By Trịnh Thanh Thủy - October 8, 2016
Nhắc tới dòng nhạc tiền chiến hẳn khán thính giả vào những năm trước 75 không quên một giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý của Kim Tước. Kim Tước là một trong những giọng hát làm vừa lòng không những giới thưởng ngoạn biết và yêu nhạc mà cả những nhạc sĩ thuộc thành phần khó tính nhất.
*chữ của Vũ Thùy Hạnh
Kim Tước với dáng dấp quý phái, tiếng hát chuẩn lúc nào cũng đi sát với kỹ thuật của cô, đã chinh phục được trái tim những người biết nhạc và họ có thể nhắm mắt để thưởng thức mà khỏi cần xem sự phô diễn của ca sĩ. Nhạc sĩ Vũ Thành, ông bầu của ban nhạc đại hòa tấu thời bấy giờ là một ông bầu rất khó tính mà trong đôi tai thẩm âm rất chọn lựa, chỉ có giọng hát Kim Tước và Anh Ngọc vừa tai ông thôi. Ðồng thời, Kim Tước cũng được trân quý bởi lớp nhạc sĩ nhiều thế hệ như Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Quỳ, Vũ Thành, Phạm Duy, cho đến Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Văn Khoa, Hoàng Quốc Bảo…
Ban Tiếng Tơ Đồng. Từ trái: Hoàng Trọng, Duy Trác, Thanh Sơn, Kim Tước, Tuyết Anh, Ánh Tuyết, Mai Hương.
Trịnh Thanh Thủy (TTT): T được biết chị đi hát từ khi còn bé và đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội. Xin chị cho nghe chuyện ngày ấy.
Kim Tước (KT): Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà Minh Ðỗ là dì ruột của tôi đang hát ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn piano với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi cứ đến tập. Có một hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát thanh để xem bà ấy hát. Thế thì đúng vào ngày hôm đó có cô ca sĩ nào đó không tới hát nên bà ấy bảo cứ cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết xướng âm nên cầm cái bài hát là hát luôn. Một thời gian ngắn sau, đài phát thanh Hà Nội bắt đầu tổ chức những cuộc tuyển lựa ca sĩ và tôi đã ghi tên dự thi ngay trong lần thi hát đầu tiên. Tôi chiếm giải nhất về giọng ca nữ, trong khi Thanh Hiếu đoạt giải nhất dành cho giọng ca nam.
Kim Tước tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh tại Nam Định. Cô học trường Pháp và đậu tú tài Pháp. Năm 14 tuổi, cô bắt đầu bước vào ca hát chuyên nghiệp. Trong một cuộc thi tuyển ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội, Kim Tước đoạt giải nhất của giọng ca nữ. Kim Tước hát, trên đài Pháp Á, trong ban nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Nguyễn Phụng và ban đại hòa tấu của nhạc sĩ Vũ Thành. Năm 1956, cô đã trình bày một số nhạc phẩm cổ điển của Mozart bằng tiếng Pháp tại Dinh Tổng thống và là ca sĩ duy nhất được vinh dự nhận hoa trao tặng từ tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
TTT: Cảm tưởng của chị ra sao?
KT: Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà sợ lắm cơ, vì toàn những tay đại cổ thụ của âm nhạc và đài phát thanh làm giám khảo như Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn v.v… Tôi phải qua đủ các vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau này lớn lên gặp họ lại vẫn còn sợ. Ðã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố la mắng, vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và theo quan niệm “xướng ca vô loại”. Do đó tôi không cảm thấy vui vẻ gì dù được đoạt giải.
TTT: Bài hát đoạt giải của chị là bài gì vậy và sau đó thì chị bắt đầu đi hát?
KT: Ðó là bài “Ngọc Lan” của Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo bài đó khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.
Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào Nam còn túng thiếu lắm.
TTT: Kỷ niệm nào chị nhớ nhất?
