phải đứng im nhận lạy, chẳng dám né tránh vì sợ Tế Liễu không cho con đi học lại. Thái bà cáo biệt. Tế Liễu bắt Trường Phúc đi tắm gội sạch sẽ, cho mặc quần áo mới rồi cho ăn một bữa ngon.
                        Hôm sau, Tế Liễu dắt cả hai con cùng tới trường xin học. Trường Phúc vốn thông minh, nay lại đổi hẳn tính nết, học hành chăm chỉ, nên văn hay chữ tốt. Trường Hỗ thì ngu si, lười biếng, học nửa năm mà chưa viết nổi tên mình.
                        Ba năm sau, thi nhập học trường huyện, Trường Phúc đậu, Trường Hỗ hỏng. Tế Liễu cho Trường Phúc tiền lên huyện trọ học. Quan trung thừa họ Dương ở huyện thấy Trường Phúc văn hay chữ tốt, liền xuất quỹ, phát cho chút học bổng. Vì thế, Tế Liễu cũng đỡ tốn.
                        Thấy Trường Hỗ dốt nát, Tế Liễu gọi lên, nói: "Học chẳng được thì theo đuổi làm chi? Vừa tốn tiền vừa phí thời giờ, vô ích. Hãy bỏ học, quay về mà làm ruộng" Vốn thích được nhàn rỗi, thoạt nghe nói được bỏ học, Trường Hỗ mừng lắm song khi nghe nói phải làm ruộng thì lại sợ nên đáp:"Bắt bỏ học thì xin vâng nhưng xin đừng bắt đi làm!" Tế Liễu giận lắm, mắng:"Học chẳng được mà lại chẳng chịu đi làm thì toan sống bám vào người khác hay sao?" Trường Hỗ đáp:"Chừng nào không sống bám được thì hãy hay!" Tế Liễu giận quá, lấy roi đánh. Trường Hỗ uất ức song cũng chẳng làm chi được.
                        Sáng sau, Tế Liễu đánh thức Trường Hỗ dậy sớm, bắt đốc thúc gia nhân ra đồng làm ruộng. Chỉ cho mặc quần áo thường, ăn thức ăn thường, còn bao nhiêu quần áo đẹp, thức ăn ngon đều để dành để gửi lên huyện cho Trường Phúc. Nghĩ mẹ bất công, Trường Hỗ bất bình song chẳng dám nói ra.
                        Sau mùa gặt, Tế Liễu gọi Trường Hỗ lên, bảo: "Nông vụ đã xong, chẳng thể ăn không ngồi rồi được! Phải đem chút vốn mà tập đi buôn!" Vốn ham mê cờ bạc, được mẹ cho đi buôn, Trường Hỗ mừng lắm. Tế Liễu bèn đưa cho mười lạng vàng, bảo:"Hãy lên tỉnh buôn vải, đem về đây mà bán!" Trường Hỗ lên tỉnh, đem vàng vào sòng đánh bạc. Thua hết, sợ quá, về qua chỗ anh, rủ cùng về thăm mẹ. Trường Phúc liền theo em về. Tới nhà, Tế Liễu hỏi:"Vải đâu?" Trường Hỗ đáp:"Dọc đường, bị giặc cướp hết rồi!" Tế Liễu hỏi:"Chứ không phải là đi đánh bạc, bị thua hết rồi hay sao?" Trường Hỗ sợ quá, chẳng hiểu tại sao mẹ mình lại biết, song vẫn chối:"Bị cướp chứ đâu có đánh bạc!" Tế Liễu hỏi:"Thế không nhìn thấy Trương Bảo trong sòng bạc hay sao?" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là con bạc chuyên nghiệp Trương Bảo, người cùng làng, nhìn thấy mình trong sòng bạc nên về mách với mẹ mình. Trương Hỗ đành thú tội:"Xin lỗi mẹ, con trót dại!" Tế Liễu lấy roi quất túi bụi. Trường Phúc bất nhẫn, quỳ xuống đất xin chịu đòn thay em. Tế Liễu quẳng roi đi. Từ đó, cứ mỗi lần Trường Hỗ đi đâu Tế Liễu cũng khám xét xem có ăn cắp tiền nhà để đem đi đánh bạc hay không. Vì thế, cũng đỡ.
                        Nghe nói huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, có danh ca họ Lý, đẹp nổi tiếng trong vùng, Trường Hỗ vẫn ước ao được gặp. Cuối năm ấy, nhân dịp đám khách buôn trong làng rủ nhau đi Lạc Dương buôn hàng Tết, Trường Hỗ xin mẹ cho mình theo đám khách đi buôn. Tế Liễu chẳng suy nghĩ, lấy ngay ba mươi lạng vàng vụn và một đĩnh vàng khối đưa cho, nói:"Mới tập đi buôn, chẳng mong kiếm được nhiều lời. Ba mươi lạng vàng vụn này cũng đủ làm vốn. Còn đĩnh vàng khối này là của ông nội mày để lại. Cho để phòng hờ khi bị quẫn bách chứ chẳng phải là cho để tiêu bậy!" Trường Hỗ vâng dạ rối rít, rồi vội cầm vàng, theo đám khách lên đường.
                        Trường Hỗ vừa đi, Tế Liễu liền lên huyện thành Bình Diêu, tới nhà trọ, nói với Trường Phúc:"Mười ba hôm nữa, mẹ muốn con về làng để mẹ nhờ một việc! Nhớ xin phép nhà trường cho nghỉ học mười ngày, nghe không?" Trường Phúc hỏi:"Thưa, mẹ muốn sai con làm việc gì?" Tế Liễu im lặng chẳng đáp, nét mặt rầu rầu. Trường Phúc chẳng dám hỏi nữa. Tế Liễu ra về.
                        Ba ngày sau, đám khách buôn tới huyện Lạc Dương. Trường Hỗ nói với đám khách:"Tôi có chút việc, xin được đi riêng!" Ðám khách ưng thuận. Trường Hỗ bèn đi riêng, tới thẳng nhà Lý cơ xin ở. Lý cơ đòi tiền trước. Trường Hỗ vội lấy ba mươi lạng vàng vụn đưa ra. Sau mười ngày, Lý cơ nói:"Chỗ vàng vụn ấy hết rồi, còn tiền thì ở lại, hết tiền thì đi đi!" Trương Hỗ yên chí là mình còn một đĩnh vàng khối nên đáp:"Còn chứ hết thế nào được!" Lý cơ hỏi:"Ðâu? Ðưa coi!" Trương Hỗ liền móc bọc đưa ra. Lý cơ cầm lên soi thì thấy là vàng giả nên giận lắm, nói xiên xỏ:"Công tử mà cũng biết tiêu vàng giả cơ ư?" Trường Hỗ giật mình kinh hãi. Lý cơ lạnh lùng, nói mát:"Công tử muốn ở lại chơi bao lâu mà chẳng được? Ðĩnh vàng này còn lâu lắm mới hết!" Trường Hỗ sợ quá, chẳng biết phải làm thế nào, vội năn nỉ:"Xin nghĩ tới tình nghĩa trong mười ngày qua mà cho ở lại thêm ít bữa để xoay sở!" Lý cơ chẳng đáp, đi ra khỏi nhà.
                        Lát sau, Trường Hỗ đang ngồi tính kế, bỗng thấy hai lính huyện xông vào nhà, giở dây ra, trói mình lại. Trường Hỗ hỏi:"Tôi có tội gì?" Lính đáp:"Tội tiêu vàng giả" Lúc đó Trường Hỗ mới vỡ lẽ là Lý cơ đã lên huyện tố cáo mình. Lính giải Trường Hỗ về huyện.
                        Quan tể huyện Lạc Dương là người họ Chu, tính rất nghiêm khắc. Chu công ra lệnh cho lính đánh Trường Hỗ đủ trăm roi rồi nhốt vào ngục, bắt nhịn đói một ngày. Trường Hỗ chẳng có tiền để hối lộ quản ngục nên bị ngược đãi. Ðói quá, Trường Hỗ phải xin chút cơm tù của tù nhân trong ngục để cầm hơi.
                        Ở Bình Diêu, Trường Phúc ghi tâm lời mẹ dặn. Ðúng mười ba hôm, tới trường xin phép nghỉ học mười ngày rồi về làng trình mẹ, nói:"Hôm nay con đã xin nghỉ học, về đây trình mẹ để mẹ sai bảo!" Tế Liễu hỏi:"Con còn nhớ ngày trước, lúc con bỏ nhà trốn đi không?" Trường Phúc đáp:"Thưa còn!" Tế Liễu nói:"Lúc đó, ai cũng chê trách mẹ là mẹ kế tàn nhẫn với con chồng, nhưng chẳng ai biết là đêm nào nước mắt mẹ cũng ướt đẫm giường chiếu! Lúc đó, nếu mẹ chẳng chịu mang tiếng ác với đời thì sao con có được ngày nay?" Nói xong, bật khóc. Trường Phúc chẳng dám nói một lời, chỉ kính cẩn đứng chắp tay, lắng nghe. Tế Liễu gạt nước mắt, nói tiếp:"Bây giờ, em con cũng đang lang thang như con ngày trước. Nó xin tiền để đi buôn song mẹ chắc nó chỉ muốn xin tiền để đi chơi! Ðể khuất nhục nó, mẹ đã cho nó một đĩnh vàng giả! Vì thế, giờ này mẹ chắc nó đang bị nằm tù ở huyện Lạc Dương vì tội tiêu vàng giả. Chu huyện tể là học trò cũ của Dương trung thừa. Dương công quý con lắm. Con nên trình bày chuyện này với Dương công rồi xin Dương công viết thư nói với Chu công tha tội cho nó để cho nó có cơ hội hối cải. Nếu Dương công thuận viết thư cho con thì con phải đem ngay đi Lạc Dương mà trình Chu công!" Trường Phúc nói:"Con xin tuân lệnh mẹ! Con đi ngay bây giờ!"
                        Trường Phúc vội trở lại huyện thành Bình Diêu, tới xin gặp Dương công, trình bày câu chuyện. Dương công bèn viết một lá thư, phong kín lại rồi trao cho Trường Phúc. Trường Phúc nhận thư rồi lạy tạ Dương công, tức tốc lên đường, đem thư đi Lạc Dương.
                        Tới nơi, Trường Phúc hỏi thăm tin tức thì được biết em mình đã bị tống giam vào ngục từ ba hôm trước. Trường Phúc vội tới thẳng ngục, xin viên quản ngục cho vào gặp em. Thấy Trường Phúc là một nho sinh hiền lành, mặt mũi sáng sủa, viên quản ngục liền cho vào. Thấy anh, Trường Hỗ ngượng quá, chẳng dám ngửng mặt lên, cứ cúi đầu mà khóc. Thấy em mặt mũi bẩn thỉu, thân hình tiều tụy, Trường Phúc cũng khóc theo.
                        Lát sau, Trường Phúc cám ơn viên quản ngục rồi tới thẳng huyện, trình thư của Dương công lên Chu công. Chu công đọc thư xong liền ra lệnh cho viên quản ngục thả Trường Hỗ. Hai anh em bèn tới huyện lạy tạ Chu công rồi cùng lên đường về quê.
                        Tới nhà, Trường Hỗ quỳ gối, lết từ ngoài sân vào nhà, tới cạnh mẹ, lạy xin tha tội. Tế Liễu hỏi:"Ðã toại nguyện chưa?" Trường Hỗ chẳng dám đáp, chỉ rưng rưng nước mắt. Trường Phúc cũng quỳ gối xuống cạnh em. Tế Liễu quát: "Ðứng cả dậy"
                        Từ đó, Trường Hỗ hối hận, một mình trông nom mọi công việc trong nhà, chẳng để mẹ phải nhúng tay. Trường Hỗ thức khuya dậy sớm, tính toán sổ sách, đốc thúc gia nhân. Hôm nào mệt quá, Trường Hỗ ngủ quên, đến trưa mới dậy, cũng không thấy bị mẹ la mắng như trước nữa. Trường Hỗ muốn đi buôn lắm song chẳng dám nói với mẹ.
                        Ba tháng sau, Trường Phúc lại về thăm nhà. Trường Hỗ nhờ anh nói với mẹ ý muốn của mình. Trường Phúc trình lại. Tế Liễu mừng lắm, cầm cố, vay mượn, lấy tiền cho Trường Hỗ đi buôn. Hơn nửa năm sau, Trường Hỗ kiếm được rất nhiều lời, đem về nạp mẹ hết. Năm ấy, Trường Phúc đi thi hương, đậu cử nhân.
                        Ba năm sau. Trường Phúc đi thi hội, đậu tiến sĩ, được bổ làm quan. Trong ba năm ấy, Trường Hỗ đi buôn, lời trên vạn lạng. Từ đó, gia đình Tế Liễu trở thành một gia đình quyền quý ở Sơn Tây.
                        Một hôm, có một khách buôn, bạn của Trường Hỗ, từ Lạc Dương tới Sơn Tây có việc. Xong việc, khách ghé vào thăm Trường Hỗ. Vào nhà, thấy một vị phu nhân rất trẻ, dáng vẻ quý phái, phục sức giản dị, khách bèn hỏi thăm gia nhân xem là ai thì được biết chính là thân mẫu của Trường Hỗ. Khách về Lạc Dương. Bạn bè tới thăm, hỏi chuyện gia đình Trường Hỗ. Khách thuật chuyện mình thấy Tế Liễu rồi kết luận: "Trông phu nhân còn trẻ lắm, chỉ chừng ngoài ba mươi. Chẳng thể ngờ được phu nhân lại là thân mẫu của bạn Trường Hỗ!"


