Thông Báo

Collapse
No announcement yet.

Nguyễn Tất Nhiên

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Chọn Lọc
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nguyễn Tất Nhiên

    NGUYỄN-TẤT-NHIÊN

    20 NĂM TỪ GIÃ CÕI HỒNG TRẦN

    (3 tháng 8, 1992 – 3 tháng 8, 2012)


    “…Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
    Phải ê chề cho tóc bạc với thời-gian
    Phải đau theo từng hớp rượu tàn
    Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định…”

    (Trích trong bài: “Giữa Trần Gian Tuyệt Vọng” - 1972).

    Phải chăng là một điềm báo khi thi-sĩ họa bút viết bài thơ này lúc tròn 20 tuổi? Đúng 20 năm sau anh ra đi từ giã cõi hồng trần: ngày 3 tháng 8, năm 1992… Hưởng dương 40 tuổi. Và hôm nay: 3 tháng 8, năm 2012 ngày giỗ thứ 20 của Nguyễn-Tất-Nhiên đa tài - bạc mệnh; tôi có duyên may viết về anh thay cho lời tạ-ơn thống-thiết; vì thi-sĩ đã để lại cho hàng triệu nhân-sinh những bài thơ tình tuyệt-tác, những dấu ấn thời-gian không bao giờ phai nhạt của một đời người. Từ những ngày khoác áo học-trò, chúng tôi đã len-lén thầy-cô truyền tay nhau trong giờ học những vần thơ:

    “…Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải
    Nhớ cho mình dáng dấp một người yêu
    (Lỡ dòng đời tóc có điểm muối tiêu
    Còn giây phút chạnh lòng như … mới lớn)

    Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng
    Người thì không bắt bóng được bao giờ
    Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
    Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng.”
    (Nên Sầu Khổ Dịu Dàng – 1970)

    “…Cô Bắc Kỳ nho nhỏ
    tóc “demi-garc,on”
    chiều đạp xe vô chợ.
    mắt như trời bao dung
    anh vì mê mải ngó
    nên quên thù đám đông!

    Đời chia muôn nhánh khổ
    anh tận gốc gian nan
    cửa chùa tuy rộng mở
    tà đạo khó nương thân
    anh đành xưng quỉ sứ
    lãnh đủ ngọn dao trần!

    qua giáo đường kiếm Chúa
    xin được làm chiên ngoan
    Chúa cười run thánh giá
    bảo: đầu ngươi có sừng !
    đời chia muôn nhánh khổ
    anh tận gốc gian nan…”

    (Đám Đông – 1973).

    Nguyễn Tất Nhiên sinh ngày 30 tháng 5, năm 1952 tại quận Đức-Tu, tỉnh Biên-Hòa. Gia-đình có bốn người con trai: Nguyễn-Hoàng-Hải (tên thật của Nguyễn-Tất-Nhiên), Nguyễn-Hoàng-Đệ (đã mất thưở nhỏ), Nguyễn-Hoàng-Nam và Nguyễn-Hoàng-Thi (hiện cùng Cha-Mẹ sống ở California. Hoa-Kỳ). Anh là học-sinh tại trường Ngô-Quyền từ năm 1963-1970. Biên Hòa lúc xưa có hai trường trung-học lớn: tư-thục Khiết-Tâm (của cố linh mục An-Tôn Lê-Hoàng-Yến) và trường công-lập Ngô Quyền.

    Theo nguồn từ Link: "tinmoi.vn":

    “… Qua kho tàng thơ Nguyễn Tất Nhiên, người ta biết đến mối tình của thi-sĩ với một cô gái tên Bùi-Thị-Duyên, dân miền Bắc vào định cư trong Nam. Tình yêu này của Hải dành cho Duyên cả trường trung học Ngô-Quyền ai cũng biết.

    “…Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
    nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
    nhớ dịu dàng nhưng thầm ý khoe khoang
    nhớ duyên dáng, ngây thơ…mà xảo quyệt !
    ta sẽ nhớ dặn lòng nên tha thiết
    nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
    nên yêu đương bằng khuôn mặt khờ khờ
    nên hùng hổ...để đợi giờ thua thiệt !...”

    Tình đơn phương hay tình dang dở khiến người ta nghĩ đến nhau nhiều. Những vần thơ đã sống cùng thời gian để rồi người con gái tên Duyên đã thành một biểu tượng và có một vị-trí rất đặc biệt trong thơ Nguyễn-Tất-Nhiên.

    Bài: “Khúc Buồn Tình – Thà Như Giọt Mưa” (do Hoàng-Thi phổ nhạc sau này) thi-sĩ đã thấy “người từ trăm năm về khơi tình động”. Yêu nhưng không thể đến gần, bởi Duyên cứ cách xa… “trùng trùng gió lộng”.

    Một người bạn của Nguyễn Tất Nhiên đã hỏi tại sao lại “Thà Như Giọt Mưa” thì anh trả lời hết sức cắc cớ: “Ai biểu Duyên không yêu tôi thì tôi xin làm giọt mưa… để được khô trên mặt nàng”.

