By Chương Quân
Danh tướng
Lý Thuấn Thần (Yi Sun-sin) – nguồn _www.kccro.ro
Bầu trời Hán Thành (Seoul) vào ngày tôi lần đầu tiên đặt chân đến xứ sở Kim Chi vần vũ, xám xịt. Người bạn Hàn quốc bận bịu không thể đến đón tôi tại sân bay, cũng may là có dặn dò địa chỉ khách sạn nên tôi đón xe bus đến thẳng và nhận phòng đã đặt sẵn. Một chút xám xịt của ngày hôm ấy dường như để tạo nên sự bất ngờ tương phản khi tôi “đối diện” với một phần dĩ vãng xán lạn nơi xứ Hàn. Dĩ vãng ấy của họ khiến cho tôi giật mình nghĩ lại, và không khỏi ngậm ngùi trước lịch sử nước Việt đã bị viết lệch, nhìn lệch.
Chương Quân
1.
Người bạn Hàn dẫn tôi đến thăm quảng trường Quang Hóa Môn (Gwanghwamun) ở trung tâm thủ đô Hán Thành. Một tượng đài cao lồng lộng thu hút mọi tầm nhìn của du khách. Ðó là danh tướng Lý Thuấn Thần (Yi Sun-sin, 1545-1598), trở thành người anh hùng bất tử với chiến công đập tan hải quân Nhật vào cuối thế kỷ 16. Tôi tôn trọng niềm ngưỡng mộ của Kim, anh bạn xứ Hàn khi anh kể vắn tắt về người anh hùng thủy quân. Tôn sùng võ tướng, tôi nghĩ, ở đâu chẳng có, và điều này chẳng xa lạ gì với tâm thức người Việt.
Anh chàng Kim chỉ tay về phía một tượng đài khác, cũng nằm trong quảng trường Quang Hóa Môn, bằng một niềm ngưỡng mộ còn sâu thẳm hơn. Lại là một võ tướng, với chiến công hiển hách gấp bội chăng? Tôi đến gần pho tượng. Phong thái ung dung, khuôn mặt nhân hậu của pho tượng có sức quyến rũ lạ thường. Ðó là tượng đài vua Lý Thế Tông (Sejong, 1387-1450). Thành tựu lớn nhất của nhà vua là cải cách văn tự, ban hành bộ chữ cái Hangul (vào năm 1446) ký âm tiếng Hàn (được dùng cho đến hiện nay), bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía những “sĩ phu” bảo thủ và tôn sùng văn hóa Hán tự trong nước.
Bảo trợ văn tự, văn hóa – trong tâm thức người Hàn quốc – được xem là một công trạng lẫm liệt, vì vậy, Thế Tông (Sejong) đã trở thành anh hùng bất tử!
Vua Lý Thế Tông (Sejong), người ban hành bộ chữ cái Hangul – nguồn _rockandseoulmusings.wordpress.com
Vua Thế Tông còn được biết đến là người bảo trợ những phát minh khoa học. Dưới thời trị vì của ông, Tưởng Anh Thực (Jang Yeong-sil) có những phát minh xuất chúng như đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời, đặc biệt là máy đo lượng mưa (“vũ lượng kế”, vào năm 1442) đầu tiên trên thế giới. Vua Thế Tông phong Tưởng làm quan cho dù Tưởng không biết tụng vanh vách “Tứ thư”, “Ngũ kinh” cũng không giỏi làm thơ “phun châu nhả ngọc” ca ngợi thánh hiền. Lúc bấy giờ, nhiều quan chức trong triều đã phản đối trước việc phong chức quan cho một kẻ tiện dân như Tưởng Anh Thực.
Kiến thiết đất nước hữu hiệu bằng những phát minh khoa học kỹ thuật – trong cách nhìn lịch sử của người Hàn – được xem là một công trạng còn hơn cả công trạng quân sự. Nhà vua Thế Tông được lưu danh muôn thuở là bởi viễn kiến “nhìn xa trông rộng”.
2.