                        ST
                        Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                        Comment


                        • #42
                          BÁO OÁN (truyện ÐẬU THỊ) - dịch giả: Đàm Quang Hưng

                          Khiết tí đương thời cưỡng đế minh
                          Như hà ủy khí đẳng trần khinh
                          Kỳ kỳ quái quái tần tu oán
                          Bất sát hương khuê hận bất bình

                          Huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có công tử họ Nam, tên Tam Phục, thuộc dòng dõi thế gia, được dân chúng trong vùng nể trọng. Năm ấy, Tam Phục hai mươi bảy tuổi, góa vợ, chưa có con.
                          Tam Phục có một ngôi biệt thự ở cách tư thất chừng mươi dặm. Một sáng mùa hè, Tam Phục cưỡi ngựa đi thăm biệt thự. Ði được nửa đường, bỗng trời đổ mưa, Tam Phục bèn xuống ngựa, dắt vào đứng dưới mái cổng căn nhà bên đường để tránh mưa. Chủ nhà là một nông dân, nhận ra khách đứng ở ngoài ngõ là Tam Phục, vội giương dù chạy ra mời vào nhà ngồi chơi. Tam Phục nhận lời. Chủ nhà bèn buộc ngựa của Tam Phục vào cột cổng rồi cung kính che dù cho Tam Phục vào nhà.
                          Tam Phục thấy nhà nghèo lắm, chỉ có một phòng khách hẹp với hai phòng ngủ nhỏ. Chủ nhà mời Tam Phục ngồi, đi lấy nước rẩy sàn quét nhà cho khỏi bụi rồi pha trà nóng với mật ong, mời Tam Phục uống. Chủ nhà cứ đứng khoanh tay hầu chuyện Tam Phục cho tới khi Tam Phục bảo ngồi, chủ nhà mới dám ngồi.
                          Tam Phục hỏi:"Ông họ gì?" Chủ nhà đáp:"Tôi họ Ðậu, tên Ðình Chương" Hỏi:"Bà ấy đâu?" Ðáp:"Tiện nội mất đã được ba năm rồi!" Hỏi:"Ông được mấy người con?" Ðáp:"Tôi chỉ được một mụn con gái" Hỏi:"Tên chi?" Ðáp:"Tiện nữ tên Tố Nga" Hỏi:"Bao nhiêu tuổi?" Ðáp:"Tiện nữ mười lăm" Tam Phục cứ hỏi chuyện Ðậu ông như thế. Chợt Ðậu ông nói:"Chẳng mấy khi công tử tới tệ xá chơi, xin mời công tử ở lại dùng với tôi một bữa rượu!" Tam Phục nói:"Cũng được" Ðậu ông bèn xin phép xuống bếp làm cơm.
                          Lát sau, Ðậu ông bưng lên một mâm cơm với thịt gà và rượu, xin phép Tam Phục cho mình được ngồi đối ẩm, chuyện trò. Tam Phục gật đầu. Ăn xong, Ðậu ông xuống bếp bảo con pha trà mới rồi lại trở lên tiếp khách.
                          Tố Nga đun nước sôi pha trà, bưng khay trà lên đặt ở cửa phòng khách rồi lại quay xuống bếp. Ðậu ông ra cửa bưng khay trà vào mời Tam Phục. Tuy chỉ nhìn thấy nửa người Tố Nga thấp thoáng ngoài cửa, song Tam Phục cũng biết là Tố Nga đẹp lắm và có mái tóc xõa xuống hai vai. Trời tạnh mưa, Tam Phục xin cáo biệt.
                          Về nhà, Tam Phục thấy hình bóng Tố Nga cứ lởn vởn trong đầu rồi thấy lòng mình xao xuyến. Hôm sau, Tam Phục sai gia nhân đem gạo và lụa tới biếu Ðậu ông để đáp l. Từ đó, cứ ba ngày một lần, Tam Phục lại sai gia nhân đem rượu thịt tới nhà Ðậu ông để mình tới đối ẩm, chuyện trò. Lâu dần, Tam Phục với Ðậu ông trở thành bạn thân. Vì thế, Tố Nga cũng dạn dần, chẳng còn phải tránh né Tam Phục như trước nữa. Mỗi lần cha gọi pha trà, Tố Nga đã dám bưng thẳng khay trà vào phòng khách. Thấy Tố Nga, Tam Phục cứ ngây người ra ngắm. Bắt gặp Tam Phục ngắm mình, Tố Nga chỉ mỉm cười.