    “…Thà như giọt mưa vỡ trên mặt Duyên
    thà như giọt mưa khô trên mặt Duyên
    để ta nghe thoáng tiếng mưa vội đến
    những giọt run run ướt ngọn lông măng
    ….
    khiến người trăm năm đau khổ ăn năn
    khiến người tên Duyên đau khổ muôn niên.”

    Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi-Thị-Duyên ngày nào, nay sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Sau này, qua lời kể của những người quen; Duyên đã nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò áo trắng và tâm-sự rằng: “Tụi này học chung với nhau từ năm đệ tứ. Nhưng lúc đó, tôi ngây thơ chưa nghĩ gì hết, còn Hải nghĩ gì thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ nghe nói là có ba bản chính. Một bản của Hải, một bản cho tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành quyển thơ này, tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ… Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với anh ấy ngay từ đầu là mình làm bạn thôi! Nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau Hải phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp nhau. Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm!”… (ngưng trích).

    Âu cũng là một cơ-duyên khi tôi gặp và quen với thân-mẫu cùng bào-đệ của cố thi-sĩ vào năm 1998, trong một buổi thâu hình đại nhạc hội tại Vancouver (Canada) cho “Mây Productions”. Một năm sau đó, tôi về Việt-Nam làm từ-thiện với các Soeur dòng “Nữ-Tử-Bác-Ái” (Daughters of Charity) đã được dịp đến thăm mộ, đốt nhang cầu-nguyện cho Nguyễn-Hoàng-Đệ (em kế Nguyễn-Tất-Nhiên) cùng ghé xem ngôi nhà xưa của cố thi-sĩ tại Biên-Hòa.

    Sau hôm ấy, tôi tìm đến Nghĩa-Trang Quân-Đội để đọc kinh cầu cho linh-hồn các tử-sĩ Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa; đi giữa những hàng mộ hoang-tàn không nhan, không khói của các chiến-sĩ vô-danh. Chợt nhớ đến bài thơ “Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc” của Nguyễn-Tất-Nhiên mà rơi lệ:

    “Người yêu tôi khóc ngất
    Chiều quân đội nghĩa trang
    Rạt rào hơi gió nóng
    Cho đau tà áo tang

    Người yêu tôi khóc ngất
    Chiều quân đội nghĩa trang
    Ngập ngừng hơi xác ướp
    Bay pha mùi áo nhang

    Người yêu tôi khóc ngất
    Trước quan tài sĩ quan
    Trước hai chàng lính đứng
    Thao diễn nghỉ lạnh lùng

    Người yêu tôi khóc ngất
    Trung úy thản nhiên cười
    Lồng trong khung ảnh đẹp
    Dựng sau bình bông tươi

    Sự vinh thăng bất ngờ
    Là đem theo nước mắt
    Là danh dự xót xa
    Là một lần đắp mặt
    Một lá cờ quốc gia

    Chiều quân đội nghĩa trang
    Chiều mệnh danh tổ quốc
    Có muôn ngàn câu kinh
    Có muôn ngàn tiếng khóc

    Có chuyến xe nhà binh
    Đưa “Thiên Thần” xuống đất
    Còn ai, còn ai chăng ?
    Mua cờ bằng tính mệnh

    Cho tôi đừng biết tên
    Cho tôi đừng nhận diện
    Cho tôi đừng chứng kiến
    Xác “thiên thần” rã manh

    Người yêu tôi khóc ngất
    Chiều quân đội nghĩa trang
    Vài dặm bụi lang thang …
    (1971)

    Rồi đến đầu tháng 8 năm 2000, ca-nhạc-sĩ Nguyễn-Hoàng-Thi, Mẹ anh và tôi tổ chức một buổi đi tảo mộ Nguyễn-Tất-Nhiên tại nghĩa-trang Westminster Memorial Park, khu Little Saigon – California. Tôi còn nhớ tự tay mình đã đi mua một ly café đen đá không đường (là thức uống thi-sĩ rất thích lúc sinh thời), một bao thuốc lá và bó hoa huệ trắng đến thăm nơi an nghỉ ngàn thu của anh lần đầu. Tôi đã không cầm được nước mắt khi nghe kể về những năm cuối đời vô cùng nghiệt-ngã, giống y hệt những lời thơ Nguyễn-Tất-Nhiên đã viết trong bài “Hai Hàng Me Đường Gia-Long” – 1973:

    “ Đời, vốn không nương người thất thế,
    Thì thôi, ô nhục cũng là danh!”

