Hoa Kỳ vui mừng ngày độc lập 4 tháng 7, nhưng có tới 3 Tổng Thống Mỹ chết trong ngày "July 4".
Nhóm 5 người soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lập 4-7-1776:
(Từ trái): Sherman, Franklin, Jefferson, Adams, và Livingston.
Nhóm 5 người soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lập 4-7-1776:
(Từ trái): Sherman, Franklin, Jefferson, Adams, và Livingston.
VietPress USA (04-7-2015): Hôm nay ngày 4 tháng 7 (July 4th) là ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ, là ngày “Độc Lập” của nước Mỹ.
Tôi viết bài nầy đúng vào ngày Thứ Bảy ngày 04 tháng 7 năm 2015 là kỷ niệm lần thứ 239 năm Hoa Kỳ mừng Lễ Độc Lập kể từ ngày Công bố Tuyên Ngôn Độc Lập 04-7-1776.
VÀI NÉT VỀ NGÀY ĐỘC LẬP “JULY 4” (4 Tháng 7) CỦA HOA KỲ:
Theo những sách lịch sử cũ thì các nhà sử học Hoa Kỳ cho rằng lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ năm 1492 khi ông Christopher Columbus từ Âu châu đi tìm Ấn Độ nhưng lạc lên Mỹ châu mà ông gặp các thổ dân da đỏ và gọi họ là Indians.
Những nhà sử học khác được Âu châu hỗ trợ thì tính lịch sử nước Mỹ từ năm 1600 khi Mỹ đã có biên giới rõ ràng.
Nhóm 5 người soạn thảo Tuyên Ngôn Độc Lấp gồm Sherman, Franklin, Jefferson, Adams, và Livingston mà Thomas Jefferson là tác giả chính của văn bản lịch sử nầy
Nhưng cho đến những thập niên sau nầy, các sách giáo khoa ở trường trung, tiểu học và đại học Mỹ viết lịch sử Hoa Kỳ tính từ thời các thổ dân địa phương (Native peoples).
Thổ dân da đỏ (Indigenous peoples) đã có mặt hằng ngàn năm tại nơi mà ngày nay là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ trước khi người Âu châu đến lập thuộc địa (European colonists), nhất là tính từ năm người Anh đến vào năm 1600 và sau đó.
Tiếp đến một ít người Tây Ban Nha đến khai phá định cư tại Florida và vùng tây nam (Southwest), trong khi người Pháp đến chiếm vùng sông Mississippi (Mississippi River) và dọc duyên hải vùng Vịnh (Gulf Coast).
Cho đến năm 1770, đế quốc Anh lập ra 13 khu thuộc địa (thirteen British colonies) với tổng dân số khoảng 2.5 triệu người sống dọc theo duyên hải Đại Tây Dương (Atlantic) nằm phía đông rặng núi Appalachian
Code:
(https://en.wikipedia.org/wiki/Appalachian_Mountains)
Vào năm 1760, vương triều Anh đặt thêm một loạt các sắc thuế cắt cổ đối với 13 thuộc địa bất chấp các thỏa thuận trước đó đống ý rằng khi nào có sắc thuế mới phải được đại diện dân chúng chấp thuận trước (Stamp Act 1765). Các cuộc chống lại thuế của chính quyền thuộc địa Anh đã bùng lên, nhất là phong trào chống thuế mang tên Boston Tea Party (1774) đã dẫn đến chính quyền thuộc địa Anh ra luật trừng phạt cho Quốc Hội thuộc địa biểu quyết luật “Không chấp nhận Hành vi đối kháng” (Intolerable Acts) để giải tán chính quyền địa phương thuộc địa tự trị tại Massachusetts.
Những người Mỹ có tinh thần yêu nước đã vận động thành lập thể chế Cộng Hòa tự trị, chống lại ách thống trị của chính quyền thuộc địa Anh; hô hào dân đoàn kết chống cường quyền bốc lột, chống cuộc sống xa hoa để lập lại đạo đức. Sự vận động nầy đã mang lại kết quả 13 khu thuộc địa tự trị của vương triều Anh quốc đã liên kết với nhau để soạn thảo một Tuyên Ngôn Độc Lập tách rời khỏi quyền cai trị của chính quyền thuộc địa Anh.
Quân đội Hoàng gia Anh bắt đầu tấn công tại Massachusetts và đã bị những người yêu nước Mỹ đánh bại và cuộc tiến công đánh đuổi thực dân Anh ra khỏi tất cả 13 khu thuộc địa gồm: Delaware, Pennsylvania, New Jersey, Georgia, Connecticut, Massachusetts, Maryland, South Carolina, New Hampshire, Virginia, New York, North Carolina và Rhode Island.
Chính quyền 13 vùng thuộc địa đã trao quyền cho các đại biểu của họ tại Quốc Hội đồng loại biểu quyết công bố Độc Lập tách khỏi sự cai trị của hoàng gia Anh quốc.
Sau khi đánh đuổi quân của Hoàng gia Anh ra khỏi 13 khu thuộc địa, các chính quyền của 13 khu tự trị thành lập Quốc Hội Lục Địa thứ nhì (Second Continental Congress) để biểu quyết dự luật về Độc lập do Richard Henry Lee là đại biểu của Virginia đã đề nghị vào tháng 6 trước đó.