                          Một hôm, Tam Phục tới gõ cổng nhà Ðậu ông để vào thăm. Tố Nga ra mở. Tam Phục hỏi:"Lệnh tôn có nhà không?" Tố Nga đáp:"Gia nghiêm vừa đi vắng!" Hỏi:"Bỉ nhân có thể vào nhà ngồi chờ được không?"Ðáp:"Xin mời công tử vào!" Tam Phục bèn vào ngồi ở phòng khách. Tố Nga vào nhà trong, thầm mong cha chóng về tiếp khách.
                          Chờ mãi chẳng thấy cha về, Tố Nga ngại cho khách phải ngồi lâu, bèn đánh bạo bước ra, thay cha tiếp khách. Tam Phục lợi dụng thời cơ, nắm lấy cổ tay Tố Nga, buông lời chọc ghẹo. Tố Nga ngượng quá, nghiêm sắc mặt, nói: "Nhà thiếp tuy nghèo song cha con thiếp chẳng chịu để cho ai làm nhục cả! Xin công tử chớ cậy mình giàu có mà làm nhục thiếp! Gia nghiêm muốn thiếp phải đứng đắn để lấy được một tấm chồng tử tế!" Tam Phục hoảng sợ, vội chắp tay xin lỗi, nói: "Vì bỉ nhân thành tâm muốn được tiểu nương để ý nên mới trót xúc phạm, mong tiểu nương thứ lỗi cho! Bỉ nhân đã hết tang tiện nội, nay muốn xin cưới tiểu nương về làm kế thất! Nếu tiểu nương ưng thuận thì bỉ nhân sẽ nhờ người tới thưa chuyện với lệnh tôn, khỏi phải nhờ người đi kiếm giùm đám khác!" Tố Nga tỏ vẻ nghi ngờ, nói: "Thiếp thấy khó lòng mà tin được lời công tử! Công tử là con nhà dòng dõi thế gia, khi nào lại chịu đi cưới con gái một gia đình nông dân như thiếp?" Tam Phục nói: "Nếu tiểu nương chẳng tin thì bỉ nhân xin thề độc!" Tố Nga mỉm cười, nói: "Công tử cứ thử thề độc cho thiếp coi xem công tử thề độc tới mức nào?" Tam Phục bèn thề: "Bỉ nhân là Nam Tam Phục, thề sẽ hỏi cưới tiểu nương Ðậu Tố Nga làm kế thất, xin quỷ thần chứng giám. Nếu sau này, bỉ nhân bội lời thề này thì xin quỷ thần cứ xử bỉ nhân tội chết!" Thấy lời thề độc, Tố Nga mỉm cười tin tưởng, rồi để mặc cho Tam Phục muốn làm chi thì làm. Tam Phục bèn bồng Tố Nga vào phòng trong mà ân ái. Khi Tam Phục từ biệt Tố Nga, Ðậu ông vẫn chưa về.
                          Từ đó, ngày nào Tam Phục cũng sai gia nhân tới ngõ nhà Ðậu ông rình lén. H thấy Ðậu ông vừa ra khỏi cổng là gia nhân lại chạy về báo để Tam Phục cưỡi ngựa sang ân ái với Tố Nga.
                          Mười tháng sau. Một hôm Tố Nga giục Tam Phục: "Công tử cứ lén lút với thiếp mãi như thế này thì chẳng phải là kế lâu dài. Công tử đã thuận cho thiếp được núp bóng thì xin công tử hãy chính thức hỏi cưới thiếp ngay đi! Công tử mà hỏi thì chắc chắn là gia nghiêm sẽ gả ngay chứ chẳng thể nào từ chối, vì chẳng ai có thể đem lại vinh dự cho gia đình thiếp như công tử được! Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho, chớ để thiếp phải lo lắng mãi!" Tam Phục gật đầu.
                          Tối ấy, về nhà, Tam Phục lại nghĩ là mình dòng dõi thế gia, chẳng thể nào hỏi cưới con gái một gia đình nông dân được. Vì thế, hôm sau Tam Phục kiếm cớ nói quanh với Tố Nga để trì hoãn việc cưới hỏi, rồi nhờ bà mối để ý kiếm cho mình một nơi môn đăng hộ đối.
                          Tháng sau. Một hôm bà mối tới nhà Tam Phục, nói: "Lão thân đã kiếm được cho công tử một đám đăng đối rồi!" Tam Phục hỏi: "Ðám nào?" Ðáp: "Tô tiểu thư, ái nữ của Tô công!" Hỏi:"Tô công là ai?" Ðáp: "Công tử chẳng biết sao? Tô công, quán tại vùng này, được triều đình bổ nhậm đi làm quan tể ở xa, nay mới hồi hưu!" Thấy Tam Phục có vẻ còn trù trừ chưa quyết, bà mối liền tiếp: "Tô tiểu thư đẹp lắm! Sắc nước hương trời, ai nhìn thấy cũng phải mê! Còn Tô công thì giàu có lắm, hứa với ái nữ rằng khi nào vu quy, sẽ cho ngàn vàng làm của hồi môn!" Nghe thấy thế, Tam Phục bèn quyết định nhờ bà mối đi hỏi Tô thị cho mình. Bà mối tới thưa chuyện với Tô công. Tô công ưng thuận, hẹn năm sau cho nghênh hôn.
                          Một hôm, Ðậu ông đi vắng, Tam Phục lại tới nhà ân ái với Tố Nga. Tố Nga nói: "Thiếp muốn nói với công tử một việc quan trọng!" Tam Phục hỏi: "Việc gì?" Ðáp: "Thiếp đã mang thai với công tử. Xin công tử hãy xúc tiến việc cưới hỏi gấp cho!" Tam Phục chỉ ậm ừ rồi ra về. Từ hôm ấy, Tam Phục biệt tăm, chẳng bén mảng tới nhà Ðậu ông nữa.
                          Ðậu ông thấy bụng con gái mình mỗi ngày một lớn thì tra hỏi. Tố Nga thú thực. Ðậu ông bèn nhờ bà mối tới hỏi Tam Phục cho rõ thực hư. Tam Phục chối, nói: "Nếu cô ta mang thai thì bào thai trong bụng cô ta là của đàn ông nào đó chứ đâu có phải là của tôi?" Bà mối về thuật lại. Nghe thấy thế, Ðậu ông giận quá, lấy roi đánh con. Tố Nga uất ức lắm song cũng đành chịu, chẳng biết phải biện bạch với cha như thế nào để cho cha tin mình.
                          Sáu tháng sau. Một chiều đông, Tố Nga sanh con trai. Tối ấy, Tố Nga mệt mỏi, nằm ngủ thiếp đi. Thấy thế, Ðậu ông vội vùng dậy, bế đứa cháu đem ra sau nhà, vứt vào thùng rác. Tỉnh giấc, Tố Nga thấy mất con thì biết ngay là con mình đã bị ông ngoại vứt đi, nên lẻn ra vườn sau tìm con. Thấy con nằm trong thùng rác, vẫn còn sống, Tố Nga vội ẵm ra, chạy sang nhà Chương bà ở hàng xóm phía đông, xin ngủ nhờ.
                          Sáng sau, Tố Nga nhờ Chương bà tới thuật chuyện cho Tam Phục nghe. Nghe xong, Tam Phục cứ lờ đi, chẳng nói năng chi. Thấy vậy, Chương bà nói: "Cô Tố Nga nhờ tôi nhắn với công tử rằng cô ta chẳng xin công tử cưới cô ta đâu mà chỉ xin công tử nhận đứa bé, đem về nuôi thôi!" Tam Phục tỏ vẻ bực mình, nói: "Bà đừng nói nữa! Bà hãy về đi! Ðứa bé ấy đâu có phải là con của tôi?" Chương bà đành về nói lại cho Tố Nga nghe.
                          Tố Nga bế con tới thẳng nhà Tam Phục, xin vào gặp mặt. Người canh cổng không cho vào. Tố Nga nói: "Ðứa bé này là con của chủ ông! Nếu ông không cho tôi vào thì nhờ ông vào nói với chủ ông rằng tôi chẳng cần chủ ông phải cưới tôi làm vợ song đứa bé này là con của chủ ông, chẳng lẽ chủ ông lại nỡ để cho nó bị chết đói chết rét hay sao?" Người canh cổng vào trình lại với Tam Phục. Tam Phục nói: "Ra bảo nó bế con cút đi! Nếu nó không chịu đi thì cứ để mặc nó ngồi ở ngoài ngõ chứ không được cho vào trong nhà!" Người canh cổng vâng dạ rồi ra nói lại. Tố Nga cương quyết không đi, cứ ngồi lỳ ở ngoài ngõ, ôm con mà khóc. Tới tối, rồi tới khuya, đói chẳng có chi ăn, rét chẳng có chi đắp.
                          Sáng sau, người canh cổng ra mở cổng thì thấy cả hai mẹ con đều đã chết cóng. Xác Tố Nga ngồi tựa vào thành cổng, hai tay còn ẵm đứa con ở trong lòng. Tam Phục nghe tin, liền sai gia nhân chạy đi báo cho Ðậu ông hay. Ðậu ông vừa kinh hãi vừa phẫn uất, vội chạy tới đem xác hai mẹ con về, mua quan tài chôn cất.
                          Hôm sau, Ðậu ông làm đơn kiện Tam Phục, đem lên nạp ở huyện đường. Quan tể đọc đơn, sai lính đi bắt Tam Phục vào huyện đường. Quan hỏi: "Ðứa bé ấy có phải là con của nhà ngươi không?" Tam Phục chối, đáp: "Bẩm đại quan, không!" Quan bèn cho điều tra. Nha lại phúc trình rằng đứa bé ấy đúng là con của Tam Phục. Quan bèn kết tội Tam Phục bất nghĩa, xử phạt mười năm tù ở. Tam Phục vội nhờ người đem vàng tới hối lộ quan. Quan nhận hối lộ rồi tha bổng Tam Phục.
                          Ðêm ấy, Tô công nằm mộng thấy một thiếu nữ, tay ẵm con, đầu xõa tóc, tới nhà mình, nói: "Tiểu nữ là Ðậu Tố Nga, bị tên Nam Tam Phục dụ dỗ cho y ân ái thì y sẽ cưới làm kế thất. Nay tiểu nữ đã có con với y thì y lại hắt hủi cả hai mẹ con để đến nỗi hai mẹ con cùng bị chết cóng. Y lại nhờ bà mối đi hỏi cưới lệnh ái và đã được tôn ông ưng thuận. Bây giờ, xin tôn ông hãy từ hôn với y để tránh cho lệnh ái khỏi bị ải tử. Nếu tôn ông chẳng tin lời tiểu nữ thì sau này xin tôn ông chớ oán trách là tiểu nữ chẳng có lời báo trước!" Nói xong, thiếu nữ biến mất. Tỉnh giấc, Tô công lo sợ lắm, toan từ hôn với Tam Phục nhưng rồi thấy Tam Phục giàu có nên lại nổi lòng tham, cho rằng mộng mị chỉ là chuyện hão huyền. Vì thế, Tô công vẫn quyết định gả con gái cho Tam Phục.
                          Tới ngày nghênh hôn, Tam Phục thấy Tô thị mi thanh mục tú, có ngàn vàng hồi môn thì mừng lắm. Tuy nhiên, trong suốt ngày cưới, Tam Phục thấy Tô thị lúc nào cũng âu sầu buồn bã thì lại rất ngạc nhiên. Tới tối, khi động phòng hoa chúc, Tam Phục thấy Tô thị cứ ứa nước mắt khóc, bèn hỏi: "Từ sáng tới giờ, lúc nào ta cũng thấy nàng âu sầu buồn bã! Rồi bây giờ lại khóc là nghĩa làm sao?" Tô thị chẳng đáp, làm Tam Phục càng ngạc nhiên. Thế rồi Tam Phục thấy Tô thị cương quyết chẳng chịu thân thiết với mình. Tam Phục bắt đầu linh cảm thấy một điều chi bất tường nên rất bồn chồn.