    Trong “Link”: http://chutluulai.net/forums/showthread.php?p=14516 Tác-giả Nguyễn-Mạnh-Trinh ghi nhận rằng:

    “… Cái bi thiết của một người nuôi nhiều mơ mộng nhưng thực tế lại mênh mông những bóng tối thẳm sâu. Cuộc sống như trải dài từ những nợ này đến nợ khác, để thi-sĩ phải tự than thân “Ta mấy kiếp vẫn là ta mắc nợ”. Nợ tình, nợ đời, thành những câu thơ bi thiết, thành những tâm tình đầy dằn vặt thảm thê. Thơ, là nỗi niềm tràn ra từ những lời ân hận, những cấu xé của thâm tâm… Lạ lùng, thơ như trải ra trước những phận số, nói trước những bi đát trong đời Nguyễn-Tất-Nhiên. Làm thơ trong ngày sinh-nhật của người yêu sắp cưới thành vợ, sao lại có những câu như lời sám hối:

    “Khổ đau oằn nặng sinh thời
    yêu ai tôi chỉ có lời thở than
    có môi hôn trộm vội vàng
    khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
    nụ cười giữ được bao lâu
    nhân sinh là một dòng sầu miên man
    sông dài rồi cũng chia phân
    tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
    tôi đam mê siết thân người
    hay đâu đá tảng đeo đời trăm năm
    em gầy guộc, em mong manh
    em chưa đủ sức long đong cùng chàng
    em ngây thơ đến rỡ ràng
    em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
    em tội nghiệp, em tủi thân
    Em chưa tự chủ kịp ngăn lệ tràn
    lôi người té sấp. Gian nan
    lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi!”

    Khi thành vợ thành chồng rồi hai người ly thân, Nguyễn-Tất-Nhiên buồn bã (vì xa vợ và hai người con trai còn thơ bé) mang đời sống tình cảm của một phận số không may… Những bài thơ của chia ly, nhớ thương và của những nỗi niềm ăn năn thống hối. Như trong “Minh Khúc, 90.” Nói lên những não lòng, nỗi niềm bời bời trong tim trong óc. Tôi đọc và vì nghĩ tim mình không phải là gỗ đá nên cũng thấy một phút se lòng:

    “Đường không gian – đã phân ly
    đường thời gian – đã một đi không về
    những con đường mịt sương che
    tôi vô định lái chuyến xe mù đời
    cu tí ngủ gục đâu rồi?
    Băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con !
    Đường trăm năm – nát tan lòng
    Đường ngàn năm – hận, xin đừng trả nhau!
    Những con đường cuối năm nào
    Cho tôi tìm lại cành đào ba sinh
    Khi em lễ mễ với tình
    Thắp nhang tạ tội sinh thành con đi
    Đường chung đôi – đã chia đời
    Đường chia đôi – vẫn hơi người quẩn quanh
    Chim đêm hót tiếng đau tình
    Đau tim tôi chở lòng thành kiếm em.”(Westminster, CA, 2.1.1990)

    Chiếc xe, có phải là nơi chốn mà chàng thi-sĩ thở hơi thở cuối cùng rồi đi vào miên-viễn. Nơi đó, trong một phút thảng thốt, nhìn lại băng sau để thấy “bời bời nhớ con”. Cũng chiếc xe ấy, đã có lúc chung đường chung đôi mà bây giờ thì chia đời … vạn dặm…

    Nguyễn Tất Nhiên, muôn thuở vẫn là một người xa lạ với cuộc sống dưới đất & gần gũi với trăng sao trên trời. Và, cũng phải có một lúc, để trở về với nơi chốn than quen, mà bất hạnh cũng nở hoa kết trái giống như hạnh phúc. Cái kinh nghiệm khổ đau của kiếp người có phải là một ấn chứng để tâm hồn vượt lên trên bão dông, để ngôn ngữ yêu nhau vẫn còn dù đã nhiều nghịch cảnh. Theo tôi, Nguyễn Tất Nhiên là một thi-sĩ thực sự mang đời sống mình làm ví dụ cho một trường hợp của khoan dung và từ ái?...” (Ngưng trích).

    Ngày 7 tháng 8, năm 1992. Bốn ngày sau khi Nguyễn-Tất-Nhiên quyên-sinh nơi sân chùa Việt-Nam (đường Magnolia, thành-phố Garden Grove. California). Ký-giả Lily Dizon của nhật báo Los Angeles Times đã đăng bài tường-trình trong trang tin địa-phương với nhan đề: “Popular Local Poet Nhien Tat Nguyen Dead : Obituary: His melancholic Vietnamese verse intertwined religion and romantic love. An apparent suicide ends a poor and painful life.” Link:
    Nhien Tat Nguyen, a well-known Vietnamese poet whose melancholic verse became popular with the community because they intertwined religion with romantic love, died this week of an apparent overdose of sleeping pills.


    Nguyễn-Tất-Nhiên sau những năm tháng dài lang thang như kẻ Homeless không cửa, không nhà; (trên xe anh lúc nào cũng có những bịch khoai tây sống để khi đói thì dùng). Ngày 3 tháng 8, 1992 Nguyễn-Tất-Nhiên đã tự chọn cho mình một phương cách rời bỏ loài người cùng cuộc đời ô-trọc:

    “ Mỗi một người một lý lẽ bất an,
    Mỗi cái chết có một hình thức khác…

    20 năm rồi, chàng đã về cùng bụi cát trùng khơi, mà sao những lời thơ còn vương vấn mãi cõi dương-trần, để người đời như tôi mỗi lần nhớ tới thơ anh phải bàng-hoàng, phải thống-khổ, cảm-nhận đến tận cùng nỗi cam-chịu của một kiếp người:

    “Sớt Cho Ai Một Chút Buồn.
    Sao Ta Không Nỡ Nên Thầm Cạn Ly”.