Ngày 02-7-1776, Quốc Hội biểu quyết Tuyên Ngôn Độc Lập do một nhóm 5 người soạn thảo (Committee of Five) gồm Sherman, Franklin, Jefferson, Adams, and Livingston mà Thomas Jefferson là tác giả chính soạn thảo văn bản lịch sử nầy.
Quốc Hội đã họp, sửa đổi từ ngữ và biểu quyết chấp thuận Tuyên Ngôn Độc Lập (Declaration of Independence) vào ngày 04-7-1776, công bố thành lập nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một nước độc lập.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ
Mặc dầù vậy, đế quốc Anh vẫn tiếp tục đổ quân tấn công và quốc gia non trẻ Hoa Kỳ đã đẩy mạnh cuộc chiến tranh Cách Mạng (Revolutionary War).
Quốc Hội Lục Địa (Contnental Congress) đã biểu quyết chọn Tướng George Washington lãnh đạo quân Liên bang để chiến đấu chống lại quân hoàng gia Anh. Nhờ sự giúp đỡ của Pháp nên Tướng George Washington đã chiến thắng quân đội Hoàng gia Anh và buộc Anh phải ký Hòa ước năm 1783 công nhận Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một quốc gia và chuyển giao đất đai phía đông sông Misssissippi (ngoại trừ Florida và Canada và Tây Ban Nha phải thương thuyết về lãnh thổ Mississippi đến năm 1795 mới kết thúc).
Ngay sau đó, chính quyền trung ương được thiết lập theo Điều Lệ Liên Bang đã tỏ ra không hữu hiệu và không có người điều hành vì không có quyền thu thuế. Quốc Hội kêu gọi mở hội nghị mật tại Philadelphia vào năm 1787 để lập ra Điều Lệ Liên Bang và soạn thảo Hiến Pháp đã được chấp thuận năm 1789. Căn cứ Hiến pháp, Tướng George Washington đã được Quốc hội bầu làm vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ từ ngày 30-4-1789. Ông đặt ra nhiệm kỳ Tổng Thống là 4 năm và có thể tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ thứ nhì 4 năm nữa tức tổng cộng tối đa là 8 năm. Theo nguyên tắc nầy, ông đã mãn nhiệm kỳ thứ nhì và về quê làm đồn điền tại Mount Vermond kể từ ngày 04-3-1797. Trong nhiệm kỳ đầu làm Tổng Thống, Luật Nhân Quyền (Bill of Rights) đã được bổ sung vào các quyền hiến định bất khả xâm phạm (inalienable rights).
Cho đến hôm nay mừng Lễ Độc Lập “July 4th” của Mỹ vào năm 2015 là kỷ niệm thứ 239 năm liên tiếp, nước Mỹ đã tiến lên từ một quốc gia non trẻ nhất, trở thành quốc gia vĩ đại nhất đang lãnh đạo thế giới.
Khi 13 Tiểu bang đầu tiên liên kết thì dân số Mỹ chỉ là 2.5 triệu người. Năm 1790 dân số lên 4 triệu, năm 1810 tăng lên 7.2 triệu. Năm 1860 dân số Mỹ lên 32 triệu, năm 1900 lên 76 triệu; năm 1940 dân số Mỹ đạt 132 triệu. Năm 2013 dân số Mỹ lên 316 triệu và vào ngày 04-7-2015 khi tôi đang viết bài nầy lúc 7:00pm thì dân số Mỹ đang là 325.162.350 người, đứng hạng 3 thế giới sau Trung Quốc 1.402.131.652 người và Ấn Độ 1.283.003.880 người. Trong khi giờ nầy dân số thế giới là 7.326.358.890 người.
Quốc Khánh mừng Ngày Độc Lập 4 tháng 7 của Hoa Kỳ là ngày vui, đốt pháo bông, liên hoan, ca nhạc, nhảy múa, thi đấu thể thao, du lịch.. nhưng ít ai biết rằng trong 44 vị Tổng Thống của Hoa Kỳ, có tới 3 vị Tổng Thống đã chết đúng vào ngày 4 tháng 7, đó là:
- Tổng Thống John Adams , sinh ngày 30-10-1735 là vị Tổng Thống thứ nhì của nước Mỹ (1797–1801) đã chết vào ngày 04-7-1826.
- Tổng Thống Thomas Jefferson, sinh ngày 13-4-1743, là vị Cha Già của đất nước Hoa Kỳ (Founding Father); là tác giả chính của bản Tuyên Ngôn Độc Lập Declaration of Independence (1776); là Tổng Thống thứ 3 của Hoa Kỳ ((1801–1809), đã chết vào ngày “July 4th” năm 1826.
- Một vị khác không ký tên trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, nhưng cũng là Cha Già sáng lập ra đất nước Hoa Kỳ và trở thành vị Tổng Thống thứ 5 của Hoa Kỳ (1817–1825) đó là James Monroe, sinh 28-4-1758 và đã chết ngày “July 4” năm 1831.
- Tuy vậy cũng may mắn vớt vát có vị Tổng Thống thứ 30 của Hoa Kỳ (1923–1929) là Calvin Coolidge, đã sinh đúng vào ngày 4 tháng 7 năm 1872.
Mời Đón Đọc Bài 2: NƯỚC MỸ VÀ CON SỐ 13 SIÊU QUYỀN LỰC
vietpressusa