                          Tháng sau, Tô công tới nhà con rể thăm con gái. Người canh cổng mở cổng mời vào, rồi chạy vào báo tin cho chủ biết. Từ cổng vào nhà có hai ngả, ngả trước xuyên qua vườn hoa, ngả sau xuyên qua vườn đào. Tô công theo ngả sau mà vào. Khi xuyên qua vườn đào, chợt nhìn thấy một thiếu nữ treo cổ trên cành, dáng dấp trông giống con mình, Tô công kinh hãi quá, vội chạy tới để coi thì thấy đúng là con mình. Tô công cực kỳ hoảng sợ, vội chạy vào phòng khách để tìm con rể song lại chạy lạc vào phòng ngủ. Thấy một thiếu nữ lạ ngồi trên giường của con gái mình, Tô công vừa sợ vừa giận, vội quay người chạy ra. Tam Phục ngồi trong phòng khách chờ nhạc phụ. Thấy nhạc phụ chạy vào phòng ngủ, Tam Phục ngạc nhiên, vội chạy vào theo. Vừa tới cửa phòng ngủ thì thấy nhạc phụ từ trong phòng chạy ra, Tam Phục càng ngạc nhiên hơn. Tam Phục toan lên tiếng hỏi thì chợt thấy nhạc phụ lên tiếng quát: "Ta vào đây qua ngả vườn đào, thấy vợ anh treo cổ chết trên cành! Anh làm chi mà để cho nó phải tự ải? Còn thiếu nữ đang ngồi trên giường kia là ai?" Tam Phục chẳng hiểu đầu đuôi sự thể ra sao nên cực kỳ hoảng hốt, luýnh quýnh la lên: "Trời ơi! Sao lại có chuyện lạ thế này? Nhạc phụ để con coi xem!" Rồi tới gần giường xem thiếu nữ là ai thì bỗng thấy thiếu nữ ngã lăn xuống đất mà chết. Tam Phục nhìn kỹ thì nhận ra là xác Tố Nga. Tô công tới gần, hỏi: "Thiếu nữ này là ai?" Tam Phục đành phải thú thực mọi chuyện với nhạc phụ. Thấy xác Tố Nga phảng phất giống thiếu nữ trong giấc mộng đêm nọ, Tô công vừa căm tức Tam Phục lại vừa hối hận là đã gả con gái cho Tam Phục. Vì thế, Tô công lẳng lặng bỏ về.
                          Tam Phục nhờ người lên huyện đường trình quan tể về việc vợ mình tự ải và xin được phép mai táng. Mặt khác, Tam Phục sai gia nhân đi báo cho Ðậu ông biết về việc xác Tố Nga đang ở nhà mình. Ðậu ông nửa tin nửa ngờ, chạy ra mộ con coi thì quả nhiên thấy mộ con đã bị đào tung, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Ðậu ông bèn sang nhà Tam Phục xin xác con, đem ra mộ chôn lại.
                          Ðậu ông đang phẫn uất về việc con mình bị chết oan, nay lại thấy xảy ra vụ này thì cho là Tam Phục đã dàn cảnh để làm chuyện dâm ô. Bèn lại làm đơn kiện Tam Phục, nạp quan tể. Quan thấy chuyện hoang đường, chưa biết xử ra sao. Tam Phục sợ quá, lại lấy vàng nhờ người đem hối lộ. Quan nhận hối lộ rồi dẹp vụ án. Tam Phục cũng sai gia nhân đem chút tiền bạc tới biếu Ðậu ông để cho câu chuyện được êm xuôi.
                          Từ đó, tự nhiên nhà Tam Phục cứ suy dần, tiền vào thì ít, tiền ra thì nhiều. Năm sau, Tam Phục nhờ bà mối đi kiếm vợ khác cho mình. Bà mối kiếm mãi chẳng được vì người nào trong vùng cũng đều biết chuyện Tam Phục, chẳng ai chịu gả con gái cho. Bà mối bèn tới nói với Tam Phục: "Bây giờ trong vùng này chẳng ai dám gả con gái cho công tử nữa! Nếu công tử muốn hỏi vợ thì phải đi hỏi ở xa. Lão thân biết một đám ở xa, đăng đối với công tử lắm, song chẳng biết công tử có thuận chăng?" Tam Phục hỏi: "Ðám nào?" Ðáp: "Tào nương, con gái của Tào tiến sĩ!" Hỏi: "Ở tận đâu?" Ðáp:"Ở Sơn Ðông! Nếu công tử thuận thì lão thân sẽ sang đó hỏi!" Tam Phục chẳng muốn cưới vợ ở xa song vì thấy chẳng còn nơi nào ở gần chịu gả con gái cho mình nên đành ưng thuận. Bà mối bèn sang Sơn Ðông hỏi Tào nương cho Tam Phục. Khi về, bà mối tới nói với Tam Phục:"Tào ông đã bằng lòng gả Tào nương cho công tử, hẹn ba tháng nữa sẽ cho nghênh hôn!" Tam Phục bèn nhờ bà mối đem sính l sang Sơn Ðông.
                          Hai tháng sau. Trong dân gian có tin đồn triều đình sắp ra lệnh bắt cung nữ ở các địa phương. Vì thế, nhà nào có con gái đã hứa hôn cũng cho người đưa con về nhà chồng ngay, chẳng cần đợi ngày cưới.
                          Trong làng của Tam Phục có một vị cử nhân họ Diêu, gia pháp rất nghiêm, có cô con gái tên Tố Tố. Tuy Tam Phục giao du với Diêu ông song vẫn chưa được biết mặt Tố Tố. Một hôm, Tam Phục chợt nghe tin Tố Tố vừa bị bạo bệnh mà thác, liền tới nhà Diêu ông để viếng tang. Tới nơi, Tam Phục thấy linh cữu Tố Tố đã được đậy nắp, đặt giữa phòng khách. Viếng tang xong, Tam Phục xin cáo biệt. Hôm sau, Diêu ông làm l mai táng cho con.
                          Cũng ngày hôm ấy, Tam Phục đang ngồi trong phòng khách thì chợt thấy người canh cổng chạy vào báo có xe ngựa của Tào ông cho đưa Tào nương sang. Tam Phục vội bảo người canh cổng ra mở cổng mời vào. Xa phu vừa cho xe vào đậu trước cửa phòng khách thì từ trên xe có một bà vú bước xuống, đỡ một thiếu nữ xuống theo, dắt vào phòng. Bà vú chào Tam Phục, nói: "Thưa công tử, triều đình đang ra lệnh bắt cung nữ ở Sơn Ðông gấp lắm. Vì thế, Tào ông nhà lão tì quyết định sai lão tì đưa Tào nương sang đây với công tử ngay, chẳng thể chờ ngày cưới được!" Tam Phục thấy ngoài xa phu ra, chỉ có cô dâu với bà vú nên cũng nghi ngờ, hỏi: "Tại sao lại chỉ có một mình lão bà đưa dâu sang? Chẳng có khách khứa nào đi đưa dâu hay sao?" Bà vú cười, đáp: "Thưa công tử có chứ! Xe cô dâu chạy trước, chở đầy quần áo, nữ trang và của hồi môn nên chẳng còn chỗ trống cho khách đưa dâu ngồi. Khách ngồi trên ba xe sau, cũng sắp tới rồi!" Bà vú bèn ra bảo xa phu khuân mấy rương quần áo, nữ trang và của hồi môn của cô dâu vào phòng khách rồi dặn dò cô dâu mấy lời. Xong, bà vú chắp tay vái chào Tam Phục rồi xin phép lên xe. Xa phu liền phóng xe ra khỏi cổng.
                          Tam Phục ngắm nhìn Tào nương, thấy cũng xinh đẹp, bèn tới gần trêu ghẹo, đùa cợt chớt nhả. Tào nương nghiêm nét mặt, nói: "Thiếp đi đường xa mệt mỏi, xin tân lang cho thiếp được vào phòng nằm nghỉ một lát. Tới tối, thiếp sẽ xin hầu tiếp tân lang!" Tam Phục bèn dẫn Tào nương vào phòng ngủ. Tào nương liền cởi bỏ nữ trang, quần áo, rồi lên giường nằm. Thấy điệu bộ của Tào nương giống hệt điệu bộ của Tố Nga, Tam Phục đã cảm thấy chẳng vui, song chưa tiện hỏi. Chợt thấy Tào nương kéo chăn trùm kín đầu để ngủ, Tam Phục hỏi: "Nàng trùm kín đầu như thế thì làm sao mà thở?" Tào nương đáp: "Thiếp có thói quen này từ hồi còn nhỏ, xin tân lang chớ để tâm!" Tam Phục bèn bỏ ra phòng khách, chờ đón ba xe khách đưa dâu.
                          Chờ đến tối cũng chẳng thấy chi, Tam Phục sinh nghi, bèn chạy vào phòng ngủ hỏi Tào nương. Thấy Tào nương vẫn còn trùm chăn kín đầu, Tam Phục liền lớn tiếng gọi: "Nàng nằm nghỉ đã thấy đỡ mệt chưa? Dậy đi cho ta hỏi một câu!" Chẳng thấy tiếng đáp, Tam Phục bèn chạy tới giường lật chăn ra coi thì thấy Tào nương đã tắt thở. Tam Phục kinh hãi quá, chẳng hiểu tại sao Tào nương lại chết bất thần như thế! Tam Phục vội sai bốn gia nhân tức tốc sang Sơn Ðông báo tin cho Tào ông hay.
                          Bốn gia nhân tới nhà Tào ông, vào báo tin thì Tào ông kinh ngạc, nói: "Gia nữ hiện đang ở nhà đây, chứ ta có cho ai đưa nó sang bên ấy bao giờ đâu?" Bốn gia nhân nghe thấy thế thì chỉ biết giương mắt nhìn nhau, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
                          Sáng sau, Diêu ông ra thăm mộ con thì thấy mộ con đã bị khai quật, quan tài bật nắp, xác con biến mất. Diêu ông kinh hãi quá, chẳng hiểu kẻ đào mộ con mình muốn cướp xác con mình để làm chi. Quanh quẩn bên mộ hồi lâu, Diêu ông đành ra về. Vừa về tới nhà thì lại nghe tin cô dâu mới của Tam Phục là Tào nương ở Sơn Ðông, sáng qua vừa được bà vú đưa sang nhà Tam Phục thì tối qua đã bất thần lăn ra chết. Diêu ông liền tới nhà Tam Phục để viếng tang.
                          Thấy Diêu ông sang viếng tang, Tam Phục bèn dẫn vào phòng ngủ cho coi xác Tào nương. Vào phòng, Diêu ông giật mình kinh hãi vì thấy xác Tào nương chính là xác con gái mình. Diêu ông giận quá, chẳng nói chẳng rằng, vội bỏ về ngay, chẳng thèm chào Tam Phục lấy một lời. Tam Phục sững sờ kinh ngạc, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao.
                          Về nhà, Diêu ông bèn làm đơn kiện Tam Phục về tội đã đào mả con mình, đem xác về nhà làm chuyện dâm ô. Quan tể bèn cho lính đi bắt Tam Phục tới huyện đường thẩm vấn. Tam Phục trình bày sự thực song quan chẳng tin vì Tam Phục đã nổi tiếng là một kẻ có nhiều thành tích vô hạnh ở trong vùng.
                          Thế rồi quan khép Tam Phục vào án tử hình.