    “…Sao thiên thu không là thiên thu?
    Nên những người yêu là những ngôi mồ
    tôi đứng một mình trong nghĩa địa
    và chắc không đành quên khổ đau!...”
    ( Thiên-Thu – 1970)

    Chiều nay, lang thang trên hè phố xứ người. Tôi thấy tim mình bỗng nhớ quắt-quay; nhớ thơ tình Nguyễn-Tất-Nhiên, nhớ anh Nguyễn-Hoàng-Hải; dù chưa bao giờ được diện-kiến thi-sĩ trong đời:

    “…Cây xanh nói với lòng đường,
    Mỗi khi vắng bóng ta thường nhớ nhau…”

    Xin mượn bài thơ “Minh Khúc 9” của chính anh để tặng cho tất-cả những ai đã, đang hoặc chưa từng biết về cố thi-sĩ Nguyễn-Tất-Nhiên:

    “Đong tình đong nghĩa cho nhau
    Trái tim nhân loại dù sao cũng còn
    Đâu đây, đâu đó bên đường
    Có thêm một tấm lòng thương tấm lòng
    Nợ đời trả kiếp chưa xong
    Ai đem đổ biển đổ sông nợ tình
    Cho nhau nhiều ít chân thành
    Cũng như hương hỏa ba sinh vẫn còn
    Sẻ chia khúc ruột đoạn trường
    Kẻo vua Lê trách chàng Trương phũ phàng
    Nợ đời trả chút văn chương
    Nợ tình, ừ, trả con đường em đi
    Sống không trách móc không về
    Qua sao trách bậu lỗi nghì trúc mai
    Chỉ xin sợi vắn sợi dài
    tóc mai nhắn gió thương hoài ngàn năm
    bữa qua qua bỗng đau lòng
    nhớ hôm bậu hát bài đừng xa nhau..”
    (Westminster, CA 27 tháng 4, năm 1990).




    Thơ như lời thiên định - Nguyễn Tất Nhiên

    Nguyễn Mạnh Trinh


    Nguyễn Tất Nhiên

    Tác giả và Tác phẩm


    Với tôi, từ trước năm 1975, khi còn ở Việt Nam, Nguyễn Tất Nhiên vừa quen và vừa lạ. Lạ, bởi tôi chưa từng gặp và không có một liên hệ nào. Còn quen, là bởi những bài thơ được phổ nhạc của ông tôi đã nghe rất nhiều và, ở một vài trường hợp là những kỷ niệm riêng tư của mình nữa .

    Khi là lính và đồn trú ở Pleiku, tôi đã quen một cô bé trong một chuyến bay trực thăng từ Đà Lạt về. Hôm ấy, thời tiết thật xấu và cô bé ngồi bên cạnh tôi ói tung tóe lên cả quần áo của tôi. Khi xuống đến phi trường trời mưa dữ dội, tôi lấy xe chở cô ra phố và bắt đầu quen nhau. Mấy tháng hè, cô về thăm nhà và hình như ngày nào tôi cũng đều kiếm dịp để đến thăm cô. Mỗi lần tôi đến, không hiểu sao cô lại cho máy chạy bài hát “Thà Như Giọt Mưa”, mà Phạm Duy phổ nhạc bài thơ “Khúc Buồn Tình“ của Nguyễn Tất Nhiên. Lời thơ, tiếng nhạc như có một điều gì gửi gấm, lạ lạ, bâng khuâng. Bài thơ thủ thỉ, thì thầm:

    “người từ trăm năm
    về ngang sông rộng
    ta ngoắc mòn tay
    trùng trùng gió lộng
    (thà như giọt mưa
    vỡ trên tượng đá
    thà như giọt mưa
    khô trên tượng đá
    có còn hơn không
    mưa ôm tượng đá)…
    Người từ trăm năm
    Về khơi tình động
    Ta chạy vòng vòng
    Ta chạy mòn chân
    Nào có hay đời cạn
    .. người từ trăm năm
    về như dao nhọn
    ngot ngào vết đâm
    ta chết âm thầm
    máu chưa kịp đổ..”