Mỗi khi nhìn về lịch sử ngàn năm độc lập tự chủ (tính từ năm 938 lập nên nhà Ngô kéo dài cho đến năm 1862 khi nhà Nguyễn buộc phải ký hòa ước nhượng ba tỉnh miền Ðông, đánh dấu người Việt không còn thủ đắc chủ quyền trên toàn lãnh thổ), trăm người như một đều nhắc đến những chiến công đánh thắng quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh cùng những danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung… Cơ hồ ký ức về ngàn năm tự chủ của dân tộc Việt Nam là ký ức về chuỗi dài sống trong chinh chiến; cơ hồ giấc ngủ của người Việt chẳng bao giờ được yên vì chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc, và ám ảnh chinh chiến đi vào cả giấc mộng để mơ làm người hùng Hưng Ðạo đại vương, mơ làm người Quang Trung…
Thực sự, những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc đã cướp đoạt thời gian sinh tồn của người Việt hết bao năm? Ắt hẳn nhiều người trong chúng ta sẽ phải lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng tổng thời gian cho các cuộc chiến tranh chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc Thanh, khi cộng lại chưa đầy 23 năm (*: xem bản liệt kê thời gian cho từng cuộc chiến tranh ở cuối bài)!
Chỉ 23 năm trong suốt chiều dài gần ngàn năm (925 năm, từ năm 938 đến năm 1862), nghĩa là có đến 900 năm người Việt không phải chống chọi với giặc Tàu. Nếu trừ đi khoảng hai trăm năm nội chiến (nhà Mạc với Hậu Lê, Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn đánh nhau với chúa Nguyễn rồi chúa Trịnh), người Việt cũng còn lại gần 700 năm để học hỏi kinh nghiệm dựng nước.
Chẳng lịch sử nào được xem là bình thường nếu suốt năm suốt tháng, năm này sang năm nọ cứ mải mê vào khói lửa chinh chiến. Lịch sử chỉ trở nên lành mạnh khi phần lớn thời gian là dành cho hòa bình, cho kiến thiết, và quả thật lịch sử VN cũng có được sự lành mạnh chứ chưa đến nỗi. Nhưng, liệu cái nhìn về lịch sử VN có được lành mạnh, cân bằng hay chưa?
… Tôi đã đến thăm Bảo tàng lịch sử Hán Thành, và nhìn thấy những đoàn học sinh tíu tít vào bảo tàng, bọn trẻ đang “lội ngược dòng lịch sử” để từ đó bọn trẻ nuôi ước mơ cho hiện tại. Nhờ người bạn họ Kim hỏi han, tôi nhận được vài câu trả lời của bọn trẻ. Ðứa mơ “làm danh tướng Yi Sun-sin (Lý Thuấn Thần)”, đứa khác mơ “vua Sejong (Thế Tông)”, đứa khác ngưỡng vọng “mơ làm Jang Yeong-sil (Tưởng Anh Thực)”…
Còn thiếu niên, ngay cả thanh niên Việt Nam thì sao? Kẻ mơ “làm người Quang Trung”, người khác ngưỡng vọng Trần Hưng Ðạo… Tìm đỏ con mắt cũng chẳng thấy ai mơ làm Trạng Lường Lương Thế Vinh (nổi danh nhà toán học với công trình “Ðại thành toán pháp” được giảng dạy trong suốt bốn thế kỷ); chẳng thấy ai mơ làm Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) góp công lớn trong nỗ lực cổ súy văn tự riêng cho người Việt bằng chữ Nôm; đặc biệt, chúa Nguyễn Hoàng (cùng với một số chúa Nguyễn kế tục) khai phá Ðàng Trong mở rộng gấp đôi bờ cõi, giao thương với quốc tế khiến cho phương Nam trở thành sự lựa chọn chiến lược phát triển cho toàn nước Việt – buồn thay, có rất nhiều bạn trẻ ngơ ngác không biết chút gì về công trạng của Nguyễn Hoàng!
Chúa Nguyễn Hoàng, người mở đầu cho khai phá Đàng Trong, mở rộng gấp đôi bờ cõi nước Việt- nguồn _pda.vietbao.vn16
Giấc mơ, nói cho cùng, không có công cũng chẳng có tội. Lỗi lầm lớn nhất nằm ở cách trình bày lịch sử (khiến cho giấc mơ cũng tiêm nhiễm theo): lịch sử đã bị nhìn lệch, viết lệch!