                          ST
                          Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                          Comment


                          • #43
                            Hằng Nương

                            Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị, nhan sắc khá đẹp, hai bên đều yêu quý nhau. Sau Hồng lấy cô hầu gái Bảo Đới làm vợ lẽ, diện mạo kém xa Chu thị nhưng Hồng lại yêu nhiều. Chu thị lấy làm bất bình, vì thế vợ chồng sinh bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ngủ lại buồng vợ bé, nhưng càng bênh chiều cô ta mà cách xa Chu thị. Sau họ dời nhà, làm hàng xoqm với một người buôn lụa họ Địch.
                            Vợ Địch là Hằng Nương, sang thăm Chu thị trước. Hằng Nương trạc tuổi ba mươi, nhan sắc chỉ trung bình nhưng nói năng nhẹ nhàng dể ưa, Chu thị rất mến. Hôm sau sang đáp lễ, Chu thị thấy nhà này cũng có vợ bé, tuổi chừng đôi mươi lại rất xinh đẹp. Ở cạnh nhà nhau gần nửa năm, Chu thị tịnh không nghe một lời chửi mắng nào cả, còn Địch chỉ yêu quý có một mình Hằng Nương, cô vợ bé có cũng như không .
                            Một hôm, Chu thị sang Hằng Nương chơi, hỏi rằng:
                            - Em trước đây cho rằng chồng yêu vợ bé, là vì cái người giữ phận bé ấy thường chỉ muốn đổi cách xưng hô "vợ cả " thành "vợ lẽ" nay mới biết không phải. Chị có thuật gì thế, nếu có thể truyền được thì em xin ngoảnh mặt về phương Bắc (*) làm học trò của chị.
                            Hằng Nương đáp:
                            - Hừ, chị tự xa cách rồi lại trách chồng phải không ? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim vào bụi (**), càng cách xa nhau hơn. Chị cứ về thả lỏng cho họ, dù anh ấy có tự đến cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng, em sẽ liệu tính cho chị.
                            Chu thị theo lời, càng trang điểm cho Bảo Đới, cho cùng ngủ với chồng. Mỗi khi chồng ăn uống thức gì đều cho Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng săn đón thì Chu thị lại cố tình từ chồi, thế là ai nấy đều khen Chu thị hiền. Như thế được hơn một tháng, Chu thị sang thăm Hằng Nương. Hăng Nương vui mừng mà rằng:
                            - Được đấy, bây giờ về nhà chị bỏ hết trang sức, không mặc đẹp, không phấn son để mặt bẩn, đi giày rách, cùng làm lụng với bọn người nhà, một tháng sau hãy sang đây.
                            Chu thị nghe theo, mặc áo vá, cố ý luộm thuộm, bẩn thỉu, chỉ biết dệt vải, ngoài ra không hỏi han gì đến. Hồng thương tình, sai Bảo Đới chia sẻ việc nặng nhọc, nhưng Chu thị gắt gỏng bảo về. Như thế được một tháng, lại sang gặp Hằng Nương. Hằng Nương bảo:
                            - Cô bé này dạy bảo được đấy! Ngày kia là tết Thượng Tỵ (***) muốn rủ chị cùng đi chơi hội xuân. Chị nên trút hết quần áo rách ra, tất dép áo quần thay mới một loạt rồi sơm sớm sang đây nhé!
                            Chu thị xin vâng . Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy làm như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong, sang nhà Hằng Nương. Hằng Nương mừng rỡ khen:
                            - Khá lắm!
                            Rồi Hằng Nương búi hộ tóc hình cánh phượng, mượt bóng như gương soi, kiểu giày vụng thì lấy những mảnh giày của nhà từ trong rương ra ghép thành (****), xong đâu đấy liền bảo thay đổi...
                            Trước khi chia tay ra về, nàng mời Chu thị uống rượu rồi dặn:
                            - Lúc về giáp mặt anh chàng xong là lập tức đóng cửa đi ngủ cho sớm, chàng ta đếm gõ cửa cũng chớ mở ra. Ba lần gọi mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn những khi môi tìm lưỡi tay tìm chân. Nửa tháng sau hãy sang đây.
                            Chu thị về nhà ăn mặc cực đẹp ra mắt chồng. Hồng ngắm vợ từ trên xuống dưới, tươi cười khác hẳn ngày thường. Chu thị kể sơ qua buổi đi chơi rồi ngồi đỡ má r chiều mệt mỏi. Trời chưa nhá nhem đã đứng dậy đi về buồng cài cửa đi nằm. Lát sau quả nhiên Hồng đến gõ cửa, Chu thị cứ nằm không chịu dậy, Hồng đành bỏ đi. Tối sau cũng thế. Sáng thứ ba, Hồng trách vợ, Chu thị đáp:
                            - Ngủ một mình quen mất rồi, không kham nổi quấy rầy.
                            Hôm ấy, trời vừa xế bóng, Hồng đã vào buồng vợ ngồi chờ sẵn, rồi tắt nến lên giường như buổi tân hon, ái ân khôn xiết. Hồng hẹn đêm sau lại đến, Chu thị không chịu được mãi, mới ước với Hồn ba ngày một lần. Khoảng nửa tháng, Chu thị sang gặp Hằng Nương.
                            Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò với Chu thị rằng:
                            - Từ nay chị có thể độc chiếm anh ấy được rồi. Có điều chị tuy đẹp, nhưng chưa thật duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên nữa thì giành được cả lòng sủng ái đối với Tây Thi, huống hồ là người kém hơn.
                            Đoạn Hằng Nương bảo Chu thị liếc thử, rồi nói:
                            - Không phải thế! Cạnh ngoài mí mắt chưa ổn.
                            Bảo cười thử, rồi nhận xét:
                            - Không phải thế! Má bên trái chưa được.
                            Bèn dùng khóe thu ba lộ vẻ yêu kiều, mím miệng cười tươi hé hai hàng ngọc, bảo Chu thị bắt chước, đến mấy chục lần mới hơn giông giống. Hằng Nương bảo:
                            - Chị về đi rồi soi gương mà tập cho thành thạo, phép thuật chỉ có thế mà thôi. Còn như khi ở trên giường tuy cơ mà khơi động, tùy sở thích mà ứng theo, những điều ấy không thể dùng lời mà truyền cho nhau được.
                            Chu thị về nhà làm đúng như lời Hằng Nương dạy bảo. Hồng ưng ý lắm, si mê hình thể lẫn nhan sắc của vợ, chỉ sợ vợ cự tuyệt. Trời xế chiều là ngồi trước mặt nhau trò chuyện vui cười không chịu rời phòng khuê đến nửa bước, ngày nào cũng thế, không làm sao đâỷ đi chỗ khác được. Chu thị càng ưu đãi Bảo Đới hơn, mỗi khi bày tiệc trong phòng đều bọi Bảo Đới cùng ngồi chung giường, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã cho cô ta ra ngoài. Chu thị lại dụ Hồng vào buồng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng Hồng không hề động đến, do đó Bảo Đới giận Hồng, gặp ai oán thán, khiến Hồng càng tức giận ghét bỏ, dần dần đến đánh đập cô ta. Bảo Đới phẫn uất, bỏ cả trang điểm, ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, đầu tóc như đám cỏ rối, nên càng không thể nói năng gì đến người khác nữa.
                            Một hôm Hằng Nương hỏi Chu thị:
                            - Chị thấy thuật của em thế nào?
                            Chu thị đáp:
                            - Đạo thầy thật tuyệt diệu nhưng đệ tử này chỉ có thể làm theo mà rốt cuộc vẫn chưa thể hiểu được. Thả lỏng là vì sao?
                            - Chị chẳng nghe nói con người ta thường thích mới bỏ cũ, khó khăn coi trọng, dễ dàng coi thường đó sau? Chồn yêu vợ lẽ không cứ vì cô ta đẹp, mà vì chợt đươc nếm thì thấy ngọt, khó được gặp thì thấy mong. Thả lỏng cho no nê thì sơn hào hải vị cũng còn chán huống hồ là loại rau mọc dại.
                            - Bỏ hết trang điểm, sau lại chải chuốt cho cực đẹp là cì sao?
                            - Bỏ đấy không để mắt đến nữa thì tựa hồ xa nhau lâu ngày; bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như vừa mới đến, khác nào người nghèo đột nhiên được nếm món ngon, ắt thấy gạo lức chả còn mùi vị gì. Rồi lại không dễ dàng cho nếm ngay, thì kẻ kia cũ mà mình mới, kẻ kia dễ dải mà mình khó khăn. Đấy chính là đổi vợ thành thiếp vậy.
                            Chu thị mừng lắm, từ đó coi Hằng Nương là bạn tin cẩn chốn khuê phòng. Được mấy năm Hằng Nương bỗng bảo bạn rằng:
                            - Hai tâm tình đã như một, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích. Trước đâyđã toan nói nhưng sợ chị nghi ngại. Nay sắp từ biệt nhau, dám xin nói thật, em chính là hồ. Thuở nhỏ em gặp cái nạn mẹ kế, bán em lên đô thành. Chồng em đối với em rất hậu tình nên em không nỡ dứt tình ngay, lưu luyến đến nay. Ngày mai cha em thoát xác lên tiên, em phải tới thăm, không trở lại nữa.
                            Chu thị sụt sùi cầm tay Hằng Nương. Sáng sớm hôm sau sang thăm thì cả nhà bên ấy đang hoảng hốt kinh sợ vì không thấy Hằng Nương đâu nữa.
                            Dị sử bàn rằng:
                            Người mua ngọc không quý ngọc mà quý cái hộp đựng ngọc (*****). Tình người đối với mới, cũ, khó dễ vẫn là điều lạ lùng kỳ quặc mà từ nghìn xưa đến nay vẫn chưa phanh phui hết được. Nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu thì đã được đem dùng trong thế gian. Đời xưa, bọn nịnh thần thờ vua, ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, do đó biết rằng giữ mình trong sự sủng ái lâu bền cũng là một tâm thuật truyền thụ được vậy.