    Tôi nhớ lúc ấy có những cơn mưa kéo dài suốt từ ngày này sang ngày khác. Đường phố tối tăm trơn trợt, lúc nào bầu trời cũng mù mù và cái lạnh, ướt át như bao phủ xung quanh. Có lần vừa nghe bản nhạc, tôi vừa đùa nghịch dấu đi cái kính cận của cô bé. Bình thường, mắt cô bé long lanh qua màn kính, nhưng lúc này, đôi mi cụp xuống và tôi muốn hôn vào khuôn mắt ấy mà rụt rè không dám. Có một chút gì ngây thơ nhưng cũng có một chút gì mời gọi thầm kín trong dôi mi khép hờ và đôi môi he hé. Có lúc, cô giơ hai tay ra đùa ngịch với những hạt nước mưa và lúc ấy tôi thấy những sợi lông măng, y hệt như thơ Nguyễn Tất Nhiên đã tả :

    “thà như giọt mưa
    gieo xuống mặt người
    vỡ tan vỡ tan
    nào ta ân hận
    bởi còn kịp nghe
    nhịp run vời vợi
    trên ngọn lông măng..”

    Mấy chục năm rồi, tôi vẫn còn như thấy lại cái cảm giác ngày đó. Cái lạnh của cao nguyên hình như làm cho trái tim người cần sưởi ấm hơn và bây giờ, cái rụt rè xưa, cái bâng khuâng cũ đã làm thành một kỷ niệm trong tôi. Mưa, những hạt mưa làm mềm nhung đi quá khứ. Hình như trời đất, gió mưa ở Pleiku cũng biết yêu đương, biết lãng mạn cùng người. Có những lúc, như nghe thấy mưa dạt dào trên mái nhà, sủi bóng trên mặt đường nhựa và làm uốt đầm mái tóc. Thời gian như làm dài mãi không gian của những trái tim đang dòn dã nhịp đập. Về sau này, khi nghĩ đến hay đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên tôi lại tìm thấy xúc cảm cũ, nhẹ nhẹ, buồn buồn…

    Một lần khác, cũng lại thơ Nguyễn Tất Nhiên có mặt trong câu chuyện của tôi. Trong một cuộc hành trình hơn mười mấy tiếng đồng hồ trên chuyến bay mà Cao Ủy Tị Nạn thuê bao để đi định cư, tôi đã làm quen một cô bạn ngồi ghế bên cạnh. Cô học Trưng Vương có lẽ cùng thời gian với tôi và là một cô ..Bắc Kỳ chính cống. Chúng tôi nói chuyện trên trời dưới biển khá tương đắc có lẽ vì chung một tâm trạng để cho chuyến bay ngắn đi. Cô nói chuyện rất sắc sảo, có nhiều suy nghĩ rất mạnh, có vẻ nhiều nam tính nên có lúc, tự nhiên tôi đọc:

    “.. em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
    nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
    nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang
    nhớ duyên dáng, ngây thơ .. mà xảo quyệt
    ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết
    nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
    nên yêu thương bằng gương mặt khờ khờ
    nên hùng hổ.. để đợi giờ thua thiệt..”

    Và cô bạn ấy đã chấm dứt gọn bài thơ bằng “Bài thơ tán gái lãng xẹt.. và vô duyên” . Bây giờ cô bạn ấy đang sống ở Quận Cam không biết còn nhớ đến câu chuyện cũ. Dù sao cũng chỉ là kỷ niệm!

    Còn Nguyễn Tất Nhiên, sau này khi đã quen tôi kể câu chuyện ấy, thì anh đổ quạu “Thơ tôi làm đâu phải để ông .. tán gái!”

    Qua định cư ở Mỹ, tôi bắt đầu làm thơ đăng báo và quen Nguyễn Tất Nhiên. Tôi cũng có lần ghé đến nhà anh ở Buena Park. Vợ anh lúc ấy là chị Minh Thủy, một người đẹp nổi tiếng của Biên Hòa thời trước và tính tình chị rất khả ái dễ thương. Cuộc sống hai người có nhiều trục trặc và đã ly thân thời gian sau….

    Lúc đó, mỗi đầu tháng ở nhà anh chị Nhật Tiến – Phương Khanh có cuộc họp mặt các anh em cầm bút ở miền Nam Cali và tôi thường xuyên gặp Nhiên ở đó. Anh đang dự trù viết một tập trường thi nhan đề là “Cũng cần cho hạnh phúc” và đã đăng trên các tạp chí những đoạn rời của trường thi này. Trong các buổi họp mặt, anh thường nghe là nhiều hơn phát biểu. Trong những năm tháng đó, mọi người cầm bút đều chia sẻ chung với nhau nỗi niềm của những người lưu vong và giữa những người cầm bút cũ và những người mới có sự thông cảm sâu xa. Tôi mà cầm bút cho đến bây giờ có lẽ cũng nhờ tinh thần đã có từ lóc ấy. Nhiên cũng viết thường hơn và cũng có nhiều ưu tư về thời thế khác hẳn với sở trường của mình là thơ tình.