KT: Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên. Ðó là bị mẹ bắt bú sữa ứ của bà khi em bé bú không hết, làm bà bị đau ngực. Mà không phải một đứa, nhiều đứa.
Rồi thuở ấy, mỗi mùa hè, mẹ cho về nhà bà ngoại ở Nam Ðịnh. Cụ ngoại có một trang trại (ấp) giống như đồn điền vậy. Cụ vừa làm ruộng vừa nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê, heo v.v… Trong trại có một villa lớn. Cụ bắt tôi đi chăn bò, cho bò ăn, vắt sữa bò. Khi ấy, tôi còn bé, sức thì yếu, bàn tay bé tẹo. Tôi nắm cái vú lớn con bò mà vắt, vừa vắt, tay vừa đau, mà con bò thấy khó chịu, đau, nó đá cho một phát. Tuy thế được học những cái ở nhà quê, tôi lấy làm sung sướng lắm. Cụ dạy nuôi tằm, dệt cửi, tự dệt quần áo để mặc. Sau khi dệt thành vải may quần đùi, tôi đem bùn và củ nâu giã nhỏ trét vào vải để nhuộm nâu rồi đem phơi. Tôi còn được học cách làm trà sen. Mỗi sớm tinh sương, tôi chèo thuyền nan, thuyền thúng ra hồ sen. Men hai bên bờ hồ có trồng cây vối, tôi hái nụ vối về nấu nước pha trà. Rồi hái sen về, bóc hột đem phơi, và lấy những tia vàng của hoa, đem về ướp trà cho các cụ uống.
Kim Tước trong phòng thu âm
TTT: Sở hữu một giọng Mezzo Soprano (Bán Kim), Chị có thể lên cao và xuống thấp trong một âm vực rất rộng. Làn hơi dài giúp chị ngắt câu rất hợp cách. Có những ca sĩ hơi không đủ, mới hát được hai ba chữ đã hết hơi, nên hay ngắt câu sai, Duy Cường gọi những ca sĩ ấy là chẻ vụn ca khúc như thái rau diếp! Xin chị cho biết âm vực (quãng rộng) của giọng hát chị. Là một ca sĩ được nhạc sĩ Phạm Duy và Vũ Thành ngợi khen và quý trọng vì khi hát chị rất coi trọng kỹ thuật và cảm xúc của tác giả. Xin chị chia sẻ chút kiến thức và kinh nghiệm trong kỹ thuật luyện thanh.
KT : Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống thấp rất dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt Ðô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật ra tại ngày xưa mấy ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng kỹ thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm vào. Trong khi họ sáng tác thì lại dựa trên tình cảm mà viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào thì họ không bằng lòng. Riêng tôi, họ viết sao tôi hát theo làm vậy, không tự mình uốn éo, luyến láy thêm bớt. Ngoại trừ họ viết uốn éo thì tôi uốn éo theo. Một thời gian sau, theo thời thế, dĩ nhiên họ phải chịu sự thay đổi. Chính họ cũng cảm thấy hát cứng quá thiếu sự truyền cảm và khi viết nhạc họ cố viết sao cho có sự truyền cảm hơn. Giới ca sĩ những thế hệ sau này, tự họ tạo ra lối hát riêng của họ. Tôi thì tôi không thể bắt chước, cũng như người khác không thể bắt chước lối hát của tôi được. Thành ra các nhạc sĩ hiểu ra, người ca sĩ này sẽ hát theo lối này, người khác sẽ hát theo lối khác, tự họ sẽ phải mềm mại đi để theo những lối hát khác nhau của các ca sĩ.
TTT: Vào thập niên 60, chị và Châu Hà, Mộc Lan, hợp thành một ban tam ca Mộc Kim Châu nổi tiếng. Xin cho biết phạm vi hoạt động của nó? Ðầu thập niên ấy, ngoài ban tam ca nữ này còn có một ban tam ca nữ nào không? Sau khi ra hải ngoại, chị lại cùng Mai Hương và Quỳnh Giao thành lập ban Tiếng Tơ Ðồng, ban này hoạt động bao lâu và tại sao lại tan rã.