                            Chú thích
                            (*) Xưa, vua bao giờ cũng ngòi quay mặt về phương Nam. Ở đây ý nói học trò ngoảnh mặt về phương Bắc, tỏ ý kính trọng thầy như vua.
                            (**) Chữ trong Mạnh tử, ý nói làm người tốt xa lánh mình.
                            (***) Tức tết mồng ba tháng ba âm lịch, ở nước Trịnh thời xưa, vùng Thượng nguồn sông Trăn sông Vĩ, người ta tổ chức du Xuân, tay cầm cành hoa Lan để gọi hồn người chết, và trừ tà cầu phúc.
                            (****)Giày vải do phụ nữ khâu tay.
                            (*****) Ngụ ngôn đời xưa kể rằng người nước Sở sang nước Trịnh bán ngọc, dùng gỗ thơm làm hộp đựng ngọc, trang trí rất đẹp. Người nước Trịnh thấy cái hộp đẹp bèn mua hộp mà trả lại ngọc.


                            ST
                            Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                            Comment


                            • #44
                              Con Trai người lái buôn ( Cổ Nhi)

                              Ông nọ người đất Sở (*) ra xứ ngoài buôn bán. Vợ ở nhà một mình, đêm nằm mơ thấy giao hợp với người lạ. Tỉnh dậy sờ thì ra một người đàn ông bé nhỏ. Xem cung cách khác với người thường, biết là hồ. Một lát sau bước xuống giường mà đi, cửa chưa mở đã mất hút. Đến tối phải bảo vú già vào ngủ chung. Có đứa con trai mười tuổi, từ trước vẫn ngủ ở giường khác, cũng gọi đến cùng ngủ. Đêm đã khuya, vú già và con đã ngủ cả, hồ lại đến, người đàn bà ú ớ như nói mê. Vú già biết vội hô lên, hồ mới đi.
                              Từ đó, người cứ ngẩn ngơ như đánh mất một vật gì. Tối đến không dám tắt đèn, dặn con không được ngủ say. Đêm khuya, con và vú già dựa lưng vào tường ngủ chợp đi, một lát tỉnh dậy, mẹ đã biến mất. Tưởng đi tiểu tiện, đợi lậu không thấy trỏ vào mới sinh nghi. Vú già sợ không dám đi tìm, thằng con cầm đèn đi soi khắp nơi. Đến một gian buồng khác thì thấy mẹ trần truồng nằm trong đó. Lại gần nâng dậy cũng không biết xấu hổ.
                              Từ đó hóa điên hát, khóc, chửi, mắng, mỗi ngày hàng vạn cách; đêm không muốn ở chung với người, cho con ngủ giuờng khác, vú cũng cho đi chỗ khác. Đứa con mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói, thì dậy châm lửa soi. Mẹ tức giận mắng con, con cũng chẳng để ý, vì vậy ai cũng cho rằng đứa bé gan dạ.
                              Nhưng thằng bé lại hay đùa nghịch quá chừng, hàng ngày bắt chước người thợ đấu (**) lấy gạch đá xếp lên cửa sổ. Ngăn nó, nó không nghe. Hoặc rút một hòn đá của nó đi, nó liền lăn ra đất kêu khóc, cho nên không ai dám chọc tức nữa. Qua mấy hôm sau, hai cửa sổ đều bị lấp kín, không còn chút ánh sáng lọt qua. Thế rồi, nó mới lấy bùn chít che tường hở, suốt ngày quần quật không sợ mệt. Chít xong, không có việc gì làm, liền lấy dao làm bếp ra mài xoèn xoẹt. Ai trông thấy cũng ghét cho là gàn bướng, không coi ai ra người nữa.
                              Đến nửa đêm, thằng bé dấu dao vào bụng, chụp quả bầu lên cây đèn. Đợi mẹ nói mê, lập tức mở đèn ra, chặn cửa buồng kêu to lên. Một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, liền rời khỏi cửa, vờ nói to lên là muốn đi tiểu tiện. Bỗng có một vật như con cáo từ khe cửa vọt ra. Vội chém nó, chỉ đứt được khúc đuôi, dài độ hai tấc, máu còn nhỏ giọt.
                              Mới đầu nó vừa dậy khêu đèn mẹ nó đã mắng chửi, đứa bé làm như không nghe; chém không trúng hồ nó buồn giận đi ngủ. Tự nghĩ tuy không chém chết ngay được, nhưng có thể may ra nó không đến nữa. Đến sáng, xem vết máu thấy leo qua tường mà đi. Lần theo thấy vào tường nhà họ Hà. Đêm đến quả nhiên không thấy gì nữa. Thằng bé mừng thầm, nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như người chết vậy.
                              Không bao lâu, người lái buôn vế, đến bên giường thăm hỏi, vợ chửi mắng coi như cừu thù. Thằng bé kể chuyện lại, ông bố kinh sợ, mời thầy lang về chữa. Vợ hắt bát thuốc đi chửi mắng thậm tệ. Ngầm lấy thuốc bỏ vào nước thang (***) cho uống lẫn, mấy ngày sau, dần dần yên, hai bố con đều mừng.
                              Một đêm, tỉnh giấc dậy, người đàn bà lại biến mất Hai bố con lại tìm thấy ở buồng khác. Từ đó lại điên, không muốn ngủ cùng buồng với chồng nữa. Gần tối là chạy sang buồn khác, giữ lại càng mắng chửi thậm tệ. Chồng không làm cách nào được, phải đóng tất cả cá buồng khác lại. Người đàn bà chạy đến thì tự dưng cửa mở ra. Chồng rất lo sợ, cầu cúng đủ cách cũng không hiệu nghiệm tý nào.
                              Một hôm gần tối, đứa bé lẻn đến giường họ Hà, nấp trong bụi rình xem hồ ở đâu. Trăng vừa lên, bỗng nghe có tiếng người nói, lén vạch cỏ nhòm, thấy hai người đến uống rượu, một người đầy tớ râu dài bê hồ rượu, áo màu lá cọ. Tiếng nói rầm rì nhỏ quá không nghe được rõ. Một lúc nghe thấy một người nói:
                              - Ngày mai hãy mang lại đây một nậm rượi trắng.
                              Lại một lúc nữa hai người đều bỏ đi, duy chỉ có lão râu dài ở lại, cởi aó nằm trên tảng đá trong vườn. Nhìn kỹ tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi thò ra đàng sau. Thằng bé muốn về nhưng sợ hồ biết, đành nấp suốt đêm. Trời chưa sáng, lại nghe thấy hai người lục đục trở lại, tiếng nói lí nhí đi vào trong bụi trúc. Thằng bé mới trở về. Bố hỏi đi đâu, đáp:
                              - Ngủ ở nhà bác.
                              Bỗng một hôm, theo bố vào chợ, thấy hàng mũ có treo cái đuôi chồn, liền xin bố mua cho. Bố không nghe. Nó cứ kéo áo bố, nằn nì đòi mua. Bố không nỡ phật ý, bèn mua cho. Bố buôn bán trong cửa hàng, con đùa nghịch ở bên cạnh. Thừa lúc bố ngoảnh đi chỗ khác, thằng bé lấy cắp tiền, đi mua rượi trắng gửi lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn nghề săn bắn. Nó chạy đến nhà cậu, cậu di vắng. Mợ hỏi bệnh mẹ, nó đáp:
                              - Mấy hôm nay đã khá lớn. Nhưng chuột cắn quần áo, mẹ cháu giận, khóc mãi không nguôi, nên sai cháu xin tí thuốc đánh bả thú(****).
                              Mợ mở hòm lấy độ một đồng cân, gói lại đưa cho thằng bé. Nó cho là ít. Nhân lúc mợ đi làm mì nước cho cháu ăn, nó nhìn trộm nhà không có người, liền mở gói thuốc, trộm lấy một vốc, giấu vào trong bọc, đoạn ra bảo mợ đừng nhóm bếp nữa:
                              - Bố cháu đợi cháu ở chợ, cháu chả kịp ăn đâu.
                              Nói xong đi ngay. Nó lén bỏ thuốc độc vào trong rượu, rồi đi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Bố hỏi đi đâu, nói thác là ở nhà cậu.
                              Từ đó thằng bé ngày ngàyđi chợ chơi. Một hôm thấy người râu dài cũng lẫn trong đám đông. Nó nhìn kỹ quả đúng, liền ngầm theo sát nút. Dần dà nói chuyện với lão. Lão đáp:
                              - Ở thôn Bắc.
                              Lão cũng hỏi lại thằng bé, nó vờ đáp rẳng:
                              - Ở trong hang núi.
                              Lão râu dài thấy nó ở trong hang núi, lâý làm lạ. Thằng bé cười nói:
                              - Nhà tôi đời đời ở trong hang núi, ông cũng thế chứ không ư?
                              Người đó càng kinh ngạc , hỏi họ nó, thằng bé đáp:
                              - Tôi là con họ Hồ, hình như đã từng gặp ông ở đâu, theo sau hai chàng trè tuổi, ông quên rồi ư?
                              Người đó nhìn kỹ thằng bé nửa tin nửa ngờ. Thằng bé khẽ vạch đũng quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói:
                              - Bọn mình trà trộn giữa giống người, chỉ cái của này là vẫn còn, thật cũng đáng bực.
                              Người đó hỏi:
                              - Đi chọ làm gì?
                              Thằng bé nói:
                              - Bố sai tôi đi mua rượu.
                              Lão bảo lão cũng đi mua rượu. Thằng bé hỏi:
                              - Mua chưa?
                              Đáp:
                              - Bọn tôi phần lớn đều nghèo, nên thường đánh cắp nhiều hơn mua.
                              Thằng bé nói:
                              - Việc ấy kể cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ.
                              Người đó nói:
                              - Chủ sao làm, không thể không làm được.
                              Thằng bé nhân đấy lại hỏi:
                              - Chủ là ai?
                              Đáp:
                              - Thì là anh em người trẻ tuổi hôm nào chú nhìn thấy đó. Một người thì dang díu với vợ chàng Vương ở ngaòi cửa Bắc, còn một người thường ngủ nhà ông nọ ở thôn Đông. Chẳng may gặp thằng bé con nhà ông ta dữ quá, bị chém đứt đuôi, mười ngày mới khỏi, bây giờ lại mò đến rồi.
                              Nói xong toan đi, bảo rằng:
                              - Đừng làm lỡ việc của lão nhé.
                              Thằng bé nói:
                              - Lấy trộm khó lắm, chi bằng mua dễ hơn. Tôi đã mua trước gửi ở trong quán, xin tặng ông đấy. Túi tôi còn thừa tiền, không lo gì chuyện mua cả.
                              Lão thẹn vì chẳng có gì trả ơn. Thằng bé nói:
                              - Chúng ta vốn cùng loài, làm gì một tý đó, lúc nào rỗi còn phải chén với ông một bữa say khướt.
                              Liền cùng đi lấy rượu đưa cho rồi về.
                              Đến đêm mẹ quả ngủ yên, không chạy đi đâu nữa.
                              Bụng biết là có chuyện lạ, liền bảo bố cùng đi xem; thì thấy có hai chú hồ chết ở trên ngôi đình. Một con hồ nữa chết trong đám cỏ, máu còn ròng ròng nơi miệng,. Bình rượu cũng ở gần đó, cầm lên lắc, vẫn chưa hết. Ông bố lấy làm lạ, hỏi:
                              - Sao không bảo trước?
                              Thằng bé đáp:
                              Giống này cực thính, hơi lộ là nói biết ngay.
                              Bố mừng nói:
                              - Con ta có cái mưu đánh hồ của Trần Bình (*****) đây!
                              Hai bố con đem xác hồ về. Thấy một con cụt đuôi vết dao còn rõ.
                              Từ đó mới yên, mà người đàn bà gầy ốm quá, dần dần tỉnh ra, nhưng ho càng nặng, khạc ra hàng đấu đờm, chẳng bao lâu rồi chết. Vợ chồng họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ trêu ghẹo, nay đến hỏi thì hồ đã dứt, mà bệnh cũng khỏi. Ông bố vì vậy biết con là đứa trẻ lạ, liền dạy cưỡi ngựa bắn cung, về sau làm đến chức tổng nhung. (******)