    Một điều khá lạ với tôi là Nhiên còn phổ nhạc nhiều bài thơ như bài “Nga“ của nhà thơ Nguyên Sa, hay ý thơ Đào Văn Dũng “Như màu nắng sân trường”. Và anh còn làm những bản nhạc như “Sông Chiều Áo Trắng”, “Paris Thu Khúc”, “Trên Nát Tan Tôi”, “Chiều Trên Đường Hồng Thập Tự”, “Sài Gòn Trên Đường Nguyễn Du”.. Những bản nhạc này cũng được nhiều ca sĩ có tên tuổi trình diễn và cũng đã được thu băng cassette hay CDs. Những bài nhạc của ông nói lên tâm trạng của người xa xứ, bàng hoàng với cuộc biển dâu và có ý thức của một người chọn lựa tự do, phê phán chế độ độc tài toàn trị.

    Trước năm 1975, thơ của Nguyễn Tất Nhiên được phổ biến rộng rãi nhờ Phạm Duy phổ nhạc. Nhạc sĩ họ Phạm đã nói về trường hợp phổ nhạc của mình :
    “Năm 1972. Đây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời sống của mọi người thì xảy ra những nhức nhối của Mùa Hè Đỏ Lửa. Tôi hết chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé, bình ca.. Tôi thèm thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ…

    Thế rồi, tôi gặp Nguyễn Tất Nhiên. Trong bầu không khí thơ ở miền Nam hơi nặng nề vào lúc đó, đầy rẫy những bài thơ chủ đề về chiến tranh, hòa bình.. thì thơ của chàng thư sinh mới 17 tuổi này là thơ phi chính trị… Thơ rất hồn nhiên, rất ngộ nghĩnh, theo tôi, nếu đem phổ nhạc thì sẽ cũng sẽ rất hợp với giọnghát trẻ trung (Duy Quang) trong ban nhạc gia đình là ban The Dreamers mà tôi đang cần “lăng xê”.

    Sau khi tôi phổ bài Thà Là Giọt Mưa Rớt Trên Tượng Đá, Nguyễn Tất Nhiên cung cấp cho tôi thêm nhiều bài thơ để tôi biến thành những ca khúc trẻ trung của thời đại như Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời hay là Anh Nam Kỳ Dễ Thương, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Đận.. Những tên bài hát phần nhiều do tôi đặt ra, Chẳng hạn Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ được rút ra từ bài thơ mang tên Đám Đông.

    Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… cả ba vị đều đã từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó..”

    Có lần, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã nói chuyện với tôi về ngôn ngữ thơ của Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều nhạc tính và dễ dàng tạo ra những âm vang khi chuyển thể sang âm nhạc. Ông nói chữ nghĩa của Nhiên “mềm “ nên dễ tạo những bản nhạc có tuổi thọ lâu dài . Chữ “mềm“ của riêng nhạc sị Trầm Tử Thiêng như là một từ ngữ để nói lên đặc tính của thơ Nhiên.
    Nhà văn Vĩnh Hảo cũng nhận xét thật xác đáng về tác giả “Cô Bắc kỳ nho nhỏ“. Trong cảm nhận, có sẻ chia. Trong nhận xét, có niềm thương cảm :

    ”Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng…Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt. Vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh. không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh.

    Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết và nên nhớ rằng lúc ấy Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới sấp sỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh.”

    Ngày 3 tháng 8 năm 1992, Nguyễn Tất Nhiên đã rời khỏi thế gian trong chiếc xe cũ kỹ nằm trong khuôn viên chùa Việt Nam. Cái chết đau sót làm nhiều người cảm xúc. Từ đó đến nay, hơn mười mấy năm đã có rất nhiều bài văn, bài thơ nhắc đến anh và tưởng niệm anh. Có nhiều người lúc anh còn sống thường giúp đỡ anh thì thường chê bai, cho là một sự kiện của những người dựa vào tiếng tăm của anh để nhắc đến mình. Và, họ cho là chính họ mới là những người xứng đáng nhất để nói về và nhắc về người thi sĩ tài hoa ấy. Lúc sống mà không giúp đỡ nhau, thì lúc chết ca tụng nhau làm gì? Tôi cũng hơi lạ về cái sự muốn độc quyền ấy…

    Riêng tôi, làm bài thơ tưởng niệm không ngoài chủ đích nói lên tình người, của một người làm thơ nghĩ về một người làm thơ vừa đi khuất . Bài thơ này tôi viết khi đang ở trên freeway 405 ngược lên phía bắc vào một buổi trưa đi làm. Đó là ngày 5 tháng 8 năm 1992. Có sự thảng thốt, về cuộc sống và con người :

    ”ngày hôm qua thi sĩ đã chết
    Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu
    Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc
    Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau
    Một mình cơn mộng du không dứt
    Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai
    Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực
    Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay
    Ngày hôm qua thơ tình đã hết
    “thà giọt mưa trên đá “ vỡ tan
    cành “trúc đào“ nở hoa oan nghiệt
    rất yêu em dù nỗi muộn màng
    đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng
    ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim
    gánh nhân gian đôi vai còn nặng
    “Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng
    Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt
    Hạt bụi nào hành trang đi xa
    Này “cô gái Bắc kỳ“ mắt biếc
    Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?
    Hát lên đi bản nhạc xưa cũ
    Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu
    Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ
    Lửa vô minh khói ngút bờ lau
    Ngày hôm qua trái đất đứng sững
    Chân lao đao thế giới lạ lùng
    Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng
    Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.
    Sống là chịu vai trò thất ý
    Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm
    Đáy tâm cảm loài hoa kỳ dị
    Mọc rễ trong da thịt ăn năn
    Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
    Gót chân trần dẫm cõi hư không
    Bài thơ tình chẳng có đoạn kết
    Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng
    Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?
    Ba trăm năm, ý nhớ tình quên
    Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi
    Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!”