KT: Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát trong các ban nhạc khác nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp nhau (nhưng không giống nhau), nên đã gom lại thành ban tam ca Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi rất hòa hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể hát the thé. Nếu giọng của chị xuống trầm, tôi có thể làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành một ban tam ca rất quyện nhau. Chúng tôi hát với nhau sung sướng đến độ vừa hát xong một bài, cả ba cùng phá lên cười. Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống nhau, hợp nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau. Hát hợp ca khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi trội hơn người khác. Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết hòa âm cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều nhất là Ðài Phát Thanh Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước khi chiếu. Ngày ấy một xuất xi nê chỉ dài độ một tiếng. Phần phụ diễn thường là tân nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra trình diễn được xem là mới mẻ vì lúc ấy làm gì có tam ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi. Chúng tôi cũng hát phụ họa cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà Thanh hay Khánh Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Ðôi khi chúng tôi gọi đùa nhau là “Les Trois Mousquetaires”(Ba chàng ngự lâm pháo thủ).
Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng do tôi và Mai Hương, Quỳnh Giao ra đời nhưng vì mỗi người định cư ở một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất tiện nên chỉ hoạt động được một thời gian.
TTT: T nghe nói trong quá khứ, chị có địa vị xã hội là phu nhân của một đại tá Hải Quân chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang. Vào những năm trước 75, chị hoạt động ca hát thường xuyên, chuyện này có ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chị không?
KT: Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà tôi thì đi lính, xa nhà hoài, đời sống cả hai thiếu sự gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu sự vun đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở với nhau, tôi vẫn làm tròn trách nhiệm của tôi nghĩa là trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan chức trong nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong vai trò tiếp đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các Hạm trưởng Hải Quân hay Chỉ Huy Trưởng Ðệ Thất Hạm Ðội của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo ngoại ngữ, và tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt với tôi lại là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn được các cụ cho đi học trường sơ Pháp, nói toàn tiếng Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được học cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.
TTT: Vậy chị là người thấm đẫm văn hoá Tây Âu từ bé, trong lối suy nghĩ, hành xử và sinh hoạt trong đời sống gia đình chị có bị Âu hoá không, thoáng hơn, cởi mở hơn, thậm chí nổi loạn?
KT: Tuy được giáo dục trường lớp Tây Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn trong vòng lễ giáo vì bố tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng phải khép vào khuôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn là được tự do và phóng khoáng, nên một ngày nào đó nó bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hóa và lối suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái và tự do hơn.
TTT: Sắp tới chị và các thân hữu có tổ chức một buổi nhạc thính phòng “Hát cho vui đời”. Sau một thời gian dài chị nghỉ hát, lý do chị trở lại? Xin cho biết lý do và cảm tưởng của chị.
KT: Lý do rất dễ hiểu vì các cô em tôi muốn tôi trở lại hoạt động cho vui, nhân tiện có cơ hội cho chị em hát với nhau. Tôi bảo họ làm lần này, còn tương lai không biết bao giờ tôi có hứng được nữa. Có lẽ vì bây giờ tôi không chịu được áp lực, không muốn nghĩ ngợi, gò bó lại sợ bị nhức đầu. Tuy nhiên biết đâu, nếu còn cơ duyên, hay tôi còn hát được thì hát tiếp. Nếu cảm thấy hát không được nữa thì tôi dừng. Mình phải tự biết mình.
TTT: Cầu chúc cho tiếng hát vượt thời gian của chị còn hoài cho khán thính giả ái mộ được thưởng thức mãi.