CQ (baotreonline)
Danh tướng
Lý Thuấn Thần (Yi Sun-sin) – nguồn _www.kccro.ro
Bầu trời Hán Thành (Seoul) vào ngày tôi lần đầu tiên đặt chân đến xứ sở Kim Chi vần vũ, xám xịt. Người bạn Hàn quốc bận bịu không thể đến đón tôi tại sân bay, cũng may là có dặn dò địa chỉ khách sạn nên tôi đón xe bus đến thẳng và nhận phòng đã đặt sẵn. Một chút xám xịt của ngày hôm ấy dường như để tạo nên sự bất ngờ tương phản khi tôi “đối diện” với một phần dĩ vãng xán lạn nơi xứ Hàn. Dĩ vãng ấy của họ khiến cho tôi giật mình nghĩ lại, và không khỏi ngậm ngùi trước lịch sử nước Việt đã bị viết lệch, nhìn lệch.
Chương Quân
1.
Người bạn Hàn dẫn tôi đến thăm quảng trường Quang Hóa Môn (Gwanghwamun) ở trung tâm thủ đô Hán Thành. Một tượng đài cao lồng lộng thu hút mọi tầm nhìn của du khách. Ðó là danh tướng Lý Thuấn Thần (Yi Sun-sin, 1545-1598), trở thành người anh hùng bất tử với chiến công đập tan hải quân Nhật vào cuối thế kỷ 16. Tôi tôn trọng niềm ngưỡng mộ của Kim, anh bạn xứ Hàn khi anh kể vắn tắt về người anh hùng thủy quân. Tôn sùng võ tướng, tôi nghĩ, ở đâu chẳng có, và điều này chẳng xa lạ gì với tâm thức người Việt.
Anh chàng Kim chỉ tay về phía một tượng đài khác, cũng nằm trong quảng trường Quang Hóa Môn, bằng một niềm ngưỡng mộ còn sâu thẳm hơn. Lại là một võ tướng, với chiến công hiển hách gấp bội chăng? Tôi đến gần pho tượng. Phong thái ung dung, khuôn mặt nhân hậu của pho tượng có sức quyến rũ lạ thường. Ðó là tượng đài vua Lý Thế Tông (Sejong, 1387-1450). Thành tựu lớn nhất của nhà vua là cải cách văn tự, ban hành bộ chữ cái Hangul (vào năm 1446) ký âm tiếng Hàn (được dùng cho đến hiện nay), bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía những “sĩ phu” bảo thủ và tôn sùng văn hóa Hán tự trong nước.
Bảo trợ văn tự, văn hóa – trong tâm thức người Hàn quốc – được xem là một công trạng lẫm liệt, vì vậy, Thế Tông (Sejong) đã trở thành anh hùng bất tử!
Vua Lý Thế Tông (Sejong), người ban hành bộ chữ cái Hangul – nguồn _rockandseoulmusings.wordpress.com
Vua Thế Tông còn được biết đến là người bảo trợ những phát minh khoa học. Dưới thời trị vì của ông, Tưởng Anh Thực (Jang Yeong-sil) có những phát minh xuất chúng như đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời, đặc biệt là máy đo lượng mưa (“vũ lượng kế”, vào năm 1442) đầu tiên trên thế giới. Vua Thế Tông phong Tưởng làm quan cho dù Tưởng không biết tụng vanh vách “Tứ thư”, “Ngũ kinh” cũng không giỏi làm thơ “phun châu nhả ngọc” ca ngợi thánh hiền. Lúc bấy giờ, nhiều quan chức trong triều đã phản đối trước việc phong chức quan cho một kẻ tiện dân như Tưởng Anh Thực.
Kiến thiết đất nước hữu hiệu bằng những phát minh khoa học kỹ thuật – trong cách nhìn lịch sử của người Hàn – được xem là một công trạng còn hơn cả công trạng quân sự. Nhà vua Thế Tông được lưu danh muôn thuở là bởi viễn kiến “nhìn xa trông rộng”.
2.