    Thơ Nguyễn tất Nhiên có những câu thơ như là lời thiên định. Khi còn trẻ, ông đã viết :

    ”Nếu vì em mà thiên tài chán sống
    Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.

    Và cũng có câu thơ nào, như một tiếng than, của một người có trái tim giàu cảm lụy ”Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá”. Cái bi thiết của một người nuôi nhiều mơ mộng nhưng thực tế lại mênh mông những bóng tối thẳm sâu. Cuộc sống như là trải dài từ những nợ nần từ bao giờ đến bây giờ phải trả để thi sĩ phải tự than thân “Ta mấy kiếp vẫn là ta mắc nợ”. Nợ tình, nợ đời, thành những câu thơ bi thiết, thành những tâm tình đầy dằn vặt thảm thê. Thơ, là nỗi niềm tràn ra từ những lời ân hận, những cấu xé của thâm tâm.
    Lạ lùng, thơ như trải ra trước những phận số, nói trước những bi đát trong đời Nguyễn Tất Nhiên. Làm thơ ngày sinh nhật của người yêu sắp thành người vợ, sao lại có những câu thơ như lời sám hối:

    “Khổ đau oằn nặng sinh thời
    yêu ai tôi chỉ có lời thở than
    có môi hôn trộm vội vàng
    khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
    nụ cười giữ được bao lâu
    nhân sinh là một dòng sầu miên man
    sông dài rồi cũng chia phân
    tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
    tôi đam mê siết thân người
    hay đâu đá tảng đeo đời trăm năm
    em gầy guộc, em mong manh
    em chưa đủ sức long đong cùng chàng
    em ngây thơ đến rỡ ràng
    em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
    em tội nghiệp, em tủi thân
    em chưa tự chủ kịp ngăn lệ tràn..
    lôi người té sấp. Gian nan
    lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi!”

    Khi thành vợ thành chồng rồi hai người ly thân, Nguyễn Tất Nhiên mang đời sống tình cảm riêng của mình thành những bài thơ, buồn bã của một phận số không may và người đọc thấy rõ được tâm cảm đa lụy của một người nghệ sĩ. Đọc “Minh Khúc “, những bài thơ của chia ly, của nhớ thương và của những nỗi niềm ăn năn thống hối.

    Đọc “Minh Khúc, 90.” Bài thơ của những não lòng, của nỗi niềm bời bời trong tim trong óc. Tôi đọc và vì nghĩ tim mình không phải là gỗ đá nên cũng thấy một phút se lòng.

    “Đường không gian - đã phân ly
    đường thời gian – đã một đi không về
    những con đường mịt sương che
    tôi vô định lái chuyến xe mù đời
    cu tí ngủ gục đâu rồi?
    Băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con !
    Đường trăm năm - nát tan lòng
    Đường ngàn năm - hận, xin đừng trả nhau!
    Những con đường cuối năm nào
    Cho tôi tìm lại cành đào ba sinh
    Khi em lễ mễ với tình
    Thắp nhang tạ tội sinh thành con đi
    Đường chung đôi - đã chia đời
    Đường chia đôi - vẫn hơi người quẩn quanh
    Chim đêm hót tiếng đau tình
    Đau tim tôi chở lòng thành kiếm em.”

    Chiếc xe ấy, có phải là nơi chốn mà chàng thi sĩ thở hơi thở cuối cùng đi vào nơi miện viễn. Nơi ấy, trong một phút thảng thốt, nhìn lại băng sau để thấy “bời bời nhớ con”. Cũng chiếc xe ấy, đã có lúc chung đường chung đôi mà bây giờ thì chia đời … vạn dặm.

    Lúc trước, Nguyễn Tất Nhiên làm bài thơ “Tịnh Khúc”. Những câu thơ của chịu đựng, của thinh lặng tâm tư. Những tiếng kêu than luôn kìm giữ trong lòng:

    “Buồn ơi..
    tôi bỏ tôi chìm đắm
    trong tiếng làm thinh của ghế bàn
    ghế bàn không sẻ chia sầu thảm
    nhưng biết làm thinh lặng cảm thông
    bàn ghế đâu như người vui nhảm
    tọc mạch đời nhau để miệng mồm
    buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
    chịu đưng đời không chút thở than..”

    và trong tận cùng của tuyệt vọng, vẫn là ý tưởng vì người:

    “buồn ơi..
    tôi bỏ tôi gần chết
    tay đời bít lối chẳng ngưng tay
    u đầu sứt trán lao vào vách
    tội tình tôi sao nặng thế này?