                              ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

                              Chú thích:
                              (*) đất Sở : Tên một nước ở TQ thời xưa, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc.
                              (**) thợ đấu: thợ làm đất.
                              (***) Nguyên văn: "thang thủy" là nước sôi hoạc một thứ nước lá trợ lực cho thuốc.
                              (****) bả thú: Nguyên văn "lạp dược" là thuốc độc dùng để săn thú.
                              (*****)Trần Bình là người đầu đời Hán, sau này bày kế giúp Lưu Bang (Hán cao tổ) thu lấy thiên hạ. Ở đây ý nói em bé có mưu kế giỏi như Trần Bình vậy.
                              (******) tổng nhung: chức quan võ về đời Thanh.


                              ST
                              Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                              Comment


                              • #45
                                Cô tú ( a tú )

                                Lưu Tử Cố quê ở Hải Châu (*), năm mười lăm tuổi đến đất Cái thăm cậu, thấy trong cửa hiệu tạp hóa có một cô gái yểu điệu, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, lần vào trong hiệu giả vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi bố. Bố ra, ý định của Lưu bị cản trở, bèn cố ý trả rẻ mà lui ra. Xa trông thấy người cha đi nơi khác bèn quay lại, cô gái toan tìm bố. Lưu ngăn lại nói:
                                - Không cần, cứ nói giá, tôi không trả rẻ đâu.
                                Cô gái được lời, cố ý nâng giá lên. Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại đến, lại làm như trước. Vừa đi được vài bước, cô gái gọi theo:
                                - Trở lại đã! Vừa rồi nói dối đấy, giá thế đắt quá!
                                Nhân mới lấy nửa tiền trả lại. Lưu càng cảm lòng thành thực, hễ rỗi lại đến, vì thế ngày càng quen.
                                Cô gáo hỏi:
                                - Chàng ở đâu?
                                Lưu cứ thực nói. Lại hỏi lại thì tự nói là họ Diêu tên là A Tú (**). Lúc Lưu sắp đi, cô gái đem những vật đã mua, lấy giấy bọc hộ cẩn thận, rồi lè đầu lưỡi, thấm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động đến, sợ mất hẳn lằn lưỡi của nàng.
                                Được nửa tháng, người đầy tớ nhòm biết, mới ngầm cùng cậu, cố bắt Lưu phải về. Chàng bâng khuâng vơ vẩn không khuyây, đem những thứ như khăn mặt, phấn, sáp đã mua cất giấu vào trong một cái tráp, lúc vắng người lại khép cửa, tự mình lần giở xem một lượt. Hễ thấy món nào cũng tưởng nhớ ngẩn ngơ.
                                Năm sau lại đến đất Cái. Hành lý vừa cởi, liền đến ngay chỗ cô gái. Tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt, thất vọng mà về, bụng vẫn nghĩ rằng đi đâu vắng chưa về. Sáng hôm sau lại đến, cửa vẫn khóa như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết, họ Diêu vốn người Quảng Ninh, vì buôn bán không lợi lắm nên tạm về quê ở. cũng không biết rõ bao giờ sẽ trở lại. Tâm thần như nghiêng như đổ; chàng ở vài ngày rồi rầu rĩ mà về.
                                Mẹ bàn dạm vợ cho, nhưng mấy lần chàng đều ngãng ra. Mẹ vừa giận vừa lấy làm lạ. Người đầy tớ liền kể chuyện mấy năm trước cho mẹ biết, mẹ càng đề phòng ráo riết. Đường sang đất Cái từ đó tuyệt hẳn. Lưu đâm thảng thốt, rồi giảm ăn kém ngủ. Mẹ lo lắng không tìm ra cách gì, bèn nghĩ: chẳng bằng theo ý con vậy.
                                Ngay hôm đó liền sắm sửa hành trang cho chàng sang đất Cái, lại chuyển lời nhắn với người cậu nhờ làm mối dùm. Cậu nhận lời, đến nhà họ Diêu, một lát trở về nói với Lưu:
                                - Việc không xong rồi. A Tú đã hứa gả cho một người ở Quảng Ninh!!
                                Lưu cúi đầu ngao ngán, lòng nguội như tro, hy vọng mất hết. Về nhà rồi thường ôm tráp mà khóc, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong thiên hạ lại có người giống như thế.
                                Gặp khi người mối đến, khen người con gái họ Hoàng ở Phục Châu tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, bèn sai đánh xe đến đất Phục. Vào cổng Tây, thấy một nhà hướng Bắc, hai cánh cửa cổng nửa khép nửa mở, trong đó một cô gái giống A Tú lạ. Lại chú ý dõi theo, thấy cô gái vừa đi vừa trông lại mà vào, đích thị không sai.
                                Lưu rất xúc động bèn thuê nhà bên Đông, hỏi dò kỹ thì là nhà họ Lý. Nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ thiên lại có người giống nhau đến thế ư? Ở mấy hôm, không cậy ai được, chỉ hằng ngày đăm đăm trông chờ ngoài cổng, hy vọng cô gái có lúc lại đi ra.Một hôm mặt trời xế về Tây, cô gái quả ra thực, bỗng thấy Lưu, liền quay vào, lấy tay chỉ ra đằng sau, lại để bàn tay lên trán, đoạn mới vào. Lưu mừng hết sức nhưng không hiểu ý ra sao. Ngẫm nghĩ một lát, rảo bước ra sau nhà, thì thấy vườn hoang trống trải, phía Tây có một bức tường thấp độ ngang vai, mới chợt hiểu, liền ngồi phục trong đám cỏ sương. Một lúc lâu, có người từ bên tường kia thò đầu sang khẽ hỏi: "Đã đến đấy à". Lưu đáp : "Vâng" rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì thật A Tú. Nhân khóc nức nở, nước mắt như dây giòng (***). Cô gái cách tường tay vuốt ve lên mình Lưu lấy khăn lau nước mắt cho chàng, kiếm lời an ủi ân cần.
                                Lưu nói:
                                - Xoay xỏa trăm kế chẳng xong, tự bảo kiếp này thôi thế là thôi, nào ngờ lại có đêm nay. Nhưng sao nàng lại đến đây?
                                Đáp:
                                - Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp.
                                Lưu xin trèo tường sang, cô gái nói:
                                - Chàng cứ về trước, bảo người nhà đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự đến.
                                Lưu làm như lời nàng, ngồi đợi. Một lúc sau cô gái lặng lẽ đi vào, ăn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước. Lưu kéo ngồi xuống, kể lể nổi nhớ, nhân hỏi:
                                - Nghe nói nàng đã nhận lời người ta, sao còng chưa cưới?
                                Cô gái nói:
                                - Ai bảo thiếp nhận lời là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi không muốn gả thiếp cho chàng. Có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng đừng mong tưởng nữa mà thôi.
                                Rồi đó lên giường chung gối; lả lướt muôn nghìn cách, đưa đón thật hoan lạc, không sao nói hết cho được. Đến canh tư vội trở dậy trèo tường mà đi. Từ đấy Lưu quên hẳn ý định đến nhà họ Hoàng, trọ liền nửa tháng tại đây, tuyệt nhiên không nói gì đến việc về nữa.
                                Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong nhà đèn còn sáng, nhòm vào thấy A Tú sợ lắm, không dám hỏi chủ. Sáng dậy, ra hỏi các cửa hàng ngoài chợ, rồi trở về hỏi Lưu:
                                - Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai vậy?
                                Lúc đầu Lưu chối, người đây tớ nói:
                                - Nhà này vắng vẻ là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái họ Diêu làm gì mà đến chốn này?
                                Lưu mới thẹn nói:
                                - Nhà hàng xóm phía Tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngờ.
                                Người đầy tớ đáp:
                                - Tôi đã hỏi kỹ. Nhà bên Đông chỉ có một bà cụ già, nhà bên Tây chỉ có một người con trai còn nhỉ, nggoài ra chẳng có thân thích nào nữa. Người cậu gặp gỡ đây tất là ma quỷ, nếu không, chẳng lẽ cái áo mấy năm vẫn không thay? Vả lại da mặt trắng quá, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền không đẹp bằng A Tú.
                                Lưu suy đi nghĩ lại đâm hoảng, nói:
                                - Bây giờ làm thế nào?
                                Người đầy tớ bàn tính đọi cô gái đến, cầm binh khíxông vào cùng đánh. Chập tối, cô gái đên, nói với Lưu rằng:
                                - Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn cái duyên phận với nhau thôi.