Mỗi khi nhìn về lịch sử ngàn năm độc lập tự chủ (tính từ năm 938 lập nên nhà Ngô kéo dài cho đến năm 1862 khi nhà Nguyễn buộc phải ký hòa ước nhượng ba tỉnh miền Ðông, đánh dấu người Việt không còn thủ đắc chủ quyền trên toàn lãnh thổ), trăm người như một đều nhắc đến những chiến công đánh thắng quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh cùng những danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Quang Trung… Cơ hồ ký ức về ngàn năm tự chủ của dân tộc Việt Nam là ký ức về chuỗi dài sống trong chinh chiến; cơ hồ giấc ngủ của người Việt chẳng bao giờ được yên vì chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc, và ám ảnh chinh chiến đi vào cả giấc mộng để mơ làm người hùng Hưng Ðạo đại vương, mơ làm người Quang Trung…
Thực sự, những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm phương Bắc đã cướp đoạt thời gian sinh tồn của người Việt hết bao năm? Ắt hẳn nhiều người trong chúng ta sẽ phải lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng tổng thời gian cho các cuộc chiến tranh chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc Thanh, khi cộng lại chưa đầy 23 năm (*: xem bản liệt kê thời gian cho từng cuộc chiến tranh ở cuối bài)!
Chỉ 23 năm trong suốt chiều dài gần ngàn năm (925 năm, từ năm 938 đến năm 1862), nghĩa là có đến 900 năm người Việt không phải chống chọi với giặc Tàu. Nếu trừ đi khoảng hai trăm năm nội chiến (nhà Mạc với Hậu Lê, Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhà Tây Sơn đánh nhau với chúa Nguyễn rồi chúa Trịnh), người Việt cũng còn lại gần 700 năm để học hỏi kinh nghiệm dựng nước.
Chẳng lịch sử nào được xem là bình thường nếu suốt năm suốt tháng, năm này sang năm nọ cứ mải mê vào khói lửa chinh chiến. Lịch sử chỉ trở nên lành mạnh khi phần lớn thời gian là dành cho hòa bình, cho kiến thiết, và quả thật lịch sử VN cũng có được sự lành mạnh chứ chưa đến nỗi. Nhưng, liệu cái nhìn về lịch sử VN có được lành mạnh, cân bằng hay chưa?
… Tôi đã đến thăm Bảo tàng lịch sử Hán Thành, và nhìn thấy những đoàn học sinh tíu tít vào bảo tàng, bọn trẻ đang “lội ngược dòng lịch sử” để từ đó bọn trẻ nuôi ước mơ cho hiện tại. Nhờ người bạn họ Kim hỏi han, tôi nhận được vài câu trả lời của bọn trẻ. Ðứa mơ “làm danh tướng Yi Sun-sin (Lý Thuấn Thần)”, đứa khác mơ “vua Sejong (Thế Tông)”, đứa khác ngưỡng vọng “mơ làm Jang Yeong-sil (Tưởng Anh Thực)”…
Còn thiếu niên, ngay cả thanh niên Việt Nam thì sao? Kẻ mơ “làm người Quang Trung”, người khác ngưỡng vọng Trần Hưng Ðạo… Tìm đỏ con mắt cũng chẳng thấy ai mơ làm Trạng Lường Lương Thế Vinh (nổi danh nhà toán học với công trình “Ðại thành toán pháp” được giảng dạy trong suốt bốn thế kỷ); chẳng thấy ai mơ làm Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) góp công lớn trong nỗ lực cổ súy văn tự riêng cho người Việt bằng chữ Nôm; đặc biệt, chúa Nguyễn Hoàng (cùng với một số chúa Nguyễn kế tục) khai phá Ðàng Trong mở rộng gấp đôi bờ cõi, giao thương với quốc tế khiến cho phương Nam trở thành sự lựa chọn chiến lược phát triển cho toàn nước Việt – buồn thay, có rất nhiều bạn trẻ ngơ ngác không biết chút gì về công trạng của Nguyễn Hoàng!
Chúa Nguyễn Hoàng, người mở đầu cho khai phá Đàng Trong, mở rộng gấp đôi bờ cõi nước Việt- nguồn _pda.vietbao.vn16
Giấc mơ, nói cho cùng, không có công cũng chẳng có tội. Lỗi lầm lớn nhất nằm ở cách trình bày lịch sử (khiến cho giấc mơ cũng tiêm nhiễm theo): lịch sử đã bị nhìn lệch, viết lệch!
CQ (baotreonline)
Comment