    Buồn ơi..
    Trong đám đông tàn nhẫn
    Một người chứng kiến đủ cho tôi
    Nhờ ai tôi đã thành tâm nhẫn
    Nhờ ai, tôi phục dưới chân đời
    Buồn ơi, tôi muốn như dòng lệ
    Cay đời như kẻ thích ăn cay
    Buồn ai..
    Tôi có tôi bàn ghế
    Nguyện hiến cho đời một tấm lưng “

    Ở Minh khúc, những bài thơ cuối đời, Nguyễn Tất Nhiên vẫn là cậu bé học trò tuổi nhỏ, yêu say đắm và sồng chết với tình. Dù đã qua nhiều con lốc cuốn đi trong tình cảm và đời sống, vẫn là cậu bé ngây thơ với tuổi trẻ muôn năm. Anh hạnh phúc trong bất hạnh, câu nói có vẻ nghịch lý nhưng ở thi ca, cái tâm trạng ấy đã làm thơ anh gần với tuổi trẻ. Tôi mở ra rất nhiều trang web của những tuổi học trò, của lứa tuổi còn ngồi ghế nhà trường ở cả trong nước và hải ngoại thì thấy thơ Nhiên được đọc rất nhiều và số “fan” thần tượng thật là đông đảo. Những bài nhạc phổ thơ anh trong nhiều trường hợp là dấu tích của những kẻ yêu nhau, của thời đầy ắp mộng mơ, tràn đầy tâm sự.

    Với thơ tình Nguyễn Tất Nhiên là ngôn ngữ thi ca tinh khôi, của những màu trắng tuy bị vọc vầy nhưng vẫn còn nguyên nếp lụa. Trong cuộc đời này, khi thời gian qua đi, khi xác thân rồi cũng vào tro bụi thì những câu thơ lại vẫn còn hiện hữu. Nguyễn Tất Nhiên là một biểu hiện.

    Mười bài “Minh Khúc“, mười bài thơ xé ruột xé gan, như một phần hương hỏa của người thi sĩ mà đời sống nhiều bất như ý mà thi ca như những lời tâm sự đến tự thâm tâm:

    Đong tình đong nghĩa cho nhau
    Trái tim nhân loại dù sao cũng còn
    Đâu đây, đâu đó bên đường
    Có thêm một tấm lòng thương tấm lòng
    Nợ đời trả kiếp chưa xong
    Ai đem đổ biển đổ sông nợ tình
    Cho nhau nhiều it chân thành
    Cũng như hương hỏa ba sinh vẫn còn
    Sẻ chia khúc ruột đoạn trường
    Kẻo vua Lê trách chàng Trương phũ phàng
    Nợ đời trả chút văn chương
    Nợ tình, ừ, trả con đường em đi
    Sống không trách móc không về
    Qua sao trách bậu lỗi nghì trúc mai
    Chỉ xin sợi vắn sợi dài
    tóc mai nhắn gió thương hoài ngàn năm
    bữa qua qua bỗng đau lòng
    nhớ hôm bậu hát bài đừng xa nhau..”

    Đáng lẽ tôi còn trích dẫn nhiều bài thơ khác. Những bài khi anh viết lúc còn tuổi trẻ, những bài của “Thiên Tai”. Những bài thơ anh viết lúc tuổi đã lớn nhưng tâm còn trẻ của “Tâm Dung” hay “Chuông Mơ”. Hay những bài thơ cho người con gái Bắc, cho cô Bắc Kỳ nho nhỏ, cho những mối tình học trò, cho những ý nghĩ của một người tràn đầy lãng mạn bởi, ở Nguyễn Tất Nhiên, muôn thuở vẫn là một người xa lạ với cuộc sống dưới đất và gần gũi với trăng sao trên trời. Và, cũng phải có một lúc, để trở vế với nơi chốn thân quen, mà bất hạnh cũng nở hoa kết trái giống như hạnh phúc. Cái kinh nghiệm khổ đau của kiếp người có phải là một ấn chứng để tâm hồn vượt lên trên bão dông, để ngôn ngữ yêu nhau vẫn còn dù đã nhiều nghịch cảnh. Và, theo tôi, Nguyễn Tất Nhiên là một thi sĩ thực sự mang đời sống mình làm ví dụ cho một trường hợp của khoan dung và từ ái?

  • #2
    Thơ Nguyễn Tất Nhiên có một thời ám ảnh mình qua bài hát Thà như giọt mưa ( nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc ) vào thời điểm chuẩn bị thi tú tài.......hehehhe......( hổng ngờ mình cũng dị đoan gớm ) vì trong bài hát có câu : ta hỏng tú tài , ta hụt tình yêu.......heheheh.....
    Cám ơn nhà thơ , cám ơn người viết bài và người post bài.


    Thân,
    Nahoku
    Tài năng là sự luyện tập không ngừng :hk: :hk: :hk:

    Comment

    Working...
    X