TTT (baotreonline)
Nhắc tới dòng nhạc tiền chiến hẳn khán thính giả vào những năm trước 75 không quên một giọng hát cao, trong, thanh nhã và hiếm quý của Kim Tước. Kim Tước là một trong những giọng hát làm vừa lòng không những giới thưởng ngoạn biết và yêu nhạc mà cả những nhạc sĩ thuộc thành phần khó tính nhất.
*chữ của Vũ Thùy Hạnh
Kim Tước với dáng dấp quý phái, tiếng hát chuẩn lúc nào cũng đi sát với kỹ thuật của cô, đã chinh phục được trái tim những người biết nhạc và họ có thể nhắm mắt để thưởng thức mà khỏi cần xem sự phô diễn của ca sĩ. Nhạc sĩ Vũ Thành, ông bầu của ban nhạc đại hòa tấu thời bấy giờ là một ông bầu rất khó tính mà trong đôi tai thẩm âm rất chọn lựa, chỉ có giọng hát Kim Tước và Anh Ngọc vừa tai ông thôi. Ðồng thời, Kim Tước cũng được trân quý bởi lớp nhạc sĩ nhiều thế hệ như Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Quỳ, Vũ Thành, Phạm Duy, cho đến Hoàng Trọng, Văn Phụng, Cung Tiến, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Lê Văn Khoa, Hoàng Quốc Bảo…
Ban Tiếng Tơ Đồng. Từ trái: Hoàng Trọng, Duy Trác, Thanh Sơn, Kim Tước, Tuyết Anh, Ánh Tuyết, Mai Hương.
Trịnh Thanh Thủy (TTT): T được biết chị đi hát từ khi còn bé và đoạt giải nhất trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội. Xin chị cho nghe chuyện ngày ấy.
Kim Tước (KT): Lúc đó tôi mới 11 tuổi, Bà Minh Ðỗ là dì ruột của tôi đang hát ở đài phát thanh Hà Nội. Tôi mới di cư về thì bà ấy dẫn đi học đàn piano với giáo sư Nguyễn Cầu. Nhà bà có cái đàn piano nên tôi cứ đến tập. Có một hôm bà ấy dẫn tôi lên đài phát thanh để xem bà ấy hát. Thế thì đúng vào ngày hôm đó có cô ca sĩ nào đó không tới hát nên bà ấy bảo cứ cầm bài mà hát đi. Vì từ nhỏ tôi đã biết xướng âm nên cầm cái bài hát là hát luôn. Một thời gian ngắn sau, đài phát thanh Hà Nội bắt đầu tổ chức những cuộc tuyển lựa ca sĩ và tôi đã ghi tên dự thi ngay trong lần thi hát đầu tiên. Tôi chiếm giải nhất về giọng ca nữ, trong khi Thanh Hiếu đoạt giải nhất dành cho giọng ca nam.
Kim Tước tên thật là Nguyễn Kim Tước, sinh tại Nam Định. Cô học trường Pháp và đậu tú tài Pháp. Năm 14 tuổi, cô bắt đầu bước vào ca hát chuyên nghiệp. Trong một cuộc thi tuyển ca sĩ của đài phát thanh Hà Nội, Kim Tước đoạt giải nhất của giọng ca nữ. Kim Tước hát, trên đài Pháp Á, trong ban nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Nguyễn Phụng và ban đại hòa tấu của nhạc sĩ Vũ Thành. Năm 1956, cô đã trình bày một số nhạc phẩm cổ điển của Mozart bằng tiếng Pháp tại Dinh Tổng thống và là ca sĩ duy nhất được vinh dự nhận hoa trao tặng từ tay Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
TTT: Cảm tưởng của chị ra sao?