                                Nói chưa dứt, người đầy tớ đẩy cửa xông vào. Cô gái mắng:
                                - Bỏ ngay binh khí xuống, rồi mang rượu đến đây, để ta từ biệt chủ nhân.
                                Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị người giằng lấy. Lưu càng sợ cố gằng tiếp rượu. Cô gái cười như thường, giơ tay chỉ vào Lưu mà nói:
                                - Biết tâm sự chàng, vẫn định lo toan giúp chàng chút ít, sao lại nỡ phòng bị ngầm? Tuy thiếp không phải A Tú, nhưng cũng tự cho mình không kém. Chàng tự nhìn kỹ xem, không phải ư?
                                Lưu rợn hết lông chân, miệng đờ ra không nói được. Cô gái nge canh đã sang ba, liền cầm chén hớp một hớp, đứng dậy nói:
                                - Tôi hẵng đi đã, đợi đến sau hôm động phòng hoa chúc sẽ lại đến so với người đẹp của chàng xem ai hơn ai kém.
                                Đoạn quay mình ra, biến mất.
                                Lưu tin lời hồ nói, lại sang đất Cái. Oán cậu nói dối mình, không đến nhà cậu nữa mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ mối đến nói chuyện, đút cho nhiều tiền. Bà vợ họ Diêu nói:
                                - Chú nó định kiếm chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên ông nó sang đấy. Việc thành hay không chưa thể biết; phải đợi ông ấy về, mới có thể bàn được.
                                Lưu nghe nói, bàng hoàng không biết làm thế nào, đành phải cố đợi ông Diêu về.
                                Được hơn mười ngày, bỗng nghe có loạn, còn ngờ là lời đồn huyễn; lâu về sau, tin càng gấp, bèn thu xếp hành trang ra đi. Giữa đường gặp loạn thầy tớ lạc nhau, Lưu bị quân trinh sát bắt. Thấy Lưu họ trò yếu đuối, họcũng lơ là việc canh phòng, Lưu liền ăn trộm ngựa trốn đi.Đến giáp giới Hải Châu, thấy một người con gái, đầu tóc rối bù, mặt mũi nhem nhuốc, bước chân thất thiểu, dường không lê nổi. Lưu ruổi ngựa vượt lên trước, cô gái vội vàng gọi:
                                - Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu đó không ?
                                Lưu dừng roi lại, nhìn kỹ thì ra là A Tú. Bụng còn sợ là hồ, liền hỏi:
                                - Nàng là A Tú thật đó chăng?
                                Cô gái hỏi:
                                - Tại sao lại hỏi câu đó?
                                Lưu kể lể những chuyện mình đã gặp. Cô gái nói:
                                - Thiếp là A Tú thực. Cha thiếp đem thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi , nhưng mấy lần đều bị ngã. Chợt một người con gái nắm lấy cổ tay lôi đi, trốn lẩn lút trong đám quân cũng không có ai hỏi. Cô gái ấy đi nhanh như cắt, thiếp khốn khổ mà không theo kịp, mới độ trăm bước đã mấy lần tụt lại phía sau.Một lúc lâu, nghe thâý tiếng người reo ngựa hí xa gần, mới buông tay thiếp ra, nói:
                                - Từ giã thôi! Đường trước mặt đều yên ổn, có thể thủng thẳng mà đi; người yêu của em cũnga sắp đến, nên theo chàng cùng về.
                                Lưu biết đấy là hồ, lầy làm cảm kích, nhân kể rõ đầu đuôi vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói rằng chú nàng định gả cho người họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá, bèn đỡ nàng lên ngựa, cùng cưỡi về.
                                Vào cổng, mẹ già vẫn không việc gì, Lưu rất mừng, bèn buộc ngựa mà vào nhà, kể chuyện đầu đuôi. Mẹ cũng mừng, liền sửa soạn cho cô gái đi tắm rửa. Nàng trang điểm, dung nhan lộng lẫy, mẹ vỗ tay nói:
                                - Chả trách gì thằng con si mộng hồn không lúc nào yên.
                                Bèn trải đệm bảo cô gái nằm chung với mình. Lại sai người đến đất Cái đưa thư cho họ Diêu biết. Chưa được mấy ngày, vợ chồng Diêu cùng đến, chọn ngày lành cho con gái thành hôn rồi mới đi.
                                Lưu đem cái tráp mình cất giữ ra, dấu phong còn nguyên vẹn.. Có hộp phấn mở ra thì hóa ra đất đỏ. Lưu lấy làm lạ. Cô gái bưng miệng cười nói:
                                - Vụ trôm mấy năm trước, nay bị phát giác rồi. Ngày ấy, thấy chàng để mặc thiếp tự gói, không xem lại thật giả, nên làm thế để bỡn nhau đấy thôi.
                                Đang lúc cười đùa, một người vén màn bước vào nói:
                                - Thích ý như thế, thì phải tạ ơn bà mối chứ?
                                Lưu nhìn lại thì lại một A Tú nữa, vội gọi mẹ. Mẹ và người nhà đều cùng đến, mà không ai pân biệt được. Lưu vừa đảo mắt một cái cũng lẫn luôn. Phải chú mục giây lâu mới biết mà vái tạ. Cô gái ấy tìm gương tự soi, rồi thẹn thùng đi vội ra, theo tìm thì đã biến mất rồi. Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong nhà.
                                Một đêm, Lưu uống rượu say về, trong nhà tối tăm không có ai, đương tìm đèn để thắp thì A Tú đến. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, cười nói rằng:
                                - Hơi men sặc người, làm người ta không chịu được. Như thế mà còn tra hỏi vòng vo! Ai đã trốn vào ruộng dâu đâu nào!
                                Lưu cười nâng hai má nàng lên. Cô gái nói tiếp:
                                - Chàng trông thiếp với chị hồ ai hơn?
                                Lưu nói:
                                - Mình đẹp hơn, nhưng người nào chỉ xem bề ngoài thì không sao phân biệt được.
                                Thế rồi khép cửa lại ôm nhau giao hợp, chốc lát có tiếng gõ cửa, cô gái liền đứngdậy cười nói:
                                - Chàng cũng là kẻ chỉ biết xem bề ngoài thôi nhá.
                                Lưu chưa hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất kinh ngạc, mới biết người vừa nói chuyện vừa rồi là hồ. Trong đêm tối lại nghe thấy tiếng cười. Hai vợ chồng trông vào quảng không mà vái, cầu xin nàng hiện hình trơ lại. Hồ nói:
                                - Tôi không muốn trông thấy A Tú.
                                Hỏi:
                                - Tại sao không biến thành khuôn mặt khác?
                                Nói:
                                - Không thể được.
                                Hỏi tại sao, nói rằng:
                                - A Tú là em gái tôi, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng tôi theo mẹ lên thiên cung, thấy Tây Vương Mẫu đem lòng yêu mến, lúc về cồ sức bắt chước. Em tôi thông tuệ hơn tôi, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, tôi học đến ba tháng mới giống mà rồi cũng không bằng nó. Đến nay đã khác kiếp, tự nghĩ hơn nó, không ngờ vẫn như ngày xưa. Tôi cảm lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ đến thăm, bây giờ thì đi đây.
                                Liền không nói gì nữa. Từ đấy, dăm ba ngày lại đến một lần, những việc khó khăn nghi ngại đều giải quyết được cả.
                                Khi A Tú về thăm cha mẹ thì ở luôn mấy ngày không đi, người nhà đều sợ mà tránh. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc kịch sự, cài cái trâm đồi mồi dài mấy tấc, bắt người nhà đứng xung quanh, rồi nghiêm giọng bảo rằng:
                                - Vật lấy trộm, đêm nay phải mang đến chỗ ấy chỗ nọ mà để, nếu không đầu sẽ nhức buốt lên, hối không kịp đâu.
                                Trời sáng quả lấy lại được đúng chỗ đã bảo.
                                Ba năm sau, tuyệt không đến nữa. Bỗng nhiên gặp chuyện mất tiền lụa. A Tú bắt chước ăn mặc đúng như cô ta mà đe người nhà, cũng thường thấy kiến hiệu.

                                ĐỖ NGỌC TOẠI dịch
                                Chú thích
                                (*) một huyện thuộc tỉnh Giang Tô
                                (**) Trong bản chúng tôi dùng làm gốc, cô gái không xưng tên. Nhưng xét toàn bộ câu chuyện thì không ở đâu xưng tên nữa, vì vậy chúng tôi tham khảo thêm các bản khác mà thêm vào câu này.
                                (***) Dây giòng xuống giếng để múc nước.


                                ST
                                Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

                                Comment

                                Working...
                                X