KT: Tôi không thấy gì hết ngoài sợ. Mà sợ lắm cơ, vì toàn những tay đại cổ thụ của âm nhạc và đài phát thanh làm giám khảo như Hoàng Trọng, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Trần Văn Nhơn v.v… Tôi phải qua đủ các vòng thi cho đến khi vào chung kết thì đã quá khiếp vì sợ. Mãi cho đến lúc sau này lớn lên gặp họ lại vẫn còn sợ. Ðã vậy về đến nhà có thêm nỗi sợ bố la mắng, vì ông là người nệ cổ, không thích âm nhạc và theo quan niệm “xướng ca vô loại”. Do đó tôi không cảm thấy vui vẻ gì dù được đoạt giải.
TTT: Bài hát đoạt giải của chị là bài gì vậy và sau đó thì chị bắt đầu đi hát?
KT: Ðó là bài “Ngọc Lan” của Dương Thiệu Tước. Ai cũng bảo bài đó khó hát tại sao lại chọn. Tôi chẳng biết tại sao.
Sau khi đoạt giải tôi bắt đầu đi hát ở các đài phát thanh để kiếm tiền giúp đỡ gia đình vì khi ấy gia đình mới di cư từ ngoài Bắc vào Nam còn túng thiếu lắm.
TTT: Kỷ niệm nào chị nhớ nhất?
KT: Tôi là chị cả trong gia đình 5 con và rất thương hai cụ, nhất là mẹ tôi. Tôi còn nhớ một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên. Ðó là bị mẹ bắt bú sữa ứ của bà khi em bé bú không hết, làm bà bị đau ngực. Mà không phải một đứa, nhiều đứa.
Rồi thuở ấy, mỗi mùa hè, mẹ cho về nhà bà ngoại ở Nam Ðịnh. Cụ ngoại có một trang trại (ấp) giống như đồn điền vậy. Cụ vừa làm ruộng vừa nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê, heo v.v… Trong trại có một villa lớn. Cụ bắt tôi đi chăn bò, cho bò ăn, vắt sữa bò. Khi ấy, tôi còn bé, sức thì yếu, bàn tay bé tẹo. Tôi nắm cái vú lớn con bò mà vắt, vừa vắt, tay vừa đau, mà con bò thấy khó chịu, đau, nó đá cho một phát. Tuy thế được học những cái ở nhà quê, tôi lấy làm sung sướng lắm. Cụ dạy nuôi tằm, dệt cửi, tự dệt quần áo để mặc. Sau khi dệt thành vải may quần đùi, tôi đem bùn và củ nâu giã nhỏ trét vào vải để nhuộm nâu rồi đem phơi. Tôi còn được học cách làm trà sen. Mỗi sớm tinh sương, tôi chèo thuyền nan, thuyền thúng ra hồ sen. Men hai bên bờ hồ có trồng cây vối, tôi hái nụ vối về nấu nước pha trà. Rồi hái sen về, bóc hột đem phơi, và lấy những tia vàng của hoa, đem về ướp trà cho các cụ uống.
Kim Tước trong phòng thu âm
TTT: Sở hữu một giọng Mezzo Soprano (Bán Kim), Chị có thể lên cao và xuống thấp trong một âm vực rất rộng. Làn hơi dài giúp chị ngắt câu rất hợp cách. Có những ca sĩ hơi không đủ, mới hát được hai ba chữ đã hết hơi, nên hay ngắt câu sai, Duy Cường gọi những ca sĩ ấy là chẻ vụn ca khúc như thái rau diếp! Xin chị cho biết âm vực (quãng rộng) của giọng hát chị. Là một ca sĩ được nhạc sĩ Phạm Duy và Vũ Thành ngợi khen và quý trọng vì khi hát chị rất coi trọng kỹ thuật và cảm xúc của tác giả. Xin chị chia sẻ chút kiến thức và kinh nghiệm trong kỹ thuật luyện thanh.
KT : Giọng hát của tôi giúp tôi có thể lên cao và xuống thấp rất dễ dàng, nốt cao nhất tôi có thể lên là nốt Ðô. Chuyện mấy ông ngợi khen, thật ra tại ngày xưa mấy ông nhạc trưởng hay nhạc sĩ chỉ muốn ca sĩ hát cho đúng kỹ thuật và bài bản mà thôi, không được nhét tình cảm vào. Trong khi họ sáng tác thì lại dựa trên tình cảm mà viết, nhưng nếu ca sĩ hát theo lối cảm xúc dạt dào thì họ không bằng lòng. Riêng tôi, họ viết sao tôi hát theo làm vậy, không tự mình uốn éo, luyến láy thêm bớt. Ngoại trừ họ viết uốn éo thì tôi uốn éo theo. Một thời gian sau, theo thời thế, dĩ nhiên họ phải chịu sự thay đổi. Chính họ cũng cảm thấy hát cứng quá thiếu sự truyền cảm và khi viết nhạc họ cố viết sao cho có sự truyền cảm hơn. Giới ca sĩ những thế hệ sau này, tự họ tạo ra lối hát riêng của họ. Tôi thì tôi không thể bắt chước, cũng như người khác không thể bắt chước lối hát của tôi được. Thành ra các nhạc sĩ hiểu ra, người ca sĩ này sẽ hát theo lối này, người khác sẽ hát theo lối khác, tự họ sẽ phải mềm mại đi để theo những lối hát khác nhau của các ca sĩ.
TTT: Vào thập niên 60, chị và Châu Hà, Mộc Lan, hợp thành một ban tam ca Mộc Kim Châu nổi tiếng. Xin cho biết phạm vi hoạt động của nó? Ðầu thập niên ấy, ngoài ban tam ca nữ này còn có một ban tam ca nữ nào không? Sau khi ra hải ngoại, chị lại cùng Mai Hương và Quỳnh Giao thành lập ban Tiếng Tơ Ðồng, ban này hoạt động bao lâu và tại sao lại tan rã.
KT: Ngày ấy tôi, Châu Hà, Mộc Lan hát trong các ban nhạc khác nhau và nhận thấy ba giọng hát hợp nhau (nhưng không giống nhau), nên đã gom lại thành ban tam ca Mộc Kim Châu. Không dám tự hào nhưng ba giọng hát chúng tôi rất hòa hợp. Thí dụ giọng của chị the thé, tôi có thể hát the thé. Nếu giọng của chị xuống trầm, tôi có thể làm theo như vậy được. Chúng tôi đã hiểu nhau đến độ theo nhau, nương nhau mà hát rất thoải mái. Vì thế nó thành một ban tam ca rất quyện nhau. Chúng tôi hát với nhau sung sướng đến độ vừa hát xong một bài, cả ba cùng phá lên cười. Chúng tôi cùng tự hỏi, tại sao có thể hát giống nhau, hợp nhau như một cây đàn đến thế mà không ai ganh tị lẫn nhau. Hát hợp ca khó ở chỗ đó, không có người nào trổ giọng ra, để tỏ ra giọng mình hay hơn, nổi trội hơn người khác. Chúng tôi được nhạc sĩ Hoàng Trọng hướng dẫn và viết hòa âm cho. Chúng tôi trình diễn ở các đài phát thanh, nhiều nhất là Ðài Phát Thanh Sài Gòn. Chúng tôi cũng xuất hiện ở vài sân khấu xi nê trong phần phụ diễn trước khi chiếu. Ngày ấy một xuất xi nê chỉ dài độ một tiếng. Phần phụ diễn thường là tân nhạc hoặc có khi là hài kịch. Ban tam ca ra trình diễn được xem là mới mẻ vì lúc ấy làm gì có tam ca. Chỉ có ban tam ca chúng tôi là độc nhất thôi. Chúng tôi cũng hát phụ họa cho các ca sĩ thâu đĩa như Hà Thanh hay Khánh Ly nhưng chưa bao giờ chúng tôi thâu đĩa với nhau. Ðôi khi chúng tôi gọi đùa nhau là “Les Trois Mousquetaires”(Ba chàng ngự lâm pháo thủ).
Sau 1975, Ban Tam ca Tiếng Tơ Ðồng do tôi và Mai Hương, Quỳnh Giao ra đời nhưng vì mỗi người định cư ở một nơi, lâu lâu mới họp lại hát rất bất tiện nên chỉ hoạt động được một thời gian.
TTT: T nghe nói trong quá khứ, chị có địa vị xã hội là phu nhân của một đại tá Hải Quân chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang. Vào những năm trước 75, chị hoạt động ca hát thường xuyên, chuyện này có ảnh hưởng hạnh phúc gia đình chị không?
KT: Ngày đó tôi đi làm và ca hát, nhà tôi thì đi lính, xa nhà hoài, đời sống cả hai thiếu sự gần gụi. Sau này chúng tôi xa nhau thật, vì thiếu sự vun đắp tình cảm đưa đến sự tan vỡ. Tuy nhiên khi còn ở với nhau, tôi vẫn làm tròn trách nhiệm của tôi nghĩa là trong các buổi tiệc tùng như tiếp đón các quan chức trong nước cũng như ngoại quốc, tôi đều lo toan. Tỷ như trong vai trò tiếp đón ông Nguyễn Cao Kỳ, các Hạm trưởng Hải Quân hay Chỉ Huy Trưởng Ðệ Thất Hạm Ðội của Hoa Kỳ, mọi người đều giao lại cho tôi vì thời đó rất ít các phu nhân thạo ngoại ngữ, và tôi nói được cả tiếng Anh lẫn Pháp. Ngày ấy, tiếng Việt với tôi lại là ngôn ngữ thứ hai. Ngay từ nhỏ, tôi may mắn được các cụ cho đi học trường sơ Pháp, nói toàn tiếng Pháp. Bà sơ dạy tiếng Pháp lại gốc Ăng Lê nên tôi được học cả tiếng Anh, giọng Anh của tôi lai giọng Ăng Lê.
TTT: Vậy chị là người thấm đẫm văn hoá Tây Âu từ bé, trong lối suy nghĩ, hành xử và sinh hoạt trong đời sống gia đình chị có bị Âu hoá không, thoáng hơn, cởi mở hơn, thậm chí nổi loạn?
KT: Tuy được giáo dục trường lớp Tây Âu nhưng nếp sống của tôi vẫn trong vòng lễ giáo vì bố tôi là người trọng Nho học nên làm gì thì làm tôi cũng phải khép vào khuôn khổ Việt Nam. Ước vọng của tôi vẫn là được tự do và phóng khoáng, nên một ngày nào đó nó bung ra. Khi qua đến Mỹ tôi hấp thụ được văn hóa và lối suy nghĩ của họ nên trong lối hành xử tôi thấy thoải mái và tự do hơn.
TTT: Sắp tới chị và các thân hữu có tổ chức một buổi nhạc thính phòng “Hát cho vui đời”. Sau một thời gian dài chị nghỉ hát, lý do chị trở lại? Xin cho biết lý do và cảm tưởng của chị.
KT: Lý do rất dễ hiểu vì các cô em tôi muốn tôi trở lại hoạt động cho vui, nhân tiện có cơ hội cho chị em hát với nhau. Tôi bảo họ làm lần này, còn tương lai không biết bao giờ tôi có hứng được nữa. Có lẽ vì bây giờ tôi không chịu được áp lực, không muốn nghĩ ngợi, gò bó lại sợ bị nhức đầu. Tuy nhiên biết đâu, nếu còn cơ duyên, hay tôi còn hát được thì hát tiếp. Nếu cảm thấy hát không được nữa thì tôi dừng. Mình phải tự biết mình.
TTT: Cầu chúc cho tiếng hát vượt thời gian của chị còn hoài cho khán thính giả ái mộ được thưởng thức mãi.
TTT (baotreonline)